Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tôn giáo là một vấn đề phức tạp và hết sức nhạy cảm. Trước đổi mới, ở nước ta, tôn giáo được nhìn nhận, đánh giá theo những chiều hướng khác nhau, nhưng phần lớn đều khẳng định, tôn giáo là nhân tố tiêu cực trong đời sống xã hội. Trong quá trình đổi mới, vấn đề tôn giáo được nhìn nhận một cách toàn diện hơn. Tôn giáo vừa có mặt tiêu cực nhưng đồng thời cũng có những giá trị tích cực. Vì vậy, việc nghiên cứu hướng đến những phát hiện hợp lý, khoa học là một v
93 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 2036 | Lượt tải: 2
Tóm tắt tài liệu Ảnh hưởng của đạo Cao Đài Ban Chỉnh đối với đời sống tinh thần ở Bến Tre, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ấn đề không bao giờ cũ.
Thực tế ở Việt Nam, trong hành trình lịch sử dân tộc, bên cạnh những hạn chế, những đóng góp của tôn giáo đối với dân tộc là khó có thể phủ nhận. Một số tôn giáo đã có vai trò to lớn trong quá trình đấu tranh giành độc lập dân tộc và toàn vẹn lãnh thổ. Bên cạnh đó, tôn giáo còn đóng góp những giá trị quý báu tạo nên bản sắc văn hoá dân tộc độc đáo của Việt Nam.
Ngày nay, trước những biến đổi hết sức nhanh chóng của tình hình trong nước và quốc tế, các tôn giáo đang có những biến động khá phức tạp theo nhiều chiều hướng khác nhau. Nhiều vấn đề đã và đang được đặt ra có tính thời sự cấp thiết xung quanh việc đánh giá vai trò của tôn giáo, ảnh hưởng của tôn giáo đối với văn hoá hay đối với đời sống tinh thần nói chung. Trước tình hình đó, nhận thức được vai trò của tôn giáo trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Đảng ta đã đi đến khẳng định: tín ngưỡng tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân, đạo đức tôn giáo có nhiều điều phù hợp với công cuộc xây dựng xã hội mới (Nghị quyết số 24-NQ/TW của Bộ Chính trị, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam ra ngày 16-10-1990). Tiếp tục quan điểm này, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp tục khẳng định, phát huy những giá trị văn hoá, đạo đức tốt đẹp của các tôn giáo. Nghị quyết Đại hội X xác định: đồng bào các tôn giáo là bộ phận quan trọng của khối đại đoàn kết dân tộc.
Cao Đài là một tôn giáo rất trẻ, xuất hiện vào đầu thế kỷ XX (1926), tại Nam bộ. Ngay từ những ngày đầu thành lập, tôn giáo này đã lôi cuốn ồ ạt hàng vạn người, sau đó trở thành một trong những tôn giáo lớn ở Việt Nam. Tính đến năm 1975, chưa đầy nửa thế kỷ đã thu nạp gần 3 triệu tín đồ. Cao Đài trở thành một hiện tượng xã hội đặc biệt thu hút sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu văn hóa và lịch sử ở Việt Nam. Là một tôn giáo địa phương nhưng Cao Đài có bộ máy hành chính đạo khá chặt chẽ và hoàn chỉnh như bộ máy nhà nước từ trung ương đến cơ sở. Lịch sử giáo hội tuy ngắn ngủi, song có thời kỳ hết sức phức tạp, phân nhiều chi phái khác nhau. Mỗi một chi phái có vai trò và ảnh hưởng khác nhau đối với lịch sử của vùng đất Nam bộ này. Vùng đất Bến Tre như một cù lao của miền Tây Nam bộ, ở đây trong lịch sử đã từng nảy sinh nhiều nhân vật văn hoá có ảnh hưởng lớn trong những năm đầu và suốt thế kỷ XX như Phan Thanh Giản, Nguyễn Đình Chiểu, Nguyễn Thị Định... Trong số những người đó có ông Nguyễn Ngọc Tương với chi phái Cao Đài Ban Chỉnh rất đặc thù. ảnh hưởng của đạo Cao Đài Ban Chỉnh đối với nhân dân Bến Tre nói riêng và vùng đồng bằng sông Cửu Long nói chung là khá sâu đậm. Thế nhưng việc nghiên cứu ảnh hưởng của đạo Cao Đài Ban Chỉnh đối với đời sống tinh thần ở Bến Tre, cho đến nay vẫn còn là vấn đề bỏ ngỏ. Đây là đề tài có ý nghĩa lý luận và thực tiễn hết sức cấp bách. Nghiên cứu sự ảnh hưởng của nó đối với đồng bào tín đồ góp phần phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết dân tộc trong giai đoạn cách mạng hiện nay, do vậy, nó trở thành vấn đề thời sự không chỉ đối với Bến Tre mà của cả khu vực. Chính điều này thúc đẩy tác giả chọn vấn đề này làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Cho đến nay, về tôn giáo nói chung và đạo Cao Đài nói riêng đã có nhiều công trình nghiên cứu, tiêu biểu như sau:
- Sự phát triển của tư tưởng Việt Nam của GS Trần Văn Giàu, 1993.
- Một số tôn giáo ở Việt Nam của TS. Nguyễn Thanh Xuân - Ban Tôn giáo Chính phủ, 2005.
- Tôn giáo và hiện thực của Nguyễn Chí Mỳ, 1998.
- Lịch sử đạo Cao Đài thời kỳ tiềm ẩn (1920 - 1926) của Lê Anh Dũng.
- Lịch sử của đạo Cao Đài (1926 - 1937) của GS Trần Quang Vinh.
- Bước đầu tìm hiểu đạo Cao Đài của GS Đặng Nghiêm Vạn, 1995.
Các công trình này đã nghiên cứu tôn giáo lớn ở Việt Nam, trong đó có đạo Cao Đài nhưng với đạo Cao Đài phần nhiều chỉ mới dừng ở bước đầu tìm hiểu. Bên cạnh đó, một số luận văn về đạo Cao Đài như:
- Bước đầu tìm hiểu một số biểu hiện đặc thù của đạo Cao Đài của Nguyễn Văn Ron, luận văn thạc sĩ Triết học, Hà Nội, 1995.
- Đạo Cao Đài và quá trình đấu tranh loại bỏ mặt chính trị phản động của giáo phái Cao Đài Tây Ninh trong giai đoạn cách mạng hiện nay của Võ Văn Phuông - luận văn thạc sĩ Triết học, Hà Nội, 1995.
- ảnh hưởng của đạo Cao Đài đối với đời sống tinh thần ở Tây Ninh của Nguyễn Thị Thu Nga, luận văn thạc sĩ Triết học, Hà Nội, 2000.
Tuy nhiên, ảnh hưởng của đạo Cao Đài Ban Chỉnh đối với đời sống tinh thần ở Bến Tre thì chưa có công trình nào nghiên cứu.
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu
- Mục đích của luận văn:
Trên cơ sở phân tích ảnh hưởng của đạo Cao Đài Ban Chỉnh đối với đời sống tinh thần ở Bến Tre, luận văn đưa ra một số giải pháp nhằm góp phần định hướng hoạt động của đạo thực hiện tốt phương châm truyền thống "phụng đạo - yêu nước", qua đó đóng góp vào xây dựng đời sống tinh thần phong phú trong một bộ phận nhân dân Bến Tre.
- Nhiệm vụ của luận văn:
- Để đạt mục đích trên, luận văn tập trung giải quyết những nhiệm vụ sau:
+ Trình bày một vài nét về đạo Cao Đài nói chung và Cao Đài Ban Chỉnh nói riêng.
+ Phân tích sự ảnh hưởng của đạo Cao Đài Ban Chỉnh đối với đời sống tinh thần trong một bộ phận nhân dân Bến Tre.
+ Đề xuất những nhóm giải pháp cơ bản giúp cho việc khơi dậy mặt tích cực, khắc phục mặt tiêu cực của đạo Cao Đài Ban Chỉnh nhằm góp phần xây dựng đời sống tinh thần tiến bộ ở Bến Tre.
- Phạm vi nghiên cứu của luận văn:
Luận văn chỉ giới hạn ở việc nghiên cứu ành hưởng của đạo Cao Đài Ban Chỉnh đối với một số lĩnh vực đời sống tinh thần ở Bến Tre.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
- Cơ sở lý luận:
Luận văn dựa trên cơ sở lý luận của Chủ Nghĩa Mác-Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm về tôn giáo của Đảng Cộng sản Việt Nam; kế thừa có chọn lọc các công trình nghiên cứu khoa học có nội dung gần gũi với đề tài.
