Ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế toàn cầu đến xuất nhập khẩu của Việt Nam

MỤC LỤC DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO DANH MỤC BẢNG BIỂU, HÌNH BẢNG Bảng 1: Mô hình thương mại dựa trên thuyết tuyệt đối 4 Bảng 2: Mô hình giản đơn về lợi thế so sánh 5 Bảng 1.4.2. Dự báo tăng trưởng thương mại thế giới năm 2009 – 2010 26 Bảng 2.1.3. Một số chỉ tiêu chủ yếu quý I năm 2009 (tăng/giảm) so với cùng kỳ năm trước (%) 38 Biểu 2.1.1. Chỉ số lạm phát các tháng trong năm 2008 và những tháng đầu năm 2009 40 Bảng 2.2.3.1. Cơ cấu thị trường xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam 47 giai đo

doc92 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1640 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế toàn cầu đến xuất nhập khẩu của Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ạn 1986 – 2007 47 Bảng 2.2.3.2. Cơ cấu thị trường nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam 47 giai đoạn 1986 – 2007 47 HÌNH Hình 1: Thương mại dựa trên hiệu suất tăng dần theo quy mô 9 Hình 2: Vòng đời sản phẩm và thương mại quốc tế 10 Hình 1.4.3. WB khoanh vùng các nước rủi ro: Vùng giữa là các nước có khả năng rủi ro về đói nghèo nhất 31 Hình 2.1.2. Tốc độ tăng trưởng kinh tế các năm giai đoạn 2001 – 2007 (%) 34 Hình 2.3.1. Kim ngạch xuất - nhập khẩu và cán cân thương mại giai đoạn 2001 – 2007 43 Hình 2.3.2.1. Cơ cấu mặt hàng xuất khẩu giai đoạn 2001 – 2007 45 Hình 2.3.2.2. Cơ cấu nhóm hàng nhập khẩu giai đoạn 2001 – 2007 46 Hình 2.4.1. Kim ngạch xuất – nhập khẩu và cân đối 51 Hình 2.4.3.1. Cơ cấu các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam (phân loại theo SITC) 60 Hình 2.4.3.2. Cơ cấu các mặt hàng nhập khẩu của Việt Nam 63 (phân loại theo nhóm hàng) 63 Hình 3.3.1.2. Tỷ giá USD/VND những tháng vừa qua 77 LỜI MỞ ĐẦU Như chúng ta biết, trong năm 2008 và cho tới những tháng năm 2009 này khủng hoảng toàn cầu đã lan rộng và hậu quả nặng nề của nó ngày càng lộ rõ trên tất cả mọi mặt của kinh tế - xã hội. Việt Nam tuy không chịu ảnh hưởng trực tiếp nhưng với một nền kinh tế đã hội nhập thì những tác động gián tiếp là không thể tránh khỏi. Đúng như cảnh báo của nhiều chuyên gia, xuất nhập khẩu, đặc biệt là xuất khẩu Việt Nam đang bắt đầu gánh chịu những khó khăn bắt nguồn từ khủng hoảng tài chính thế giới. Với mục tiêu, đến năm 2020, Việt Nam phấn đấu cơ bản trở thành nước công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Trong bối cảnh như hiện nay và hy vọng tình hình có thể cải thiện nhanh trong những năm tiếp theo, mục tiêu đó có thể đạt được hay không là nhờ đóng góp phần không nhỏ của hoạt động xuất nhập khẩu trong chuỗi các hoạt động kinh tế nói chung. Từ việc quan sát thực tiễn, nghiên cứu thực tế trong quá trình thực tập ở Vụ Tổng hợp Kinh tế quốc dân – Bộ Kế hoạch và Đầu tư, cùng với sự tham khảo ý kiến của thầy giáo hướng dẫn tôi đã quyết định chọn đề tài: “Ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế toàn cầu đến xuất nhập khẩu của Việt Nam” làm chuyên đề thực tập của mình. Cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ vẫn đang còn tiếp diễn, vì vậy cần tiếp tục theo dõi, kịp thời phân tích ảnh hưởng và tác động của nó đối với nền kinh tế trong nước đặc biệt với hoạt động xuất nhập khẩu, để có chủ trương và biện pháp thích hợp. Để hoàn thành bài viết này em đã nhận được sự hướng dẫn tận tình của thày giáo TS. Nguyễn Ngọc Sơn và cán bộ Vụ Tổng hợp kinh tế quốc dân. Mặc dù có nhiều cố gắng song do trình độ bản thân và thời gian không cho phép nên chuyên đề của em còn nhiều thiếu sót. Em rất mong sự góp ý của thày cô và các bạn để chuyên đề của em được hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn! Chương 1: Cơ sở lý luận để đánh giá tác động của khủng hoảng kinh tế toàn cầu đến xuất nhập khẩu của Việt Nam Một số vấn đề lý luận về xuất nhập khẩu Các lý thuyết truyền thống về thương mại quốc tế Lý thuyết lợi ích tuyệt đối của Adam Smith Năm 1776, Adam Smith đã đưa ra học thuyết về “lợi thế tuyệt đối” và thương mại quốc tế. Theo Adam Smith, cơ sở tiến hành phân công chuyên môn hóa quốc tế là sự khác biệt tuyệt đối của giá thành sản xuất giữa các nước: một quốc gia phải sản xuất những sản phẩm sở trường nhất của mình, tức là những sản phẩm mà giá thành sản xuất “tuyệt đối” rẻ, rồi dùng những sản phẩm này để trao đổi với các nước khác, đem về những sản phẩm không phải sở trường của mình, nhất là những sản phẩm có giá thành sản xuất cao. Nước A, xét trong tương quan với nước B, có thể tỏ ra hiệu quả hơn (có lợi thế tuyệt đối) trong việc sản xuất mặt hàng X, và kém hiệu quả hơn trong việc sản xuất mặt hàng Y. Khi đó B là nước có lợi thế tuyệt đối về mặt hàng Y, và bất lợi tuyệt đối trong sản xuất mặt hàng X. Theo A. Smith, nếu mỗi quốc gia tập trung vào sản xuất mặt hàng mà mình có lợi thế tuyệt đối và xuất khẩu mặt hàng này sang quốc gia kia để đổi lấy mặt hàng mà mình có mức bất lợi tuyệt đối, thì sản lượng của cả hai mặt hàng đều tăng lên và cả hai quốc gia đều trở nên sung túc hơn. Để đơn giản hóa sự phân tích, mô hình thương mại được xây dựng với giả thiết: thế giới chỉ bao gồm 2 quốc gia Nhật Bản và Việt Nam, và 2 mặt hàng thép và vải, chi phí vận chuyển bằng 0, lao động là yếu tố sản xuất trong nước, nhưng không di chuyển được giữa các quốc gia, cạnh tranh hoàn hảo tồn tại trên tất cả các thị trường Trong điều kiện tự cung cấp, mỗi quốc gia tự sản xuất hai mặt hàng để tiêu dùng trong nước. Số lượng lao động cần tới ở mỗi nước để sản xuất một đơn vị thép và vải được cho bởi bảng sau. Bảng 1: Mô hình thương mại dựa trên thuyết tuyệt đối Nhật Bản Việt Nam Thép 2 6 Vải 5 3 Nhật Bản là nước có hiệu quả cao hơn hay có lợi thế tuyệt đối trong sản xuất thép vì để làm ra một đơn vụ thép nước này chỉ cần 2 lao động, trong khi Việt Nam cần tới 6 lao động. Ngược lại, Việt Nam có lợi thế tuyệt đối về sản xuất vải vì nước này chỉ cần 3 lao động để sản xuất một đơn vị vải, trong khi Nhật Bản phải dùng tới 5 lao động. Khi đó Nhật Bản sẽ tập trung toàn bộ số lao động của mình để sản xuất thép, còn Việt Nam thì thực hiện chuyên môn hóa hoàn toàn trong việc sản xuất vải, và sau đó 2 nước đem trao đổi một lượng nhất định các mặt hàng này với nhau để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước. Điều này dẫn tới sự gia tăng sản lượng thép và vải của toàn thế giới, và mỗi quốc gia có khả năng tiêu dùng nhiều hơn so với trường hợp tự cung cấp. Ưu, nhược điểm của mô hình: Mô hình giúp giải thích cho một phần nhỏ của thương mại quốc tế, cụ thể trường hợp nếu một quốc gia không có điều kiện tự nhiên thích hợp để trồng các loại cây như lúa, cà phê… thì buộc phải nhập khẩu các mặt hàng này từ các nước khác. Mô hình này cũng không giải thích được trường hợp tại sao thương mại vẫn có thể diễn ra ở một quốc gia có mức bất lợi tuyệt đối. Lý thuyết lợi thế so sánh của David Ricardo Năm 1817, nhà kinh tế học người Anh, David Ricardo đã đưa ra lý thuyết lợi thế tương đối, giúp giải quyết một phần hạn chế mà lý thuyết tuyệt đối của Adam Smith gặp phải. Ông này cho rằng nếu mỗi nước chuyên môn hóa vào các sản phẩm mà nước đó có lợi thế tương đối thì thương mại sẽ có lợi cho các bên. Với các giả thiết của mô hình vẫn giữ nguyên, tuy nhiên lượng lao động cần thiết để sản xuất thép và vải có khác đi theo bảng dưới đây Bảng 2: Mô hình giản đơn về lợi thế so sánh Nhật Bản Việt Nam Thép 2 12 Vải 5 6 Các số liệu cho thấy Nhật Bản cần ít số lượng lao động hơn so với Việt Nam để sản xuất ra cả 2 mặt hàng, thế nhưng điều này cản trở thương mại có lợi giữa hai nước. Tuy Nhật Bản có lợi thế tuyệt đối về cả hai mặt hàng, nhưng do mức lợi thế về sản xuất thép hơn mức lợi thế về sản xuất vải (2/12<5/6) cho nên nước này có lợi thế so sánh về mặt hàng thép. Ngược lại, Việt Nam bất lợi tuyệt đối về cả 2 mặt hàng, nhưng do mức bất lợi về sản xuất vải nhỏ hơn mức bất lợi về sản xuất thép nên Việt Nam có lợi thế so sánh về vải (6/5<12/2). Như vậy, một cách khái quát, Nhật Bản có lợi thế so sánh về mặt hàng thép và sẽ chuyên môn hóa sản xuất thép để xuất khẩu. Trái với lợi thế tuyệt đối, lợi thế so sánh là một khái niệm có tính tương đối: trong một thế giới bao gồm 2 quốc gia, 2 mặt hàng, khi đã xác định được một quốc gia có lợi thế hơn so sánh về một mặt hàng nào đó thì có thể rút ra kết luận là quốc gia thứ 2 sẽ có lợi thế về mặt hàng kia. Một cách tổng quát, một quốc gia sẽ xuất khẩu những mặt hàng có giá cả thấp hơn một cách tương đối so với quốc gia kia. Nói cách khác, một quốc gia sẽ xuất khẩu những mặt hàng mà quốc gia đó có thể sản xuất với hiệu quả cao hơn mộ cách tương đối so với quốc gia kia. Cụ thể, nếu quốc gia A có lợi thế tuyệt đối ( hay bất lợi tuyệt đối) trong sản xuất cả hai sản phẩm X và Y thì A chuyên môn hóa sản xuất và xuất khẩu sản phẩm X khi và chỉ khi: Chi phí lao động để sản xuất 1 đơn vị X ở A –––––––––––––––––––––––– Chi phí lao động để sản xuất 1 đơn vị X ở B Chi phí lao động để sản xuất 1 đơn vị Y ở A < –––––––––––––––––––––––– Chi phí lao động để sản xuất 1 đơn vị Y ở B Tuy có những tiến bộ quan trọng so với lý thuyết của Adam Smith nhưng lý thuyết của David Ricardo vẫn bộc lộ nhiều hạn chế. Với những giả định trong mô hình thương mại ở trên, lý thuyết lợi thế tương đối khó có thể đứng vững trước những kiểm nghiệm thực tế, tuy nhiên kết luận của Ricardo vẫn là một kết luận rất quan trọng giải thích về nguồn gốc thương mại quốc tế. Lý thuyết Heckscher – Ohlin Là công trình của hai nhà kinh tế học E.F.Hekscher và B.C.Ohlin. Lý thuyết đã đưa ra cơ chế hoạt động của quy luật lợi thế so sánh là do sự khác nhau giữa các yếu tố sản xuất sẵn có ở các nước Các giả thiết của mô hình H-O: Thế giới bao gồm 2 quốc gia, 2 mặt hàng, 2 yếu tố sản xuất (lao động và vốn), mức độ trang bị các yếu tố sản xuất ở mỗi quốc gia là cố định Sản xuất mỗi mặt hàng có hiệu suất không đổi theo quy mô, còn mỗi yếu tố sản xuất thì có năng suất cận biên giảm dần Các mặt hàng khác nhau sẽ có hàm lượng các yếu tố sản xuất khác nhau, và không có sự hoán vị về hàm lượng các yếu tố sản xuất tại bất kỳ mức giá cả yếu tố tương quan nào Cạnh tranh hoàn hảo tồn tại trên cat thị trường hàng hóa lẫn thị trường yếu tố sản xuất (mức giá trên thị trường là duy nhất và được xác định bởi cung cầu, và về dài hạn giá cả hàng hóa đúng bằng chi phí sản xuất) Chuyên môn hóa là không hoàn toàn (hai nước có quy mô tương đối giống nhau, không có nước nào được coi là nước nhỏ hơn nước kia) Các yếu tố sản xuất có thể di chuyển tự do trong mỗi quốc gia, nhưng không thể di chuyển giữa các quốc gia Sở thích là giống nhau giữa hai quốc gia (nếu hai nước có cùng thu nhập và mức giá cả hàng hóa thì sẽ có xu hướng tiêu dùng lượng hàng hóa như nhau) Thương mại được thực hiện tự do, chi phí vận chuyển bằng 0 (thương mại hàng hóa sẽ cân bằng giá cả hàng hóa giữa hai nước) Khái niệm Định lý H-O được xây dựng trên 2 khái niệm cơ bản: hàm lượng các yếu tố và mức độ dồi dào của các yếu tố LX LY –––– > –––– KX KY và LY là lượng lao động cần thiết để sản xuất ra một đơn vị X và Y, còn KX và KY là lượng vốn cần thiết để sản xuất ra một đơn vị X và Y. Mặt hàng X được coi là có hàm lượng lao động cao nếu: LA LB –––– > –––– KA KB Tương tự, nếu thì nước A được coi là giàu tương đối về lao động so với nước B Trong đó: LA và LB là lượng lao động, KA và KB là lượng vốn tương ứng ở hai nước A và B Định lý H-O Các nước sẽ có lợi thế so sánh trong việc sản xuất và xuất khẩu loại hàng hóa mà việc sản xuất nó cần sử dụng nhiều yếu tố tương đối rẻ và sãn có ở nước đó và nhập khẩu loại hàng hóa mà việc sản xuất nó cần sử dụng nhiều yếu tố đắt