Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, cũng giống như các hình thái ý thức xã hội khác, nó có ảnh hưởng không nhỏ đối với sự phát triển của xã hội. Chúng ta xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa từ một nước thuộc địa, nửa phong kiến với nền nông nghiệp lạc hậu, đó là cơ sở kinh tế - xã hội cho các tàn dư tư tưởng phong kiến còn tồn tại. Hơn nữa, xét về mặt ý thức hệ, Việt Nam chịu ảnh hưởng sâu đậm của tư tưởng phong kiến Trung Quốc mà nền tảng của nó là Nho gi
194 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 3417 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Ảnh hưởng của đạo đức Nho giáo đối với đạo đức người cán bộ lãnh đạo, quản lý ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
áo. Đạo đức Nho giáo, bên cạnh một số yếu tố tích cực, vẫn chứa đựng không ít những yếu tố tiêu cực mà cho đến nay còn ảnh hưởng khá nặng nề trong nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội nước ta. Trong bối cảnh toàn cầu hoá, hội nhập và sự phát triển của nền kinh tế thị trường, nước ta đang có bước chuyển mình quan trọng. Chúng ta đã đạt được những thành tựu to lớn về kinh tế, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân từng bước được nâng cao; song, chúng ta cũng đang phải đối mặt với một thực trạng đáng lo ngại về mặt đạo đức xã hội. Sự xuống cấp về đạo đức không những ở trong nhân dân mà còn ở một bộ phận không nhỏ cán bộ lãnh đạo, quản lý. Đảng ta đã nhận định rằng: “Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên thiếu tu dưỡng bản thân, phai nhạt lý tưởng, mất cảnh giác, giảm sút ý chí, kém ý thức tổ chức kỷ luật, sa đoạ về đạo đức và lối sống” [22, tr.137]* Từ đây trở đi, số đầu tiên trong móc chỉ thứ tự tài liệu tham khảo, số thứ hai chỉ số trang được trích dẫn trong tài liệu đó.
. Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên thoái hoá biến chất ấy không chỉ làm suy giảm lòng tin của dân đối với Đảng và Nhà nước, mà còn là lực cản trên con đường xây dựng xã hội lành mạnh. Chính vì vậy, việc xây dựng đạo đức cách mạng cho người cán bộ lãnh đạo, quản lý ở nước ta hiện nay vừa là một nhu cầu cấp bách, vừa là nhiệm vụ quan trọng của công tác cán bộ. Bởi vì, nâng cao năng lực lãnh đạo, quản lý của cán bộ là góp phần không nhỏ vào sự nâng cao sức chiến đấu của Đảng trên nhiều lĩnh vực: Chuyên môn, đạo đức nghề nghiệp, phẩm chất đạo đức cách mạng…Vì vậy, Đảng và Nhà nước ta đã, đang và sẽ thường xuyên thực hiện nhiệm vụ này.
Để thực hiện được việc đó, về phương diện lý luận cần phải tìm và luận chứng những nguyên nhân gây ra các hiện tượng trên. Ngoài nguyên nhân kinh tế thị trường mang tính tất yếu khách quan, cần phải làm rõ ảnh hưởng của các hệ tư tưởng cũ trong đó có Nho giáo. Nho giáo hiện nay ở nước ta không còn tồn tại, song, như là yếu tố của hệ tư tưởng vốn được định hình hàng nghìn năm những ảnh hưởng của nó thông qua phong tục, tập quán, lối sống, cách suy nghĩ, đạo đức, luân lý vẫn còn tác động cả mặt tích cực lẫn tiêu cực đối với nhiều người, trong đó có những người là cán bộ lãnh đạo, quản lý. Chính vì vậy, kế thừa những yếu tố tích cực của Nho giáo trên lập trường đạo đức cách mạng của chủ nghĩa Mác- Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kết hợp với thực tiễn của cách mạng nước ta để xây dựng đạo đức của người cán bộ lãnh đạo, quản lý Việt Nam là vấn đề mang ý nghĩa cấp thiết. Việc chọn đề tài: “ảnh hưởng của đạo đức Nho giáo đối với đạo đức người cán bộ lãnh đạo, quản lý ở Việt Nam hiện nay” cho luận án tiến sĩ của mình là mục đích của chúng tôi muốn góp một phần nhỏ về phương diện lý luận cho thực tiễn xây dựng và hoàn thiện công tác cán bộ của đất nước hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Xung quanh vấn đề ảnh hưởng của Nho giáo nói chung và đạo đức Nho giáo nói riêng ở nước ta đã có nhiều tác giả trong nước và nước ngoài nghiên cứu theo những phương diện khác nhau, nhưng có thể phân định thành một số nhóm vấn đề sau đây:
- Nhóm thứ nhất đi sâu luận giải nguồn gốc, nội dung của Nho giáo và những yêu cầu đạo đức của Nho giáo, để từ đó thấy được sự ảnh hưởng của Nho giáo ở nước ta. Nội dung trên được đăng tải ở các tạp chí chuyên ngành như: tạp chí Cộng sản, tạp chí Nghiên cứu lý luận, tạp chí Triết học v.v...hay trong các sách chuyên luận như: “Nho giáo” của Trần Trọng Kim; “Khổng học đăng” của Phan Bội Châu. Các tác giả đã trình bày, phân tích những tư tưởng cơ bản của Nho giáo trong quá trình hình thành và phát triển của nó. Khi đánh giá về Nho giáo, các tác giả đều đề cao những nhân tố tích cực của Nho giáo, cho rằng đạo đức Nho giáo có vai trò to lớn trong việc giáo dục đạo đức con người và ổn định trật tự xã hội.
Nhà nghiên cứu Nguyễn Khắc Viện, trong cuốn “Bàn về đạo Nho” đã nêu mặt tích cực cũng như mặt tiêu cực của Nho giáo. Khi đánh giá về mặt tích cực, ông đã cho rằng: “Đạo Nho đã đóng một vai trò quan trọng trong việc hình thành lòng yêu nước. Nguyễn Đình Chiểu, Mai Xuân Thưởng, Phan Đình Phùng là những nhà nho, không thể xuyên tạc sự thật bảo những chí sĩ ấy không liên quan gì đến Nho giáo cả” [131, tr.45]. Nói về những điều tâm đắc của mình khi nghiên cứu, tìm hiểu Nho giáo, ông đánh giá cao tính “vừa phải” (không thái quá) trong đạo làm người của Nho giáo và vấn đề “xử thế” (xử thế trong mọi tình huống, đối với người này, người khác, với bề trên, kẻ dưới...) của Nho giáo.
- Nhóm thứ hai đã có quan điểm trái ngược với nhóm trên khi đối lập với xu hướng ca ngợi mặt tích cực của Nho giáo. Một số công trình như “Nho giáo xưa và nay” của Quang Đạm, “Nho giáo tại Việt Nam” của Lê Sỹ Thắng,...đều đề cập đến nội dung cơ bản của đạo đức Nho giáo như Tam cương, Ngũ thường, Ngũ luân... Mặc dù, có những lập luận và kiến giải khác nhau nhưng nhìn chung, các tác giả phê phán đạo đức Nho giáo là khắt khe, trói buộc con người đặc biệt đối với phụ nữ. Bên cạnh đó, các tác giả cũng đã đặt vấn đề kế thừa một số mặt tích cực của đạo đức Nho giáo.
Tác giả Đào Duy Anh đã viết “Khổng giáo phê bình tiểu luận” cho rằng để đánh giá đúng Nho giáo cần có thái độ khách quan, khoa học. Ông phê phán một số trí thức Trung Quốc và Việt Nam đã phủ nhận hoàn toàn vai trò của Nho giáo, cho rằng nó là vô dụng. Ông đã nghiên cứu, phân tích nội dung cơ bản của Nho giáo và đã đưa ra nhận định đúng mức về vai trò của Nho giáo “dẫu nó không thích hợp nữa ở đời nay, mà công dụng nó, sự nghiệp nó, vẫn trọn vẹn trong lịch sử, không ai có thể chối cãi hay xoá bỏ đi được” [1, tr.150].
- Nhóm thứ ba: Xuất phát từ kinh nghiệm của một số nước chịu ảnh hưởng của Nho giáo nhưng vẫn đạt được một số kết quả khả quan về ổn định xã hội và phát triển kinh tế do biết phát huy những yếu tố tích cực của Nho giáo, từ công cuộc đổi mới đất nước hiện nay đòi hỏi chúng ta phải giữ gìn và phát huy những truyền thống văn hoá của dân tộc, nhiều nhà nghiên cứu đã đi sâu nghiên cứu về Nho giáo ở Việt Nam, nêu rõ ảnh hưởng của nó trong các lĩnh vực đạo đức, chính trị - xã hội, hệ tư tưởng, văn hoá, giáo dục - khoa cử... Liên quan đến vấn đề này có: Tác giả Nguyễn Đăng Duy với “Nho giáo với văn hoá Việt Nam”, Quang Đạm với “Nho giáo xưa và nay”, Vũ Khiêu với “Nho giáo và đạo đức”; “Nho giáo và sự phát triển ở Việt Nam”, Nguyễn Tài Thư với “Nho học và Nho học ở Việt Nam”, Nguyễn Hùng Hậu với “Triết lý trong văn hoá phương Đông”,... Các tác phẩm trên, bên cạnh việc phê phán những ảnh hưởng tiêu cực của Nho giáo nói chung và đạo đức Nho giáo nói riêng, nhiều tác giả còn đặt ra vấn đề kế thừa và phát triển những giá trị tích cực của nó nhằm khắc phục những mặt tiêu cực, góp phần xây dựng đạo đức mới ở nước ta hiện nay.
Nghiên cứu về đạo đức cán bộ, về ảnh hưởng của đạo đức phong kiến đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý của Việt Nam hiện nay được thể hiện trong một số công trình của các tác giả như Trần Phúc Thăng, Nguyễn Thế Kiệt, Trần Sỹ Dương...trong “ảnh hưởng của đạo đức phong kiến trong cán bộ lãnh đạo, quản lý của Việt Nam hiện nay”.
Hội thảo “Nho giáo ở Việt Nam” do Viện nghiên cứu Hán Nôm và Viện Harvard - Yenching (Mỹ) phối hợp tổ chức trong hai ngày 17 và 18 tháng 12 năm 2004, thành phần tham gia gồm các nhà khoa học Việt Nam cùng nhiều đồng nghiệp ở Mỹ, Canađa, Trung Quốc, Đài Loan, Xingapo..., đã thảo luận nhiều vấn đề xoay quanh các nội dung như: ảnh hưởng của Nho giáo trong đời sống hiện nay, quá trình du nhập Nho giáo vào Việt Nam, ảnh hưởng của Nho giáo trong đời sống xã hội Việt Nam thời phong kiến, tư tưởng Nho giáo trong văn học và sử học thời phong kiến... Các tham luận của các nhà khoa học trong và ngoài nước đều khẳng định rằng, Nho giáo giữ một vị trí khá quan trọng trong đời sống tinh thần của xã hội Việt Nam và ảnh hưởng khá sâu đậm đối với con người và xã hội Việt Nam.
Đề tài cấp bộ năm 2002 - 2003 của Viện Triết học, Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh : “Đạo đức người cán bộ lãnh đạo chính trị trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay - thực trạng và xu hướng biến động” do PGS. TS Nguyễn Thế Kiệt làm chủ nhiệm đã tập trung bàn về vai trò của đạo đức trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay. Đề tài đã tập trung làm rõ thực trạng và xu hướng biến động của đạo đức người cán bộ lãnh đạo chính trị nước ta hiện nay, từ đó đưa ra phương hướng và những giải pháp nhằm nâng cao phẩm chất đạo đức cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo chính trị ở Việt Nam theo nội dung và yêu cầu về đạo đức của đội ngũ này.
- Nhóm thứ tư là các luận án tiến sỹ cũng đề cập đến một số khía cạnh của Nho giáo về con người và đạo đức, sự ảnh hưởng của nó ở Việt Nam như luận án Vấn đề con người trong Nho học sơ kỳ của Nguyễn Tài Thư; luận án ảnh hưởng của Nho giáo đối với chủ nghĩa yêu nước Việt Nam truyền thống của Trần Thị Hồng Thuý; luận án Một số nội dung cơ bản của tư tưởng Nho giáo Việt Nam thời Trần của Vũ Văn Vinh; luận án Quan niệm của Nho giáo nguyên thuỷ về con người qua các quan hệ : thân - nhà - nước - thiên hạ của Trần Đình Thảo... Luận án tiến sĩ Quan niệm của Nho giáo về giáo dục con người và ý nghĩa của nó đối với việc giáo dục con người Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá của Nguyễn Thị Nga chủ yếu vận dụng quan niệm của Nho giáo về giáo dục con người trong việc giáo dục con người Việt Nam hiện nay, trong đó, tác giả đã nghiên cứu tìm hiểu những nội dung như đối tượng giáo dục, tính người, phương pháp giáo dục... của Nho giáo.
Luận án tiến sĩ của Nguyễn Thanh Bình với đề tài Học thuyết chính trị xã hội của Nho giáo và sự thể hiện của nó ở Việt Nam (từ thế kỷ XI đến nửa đầu thế kỷ XIX) đã phân tích Nho giáo với tính cách là học thuyết chính trị - xã hội. Tác giả đã bàn đến những vấn đề của Nho giáo như con người, vai trò của con người, xã hội lý tưởng, đồng thời cũng đề cập đến nhân, lễ, chính danh, đến những chuẩn mực đạo đức nhưng khai thác dưới góc độ chính trị - xã hội. Từ đó đề cập đến sự thể hiện của các tư tưởng ấy dưới chế độ phong kiến ở Việt Nam.
Đáng chú ý là luận án tiến sỹ của Hoàng Trung (2001) Đạo đức cách mạng trong tư tưởng Hồ Chí Minh qua các phạm trù mà Người đã sử dụng đã đề cập đến việc Hồ Chí Minh kế thừa có chọn lọc các phạm trù đạo đức của Nho giáo như nhân, nghĩa, trí, tín, trung, hiếu, dũng, cần, kiệm, liêm chính, chí công vô tư trong việc xây dựng các chuẩn mực đạo đức cách mạng cho con người Việt Nam. Tác giả đã làm rõ việc Hồ Chí Minh trong nhiều trường hợp đã viện dẫn những tư tưởng tích cực trong các kinh điển của Nho giáo để nêu gương phẩm chất đạo đức của người cán bộ cách mạng.
Một số luận văn thạc sỹ cũng đề cập đến các quan niệm đạo đức Nho giáo và ảnh hưởng của nó đối với con người Việt Nam hiện nay như Quan niệm của Nho giáo về trung - hiếu - lễ. ảnh hưởng của nó đối với đời sống đạo đức con người Việt Nam hiện nay của Phan Mạnh Toàn. Trong đó tác giả trình bày ba phạm trù: Trung - hiếu - lễ của Nho giáo, ảnh hưởng của nó trong đạo đức con người Việt Nam hiện nay, từ đó đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm khai thác có hiệu quả những yếu tố phù hợp, loại bỏ mặt không phù hợp của quan niệm Nho giáo về trung - hiếu - lễ.