- Phương pháp nghiên cứu:
Luận văn chủ yếu sử dụng phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, phương pháp lịch sử - lôgíc, phân tích - tổng hợp, đồng thời, luận văn còn sử dựng phương pháp điều tra, khảo sát thực tế.
5. Những góp mới của luận văn
Luận văn trình bày sự hình thành của đạo Cao Đài Ban Chỉnh, nêu bật lên được những yếu tố tích cực, nhất là tinh thần yêu nước và ảnh hưởng của đạo đối với đời sống tinh thần ở Bến Tre. Trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp có tính khả thi cho việc khơi dậy mặt tích cực, khắc phục mặt tiêu cực của đạo Cao Đài Ban Chỉnh trên địa bàn tỉnh Bến Tre.
6. ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Luận văn góp phần nhận thức đúng đắn về sự tồn tại của tôn giáo trong Chủ nghĩa xã hội, những đóng góp quan trọng của đạo Cao Đài Ban Chỉnh trong hai cuộc kháng chiến cứu nước và trong quá trình xây dựng đất nước đi lên Chủ nghĩa xã hội.
- Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu và học tập triết học nhất là chuyên đề về tôn giáo và cũng là tài liệu tham khảo góp phần vào việc hoạch định chủ trương, chính sách đối với công tác tôn giáo, nhất là đạo Cao Đài Ban Chỉnh ở Bến Tre.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3 chương, 8 tiết.
Chương 1
MộT VàI NéT Về ĐạO CAO Đài BAN CHỉNH
1.1. Sự ra đời và phát triển của đạo Cao Đài Ban Chỉnh
1.1.1. Sự ra đời và phát triển của đạo Cao Đài
Đạo Cao Đài cũng như các tôn giáo khác ra đời đều gắn liền với quá trình tồn tại và phát triển của xã hội. Suy cho cùng, sự ra đời, phát triển và mất đi của một tôn giáo là do sự phát triển của điều kiện kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội quy định. Vì vậy, khi nghiên cứu bất kỳ một tôn giáo, tín ngưỡng nào chúng ta không thể tách rời lịch sử của đất nước, của một vùng, miền đã là cái nôi của nền tín ngưỡng, tôn giáo ấy. Đạo Cao Đài được khởi nguyên trong thập niên 20 của thế kỷ XX, tại miền Nam, lúc ấy còn được gọi là Nam kỳ, Nam kỳ lục tỉnh với những điều kiện kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội sinh ra nó.
1.1.1.1. Khái quát về dân cư và văn hóa vùng đất Nam bộ
Lịch sử khai khẩn vùng đất Nam bộ của người Việt được hơn 300 năm, nhưng lịch sử vùng đất này đã có từ lâu và trải qua nhiều bước thăng trầm theo sự biến thiên của tự nhiên, xã hội và con người, Nam bộ hiện nay là đất Phù Nam xưa. Vương quốc Phù Nam được hình thành từ đầu công nguyên tồn tại đến cuối thế kỷ thứ VI bị sụp đổ. Từ sau khi vương quốc Phù Nam sụp đổ đến khi người Việt đến khai khẩn (đầu thế kỷ XVII) cư dân Nam bộ rất thưa thớt. Công cuộc khai khẩn vùng đất Nam bộ được mở đầu bằng những cuộc di dân ngấm ngầm, không tuyên bố của người Việt từ đầu thế kỷ XVII. Chính lịch sử khai phá như vậy, nên nguồn gốc và thành phần cư dân Nam bộ rất đa dạng, phức hợp, một tập hợp những mảng vỡ các cộng đồng truyền thống lâu đời Việt, Khơme, Chăm, Hoa. Các cộng đồng truyền thống này vốn có quan hệ lịch sử văn hóa với nhau, nhưng đã hình thành những cộng đồng xã hội mang bản sắc độc lập, là những nét độc đáo so với miền Bắc và miền Trung. Họ là những người có nguồn gốc xã hội khác nhau. Tuy vậy, họ đều có nguồn gốc văn hóa Việt truyền thống và giàu bản sắc. Khi vào vùng đất mới, hành trang văn hóa của họ khá phong phú, họ mang theo nhiều truyền thống phong tục tập quán ở miền Bắc, miền Trung. Nhưng dần dần trong quá trình thích nghi với môi trường mới, họ đã trút bỏ không ít những ràng buộc của thể chế cũ cũng như tâm lý, nếp sống cũ ở miền Bắc, miền Trung. đặc biệt ở vùng đất mới, người dân Nam bộ phải đấu tranh gian khổ để chống chọi với thiên nhiên, thú dữ, bệnh tật để sinh tồn. Trước những hiểm nguy và thách thức, tính mạo hiểm, đầu óc sáng tạo được phát triển.
Tuy nhiên, thiên nhiên ở Nam bộ rất phong phú, khi được khai thác lại tỏ ra rất hào hiệp, lại có khí hậu điều hòa nên đời sống vật chất của người dân không gặp khó khăn. Họ vốn đoàn kết để vượt qua thử thách hiểm nguy, đến khi có cuộc sống vật chất dễ chịu họ sống chan hòa cởi mở với nhau, tất cả những điều đó tạo ra tính cách rất đặc trưng của dân Nam bộ: khảng khái, nghĩa khí nhưng rất phóng khoáng, hào hiệp; đối với kẻ thù thì dũng cảm, kiên quyết; đối với anh em bạn bè thì chân thành cởi mở, trọng nghĩa khinh tài. Trịnh Hoài Đức đã nhận xét về Gia Định cũng là nhận xét chung về Nam bộ. Gia Định đất rộng, thực vật nhiều, không lo bị đói rét, cho nên dân ít phải dành dụm sĩ khí hiên ngang, con người chuộng nghĩa tiết [19, tr 190].
ở Nam bộ với tính mở của địa hình, của thiết chế và cá tính của con người với đầu óc thông thoáng, sẵn sàng ở tư thế giao lưu, tiếp thu, rồi hội nhập với cái mới. Chính vì tính cách ấy, khi tiếp xúc với cái mới người Nam bộ dễ dàng có thái độ bao dung, chấp nhận, rồi tích cực ủng hộ. Do vậy sự kết dính giữa các tộc người cùng với tính cách văn hóa và trình độ của những người lưu tán đã là mảnh đất màu mỡ cho sự ra đời và nuôi dưỡng nhiều thứ tôn giáo, trong đó có đạo Cao Đài.
1.1.1.2. Hoàn cảnh kinh tế, chính trị, xã hội
Với chính sách khai thác thuộc địa của Pháp, chính quyền thực dân Pháp đã coi Nam bộ là bộ phận đất đai của nước Pháp, họ đặt bộ máy cai trị trực tiếp, khác với Trung và Bắc bộ Việt Nam.
Ngay sau khi chiếm được mảnh đất đầu tiên ở Nam bộ, thực dân Pháp đẩy mạnh hơn bao giờ hết cuộc khai thác thuộc địa với một loạt chính sách vơ vét bóc lột về kinh tế, áp bức thống trị về chính trị, nô dịch đồng hóa về văn hóa. Tình hình ấy đã đưa cuộc đấu tranh của các tầng lớp nhân dân, nhất là nông dân ở Nam bộ chống thực dân Pháp vào giai đoạn quyết liệt. Tuy nhiên, do hạn chế của giai cấp mình, nông dân không thể tự giải phóng được. Lúc đó lại chưa có sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, một chính đảng của giai cấp vô sản. Do vậy, cuộc đấu tranh của nhân dân lần lượt bị thực dân Pháp dìm trong bể máu.
Sự bế tắc trong cuộc sống, sự thất bại trong cuộc đấu tranh đã làm cho một bộ phận nhân dân Nam bộ mất niềm tin, nên càng thúc đẩy họ tìm đến với tôn giáo. Những mong sự an ủi, chở che, do đạo Cao Đài khi mới ra đời ít nhiều mang tính phản kháng xã hội đương thời, với tư tưởng muốn phục hồi lại chế độ quân chủ, thông qua tư tưởng tam giáo, thích hợp với truyền thống yêu nước mặn mà của những người dân vùng đất mới.