và tương đối khan hiếm ở nước đó. Tóm lại, với những giả thiết đơn giản hóa các vấn đề liene quan đến sản xuất và trao đổi giữa hai quốc gia như hiệu suất sản xuất các mặt hàng không thay đổi theo quy mô, cạnh tranh hoàn hảo trên thị trường, tự do hóa thương mại và không tồn tại chi phí vận chuyển… các nhà kinh tế học cổ điển và tân cổ điển đã chỉ ra rằng, bằng việc chuyên môn hóa sản xuất các sản phẩm dựa vào các lợi thế về tài nguyên thiên nhiên và các yếu tố nguyên liệu sẵn có thì sản xuất của mỗi nước sẽ hiệu quả hơn, giá thành sản phẩm sẽ rẻ hơn và khi đem ra trao đổi với các nước sẽ thu được lợi ích nhiều hơn khi mỗi nước tự sản xuất và tự tiêu dùng. Các lý thuyết mới về thương mại quốc tế Thương mại dựa trên tính kinh tế theo quy mô Buôn bán giữa các nước không những chỉ xảy ra giữa các nước có các yếu tố nguồn lực khác nhau mà còn xảy ra mạnh mẽ giữa các nước có lợi thế giống nhau. Những hình thức thương mại này không thể lý giải bằng học thuyết về lợi thế so sánh. Giả sử, Mỹ và Nhật cùng sản xuất hai mặt hàng là tàu thủy và máy bay trong điều kiện có cùng các điều kiện về nguồn lực như nhau được biểu thị bằng một đường giới hạn khả năng sản xuất là MA (là đường lồi so với gốc tọa độ do lợi tức tăng dần) và các đường bàng quan I1, I2, I3. Khi chưa có thương mại, 2 nước có chung điểm cân bằng, tức là cùng mức sản xuất và tiêu thụ tại điểm E1 và có khả năng tiêu dùng tại điểm này Hình 1: Thương mại dựa trên hiệu suất tăng dần theo quy mô Tàu thủy M I3 S I1 I2 F E2 E3 E1 T L A Máy bay Khi có thương mại, Mỹ sẽ tập trung sản xuất máy bay tại điểm A, khi đó điểm tiêu dùng của Mỹ là E2 và Nhật Bản sẽ sản xuất tàu thủy tại điểm M, điểm tiêu dùng là E3. E2 và E3 đều cao hơn mức ban đầu E1. Nhật xuất khẩu một lượng MF tàu thủy và nhập FE2 máy bay từ Mỹ. Mỹ nhập từ Nhật một lượng E3L = MF tàu thủy và xuất sang Nhật LA = FE2 máy bay. Thương mại dựa trên sự biến đổi công nghệ Thương mại quốc tế với các sản phẩm công nghệ thường xảy ra theo học thuyết về vòng đời sản phẩm của Raymon Vernon (Hình 2) Từ t0 – t1: Giai đoạn sáng tạo và phát triển sản phẩm ở trong nước phát minh ra sản phẩm. Tại t1 sản phẩm được giới thiệu Từ t1 – t2: Nước phát minh XK và các nước phát triển NK Từ t2 – t3: Sản phẩm thành thục, thị trường tiêu thụ mở rộng, các nước đang phát triển như Việt Nam bắt đầu NK, tạo điều kiện sản xuất với quy mô lớn, chi phí thấp. Lợi thế so sánh chuyển từ nước phát minh sang nước phát triển và đến thời điểm t3 các nước này tiến hành XK, nước phát minh giảm XK. Hình 2: Vòng đời sản phẩm và thương mại quốc tế XK t0 t1 t2 t3 t4 t NK Các nước phát triển Các nước đang phát triển (Việt Nam) Từ t3 – t4: Công nghệ trở nên hoàn toàn được chuẩn hóa và phổ biến rộng, các nước đang phát triển có thể bắt chước để sản xuất được. Với lợi thế chi phí lao động thấp, các nước phát triển mất dần lợi thế so sánh. Vì thế, việc sản xuất ra sản phẩm chuyển dần sang các nước đang phát triển và tại thời điểm t4 các nước đang phát triển XK sang các nước phát minh ra sản phẩm. Lý thuyết thương mại liên quan đến cầu Đối với các mặt hàng công nghiệp cao cấp thì nguyên nhân nảy sinh trao đổi hàng hóa giữa các nước lại xuất phát từ mặt cầu của người tiêu dùng. Nhà kinh tế học S.B.Linder cho rằng, công nghiệp mà lượng cầu trong nước khá lớn sẽ tác dụng đến doanh nghiệp và sự kích thích ra sự phát minh ra sản phẩm mới. Nhân tố chính ảnh hưởng đến nhu cầu của một nước là thu nhập binh quân đầu người. Ngoài ra, nhu cầu nhu cầu của người tiêu dùng còn do các yếu tố khác như: văn hóa, thói quen… hay nói cách khác là thị hiếu của họ. Chẳng hạn, người Việt Nam rất thích dùng các mặt hàng nhập khẩu của các nước phát triển. Vì vậy, mặc dù hoàn toàn có thể giống nhau về chất lượng, giá cả trong nước lại thấp hơn nhưng người Việt lại chọn các sản phẩm có xuất xứ từ Mỹ, Nhật, Pháp… Do vậy, có thể nói rằng bất chấp mọi yếu tố khác, thị hiếu người dùng vẫn tồn tại như một nguồn gốc độc lập của thương mại quốc tế. Các lý thuyết về kinh tế quốc tế đã đưa ra được các cách giải thích khác nhau về nguyên nhân của thương mại quốc tế cũng như cách tiếp cận khác nhau trong việc giải thích các hiện tượng kinh tế quốc tế và phát triển kinh tế, khả năng cạnh tranh quốc gia và các quan hệ tiền tệ quốc tế khu vực. Chúng là những căn cứ quan trọng về mặt lý thuyết để nhận thức một cách có hệ thống và hợp logic các quan hệ kinh tế quốc tế. Mức độ hoàn chỉnh và tổng quát của các lý thuyết này ngày càng được nâng cao. Một số vấn đề lý luận về xuất nhập khẩu Khái niệm xuất khẩu Xuất khẩu, trong lý luận thương mại quốc tế là việc bán hàng hóa và dịch vụ cho nước ngoài, trong cách tính toán cán cân thanh toán quốc tế theo IMF là việc bán hàng hóa cho nước ngoài. Theo điều 28, mục 1, chương 2 luật thương mại việt nam 2005, xuất khẩu hàng hóa là việc hàng hóa được đưa ra khỏi lãnh thổ Việt Nam hoặc đưa vào khu vực đặc biệt nằm trên lãnh thổ Việt Nam được coi là khu vực hải quan riêng theo quy định của pháp luật Khi các nhân tố liên quan đến chi phí sản xuất hàng xuất khẩu ở trong nước không thay đổi, giá trị xuất khẩu phụ thuộc vào thu nhập của nước ngoài và vào tỷ giá hối đoái. Thu nhập của nước ngoài tăng (cũng có nghĩa là khi tăng trưởng kinh tế của nước ngoài tăng tốc), thì giá trị xuất khẩu có cơ hội tăng lên. Tỷ giá hối đoái tăng (tức là tiền tệ trong nước mất giá so với ngoại tệ), thì giá trị xuất khẩu cũng có thể tăng nhờ giá hàng tính bằng ngoại tệ trở nên thấp đi. Khái niệm nhập khẩu Nhập khẩu, trong lý luận thương mại quốc tế, là việc quốc gia này mua hàng hóa và dịch vụ từ quốc gia khác. Nói cách khác, đây chính là việc nhà sản xuất nước ngoài cung cấp hàng hóa và dịch vụ cho người cư trú trong nước. Tuy nhiên, theo cách thức biên soạn cán cân thanh toán quốc tế của IMF, chỉ có việc mua các hàng hóa hữu hình mới được coi là nhập khẩu và đưa vào mục cán cân thương mại. Còn việc mua dịch vụ được tính vào mục cán cân phi thương mại. Nhập khẩu phụ thuộc vào thu nhập của người cư trú trong nước, vào tỷ giá hối đoái. Thu nhập của người dân trong nước càng cao, thì nhu cầu của hàng đối với hàng hóa và dịch vụ nhập khẩu càng cao. Tỷ giá hối đoái tăng, thì giá hàng nhập khẩu tính bằng nội tệ trở nên cao hơn; do đó, nhu cầu nhập khẩu giảm đi. Đơn vị tính khi thống kê về xuất, nhập khẩu thường là đơn vị tiền tệ (Dollar, triệu Dollar hay tỷ Dollar) và thường tính trong một khoảng thời gian nhất định. Đôi khi, nếu chỉ xét tới một mặt hàng cụ thể, đơn vị tính có thể là đơn vị số lượng hoặc trọng lượng (cái, tấn, v.v...) Cán cân thương mại Cán cân thương mại là một mục trong tài khoản vãng lai của cán cân thanh toán quốc tế. Cán cân thương mại ghi lại những thay đổi trong xuất khẩu và nhập khẩu của một quốc gia trong một khoảng thời gian nhất định (quý hoặc năm) cũng như mức chênh lệch (xuất khẩu trừ đi nhập khẩu) giữa chúng. Khi mức chênh lệch là lớn hơn 0, thì cán cân thương mại có thặng dư. Ngược lại, khi mức chênh lệch nhỏ hơn 0, thì cán cân thương mại có thâm hụt. Khi mức chênh lệch đúng bằng 0, cán cân thương mại ở trạng thái cân bằng. Cán cân thương mại còn được gọi là xuất khẩu ròng hoặc thặng dư thương mại. Khi cán cân thương mại có thặng dư, xuất khẩu ròng/thặng dư thương mại mang giá trị dương. Khi cán cân thương mại có thâm hụt, xuất khẩu ròng/thặng dư thương mại mang giá trị âm. Lúc này còn có thể gọi là thâm hụt thương mại. Tuy nhiên, cần lưu ý là các khái niệm xuất khẩu, nhập khẩu, xuất khẩu ròng, thặng dư/thâm hụt thương mại trong lý luận thương mại quốc tế rộng hơn các trong cách xây dựng bảng biểu cán cân thanh toán quốc tế bởi lẽ chúng bao gồm cả hàng hóa lẫn dịch vụ. Các yếu tố ảnh hưởng đến cán cân thương mại: Nhập khẩu: có xu hướng tăng khi GDP tăng và thậm chí nó còn tăng nhanh hơn. Sự gia tăng của nhập khẩu khi GDP tăng phụ thuộc xu hướng nhập khẩu biên (MPZ). MPZ là phần của GDP có thêm mà người dân muốn chi cho nhập khẩu. Ví dụ, MPZ bằng 0,2 nghĩa là cứ 1 đồng GDP có thêm thì người dân có xu hướng dùng 0,2 đồng cho nhập khẩu. Ngoài ra, nhập khẩu phụ thuộc giá cả tương đối giữa hàng hóa sản xuất trong nước và hàng hóa sản xuất tại nước ngoài. Nếu giá cả trong nước tăng tương đối so với giá thị trường quốc tế thì nhập khẩu sẽ tăng lên và ngược lại. Ví dụ: nếu giá xa đạp sản xuất tại Việt Nam tăng tương đối so với giá xe đạp Nhật Bản thì người dân có xu hướng tiêu thụ nhiều xe đạp Nhật Bản hơn dẫn đến nhập khẩu mặt hàng này cũng tăng. Xuất khẩu: chủ yếu phụ thuộc vào những gì đang diễn biến tại các quốc gia khác vì xuất khẩu của nước này chính là nhập khẩu của nước khác. Do vậy nó chủ yếu phụ thuộc vào sản lượng và thu nhập của các quốc gia bạn hàng. Chính vì thế trong các mô hình kinh tế người ta thường coi xuất khẩu là yếu tố tự định. Tỷ giá hối đoái: là nhân tố rất quan trọng đối với các quốc gia vì nó ảnh hưởng đến giá tương đối giữa hàng hóa sản xuất trong nước với hàng hóa trên thị trường quốc tế. Khi tỷ giá của đồng tiền của một quốc gia tăng lên thì giá cả của hàng hóa nhập khẩu sẽ trở nên rẻ hơn trong khi giá hàng xuất khẩu lại trở nên đắt đỏ hơn đối với người nước ngoài. Vì thế việc tỷ giá đồng nội tệ tăng lên sẽ gây bất lợi cho xuất khẩu và thuận lợi cho nhập khẩu dẫn đến kết quả là xuất khẩu ròng giảm. Ngược lại, khi tỷ giá đồng nội tệ giảm xuống, xuất khẩu sẽ có lợi thế trong khi nhập khẩu gặp bất lợi và xuất khẩu ròng tăng lên Vai trò của hoạt động xuất nhập khẩu với hoạt động kinh tế Trong quá trình phân công lao động quốc tế, xuất nhập khẩu giúp tạo điều kiện tạo điều kiện phân bổ các nguồn lực một cách hợp lý dựa trên việc khai thác hiệu quả lợi thế so sánh của từng quốc gia. Nhờ đó, sản xuất và tiêu dùng không ngừng được nâng cao về hiệu quả và quy mô. Nói cách khác, xuất nhập khẩu thúc đẩy sự phát triển của kinh tế. Vai trò của xuất khẩu Đối với các nước đang phát triển như Việt Nam có tỷ lệ tăng dân số khá cao, lực lượng lao động dồi dào. Nếu xuất khẩu được mở rộng thì lượng lao động trực tiếp tham gia trực tiếp vào các ngành xuất khẩu tăng lên, đồng thời lao động của các ngành khác liên quan cũng tăng theo. Như vậy, xuất khẩu có tác dụng khai thác nguồn lực sẵn có, tăng thêm việc làm và thu nhập cho người lao động. Xuất khẩu góp phần chuyển dịch cơ cấu theo hướng tích cực, tiến bộ, phục vụ công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước Khi thực hiện xuất khẩu tức là hàng hóa được đưa ra thị trường các nước khác nhau và chịu cạnh tranh rất lớn. Tất yếu, những hàng hóa không đủ phẩm chất sẽ bị trả lại và không có cơ hội phát triển thị trường. Điều đó đòi hỏi các doanh nghiệp tham gia xuất khẩu phải luôn luôn đổi mới công nghệ, quy trình sản xuất, quản lý hiệu quả,mở rộng quy mô theo hướng ngày càng hiện đại. Xuất khẩu còn thúc đẩy các ngành cung cấp đầu vào cho hoạt động xuất khẩu và các hoạt động dịch vụ khác cũng phát triển như bảo hiểm, vận tải và du lịch. Đối với các nước đang phát triển, xuất khẩu là nguồn tạo vốn cho nhập khẩu, thúc đẩy chủ động nhập khẩu công nghệ. Trong điều kiện các yếu tố công nghệ, vốn và trình độ quản lý còn hạn chế thì xuất khẩu đóng vai trò thu hút FDI. Hay chính hoạt động xuất khẩu thúc đẩy sự phát triển toàn diện các lĩnh vực trong nền kinh tế góp phần tạo dựng cơ cấu kinh tế ngày càng hợp lý hơn. Hoạt động xuất khẩu có thể có sớm hơn các hoạt động kinh tế đối ngoại khác và tạo điều kiện thúc đẩy các quan hệ khác phát triển. Xuất khẩu và công nghệ sản xuất hàng xuất khẩu sẽ thúc đẩy hệ thống tín dụng, đầu tư, mở rộng quan hệ quốc tế Mặt khác, chính các quan hệ kinh tế đối ngoại lại tạo tiền đề để mở rộng xuất khẩu. Như