Nhìn chung, các công trình thuộc bốn nhóm cơ bản nêu trên hoặc là nêu những nét khái quát nội dung của Nho giáo, hoặc là tập trung giải quyết những phương diện lý luận mà các tác giả đặt ra cho mình. Trên thực tế, nghiên cứu về đạo đức Nho giáo, ảnh hưởng của đạo đức Nho giáo đối với con người Việt Nam thì có nhiều, nhưng nghiên cứu ảnh hưởng của nó đối với đạo đức người cán bộ lãnh đạo, quản lý ở Việt Nam hiện nay thì còn quá thưa thớt. Do đó, đề tài tiếp tục hệ thống hoá, khái quát những kết quả nghiên cứu của những người đi trước để vận dụng vào việc nghiên cứu đạo đức người cán bộ lãnh đạo, quản lý hiện nay ở nước ta.
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu của luận án
3.1. Mục đích
Phân tích và luận giải ảnh hưởng của đạo đức Nho giáo đối với đạo đức người cán bộ lãnh đạo, quản lý ở Việt Nam hiện nay, trên cơ sở đó đưa ra một số phương hướng và giải pháp chủ yếu nhằm xây dựng đạo đức mới cho người cán bộ lãnh đạo, quản lý ở nước ta hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ
Để thực hiện mục đích nêu trên, luận án sẽ giải quyết một số nhiệm vụ sau:
- Trình bày nội dung chủ yếu của đạo đức Nho giáo và nét riêng của đạo đức Nho giáo Việt Nam.
- Phân tích thực trạng ảnh hưởng của đạo đức Nho giáo đối với đạo đức cán bộ lãnh đạo, quản lý hiện nay ở nước ta và nêu một số vấn đề đặt ra từ sự ảnh hưởng này.
- Đưa ra một số giải pháp cơ bản để phát huy những mặt tích cực và hạn chế mặt tiêu cực của đạo đức Nho giáo trong việc xây dựng đạo đức cho cán bộ lãnh đạo, quản lý ở nước ta hiện nay.
3.3. Phạm vi nghiên cứu: Tác động đến đạo đức của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý ở nước ta hiện nay bao gồm nhiều nhân tố như: Kinh tế thị trường; sự du nhập văn hoá lối sống từ bên ngoài trong quá trình hội nhập; những giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc; sự ảnh hưởng của các quan niệm đạo đức của các tôn giáo như Phật giáo, Đạo giáo, Đạo Thiên chúa,... nhưng ở đây, luận án chỉ nghiên cứu một số nội dung cơ bản của đạo đức Nho giáo, sự ảnh hưởng của nó đối với đạo đức của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý ở Việt Nam hiện nay và trên cơ sở đó nêu lên một số phương hướng, giải pháp để kế thừa mặt tích cực và hạn chế mặt tiêu cực của nó nhằm xây dựng đạo đức mới cho đội ngũ cán bộ này.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Luận án dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng - chủ nghĩa duy vật lịch sử, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối của Đảng ta về vấn đề đạo đức, xây dựng đạo đức cho con người Việt Nam nói chung và cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý nói riêng.
Luận án sử dụng các phương pháp như: Lịch sử - lô gíc, phân tích - tổng hợp, qui nạp - diễn dịch, đối chiếu, so sánh...
5. Những đóng góp mới về khoa học của luận án
- Luận án làm rõ hơn một số nội dung của đạo đức Nho giáo và nét riêng của đạo đức Nho giáo Việt Nam.
- Chỉ ra một số ảnh hưởng tích cực và tiêu cực của đạo đức Nho giáo đối với đạo đức cán bộ lãnh đạo, quản lý ở nước ta hiện nay.
- Nêu ra một số phương hướng và giải pháp nhằm phát huy mặt tích cực và hạn chế mặt tiêu cực của ảnh hưởng đạo đức Nho giáo trong việc xây dựng đạo đức người cán bộ lãnh đạo, quản lý ở Việt Nam hiện nay.
6. ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài luận án
Luận án góp phần vào việc tìm hiểu ảnh hưởng của đạo đức Nho giáo đối với người Việt Nam nói chung và cán bộ lãnh đạo, quản lý nói riêng, từ đó góp một phần nhỏ cho công tác cán bộ mà Đảng và nhà nước ta hiện nay rất quan tâm.
Luận án cũng có thể dùng làm tài liệu tham khảo phục vụ nghiên cứu, giảng dạy và học tập môn lịch sử triết học phương Đông ở các trường Đại học hiện nay hoặc cho những ai quan tâm đến Nho giáo và ảnh hưởng của nó đối với đạo đức của con người Việt Nam.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận án gồm 3 chương, 7 tiết.
Chương 1
Một vài nét khái quát về đạo đức Nho giáo
Và đạo đức Nho giáo ở Việt Nam
1.1. Nguồn gốc và một số nội dung cơ bản của đạo đức Nho giáo ở Trung Quốc
1.1.1. Điều kiện kinh tế xã hội thời Xuân Thu - Chiến Quốc - cơ sở cho sự ra đời đạo đức Nho giáo
Nho giáo ra đời ở Trung Quốc vào thời Xuân Thu - Chiến Quốc (770 - 221 TCN). Đây là thời kỳ suy tàn của chế độ chiếm hữu nô lệ để bước vào chế độ phong kiến sơ kỳ với một số đặc điểm sau đây:
- Nền kinh tế đang có sự chuyển biến mạnh mẽ từ thời đại đồ đồng sang đồ sắt với sự ra đời của nhiều công cụ lao động mới. ở thời Xuân Thu công cụ lao động bằng sắt đã bắt đầu xuất hiện và đặc biệt đến thời Chiến Quốc công cụ lao động bằng sắt đã được sử dụng rộng rãi. Sự thay đổi về công cụ lao động đã dẫn đến những chuyển biến mạnh mẽ về mặt chính trị - xã hội.
- Chế độ chiếm hữu tư nhân về ruộng đất là cơ sở cho sự ra đời của các giai cấp và các tầng lớp mới trong xã hội, mâu thuẫn giữa các giai cấp ngày càng gay gắt. Đó là:
Mâu thuẫn giữa tầng lớp quý tộc nhà Chu và giai cấp địa chủ mới với dân (những người nông dân, nông nô - những người này có nhu cầu muốn được giải phóng khỏi sự áp bức bóc lột của giới quý tộc).
Mâu thuẫn giữa quý tộc cũ, bảo thủ muốn duy trì chế độ thống trị cũ với một bộ phận quý tộc mới muốn thực hiện cải cách để duy trì quyền lợi và sự thống trị của mình.
Mâu thuẫn giữa quý tộc mới với quý tộc mới nhằm tiêu diệt nhau để thiết lập quyền thống trị.
Về mặt xã hội, mâu thuẫn gay gắt nhất là mâu thuẫn giữa thiên tử và các nước chư hầu. Nếu như ở đầu thời Chu (Tây Chu), thiên tử có quyền uy tối cao, mọi việc đều do “thiên tử xuất” (thiên tử đề xuất), thì đến thời Xuân Thu - Chiến Quốc, thiên tử nhà Chu không còn giữ vai trò tối cao như trước, mà giờ đây nền chính trị do các nước làm bá chủ chi phối. Mâu thuẫn gay gắt trong giới quý tộc đã làm cho xã hội rối ren, trật tự xã hội bị đảo lộn. Người ta cướp bóc tranh giành nhau về địa vị, quyền lực và đất đai. Khổng Tử, người sáng lập trường phái Nho gia đã gọi đây là thời kỳ con người sống vô đạo, quân bất quân, thần bất thần, phụ bất phụ, tử bất tử (nhà vua không theo đúng đạo làm vua, bề tôi không theo đúng đạo làm bề tôi, cha không theo đúng đạo làm cha, con không theo đúng đạo làm con).
- Chiến tranh khốc liệt và kéo dài đã làm cho nhân dân sống trong đau khổ. Trong xã hội, cảnh nồi da xáo thịt, bề tôi giết vua, con giết cha, anh em giết nhau đã trở thành hiện tượng phổ biến. Mạnh Tử đã phải thốt lên rằng: đánh nhau giành đất, thây chất đầy đất; đánh nhau giành thành, thây chất đầy thành. Đó là thời đại “liệt quốc kiêm tính” (nhiều nước đánh nhau). Theo các sử gia nhận xét thì thời Xuân Thu - Chiến Quốc là thời kỳ lịch sử đặc biệt có một không hai trong lịch sử Trung Quốc. Đây là thời kỳ cái mới và cái cũ đan xen, xáo trộn. Chính hoàn cảnh lịch sử đặc biệt này đã thúc đẩy sự ra đời của nhiều tư tưởng, học thuyết.
Trong điều kiện kinh tế, chính trị xã hội như đã nêu ở trên, để tiếp tục nắm giữ quyền lực của mình, các nước đã đua nhau trọng dụng kẻ sỹ - những người xuất thân bình dân nhưng có tri thức, mưu lược, đưa ra những kế sách trị quốc hữu hiệu. Nhiều nước đã nuôi kẻ sỹ như trong thái ấp của Mạnh Thường Quân nuôi tới 3000 kẻ sỹ, Tín Lăng Quân ở nước Nguỵ, Bình Nguyên Quân ở nước Triệu... cũng vậy. Nhờ hình thức “chiêu hiền, đãi sỹ” này mà các tư tưởng, các học thuyết chính trị xã hội được nảy nở và phát triển. Chính điều này đã tạo ra một giai đoạn đặc biệt trong lịch sử tư tưởng của Trung Quốc. Người ta gọi đây là thời kỳ “Bách gia tranh minh” (Trăm nhà đua tiếng) hay “Bách gia chư tử” (Trăm nhà trăm thầy). Bách gia bao gồm những học phái tiêu biểu: Âm dương gia, Nho gia, Mặc gia, Danh gia, Pháp gia, Đạo gia, Tung hoành gia, Nông gia, Tạp gia, Binh gia, Tiểu thuyết gia, Số thuật gia,... Các học thuyết này đã đạt đến trình độ tư duy khá cao, có rất nhiều tư tưởng đặc sắc. Các học thuyết trên đây đều tập trung giải quyết câu hỏi lớn của thời đại Xuân Thu - Chiến Quốc là làm thế nào để nước đang loạn trở thành thái bình thịnh trị, làm thế nào để nước mình có thể làm bá chủ thiên hạ. Mỗi học phái bằng cách này hay cách khác đã đề ra các phương pháp trị nước theo quan điểm của mình. Pháp gia cho rằng, muốn trị nước phải dựa vào pháp luật. Mặc gia lại khẳng định trị nước phải bằng “kiêm ái” (cùng yêu nhau) không kể sang hèn, giàu nghèo. Theo quan điểm Mặc gia, nếu các nước chư hầu yêu nhau thì không còn chiến tranh, các gia chủ yêu nhau thì không còn oán giận, kẻ sang không khinh miệt người hèn, kẻ gian trá không gạt người đần độn thì loạn sẽ không thể nào có được. Nho giáo chủ trương con đường trị nước bằng đạo đức, tức là đức trị, vì theo họ dùng đức trị thì dân mới tâm phục, dùng sức mạnh thì mau thắng nhưng không bền... Xét ở một góc độ nhất định, một số tư tưởng về đường lối trị nước của các học thuyết nêu trên cũng đã phát huy được tác dụng trong thực tiễn, phần nào giúp cho các vương hầu quý tộc giữ được địa vị và lấn át các nước khác. Chẳng hạn, tư tưởng dùng pháp luật để trị nước, sự kết hợp Pháp - Thuật - Thế trong đạo trị nước do Hàn Phi nêu ra đã được vua nước Tần ứng dụng thành công, nhờ đó nước Tần đã chinh phục được các nước khác và thống nhất Trung Quốc vào năm 221 TCN, mở ra một thời kỳ lịch sử mới của Trung Quốc.
Trong số các học thuyết đã ra đời ở thời Xuân Thu - Chiến Quốc, Nho giáo là học thuyết chính trị - đạo đức tiêu biểu nhất và có ảnh hưởng lâu dài nhất ở Trung Quốc cũng như ở nhiều nước khác như Nhật Bản, Triều Tiên, Singapo, Inđônêxia. Việt Nam cũng là một trong những nước tiếp nhận Nho giáo và chịu nhiều ảnh hưởng của Nho giáo nói chung và đặc biệt đạo đức Nho giáo nói riêng.
Người có công sáng lập ra Nho giáo là Khổng Tử (551 - 479 TCN) tên thật là Khổng Khâu, tự là Trọng Ni, người nước Lỗ (nay thuộc tỉnh Sơn Đông, Trung Quốc). Sống trong thời kỳ loạn lạc, được tận mắt chứng kiến cảnh chiến tranh cướp bóc, Khổng Tử luôn ôm ấp hoài bão chính trị là xây dựng đất nước thái bình thịnh trị theo khuôn mẫu của vua Nghiêu, vua Thuấn. Đó là xã hội có đạo đức, có ổn định trật tự. Suốt cuộc đời mình, Khổng tử luôn trăn trở kiếm tìm một phương thuốc hữu hiệu để chữa căn bệnh của thời đại “lễ hoại, nhạc băng” (lễ bị huỷ hoại, nhạc đã bị mất). Để thực hiện được mục tiêu này, ông đưa ra đường lối đức trị (dùng đạo đức để trị nước). Ông cho rằng, phải dùng nhân trị, lễ trị thì xã hội mới “hữu đạo”, thịnh trị. Tư tưởng này của ông đã được các thế hệ học trò tiếp tục kế thừa và phát triển.
1.1.2. Những tiền đề văn hoá tư tưởng cho sự ra đời của đạo đức Nho giáo
Cũng giống như các hệ tư tưởng khác, Nho giáo là một học thuyết chính trị - đạo đức ra đời trên cơ sở của hiện thực xã hội. Chính nhu cầu thực tiễn của thời đại Xuân Thu - Chiến quốc là nguyên nhân cơ bản nhất, trực tiếp nhất cho sự ra đời của đạo đức Nho giáo. Nếu chỉ khẳng định nguyên nhân tồn tại xã hội là duy nhất cho sự ra đời của Nho giáo thì chưa đủ. Bản thân học thuyết Nho giáo nói chung và đạo đức Nho giáo nói riêng đã ra đời bởi những nguyên nhân cơ bản khác, đó là nền tảng văn hoá, đạo đức truyền thống của Trung Quốc.