Một vấn đề tư tưởng quan trọng dẫn đến sự ra đời và phát triển của đạo Cao Đài là sự khủng hoảng, suy thoái của các tôn giáo, đạo lý đương thời. Khi chưa có đạo Cao Đài thì quần chúng nhân dân theo đạo Phật, đạo Nho, đạo Lão và một số ít theo đạo Công giáo. Nhưng những tôn giáo này đã dần dần mất uy tín, khủng hoảng thậm chí chưa đáp ứng nhu cầu tâm linh, tín ngưỡng của một bộ phận quần chúng nhân dân. Trước hết là Phật giáo, với Phật giáo tiểu thừa tại chỗ của người Khơme với những quan niệm hạn hẹp về sự giải thoát và cách thức tu hành chỉ giải thoát cho chính người đi tu với phương châm tự độ, tự tha tỏ ra không thích hợp với hoàn cảnh sống và phong tục tập quán của cư dân Nam bộ, nhất là tinh thần liên kết của những người dân khai khẩn miền đất mới. Phật giáo đại thừa bị suy vi từ mấy thế kỷ trước, nay bị chia rẻ theo nhiều tông phái, nhất là sự xâm nhập các yếu tố mê tín dị đoan của đạo Lão thần tiên. Suy thoái đến mức nhiều người ca thán, đến nỗi một số phật tử rời chùa, bỏ tu, nêu vấn đề chấn hưng. Đạo Nho là một học thuyết chính trị đạo đức có yếu tố tôn giáo, luôn bảo vệ quyền lợi và trật tự phong kiến, ngăn trở sự vận động của xã hội đương thời, một số giáo lý đã bị phê phán nên khó đi vào quần chúng đông đảo. Mặc dù đạo Nho vẫn còn là căn bản cho đạo đức gia đình trong những thập niên 1920, 1930. đạo Lão thì gắn liền với các yếu tố mê tín dị đoan, phù thủy bùa chú đưa con người đến chỗ xuất thế mà quên đi hiện tại. Đạo Công giáo, lúc bấy giờ xét về mặt chính trị, trước con mắt của người dân Nam bộ gắn liền với cuộc xâm lược của Pháp, chính quyền Pháp và nó cũng gắn liền với sự mất nước. Mặt khác, xét về mặt tư tưởng với chủ trương độc tôn, phủ nhận sạch trơn các văn hóa tín ngưỡng truyền thống nên người dân Nam bộ không ưa, nếu không nói là khinh ghét, cho nên khó đi vào người nông dân Nam bộ vốn sống cởi mở và tự do. Đạo thờ tổ tiên trong đó có đạo ông bà, tuy gần gũi nhưng chưa đủ thỏa mãn tâm linh tôn giáo Trong khi người dân Nam bộ do đặc điểm riêng về mặt lịch sử, địa lý, dân cư nên có đời sống tâm linh phong phú, có nhu cầu sinh hoạt tôn giáo rất cao. Đặc biệt, đầu thế kỷ XX do bị bế tắc trong cuộc sống, họ lại càng tha thiết đến với tôn giáo hơn. Các tôn giáo đương thời lại sa sút, mất uy tín đã tạo khoảng trống về mặt văn hóa, tâm linh, tạo điều kiện cho đạo Cao Đài ra đời và phát triển. đúng như Nguyễn An Ninh đã viết: “Dân đã mê muội trong các tôn giáo mà các tôn giáo, các đạo lý của Nhà nước đều suy sụp. Làm sao không theo đạo Cao Đài được" [5, tr 204].
Sự suy thoái của các tôn giáo đương thời là điều kiện cần nhưng chưa đủ để có thể lôi cuốn được nhiều tín đồ, vì còn thiếu một yếu tố huyền bí. Yếu tố đó là tục cầu hồn, cầu tiên ở phương Đông, kết hợp với phong trào thần linh học ở phương Tây. Phong trào thần linh học xuất hiện với quan niệm con người có 2 phần: Linh hồn và thể xác, đây là một hình thức mê tín, giống như tục cầu hồn, cầu tiên đã thâm nhập vào Nam bộ nó có vẻ như là một khoa học huyền bí; vì vậy nó có khả năng đem lại cho đồng bóng và đạo giáo một sự biện hộ mới, một sức sống mới, khiến cho nhiều người hâm mộ khi gặp gỡ với sinh hoạt cầu cơ của Ngũ chi Minh đạo, đã làm dấy lên phong trào cầu cơ chấp bút gọi tắt là cơ bút được giới công chức, trí thức, tư sản, tiểu tư sản đón nhận một cách nồng nhiệt dẫn đến việc ra đời của đạo Cao Đài.
Có thể nói, đạo Cao Đài ra đời ở Nam bộ những năm đầu thế kỷ XX là một hiện tượng tôn giáo xã hội tất yếu vì ở đó đã hội đủ các yếu tố về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội và tư tưởng để dẫn đến sự ra đời của một tôn giáo mới: đạo Cao Đài.
1.1.1.3. Sự hình thành đạo Cao Đài
Người đặt nền móng đầu tiên xây dựng lý thuyết cho đạo Cao Đài là Ngô Văn Chiêu, ông là người ham mê chuyện thần tiên và cầu cơ, xem đó là thú vui tâm linh cho riêng mình và cùng bè bạn vào những cuộc cầu hồn kiểu phương Tây: xây bàn - xuất phát từ thần linh học đã được phổ biến ở Việt Nam sau cuộc đại chiến thế giới lần thứ nhất. Nhưng không dừng lại ở sự đam mê mà ngày càng tiến những bước xa hơn, đó là sự xuất hiện hay tiếp xúc được với Cao Đài Tiên ông, đưa ra những biểu tượng thờ cúng, mơ tưởng đến cảnh bồng lai, xem đó là thế giới lý tưởng mà cuộc sống loài người phải phấn đấu vươn tới. Lúc này, những yếu tố cơ bản của một tôn giáo tuy chưa hoàn chỉnh nhưng đã phôi thai hình thành trong thực tế. Sự phát hiện này đã được nhóm Lê Văn Trung, Phạm Công Tắc, Cao Quỳnh Cư, Cao Hoài Sang tích cực hưởng ứng. Đến đêm Noel năm 1925, trong buổi cầu cơ bình thường như bao buổi khác, những người cầu đã tuyên bố Đấng thiêng liêng xuất hiện, nói rõ danh tánh là Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ tát ma-ha-tát và đã giao cho họ lập một tôn giáo mới ở phía Nam lấy tên là Cao Đài Đại đạo Tam kỳ phổ độ, gọi tắt là Cao Đài [51, tr 297]. Như vậy, Ngô Văn Chiêu đã hoàn thành sứ mạng tạo dựng ra đạo Cao Đài. Tuy nhiên, đàn cơ của ông không phổ biến sâu rộng mà chỉ giới hạn trong một số người. Sau này nhờ có đàn cơ của Lê Văn Trung, Phạm Công Tắc, đạo Cao Đài mới chính thức phát triển sâu rộng, thu hút nhiều tín đồ là các công chức, trí thức, nghiệp chủ, điền chủ có cả một số chức sắc và tín đồ của Ngũ Chi Minh đạo tham gia, làm cho số lượng tín đồ phát triển rất nhanh trong một thời gian ngắn.
Nắm được tâm lý tín ngưỡng của quần chúng nông dân Nam bộ và cũng để công khai hóa nhu cầu tâm linh của tín đồ Cao Đài, ngày 27-10-1926, ông Lê Văn Trung thay mặt 28 người sáng lập đã làm đơn và gởi tờ khai đạo lên thống đốc Nam kỳ xin phép cho đạo Cao Đài hoạt động. Giữa tháng 11-1926, không đợi thống đốc Nam kỳ đồng ý hay không, những chức sắc lãnh đạo Cao Đài tổ chức đại lễ tại chùa Gò Kén (Tây Ninh) chính thức cho ra đời một tôn giáo mới: đạo Cao Đài.
Như vậy, đạo Cao Đài manh nha trên mảnh đất phì nhiêu của đàn cơ, với tầng lớp trí thức công chức nhỏ của chính quyền thực dân Pháp làm hạt nhân. Từ đây, đã hình thành nên một tôn giáo mới.