vậy, xuất khẩu và các quan hệ kinh tế đối ngoại có tác động qua lại và phụ thuộc lẫn nhau. Hay, xuất khẩu là cơ sở để mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại. Vai trò của nhập khẩu Nhập khẩu tạo điều kiện thúc đẩy quá trình xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật cho đất nước. Nhập khẩu có tác dụng bổ sung những thiếu hụt của nền kinh tế, cải thiện và nâng cao mức sống của người dân. Nhập khẩu các nguyên nhiên liệu phục vụ cho xuất khẩu, thúc đẩy xuất khẩu Như vậy, xuất khẩu và nhập khẩu có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, cùng thực hiện một mục đích là phát triển nền kinh tế.Hiệu quả của hai hoạt động này chính là sự kết hợp giữa xuất khẩu và nhập khẩu để thúc đẩy tăng trưởng của nền kinh tế. Diễn biến của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu Khủng hoảng tài chính ở Mỹ - Xuất phát điểm của khủng hoảng tài chính toàn cầu Khủng hoảng tại Mỹ được đánh dấu bằng sự đổ vỡ của hệ thống các ngân hàng tại đây. Tình trạng thua lỗ, phá sản thường chỉ xảy ra trong các ngân hàng nhỏ và trung bình ở Mỹ. Nhưng kể từ tháng 8/2008, tình trạng này đã lan sang các ngân hàng có tầm ảnh hưởng lớn trong hệ thống tài chính toàn cầu. Freddie Mac và Frannie Mae là hai tập đoàn cho vay thế chấp khổng lồ của Mỹ. Nếu hai tập đoàn này sụp đổ thì hệ thống tài chính toàn cầu sẽ rơi vào một cú sốc lớn. Vì thế, để tạm thời ngăn chăn sự việc này, ngày 7/9/2008, Chính phủ Mỹ đã phải bỏ ra 25 tỷ USD để tiếp quản hai tập đoàn. Tập đoàn lớn thứ tư tại Mỹ - Lehman Brothers Holdings đã thua lỗ gần 7 tỷ USD trong quý II và III năm 2008, trong đó quý III lỗ 3,9 tỷ USD. Nguyên nhân là do các khoản nợ xấu trong lĩnh vực tín dụng thứ cấp thế chấp mua nhà tại Mỹ của ngân hàng này không có khả năng thanh toán. Sau 158 năm hoạt động, Lehman Brothers Holdings đã nộp đơn xin phá sản ngày 15/9/2008. Cùng ngày với lý do như trên, tập đoàn ngân hàng lớn khác của Mỹ là Merrill Lynch đã tuyên bố sáp nhập với Bank of America với giá trị 50 tỷ USD, tương đương 29 USD/cổ phần, trở thành tập đoàn cung cấp dịch vụ tài chính lớn nhất thế giới. Tập đoàn bảo hiểm hàng đầu của Mỹ, AIG tuyên bố thua lỗ 18 tỷ USD trong quý II và quý III, riêng 6 tháng đầu năm 2008 đã lỗ hơn 13 tỷ USD. Để cứu tập đoàn này khỏi nguy cơ phá sản, FED đã cho AIG vay 85 tỷ USD trong vòng 2 năm, đổi lại Chính phủ Mỹ sẽ nắm giữ 80% cổ phần và thay đổi ban lãnh đạo của tập đoàn này. Ngày 26/9, ngân hàng tiết kiệm lớn nhất của Mỹ - Washington Mutual Inc cũng được bán lại cho JP Morgan Chase do thua lỗ 19 tỷ USD. Cuối ngày 29/9/2008, cổ phiếu của ngân hàng Wachovia – một trong những ngân hàng lớn nhất của Mỹ- chỉ còn dưới 1 USD báo động đứng bên bờ vực phá sản. Citigroup đã quyết định mua lại mảng hoạt động tín dụng của ngân hàng này với giá gần 2,2 tỷ USD và cơ quan liên bang tiền đảm bảo quyền lợi của người gửi tiền ở ngân hàng này. Từng là ngân hàng lớn nhất thế giới và có chi nhánh hoạt động hơn 100 quốc gia, trong quý IV/2008 Citigroup thông báo bị lỗ ròng tới 8,29 tỷ USD, và cả năm 2008 lỗ tổng cộng là 18,72 tỷ USD. Do khủng hoảng tài chính toàn cầu, trong năm 2008, các cổ phiếu của ngân hàng này đã giảm gần 87% giá trị. Ngân hàng này đã phải bán đi một số cơ sở cùng một số nguồn lực khác, cắt giảm thêm 52000 việc làm, tương đương 20% số nhân viên của hãng. Quyết định này của Citigroup đã khiến cho thị trường chứng khoán thế giới sụt giảm tới mức thấp nhất trong hàng thập kỷ qua. Chỉ số chứng khoán quan trọng nhất tại Mỹ là Dow Jones lần đầu tiên trong nhiều năm rớt khỏi mức 8000 điểm, trong khi đó chỉ số S&P 500 xuống thấp nhất trong 2 năm qua. Trong điều kiện kinh tế khó khăn, Citigroup đã thực hiện giải pháp tái cấu trúc mà theo đó, ngân hàng này sẽ được tách làm 2 bộ phận riêng biệt: Citi Holidings tập trung vào cho vay tiêu dùng, môi giới, quản lý tài sản khách hàng, và quản lý các tài sản gặp sự cố, Citicorp chuyên trách về dịch vụ ngân hàng phục vụ khách hàng lẻ và kinh doanh. Không chỉ những ngân hàng có quy mô tài sản hàng tỷ USD mà hàng loạt các ngân hàng có quy mô tài sản vài trăm triệu USD cũng lần lượt rơi vào tình trạng tồi tệ. Theo công bố của FED, đã có 25 ngân hàng Mỹ bị giải thể trong năm 2008. Theo các chuyên gia thì con số này sẽ tăng lên trong năm 2009 do khủng hoảng tài chính chưa chịu buông tha hệ thống tài chính nước này và viễn cảnh kinh tế nói chung còn tiếp tục u ám. Khủng hoảng ở các quốc gia khác Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu không chỉ riêng có ở riêng Mỹ mà nhanh chóng lan rộng toàn cầu. Trong thời đại toàn cầu hóa, khi các ngân hàng toàn cầu có mối quan hệ tín dụng đan xen nhau nhằng nhịt, cuộc khủng hoảng tài chính của nền kinh tế lớn nhất là Mỹ đã nhanh chóng lây lan sang các nước khác như hiệu ứng đô-mi-nô. Khủng hoảng ở Châu Âu Ủy ban châu Âu cũng đã vừa thừa nhận nền kinh tế 15 nước sử dụng chung đồng tiền Euro đã bước vào một đợt suy thoái. Các ngân hàng ở Anh chịu ảnh hưởng lớn nhất của cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ. Mặc dù đã được hỗ trợ từ năm 2007 nhưng tính đến hết tháng 7/2008 thì Northem Rock chịu khoản nợ xấu lên tới 191,6 tỷ USD. Do tình trạng tổn thất tín dụng ngày càng gia tăng, trong tháng 7 và đầu tháng 8/2008, Bộ Tài chính Anh đã phải bơm thêm 3 tỷ bảng (tương đương 5,86 tỷ USD) để cứu ngân hàng này. Ngày 29/9/2008, nhằm bảo vệ quyền lợi của khách hàng chịu thua lỗ lớn, không có khả năng trụ vững do liên quan đến cuộc khủng hoảng tài chính ở Mỹ, Bộ Tài chính Anh đã tuyên bố quốc hữu hóa tập đoàn cho vay kinh doanh bất động sản lớn nhất nước là Bradford & Bingley Plc. Tổng giá trị các khoản thế chấp và vay trên sổ sách là 50 tỷ bảng. Lối tiếp ngân hàng của Anh là một số ngân hàng lớn khác tại châu Âu như Fortis của Bỉ và Lúcxămbua, Dexia của Bỉ và Pháp. Đầu tháng 10/2008, ngân hàng Hypo Real Estate của Đức cũng lâm vào khủng hoảng và Chính phủ phải cứu trợ bằng biện pháp tài chính cần thiết. Mới đây, ngày 8/1/2009, chính phủ Đức đã tuyên bố quốc hữu hóa ngân hàng thương mại lớn thứ hai của Đức là Commerzbank, để cứu cơ sở này khỏi bị phá sản. Dấu hiệu đầu tiên và rõ ràng nhất cho thấy nền kinh tế nước này đã bước vào giai đoạn suy thoái là GDP liên tục giảm: trong quý II/2008 đã giảm 0,4%, quý III/2008 giảm 0,5%. Sự sụt giảm tăng trưởng mạnh hơn dự báo của kinh tế Đức là từ thương mại quốc tế, với sự tăng mạnh của nhập khẩu trong khi xuất khẩu giảm. Tại Nga, hệ thống ngân hàng và thị trường tài chính, chứng khoán cũng bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Trong tháng 9/2008, đợt suy giảm thị trường chứng khoán diễn ra đã làm mất 800 tỷ USD giá trị cổ phiếu trên thị trường. Tính đến ngày 7/10/2008, thị trường chứng khoán Nga đã 2 lần tạm thời đóng cửa và chỉ số chứng khoán giảm mạnh. Chỉ trong khoảng 3 tuần cuối tháng 9 và đầu tháng 10/2008, ngân hàng Trung ương Nga đã phải tung ra thị trường 170 tỷ USD để cứu các ngân hàng và các công ty tài chính. Để hỗ trợ cho các ngân hàng, ngày 8/10/2008, Tổng thống Nga công bố kế hoạch cho vay với thời hạn 5 năm với tổng giá trị là 950 tỷ rúp, tương đương 36,4 tỷ USD. Sự lan tỏa của khủng hoảng tài chính và suy giảm kinh tế Châu Á Ngày 8/10/2008, thị trường chứng khoán châu Á trải qua một ngày tồi tệ; hàng loạt thị trường chứng khoán châu Á trong tình trạng sụt giảm nghiêm trọng. Chỉ số Nikkei 255 của Nhật Bản giảm xuống còn 9253,32 điểm. Kể từ năm 1987, đây là mức giảm lớn nhất: 9,4%. Hàng loạt các chỉ số chứng khoán trên các thị trường các nước khác cũng ở tình trạng tương tự: chỉ số Hangseng của Hồng Kông giảm 5,2%, chỉ số Sensex của Ấn Độ giảm 4,3%, chỉ số Kospi của Hàn Quốc giảm 5,8%... Sự sụt giảm này trên thị trường chứng khoán châu Á còn kéo dài đến tháng 11. Cụ thể là ngày 2/11, chỉ số Nikkei 225 giảm 352,09 điểm, tương đương 2,09%, xuống còn 16517,34 điểm, chỉ số Hang Sheng giảm tới 3,3% và đóng cửa ở mức 30468,34 điểm, chỉ số CSI của thị trường Thượng Hải giảm 2,3% xuống còn 136,47 điểm, các chỉ số trên thị trường Xingapo, Hàn Quốc, Malaixia cũng sụt giảm. Ngay từ cuối năm 2008, kinh tế Nhật Bản cũng bước vào suy thoái và được dự báo sẽ có mức tăn._.g trưởng âm trong năm 2009. Sản lượng công nghiệp sụt giảm tới 8,1%, lợi nhuận của các công ty giảm mạnh và tỷ lệ thất nghiệp đã tăng lên 3,9%. Theo báo cáo của Chính phủ Nhật, xuất khẩu tháng 11/2008 so với cùng kỳ năm 2007 cũng giảm 26,7% trong đó xuất khẩu xe hơi giảm 32%. Ngoài ra, sự lên giá mạnh của đổng Yên so với USD cũng gây áp lực không nhỏ cho các nhà xuất khẩu của Nhật. Nguyên nhân là do giới đầu tư Nhật Bản ồ ạt rút vốn về nước vì lo ngại khủng hoảng tài chính ở các thị trường bên ngoài đã đẩy đồng Yên tăng 25% so với USD. Tại Hàn Quốc, theo thông tin tài chính quốc tế Hàn Quốc (KCIF), từ tháng 6 đến tháng 9/2008, các nhà đầu tư nước ngoài đã rút gần 15 tỷ USD khỏi thị trường chứng khoán Hàn Quốc. Tình trạng tương tự cũng diễn ra tại các thị trường chứng khoán lớn trong khu vực như: Đài Loan, Philippin, Thái Lan, Ấn Độ, Inđônêxia… Nguyên nhân của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu Có thể nói cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân, có nguyên nhân trực tiếp, sâu xa… nhưng tóm lại là bắt nguồn từ 4 nguyên nhân cơ bản sau: Thứ nhất: Sự hình thành và đổ vỡ của bong bóng nhà đất, các khoản cho vay dưới chuẩn Ở Mỹ, hầu hết người dân khi mua nhà là phải vay tiền ngân hàng và trả lại lãi lẫn vốn trong một thời gian dài sau đó. Do đó, có một sự liên hệ rất chặt chẽ giữa tình hình lãi suất và tình trạng của thị trường bất động sản. Khi lãi suất thấp và dễ vay mượn thì người ta đổ xô đi mua nhà, đẩy giá nhà cửa lên cao làm cho bong bóng nhà đất hình thành. Khi lãi suất cao thì thị trường giậm chân, người bán nhiều hơn người mua, đẩy giá nhà xuống thấp. Các ngân hàng đầu tư Mỹ đã sử dụng nghiệp vụ chứng khoán hóa (securitisation) để biến các khoản cho vay mua bất động sản thành các gói trái phiếu có gốc bất động sản (MBS, CDO) đầy rủi ro cung cấp cho thị trường Khi nền kinh tế đi xuống, người vay tiền mua nhà không trả được các khoản vay mua nhà thì rủi ro tín dụng được chuyển sang các gói trái phiếu có các danh mục tín dụng bất động sản làm tài sản đảm bảo. Khủng hoảng càng gia tăng thì việc phát mại tài sản càng tăng làm giá bất động sản càng giảm. Điều này có nghĩa giá trị tài sản đảm bảo của trái phiếu càng giảm và rủi ro tín dụng càng tăng. Vòng xoáy khủng hoảng cứ tiếp tục như vậy, làm cho giá chứng khoán sụt giảm mạnh. Các ngân hàng đầu tư mặc dù không nắm giữ toàn bộ rủi ro nhưng cũng trực tiếp hoặc gián tiếp duy trì một số danh mục chứng khoán liên quan đến bất động sản. Hậu quả là hàng loạt ngân hàng đầu tư lần lượt báo cáo các khoản lỗ kinh doanh. Thứ hai: Hệ thống tín dụng đổ vỡ Sự co lại của thị trường tín dụng, sự đổ vỡ của các thị trường các công cụ phái sinh như CDS có mức độ ảnh hưởng còn lớn hơn sự đổ vỡ của bong bóng nhà đất rất nhiều. Trong cho vay nhà đất lẫn trong thị trường nợ, việc dùng đòn bẩy tài chính là hết sức quan trọng. Một doanh nghiệp có thể đi vay 3 nếu có vốn riêng là 1, như vậy được gọi là sử dụng đòn bẩy bằng 3 lần. Các doanh nghiệp hoạt động trong nền kinh tế thực nếu có đòn bẩy tài chính không lớn hơn 3 thì được coi là bình thường. Với hình thức này, trong trường hợp rủi ro người đi vay sẽ chịu rủi ro đầu tiên và khi đòn bẩy càng cao thì tức là rủi ro càng lớn. Khi cho vay, các ngân hàng thường chú ý đến hệ số đòn bẩy nảy bởi vì nếu hệ số đòn bẩy quá cao, thì khi có lãi người vay được lợi, khi thua lỗ thì ngân hàng phải gánh chịu. Trên thị trường tài chính, các ngân