Trung Quốc vốn là quốc gia đất rộng, người đông, có một nền văn hoá phát triển sớm từ thời cổ đại. Cùng với ấn Độ và Hy Lạp, dân tộc Trung Hoa đã đóng góp cho nhân loại một nền văn minh lớn, được xem là một trong ba nền văn minh cổ đại. Theo các nhà nghiên cứu thì chữ viết ở Trung Quốc đã xuất hiện từ rất sớm, khoảng thế kỷ XIII - XII TCN. Đó là chữ “giáp cốt văn” và “kim đỉnh văn”. Những hiểu biết của người Trung Quốc về các lĩnh vực như thiên văn, địa lý, trồng trọt, chăn nuôi, đo lường, thuốc chữa bệnh, xây dựng các thể chế lễ nghi... khá sâu sắc. Chẳng hạn, người ta biết làm ra lịch về thời gian căn cứ vào lịch số mùa màng: một năm có 4 mùa, phân biệt được các tiết của một năm như lập xuân, xuân phân, lập hạ, hạ chí, lập thu...phát minh này đã có ý nghĩa lớn đối với sản xuất nông nghiệp. Trong lĩnh vực y học nhiều bài thuốc quý và cách chữa bệnh hữu hiệu đã được ghi chép trong sách “Thần Nông bản thảo kinh”; “Hoàng đế nội kinh”. Riêng về lĩnh vực văn học đã có một số bộ sách về sau được coi là kinh điển nòng cốt của Nho giáo như : Thi, Thư, Lễ, Nhạc, Dịch, Xuân Thu. Những tri thức phong phú kể trên là kết quả của hoạt động thực tiễn lâu dài mà nhân dân lao động Trung Quốc đúc kết được. Những tri thức này không những góp phần thúc đẩy nền sản xuất xã hội phát triển, mà còn là tiền đề cho sự ra đời các học thuyết triết học, chính trị, đạo đức và tôn giáo ở thời Xuân Thu - Chiến Quốc, trong đó có Nho giáo.
Tư tưởng đạo đức Nho giáo đã được hình thành trên nền tảng đạo đức truyền thống của Trung Hoa đã có từ các thời đại trước (Hạ, Thương, đầu thời Chu). Ngay từ thời Ngũ đế, vua Nghiêu đã đặt ra vấn đề “truyền hiền” (truyền ngôi cho người hiền tài). Đến nhà Hạ (2197 - 1766 TCN), khi nói về đức của vua Hạ Vũ, sử cũ đã chép rằng, vua Vũ, chỉ lo kẻ sỹ đến chờ ở cổng nhà mình để góp ý kiến mà mình không tiếp được nên tóc không kịp búi, ăn một bữa đứng dậy đến 3 lần... Ông được các nhà nho sau này tôn sùng về đức. Vua Thang nhà Thương (1766 - 1134 TCN) là tấm gương về người có đức thương dân và luôn tu dưỡng không ngừng bản thân mình. Hình tượng “lưới của vua Thang” (ông đi săn chỉ bủa lưới có 3 bề) đã được nhiều nhà văn, nhà thơ sau này nhắc đến như tấm gương sáng để so sánh và ca ngợi những người có đức. Truyền thống trọng đức đã được thể hiện một cách sâu sắc và rõ nét ở thời đại nhà Chu (1134 - 221 TCN). Người ta đề cao hai đức “kính thiên” (kính trọng trời - vị thánh tối cao có ý chí, có nhân cách) và “hiếu tổ” (có hiếu với tổ tiên). Đây là hai khái niệm đạo đức cốt lõi ở thời Tây Chu (1134 - 771 TCN). (Các mốc lịch sử về các thời đại Hạ, Thương, Chu chúng tôi dựa theo sự phân chia của Quách Mạc Nhược). Khi giải thích về sự kiện Văn Vương - Võ Vương đã lật đổ vua Trụ của nhà Ân - Thương để lập nên nhà Chu, các nhà tư tưởng thời đại này đều cho rằng, Văn Vương - Võ Vương là những người có “đức” nên mới được thượng đế ban cho “thụ thổ, thụ dân” (nhận đất, nhận dân).
Ra đời trong hoàn cảnh ở Trung Quốc có rất nhiều học phái, trào lưu tư tưởng, cho nên đạo đức Nho giáo cũng có sự tác động qua lại với các quan niệm đạo đức của các học thuyết khác ở thời Xuân Thu - Chiến Quốc. Phái Mặc gia do Mặc Tử sáng lập đã cho rằng, nguyên nhân của tình trạng loạn lạc là do mọi người không yêu thương nhau. Vì vậy trong đường lối trị nước, Mặc Tử đã nêu lên tư tưởng “kiêm ái” (mọi người cùng yêu nhau không kể thuộc giai tầng nào). Ông còn cho rằng “kiêm tương ái, giao tương lợi” (cùng yêu nhau, cùng có lợi). Từ đó, ông khuyên mọi người hãy coi nước của người như nước của mình, nhà của người như nhà của mình, thân của người như thân của mình. Mặc dù, có những nội dung khác nhau giữa học thuyết của Nho gia và Mặc gia, nhưng tư tưởng “kiêm ái” của Mặc Tử với tư tưởng “nhân” của Khổng Tử đều có nội hàm gần giống nhau - yêu người, thương người. Tuy nhiên, ở Khổng Tử, yêu có phân biệt thân sơ, còn ở Mặc Tử thì yêu không phân biệt, đối xử với mọi người bằng tình yêu thương như nhau. Lão Tử - người sáng lập phái Đạo gia cũng đề cao đức. Ông nhấn mạnh đức khiêm nhường, khoan dung, tri túc của con người. ở đây, chúng ta thấy có sự đồng quan điểm của ba đại biểu tư tưởng lớn thời Xuân thu - Chiến Quốc. Cả ba đại biểu đều cho rằng, nguyên nhân của mọi hiện tượng bất ổn trong xã hội là do con người không có đạo đức. Chính vì vậy, họ đã dành phần lớn tâm trí của mình vào việc luận bàn về đạo đức và xây dựng đạo đức cho con người. Đạo làm người là nội dung cốt lõi của nhiều triết thuyết của Trung Quốc. Điều này đã làm nên nét riêng biệt của tư tưởng Trung Quốc so với các học thuyết của phương Tây. Nét riêng biệt đó chính là truyền thống trọng đức, thương người.
1.1.3. Nội dung tư tưởng đạo đức Nho giáo
Trong Nho giáo, tư tưởng đạo đức là tư tưởng chủ đạo. Chính vì vậy mà người ta gọi Nho giáo là học thuyết chính trị - đạo đức. Tuy nhiên, khởi nguyên của Nho giáo chỉ là học thuyết mang tính chính trị - xã hội. Chữ Nho lúc đầu được dùng để chỉ những người đọc sách thánh hiền, thông suốt lẽ tự nhiên của trời đất, hiểu và sống theo luân thường đạo lý. Những người này có thể giúp mọi người hiểu rõ đạo ăn ở, đối nhân xử thế giữa người với người, họ thường là nhà giáo, người trị quốc. Trần Trọng Kim đã nhận xét: “Trước đời Xuân Thu thì những nhà Nho học gọi là sĩ, thuộc quyền quan tư đồ. Những người sĩ do quan tư đồ chọn lấy, cho đi du học văn chương và học lục nghệ là: lễ, nhạc, xạ, ngự, thư, số để làm quan coi việc nước. Bởi vậy, sách Hán thư nghệ văn chí nói rằng “Nho giáo do ở quan tư đồ mà ra”” [55, tr.51- 52]. Như vậy, có thể nói rằng, tư tưởng của các nhà nho đã có trước Khổng Tử, nhưng còn tồn tại rải rác, chưa thành một học thuyết có tính hệ thống. Khổng Tử là người có công hệ thống hoá tư tưởng của các nho sĩ thời đại trước và xây dựng thành một học thuyết hoàn chỉnh, trong đó ông luận bàn một số vấn đề sau:
- Về thế giới quan: có bàn về lẽ tự nhiên, trời đất mặc dù nội dung này được nói đến không nhiều.
- Về nhân sinh quan: xây dựng những quy tắc, chuẩn mực đạo đức để điều chỉnh hành vi của con người trong xã hội.
- Về chính trị xã hội: nêu lên đạo trị nước và một mô hình xã hội lý tưởng,...
Chính vì vậy, Khổng Tử được xem là người sáng lập ra Nho giáo và ông là người tiêu biểu nhất trong số các nhà nho.
Sau khi Khổng Tử mất, học thuyết của ông được các học trò kế tục nhưng được phân chia thành nhiều phái, mỗi phái lại đi theo một khuynh hướng khác nhau. Phái đạo đức của Tăng Tử ở nước Lỗ truyền đến thế kỷ IV TCN thì có Mạnh Kha (372 - 289 TCN) tự là Dư, thường được gọi là Mạnh Tử, là thế hệ học trò thứ tư đã tiếp tục phát triển tư tưởng đạo đức của Khổng Tử. Sau đó, Tuân Tử (298 - 238 TCN) cũng kế thừa tư tưởng Khổng Tử nhưng theo hướng khác. Như vậy, ở thời Xuân Thu - Chiến Quốc, Nho giáo thường được gọi là Nho giáo Khổng - Mạnh. Từ sau Mạnh Tử, sự phát triển của Nho giáo có phần gián đoạn, tinh thần Nho giáo có phần sút kém so với trước mặc dù các học phái còn nhiều.
Đến thế kỷ II TCN, Nho giáo mới được giai cấp phong kiến sử dụng vào việc trị quốc, nó đã chiếm vị trí độc tôn và trở thành hệ tư tưởng chính thống. ở Trung Quốc, Nho giáo đã tồn tại trong suốt thời kỳ phong kiến và là công cụ giúp các ông vua ở các thời đại khác nhau trị vì. Đến cách mạng Tân Hợi (1911), Nho giáo về căn bản mới hết vai trò lịch sử, nhưng tư tưởng của Nho giáo, nhất là đạo đức Nho giáo, vẫn còn ảnh hưởng nhiều và lâu dài trong đời sống tinh thần của xã hội Trung Quốc. Không những thế, khi được truyền sang các nước ở Châu á như Nhật Bản, Singapo, Triều Tiên, Việt Nam, đạo đức Nho giáo đã được bản địa hoá và cũng có ảnh hưởng đáng kể, cả về mặt tích cực lẫn tiêu cực.
Cách đây hơn hai nghìn năm, Khổng Tử và các học trò của ông đã nhận ra sức mạnh của đạo đức ở xã hội Trung Quốc cổ đại. Xã hội phương Đông có đặc điểm là con người gắn bó chặt chẽ với gia đình, dòng họ, làng xã, quê hương. Chính vì lẽ này mà tư tưởng đạo đức Nho giáo được xây dựng trên nền tảng “tam cương”, lấy quan hệ gia đình làm xuất phát điểm.
Theo quan niệm của Khổng Tử, đạo chính là năm mối quan hệ xã hội cơ bản của con người, được gọi là nhân luân, Mạnh Tử gọi là ngũ luân : Vua -._. tôi, cha - con, chồng - vợ, anh - em, bạn bè. Trong đó ba mối quan hệ đầu tiên: vua - tôi, cha - con, chồng - vợ được coi là cơ bản nhất mà sau này được Đổng Trọng Thư (179 - 104 TCN) gọi là tam cương. Đó là ba sợi dây ràng buộc con người từ trong quan hệ gia đình đến quan hệ ngoài xã hội: Quân vi thần cương, phu vi phụ cương, phụ vi tử cương (vua là cương lĩnh của bề tôi, chồng là cương lĩnh của vợ, cha là cương lĩnh của con). Ba sợi dây ấy, một mặt duy trì trật tự quan hệ “xướng tòng”, mặt khác, trở thành xiềng xích trói buộc ngày càng chặt con người vào trật tự của lễ giáo, của triều đình phong kiến.
“Đức” chính là các phẩm chất quan trọng nhất mà con người cần phải có để thực hiện tốt năm mối quan hệ cơ bản nêu trên. Bản thân tư tưởng đạo đức Nho giáo có một lịch trình phát triển qua các thời kỳ lịch sử và ở mỗi giai đoạn, mỗi thời kỳ, ở mỗi nhà nho, các phạm trù đạo đức có sự bổ sung, sắp xếp theo thứ tự khác nhau. Khổng Tử nhấn mạnh đức cơ bản của con người là: Trí, nhân, dũng. Ông nói: “Người có ba đức trí, nhân, dũng là thiên hạ có đạo đức” (Trí, nhân, dũng, tam giả, thiên hạ chi đạt đức dã) [45, tr.127]. Mạnh Tử lại nêu lên tứ đức: Nhân, lễ, nghĩa, trí, ông cho rằng bốn đức này khi sinh ra con người đã sẵn có và nó có nguồn gốc từ bốn đầu mối là lòng trắc ẩn, lòng tu ố, lòng từ nhượng, lòng thị phi. Bốn đức ấy là biểu hiện tính thiện của con người, trong đó, lòng trắc ẩn (biết thương xót) là đầu mối của đức nhân; lòng tu ố (biết thẹn, biết ghét) là đầu mối của đức nghĩa; lòng từ nhượng (cung kính, khiêm nhường) là đầu mối của lễ; lòng thị phi (biết phân biệt đúng, sai, phải trái) là đầu mối của trí. Đến Đổng Trọng Thư, ông nêu lên ngũ thường bao gồm năm chuẩn mực đạo đức: nhân, lễ, nghĩa, trí, tín. Tam cương và ngũ thường kết hợp với nhau được gọi tắt là đạo “cương - thường”, hay mở rộng ra sự kết hợp giữa ngũ luân với ngũ thường gọi là luân thường.
“Cương - thường” là nội dung cơ bản trong đạo làm người của Nho giáo. “Cương - thường” là nguyên tắc chi phối mọi suy nghĩ và hành động của con người. Nó đã trở thành khuôn vàng thước ngọc để đánh giá phẩm hạnh của con người. Đạo “cương - thường” có tính hai mặt. Thứ nhất, đạo “cương - thường” góp phần điều chỉnh hành vi của con người, đưa con người vào khuôn phép do chế độ lễ pháp và tông pháp của nhà Chu trước đây và các triều đại phong kiến sau này đặt ra. “Cương - thường” là những nhân tố quan trọng làm cho xã hội ổn định, trật tự, có trên có dưới. Nó là cơ sở đảm bảo cho quyền thống trị của thiên tử. Thứ hai, đạo “cương - thường” là sợi dây trói buộc con người, nó làm mất tính sáng tạo trong suy nghĩ của con người, làm cho con người trở nên thụ động. “Cương - thường” đến thời Tống đã mang nội dung khắc nghiệt: Quân xử thần tử, thần bất tử bất trung. Phụ xử tử vong, tử bất vong bất hiếu (vua xử bề tôi chết, bề tôi không chết là không có lòng trung. Cha xử con chết, con không chết là con không có lòng hiếu). Nội dung đó không chỉ làm cho con người thụ động cả trong suy nghĩ lẫn hành động, mà còn bắt con người chấp hành vô điều kiện chuẩn mực đạo đức nghiệt ngã đó. Lịch sử các triều đại phong kiến ở Trung Quốc cũng như ở một số nước đã cho chúng ta thấy rằng, chỉ vì quan niệm đạo đức trung, hiếu khắt khe trên mà nhiều bề tôi đã phải nhận cái chết vô lý và oan nghiệt. Quả thực không quá khi cho rằng, chính tư tưởng “cương - thường” là một lực cản sự phát triển của xã hội và là một trong những nguyên nhân làm cho xã hội phong kiến phương Đông trì trệ. Bởi lẽ, theo quan điểm của triết học Mác - Lê nin, con người vừa là sản phẩm của lịch sử, lại vừa là chủ thể sáng tạo ra chính lịch sử của mình. Xã hội vận động nhanh hay chậm, phát triển theo chiều hướng tích cực hay không, chính là phụ thuộc vào hoạt động của con người. Nếu con người bảo thủ trong suy nghĩ, thụ động trong hành động thì xã hội làm sao phát triển được?