Mỗi tôn giáo ra đời đều mang một tên gọi. Các nhà sáng lập ra đạo Cao Đài tìm thấy tên gọi của đạo này từ 2 câu thơ trong đạo Minh sư của người Hoa: “Cao như Bắc khuyết nhân chiêm ngưỡng, Đài tại Nam phương đạo thống truyền, ghép 2 chữ đầu của 2 câu thơ nên thành Cao Đài, với tên gọi đầy đủ: Đại đạo Tam kỳ phổ độ. Gọi Đại đạo Tam kỳ phổ độ, theo Thái Thơ Thanh trong sách Đại đạo Vấn đáp căn nguyên đã viết: Phàm các tôn giáo lớn trên thế giới đều hay đều tốt cả; những nhà sáng lập các tôn giáo đều là các bậc cao thượng trên đời, từ bi bác ái cả. Mục đích của đạo Cao Đài Tam kỳ phổ độ chúng tôi mong kết hợp hết thảy các tôn giáo trên thế giới mà khảo cứu đi, đến chỗ truy tầm nguyên thủy những điều cao thâm tinh khiết và họ còn giải thích từ khi có loài người đến khi có đạo Cao Đài ra đời, thượng đế đã 2 lần cứu rỗi (phổ độ) chúng sinh. Lần thứ nhất (nhất kỳ phổ độ) gọi là hội tý thượng nguyên gồm: Thái thượng đạo tổ-tiền thân của đạo Lão, Phục Hy - tiền thân của đạo Nho; Nhiên đăng Phật tổ - tiền thân của đạo Phật. Lần thứ hai, (Nhị kỳ phổ độ) gọi là (Hội sửu Trung nguyên) gồm Thích ca Mâu Ni - lập đạo Phật, Thái thượng Lão quân lập đạo Tiên, Khổng tử lập đạo Nho, Chúa Giêsu Kitô lập đạo Thánh. Đạo Cao Đài cho rằng 2 lần cứu rỗi này thượng đế thấy điều kiện nơi phàm trần gặp khó khăn, năm châu sống lẻ loi nên đã cho lập ra nhiều tôn giáo, mỗi tôn giáo phù hợp với phong tục tập quán từng vùng, từng quốc gia, trong những thời gian khác nhau. Đến nay, điều kiện đi lại dễ dàng, “Năm châu chung chỗ, bốn phương chung nhà” hơn nữa vì tồn tại nhiều tôn giáo riêng lẽ đã sản sinh ra mâu thuẫn xung đột giữa tôn giáo này với tôn giáo khác, nên thượng đế phải lập ra một tôn giáo mới chung cho mọi người: đạo Cao Đài.
Giáo lý của đạo Cao Đài không có hệ thống các tín điều có chiều sâu dựa trên những cơ sở triết học, thần học như những tôn giáo khác mà chỉ là sự vay mượn, sự kết hợp các giáo lý của các tôn giáo đã có từ cổ chí kim, từ đông sang tây. Giáo lý đạo Cao Đài đặc biệt quan tâm và đề cao tính thiêng liêng huyền diệu của cơ bút, coi nó là linh hồn của đạo. Nội dung của Giáo lý được đề cập trong các sách: Đại thừa chân giáo, Ngọc đế chân truyền, Pháp chánh truyền, Thánh ngôn hợp tuyển. Đạo Cao Đài có chủ trương quy nguyên tam giáo và có ý đồ hiệp nhất ngũ chi, thống nhất 5 ngành đạo: Nhân đạo, Thần đạo, Thánh đạo, Tiên đạo và Phật đạo. Quy nguyên tam giáo có nghĩa là hợp nhất 3 tôn giáo lớn ở phương Đông: Phật giáo, Lão giáo và Nho giáo với 3 tư tưởng: từ bi (Phật), bác ái (Lão) và công bằng (Nho). Trung tâm giáo lý của đạo Cao Đài là sự thể hiện của các tư tưởng lớn đó. Trong ý thức những người sáng lập đạo Cao Đài muốn dung chứa hết thảy các tôn giáo có mặt ở Việt Nam và làm cho giáo lý của nó mang tính dung hợp, hòa trộn các tôn giáo có trước, góp nhặt những yếu tố cần thiết và tùy theo giáo phái của mình mà có thể nghiêng về phần phổ độ hoặc tự rèn luyện thêm cho mình. Nhưng sự góp nhặt đó đôi khi có không ít điều diễn đạt không đúng giáo lý của các tôn giáo được thâu góp, do sự hạn chế vốn tri thức đương thời của những người sáng lập. Giáo lý Cao Đài có nhiều chỗ nôm na, lại có nhiều chỗ tối nghĩa, mâu thuẫn niềm tin vào đạo của các tín đồ có khi lại được củng cố ở những thánh ngôn và thường họ không hiểu [47, tr 158].
Với tính chất dung hợp đến mức phức tạp trong giáo lý của đạo Cao Đài, rõ ràng để hiểu được bản chất của nó đòi hỏi phải nắm vững về giáo lý của nhiều tôn giáo khác mà tín đồ Cao Đài, một số chức sắc cũng không hiểu hết và không quan tâm mặc dù giáo lý của họ chẳng có dung lượng bao nhiêu. Họ quan tâm nhiều ở sinh hoạt tôn giáo, đó là sinh hoạt cộng đồng.
Trong sinh hoạt cộng đồng, tín đồ Cao Đài hành đạo và xử thế theo những luật lệ, lễ nghi được quy định trong giáo lý như: thực hiện ngũ giới cấm, tứ đại điều quy, luật lệ lễ nghi của đạo Cao Đài được hình thành vừa chịu sự ảnh hưởng của luật lệ, lễ nghi tam giáo vừa chịu ảnh hưởng của phong tục tập quán văn hóa truyền thống Nam bộ, được thể hiện trong các sách: thánh ngôn hợp tuyển, pháp chánh truyền, tân luật. Lễ nghi của đạo Cao Đài rất rườm rà, cầu kỳ bởi lễ nghi đó phải phản ánh tinh thần tổng hợp các tôn giáo thông qua lễ phẩm, lễ sĩ, lễ phục; vì vậy, các sinh hoạt lễ nghi của đạo Cao Đài rất gần gủi và phù hợp với trình độ nhận thức với hoàn cảnh kinh tế - xã hội của số đông nông dân Nam bộ và hơn thế nữa nhiều luật lệ, lễ nghi đã ăn sâu vào cuộc sống, trở thành phong tục tập quán, lối sống của đông đảo quần chúng tín đồ [16, tr 193].
Tổ chức giáo hội đạo Cao Đài được phỏng theo mô hình thể chế nhà nước chính trị quân chủ lập hiến. Mỗi hệ phái của đạo Cao Đài đều có tổ chức giáo hội riêng. Đa số những người sáng lập, lãnh đạo Cao Đài là tư sản, tiểu tư sản, địa chủ, công chức của Pháp nên họ khá am hiểu các thể chế chính trị trên thế giới và cho rằng chế độ quân chủ lập hiến (kiểu Nhật Bản) là hình thức chính quyền tốt nhất. Và theo họ ở Việt Nam, với hình thức quân chủ lập hiến sẽ vừa trung thành với truyền thống, vừa thích nghi với tinh thần dân chủ của thời đại mới. Do đó, khi thiết kế tổ chức giáo hội, họ đã vừa dựa theo khuôn của bộ máy nhà nước Nhật, vừa theo mô hình của Vaticăng, nhưng nhiều chỗ bổ sung rườm rà, quan liêu hơn [51, tr 325].
Chức sắc đạo Cao Đài khá đông với các cấp bậc khác nhau, phỏng theo hàng giáo phẩm của đạo công giáo, nhưng được thay thế bằng những từ Hán - Việt cầu kỳ như là để tăng thêm vẻ huyền bí. Thực chất đó là một thứ nhà nước trong một nhà nước hay một bộ máy nhà nước trá hình. Chính việc xây dựng bộ máy tổ chức có hệ thống và chặt chẽ một mặt đã làm tăng sức mạnh của đạo Cao Đài, mặt khác đó cũng là điều kiện cho mọi thứ cơ hội nảy sinh trong đó có bọn cơ hội chính trị đội lốt tôn giáo đã từng gây khó khăn, phức tạp cho Nhà nước ta ở một số thời điểm nhất định.
1.1.1.4. Sự phân phái của đạo Cao Đài
Khi mới ra đời, đạo Cao Đài là một tổ chức thống nhất với cơ quan đầu não là Tòa Thánh Tây Ninh, đạo đã nỗ lực truyền giáo mở rộng lực lượng, thu hút tín đồ và thật sự đã phát triển rất nhanh ở Nam Bộ. Điều đó đã làm cho Cao Đài trở thành một tôn giáo thực thụ.