hàng sử dụng đòn bẩy cao hơn, có khi lên đến cả trăm lần do các ngân hàng đầu tư, các công ty tài chính không có quy định nghiêm ngặt về vấn đề này. Thứ ba: Thiếu cơ chế giám sát chặt chẽ Các ngân hàng thương mại chịu sự quản lý, giám sát của các cơ quan nhà nước, còn các ngân hàng đầu tư, các công ty tài chính chịu sự giám sát ít hơn. Các cơ quan quản lý lỏng lẻo, không theo kịp hoạt động của tất cả các tổ chức tài chính ngân hàng dẫn đến những rủi ro khôn lường. Có tiền, các công ty “thoải mái” cho khách hàng vay bằng tiền của các ngân hàng đầu tư cung cấp thông qua việc mua lại danh mục cho vay của các công ty này. Các ngân hàng này, trên cơ sở danh mục cho vay vừa mua lại, sẽ phát hành chứng khoán để vay tiền. Danh mục cho vay được chia ra thành các mục như rủi ro ít, rủi ro cao… tùy định mức tín nhiệm, nhà đầu tư tha hồ lựa chọn theo sự mạo hiểm của mình. Có loại chứng khoán không cần định mức tín nhiệm, có thể thu lãi cao nhưng rủi ro cũng lớn. Như vậy, rủi ro trong việc cho vay đã được chuyển từ bên cho vay là công ty tài chính sang ngân hàng đầu tư. Nhà đầu tư trên thế giới đổ tiền mua các chứng khoán này, nhờ vậy, chính họ đã cung cấp một lượng vốn khổng lồ cho thị trường bất động sản ở Mỹ tăng nóng. Thứ tư: Khủng hoảng niềm tin Theo Giáo sư Joseph Stiglitz, cuộc khủng hoảng bắt đầu từ sự sụp đổ thảm khốc của niềm tin. Các ngân hàng đánh đố lẫn nhau về mức độ cho vay cũng như tài sản. Những giao dịch phức tạp được tạo ra để loại bỏ rủi ro và che giấu những trượt giá giá trị tài sản thực của ngân hàng. Đây là một trò chơi mà khi người ta bắt đầu cảm nhận “mùi vị” của sự thua lỗ và nhìn vào hệ thống tài chính, khi đó thua lỗ sẽ xuất hiện, cả thị trường xuống dốc và tất cả “người chơi” đều thua lỗ. Thị trường tài chính xoay quanh trục nguyên tắc độ tin cậy, và độ tin cậy đó đã bị xói mòn, xuống cấp. Sự sụp đổ của Lehman là biểu tượng đánh dấu mức độ tin cậy xuống một mức thấp mới và dư âm của nó sẽ còn tiếp tục. Những tác động của khủng hoảng kinh tế toàn cầu đến các vấn đề kinh tế - xã hội của các nước đang phát triển Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu là cuộc khủng hoảng sâu rộng và để lại hậu quả to lớn đối với nền kinh tế thế giới. Cho đến nay, những tác động của nó đối với nền kinh tế toàn cầu vẫn chưa lường hết được vì khủng hoảng vẫn đang còn tiếp diễn. Ba hiểm họa lớn đang chờ các nước trong năm 2009 là: suy thoái kinh tế, thất nghiệp gia tăng và nguy cơ giảm phát. Đối với các nước đang phát triển ảnh hưởng cụ thể của khủng hoảng tài chính toàn cầu như sau: Tác động đến tăng trưởng kinh tế Kinh tế thế giới năm 2009 sẽ tiếp tục chìm sâu vào suy thoái và được dự báo chỉ có thể thoát ra vào nửa cuối năm 2009 hoặc đầu năm 2010. Kết quả dự báo của IMF về tăng trưởng kinh tế thế giới 2009 – 2010 cho rằng, tăng trưởng kinh tế toàn cầu năm 2009 được dự báo là 0,5% - mức thấp nhất kể từ Chiến tranh thế giới lần thứ II. Do chịu ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu thì mức tăng trưởng của các nền kinh tế đang nổi như Trung Quốc hay Ấn Độ cũng sẽ chịu ảnh hưởng nặng nề với mức tăng trưởng được dự báo lần lượt là 6,7% và 5,1%. Các nước đang phát triển khác, dưới tác động của khủng hoảng kinh tế toàn cầu, tốc độ tăng trưởng giảm rõ rệt. Năm 2008 kinh tế Thái Lan chỉ tăng trưởng 2,6. Trong năm 2009, dự kiến, nền kinh tế hướng tới xuất khẩu của nước này sẽ suy giảm từ 0-1% Malaysia: Nhu cầu trong nước trên thị trường khá mạnh trong 6 tháng đầu năm 2008, nhưng sự suy giảm mạnh mẽ về các điều kiện kinh tế toàn cầu và giá hàng hóa giảm đã khiến cho nhu cầu trong nước sụt giảm mạnh trong 6 tháng cuối năm 2008, dẫn đến tăng trưởng kinh tế Malaysia trong 6 tháng cuối năm 2008 chỉ đạt 2,4%, so với 7,1% trong 6 tháng đầu năm 2008. Trong bối cảnh kinh tế toàn cầu rất yếu kém, nhu cầu yếu trên thị trường thế giới dự báo sẽ làm giảm tốc độ tăng trưởng kinh tế Malaysia trong năm 2009 đi khoảng 4 %. Theo Bank Negara, ngân hàng trung ương Malaysia, kinh tế Malaysia tăng trưởng khoảng 4,6% năm 2008. Trong bối cảnh khủng hoảng tài chính toàn cầu môi trường kinh tế thế giới đang xấu đi nhanh chóng dự báo tăng trưởng GDP thực tế của nước này năm 2009 sẽ từ âm 1% đến 1% do bị ảnh hưởng của suy thoái kinh tế toàn cầu. Kinh tế Inđônêxia: Theo lời Phó Thống đốc Ngân hàng trung ương Inđônêxia (BI) Miranda S. Goeltom cho biết “kinh tế nước này đang ngày càng trở nên xấu đi”, với tốc độ tăng trưởng kinh tế năm nay dự kiến chỉ ở mức từ 3-4%, thấp hơn so với dự báo tăng 4-5% trước đây. Các số liệu của BI cũng cho thấy tỷ lệ nợ không sinh lời trong hệ thống ngân hàng Inđônêxia sẽ tiếp tục gia tăng, trong khi thu nhập của ngân hàng bị giảm sút đáng kể. Các khoản nợ thuộc diện “cần giám sát đặc biệt” đến nay đã tăng lên tới 84.720 tỷ Rupiah. Bên cạnh việc triển khai gói kích thích kinh tế nhằm ứng phó với khủng hoảng kinh tế, Chính phủ Inđônêxia hiện đang tiếp tục tìm kiếm sự giúp đỡ tài chính và kinh tế của Nhóm 20 nền kinh tế hàng đầu thế giới tại Hội nghị thượng đỉnh G20 sắp diễn ra tại thủ đô Luân Đôn. Trước đó, Bộ trưởng Tài chính Inđônêxia Sri Mulyani Indrawati đã có mặt tại Luân Đôn để tham dự Hội nghị trù bị cho Hội nghị G20, nhằm thảo luận các biện pháp khôi phục kinh tế và duy trì luồng vốn dành cho các nước đang phát triển và kích thích nhu cầu trên thị trường quốc tế. Tác động đến thương mại quốc tế Dự báo của các tổ chức quốc tế có uy tín đều có chung nhận định là kinh tế thế giới tiếp tục ảm đạm mà ảnh hưởng trực tiếp rõ nét nhất là tăng trưởng thương mại thế giới tiếp tục giảm (Bảng 1.4.2). Bảng 1.4.2. Dự báo tăng trưởng thương mại thế giới năm 2009 – 2010 Đơn vị: % 2006 2007 2008 2009 (DB) 2010 (DB) Tăng trưởng xuất khẩu Các nước phát triển 8,4 5,9 3,1 -3,7 2,1 Các nền kinh tế mới nổi 11,2 9,6 5,6 -0,8 5,4 Tăng trưởng nhập khẩu Các nước phát triển 7,5 4,5 1,5 -3,1 2,1 Các nền kinh tế mới nổi 14,9 14,5 10,4 -2,2 5,8 Nguồn : IMF, Word Economic Outlook, ngày 28/1/2009 Theo dự báo của IMF, năm 2009, tăng trưởng xuất khẩu ở các nước là âm, các nước phát triển giảm xuống ở mức -3,7%, và ở các nền kinh tế mới nổi cũng chỉ đạt -0,8%. Tình hình nhập khẩu cũng tương tự, tốc độ tăng trưởng nhập khẩu năm 2009 ở các nước phát triển ở mức -3,1%, còn các nền kinh tế mới nổi đạt mức tăng trưởng nhập khẩu -2,2%. Tốc độ tăng trưởng thương mại năm 2009 được dự báo âm là do còn chịu tác động mạnh của cuộc khủng hoảng kinh tế, cả nhập khẩu và xuất khẩu đều có xu hưởng giảm dẫn đến tổng kim ngạch xuất nhập khẩu giảm. Chủ tịch Uỷ ban Thương nghiệp Nội địa thuộc Phòng Công nghiệp và Thương mại Inđônêxia (KADIN) ngày 29/3/2009 công bố, trước tác động ngày càng nghiêm trọng của cuộc khủng hoảng kinh tế - tài chính toàn cầu tới nền kinh tế Inđônêxia, đầu tư tiếp tục bị đình trệ do thiếu lượng tiền mặt, xuất khẩu trong quý I/09 đã giảm 30% so với cùng kỳ năm 2008. Xuất khẩu hàng hoá từ các nước châu Á đến Trung Quốc tháng 12/2008 thấp hơn 27% so với một năm trước. Khi xem xét kỹ về số liệu xuất khẩu và nhập khẩu của các nước cho thấy như tiêu dùng nội địa suy yếu là nguyên nhân chính dẫn đến kinh tế các nước này đi xuống. Tại Trung Quốc, tiêu dùng nội địa đi xuống là yếu tố chính kéo lùi tăng trưởng kinh tế Trung Quốc năm 2009. Xét chung thì nhập khẩu giảm nhưng xuất khẩu giảm mạnh hơn, dẫn đến cán cân thương mại thế giới sẽ chịu thâm hụt lớn trong năm 2009 này. Báo cáo của WB cho rằng thương mại thế giới năm nay sẽ sụt giảm kỷ lục trong vòng 8 thập kỷ qua, lớn nhất là tại khu vực Đông Á. Trong năm 2009, các quốc gia đang phát triển - trong đó có nhiều nước nghèo được dự báo sẽ đối mặt với khả năng thâm hụt tài chính 270 - 700 tỷ USD. Tình trạng này được dự báo có được cải thiện đôi chút vào năm 2010, khi mà nền kinh tế không còn chịu ảnh hưởng lớn của cuộc khủng hoảng tài chính. Tác động đến các vấn đề xã hội Khủng hoảng kinh tế thế giới dẫn đến những hậu quả xã hội nghiêm trọng mà biểu hiện rõ rệt nhất của nó là tỷ lệ thất nghiệp ở các khu vực trên thế giới liên tục tăng nhanh một cách đáng báo động. Thế giới có nguy cơ phải đối mặt với “khủng hoảng xã hội” do chính nạn thất nghiệp gây ra. Trong một báo cáo chính sách cho Hội nghị Bộ trưởng Tài chính G7 vào ngày 14/2/2009, Ngân hàng Thế giới cho rằng khoảng 40/107 nước đang phát triển có nguy cơ bị ảnh hưởng cao và các nước còn lại có khả năng bị ảnh hưởng trung bình. Chỉ có 10% các nước bị ảnh hưởng nhẹ. Theo số liệu của Văn phòng thống kê quốc gia Thái Lan cho biết, đã có 540.000 người thất nghiệp vào cuối năm 2008 chiếm tỷ lệ 1,4%. Tuy nhiên, trong năm 2009, dự kiến, tỷ lệ thất nghiệp sẽ là 2,8%. Số người thất nghiệp ước tăng gần gấp đôi lên ít nhất trên 1 triệu người trong năm 2009. Tại Malayxia, tình trạng tương tự cũng xảy ra. Các điều kiện thị trường lao động dự báo sẽ tiếp tục yếu đi, với tỷ lệ thất nghiệp dự báo tăng 4,5% trong năm 2009. Trong khi đó, lạm phát dự báo trung bình khoảng 1,5-2% trong năm 2009, phản ảnh sự đảo chiều mạnh mẽ của giá hàng hóa toàn cầu sau khi đã tăng lên mức cao đỉnh điểm trong năm 2008. Giống như hai phần ba thế giới, Philíppin hiện chưa rơi vào tình trạng suy thoái nhưng cũng đã chịu những ảnh hưởng không nhỏ. Có khoảng 41 nghìn lao động mất việc làm vì khủng hoảng.Trong tháng 1/09, tỷ lệ thất nghiệp ở Philíppin đứng ở mức 7,7% (2,855 triệu người), tăng 188.000 người (0,33 điểm phần trăm) so với cùng kỳ năm ngoái. Trước đó, theo báo của của chính phủ Philíppin, có khoảng 9 triệu người dân nước này (1/10 dân số) trong tình trạng thiếu việc làm hoặc đang tìm việc. Con số này có thể còn tăng thêm vào cuối năm học, khi các sinh viên sắp ra trường và tìm kiếm việc làm. Tổng thống Philíppin, Gloria Arroyo ngày 24/3 cho biết, có ít nhất 41.000 người dân nước này đã mất việc làm trong bối cảnh khủng hoảng tài chính-kinh tế toàn cầu, cao hơn 6.000 người so với báo cáo của Bộ Lao động Philíppin công bố hồi đầu tháng 3/09 Tỷ lệ thất nghiệp sẽ liên tục tăng và tăng mạnh năm 2009. Dự báo của một số tổ chức chuyên môn cũng chứng minh điều này. Theo dự báo của OECD, thất nghiệp của các nước trong tổ chức này sẽ tăng từ 34 triệu người lên 42 triệu người. Còn theo dự báo của tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) cho hay, đến cuối năm 2009 sẽ có khoảng 50 triệu người không có việc làm. Khủng hoảng kinh tế gây ra thất nghiệp. Thất nghiệp sẽ dẫn đến đói nghèo và những tệ nạn xã hội khác. An ninh của nhiều nước nghèo đứng trước nguy cơ bất ổn do khủng hoảng kinh tế gây ra. Khu vực châu Á - Thái Bình Dương được dự báo là có nguy cơ trở lại tỷ lệ bần cùng hồi năm 2004. Ngày 12/02/2009, Ngân hàng Thế giới (WB) đã công bố bản báo cáo “Cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu: Đánh giá rủi ro từ con mắt nghèo đói”, cho thấy khủng hoảng kinh tế toàn cầu đang đe dọa đến việc thực hiện các mục tiêu xóa đói giảm nghèo toàn cầu. Theo WB, số liệu cho năm 2009 cho thấy tăng trưởng kinh tế chậm sẽ làm khoảng 46 triệu người không thoát được nghèo (ở mức 1,25 USD/ngày) và khoảng 53 triệu người khác sẽ vẫn nằm dưới mức 2 USD/ngày. Đó là chưa kể đến khoảng 130 - 155 triệu người vừa tái nghèo do cuộc khủng hoảng lương thực và năng lượng vừa qua. Báo cáo này cho thấy nguy cơ không hoàn thành các mục tiêu thiên niên kỷ của Liên Hợp Quốc, trong đó có mục tiêu giảm nghèo cụ thể cho năm 2015. Báo cáo mới còn cho thấy tăng trưởng chậm cũng làm tăng tỉ lệ tử vong trẻ sơ sinh, với khoảng từ 1,4 - 2,8 triệu trẻ sơ sinh có thể tử vong trong khoảng từ nay đến năm 2015, nếu khủng hoảng này còn tiếp diễn.  “Cuộc khủng hoảng kinh tế có thể biến thành cuộc khủng hoảng nhân đạo tại nhiều nước nếu không có các biện pháp bảo vệ người nghèo. Trong khi toàn thế giới chỉ chú ý đến các gói kích thích tăng trưởng kinh tế, chúng ta không nên quên là người nghèo ở các nước đang phát triển còn rủi ro hơn nếu kinh tế ở các nước đó đi xuống.  Cuộc khủng hoảng này đòi hỏi phải có những giải pháp toàn cầu, cần phải thảo luận cả những nhu cầu của người nghèo ở các nước đang phát triển”, Chủ tịch Nhóm Ngân hàng Thế giới nói.  Do đó, bản báo cáo với tựa đề “Cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu: Đánh giá rủi ro từ con mắt nghèo đói”, nhấn mạnh các quốc gia cần tập trung tài chính để tạo công ăn việc làm, cung cấp các dịch vụ cơ bản, cơ sở hạ tầng và các chương trình an sinh xã hội cho người dễ thương tổn.  Tuy nhiên, bản báo cáo này cũng chỉ ra 3/4 các nước đang phát triển không thể huy động nguồn tài chính trong và ngoài nước để giảm thiểu ảnh hưởng của giảm phát. Trong đó, 1/4 các nước không có khả năng tiếp cận tới các nhóm dễ thương tổn. Báo cáo cũng đề xuất hỗ trợ tài chính cho các nước này dưới dạng viện trợ không hoàn lại, hoặc cho vay không lãi. Cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu hiện nay đã khiến cho ngành ngân hàng bị tổn thất nặng nề, tình trạng phá sản hàng loạt, nhiều nhà máy bị đóng cửa, làn sóng tịch biên tài sản và những “cơn thủy triều thất nghiệp” tiếp tục làm chao đảo nhiều nước nghèo. Ở nhiều quốc gia có tỷ lệ nghèo đói tăng lên. Tuy nhiên, hậu quả khôn lường khác của nó bắt đầu lộ diện. Đó là những cuộc nội loạn và xung đột sắc tộc gia tăng. Các cuộc biểu tình ở khắp các nước châu Âu, châu Á, châu Phi... có lúc đã biến thành các cuộc bạo động nguy hiểm. Thậm chí nếu cứ tiếp tục đói nghèo hơn, một ngày nào đó chúng sẽ bùng lên thành những ngọn lửa chiến tranh. Hình 1.4.3. WB khoanh vùng các nước rủi ro: Vùng giữa là các nước có khả năng rủi ro về đói nghèo nhất Khung lý thuyết để đánh giá tác động của khủng hoảng kinh tế toàn cầu đến xuất nhập khẩu ở Việt Nam Việt Nam chủ yếu xuất hàng nông sản sang Mỹ và nhập từ Mỹ các loại thiết bị, máy móc nên có thể nói ảnh hưởng lớn nhất đến nền kinh tế Việt Nam khi kinh tế Mỹ bị khủng hoảng là ảnh hưởng về xuất nhập khẩu. Tác động đến xuất khẩu Tác động của cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ là tác động mang tính hai chiều nhưng chủ yếu là tác động tiêu cực tới nền kinh tế toàn cầu cũng như của Việt Nam. Ảnh hưởng lớn nhất đối với Việt Nam trước hết là về xuất khẩu sang các thị trường như Mỹ và châu Âu (chiếm khoảng 40% tổng kim ngạch xuất khẩu). Trong thời kỳ khủng hoảng kinh tế, nhu cầu nhập khẩu của một số nước giảm đáng kể đặc biệt là các thị trường chính của Việt Nam gây ảnh hưởng trực tiếp tới thị trường xuất khẩu của Việt Nam. Nhìn chung tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu giảm dần, do các nguyên nhân chính sau đây: Các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu hầu hết đều giảm hoặc không tăng Do tác động của khủng hoảng kinh tế. Sức mua của một số thị trường chính giảm sút, đặc biệt là thị trường chủ yếu đối với hàng hóa Việt Nam dẫn đến giá trị các hợp đồng xuất khẩu đều giảm. Cũng có thể một số mặt hàng của Việt Nam thuộc loại hàng khiếm dụng, có nghĩa là khi thu nhập giảm xuống thì cầu sẽ gia tăng. Tuy nhiên, có lẽ loại này là không đáng kể. Tác động đến nhập khẩu Sự phá giá của các đồng tiền khu vực kích thích việc nhập khẩu hàng hóa từ các nước bị khủng hoảng vào nước ta, đặc biệt là qua đường nhập khẩu tiểu ngạch và buôn lậu. Tình hình đó gây khó khăn cho sản xuất trong nước nhất là hàng tiêu dùng đã ở mức bão hòa, khó tiêu thụ. Tác động đến cán cân thương mại Như vậy, kinh tế Mỹ nói riêng và kinh tế toàn cầu nói chung rơi vào tình trạng suy thoái, tốc độ tăng trưởng giảm sút. Điều này sẽ dẫn đến hệ lụy là cầu đối với các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam sẽ giảm trong khi cung đối với các mặt hàng nhập khẩu sẽ tăng do các nhà sản xuất bị giảm thị trường ở các nước phát triển sẽ tìm cách mở rộng các thị trường khác. Như vậy, khả năng xuất khẩu bị giảm mạnh là rất cao trong khi nhập khẩu nếu có giảm cũng sẽ giảm ít hơn so với xuất khẩu. Điều này sẽ làm cho thâm hụt ngoại thương của Việt Nam sẽ gia tăng, nhất là trong điều kiện nền kinh tế Việt Nam đã rất mở với tổng kim ngạch xuất nhập khẩu đã vượt quá 160% GDP. Không ai có thể nói trước đến khi nào thì kinh tế thế giới sẽ thoát khỏi tình trạng suy thoái. Điều đó thực sự phụ thuộc vào lỗ lực của mỗi quốc gia với những biện pháp nhằm vực dậy nền kinh tế. Chương 2: Đánh giá ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế toàn cầu đến xuất nhập khẩu của Việt Nam 2.1. Bối cảnh kinh tế Việt Nam trong điều kiện khủng hoảng kinh tế toàn cầu 2.1.1. Giai đoạn 2001 – 2007 Đây là giai đoạn kinh tế Việt Nam đạt nhiều thành tựu to lớn, nền kinh tế đạt tốc độ tăng trưởng khá cao, năm sau cao hơn năm trước. Hình 2.1.2. Tốc độ tăng trưởng kinh tế các năm giai đoạn 2001 – 2007 (%) Nguồn: Niên giám thống kê Thành quả nổi bật của những năm qua là duy trì được tốc độ tăng trưởng GDP bình quân đạt 7,5%/ năm trong 5 năm 2001 – 2005 và 8,17% năm 2006, thế và lực của Việt Nam đã mạnh lên so với các năm trước. Giai đoạn 2001 – 2005 tăng trưởng GDP bình quân 7,5%/năm đạt kế hoạch đặt ra, trong đó ngành nông lâm, thủy sản tăng 3,8%, ngành công nghiệp và xây dựng tăng cao 10,2%, ngành dịch vụ tăng 7,0%. Đến năm 2007, tổng sản phẩm trong nước ước tăng 8,44%, đạt kế hoạch đề ra (8,0 – 8,5%), cao hơn năm 2006 (8,17%) và là mức cao nhất trong vòng 11 năm gần đây. Với tốc độ này, Việt Nam đứng vị trí thứ 3 về tốc độ tăng GDP năm 2007 của các nước châu Á sau Trung Quốc (11,3%) và Ấn Độ (khoảng 9%) và cao nhất trong các nước ASEAN (6,1%). Tốc độ tăng trưởng GDP cả 3 khu vực kinh tế chủ yếu đều đạt mức khá: Khu vực nông – lâm nghiệp và thủy sản ước tăng 3,0%/ so với mức 3,32% cùng kỳ 2006, khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 10,33% (riêng công nghiệp tăng 10,32%)/ so với mức 10,4% và 10,32% cùng kỳ và khu vực dịch vụ tăng 8,5%/ so với mức 8,29% của năm 2006. Cơ cấu sản xuất và chất lượng sản phẩm có bước chuyển biến tích cực theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tỷ lệ công nghiệp chế tác, công nghiệp cơ khí chế tạo và tỷ lệ nội địa hóa sản phẩm công nghiệp tăng, nhiều sản phẩm cạnh tranh được trên thị trường. Ngành nông nghiệp và thủy sản vượt qua nhiều khó khăn, duy trì được mức tăng trưởng khá và vượt mức kế hoạch. Năm 2007, GDP khu vực nông – lâm nghiệp – thủy sản giảm còn dưới 20,0%/ so với 20,81% năm 2006, khu vực công nghiệp và xây dựng tăng dần và chiếm trên 41,7% so với 41.56% và khu vực dịch vụ tăng nhẹ, chiếm 38,30% so với 38,08% trong 2 năm tương ứng. Trong điều kiện có khó khăn nhiều mặt, nhất là dịch vụ vận tải, du lịch, thương mại, tài chính ngân hàng trong bối cảnh hội nhập WTO, tỷ trọng khu vực dịch vụ tăng cao và tốc độ tăng khá ổn định. Năm 2007 cũng là năm đầu tiên Việt Nam trở thành thành viên chính thức của WTO và thực hiện cam kết PNTR với Hoa Kỳ, do đó, thị trường xuất khẩu mở rộng, các rào cản thương mại Việt Nam với các nước thành viên WTO được dỡ bỏ hoặc hạn chế. Vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao qua Hội nghị cấp cao APEC năm 2006. 2.1.2. Năm 2008 và đầu năm 2009 Năm 2008, tình hình kinh tế rơi vào trạng thái tồi tệ do ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế toàn cầu, đặc biệt vào những tháng cuối năm, khi nền kinh tế của Việt Nam chính thức ngấm đòn khủng hoảng. Tốc độ tăng trưởng kinh tế chỉ ở mức 6,23%, trong đó khu vực nông, lâm nghiệp và thuỷ sản tăng 3,79%; khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 6,33%; khu vực dịch vụ tăng 7,2%. Trong 6,23% tăng trưởng chung của nền kinh tế, khu vực nông, lâm nghiệp và thuỷ sản đóng góp 0,68 điểm phần trăm; công nghiệp, xây dựng đóng góp 2,65 điểm phần trăm và dịch vụ đóng góp 2,9 điểm phần trăm. Xét theo ngành kinh tế, mức tăng của khu vực nông, lâm nghiệp và thuỷ sản năm 2008 cao hơn mức tăng năm 2007 và 2006, chủ yếu do sản xuất nông nghiệp được mùa, sản lượng lúa cả năm tăng 2,7 triệu tấn so với năm 2007 và là mức tăng cao nhất trong vòng 11 năm trở lại đây. Tăng trưởng khu vực công nghiệp và xây dựng năm nay đạt mức thấp hơn mức tăng của năm 2007, chủ yếu do sản xuất của ngành công nghiệp khai thác giảm nhiều so với năm trước (giá trị tăng thêm giảm 3,8%); công nghiệp chế biến chiếm tỷ trọng 63,5% trong tổng giá trị tăng thêm công nghiệp nhưng giá trị tăng thêm chỉ tăng 10%, thấp hơn mức tăng 12,8% của năm 2007; đặc biệt giá trị tăng thêm của ngành xây dựng năm nay không tăng, trong khi năm 2007 ngành này tăng ở mức 12%. Hoạt động của khu vực dịch vụ tuy ổn định hơn so với khu vực công nghiệp và xây dựng nhưng giá trị tăng thêm vẫn tăng thấp hơn mức tăng 8,7% của năm trước. Giá tiêu dùng năm 2008 nhìn chung tăng khá cao và diễn biến phức tạp, khác thường so với xu hướng giá tiêu dùng các năm trước. Giá tăng cao ngay từ quý I và liên tục tăng lên trong quý II, quý III, nhưng các tháng quý IV liên tục giảm (so với tháng trước, tháng 10 giảm 0,19%; tháng 11 giảm 0,76%, tháng 12 giảm 0,68%) nên giá tiêu dùng tháng 12 năm 2008 so với tháng 12 năm 2007 tăng 19,89% và chỉ số giá tiêu dùng bình quân năm tăng 22,97%. Bước vào năm 2009, kinh tế-xã hội nước ta tiếp tục chịu ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế toàn cầu, nhiều nền kinh tế lớn suy thoái. Trong khi chưa khắc phục hết những khó khăn của năm 2008 và những năm trước đó để lại thì nước ta lại phải đương đầu với những thách thức mới. Tổng sản phẩm trong nước (GDP) quý I/2009 tăng 3,1% so với cùng kỳ năm 2008, bao gồm khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 0,4%; khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 1,5%; khu vực dịch vụ tăng 5,4%. Trong tốc độ tăng trưởng chung của toàn nền kinh tế, khu vực nông, lâm nghiệp và thuỷ sản đóng góp 0,1 điểm phần trăm; khu vực công nghiệp và xây dựng đóng góp 0,7 điểm phần trăm; khu vực dịch vụ đóng góp 2,3 điểm phần trăm. Tốc độ tăng tổng sản phẩm trong nước quý I năm nay tuy thấp hơn nhiều so với mức tăng cùng kỳ của một số năm gần đây, nhưng trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế toàn cầu, hầu hết các nền kinh tế trên thế giới bị suy giảm mạnh mà nền kinh tế nước ta đạt được tốc độ tăng như trên là một kết quả đáng khích lệ và cần quan tâm, rút kinh nghiệm để làm tốt hơn nữa trong những tháng tiếp theo. Bảng 2.1.3. Một số chỉ tiêu chủ yếu quý I năm 2009 (tăng/giảm) so với cùng kỳ năm trước (%) Tổng sản phẩm trong nước +3,1 Giá trị sản xuất công nghiệp +2,1 Tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ tiêu dùng +21,9 Tổng kim ngạch xuất khẩu +2,4 Tổng kim ngạch nhập khẩu -45,0 Vốn đầu tư XDCB thuộc nguồn vốn ngân sách Nhà nước thực hiện (so với kế hoạch 2009) 17,8 Chỉ số giá tiêu dùng 3 tháng đầu năm 2009 so với 3 tháng đầu năm 2008 +14,47 Nguồn: Tổng cục Thống kê Nhận định về kinh tế Việt Nam trong năm 2009, ông Shogo Ishii, Phó giám đốc Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) tại Việt Nam cho rằng, nền kinh tế có thể tăng trưởng thấp hơn mục tiêu 6,5%, nhưng lạm phát sẽ hạ nhiệt nhanh chóng. IMF dự báo, trong năm 2009, Việt Nam có thể tăng trưởng khoảng 5%. Tỷ lệ lạm phát sẽ lùi về dưới 10% vào cuối năm 2009, phần nhiều nhờ giá cả hàng hóa giảm. Tình hình kinh tế Việt Nam năm 2009 chắc chắn còn nhiều biến đổi và chúng ta cũng chờ đợi sẽ có những điểm sáng kinh tế trong thời gian gần đây. 2.2. Những hệ lụy của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu đối với Việt Nam