Trong lịch sử ra đời và phát triển của Nho giáo đã từng tồn tại nhiều môn phái khác nhau, thậm chí đối lập nhau, song tất cả các nho sĩ đều tôn trọng, đề cao đạo “cương - thường”, họ dựa vào đạo “cương - thường” để phát ngôn và xử thế. Vì vậy, những phạm trù đạo đức căn bản nêu trên được bảo lưu và tồn tại cho đến cuối thời kỳ phong kiến.
Phạm trù đạo đức đầu tiên, cơ bản nhất trong đạo “cương - thường” là Nhân (“đức nhân”). Tất cả các phạm trù đạo đức khác đều xoay quanh phạm trù trung tâm này. Từ “đức nhân” mà phát ra các đức khác, và các đức khác lại qui tụ về với “đức nhân”. Có thể nói rằng, cả cuộc đời của mình, Khổng Tử đã dành nhiều thời gian và tâm huyết phấn đấu để chuẩn mực đạo đức “nhân” trở thành hiện thực. Ông luôn mong ước các học trò của mình rèn luyện, tu dưỡng để đạt được đức nhân và ứng dụng đức này trong thực tiễn. Trong tác phẩm Luận ngữ, Khổng Tử đã nhiều lần nhắc đến chữ Nhân. Nội dung của “đức nhân” đã được Khổng Tử thể hiện trong những lần tiếp xúc với các học trò của mình, và nó mang nhiều nội dung khác nhau. Song, nhìn chung, “đức nhân” có ba nội dung cơ bản sau:
Thứ nhất, “nhân” có nghĩa là yêu người. “Phàn Trì hỏi về người nhân, Khổng Tử nói: (đó là người biết) yêu người” (Phàn Trì vấn nhân, Tử viết: “ái nhân”) [45, tr.493]. Đối với Khổng Tử, người nào có lòng yêu thương con người thì người đó đã có đức nhân và ngược lại, nếu thiếu tình yêu thương con người sẽ là kẻ bất nhân. Nhân có chữ tượng hình là , nghĩa là nhân cách xã hội chứ không phải cá nhân.
Thứ hai, người có đức nhân phải là người trung, thứ.
Bàn về chữ “trung”, Khổng Tử đã giải thích: “Người nhân là người mình muốn lập thân thì cũng giúp người lập thân, mình muốn thành đạt thì cũng giúp người thành đạt” (Phù nhân giả, kỉ dục lập nhi lập nhân, kỉ dục đạt nhi đạt nhân) [45, tr.340]. Trung là suy từ bản thân mình ra, không phải là trung trong khái niệm “trung dung”. Với nội dung này đức trung do Khổng Tử nêu ra có ý nghĩa tích cực. Còn về chữ thứ, ông viết: “Điều gì mình không muốn chớ thi hành cho người khác” (kỉ sở bất dục vật thi ư nhân) [45, tr.473]. Như vậy, cũng tương tự như “trung”, “thứ” có nghĩa là từ lòng mình mà suy ra lòng người, bởi lẽ mình muốn cái gì thì chắc người khác cũng muốn cái đó và ngược lại. Cho nên, Khổng Tử mới khuyên rằng, nên làm cho người những cái mà mình muốn và đừng làm cho người những cái mà mình không muốn. “Trung”, “thứ” chính là đạo làm người. Không phải ngẫu nhiên mà học trò của Khổng Tử là Tăng Tử đã khẳng định: “Đạo của thầy chỉ tóm tắt ở một điều trung thứ mà thôi” (Tăng Tử viết: “Phu tử chi đạo, trung thứ nhi dĩ hĩ”) [45, tr.277]. Từ đó, trung và thứ đi liền với nhau thành cụm từ chỉ đạo đức của con người.
Thứ ba, đối với bản thân mình, người có đức nhân phải là người thực hiện theo đúng lễ: “Dẹp bỏ tư dục, trở về với lễ là phát huy điều nhân” (Khắc kỉ phục lễ vi nhân) [45, tr.471]. Lễ là hình thức thể hiện nhân, đồng thời cũng là một chuẩn mực của ngũ thường. Theo Khổng Tử, người biết chế thắng tư dục mà trở về đúng với lễ, với đạo lý là nhân. Một ngày khắc kỉ trở về lễ thì thiên hạ sẽ khen đức nhân của mình. Làm điều nhân là do mình chứ đâu phải do người. Với Khổng Tử, lễ cũng là một bộ phận của nhân. Nhân là cái gốc, lễ là ngọn, hay nói cách khác, nhân là nội dung, lễ là hình thức.
Tuy bao chứa nhiều nội hàm khác nhau trong phạm trù đức nhân, song cốt lõi của nhân, gốc của nhân lại là hiếu đễ. Như vậy, hiếu đễ chính cái gốc của nhân.
Theo Khổng Tử, tình cảm giữa cha mẹ và con cái, giữa chồng và vợ, giữa anh em với nhau là những tình cảm tự nhiên, vốn có thuộc về bản tính của con người. Từ cách hiểu này, ông cho rằng nếu trong gia đình có người cha đứng đầu thì mở rộng ra là trong nước có vua đứng đầu. Khổng Tử hình dung quốc gia là một gia đình lớn, do đó ông vua là người cha của gia đình lớn ấy. Nho giáo đã đặt vua ở vị trí cao nhất trong tam cương và ngũ luân. Vì vậy, đạo làm người phải tận hiếu với cha mẹ, tận trung với vua chúa. Một người biết thương yêu, kính trọng cha mẹ và những người lớn tuổi trong nhà thì người đó mới biết yêu người ngoài: “Nết hiếu và nết đễ có phải là gốc của việc thi hành đạo đó chăng” (Hiếu đễ dã giả kì vi nhân chi bản dư) [45, tr.197]. Khổng Tử bàn đến đạo đức từ xuất phát điểm đầu tiên đó là gia đình, từ đó ông suy rộng ra đến quốc gia và thiên hạ. Nho giáo đã xem gia đình như là một trong ba khâu không thể thiếu của hoạt động con người: tu thân, tề gia, trị quốc. Coi trọng vai trò của gia đình trong việc hình thành và tu dưỡng đạo đức của con người trong học thuyết Nho giáo là một khía cạnh hợp lý và vẫn còn có ý nghĩa nhất định đối với ngày nay. Bởi lẽ, suy cho cùng gia đình là một tế bào của xã hội, có thể nói gia đình là bộ phận thu nhỏ của xã hội. Một xã hội không thể ổn định và thịnh trị nếu như các gia đình lục đục, mọi thành viên của nó sống nghèo túng và vô đạo. Vì vậy, người cầm quyền nếu không “tề gia” (cai quản gia đình của mình cho có trên có dưới) thì cũng không thể nào “trị quốc” (cai trị đất nước) được.
Nhân còn gắn liền Nghĩa. Nghĩa vừa là một biểu hiện của đức nhân, vừa là một trong năm chuẩn mực của ngũ thường. Mặc dù, Khổng Tử ít bàn đến “đức nghĩa” nhưng hành động của ông luôn theo nghĩa. “Đức nghĩa” đến Mạnh Tử mới được nhấn mạnh và Mạnh Tử đã xếp nghĩa đứng vị trí số hai sau đức nhân. Đổng Trọng Thư đặt nghĩa ở vị trí số ba. Nghĩa tức là nên làm, là lẽ đương nhiên. Khổng Tử cho rằng, người ta hành động phải dựa vào nghĩa. Điều gì nên làm thì làm, điều không nên làm thì không làm. Ông nói: “Thấy việc nghĩa mà không làm, chẳng dũng cảm vậy” (Kiến nghĩa bất vi, vô dũng dã) [45, tr.236].
Khổng tử luôn đặt nghĩa đối lập với lợi, ông nhấn mạnh nghĩa, coi thường lợi “Người quân tử rành về điều nghĩa, kẻ tiểu nhân rành về điều lợi” (Quân tử dụ ư nghĩa, tiểu nhân dụ ư lợi) [45, tr.278]. Khi giải quyết mối quan hệ giữa nghĩa và lợi, chúng ta thấy có sự khác biệt căn bản của đạo đức Nho giáo so với học thuyết của Mặc gia. Nho giáo coi thường lợi, Mặc gia nhấn mạnh lợi: Kiêm tương ái, giao tương lợi (cùng yêu nhau, cùng có lợi). Nho giáo mang tính lý tưởng phi thực tế, còn Mặc gia thực tế hơn.
Con người muốn thực hiện được lễ và nghĩa thì phải có lòng dũng cảm, phải dám hy sinh. Khổng Tử cho rằng, “dũng” là biểu hiện của đức nhân, nhờ có dũng mà nhân mới được thực hiện. Tuy vậy, người có dũng và người có nhân cũng khác nhau: “Người nhân ắt có dũng cảm” (Nhân giả tất hữu dũng), nhưng “Người dũng không chắc đã có lòng nhân” (Dũng giả bất tất hữu nhân) [45, tr.526]. Theo Khổng Tử, hành động theo nghĩa thực chất là hành động theo nhân, nhân là chuẩn mực đạo đức cao nhất. Nói cách khác, trong “đức nhân” của Khổng Tử có bao hàm “đức nghĩa”.
Một biểu hiện quan trọng nữa của đức nhân đó là trí: trí tuệ, sự hiểu biết, phân biệt được đúng sai phải trái. Theo Khổng Tử, người nhân phải có trí vì có sáng suốt, có hiểu biết mới biết cách giúp người mà không làm hại cho người, cho mình. Có trí mới biết yêu người đáng yêu, ghét người đáng ghét, mới biết đề bạt người chính trực, gạt bỏ người không ngay thẳng. Trong Luận ngữ, Khổng Tử nhấn mạnh “Người trí có lợi cho đức nhân” (Trí giả lợi nhân) [45, tr.266], rằng người nhân không phải là người ngu, đã là người nhân phải có trí. Tuy vậy, Khổng Tử cũng cho rằng người có trí chưa chắc đã phải là người nhân. Để có trí, Nho giáo khuyên con người cần phải học tập. Trong Công Tôn Sửu, Chương Cú Thượng, sách Mạnh Tử có viết: “Học chẳng chán là trí, dạy dỗ không mỏi mệt là nhân”, và khẳng định Khổng Tử là bậc thánh vì ông “chỉ biết học hỏi không biết chán, dạy dỗ không mệt mỏi” [45, tr.342]. Học để cố gắng hoàn thiện sự hiểu biết và nhân cách của mình, Khổng Tử cũng phê phán những người không có tinh thần học hỏi. Ông yêu cầu phải phân biệt rõ “biết” và “không biết”, rằng: “Việc gì mình biết, nhận là biết; việc gì mình chẳng biết, nhận là chẳng biết. Như vậy mới là biết thật” (Tri chi vi tri chi, bất tri vi bất tri. Thị tri dã - Luận ngữ, Vi chính tiết 17) [50, tr.111 - 112]. Một trong những mục đích chủ yếu của giáo dục Nho học là đào tạo cho xã hội một lớp người hiểu biết đạo lý (hiểu biết các quy phạm về “đạo” và “đức” của Nho giáo). Do đó, Trí theo Khổng Tử và các môn đệ của ông về sau cũng chỉ gói gọn trong sự hiểu biết sách vở của Nho giáo (Ngũ kinh :Thi, Thư, Lễ, Dịch, Xuân Thu và Tứ thư : Luận ngữ, Mạnh Tử, Đại học, Trung dung), và nhiệm vụ căn bản nhất của người học là làm thế nào để nhớ, thuộc những lời dạy của cổ nhân. Trí không phải là những tri thức phản ánh thực tại khách quan của tự nhiên và xã hội để từ đó chỉ đạo hành động của con người. Trí của Nho giáo là những tri thức mang tính giáo điều, sách vở, là sự tầm chương, trích cú.
Theo Khổng Tử, ba đức trí - nhân - dũng có quan hệ gắn bó chặt chẽ với nhau, bổ sung hỗ trợ cho nhau. Trong đó “đức nhân” là cốt lõi, là cơ bản nhất. Trí và dũng là sự biểu hiện cụ thể của nhân, là cơ sở để cho đức nhân được thực hiện. Nhân để rèn luyện tình cảm, trí để luyện rèn về trí tuệ, dũng để rèn nghị lực. Thiết nghĩ ba chuẩn mực đạo đức này dân tộc nào cũng rất coi trọng và coi đây là điều cần thiết cho đạo tu thân. Một trong những tiêu chuẩn của mẫu người lý tưởng (quân tử) mà Khổng Tử quan tâm giáo dục đào tạo là phải có đủ cả ba đức nhân, trí, dũng. Nhân, trí được các thế hệ nhà nho sau này ở các thời đại còn nhắc đến, nhưng riêng dũng thì gần như chỉ có Khổng Tử mới đề cập đến. Chuẩn mực đạo đức này từ Mạnh Tử về sau đã bị lãng quên.
Ngoài những nội dung cơ bản trên, nhân còn gồm nhiều đức khác nữa. Chẳng hạn như:
Trực: sự ngay thẳng, không giả dối.
Kính: tác phong trang nghiêm, thái độ cẩn thận trong công việc.
Thận trọng trong lời nói....
Đức nhân bao hàm trong nó rất nhiều đức khác, nếu chỉ có từng đức tồn tại một cách riêng rẽ thì cũng chưa đủ coi là nhân. Sự trung thực theo Khổng Tử cũng chưa phải là nhân, sự trong sạch (liêm) cũng chưa phải là nhân. Trần Văn Tử khi thấy Thôi Trữ giết vua Tề, ông bỏ đi, qua nước khác thấy đại phu nước này cũng không hơn gì Thôi Trữ, lại bỏ đi nữa. Tuy điều đó xảy ra mấy lần đối với Trần Văn Tử, nhưng Khổng Tử vẫn chỉ khen ông là trong sạch chứ chưa cho là người có đức nhân. Vậy người có đức Nhân theo Khổng Tử phải là người như thế nào? Chúng tôi xin dẫn ra câu sau đây để trả lời cho câu hỏi này. Khi Tử Trương hỏi Khổng Tử về đạo nhân. Khổng Tử đáp: “có thể làm được năm điều (đối với mọi người) trong thiên hạ, là thi hành nhân chính vậy. Xin hỏi về những điều đó. Khổng Tử nói, “đó là: cung kính, khoan dung, thành tín, cần mẫn và có ơn huệ”.
Cung kính thì không khinh nhờn.
Khoan dung thì được lòng mọi người.