Nhưng chỉ sau một thời gian ngắn, nội bộ bắt đầu rạn nứt và có xu hướng lạc giáo. Khi đạo Cao Đài phát triển mạnh mẽ và có tiếng vang trong nước thì sự chia rẽ càng mạnh. Gần như là quy luật, các tôn giáo khi phát triển đến một mức độ nhất định đều có sự phân hóa. Nếu như các tôn giáo khác phân hóa do sự bất đồng về quan điểm giáo thuyết, thần học thì đạo Cao Đài phân hóa chủ yếu do những mâu thuẫn giữa cá nhân các chức sắc. Có thể ở mỗi người do chỗ đứng và các cách nhìn nhận nên việc tiếp nhận chân đạo có những điểm không đồng nhất [21, tr 18], có thể vì động cơ cá nhân, vì phải chiều theo những thế lực chính trị đứng đằng sau hoặc khác nhau về cách hành đạo [47, tr 67]. Mặc dù đã có những dấu hiệu rạn rứt trong nội bộ, nhưng phải đến năm 1934 mới chính thức chia rẽ thành nhiều chi phái bằng việc 2 ông Nguyễn Ngọc Tương và Lê Bá Trang - 2 chức sắc cao cấp của đạo vì bất đồng với 2 ông Lê Văn Trung và Phạm Công Tắc đã thâu tóm quyền hành trong tay làm đạo giảm uy tín. Lúc đó các chi phái lần lượt ra đời. Trước tiên, ngài Ngô Văn Chiêu từ chối phẩm vị Giáo tông mà chọn phần ẩn tu, sau là chi phái Chiếu Minh, kế tiếp là chi phái Minh Chơn lý, Minh Chơn đạo, Tiên Thiên, cuối cùng 12 chi phái ra đời trong đó có Cao Đài Ban Chỉnh đạo do 2 Ngài Quyền Thượng và Ngọc đầu sư Thượng Tương Thanh (Nguyễn Ngọc Tương) và Ngọc Trang Thanh (Lê Bá Trang) dẫn đạo. Nếu trước đây ở Tòa Thánh Tây Ninh, Hội Vạn Linh đã chọn quyền đầu sư Thượng Tương Thanh cầm giềng mối đạo thì thời chỉnh đạo ở Bến Tre cũng cử ông cầm giềng mối đạo, giữ chức giáo tông của một giáo hội mới tại Bến Tre với tên gọi Đại đạo tam kỳ phổ độ - Hội thánh dưới quyền ủng hộ của Đức Giáo Tông Nguyễn Ngọc Tương. Sau này hình thành tên gọi chính thức: Hội thánh Cao Đài Ban Chỉnh đạo.
Sự chia rẽ đạo Cao Đài ra thành các chi phái, thậm chí trong nội bộ của từng chi phái cũng có sự chia rẽ cũng là điều dể hiểu, bởi lẽ giáo lý thì mơ hồ, chưa được triển khai đầy đủ, nhiều chỗ lỏng lẽo thậm chí mâu thuẫn, thêm bớt dễ dàng. Lại thêm đạo ban đầu phát triển quá nhanh, tín đồ cũng do nhu cầu bức bách mà theo. Tham vọng của những người cầm đầu lúc bấy giờ hầu hết là những người trí thức, công chức của chính quyền đương thời do bị thất sủng, chèn ép nên khi tham gia thành lập đạo, một số muốn lấy đạo tạo đời, muốn trở thành lãnh tụ cho nên việc mâu thuẫn, lật đổ nhau là một hệ lụy tất yếu. Vì vậy, việc ra đời Cao Đài Ban Chỉnh đạo được xem như một bước ngoặc tất yếu.
Nhìn chung, đạo Cao Đài ra đời trong bối cảnh lịch sử nhất định và phát triển mạnh mẽ trong cộng đồng cư dân Nam bộ dưới chiêu bài hòa bình, tự do, dân chủ (tuy không phải phe phái nào cũng thật sự theo đuổi mục đích này). Cơ sở của đạo Cao Đài là người nông dân yêu nước, trong khi hạt nhân lãnh đạo lại là những trí thức công chức, do Pháp đào tạo và làm việc cho Pháp, cho nên định hướng của từng chi phái chịu sự ảnh hưởng khá mạnh tinh thần yêu nước hay mưu cầu danh lợi cá nhân của hạt nhân lãnh đạo. Về mặt tín đồ mà nói, thì mong muốn đoàn kết, độc lập, tự do, hạnh phúc vẫn là tư tưởng chủ đạo. Nhưng trong quá trình tồn tại do nhiều nguyên nhân, trong đó nguyên nhân mâu thuẫn giữa các chức sắc trong đạo là cơ bản, cùng với nguyên nhân chính trị đã gây chia rẽ nội bộ và xuất hiện nhiều phe phái.
1.1.2. Sự ra đời và phát triển của đạo Cao Đài Ban Chỉnh
1.1.2.1. Vài nét về vùng đất Bến Tre và đặc điểm tín ngưỡng của người dân
Theo các tư liệu, tài liệu về sự hình thành cư dân Bến Tre, vào đầu thế kỷ XVII Bến Tre còn là vùng đất hoang vu chưa được khai phá, khắp nơi là rừng rậm, đầm lầy và thú dữ, đã có cư dân sinh sống nhưng còn rãi rác. Năm 1732, khi Chúa Ninh Vương Nguyễn Phúc Trú ra lệnh lập thêm Châu Định Viễn, dựng dinh Long Hồ, sở, lỵ đặt tại thôn An Bình Đông, huyện Kiến Đăng, thì phần địa lý hành chánh Bến Tre chưa xuất hiện trên bản đồ. Đến năm 1757, vùng đất Bến Tre ngày nay mới được sáp nhập vào dinh Long Hồ, Phủ Gia Định. Ngày 01-01-1900 Bến Tre chính thức trở thành một tỉnh và Nghị định số 252/NB-51 của Uỷ ban kháng chiến hành chánh Nam bộ đã chia Nam Bộ thành 2 phân liên khu: Phân liên khu miền Đông gồm 5 tỉnh, phân liên khu miền Tây gồm 6 tỉnh. Bến Tre thuộc về phân liên khu miền Tây [11, tr 25 - 30].
Từ khi vùng hoang vu trở thành nơi cư trú của con người cho đến nay, ở Bến Tre có 3 dân tộc cùng sống gắn bó bên nhau, đó là người Việt, Khơme, Hoa (có một số ít người Chăm). Những lưu dân người Việt đến Bến Tre hầu hết là những người từ các tỉnh miền Trung (Thuận Quảng) họ gồm nhiều thành phần khác nhau, số người này có thể đi bằng đường bộ và đường biển theo cửa Tiểu, cửa Đại, cửa Ba Lai, cửa Hàm Luông đến định cư ở vùng đất cao, đất tốt dọc theo các con sông lớn. Người Hoa thuộc nhóm Dương Ngạn Địch, Trần Thường Xuyên cũng đến đây, họ cùng người Việt đến sống với người Khơme là những cư dân định cư tại chỗ đã làm cho vùng đất Bến Tre ngày thêm đông người. Chính vì vậy, năm 1759 Chúa Nguyễn đã ban bố lệnh lập làng ở đây.