Không thể đứng ngoài cuộc, những tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu đối với nền kinh tế Việt Nam là không thể tránh khỏi. Kinh tế - xã hội của Việt Nam đã và đang chịu tác động xấu của khủng hoảng kinh tế toàn cầu: Tác động đến kinh tế Kinh tế Việt Nam năm 2008 có nhiều biến động mạnh, những thay đổi, tăng giảm của hàng hóa dịch vụ trong nước và của hàng hóa xuất nhập khẩu. Tốc độ tăng trưởng kinh tế Việt Nam giảm mạnh, chỉ còn 6,23% năm 2008 và đảo chiều từ lạm phát sang giảm phát. Nếu như đầu năm 2008, Việt Nam phải đối mặt với tình trạng lạm phát cao, trung bình 6 tháng đầu năm là 2,86%/tháng – gấp hơn 3 lần so với cùng kỳ năm 2007, thì đến những tháng cuối năm 2008, tình hình hoàn toàn đảo ngược. Tính trung bình 6 tháng cuối năm, CPI chỉ tăng 0,21%/tháng, chỉ bằng khoảng 1/13 tốc độ tăng bình quân trong 6 tháng đầu năm; đặc biệt là những tháng 10, 11, 12 chỉ số CPI là âm (Biểu 2.1.1). Tháng 1/2009, lạm phát ở mức 0.32% và tháng 2/2008 là 1.17% là do những tháng đó đúng vào dịp tết âm lịch, nhu cầu mua hàng của người dân tăng đẩy giá hàng hóa tăng lên, nhưng không nhiều. Tháng 3/2009, lạm phát trở lại là âm 0.17%. Tính cả quý I/2009 lạm phát so với quý I/2008 là 14,47%. Tình trạng thắt chặt tiêu dùng trong nước cũng khiến sức mua của thị trường nội địa giảm. Bên cạnh đó, trường bất động sản gần như đóng băng, các giao dịch nhà đất không được hoàn thành do thiếu vốn. Thị trường chứng khoán cũng giảm mạnh. Biểu 2.1.1. Chỉ số lạm phát các tháng trong năm 2008 và những tháng đầu năm 2009 Nguồn: Tổng cục Thống kê Nguyên nhân dẫn đến hiện tượng này là: Một mặt, với ý nghĩa tích cực là giảm lạm phát của Chính phủ trước đó, 8 nhóm giải pháp kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô của Chính phủ đã phát huy tác dụng. Mặt khác, do ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính toàn cầu, giá của nhiều loại hàng hóa, dịch vụ trên thế giới giảm mạnh. Việt Nam là nước nhập khẩu lớn và phụ thuộc chặt chẽ vào giá cả thị trường thế giới. Những biến động giá cả thế giới ảnh hưởng rất lớn đến giá cả trong nước, do đó ảnh hưởng trực tiếp đến nền kinh tế nước ta. Trong thời điểm hiện nay, khó có thể đánh giá hết quy mô tác động của giảm phát đến kinh tế Việt Nam và xu hướng phát triển của nó đến đâu; có thể đây chỉ là một bước thụt lùi trong bối cảnh kinh tế thế giới đang suy thoái, nhưng nguy cơ lạm phát quay trở lại nếu không áp dụng các biện pháp triệt để. Khủng hoảng kinh tế toàn cầu còn biểu hiện những ảnh hưởng không nhỏ khác của nó đến nền kinh tế Việt Nam như: Chịu tác động của khủng hoảng, các doanh nghiệp sản xuất hàng hóa dịch vụ trong nước, đặc biệt là các doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu chịu ảnh hưởng lớn nhất. Nhiều doanh nghiệp thua lỗ, sản xuất kinh doanh trì trệ, các đơn hàng bị hủy bỏ hoặc trì hoãn, dẫn đến thâm hụt thương mại lớn và có thể còn gia tăng. Đầu tư và các dòng vốn từ bên ngoài vào giảm biểu hiện là tốc độ thu hút đầu tư của nước ta, cả vốn đầu tư trực tiếp và gián tiếp đều giảm. Trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế vẫn đang tiếp diễn và trong năm 2009, tốc độ tăng trưởng của những nền kinh tế lớn, các đối tác đầu tư như Mỹ, EU, Nhật sẽ tiếp tục suy thoái dẫn đến khả năng đầu tư giảm sút. Mặt khác, sự cạnh tranh giữa các quốc gia nhằm thu hút đầu tư trực tiếp ngày càng mạnh mẽ; các nhà đầu tư sẽ lựa chọn những môi trường đầu tư có hiệu quả sử dụng vốn tốt nhất. Trong khi, năm 2008 độ tín nhiệm tín dụng của Việt Nam giảm xuống mức bất ổn, chỉ số giá tiêu dùng tăng cao so với năm 2007. Một nguyên nhân nữa là, kể từ năm 2009, Việt Nam sẽ thực hiện nhiều cam kết quốc tế đặc biệt là các cam kết khi gia nhập WTO, theo đó những chính sách cũng thay đổi trong khi những hướng dẫn cụ thể cho nhà đầu tư thường chậm được thực hiện, khiến cơ hội nhà đầu tư đồng hành cùng doanh nghiệp giảm xuống. Như vậy, khủng hoảng tài chính tiền tệ thế giới đã , đang và sẽ tiếp tục ảnh hưởng đến tình hình huy động và giải ngân vốn đầu tư nước ngoài ở Việt Nam. Sức cầu giảm cả trong tiêu dùng và trong sản xuất. Trong n._.anh toán sau. Điều này cho thấy đối tác đang khó khăn và điều này cũng gây khó khăn hơn cho doanh nghiệp nhất là trong tình hình tín dụng trong nước khó khăn như hiện nay. Bên cạnh đó, tỷ giá EURO/USD biến động như hiện nay sẽ là bất lợi cho xuất khẩu Việt Nam. Các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam phần lớn là gia công. Nếu xuất khẩu sang EU, các doanh nghiệp  thường nhập khẩu bằng USD, trả các chi phí khác bằng VND và bán vào thị trường sử dụng EURO. Hiện đồng USD đang tăng giá so với EURO, sức ép giảm giá EURO càng lớn. Như vậy, chi phí sản xuất của doanh nghiệp sẽ tăng trong khi doanh thu thì khó tăng. Giao dịch ngoại tệ của Việt Nam hiện nay chủ yếu là đồng USD (chiếm tới 80%), 20% còn lại rơi vào các loại ngoại tệ khác như Euro, JPY, bảng Anh (GBP)… Riêng với một số ngoại tệ khi giao dịch sẽ được chuyển đổi qua USD (chẳng hạn như đồng JPY). Do vậy, các doanh nghiệp Việt Nam cần phải để ý và theo dõi chặt hơn nữa diễn biến các cặp tiền khác như Euro, và đồng Yên Nhật (JPY) … để tránh những thiệt hại đáng tiếc có thể xảy ra. Mặt khác, từ tháng 1/2009, Việt Nam thực hiện cam kết khi gia nhập WTO, mở cửa thị trường dịch vụ dẫn đến tình hình trong nước sẽ khó khăn hơn do hàng hóa nước ngoài vào Việt Nam với mức giá thấp hơn vì không phải áp mức thuế thấp nữa. Đồng thời, các nước sử dụng hàng rào kỹ thuật, thương mại để hạn chế nhập khẩu, bảo vệ sản xuất trong nước, chống thâm hụt thương mại. Thách thức nhiều nhưng cũng không thể không nói đến cơ hội cho các doanh nghiệp đặc biệt là các doanh nghiệp nhạy bén, sáng tạo. Định hướng và mục tiêu xuất nhập khẩu của Việt Nam đến năm 2020 Định hướng Về xuất khẩu: Phát triển xuất khẩu với tốc độ tăng trưởng cao và bền vững, làm động lực thúc đẩy tăng trưởng GDP. Đẩy mạnh sản xuất các mặt hàng và sản phẩm dịch vụ có lợi thế cạnh tranh, đồng thời tích cực phát triển các mặt hàng khác có tiềm năng thành những mặt hàng xuất khẩu chủ lực mới, theo hướng nâng cao hiệu quả sản xuất. Nhập khẩu: Tuy những tháng đầu năm 2009 nước ta có hiện tượng xuất siêu nhưng kiềm chế nhập siêu vẫn là định hướng lâu dài, phấn đấu tiến tới cân bằng hợp lý cán cân xuất - nhập khẩu. Ưu tiên nhập khẩu vật tư, thiết bị và công nghệ tiên tiến; giữ thế chủ động trong nhập khẩu, tập trung vào nhập thiết bị hiện đại từ các nước có công nghệ nguồn; giảm nhanh và tiến tới hạn chế nhập thiết bị công nghệ lạc hậu hoặc công nghệ trung gian; hạn chế nhập khẩu hàng hóa vật tư thiết bị cũng như hàng hóa tiêu dùng trong nước có thể sản xuất và đáp ứng được. Mục tiêu Đến năm 2020, tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa đạt khoảng 353,76 tỷ USD và tốc độ tăng trung bình là 16,5%/năm Tốc độ tăng nhập khẩu đạt khoảng 15,2%/năm, tổng kim ngạch nhập khẩu hàng hóa khoảng 381,73 tỷ USD Cán cân thương mại quốc tế: nhập siêu khoảng 27,97 tỷ USD Đối với xuất khẩu: Cụ thể, xuất khẩu tập trung phát triển các nhóm mặt hàng sau: Nhóm nguyên, nhiên liệu: Nhóm hàng này tiến tới hạn chế xuất khẩu để sử dụng cho sản xuất trong nước. Trong đó, lượng xuất khẩu dầu thô sẽ giảm dần, năm 2020 đạt khoảng 7 triệu tấn, than đá khoảng 0,5 triệu tấn. Nhóm hàng nông, lâm nghiệp và thủy sản (thủy sản, gạo, cà phê, cao su…): tập trung đẩy mạnh phát triển những sản phẩm có lợi thế thu được năng suất cao; đảm bảo chất lượng quốc tế và giá trị gia tăng cao. Nhóm hàng này tỷ trọng có xu hướng giảm dần, xuống còn khoảng 12,5% năm 2020. Gạo là mặt hàng khó có khả năng cạnh tranh, cần nâng cao chất lượng và hàm lượng chế biến của gạo; tập trung phát triển các loại gạo được thị trường nhiều nước trên thế giới ưa chuộng. Cà phê: Cần trú trọng nâng cao chất lượng và hàm lượng chế biến của cà phê xuất khẩu. Đồng thời, cần nhanh nhạy nắm bắt và áp dụng các phương thức kinh doanh trên thế giới. Chè: Đẩy mạnh chế biến xuất khẩu nhiều hơn các sản phẩm chè, phát triển chè sạch và nâng cao chất lượng chè xuất khẩu. Điều và tiêu: Duy trì sản xuất để xuất khẩu Cao su: Tăng tỷ lệ đầu tư cho sản xuất trong nước từ sản phẩm mủ thu hoạch được, hạn chế xuất khẩu mủ cao su Thủy sản: Tăng cường hàm lượng chế biến trong sản phẩm để nâng cao giá trị gia tăng. Nhóm sản phẩm chế biến và chế tạo: Năm 2020 sẽ có tỷ trọng chiếm khoảng 52% tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam. Ngoài hai mặt hàng chính là dệt may và giầy dép, cần tăng cường phát triển các mặt hàng mới như đóng tàu, cơ khí, điện; các sản phẩm tiềm năng như: sản phẩm nhựa, đồ gỗ, thủ công mỹ nghệ… Hàng dệt may: Nâng cao sức cạnh tranh bằng việc thực hiện đồng bộ các biện pháp như: từ hạ giá thành, đa dạng kiểu dáng, mẫu mã cho tới thực hiện hợp tác trong ngành và xây dựng thương hiệu sản phẩm. Giầy dép: Tự thiết kế kiểu dáng, sản xuất dựa vào nguyên liệu trong nước và tập trung sản xuất nhóm hàng cao cấp phục vụ thị trường lớn như Mỹ, EU, Nhật... Sản phẩm gỗ: là nhóm hàng cần được khuyến khích đẩy mạnh xuất khẩu trong nhiều năm tới. Cần chú trọng phát triển ổn định nguồn nguyên liệu phục vụ sản xuất; liên kết các doanh nghiệp trong ngành nhằm tăng cường quy mô và chất lượng sản phẩm, đa dạng kiểu dáng, mẫu mã. Kết hợp gỗ với các nguyên liệu khác như kim loại, mây tre, sứ … để đa dạng sản phẩm. Điện tử, tin học và các sản phẩm phần mềm: Tập trung phát triển các sản phẩm phần mềm. Đối với nhập khẩu: Nhóm hàng máy móc, thiết bị và phụ tùng (ô tô, linh kiện ô tô, xe máy, các loại máy móc thiết bị phụ tùng phục vụ sản xuất): Ưu tiên nhập khẩu ở các nước phát triển, có nền công nghiệp chế tạo tiên tiến. Tuy nhiên cần chú trọng nhập các dây chuyền công nghệ phù hợp với trình độ của Việt Nam cũng như thỏa mãn điều kiện về giá cả. Nhóm hàng nguyên, nhiên, vật liệu (xăng dầu, phân Ure, thép thành phẩm, phôi thép; các mặt hàng phục vụ sản xuất như bông, vải, sợi, chất dẻo, tân dược, hóa chất…): Giảm dần nhập khẩu do khả năng tự sản xuất trong nước tăng. Nhóm hàng tiêu dùng, dự kiến tăng khoảng 16,3%/năm. Một số giải pháp giảm tác động tiêu cực của khủng hoảng kinh tế toàn cầu đến hoạt động xuất nhập khẩu Xuất nhập khẩu là hoạt động liên quan đến nhiều lĩnh vực, nhiều cấp, nhiều ngành nghề khác nhau của nền kinh tế nên cần thực hiện các giải pháp một cách đồng bộ. Dưới đây tôi xin trình bày theo 2 nhóm: đối với chính phủ và đối với doanh nghiệp xuất nhập khẩu Đối với Chính phủ Chính sách thuế Hiện tại, Việt Nam đã thực hiện các chương trình cắt giảm thuế theo yêu cầu của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), thực hiện tự do hóa thương mại và đầu tư vào APEC đến năm 2020. Ngay sau khi chính thức gia nhập WTO, nước ta đã chủ động cắt giảm các dòng thuế theo đúng cam kết. Thực tế cho thấy, việc cắt giảm thuế khiến sức cạnh tranh của hàng nội và hàng ngoại càng có sự cạnh tranh gay gắt, sức cạnh tranh về giá cả của hàng ngoại nhập tăng. Cùng với việc “mở cửa” rộng hơn và tâm lý sùng bái hàng ngoại sẵn có trong một bộ phận người tiêu dùng cấu thành trực tiếp làm tăng lượng hàng nhập khẩu vào nước ta trong thời gian gần đây. Ngoài ra, việc dòng vốn FDI đổ vào Việt Nam tăng cả về vốn cam kết và mức độ thực hiện, cũng làm kích thích nhu cầu nhập thiết bị cho việc triển khai và hoạt động của các dự án và giá cả hàng nguyên liệu và hàng hóa tăng cao trong thời gian gần đây. Về lâu dài, cần có phương án cụ thể để thuế hóa các hàng rào phi thuế quan nhằm đáp ứng một nguyên tắc hàng đầu của WTO là chỉ bảo hộ bằng thuế quan, mọi hàng rào phi thuế quan phải được loại bỏ. Việc thuế hóa cần được  tiến