Thành tín thì được người tín nhiệm.
Cần mẫn thì nên công.
Có ơn huệ thì dễ sai khiến người” [45, tr.619]
Nhân của Khổng Tử chính là đạo lý làm người, vừa thương người (ái nhân) vừa phải giúp đỡ mọi người (cứu nhân). Theo ông, cứu nhân là quan trọng hơn cả. Vì vậy, một người dù quán triệt nhiều tiêu chuẩn đạo đức Nho giáo đến mức nào, nhưng nếu không đảm bảo được hai mặt ái nhân và cứu nhân thì cũng chưa được coi là người có nhân. Khổng Tử đã gọi người có nhân là người quân tử, trượng phu để đối lập với kẻ tiểu nhân. Nhưng Khổng Tử lại cho rằng: “Người quân tử có khi mắc phải điều bất nhân chăng? Chưa hề có kẻ tiểu nhân làm điều nhân bao giờ” (Quân tử nhi bất nhân giả, hữu hĩ phù! Vị hữu tiểu nhân nhi nhân giả dã) [45, tr.528]. Theo Khổng Tử, thi hành điều nhân phải biết phân biệt thân, sơ, trên, dưới. Sự phân biệt đối xử như vậy cũng là điều đặc biệt trong tư tưởng luân lý, đạo đức của Khổng Tử. Đây là sự khác nhau căn bản giữa tư tưởng đạo đức của Nho gia so với Mặc gia đương thời. Tư tưởng đạo đức của Mặc gia không có sự phân biệt thân sơ, địa vị, đẳng cấp sang hèn, cao thấp. Mặc Tử kêu gọi mọi người cần phải “ái nhân”, có của thì cùng chia nhau, có như vậy mới hợp với “Thiên chí" (ý trời).
Đến thời Hán, “nhân” được xem là cái gốc của sự sinh hoá trong trời đất, thế gia nhờ đó mà đứng, vạn vật nhờ đó mà sinh thành, là cái thiên lý chí công. Như vậy, “đức nhân” lúc này đã được khoác lên mình cái vỏ bọc tôn giáo, ở mức độ nhất định nó mang yếu tố thần bí. Nếu ở Khổng Tử, đức nhân mang tính phức tạp, rất khó thực hiện, nó vừa là lý tưởng, nhưng lại vừa là không tưởng như đã nói tới ở trên thì quan niệm về đức nhân của Hán Nho lại càng mang tính ảo tưởng hơn.
Nhưng tại sao nhà Hán là một triều đại bắt đầu xây dựng chế độ phong kiến trung ương tập quyền, lại đưa Nho giáo lên địa vị độc tôn, thần bí hoá “đức nhân” thêm một bước so với Nho giáo tiên Tần? Theo chúng tôi, để Nho giáo trở thành công cụ hữu hiệu bảo vệ cho chế độ phong kiến thì những người tiếp tục phát triển Nho giáo đã tước đi những nét tích cực mà thần bí hoá nó vì mục đích của giai cấp phong kiến thống trị.
Phạm trù đạo đức thứ hai của Nho giáo là Lễ.
Khởi nguyên “lễ” chưa phải là một phạm trù đạo đức. Tư tưởng “lễ” đã có từ thời Ân - Thương. Đời nhà Ân (thế kỷ XIV- XII TCN), trong khi tế lễ quỷ thần, những thành viên tham dự đều cầm các đồ vật tế lễ khác nhau để phân biệt theo đẳng cấp. ở thời Tây Chu, tư tưởng lễ được thể hiện đặc biệt rõ nét hơn. Lúc này lễ trở thành “nghi lễ” (tức là một phạm trù mang tính tôn giáo), nó chứa đựng yếu tố thần bí, linh thiêng. Chu Công Đán là người đã có công trong việc định ra chế độ lễ nhạc, bao gồm bốn nghi lễ: Quan lễ (lễ đội mũ hay còn gọi là lễ trưởng thành. Nghi lễ này thực hiện khi nam giới đã trưởng thành, nó là bằng chứng ghi nhận người đó có thể gánh vác được việc đời, việc nước); Hôn lễ (lễ cưới); Tang lễ (nghi lễ khi có người chết); Tế lễ (lễ trời đất, bách thần, tổ tiên). Như vậy, lúc đầu lễ chỉ có nghĩa là những nghi lễ, ở đây có thể nói lễ là phạm trù tôn giáo chứ chưa phải là phạm trù đạo đức.
ở thời Tây Chu người ta còn cho rằng, lễ là cái để phân biệt người cao quý và kẻ thấp hèn. Sách Tả truyện, Tương Công năm thứ 22 cho rằng, lễ là rường cột của nước nhà, là phương tiện để cai trị.
Đến Khổng Tử, lễ mới mang ý nghĩa đạo đức. Lễ là quy định về mặt đạo đức trong quan hệ ứng xử giữa người với người. Con cái phải có hiếu với cha mẹ, bề tôi phải trung với vua, chồng vợ có nghĩa với nhau, anh em phải trên kính dưới nhường, bạn bè phải giữ được lòng tin, chữ tín với nhau. Những quy tắc này được coi là bất di bất dịch mà ai cũng phải nhất thiết tuân theo. Như vậy, vô hình chung lễ đã trở thành một xiềng xích trói chặt nhân dân vào chế độ phong kiến.
Lễ còn là trật tự, kỷ cương phép nước mà mọi người đều phải tuân theo. Dựa trên cơ sở những tập quán cũ của nhà Chu (Chu lễ) và theo kinh nghiệm của bản thân về yêu cầu của xã hội đương thời, Khổng Tử đã đưa ra những khuôn phép rất chặt chẽ, cụ thể từ suy nghĩ và hành động của con người. Ông kịch liệt phê phán việc người ta chỉ chú ý đến hình thức của lễ mà không quan tâm đến nội dung của lễ. Khi học trò là Tể Ngã xin phép thầy chỉ để tang cha mẹ một năm, Khổng Tử đã mắng Tể Ngã là bất nhân, bởi không nhớ công sinh thành dưỡng dục của cha mẹ. Một trong những thể hiện đạo hiếu của con cái đối với cha mẹ trước hết là ở việc thực hiện nghĩa vụ nuôi dưỡng cha mẹ khi cha mẹ không đủ khả năng lao động sản xuất. Nhưng ông cho rằng, nuôi cha mẹ mà không kính thì chẳng khác gì nuôi bò nuôi ngựa. Vì vậy, ông đòi hỏi cần phải có thái độ thành tâm và kính trọng trong khi thực hiện lễ. Theo ông, nếu xã hội giữ được lễ thì “hữu đạo” và thịnh trị, còn nếu không giữ được lễ sẽ “vô đạo” và đại loạn. Ông đã quy nguyên nhân làm cho xã hội Trung Quốc thời Xuân Thu loạn lạc, chiến tranh liên miên, con người sống trong đau khổ là do “lễ đã bị huỷ hoại” (khái niệm lễ là do thiên tử nhà Chu đặt ra từ trước). Lễ là biểu hiện của chế độ tông pháp nhằm duy trì chế độ phân biệt đẳng cấp nghiêm ngặt, bảo đảm cho quyền uy tối cao của thiên tử. Như vậy, lễ không chỉ thuần tuý là phạm trù đạo đức, tôn giáo, mà nó đã được chính trị hoá. Nó còn là phạm trù chính trị nhằm duy trì trật tự xã hội. Chính vì nội dung này mà lễ đã được các thế hệ học trò của ông duy trì và đề cao. Tuân Tử đã tuyên bố: “Lễ giáo là điều lớn nhất trong đạo làm người” (Lễ giả, nhân đạo chi cực dã - Tuân Tử, Lễ luận). Lý Cấu ở đời Bắc Tống cho rằng, âm nhạc, chính trị, hình luật đều là những cái nhánh của lễ. Họ quan niệm nhân, nghĩa, trí, tín chẳng qua cũng chỉ là tên gọi khác của lễ mà thôi. Đến Chu Hy (đại biểu của Tống Nho) đã “triết học hoá” lễ: “Lý tức là lễ”. Lý và lễ là những cái có trước, sự vật là những cái có sau. Đồng thời, lễ cũng được các ông vua của triều đại phong kiến sử dụng như là công cụ bảo vệ vương quyền.
Do thấy được vai trò của lễ và đề cao lễ cho nên Khổng Tử yêu cầu mọi người trong lời nói cũng như việc làm đều phải theo lễ: “Những điều trái lễ chớ nên để mắt nhìn tới, điều trái lễ chớ để vào tai, điều trái lễ chớ nói tới, điều trái lễ chớ động tới” (Phi lễ vật thị, phi lễ vật thính, phi lễ vật ngôn, phi lễ vật động) [45, tr.471]. Trong quan điểm giáo dục, Nho giáo nói chung nêu lên chủ trương “tiên học lễ, hậu học văn” (điều trước tiên phải học lễ nghĩa, sau đó mới học văn chương). Khổng Tử đòi hỏi mọi người, từ ông vua cho tới thường dân cần phải rèn luyện nghiêm khắc với mình ngay từ những điều nhỏ nhặt nhất trong sinh hoạt hàng ngày: miếng thịt thái không vuông vắn thì không ăn, chiếu trải không ngay ngắn thì không ngồi. Không những chỉ kêu gọi mọi người thực hiện đúng lễ, mà bản thân ông cũng là một tấm gương về tuân thủ theo lễ. Phấn đấu không mệt mỏi, mãi đến 54 tuổi Khổng Tử mới được nhận chức quan tư khấu (chức quan to thời đó: coi việc cấm lệnh trong nước, tra xét kẻ gian dối, trừng phạt kẻ gây bạo loạn), nhưng chỉ vì khuyên can nhà vua không được mà ông đã từ quan. Sang các nước khác với mong muốn đem học thuyết của mình ứng dụng trong thực tế, nhưng đã không được các vua ủng hộ, ông đã về quê hương mở trường dạy học.
Tư tưởng lễ của Khổng Tử đã được Mạnh Tử, Tuân Tử kế thừa. Tuân Tử cho rằng bậc quân vương hàng ngày phải tự xem xét lại mình ba lần để biết đã làm đúng lễ chưa. Đến Đổng Trọng Thư thì lễ đã được ông đẩy lên đến cực điểm của sự khắt khe. Chỉ vì giữ lễ mà đã dẫn đến những hành vi ngu trung và ngu hiếu đến mức mù quáng thường thấy ở không ít người trong xã hội trước đây.
Như vậy, từ nhà Chu trở đi, ngoài tính chất tôn giáo, lễ bao hàm mọi nghi thức trong sinh hoạt xã hội, thể chế chính trị, những quy định trong hành động của cá nhân, gia đình (ăn mặc, đi đứng, cưới xin, ma chay, hội hè, đình đám,...). Lễ còn là cái để phân biệt địa vị cao thấp của con người. Sự phân biệt ngôi thứ này được thể hiện ở y phục, đồ dùng, ở tác phong, ở lời nói...Những quy định này còn được duy trì trong suốt thời kỳ phong kiến ở Trung Quốc.
Tư tưởng lễ đã nêu trên có tính hai mặt: tích cực và tiêu cực. Về ý nghĩa tích cực, lễ đã đạt tới mức độ sâu sắc, đã trở thành tiêu chuẩn đánh giá và thước đo phẩm giá của con người. Sự giáo dục con người theo lễ của Nho giáo đã tạo thành một dư luận xã hội rộng lớn biết quý trọng người có lễ và khinh ghét người vô lễ. Lễ không chỉ dừng lại ở lý thuyết, ở những lời giáo huấn mà đã đi vào lương tâm của con người. Từ lương tâm đã dẫn đến hành động của con người đến mức trong các triều đại phong kiến xưa, nhiều người thà chết chứ không bỏ lễ. Họ cho rằng, chết đói là việc nhỏ, nhưng thất tiết mới là việc lớn (Chu Hy). Nhờ tin vào lễ và làm theo lễ mà con người có trên dưới, thứ bậc, xã hội có trật tự trong khuôn khổ của chế độ phong kiến. Trải qua hàng nghìn năm, ở Trung Quốc cũng như ở các nước theo Nho giáo đã giữ được yên ổn trong gia đình và trật tự ngoài xã hội. Lễ đã trở thành điều kiện bậc nhất trong việc quản lý đất nước và gia đình. Nhờ lễ mà đạo “cương - thường” được củng cố và duy trì. Đây chính là sự thành công của Nho giáo và cũng là khía cạnh ngày nay chúng ta có thể kế thừa.
Về mặt tiêu cực, lễ là sợi dây ràng buộc con người, làm cho suy nghĩ và hành động của con người trở nên cứng nhắc theo một khuôn phép cũ, bất di bất dịch. Và lễ đã kìm hãm sự phát triển của xã hội, làm cho xã hội trì trệ. Đây là điểm hạn chế của Nho giáo nói chung và đạo đức Nho giáo nói riêng, thể hiện ở tính bảo thủ, tiêu cực, phản lịch sử của nó. Khổng Tử đã từng nói: “Nhà Chu xem gương hai triều đại. Nền văn hiến rực rỡ lắm thay! Ta theo nhà Chu” [45, 251], và sự theo đuổi đó của ông vì mục đích làm cho xã hội lúc đó quay về thời đại vua Nghiêu, vua Thuấn. Khách quan mà đánh giá thì hạn chế trên của Nho giáo có nguyên nhân từ thực tiễn lịch sử của nó. Bởi lẽ, Khổng Tử sống trong thời đại xã hội loạn lạc, người ta tranh giành nhau, chém giết nhau không từ một thủ đoạn tàn ác nào chỉ vì tranh bá, tranh vương, chỉ vì bổng lộc chức tước. Ông hoài cổ, muốn quay ngược bánh xe lịch sử cũng là điều dễ hiểu. Tuy nhiên, chính mặt hạn chế này của Nho giáo ở mức độ nhất định đã để lại tàn dư cho đến tận ngày nay, nó trở thành phong tục, lối sống, nó thấm sâu vào suy nghĩ và hành động của không ít người ở các nước phương Đông, nơi chịu ảnh hưởng của Nho giáo.
Tín là đức tính thứ năm trong ngũ thường. Tín ở đây có nghĩa là lời nói và việc làm phải thống nhất với nhau; tín còn là lòng tin của con người với nhau. “Tín” góp phần củng cố lòng tin cậy giữa người với người. Trong ngũ luân thì “tín” được xem là điều kiện đầu tiên của mối quan hệ bè bạn: “bằng hữu hữu tín” (bạn bè có lòng tin). Tuy nhiên, nội hàm của “đức tín” không chỉ bó hẹp trong mối quan hệ duy nhất này mà nó còn bao hàm cả lòng tin vô hạn vào đạo lý của bậc thánh hiền và các mối quan hệ vua tôi, cha con, chồng vợ.