Quá trình hình thành vùng đất Bến Tre ngày nay là một quá trình khai phá của nhiều lớp cư dân, nhiều tộc người cộng cư. Chính điều ấy đã để lại dấu ấn sâu sắc trong quá trình tồn tại, phát triển của tín ngưỡng dân gian là một tín ngưỡng khá phồn tạp. Trước hết, đó là những tín ngưỡng của cộng đồng làng xã, biểu hiện là sự thờ cúng ở đình làng. Đình làng ở đây thờ Thành Hoàng bổn cảnh là những người có công khai phá lập làng hoặc có công trạng với làng, có sắc phong của triều đình hoặc không có. Ngoài việc thờ Thành Hoàng bổn cảnh còn thờ Thần Nông, Thổ Địa, Thổ Công và các thần Nữ như Tứ vị Đại Càn thánh vương, bà Chúa Xứ, bà Ngũ Hành rồi các thần tự nhiên như thần Hổ, thần Sông. Có thể nói, đình làng ở Bến Tre là nơi tập hợp thần linh từ nhiều nguồn gốc khác nhau được tạo ra từ 2 nguồn: do nhà nước thế tục dội xuống và do người dân đưa vào thờ phụng. Đối với nông dân làm nghề nông ở Bến Tre nói riêng ở Nam bộ nói chung, lễ cúng đình hàng năm được phản ánh đầy đủ nhất là lễ Kỳ Yên. Lễ Kỳ Yên là lễ hội lớn nhất của làng quê. Với ý nghĩa cầu mong sự bình yên cho cá thể và cho cộng đồng. Đây là sinh h._.oạt cộng đồng, là nét độc đáo của người dân Nam bộ. Đặc biệt ở Bến Tre, tín ngưỡng phổ biến nhất của cư dân làm nghề biển là tục thờ cá Voi, thường được gọi là Cá Ông. Đây là một tín ngưỡng dân gian hình thành trong quá trình tiếp biến văn hóa Việt Chăm diễn ra từ đèo Ngang trở vào. Việc thờ Cá Ông được quan niệm như là một cách đền ơn đáp nghĩa theo luật nhân quả của đạo Phật, coi Cá Ông như thần hộ mệnh giữa biển khơi đầy sóng gió. ở Bến Tre, sự vận hành và phát triển của tín ngưỡng dân gian mang tính chất hòa trộn ấy lại diễn ra trong ảnh hưởng chi phối không chỉ của tam giáo Nho, Phật, Lão, mà còn chịu ảnh hưởng của đạo Hồi, đạo Thiên Chúa.
Như vậy, do những điều kiện lịch sử phát triển và cấu trúc dân cư đa chủng, tín ngưỡng ở Nam bộ nói chung cũng như ở Bến Tre nói riêng khá hồn tạp, có cả tín ngưỡng trong gia đình và tín ngưỡng trong cộng đồng. Đây là một trong những mảnh đất phì nhiêu cho sự ra đời và tồn tại của một tôn giáo mới đó là Cao Đài Ban Chỉnh đạo.
1.1.2.2. Vài nét về Giáo Tông Nguyễn Ngọc Tương
Thông thường bất kỳ một tôn giáo nào ra đời cũng do một hay nhiều nhóm người sáng lập trên cơ sở hiện thực xã hội và đức tin của quần chúng. Đạo Cao Đài Ban Chỉnh cũng vậy, là một chi phái được tách ra từ Cao Đài Tây Ninh chi phái gốc, từ sự mâu thuẫn nội bộ và đường hướng hành đạo của các chức sắc đứng đầu đạo Cao Đài. ông Nguyễn Ngọc Tương là một trong 2 người đã rời Cao Đài Tây Ninh về Bến Tre hình thành một chi phái mới - Cao Đài Ban Chỉnh đạo.
ông Nguyễn Ngọc Tương sinh ngày 26 tháng 5 năm Tân Tỵ, nhằm ngày 22-6-1881 tại làng An Hội, tổng Bảo Hựu, tỉnh Bến Tre nay là Thị xã Bến Tre. Năm 1902 ông lập gia đình với bà Trương Thị Tài, sau 4 năm bà mất, để lại 2 con thơ. Để ổn định gia đình ông tái hôn với bà Bùi Thị Giàu, sinh được 3 người con trai (Nguyễn Ngọc Kỷ, Nguyễn Ngọc Bích, Nguyễn Ngọc Nhựt) và 2 người con gái (Nguyễn Thị Yến, Nguyễn Thị Nguyệt). Những người con của ông hầu hết đều đỗ đạt cao và có cuộc đời gắn bó với nền đạo. Hai người con đã từ bỏ giàu sang sung sướng, từ Pháp trở về, vào bưng biền tham gia kháng chiến, Nguyễn Ngọc Bích tham gia kháng chiến, bị địch bắt và trục xuất khỏi Việt Nam khi là Khu bộ phó Khu 9. Tiếp bước người anh, kỹ sư Nguyễn Ngọc Nhựt, được giao trọng trách ủy viên Uỷ ban kháng chiến hành chánh Nam bộ, đã bị địch bắt, dùng mọi thủ đoạn mua chuộc, tra tấn dã man và mất năm mới 32 tuổi. ở đây có thể khẳng định rằng, ngoài lòng yêu nước của bản thân họ còn có sự chi phối chính từ Đức Giáo Tông, một tư tưởng lớn vì đạo, vì nước đã truyền cho 2 người con của ông một tinh thần bất khuất, không đầu hàng, mang quốc hồn của dân tộc để rửa nhục mất nước, dù 2 con của ông được đào tạo từ nước Pháp. Riêng cô Nguyễn Thị Nguyệt đã xuất gia tu hành từ lúc thiếu thời nay là vị chức sắc trọng yếu trong đạo.
ông sớm mồ côi cha, thuở nhỏ được nội nuôi, cho học chữ Nho và chữ quốc ngữ tại quê nhà, sau đó ông thi đậu vào trường trung học Mỹ Tho; năm 19 tuổi ông lên Sài Gòn học ở trường Chasseloup Laubat; 21 tuổi ông thi đậu bằng thành chung rồi thi đậu vào ngành Thư ký Thượng Thơ, được bổ nhiệm vào làm việc ở Sài Gòn. Một năm sau ông về làm việc ở Bến Tre suốt 17 năm, trong thời gian này ông sẵn sàng chấp nhận những điều bất lợi chốn quan trường, ông chủ trương lập ra 2 hội đó là Hội buôn An Nam và Hội khuyến học để bảo vệ quyền lợi kinh tế cho người Việt và mở mang dân trí. Việc làm này đã được sự đồng tình ủng hộ của các tầng lớp nhân dân trong tỉnh. ông không ngần ngại đến thăm viếng, chăm sóc Nguyễn Quyền một chí sĩ yêu nước tham gia phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục bị Pháp đày biệt xứ về Bến Tre. Năm 38 tuổi ông thi đậu Tri huyện, được bổ nhiệm quận trưởng Cần Thơ, Hòn Chông, Cần Giuộc, Xuyên Mộc, làm việc ở đâu ông cũng dốc hết lòng vì dân, làm cho người dân sở tại vô cùng mến mộ. Trong thời gian làm quận trưởng quận Cần Giuộc, ông đã gia nhập đạo Cao Đài; đến năm 1931 ông đã từ bỏ danh vọng chốn quan trường, gác bỏ chuyện gia đình, tình cảm riêng tư, dành cả phần đời còn lại cho đạo, dìu dắt nhân sanh đi theo con đường chính đạo. Có thể nói Nguyễn Ngọc Tương là một công chức cao cấp của Pháp nhưng ông thuộc số người tha thiết với tinh thần dân tộc. Tinh thần này đi suốt cùng ông, sau này có ảnh hưởng rất lớn khi ông được giao chức Giáo Tông, đứng đầu Cao Đài Ban Chỉnh đạo.
Vì niềm tin của hàng triệu tín đồ Cao Đài vào nền chính đạo, nhằm đưa con người đến đại đồng tuyệt khổ, là người có chức sắc trong Đại đạo Tam Kỳ Phổ độ, ông không thể làm ngơ trước những lỗi lầm của những môn đệ của Thầy. Cho dù ngay từ buổi đầu gia nhập đạo, ông đã đặt trọn lòng tín ngưỡng và đóng góp rất nhiều công quả cho đạo, cũng vì sự chia rẻ của những bậc chức sắc cao cấp của đạo Cao Đài, Nguyễn Ngọc Tương đã quay về mảnh đất quê hương làng An Hội - Bến Tre, nơi chôn nhau cắt rốn và cũng là nơi ông trải qua cuộc đời công chức 17 năm, cùng Lê Bá Trang lập Ban Chỉnh đạo.
Có lẽ vì hoang mang, chán nản trước sự chia rẽ của nội bộ Toà Thánh Tây Ninh, vì nền tảng giáo lý tiến bộ của Cao Đài Ban Chỉnh mà ông Nguyễn Ngọc Tương đã thu phục nhân tâm của đông đảo quần chúng tín đồ, giữa lúc họ đang tìm một lối thoát về tinh thần trong một xã hội nhiễu nhương.
Với sự nỗ lực của Đức Giáo Tông Nguyễn Ngọc Tương, sự đoàn kết của các chức sắc, tín đồ, chỉ trong một thời gian ngắn, Cao Đài Ban Chỉnh đạo đã tập hợp được 96 trên 135 thánh thất, thu phục hơn một nửa số tín đồ ở Nam kỳ và đường hướng hành đạo theo sự ủy thác của Đức Chí Tôn.