hành theo tiến độ và phương án cân nhắc cụ thể, sẽ tránh cho nền kinh tế gặp phải những biến động đột ngột khi phải loại bỏ ngay hàng rào phi thuế quan và thay bằng hàng rào thuế quan, nhất là trong trường hợp chưa có giải pháp hữu hiệu khác để bảo vệ hợp lý nền sản xuất nội địa và ngăn chặn gian lận thương mại. Ở nhiều nước, nhiều hàng rào phi thuế và các biện pháp bảo hộ được dựng lên, như Đạo luật Nông nghiệp 2008 của Mỹ (Farm Bill 2008), yêu cầu chứng nhận quy trình sản xuất chế biến cá tra, ba sa… từ các nước xuất khẩu; Đạo luật Lacey tại Mỹ cũng bắt đầu có hiệu lực vào cuối năm nay, đã thắt chặt hơn việc kiểm soát nguồn gốc sản phẩm gỗ... Trong thời gian qua, chính phủ ta đã thực hiện được một số nội dung như: Thông tư số 04/2009/TT-BTC ngày 13/01/2009, doanh nghiệp xuất khẩu sẽ được hoàn 90% số thuế giá trị gia tăng trong 7 ngày và hoàn 10% còn lại trong 4 ngày khi doanh nghiệp nộp bổ sung chứng từ thanh toán qua ngân hàng. Bộ Tài chính hướng dẫn thực hiện theo hướng hoàn 90% số thuế đầu vào cho doanh nghiệp xuất khẩu trong vòng 7 ngày kể từ ngày nhận đủ hồ sơ và hoàn 10% số thuế đầu vào còn lại trong vòng 4 ngày khi doanh nghiệp nộp bổ sung chứng từ thanh toán qua ngân hàng. Ngoài ra, quy định mới đã rút ngắn 1/2 thời gian hoàn thuế cho DN nói chung so với quy định trước đây. Đối với doanh nghiệp được hoàn thuế trước - kiểm tra sau sẽ được thực hiện trong 8 ngày kể từ khi nhận đủ hồ sơ (trước đây là 16 ngày); trường hợp doanh nghiệp kiểm tra trước - hoàn sau thực hiện trong 30 ngày kể từ ngày nhận đủ hồ sơ (trước đây là 60 ngày). Theo Thông tư số 05/2009/TT-BTC ngày 13/01/2009, Bộ tài chính hướng dẫn theo hướng giãn thời hạn nộp thuế nhập khẩu đối với vật tư, nguyên liệu nhập khẩu để sản xuất hàng xuất khẩu của một số ngành như đóng tàu, cơ khí, chế biến nông, lâm, thuỷ sản…; đơn giản hoá thủ tục và rút ngắn thời gian hoàn thuế đối với nguyên liệu nhập khẩu để sản xuất hàng xuất khẩu, kể cả khi doanh nghiệp chưa có chứng từ thanh toán qua ngân hàng; giao doanh nghiệp tự đăng ký và chịu trách nhiệm về định mức sử dụng nguyên liệu, vật tư sản xuất hàng xuất khẩu gồm cả phần phế liệu, phế phẩm nằm trong định mức không phải nộp thuế nhập khẩu. Để có thể đưa ra chính sách thuế linh hoạt nhằm giúp đỡ các doanh nghiệp và người lao động vượt qua thời kỳ khủng hoảng, vừa qua Vụ Chính sách thuế đã tổng hợp tình hình và các ý kiến đề xuất của các đơn vị báo cáo Bộ trình Thủ tướng Chính phủ và Ủy ban Thường vụ Quốc hội hạ mức sàn khung thuế suất thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu đối với nhóm hàng than củi, da sống, các mặt hàng cá xuống còn 0-25%, 0-26% và 0-27%. Các nỗ lực là không nhỏ, tuy nhiên không thể không có những điểm cần phải tích cực hơn nữa. Cụ thể, theo tôi nên thực hiện một số nội dung cụ thể như sau: Điều chỉnh thuế suất thuế xuất khẩu đối với một số loại tài nguyên, khoáng sản theo hướng hạn chế xuất khẩu, bảo đảm nguồn nguyên liệu cho sản xuất trong nước; giảm thuế suất thuế nhập khẩu đối với một số nhóm hàng là nguyên liệu đầu vào của sản xuất, trong nước chưa sản xuất được hoặc có sản xuất nhưng không đáp ứng đủ nhu cầu để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp giảm chi phí. Giãn thời gian ân hạn nộp thuế đối với một số ngành hàng phù hợp với chu kỳ sản xuất và tiêu thụ sản phẩm (đóng tàu, sản xuất cơ khí....). Thực hiện tốt chính sách về ân hạn thời hạn nộp thuế nhập khẩu (275 ngày) đối với vật tư, nguyên liệu nhập khẩu để sản xuất hàng xuất khẩu. Cải cách thủ tục xuất nhập khẩu, rút ngắn thời gian thông quan hàng hoá, đơn giản hoá thủ tục hoàn thuế, quyết toán thuế đối với nguyên liệu nhập khẩu để sản xuất, gia công hàng xuất khẩu. Ngoài ra, việc thay đổi thói quen xuất khẩu hàng hóa giá FOB và nhập khẩu hàng hóa giá CIF bằng xuất khẩu giá CIF và nhập khẩu giá FOB tạo điều kiện cho các doanh nghiệp Việt Nam thu được tiền bảo hiểm và cước tàu, xuất khẩu theo giá CIF cũng khuyến khích doanh nghiệp bảo hiểm và vận tải Việt Nam phát triển mạnh hơn. Việc xuất khẩu theo điều kiện CIF và nhập khẩu theo điều kiện FOB không còn quá mới mẻ với các doanh nghiệp Việt Nam. Tuy nhiên, do thói quen và do thiếu thông tin nên các doanh nghiệp chưa lưu ý đúng mức về vấn đề này. Vấn đề thay đổi thói quen là khó nhưng không phải không thực hiện được mà cần có sự quyết tâm của cộng đồng doanh nghiệp cũng như công tác tuyên truyền, vận động, áp dụng những biện pháp khuyến khích của chính phủ. Quy định rõ và phù hợp tỷ lệ phế liệu, phế phẩm thu được trong quá trình nhập khẩu nguyên liệu để sản xuất hàng xuất khẩu không phải chịu thuế nhập khẩu. Chính sách tài chính, tiền tệ Trong thời gian qua, để khôi phục lại thị trường xuất nhập khẩu, chính phủ đã đưa ra nhiều chính sách hỗ trợ các doanh nghiệp đặc biệt là các doanh nghiệp hoạt động xuất nhập khẩu. nổi bật trong thời gian qua là gói kích cầu của Chính phủ đã rất được lòng doanh nghiệp. QĐ 131/2009/QĐ – TTg về lãi suất cho vay ưu đãi đối với các doanh nghiệp; theo quyết định này các ngân hàng triển khai cho vay hỗ trợ 4% lãi suất làm cho mức lãi suất trung bình từ 10,5%/năm giảm xuống còn chưa đầy 6,5%/năm. Đối với các doanh nghiệp xuất khẩu mức lãi xuất cho vay khi trừ ưu đãi còn 1,5% đến 2%/năm. Tuy nhiên chính sách này chỉ được áp dụng cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ, vốn điều lệ nhỏ hơn 10 tỷ đồng hoặc sử dụng dưới 300 lao động, những doanh nghiệp có quy mô lớn hơn không được ưu đãi 4%. Khi một số doanh nghiệp kêu khó tiếp cận được vốn vay ngân hàng mà nguyên nhân chính là điều kiện về tài sản thế chấp thì QĐ 14/2009/QĐ – TTg đưa ra quy chế bảo lãnh vốn vay mở rộng thêm đối tượng doanh nghiệp. theo trên, các doanh nghiệp chỉ cần có dự án kinh doanh và tại thời điểm hiện tại không có nợ quá hạn là được xem xét bảo lãnh cho vay vốn – không cần tài sản thế chấp. Ngân hàng phát triển Việt Nam thực hiện bảo lãnh cho các doanh nghiệp có vốn tối đa 20 tỷ đồng và sử dụng tối đa 200 lao động (trên điều kiện doanh nghiệp vừa và nhỏ) với mức bảo lãnh tối đa bằng 100% số nợ gốc và lãi phát sinh. Các doanh nghiệp chế biến gỗ phải nhập khẩu đến 80% nguyên liệu, trong khi hiện nay giá nguyên liệu gỗ trên thế giới đang ở mức thấp, giá vận chuyển hạ. Đây là cơ hội để các doanh nghiệp chế biến như mua nguyên liệu dự trữ. Tuy nhiên các doanh nghiệp lại rất lo ngại dự trữ vì chính sách vốn ưu đãi chỉ có hiệu lực trong 8 tháng trong khi các hợp đồng ký kết với nước ngoài thường kéo dài cả năm. Về lâu dài cần có các biện pháp cụ thể để tăng cường khả năng tiếp cận nguồn vốn tín dụng cho các doanh nghiệp; tiếp tục xem xét điều chỉnh giảm dự trữ bắt buộc của các tổ chức tín dụng; điều chỉnh giảm lãi suất cơ bản phù hợp để hỗ trợ doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh. Nghiên cứu, hướng dẫn các tổ chức tín dụng thực hiện việc cho vay theo lãi suất thoả thuận; điều chỉnh linh hoạt tỷ giá ngoại tệ theo tín hiệu thị trường… Nên xem xét điều chỉnh áp dụng lãi suất cho vay của các hợp đồng tín dụng xuống phù hợp theo mức lãi suất hiện hành; không phạt do quá hạn đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa gặp khó khăn; thực hiện nhiệm vụ bảo lãnh tín dụng cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa, hỗ trợ các doanh nghiệp tiếp cận nguồn vốn vay để phát triển sản xuất, kinh doanh. Về các giải pháp trung và dài hạn, cần xây dựng các trung tâm cung ứng nguyên - phụ liệu; thực hiện chương trình hiện đại hoá và cải cách thủ tục hải quan; hoàn thiện hệ thống chính sách tài chính, tín dụng phục vụ xuất khẩu; nâng cao hiệu quả và tăng cường công tác xúc tiến thương mại; hỗ trợ đào tạo phát triển nguồn nhân lực cho một số ngành sản xuất xuất khẩu; và nâng cao vai trò của các hiệp hội ngành hàng… Trong tình hình hiện nay, có một rào cản lớn đối với hàng xuất khẩu của Việt Nam là vấn đề tỷ giá. Nếu đồng bạc được đánh giá cao thì xuất khẩu sẽ gặp bất lợi, khi giá hàng xuất khẩu tính theo USD bị đẩy lên cao hơn. Để cạnh tranh, một là phải đẩy giá lên để bù lại khoản thiệt, hai là giảm giá đi và cũng giảm luôn cả lợi nhuận. Mà trong khủng hoảng thì với các nước kém phát triển, cạnh tranh trước hết là phải bằng giá. Bởi thương hiệu, chất lượng, mẫu mã, hệ thống phân phối… là những thế mạnh mà những nước kém phát triển chưa có, nếu có mạnh cũng chỉ là thứ yếu trong thời điểm này. Hơn nữa, một đồng bạc giá thấp hơn chính là hàng rào tốt nhất trước cuộc xâm nhập của hàng ngoại, để nâng sức cạnh tranh của hàng nội tại chính thị trường trong nước, thay thế hàng rào thuế quan, hàng rào kỹ thuật. Hình 3.3.1.2. Tỷ giá USD/VND những tháng vừa qua Nguồn: Ngân hàng nhà nước Việt Nam Trong quý 1, mặc dù xuất khẩu của Việt Nam tăng nhẹ so với cùng kỳ năm trước, tuy nhiên, điều này có sự đóng góp lớn của việc tái xuất vàng (đóng góp khoảng hơn 2 tỷ USD trong quý 1), trong khi đáng lo ngại là các mặt hàng chủ lực đều giảm trung bình từ 15-20%. Sự hỗ trợ xuất khẩu bằng tỷ giá sẽ có tính chất chiến lược và đón đầu với những khó khăn của xuất khẩu trong các tháng còn lại của năm 2009. Quyết định nới biên độ tỷ giá từ +/-3% lên +/-5% được Ngân hàng Nhà nước đưa ra ngày 23/3 đã nhận được nhiều phản ứng. Đối với các doanh nghiệp xuất khẩu, việc nới biên độ tỷ giá trong lúc xu thế tỷ giá tăng sẽ tạo ra sự kích thích tốt hơn, nhất là khi đồng USD Chính phủ đã chỉ đạo Ngân hàng Nhà nước “điều chỉnh linh hoạt tỷ giá ngoại tệ theo tín hiệu thị trường, khuyến khích xuất khẩu, kiểm soát nhập khẩu, ổn định kinh tế vĩ mô, phấn đấu điều hành cán cân thanh toán quốc tế theo hướng không để thâm hụt”. Trong thời gian tới cần kiên trì mục tiêu điều hành tỷ giá linh hoạt trong ngắn hạn, tương đối ổn định trong dài hạn là rất quan trọng trong việc kiềm chế lạm phát và khôi phục ổn định kinh tế vĩ mô. Phối hợp chặt chẽ và đồng bộ giữa các Bộ, ngành đóng vai trò rất quan trọng và quyết định sự thành công của công tác điều hành tỷ giá. Trong năm 2008, NHNN đã phối hợp chặt chẽ và thường xuyên với Bộ Công thương trong việc kiểm soát nhập siêu và với Bộ Tài chính trong việc huy động các nguồn ngoại tệ để tăng dự trữ quốc gia cũng như khả năng can thiệp thị trường. Với tính nhạy cảm của tỷ giá và trong bối cảnh nền kinh tế ngày càng hội nhập kinh tế quốc tế, các luồng chu chuyển vốn gia tăng, công tác điều hành tỷ giá phải gắn với việc bám sát mọi diễn biến của thị trường để có biện pháp kịp thời, phù hợp với diễn biến thị trường. Sự phối hợp chặt chẽ với các NHTM đóng góp đáng kể vào hiệu quả công tác điều hành tỷ giá do các NHTM có ảnh hưởng lớn trên thị trường là kênh truyền tải nhanh, hiệu quả ý đồ can thiệp của NHNN đến thị trường. Công tác tuyên truyền đóng vai trò quan trọng trong việc củng cố lòng tin của người dân, doanh nghiệp, tăng cường hiệu quả điều hành chính sách. Chính sách đổi mới cơ cấu hàng hóa xuất nhập khẩu Đối với mặt hàng xuất khẩu Cần tạo điều kiện phát triển cả mặt hàng truyền thống và các mặt hàng mới có khả năng cạnh tranh trên thị trường Tăng cơ cấu các mặt hàng chế biến là sản phẩm chủ yếu cho xuất khẩu, giảm mạnh và tối đa các mặt hàng nguyên liệu thô và sơ chế Thực hiện đa dạng hóa các sản phẩm, chuyển dịch cơ cấu trong toàn bộ lĩnh vực, trong mỗi ngành và từng loại sản phẩm vừa củng cố, hình thành các mặt hàng chủ lực, vừa đa dạng hóa các mặt hàng Tận dụng thành quả KHCN và những cam kết đổi mới khi gia nhập WTO như thuế suất để phát triển quy mô XK các mặt hàng, đặc biệt hướng tới tạo ra các sản phẩm hoàn toàn mới. Đối với mặt hàng nhập khẩu Các mặt hàng máy móc, thiết bị và công nghệ luôn luôn được khuyến khích nhập khẩu để phục vụ sản