Để thực hiện nhân và lễ, Khổng Tử đã nêu ra tư tưởng chính danh (danh có nghĩa là tên gọi, danh phận, địa vị; chính có nghĩa là đúng, là chấn chỉnh lại cho đúng với tên gọi và danh phận). Do đó, chính danh là làm cho mọi người ai ở địa vị nào, danh phận nào thì giữ đúng vị trí và danh phận của mình, không rời khỏi vị trí của mình, cũng không giành vị trí của người khác, không lấn vượt và làm rối loạn. Rõ ràng là ở Khổng Tử, chính danh đi kèm với định phận.
Khổng Tử cho rằng, nguyên nhân hỗn loạn ở thời Xuân Thu là do thiên tử nhà Chu không làm tròn trách nhiệm (không làm đúng danh) để quyền lọt vào tay chư hầu. Chư hầu không làm đúng danh phận địa vị nên sĩ đã lấn át.
Vì vậy để xã hội ổn định, có trên có dưới thì mọi người cần làm đúng danh phận, địa vị của mình. Theo ông, “danh không chính thì lời nói chẳng thuận, lời nói không thuận thì việc chẳng nên, việc không nên thì lễ nhạc chẳng hưng vượng, lễ nhạc không hưng vượng thì hình phạt chẳng trúng, hình phạt không trúng ắt dân không biết xử trí ra sao” (Danh bất chính tắc ngôn bất thuận, ngôn bất thuận tắc sự bất thành, sự bất thành tắc lễ nhạc bất hưng, lễ nhạc bất hưng tắc hình phạt bất trúng, hình phạt bất trúng tắc dân vô sở thố thủ túc) [45, tr.498 - 499]. Riêng đối với người cầm quyền (vua - thiên tử) được thay trời cai trị thiên hạ lại càng phải làm đúng danh của mình, có như vậy mọi người mới noi theo. Đặc biệt trong việc chính sự (việc nước), điều đầu tiên nhà vua phải làm là lập lại chính danh. Khi được học trò hỏi về đạo trị nước, Khổng Tử đã khẳng định “Tất phải chính danh chứ gì?” (tất dã chính danh hồ) [45, tr.498], phải xác định vị trí, vai trò, nghĩa vụ và trách nhiệm của từng người để họ hành động cho đúng. Ai ở danh phận nào thì làm tròn danh phận ấy, không được tiếm quyền: “Không đúng chức vị, chẳng bàn tính việc chính trị của chức vị đó” (Bất tại kỳ vị bất mưu kỳ chính) [45, tr.546]. Tăng Tử cũng nói rằng: “Người quân tử suy tính cũng không ra ngoài chức vị của mình” [45, tr.546].
Khổng Tử cho rằng, không ở chức vị ấy thì không được bàn việc của chức vị đó, không được hưởng quyền lợi, bổng lộc của chức vị ấy, tức là nhà cầm quyền phải làm đúng danh phận của mình. Chính danh được thể hiện trong ngũ luân, đó là: Quân nhân - thần trung; phụ từ - tử hiếu; phu nghĩa - phụ thính; huynh lương - đệ đễ; trưởng tuệ - ấu thuận. Nghĩa là, nhà vua phải có đức nhân, bề tôi phải trung thành; cha nhân từ, con có hiếu; chồng có nghĩa, vợ nghe theo; anh nhường nhịn em, em nghe theo anh; người lớn tuổi có sáng suốt, người nhỏ tuổi mới theo. Đó chính là xương sống tư tưởng về đạo đức xã hội của Nho giáo.
Theo Khổng Tử, nhân, lễ, chính danh có quan hệ gắn bó chặt chẽ với nhau. Để thực hiện đúng lễ thì người ta phải hiểu rõ danh phận của mình (chức danh và nghĩa vụ). Nếu ai làm đúng lễ thì người đó mới có đức nhân. Như vậy, chính danh vừa là cách thức, vừa là con đường để đạt được lễ và nhân. Ngược lại, con người khi đã có nhân, có lễ thì tất nhiên phải làm đúng danh.
Tư tưởng chính danh do Khổng Tử nêu ra đã được Mạnh Tử kế thừa. Mạnh Tử đã kịch liệt phê phán các ông vua không làm đúng danh như Kiệt, Trụ: Hại nhân, hại nghĩa là quân tàn tặc; giết quân tàn tặc là giết một thất phu, một tên dân quèn. Nghe nói giết một thất phu tên là Trụ, chứ chưa nghe nói giết vua. Đối với Mạnh Tử, những ông vua gian ác, tàn ngược thì không được gọi bằng danh là vua. Học thuyết chính danh đã được Mạnh Tử phát triển và đặc biệt, Tuân Tử đã dành hẳn thiên “chính danh” để luận bàn về vấn đề này. Tuân Tử đã lý giải một cách khúc triết về danh, công dụng của danh, những cơ sở tạo ra danh, những nguyên nhân dẫn đến loạn danh. Tuân Tử giải thích rằng trong xã hội mỗi người đều có “phận” được định sẵn, nhờ đó mới tránh được sự tranh giành, cướp bóc, mọi người mới hợp sức lại để chống thiên tai. Chính danh theo ông còn là cái để phân biệt người sang, kẻ hèn, vừa để phân biệt những vật giống nhau, khác nhau.
Chính danh là cơ sở để định hình những nội dung cơ bản của đạo đức với mỗi cá nhân. Mục đích của chính danh mà Nho giáo đề cao là sự ổn định xã hội, suy cho cùng là để bảo vệ quyền của thiên tử, duy trì sự phân biệt đẳng cấp. Cơ sở thực tiễn của tư tưởng chính danh là do xã hội loạn lạc: Chư hầu chiếm quyền thiên tử, con giết cha, anh em đánh lẫn nhau.
Chính danh không chỉ là nội dung tư tưởng chính trị của Nho giáo, mà còn là yêu cầu về mặt đạo đức của con người. Mặc dù trời phú tính cho con người, song do tập nhiễm mà mọi người khác xa nhau. Vì vậy, yêu cầu con người sống phải có đạo đức đồng nghĩa với việc kêu gọi mọi người phải tu thân. Tu thân là con đường duy nhất để con người có đạo đức. Những chuẩn mực đạo đức là cụ thể, song để có được nó không dễ ngày một ngày hai. Một trong những phạm trù đạo đức đó là lương tâm, nghĩa vụ và trách nhiệm. Nếu xét theo nghĩa này thì khi một người làm tròn nghĩa vụ và bổn phận của mình tức là người đó có đạo đức. Bởi vì, nếu không c._.ầm, khuyết điểm. Người cho rằng, cách sửa chữa tốt nhất là thật thà tự phê bình và phê bình.
Phê bình là nêu ưu điểm và vạch khuyết điểm của đồng chí mình.
Tự phê bình là nêu ưu điểm và vạch khuyết điểm của mình. Tự phê bình và phê bình phải đi đôi với nhau. Mục đích là cho mọi người học lẫn ưu điểm của nhau và giúp nhau sửa chữa những khuyết điểm” [84, tr.31].
Một người có đạo đức chính là người biết nhận ra sai lầm và sửa chữa sai lầm ấy chứ không phải là cố tình che giấu khuyết điểm của mình và bao che khuyết điểm của người khác. Chính vì vậy, bên cạnh tự phê bình cần phải mạnh dạn phê bình. Phê bình những khuyết điểm của đồng chí đồng nghiệp để họ nhận ra sai lầm và sửa chữa. ở đây, cũng cần tránh việc lợi dụng sự phê bình để vùi dập người khác. Hồ Chí Minh đã nêu ra yêu cầu của phê bình là: “phê bình phải nghiêm chỉnh, chắc chắn, phụ trách, nói có sách, mách có chứng. Phải phê bình với tinh thần thành khẩn xây dựng “trị bệnh cứu người", chớ phê bình lung tung không chịu trách nhiệm” [84, tr.30].
Theo Hồ Chí Minh, mục đích của phê bình là giúp nhau cùng tiến bộ, để sửa đổi cách làm việc cho tốt hơn, đúng hơn, để đoàn kết và nhất trí nội bộ. Do đó, tự phê bình cũng như phê bình phải ráo riết, triệt để, thật thà, không nể nang, phải vạch rõ cả ưu điểm và khuyết điểm. Đồng thời không nên dùng những lời mỉa mai, chua cay. Phê bình việc làm chứ không phải phê bình người. Đối với những người bị phê bình, Người cũng khuyên rằng phải vui lòng để sửa đổi, không nên vì bị phê bình mà nản chí hoặc chán ghét.
Người cũng nêu lên điều kiện để cho phê bình và tự phê bình được thực hiện tốt thì “cán bộ các cấp, nhất là cán bộ cao cấp phải làm gương trước”...phải mở cửa khuyến khích lãnh đạo “phê bình và tự phê bình”” [84, tr.31].
Như vậy, phê bình và tự phê bình là một biện pháp và là một yêu cầu của giáo dục đạo đức. Việc này trước hết phải làm ở đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý để làm gương trước cho nhân dân. Một biện pháp hữu hiệu để giáo dục đạo đức là vấn đề thực hiện khen thưởng, kỷ luật. Khen thưởng, kỷ luật thật nghiêm minh, đúng và kịp thời. Khi có một hiện tượng tốt, một điển hình tốt xuất hiện, sự động viên khen thưởng kịp thời sẽ có tác dụng đáng kể trong việc tạo điều kiện cho cái mới phát triển, góp phần đẩy lùi cái cũ, cái lạc hậu. Khen thưởng là biện pháp quan trọng trong giáo dục đạo đức, nó có tác dụng hỗ trợ, thúc đẩy cho giáo dục có hiệu quả. Bên cạnh đó, vấn đề kỷ luật cũng rất quan trọng. Cần xử lý kỷ luật như thế nào cho xác đáng, cho thấu tình đạt lý...
Thứ ba, cán bộ lãnh đạo, quản lý học tập theo gương đạo đức Hồ Chí Minh
Hồ Chí Minh không chỉ làm một cuộc cách mạng trong tư tưởng đạo đức, không chỉ để lại cho chúng ta một di sản quý giá về tư tưởng đạo đức cách mạng mà bản thân Người còn là một tấm gương ngời sáng về đạo đức cách mạng của người cán bộ lãnh đạo: “Người luôn chăm lo giáo dục, rèn luyện đảng viên về phẩm chất đạo đức và đặt lên hàng đầu vấn đề “tư cách người cách mạng”. Người luôn làm gương và yêu cầu mỗi người, nhất là cán bộ, đảng viên phải có đạo đức cách mạng, phải kết hợp chặt chẽ phẩm chất và năng lực, hồng và chuyên, đức và tài, trong đó đức là gốc” [76, tr.4]
ở Hồ Chí Minh, lời nói và việc làm luôn gắn bó chặt chẽ với nhau. Người không chỉ nói và bàn về đạo đức mới - đạo đức cách mạng, mà còn làm theo đạo đức cách mạng. Người khuyên các cán bộ, đảng viên phải không ngừng phấn đấu và tu dưỡng theo những phẩm chất đạo đức cách mạng, bản thân Người cũng thực hành theo những chuẩn mực đạo đức ấy. Khi nêu lên chuẩn mực đạo đức của người cán bộ là cần, kiệm, liêm, chính, Hồ Chí Minh đã sống rất thanh cao, giản dị, tài sản của Người chỉ là chiếc áo ka ki vai đã sờn, là đôi dép cao su đã theo Người đi suốt những năm ở chiến trường... Nhấn mạnh đức chí công vô tư, Người đã hy sinh lợi ích cá nhân để đấu tranh cho lợi ích dân tộc. Đề cao đức nhân (yêu nước, thương dân), Hồ Chí Minh cũng là người giàu lòng nhân ái. Người thương yêu từ các cụ già, các em bé mồ côi đến những chiến sỹ đang ngày đêm chiến đấu nơi chiến trường. Chữ nhân ở đạo đức Hồ Chí Minh bao gồm tất cả những đức tính tốt đẹp nhất, những tình cảm tốt đẹp nhất, những hành động tốt đẹp nhất của con người. Nó bao gồm cả việc đấu tranh vì tự do và hạnh phúc của con người. Đồng chí Trường chinh đã nhận xét rằng: Một điểm nổi bật trong đạo đức Hồ Chí Minh là lòng thương người. Nhưng đây không phải là lòng thương người siêu giai cấp, trừu tượng mà tình yêu giai cấp đối với công nhân, tình thương yêu vô cùng rộng lớn đối với nhân dân lao động, đối với những người cùng khổ [127, tr.69]. Hồ Chí Minh đã từng nói: Một ngày đồng bào còn chịu khổ là một ngày tôi ăn không ngon, ngủ không yên. Khi nói về đạo đức nhân ái của Hồ Chí Minh, nhà thơ Tố Hữu đã viết: “Bác ơi tim Bác mênh mông thế, ôm cả non sông mọi kiếp người”.
Trong bài Diễn văn đọc tại lễ kỷ niệm 77 năm thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, Tổng bí thư Nông Đức Mạnh đã đánh giá: “Chủ tịch Hồ Chí Minh là người Việt Nam đẹp nhất, tiêu biểu cho phẩm chất đạo đức và khí phách của dân tộc ta, Đảng ta. Giáo dục đạo đức, xây dựng lối sống tốt đẹp theo tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh vừa là yêu cầu cấp bách hiện nay, vừa là nhiệm vụ cơ bản lâu dài” [76, tr.4]. Có thể nói rằng, cả cuộc đời Hồ Chí Minh là một bài học lớn về đạo đức cách mạng mà ngày nay mỗi người Việt Nam nói chung và mỗi cán bộ lãnh đạo, quản lý cần học tập và noi theo.
Noi gương đạo đức Hồ Chí Minh và thực hành theo đạo đức của Người là một cuộc vận động lớn do Đảng ta đang phát động sâu rộng trong Đảng cũng như trong nhân dân. Thực hiện tốt phương châm này cán bộ lãnh đạo, quản lý mới đạt được tiêu chuẩn cán bộ do Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII nêu ra: có bản lĩnh chính trị vững vàng, trung thành với lý tưởng cách mạng, với chủ nghĩa Mác Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh; có năng lực dự báo và định hướng phát triển, tham gia xây dựng đường lối, chính sách, tổ chức nhân dân thực hiện; gương mẫu về đạo đức, lối sống, có tác phong dân chủ, khoa học, có khả năng tập hợp quần chúng, đoàn kết nội bộ; có kiến thức về khoa học lãnh đạo và quản lý...Đồng thời, việc đẩy mạnh giáo dục và xây dựng đạo đức lối sống cho mọi người nhất là đội ngũ cán bộ trong thời kỳ mới theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh cũng là một biện pháp để ngăn chặn “Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, bệnh cơ hội, chủ nghĩa cá nhân…” [24, tr. 65] và đẩy lùi “tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí vẫn nghiêm trọng. Tội phạm và một số tệ nạn xã hội có chiều hướng gia tăng.” [24, tr.63].
Nói tóm lại, cán bộ lãnh đạo, quản lý ở nước ta hiện nay phải vừa có đức, vừa có tài. Đức và tài thống nhất với nhau, bởi nếu cán bộ không có tài thì không thể thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Đức của người cán bộ bao gồm phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống, phong cách, lề lối làm việc...Người có bản lĩnh chính trị vững vàng là người có cả đức lẫn tài.