ông Nguyễn Ngọc Tương giữ giềng mối đạo với chức Giáo Tông cho đến khi qua đời năm 1951. Sau khi qua đời, để tôn vinh ông, Hội thánh Cao Đài Ban Chỉnh đạo chủ trương để chức Giáo Tông vô vi (thiêng liêng) và thay quyền Giáo Tông là tập thể các chức sắc.
1.1.2.3. Sự ra đời của đạo Cao Đài Ban Chỉnh
Chấn chỉnh nền đạo đi theo con đường chính đạo do Đức Chí Tôn sáng lập. Hai ông Quyền đầu sư Thượng Tương Thanh (Nguyễn Ngọc Tương) đã cùng Quyền Ngọc đầu sư Ngọc Trang Thanh (Lê Bá Trang) mở đại hội khai sinh Ban Chỉnh đạo vào ngày 14 tháng 10 An Nam năm Giáp Tuất (ngày 20 tháng 11 năm 1934) với tên gọi Đại đạo Tam Kỳ Phổ độ - Hội thánh dưới quyền ủng hộ của Đức Giáo Tông Nguyễn Ngọc Tương. Sau này hình thành tên gọi chính thức: Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh đạo. Đến mùa Xuân năm 1935, tại Hội Vạn Linh - một ngày Hội trọng đại của Cao Đài đã triệu tập đầy đủ các chức sắc và tín đồ, thống nhất tín nhiệm ông Nguyễn Ngọc Tương giữ chức Giáo Tông, là người giữ địa vị cầm giềng mối đạo Cao Đài Ban Chỉnh với số phiếu gần như tuyệt đối.
Tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động, ông Nguyễn Ngọc Kỷ - con trai Giáo Tông Nguyễn Ngọc Tương, Nghị sỹ chế độ Sài Gòn thúc đẩy việc xin tư cách Pháp nhân cho Hội thánh Cao Đài Ban Chỉnh đạo. Ngày 28 tháng 5 năm 1970, Tổng trưởng Bộ Nội vụ Việt Nam cộng hòa Trần Thiện Khiêm đã ký Nghị định số 378/BNV/KS/14 chấp thuận điều lệ và sự hoạt động của Hội thánh Cao Đài Ban Chỉnh đạo theo qui chế hiệp hội (Hội thánh Cao Đài Tây Ninh được chính quyền Sài Gòn công nhận hoạt động theo qui chế giáo hội). Tuy nhiên, khi có tư cách pháp nhân thì Hội thánh này lại phân rẽ, hình thành 2 khối, quen gọi là Ban Chỉnh đạo Bến Tre và Ban Chỉnh đạo Đô thành.
Đạo Cao Đài Ban Chỉnh, là hệ phái lớn thứ 2 sau Cao Đài Tây Ninh, khi mới hình thành, đạo này đã có một lực lượng khá đông đảo, chiếm 2/3 tổng số tín đồ, chức sắc, nơi thờ tự của đạo Cao Đài. Nhưng về sau, một mặt do Cao Đài Tây Ninh đã vận động lại được lực lượng, mặt khác từ giữa những năm 1970 trở đi, Cao Đài Ban Chỉnh rơi vào mâu thuẫn nội bộ nên đã hạn chế sự phát triển tín đồ.
Ngày 8-8-1997 Ban Tôn giáo Chính Phủ ban hành Quyết định số 26 công nhận tư cách pháp nhân, tổ chức Giáo Hội, Hội thánh Cao Đài Ban Chỉnh đạo.
Hiện nay, Cao Đài Ban Chỉnh đạo có 930.000 tín đồ, 271 chức sắc. Một số tỉnh tập trung đông tín đồ như Bến Tre, Long An, Trà Vinh, thành phố Hồ Chí Minh, Tiền Giang, Quảng Ngãi và 249 thánh thất, 8 điện thờ phật mẫu ở 26 tỉnh, thành phố chủ yếu ở phía Nam.
1.1.3. Đặc điểm của đạo Cao Đài Ban chỉnh
1.1.3.1. Đường lối hành đạo của Đức Giáo Tông Nguyễn Ngọc Tương
Là một tôn giáo và là tín đồ của một tôn giáo đó, đòi hỏi mọi tín đồ cũng như các chức sắc trong đạo phải xác định đường lối hành đạo của mình, giữ vững đức tin và hết lòng phấn đấu vì đức tin đó. Đối với Cao Đài Ban Chỉnh cũng vậy, đức tin đó chính là đức tin nơi Thầy, nơi đạo, nơi Đức Lý Đại Tiên và các Đấng Phật-Tiên - Thánh - Thần. Trong tâm tưởng của mỗi tín đồ, thầy là đấng tối cao, là một đấng cứu thế cứu nhân loại thoát khỏi tai ương, đau khổ. Người Cao Đài phải giữ trọn đức tin nơi huyền năng tạo hóa của Đức Chí Tôn. Như vậy, muốn được cứu rỗi đòi hỏi các tín đồ phải có tinh thần vị nhân sinh, xả thân hành đạo, thực hành từ bi, bác ái tràn trề để nêu gương cho sự xây dựng cảnh hòa bình và hạnh phúc chung cho nhân loại - Nguyễn Ngọc Tương thật sự là một người như thế, ông đã vứt bỏ mọi danh vọng, quyền lợi chốn quan trường, ly gia cắt ái, phế hết việc gia đình để trọn hiến thân hành đạo để cầu phước cho nhân sinh, để tiếp ân điển mà ban pháp giải khổ, đại xá cho chúng sinh. Những tín đồ của Cao Đài đã tìm thấy con đường chung nhất để nhân loại nương theo đó mà tìm thấy hạnh phúc trong nhân sinh và cả tâm linh, đường lối hành đạo của ông không đưa con người tìm đến thế giới huyển hoặc đầy thần quyền mê tín mà phải thấy Đại đạo này là phương cách giúp con người nhận ra chân lý cuộc đời trên nền tảng tình thương đại đồng, để cùng nhau xây dựng một thế giới hòa bình, an lạc, không chia rẽ, hận thù.
Chính vì vậy, tôn chỉ của Cao Đài Ban Chỉnh đạo được xác định là tam giáo quy nguyên, ngũ chi hợp nhất, thực hành chủ nghĩa thương yêu tràn trề từ người đến vật cốt để kêu gọi nhân sinh xóa bỏ mọi chia rẽ, xung đột về màu da sắc tộc, danh vọng lợi quyền. Nhân sinh đều cùng một cội, vì vậy phải sống dung hòa, thương yêu tương trợ lẫn nhau. Bởi lẽ sự thương yêu là giềng bảo sanh của càn khôn thế giới, bởi thương yêu mà vạn loại hòa bình [44, tr 19]. Có như vậy mới đi đến mục đích xây dựng xã hội thánh đức thượng nguyên đại đồng tuyệt khổ. Theo đạo Cao Đài Ban Chỉnh, để thực hiện tôn chỉ, mục đích đó, thực hiện triệt để lệnh ngưng cơ bút truyền đạo của Thầy mà thay vào đó trong hoạt động của đạo được căn cứ vào nghị quyết của 3 Hội đó là Thượng hội, Hội thánh và Hội nhân sanh. Chức sắc được bầu thông qua hình thức công cử ở Hội Vạn Linh.
Đường lối hành đạo của Đức Giáo Tông cũng như của Cao Đài Ban Chỉnh đạo từ ban đầu đã xác định chỉ là đạo đức thuần túy không tham gia chính trị, đảng phái. Vì vậy, Đức Giáo Tông đã giữ vững một lập trường đạo đức thuần túy, không để Cao Đài Ban Chỉnh bị biến thành một tổ chức chính trị, nhưng thái độ đối với các đảng phái chính trị, tuyệt nhiên phải giữ một thái độ trung lập, không xu hướng. Nhưng trước một thực tế xã hội lúc bấy giờ diễn ra đầy rẫy những cảnh áp bức, bóc lột, chiến tranh chết chóc. Đối với Nguyễn Ngọc Tương, ông không thể ngồi yên nơi đại tịnh hoặc dửng dưng trước thời cuộc, ông quan niệm rằng tham gia chống chiến tranh, chống những điều phi nghĩa ủng hộ việc làm chính nghĩa, góp phần cứu chúng sinh ra khỏi chết chóc, đói khổ là điều có đạo đức. ông cũng không giấu giếm giáo lý của Cao Đài Ban Chỉnh đạo đã ảnh hưởng ít nhiều những tư tưởng về Chủ nghĩa xã hội, Chủ nghĩa Mác-Lênin từ Pháp gửi về, đó là những tư tưởng “đại đồng”, “Hòa bình thế giới”, “quyền dân tộc tự quyết” cho dù ông cũng như Cao Đài Ban Chỉnh đạo tuyên bố không làm “quốc sự”. Nhưng ông cũng hãnh diện, tự hào khi thấy những đứa con thân yêu của mình cũng như những tín đồ của ông đã xả thân vì nước, vì đạo.