xuất Giảm tỷ trọng các mặt hàng tiêu dùng Chính sách đổi mới cơ cấu thị trường xuất nhập khẩu Khâu then chốt của chiến lược phát triển hoạt động xuất nhập khẩu là mở rộng và đa dạng hóa thị trường, đa dạng hóa các quan hệ đối tác nhất là khi chúng ta đã là thành viên chính thức của WTO. Để có thể phát triển tốt thị trường, Chính phủ cần có biện pháp khyến khích phát triển mở rộng thị trường. Thị trường Châu Á: là thị trường rộng lớn với nhu cầu phong phú. Việt Nam chủ yếu quan hệ thương mại với Nhật Bản, Trung Quốc, ASEAN và Đài Loan Thị trường Nhật Bản: Việt Nam nhập các mặt hàng có chứa hàm lượng công nghệ và kỹ thuật cao của Nhật Bản, trong khi Việt Nam tổ chức xuất khẩu sang Nhật Bản các mặt hàng thô, xơ chế. Đây là mối quan hệ 2 chiều, thúc đẩy GDP 2 nước. Để có môi trường thân thiện và hợp tác cao chúng ta cần thực hiện một số biện pháp sau đây: Thứ nhất, hợp tác tổ chức XTTM với Nhật Bản để 2 bên cung cấp thông tin về thị trường cho nhau Thứ hai, cần thúc đẩy quá trình ký kết hiệp định thương mại song phương Việt Nam – Nhật Bản Thị trưởng Trung Quốc: vừa là bạn hàng quan trọng, vừa là đối thủ cạnh tranh lớn. Để phát triển thương mại 2 nước cần quan tâm đến các khía cạnh sau: Khuyến khích các doanh nghiệp đẩy mạnh xuất khẩu vào thị trường này bằng chính ngạch, tiểu ngạch, mậu dịch và phi mậu dịch. Hai quốc gia cần thống nhất xây dựng danh mục hàng hóa xuất nhập khẩu giữa hai bên. Đồng thời đẩy mạnh mối quan hệ hợp tác, hữu nghị lâu đời giữa 2 quốc gia. Thị trường ASEAN: Có sự cạnh tranh về mặt hàng gạo với Thái Lan, Malaysia, Philippin, Indonesia. Với các nước này, cần có thỏa thuận để làm tốt công tác thị trường. Với các nước khác trong khu vực, cần đẩy mạnh xuất khẩu gạo. Ngoài ra phát triển xuất khẩu linh kiện máy tính, thực phẩm chế biến và các sản phẩm, hàng hóa khác. Tổ chức đàm phán, thỏa thuận đối với những mặt hàng trùng lặp để tránh tranh chấp thương mại. Nắm lấy lợi thế, đẩy mạnh xuất khẩu hàng hóa sang Lào và Campuchia. Thị trường EU: Thị trường này được bảo hộ chặt chẽ bởi các hàng rào kỹ thuật nghiêm ngặt như: tiêu chuẩn chất lượng, tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm, tiêu chuẩn bảo vệ môi trường, lao động, xã hội. Đối với một thị trường khó tính và khắt khe với hàng nhập khẩu như thế này, Chính phủ ta cần thực hiện một số biện pháp sau đây: Thứ nhất, hoàn thiện các hệ thống chính sách thương mại giữa Việt Nam với EU Thứ hai, thúc đẩy quan hệ giữa Việt Nam và EU bằng các biện pháp XTTM cho doanh nghiệp hai bên có thể hiểu về thị trường của nhau, hiểu về các luật lệ và tâm lý tiêu dùng Thị trường Hoa Kỳ: Là một đối tác lớn của Việt Nam, có nhiều quy định khắt khe đối với hàng nhập khẩu. Cần chủ động tiếp cận thị trường này. Thị trường Trung Đông và châu Phi: Còn nhiều tiềm năng Hiện nay, Việt Nam đã có chiến lược thâm nhập thị trường này và cần phải đẩy mạnh nghiên cứu thị trường này một cách bài bản, song trước mắt rất cần phải có sự hỗ trợ của nhà nước. Cụ thể, tăng cường tổ chức các đoàn cán bộ cao cấp của Việt Nam sang làm việc tại một số nước châu Phi, có sự tham gia của doanh nghiệp, để tiếp tục ký các thỏa thuận thương mại và hợp đồng xuất khẩu. Các mặt hàng nhiều tiềm năng là gạo, chè, sản phẩm nhựa, may mặc. Với thị trường Trung Đông, ngoài Iraq, cần chú trọng Dubai (Các tiểu vương quốc Ảrập thống nhất) vì đây là cửa ngõ của khu vực Trung Cận Đông và là địa điểm trung chuyển hàng hóa đi Syria, Ảrập Xêut, châu Phi, châu Âu... Dubai có nền kinh tế mở, môi trường kinh doanh tự do, hầu như không có thuế nhập khẩu, các công ty ở đây làm ăn nói chung nghiêm chỉnh, vì vậy doanh nghiệp Việt Nam cần cố gắng thâm nhập được Dubai, làm bàn đạp để vào các nước lân cận. Đối với doanh nghiệp Tăng cường hoạt động xúc tiến thương mại Công tác xúc tiến thương mại (XTTM) ở Việt Nam ngày càng được quan tâm. Mặc dù trong thời gian qua, một số doanh nghiệp đã tổ chức các chuyến đi nghiên cứu thị trường hay tham gia các hội trợ, triển lãm ở nước ngoài; cũng như trong nước luôn tích cực trong các hoạt động quảng bá sản phẩm, các chương trình khuyến mại được áp dụng rộng và trong thời gian dài… nhưng nhìn chung những hoạt động này còn mang tính tự phát và phần nào chưa đạt đươc hiệu quả như mong muốn. Chính phủ cho biết, nguồn kinh phí cho hoạt động XTTM không thiếu, nếu có điều kiện sẽ hỗ trợ trực tiếp doanh nghiệp, hỗ trợ các hợp đồng để thực hiện nhiệm vụ tăng trưởng xuất khẩu đề ra. Các hiệp hội ngành hàng cần gửi về Bộ Công thương những sự kiện XTTM của hiệp hội, ngành hàng đã và đang tổ chức trong năm 2009, nếu các sự kiện đó cần hỗ trợ của nhà nước để đẩy mạnh xuất khẩu. Việc hỗ trợ chi phí cho doanh nghiệp kể cả các doanh nghiệp nước ngoài vào Việt Nam để khảo sát, thương giao, kí kết hợp đồng cũng có thể được xem xét. Tuy nhiên tránh lợi dụng, gây thất thoát, lãng phí. Để đẩy mạnh công tác XTTM, trước hết các doanh nghiệp cần làm tốt khâu thông tin. Mặc dù công nghệ thông tin ngày càng hiện đại, cập nhật nhanh chóng và độ chính xác tương đối cao nhưng cũng không thể tránh khỏi việc thông tin bị sai lệch để dẫn đến những dự báo lệch như đợt xuất khẩu gạo năm 2008 làm thất thu không nhỏ từ xuất khẩu. Hoặc như việc, khi nói đến châu Phi, các doanh nghiệp thường lo sợ về một thị trường đầy rủi ro, bất trắc mà bỏ qua tiềm năng, cơ hội dể hợp tác, mở rộng tại thị trường này… Như vậy, muốn phát triển thương mại thì các doanh nghiệp phải tự nâng cao khả năng thu thập và xử lý thông tin. Tích cực quảng bá thương hiệu sản phẩm về các ngành hàng, sản phẩm xuất khẩu có thế mạnh của Việt Nam thông qua các cơ quan đại diện ngoại giao của Việt Nam ở nước ngoài. Các doanh nghiệp cần chủ động công tác quảng bá sản phẩm và thương hiệu của mình trên thị trường nhiều nước, bằng nhiều hình thức, cho nhiều đối tượng ở các thị trường khác nhau. Các hiệp hội, ngành hàng và doanh nghiệp cần có các chương trình XTTM ở các nước mà lâu nay chưa tham gia hoặc tham gia chưa đúng mức, chưa đủ tầm, nhất là với các chương trình ở các thị trường mới, mặt hàng mới Các doanh nghiệp Việt Nam đều nhận thức được tầm quan trọng của việc tham gia hội chợ và triển lãm quốc tế. Do chưa gắn mục tiêu tham gia với chính sách mặt hàng cùng những hạn chế về mặt kinh phí mà hoạt động quảng bá sản phẩm cũng như tìm kiếm đối tác còn hạn chế. Trong thời gian tới, cần vừa tăng cường hoạt động xúc tiến thương mại, mở rộng thị trường xuất khẩu sang các khu vực ít bị tác động của khủng hoảng tài chính, suy thoái kinh tế, vừa tận dụng lợi thế từ các hiệp định khu vực mậu dịch tự do (FTA) để đẩy mạnh xuất khẩu. Thúc đẩy sớm việc ký kết hiệp định đối tác kinh tế Việt Nam - Nhật Bản, các hiệp định khu vực mậu dịch tự do (FTA) với Úc, New Zealand, Ấn Độ. Đồng thời, xúc tiến chuẩn bị đàm phán FTA với một số đối tác kinh tế quan trọng khác. Về lâu dài, chính phủ cần có chính sách khuyến khích hỗ trợ các tổ chức, cá nhân thành lập các trung tâm thương mại tại các nước. Việc thành lập các trung tâm thương mại sẽ hỗ trợ tích cực cho các doanh nghiệp đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ có điều kiện thâm nhập vào thị trường. Phát triển yếu tố công nghệ Công nghệ là yếu tố quan trọng giúp tăng trưởng kinh tế bởi nó chính là yếu tố không thể thiếu trong công tác nhập khẩu tại một quốc gia đang phát triển như Việt Nam, nhằm tạo điều kiện để xuất khẩu phát triển. Chính sách phát triển công nghệ của Việt Nam cần tập trung vào nhập khẩu công nghệ của các nước tiên tiến cũng như cần đầu tư vào công tác nghiên cứu các sản phẩm công nghệ phù hợp với khả năng phát triển và trình độ của đất nước. Chúng ta nên thực hiện phát triển công nghệ như sau: Đầu tiên, thông qua việc mua công nghệ chuyển giao phục vụ sản xuất trong nước, Việt Nam nhập khẩu nguyên liệu từ các nước phát triển, có công nghệ tiên tiến, hiện đại. Hoặc thông qua các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, thực hiện nhập khẩu các công nghệ đó. Sau đó, bằng việc áp dụng và thực hiện nhuần nhuyễn cộng với sự cải tiến để phù hợp hơn, chúng ta thực hiện biến công nghệ của nước ngoài thành công nghệ của ta và tiến tới sản xuất công nghệ riêng mình. Quá trình đó lặp lại với các công nghệ khác nhau. Các chính sách phát triển công nghệ của Việt Nam luôn tạo điều kiện cho doanh nghiệp, tuy nhiên cần lưu ý những điểm sau: Khi nhập khẩu thiết bị tiên tiến, các công nghệ hiện đại, doanh nghiệp sẽ tiến hành cắt giảm nhân công, tỷ lệ lao động thất nghiệp tăng lên. Vì vậy chính phủ cần tính toán, xem xét nhập khẩu công nghệ vừa phải kết hợp với sử dụng lao động. Khi doanh nghiệp nhập khẩu công nghệ, tức là các doanh nghiệp không có điều kiện nhập khẩu sẽ chịu chấp nhận “hy sinh”. Cần thực hiện các quy định về quyền sở hữu trí tuệ để khuyến khích các nhà khoa học và người dân tham gia công tác nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ đất nước. Phát triển yếu tố nguồn nhân lực Nguồn nhân lực ở đây bao gồm đội ngũ lãnh đạo, quản lý doanh nghiệp, nhân lực hoạch định các chính sách, nguồn nhân lực nghiên cứu và phát triển sản phẩm, thị trường… Trong bối cảnh hiện nay, người lãnh đạo là người dám nghĩ, dám làm, mạnh dạn trong sản xuất các sản phẩm mang tính chất mới lạ, độc đáo cũng như phải có tầm nhìn chiến lược, hướng thị trường đi xa hơn, rộng hơn. Trong từng doanh nghiệp cần phải có ý thức tuyển chọn, đào tạo người lao động, người cán bộ lãnh đạo giỏi về nghiệp vụ và có lòng nhiệt tình trong công việc. Nguồn nhân lực có thể được phát triển từ nguồn học sinh, sinh viên trong các nhà trường bằng việc tạo cơ hội cho họ được tu nghiệp tại nước ngoài, kết hợp với việc tiếp cận thực tế ngay từ khi còn trên ghế nhà trường. KẾT LUẬN Khủng hoảng kinh tế toàn cầu có ảnh hưởng khá lớn đối với kinh tế nói chung và xuất nhập khẩu nói riêng. Đối với Việt Nam là đất nước đang phát triển, kim ngạch xuất nhập khẩu chiếm tỷ trọng lớn và quyết định đến GDP cũng như có ảnh hưởng quan trọng đến tốc độ tăng trưởng kinh tế của quốc gia. Xuất khẩu có bền vững thì quốc gia mới phát triển, tăng trưởng nhanh và ổn định. Thực tế là, trong thời gian qua, bằng sự nỗ lực của mình, Chính phủ đã có những giải pháp tích cực nhằm giảm thiểu tác động của khủng hoảng kinh tế toàn cầu đến nền kinh tế cũng như hoạt động xuất nhập khẩu nói riêng. Chúng ta cũng hy vọng và tin tưởng rằng, trong thời gian ngắn nhất, hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam lại sôi động trở lại, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Do thời gian và trình độ nghiên cứu còn hạn chế, việc thu thập thông tin phục vụ cho bài viết gặp khó khăn, nên chuyên đề của tôi không tránh khỏi những khiếm khuyết. Em rất mong nhận được sự góp ý của thày cô để chuyên đề được hoàn thiện hơn. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO Bùi Xuân Lưu, Nguyễn Hữu Khải, 2007, Giáo trình Kinh tế ngoại thương, Nhà xuất bản Lao động - Xã hội Đỗ Đức Bình, Nguyễn Thường Lạng, 2004, Giáo trình Kinh tế quốc tế, Nhà xuất bản Lao động - Xã hội Tổng cục Thống kê, 2006, Xuất nhập khẩu hàng hóa Việt Nam 20 năm đổi mới (1986 – 2005), Nhà xuất bản Thống kê Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Kế hoạch phát triển kinh tế xã hội 5 năm 2006 -2010, 2006 Bộ Thương mại, Chiến lược phát triển xuất nhập khẩu thời kỳ 2001-2010, 2000 Bộ Thương mai, Đề án xuất nhập khẩu giai đoạn 2006 -2010, 2006 http: //www.gso.gov.vn http: //www.chinhphu.vn http: //www.economics.vnu.edu.vn http: //www.vietnamtrdefair.com http: //www.ngoaithuong.vn http: //www.vitinfo.com.vn ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc2045.doc
Tài liệu liên quan