Từ việc trình bày các giải pháp nêu trên, có thể khái quát thành một số giải pháp cơ bản để xây dựng đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý, nhìn từ góc độ ảnh hưởng của đạo đức Nho giáo như sau:
- Phát triển kinh tế, gắn tăng trưởng kinh tế với công bằng và tiến bộ xã hội là tiền đề cơ bản cho đời sống tinh thần phát triển, trong đó có tư tưởng đạo đức. Để làm được việc này, cần khắc phục những quan niệm hạn chế của Nho giáo về phát triển, về tính bảo thủ và quay trở về với cái cũ lỗi thời của đạo đức Nho giáo.
- Cần quan tâm hơn nữa đến công tác cán bộ – từ sự lựa chọn cán bộ, sắp xếp và bố trí cán bộ, luân chuyển cán bộ, xử lý những tiêu cực của cán bộ, v.v., đến chăm lo đời sống vật chất và tinh thần cho người cán bộ, nhằm kích thích tính trung thực, năng động sáng tạo trong hoạt động của họ. Nho giáo khuyến khích con người học tập không phải nhằm mục đích cao nhất là nâng cao năng lực tư duy và trình độ hiểu biết, mà để làm quan, hưởng bổng lộc từ các hàm phẩm quan lại. Do đó, lối học từ chương đã làm hạn chế tính sáng tạo của tư duy và phát triển nhân cách. Đây là những yếu điểm của Nho giáo cần được khắc phục.
- Kiện toàn và hoàn thiện hệ thống chính trị; tăng cường hiệu quả của của hệ thống pháp luật để xây dựng một nhà nước do dân, vì dân. Người cán bộ lãnh đạo quản lý trong hệ thống nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa vừa với tư cách là chủ thể vận hành các hoạt động của nhà nước, vừa là đối tượng chịu sự kiểm soát về nhiều mặt hoạt động của nó, trong đó có các hành vi đạo đức. Nho giáo là một học thuyết chính trị - đạo đức. Mục đích tối thượng của nó là làm cho xã hội, đất nước được trị an. Tuy nhiên, học thuyết này đã góp phần làm cho bộ máy nhà nước mang tính quan liêu ngày càng nghiêm trọng. Mối quan hệ giữa quan lại và nhân dân là quan hệ “cha mẹ – con cái” (quan lại là phụ mẫu của dân), do đó, dân không có quyền xem xét các hành vi của quan lại, kể cả những hành vi bất hảo nhất. Về mặt này, đạo đức Nho giáo không chỉ là bất cập, mà cần phải khắc phục một cách triệt để nhằm tạo ra sự bình đẳng của mọi người trong xã hội trước pháp luật, có như vậy chúng ta mới xây dựng được một nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Kết luận
Trong lịch sử Trung Quốc cổ đại, Nho giáo là một trong những học thuyết chính trị - đạo đức tiêu biểu nhất. Học thuyết này được ra đời nhằm mục đích ổn định trật tự xã hội. Vì vậy, nội dung cơ bản của Nho giáo là luận bàn về đạo đức. Một trong những nội dung căn bản của Nho giáo là đề cao vai trò và sức mạnh của đạo đức đối với xã hội. Rõ ràng trong bất cứ xã hội nào, ở thời đại nào thì đạo đức luôn giữ vị trí quan trọng, nó là cái để điều chỉnh hành vi của con người trong các mối quan hệ. Xã hội sẽ hỗn loạn, sẽ không còn trật tự kỷ cương nếu không có đạo đức. Nhiều khi đạo đức còn có sức mạnh điều chỉnh hành vi của con người hơn cả sức mạnh của pháp luật. Tuy vậy, Nho giáo cũng vấp phải hạn chế và cũng là hạn chế chung của các học thuyết triết học trước Mác là ở chỗ, quá đề cao đạo đức và cho rằng đạo đức là nhân tố duy nhất quyết định sự hưng vong, thịnh suy của triều đại mà quên mất vai trò quyết định của kinh tế, của tồn tại xã hội. Đạo đức cũng chỉ là một trong những hình thái ý thức xã hội. Cũng giống như các hình thái ý thức xã hội khác nó cũng chịu sự qui định của tồn tại xã hội cho nên việc lấy đạo đức làm cơ sở quyết định cho sự tồn tại của xã hội là tư tưởng duy tâm, không tưởng của Nho giáo.
Một điểm đáng chú ý nữa của đạo đức Nho giáo là đã xem xét đánh giá con người thông qua các mối quan hệ xã hội, đã đặt ra những yêu cầu đạo đức tương đối cụ thể, chỉ rõ trách nhiệm đạo đức cá nhân đối với gia đình, với mọi người và với bản thân. Đặc biệt, Nho giáo đề cao đạo tu thân, coi đây như một yêu cầu quan trọng bậc nhất trong việc tu dưỡng đạo đức của mọi người từ bậc thiên tử xuống thứ dân. Đối với bậc quân vương - những người cầm quyền có trọng trách cao cả là trị nước, dẹp loạn, giáo hoá dân và an dân, thì việc tu thân, sửa đức lại càng quan trọng hơn hết. ở điểm này đạo đức Nho giáo có nội dung tiến bộ hơn hẳn các học thuyết chính trị - đạo đức đương thời như Mặc gia, Đạo gia. Giá trị nhân bản cao nhất của đạo đức Nho giáo là ở việc thi hành nhân nghĩa, ở đạo tu thân dưỡng tính, có vai trò to lớn, góp phần củng cố trật tự xã hội trước đây. Ngày nay, tư tưởng này vẫn còn có ý nghĩa nếu chúng ta loại bỏ hạn chế về lập trường giai cấp của nó trong mục đích bảo vệ vương quyền và thần quyền. Mặc dù có chứa đựng nhiều nhân tố hợp lý, nhưng bản thân Nho giáo vẫn còn những hạn chế nhất định như: Nêu lên những chuẩn mực đạo đức cứng nhắc, sự tu dưỡng đạo đức bằng phương pháp khắc kỷ nghiêm ngặt, Nho giáo đã gò bó, trói buộc con người, làm hạn chế tính năng động sáng tạo của con người. Chính vì vậy, nó trở thành nhân tố kìm hãm sự phát triển của xã hội, làm cho xã hội vận động trong sự trì trệ, chập chạp.
Khi Nho giáo được truyền vào nước ta, các triều đại phong kiến Việt Nam đã tiếp nhận và chịu ảnh hưởng cả mặt tích cực và tiêu cực của Nho giáo nói chung và đạo đức Nho giáo nói riêng. Tam cương, ngũ thường (đạo “cương thường”) đã trở thành một nội dung cơ bản của đạo đức phong kiến Việt Nam. Tuy nhiên, cũng cần khẳng định thêm một điều rằng, đạo đức Nho giáo Trung Quốc đã được người Việt kế thừa có cải biến chứ không còn giữ như nguyên bản nữa.
Đạo đức Nho giáo Trung Quốc có ảnh hưởng sâu rộng ở Việt Nam. Người Việt Nam bất kể thuộc giai tầng nào, ở đâu, dù ít hay nhiều, đều chịu ảnh hưởng của đạo đức Nho giáo, trong đó phải kể đến những người thuộc tầng lớp trên của xã hội (Vua, quan). Do chức phận và địa vị của mình mà họ chịu nhiều ảnh hưởng Nho giáo và đạo đức Nho giáo cả mặt tích cực và tiêu cực. Sự ảnh hưởng của đạo đức Nho giáo không những chỉ trong quá khứ, ngày nay tàn dư của nó vẫn còn có ảnh hưởng cả mặt tích cực và tiêu cực đối với đạo đức cán bộ lãnh, đạo quản lý và ảnh hưởng đến việc xây dựng đạo đức mới cho đội ngũ này ở nước ta.
Chính vì vậy, khi xây dựng đạo đức cho những người cán bộ lãnh đạo, quản lý ở nước ta hiện nay, dù muốn hay không muốn, việc đề cập đến ảnh hưởng của đạo đức Nho giáo và kế thừa những giá trị tích cực của nó là không thể bỏ qua, thậm chí còn là cần thiết.
Để xây dựng được đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý “ngang tầm thời đại” đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, một mặt chúng ta cần phải kế thừa những yếu tố tích cực của đạo đức Nho giáo kết hợp với truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Mặt khác, cũng cần phải đấu tranh để khắc phục những tàn dư tư tưởng của đạo đức phong kiến trong đó cơ bản nhất là những biểu hiện tiêu cực của đạo đức Nho giáo.
Xoá bỏ tư tưởng đạo đức cũ, xây dựng tư tưởng đạo đức mới là công việc đầy khó khăn, phức tạp. Điều này đòi hỏi cần phải tiến hành liên tục, bền bỉ, kiên trì và có sự kết hợp nhiều biện pháp. Trong các biện pháp này, hữu hiệu nhất là phải tạo ra dư luận xã hội sâu rộng và đặc biệt là sự tự tu dưỡng, tự rèn luyện đạo đức của từng cán bộ lãnh đạo, quản lý. Bài học về đề cao sự tu dưỡng đạo đức (tu thân) do Nho giáo nêu lên ngày nay vẫn còn có ý nghĩa chúng ta có thể kế thừa.
Danh mục các công trình khoa học đã công bố của tác giả có liên quan đến đề tài luận án
1. Nguyễn Thị Thanh Mai (1999), "Chữ tín trong Nho giáo và ý nghĩa xã hội hiện nay của nó", Tạp chí Nghiên cứu lý luận (8), tr. 44- 46.
2. Nguyễn Thị Thanh Mai (2002), "Vấn đề nghĩa vụ và quyền lợi trong tư tưởng đạo đức của Hồ Chí Minh", Tạp chí Lý luận chính trị (2), tr. 18 - 20.
3. Nguyễn Thị Thanh Mai (2004), "Tư tưởng "Đức - Tài" của Khổng Tử và tư tưởng "Hồng - Chuyên" của Hồ Chí Minh", Tạp chí Triết học (10), tr.34 - 41.
4. Nguyễn Thị Thanh Mai (2003), Một số biểu hiện tiêu cực về đạo đức của người cán bộ lãnh đạo chính trị trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay, Kỷ yếu đề tài cấp bộ năm 2002 - 2003, tr.246 - 252.
5. Tập thể tác giả (2005), Đạo đức người cán bộ lãnh đạo chính trị hiện nay thực trạng và giải pháp, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
6. Nguyễn Thị Thanh Mai (1/2006), Giáo trình môn lịch sử tư tưởng phương Đông và Việt Nam (Dùng trong trường Đại học Văn hoá) - Chủ nhiệm đề tài khoa học cấp trường.
7. Nguyễn Thị Thanh Mai (12/2006), "Nguyên tắc giáo dục đạo đức của Nho giáo và ý nghĩa đối với việc giáo dục đạo đức ở nước ta hiện nay", Thông báo khoa học của Trường Đại học Văn hoá Hà Nội, tr.27-35.
Danh mục tài liệu tham khảo
1. Đào Duy Anh (1939), Khổng giáo phê bình tiểu luận, Quan hải tùng thư.
2. Đào Duy Anh (2000), Việt Nam văn hoá sử cương, Nxb Văn hoá thông tin.
3. Hải Ân, (1996), Kinh Dịch với đời sống, Nxb Văn hoá dân tộc, Hà Nội.
4. Minh Anh, "Về học thuyết luân lý và đạo đức của Nho giáo", Tạp chí Triết học, (8) (2004), Tr 46 - 51.
5. Lê Thị Tuyết Ba, "Chuẩn mực đạo đức trong bối cảnh của nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay", Tạp chí Triết học, (10) (2003).
6. Nguyễn Văn Bình (2001), Quan niệm Nho giáo về các mối quan hệ xã hội. ảnh hưởng và ý nghĩa của nó đối với xã hội ta ngày nay, Luận án tiến sĩ triết học, Viện Triết học.
7. Nguyễn Thanh Bình (2005), Học thuyết chính trị xã hội của Nho giáo và sự thể hiện của nó ở Việt Nam (Từ thế kỷ XI đến nửa đầu thế kỷ XIX), Luận án tiến sỹ, Khoa Triết học, Đại học khoa học xã hội và nhân văn.
8. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2004), giáo trình triết học, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
9. Phan Văn Các (1986), "Từ những câu chữ có liên quan đến những khái niệm và các mệnh đề Nho giáo", Tạp chí Triết học, (1).
10. Phan Văn Các (1993), "Nghiên cứu Nho giáo Việt Nam trong bối cảnh khu vực và thời đại", Tạp chí Triết học, (3), Tr 41 -46.
11. Phan Văn Các (1995), "Nho học trong sự nghiệp đổi mới đất nước", Tạp chí Cộng sản, (9), Tr 22 - 26.
12. Phan Bội Châu (1998), Khổng học đăng, Nxb Văn hoá Thông tin, Hà Nội.
13. Doãn Chính (chủ biên) (1997), Đại cương triết học Trung Quốc, Nxb Chính trị quốc gia.
14. Phan Đại Doãn (chủ biên) (1999), Một số vấn đề về Nho giáo Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
15. Vũ Trọng Dung, "Tác động của kinh tế thị trường đến đạo đức người cán bộ quản lý", Tạp chí Triết học, (5) (2004), Tr 5- 11.
16. Nguyễn Tuấn Dũng - Đỗ Minh Hợp (2002), Từ điển quản lý xã hội. Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
17. Nguyễn Đăng Duy (1998), Nho giáo với văn hoá Việt Nam, Nxb Hà Nội.
18. Quang Đạm (1978), "Nho giáo đối với nước và thiên hạ", Tạp chí Triết học, (4), Tr 136 -152
19. Quang Đạm (1990), "Chủ nghĩa yêu nước Nguyễn Trãi", Tạp chí Triết học, (3).
20. Quang Đạm (1994), Nho giáo xưa và nay, Nxb Văn hoá, Hà Nội.
21. Đại học - Trung dung (1991), Dịch giả Quang Đạm, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
22. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
23. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
24. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
25. Đảng Cộng sản Việt Nam (1997), Văn kiện Hội nghị lần thứ ba, BCHTW khoá VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
26. Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Văn kiện Hội nghị lần thứ 5, BCHTW khoá VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
27. Đề tài khoa học cấp Nhà nước KX 07 - Con người Việt Nam - mục tiêu và động lực của sự phát triển kinh tế- xã hội.
28. Đề tài khoa học cấp bộ (2002) - Chủ nhiệm đề tài: Vũ Xuân Chính - Cơ sở khoa học của công tác xây dựng quy hoạch đội ngũ công chức hành chính nhà nước đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong giai đoạn công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước.
29. Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh (2003), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
30. Trần Văn Giàu (1973, 1975), Sự phát triển của tư tưởng Việt Nam thế kỷ XIX đến cách mạng tháng Tám, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, T1, T2.
31. Trần Văn Giàu (1978), “Đạo đức Nho giáo và đạo đức truyền thống Việt Nam”, Triết học (1), Tr 33 - 50.
32. Trần Văn Giàu (1980), Giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
33. Thomas Gordon (2001), Đào tạo người lãnh đạo hiệu quả: Công cụ chủ yếu của những nhà lãnh đạo thành công, Dịch giả Cao Đình Quát, Nxb trẻ thành phố HCM.
34. Lương Đình Hải, “Mấy vấn đề về phẩm chất đạo đức của cán bộ, đảng viên trong thời kỳ đổi mới”, Tạp chí Triết học (10) (2004), Tr 5 - 13.
35. Cao Thu Hằng, “Giá trị đạo đức truyền thống và những yêu cầu đạo đức đối với nhân cách con người Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Triết học (7) (2004), Tr 17 -24.
36. Nguyễn Hùng Hậu (2003), “Đặc điểm của Nho Việt” Tạp chí Triết học (3), tr. 41 - 43.
37. Nguyễn Hùng Hậu (2004), Triết lý trong văn hoá phương Đông, Nxb Đại học Sư phạm.
38. Lê Thị Thanh Hoà (1998), Việc đào tạo và sử dụng quan lại triều Nguyễn từ 1802 – 1884, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
39. Nguyễn Văn Hồng (dịch) (2001), “Tư tưởng Nho giáo và luân lý gia đình”, Thông tin khoa học xã hội, (12), tr. 29 - 35.
40. Cao Xuân Huy (1995), Tư tưởng phương Đông gợi những điểm nhìn tham chiếu, Nguyễn Huệ Chi soạn, chú, giới thiệu, Nxb Văn học.
41. Trần Đình Hượu (1984), “Mấy ý kiến bàn về nghiên cứu Nho giáo”, Tạp chí nghiên cứu nghệ thuật (1,2,3).
42. Trần Đình Hượu (1995), Đến hiện đại từ truyền thống, Nxb Văn hoá.
43. Trần Đình Hượu (2001), Các bài giảng về tư tưởng phương Đông, Nxb đại học Quốc gia Hà Nội.
44. Trần Đình Hượu, “ảnh hưởng tiêu cực của Nho giáo trong cách mạng hiện nay”, Tạp chí thông tin lý luận, (2) (1986), Tr 34- 40.
45. Chu Hy (1998), Tứ thư tập chú, Dịch và chú giải Nguyễn Đức Lân, Nxb Văn hoá thông tin, Hà Nội.
46. Phùng Khiết (chủ biên) (1992), Triết học đại từ điển, Thượng Hải Tùng Thư xuất bản xã.
47.Vũ Khiêu (chủ biên) (1990), Nho giáo xưa và nay, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
48. Vũ Khiêu (chủ biên) (1974), Đạo đức mới, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
49. Vũ Khiêu (1995), Nho giáo và gia đình, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
50. Vũ Khiêu (1995), Nho giáo và đạo đức, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
51. Vũ Khiêu (1996), Nho giáo và sự phát triển ở Việt Nam, Đề tài KX06 - 10 - 1996.
52. Nguyễn Hữu Khiển, “Đạo đức công vụ và vấn đề nâng cao đạo đức công vụ cho đội ngũ cán bộ, công chức ở nước ta hiện nay”, Tạp chí Triết học (10) (2003).
53. Khổng Tử (1950), Luận ngữ, Dịch giả Đoàn Trung Còn, Nxb Trí đức Tòng Thơ, Sài Gòn.
54. Khổng Tử (1992), Luận ngữ, Dịch giả Lê Phục Thuận, Nxb Văn học.
55. Trần Trọng Kim (2001), Nho giáo, Nxb Văn hoá thông tin, Hà Nội.
56. Nguyễn Thế Kiệt (2001), ảnh hưởng của đạo đức phong kiến trong cán bộ lãnh đạo quản lý của Việt Nam hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
57. N. Kondrat (1996), Phương Đông và phương Tây, đại cương triết học vấn đề triết học, triết học lịch sử, văn học Đông và Tây, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
58. Kỷ yếu đề tài cấp bộ (2003), Đạo đức người cán bộ lãnh đạo chính trị trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay - thực trạng và xu hướng biến động, Chủ nhiệm đề tài Nguyễn Thế Kiệt, Học viện chính trị quốc gia HCM.
59. Nguyễn Hiến Lê và Giản Chi (1992), Đại cương triết học Trung Quốc, Quyển 1 và Quyển 2, Nxb thành phố Hồ Chí Minh.
60. Nguyễn Hiến Lê và Giản Chi (1994), Tuân Tử, Nxb Văn hoá.
61. Nguyễn Hiến Lê (1994), Kinh Dịch - Đạo của người quân tử, Nxb Văn học.
62. Nguyễn Hiến Lê (1996), Khổng Tử, Nxb Văn hoá.
63. VI. Lênin (1971), Toàn tập, Tập 27, Nxb Sự thật, Hà Nội.
64. V.I. Lênin (2006), Toàn tập, Tập 45, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
65. Ngô Sỹ Liên (1985), Đại Việt sử ký toàn thư, Tập 1, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
66. Lịch sử tư tưởng Việt Nam (Văn tuyển) (2004), Tập 2, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
67. Nguyễn Thế Long (1990), Nho học ở Việt Nam, giáo dục và thi cử, Nxb Giáo dục.
68. Dương Lực (2002), Kinh điển văn hoá 5000 năm Trung Hoa, Chủ tịch hội đồng dịch thuật Trần Thị Thanh Liêm, Nxb Văn hoá - thông tin.
69. Nguyễn Văn Lý, “Vấn đề nâng cao đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ, đảng viên ở nước ta hiện nay”, Tạp chí triết học (6) (2004) Tr.5 - 10.
70. C.Mác-Ph.Ăngghen (1980), Tuyển tập, Tập 1, Nxb Sự thật, Hà Nội.
71. C.Mác-Ph.Ăngghen (2004), Toàn tập, Tập 20, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
72. C.Mác- Ph.Ăngghen (2000), Toàn tập, Tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
73. C.Mác-Ph.Ăngghen (2000), Toàn tập, Tập 40, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
74. Mạnh Tử (thượng, hạ), (1950), Dịch giả Đoàn Trung Còn, Nxb Trí Đức Tòng Thơ, Sài Gòn.
75. Mạnh Tử ( thượng, hạ) (1972), Dịch giả Nguyễn Phương Khôi, Trung tâm học liệu Bộ Giáo Dục (Sài Gòn).
76. Nông Đức Mạnh, Diễn văn đọc tại lễ kỷ niệm 77 năm thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, Báo Nhân dân số ra ngày 3/2/2007 với nhan đề “Phát huy truyền thống vẻ vang của đảng, không ngừng học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” đăng trên trang 1 và 4
77. Hồ Chí Minh (2004), Toàn tập, Tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
78. Hồ Chí Minh (2004), Toàn tập, Tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
79. Hồ Chí Minh (2004), Toàn tập , Tập 6, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
80. Hồ Chí Minh (2004), Toàn tập , Tập 7, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
81. Hồ Chí Minh (2004), Toàn tập , Tập 8, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
82. Hồ Chí Minh (2004), Toàn tập , Tập 9, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
83. Hồ Chí Minh (2004), Toàn tập , Tập 12, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
84. Hồ Chí Minh (1993), Bàn về đạo đức, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
85. Hồ Chí Minh (1993) Về đạo đức,( công trình nghiên cứu, sưu tầm, tuyển chọn những ý kiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh về đạo đức), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
86. Hà Thúc Minh (1999), Lịch sử triết học Trung Quốc, Tập 1, Nxb thành phố Hồ Chí Minh.
87. Hà Thúc Minh (1999), Lịch sử triết học Trung Quốc, Tập 2, Nxb thành phố Hồ Chí Minh.
88. Hà Thúc Minh (2001), Đạo Nho và văn hoá phương Đông, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
89. Phạm Quang Nghị (1988), Đào tạo cán bộ và vấn đề giáo dục chính trị - tư tưởng, Luận án PTS, Học viện Chính trị Quốc gia HCM.
90. Nguyễn Thị Nga (1999), Quan niệm của Nho giáo về giáo dục con người và ý nghĩa của nó đối với việc giáo dục con người ở Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá, Luận án tiến sĩ triết học, Đại học Khoa học xã hội và nhân văn - Đại học Quốc gia, Hà Nội.
91. Hữu Ngọc (1985), “Phải chăng Khổng giáo là động lực phát triển kinh tế Nhật Bản hiện đại”, Tạp chí Triết học, (2), tr.55 - 59.
92. Phan Ngọc (1998), Bản sắc Văn hoá Việt Nam, Nxb Thanh niên.
93. Phan Ngọc (2000), Một cách tiếp cận văn hoá, Nxb Thanh niên.
94. Nhữ Nguyên (1990), Lễ ký, kinh điển về việc lễ, (Trần Kiết Hùng hiệu đính), Nxb Đồng Nai.
95. Những vấn đề đạo đức trong kinh tế thị trường (1996), Nhiều tác giả, Viện Thông tin khoa học xã hội, Hà Nội.
96. Lê văn Quán (1997), Đại cương lịch sử tư tưởng Trung Quốc, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
97. Lê Văn Quán (2003), “Thử bàn về đạo “hiếu” của Nho gia”, Tạp chí Hán Nôm, (2), tr. 3 - 8.
98. Lê Văn Quán (2004), “Bước đầu tìm hiểu luân lý đạo đức trong văn hoá truyền thống Nho gia”, Tạp chí Hán Nôm, (2), tr. 3 - 10.
99. Quốc triều hình luật (1991), Nxb Pháp lý, Hà Nội.
100. Trần Dân Tiên (1976), Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ Tịch, Nxb Sự thật, Hà Nội.
101. Vũ Tình (1998) Đạo đức học phương Đông cổ đại, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
102. X.A. Tôcarev (1994), Các hình thức tôn giáo sơ khai và sự phát triển của chúng, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
103. Song Thành (2005), Hồ Chí Minh nhà tư tưởng lỗi lạc, Nxb Lý luận chính trị.
104. Lê Sỹ Thắng (1997, Lịch sử tư tưởng Việt Nam, Tập 2, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
105. Lê Sỹ Thắng (1987), “Mấy nét tổng quát về Nho giáo trong lịch sử tư tưởng Việt Nam”, Tạp chí Triết học (2).
106. Lê Sỹ Thắng ( Chủ biên) (1994), Nho giáo tại Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
107. Lê Sỹ thắng (1997), Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người và chính sách xã hội, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
108. Nguyễn Chương Thâu (1998), “Nho giáo với vấn đề hiện đại hoá ở Việt Nam”, Tạp chí Nghiên cứu Trung Quốc, Trung tâm KHXH và NV quốc gia, (2), Tr 150.
109. Lê Thi (1997), Vai trò gia đình trong việc xây dựng nhân cách con người Việt Nam, Nxb Phụ nữ.
110. Vi Chính Thông (1996), Nho gia với Trung Quốc ngày nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
111. Nguyễn Đăng Thục (1991), Lịch sử triết học phương Đông, Tập 1, Nxb thành phố Hồ Chí Minh.
112. Nguyễn Đăng Thục (1991), Lịch sử triết học phương Đông, Tập 2, Nxb thành phố Hồ Chí Minh.
113. Nguyễn Đăng Thục (1991), Lịch sử triết học phương Đông, Tập 3, Nxb thành phố Hồ Chí Minh.
114. Nguyễn Tài Thư (1982), “Thử tìm hiểu vị trí của ba đạo: Nho, Phật, Lão trong lịch sử tư tưởng Việt Nam”, Tạp chí Triết học (1), Tr 120 - 134.
115. Nguyễn Tài Thư (1985), “Xã hội phong kiến với sự phát triển của con người Việt nam trong lịch sử”, Tạp chí Triết học (4), Tr 73 - 89.
116. Nguyễn Tài Thư (1993), Lịch sử tư tưởng Việt Nam, Tập 1, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
117. Nguyễn Tài Thư (1996), Vấn đề con người trong Nho học sơ kỳ, Luận án PTS khoa học triết học, Viện Triết học.
118. Nguyễn Tài Thư (1997), Nho học và Nho học ở Việt Nam (Một số vấn đề lý luận và thực tiễn), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
119. Nguyễn Tài Thư (1997), “ảnh hưởng của các hệ tư tưởng và tôn giáo đối với con người Việt Nam hiện nay”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
120. Lương Duy Thứ, “Về cội nguồn Nho giáo của những lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh”, Tập san Khoa học xã hội và nhân văn, (8) (1999), Tr 84 - 94.
121. Trần Thị Hồng Thuý (1996), ảnh hưởng của Nho giáo với chủ nghĩa yêu nước truyền thống, Luận án PTS, Viện Triết học.
122. Lê Văn Tuấn, (2004), “Những phẩm chất cơ bản cần có của người cán bộ trong sự nghiệp đổi mới”, Tạp chí Triết học, (2)), Tr 5 -11.
123. Khương Lâm Tường, Lý Cảnh Minh (chủ biên) (1990), Khổng Tử gia giáo, Nxb Thế giới.
124. Nguyễn Trãi toàn tập (1978), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
125. Nguyễn Trãi - khí phách và tinh hoa dân tộc (1980), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
126. M.T. Stepaniants (2003), Triết học phương Đông (Trung Hoa, ấn Độ và các nước Hồi giáo), Dịch giả Trần Nguyên Việt, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
127. Hoàng Trung (2001), Đạo đức cách mạng trong tư tưởng Hồ Chí Minh qua các phạm trù mà người đã sử dụng, Luận án TS Triết học, Viện Triết học
128. Trần Lê Sáng (1990), Chu Văn An, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Thiếp ba bậc thầy của nền giáo dục Việt Nam, Nxb Giáo dục.
129. Nguyễn Đức Sự (1978), “Sự vận dụng Nho giáo trên lập trường nhân dân của Nguyễn Đình Chiểu”, Tạp chí Triết học (3).
130. Nguyễn Thị Vân (2005), Học thuyết tam tòng, tứ đức trong Nho giáo và ảnh hưởng của nó đối với người phụ nữ Việt Nam hiện nay - thực trạng và giải pháp, luận văn thạc sĩ, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
131. Nguyễn Khắc Viện (1993), Bàn về đạo Nho, Nxb Thế giới mới.
132. Viện nghiên cứu Hán nôm Việt Nam, Kỷ yếu hội thảo quốc tế về Nho giáo ở Việt Nam (từ ngày 17/12 đến 18/12/2004)
133. Viện Ngôn ngữ - KHXH Việt Nam (1992), Từ điển tiếng Việt, Trung tâm từ điển ngôn ngữ, Hà Nội.
134. Trần Nguyên Việt (2004), “Phạm trù “Đức” trong học thuyết của Khổng Tử”, Tạp chí Triết học (3),), Tr 25 -30.
135. Nguyễn Hữu Vui, (1998), Lịch sử triết học, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
136. Nguyễn Bình Yên (2002), ảnh hưởng của tư tưởng phong kiến đối với con người Việt Nam hiện nay, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
._.