ông Trần Đông Phong, nguyên Uỷ viên Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã nói: ngay từ khi thành lập đạo Cao Đài Ban Chỉnh, ông Nguyễn Ngọc Tương đã minh định phương hướng hành đạo theo con đường yêu nước, phụng sự nhân sinh, đã đồng hành gắn bó cùng dân tộc, đồng bào, có những đóng góp xứng đáng vào sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc [21, tr 34].
Phương hướng hành đạo của Cao Đài Ban Chỉnh trong giai đoạn hiện nay vẫn hoạt động theo tôn chỉ, mục đích của đại đạo tam kỳ phổ độ.
Tôn chỉ của đại đạo đó là: Quy nguyên tam giáo, hiệp nhất ngũ chi để thống nhất tinh thần tín ngưỡng nhân sinh, xóa bỏ mọi thành kiến chia rẽ tôn giáo và thực hành chủ nghĩa từ bi bác ái từ người đến vật, xem tất cả chúng sinh đều là anh em ruột thịt, con chung một đấng cha trời, để dung hòa mọi mối bất đồng về vật chất, quyền lợi, màu da, sắc tộc.
Mục đích của đại đạo đó là chuyển hạ nguyên tự diệt sang thượng nguyên tái tạo, xây dựng nên lạc cảnh thế giới hòa bình đại đồng tiệt khổ [12, tr 1].
1.1.3.2. Những nét tương đồng và khác biệt của đạo Cao Đài Ban Chỉnh với Cao Đài nói chung
Xét về nguồn gốc: Tất cả các chi phái của đạo Cao Đài đều được hình thành từ cơ sở phân phái của đạo Cao Đài Tây Ninh - là phái gốc. Đạo Cao Đài ra đời cũng giống như các tôn giáo lớn khác, đều bắt nguồn từ hiện thực xã hội, từ những điều kiện kinh tế, chính trị, văn hóa, tư tưởng, xã hội nhất định. Tuy nhiên, khi đạo Cao Đài có sự phân phái, chia rẽ thì mỗi một chi phái dựa vào cơ sở của một số tôn giáo mà có cách tiếp cận khác nhau, cũng như phái Chiếu Minh Tam Thanh bắt nguồn từ Ngô Văn Chiêu chỉ nhận mình là tam giáo, không động đến ngũ chi; trong khi các chi phái khác trong đó có Cao Đài Ban Chỉnh, Cao Đài Tây Ninh ngoài chủ trương quy nguyên tam giáo còn có hiệp nhất ngũ chi. Còn thành phần khởi xướng đạo Cao Đài nói chung và các chi phái khi tách ra cũng đều là những người thuộc giai cấp, tầng lớp tư sản, tiểu tư sản, điền chủ, công chức trung cao cấp đương thời của chính quyền thực dân, nửa Tây học, nửa chịu ảnh hưởng của các học vấn Đông Phương từ trước, họ cũng bị bế tắc trong sự nghiệp, trong cuộc sống, họ cũng có một tinh thần yêu nước nhưng cũng chưa thật rõ ràng. Vì vậy, ngay từ đầu đạo Cao Đài đã mang ít nhiều tính phản kháng xã hội đương thời với một tư tưởng muốn phục hồi lại chế độ quân chủ, thông qua tam giáo và những người khai sáng đạo, nhất là phái nghiêng về phổ độ (chỉ có phái Ngô Văn Chiêu nghiêng về vô vi) không thể không chịu ảnh hưởng của các ý thức đương thời - nói chung là yêu nước. Tuy vậy, cũng có sự khác nhau ngay ở thời gian ban đầu, có người có tinh thần yêu nước thật sự nhưng cũng có người thân Pháp rồi lại thân Nhật [47, tr 24].
Nhìn chung, Cao Đài Tây Ninh - Cao Đài gốc và các chi phái đều mang tính chất chính trị từ buổi đầu thành lập nhưng tính chất chính trị đó rơi vào xu hướng nào thì đó chính là điều khác biệt lẫn nhau giữa các chi phái như phái Cao Đài Tiên Thiên, Cao Đài Minh Chơn đạo, Cao Đài Ban Chỉnh đạo đã có những đóng góp đáng kể cho cách mạng trong sự nghiệp kháng chiến chống Pháp và kháng chiến chống Mỹ do Đảng ta lãnh đạo. Ta cũng biết, biểu hiện trước hết của đạo Cao Đài là sản phẩm của giai cấp địa chủ và tư sản. Mặc dù là một tôn giáo nhưng những người cầm đầu đã xây dựng Hội thánh có tổ chức bộ máy từ trung ương tới địa phương giống như một kiểu nhà nước quân chủ lập hiến hoàn chỉnh, họ đã lợi dụng sự bế tắt của nhân dân Nam bộ trong cuộc đấu tranh yêu nước để qui tụ lực lượng, thực hiện ý đồ giành quyền lãnh đạo chính trị trong những năm 20 của thế kỷ XX, còn tôn giáo chỉ là cái vỏ bên ngoài. Đó là Cao Đài Tây Ninh - Cao Đài gốc một thời gian đã như vậy.
Về giáo lý, luật lệ, lễ nghi, cách thức hành đạo của Cao Đài Ban Chỉnh đạo và các chi phái Cao Đài khác giống như Cao Đài Tây Ninh- chi phái gốc được qui định trong một số kinh sách cơ bản như Thánh ngôn hợp tuyển, tân luật, pháp chánh truyền. Tuy nhiên, trong giáo lý, có phái nghiêng về vô vi (Cao Đài Minh Chơn Lý) chưa tán thành phổ độ, có phái nghiêng về phổ độ. Và mỗi một chi phái có cách giải thích khác nhau phần kinh sách đã được công nhận, cùng với những thêm bớt có tính địa phương về sau và sự gia cố bởi các trí thức trong đạo của từng chi phái, mỗi một chi phái chỉ chấp nhận những ấn phẩm của chi phái mình.
Đối với Cao Đài Ban Chỉnh đạo, khi rời tòa thánh Tây Ninh về Bến Tre, ông Nguyễn Ngọc Tương đã cho chấn chỉnh các kinh sách làm cơ sở cho việc hành đạo, từ đó hình thành những ấn phẩm như: Thánh ngôn hợp tuyển, (quyển 1 không theo quyển 2, 3). Pháp chánh truyền, Tân luật (bản gốc) Châu tri chỉnh đạo (1934 - 1936), kinh cúng tứ thời và kinh quan hôn tang tế, đường lối hành đạo của Đức Giáo tông Nguyễn Ngọc Tương Trong việc tu hành, Cao Đài Ban Chỉnh đạo đã chia thành 3 bậc tu hành gọi là Phương tu tam thừa. Ba bậc này bao gồm; hạ thừa, trung thừa và thượng thừa. Trong đó bậc hạ thừa và trung thừa được xem là nền tảng căn bản để thực hiện chân truyền đạo.
Bậc hạ thừa dành cho tín đồ Cao Đài, trong đó giới luật dành cho phẩm này như ngũ giới cấm, tứ đại điều quy, đạo bát chánh, thập nhị nhân duyên và cụ thể hơn hết là 5 điều khuyên chủ yếu sau sớ nhập môn. Người tín đồ được xây dựng theo mẫu người biết sống vì người hơn vì mình và tiến tới quên mình mà làm cho người. Phần hạ thừa chủ yếu tập trung cho phần nhân đạo. Cụ thể như đạo trung hiếu đối với nước với dân. Đạo làm người phải giữ sao cho trọn luật để trở thành người công dân tốt trong xã hội. Từ hạ thừa chuyển lên trung thừa là bước phát triển liền mạch.
Phẩm trung thừa là phẩm trung gian giữa hạ thừa và thượng thừa, đây là cơ quan thực hiện chân truyền đạo. Việc vận dụng đường lối thiên thế đạo song hành để làm phương tu cho người đạo thông qua nhà tu trung thừa hầu tạo ra nếp sống mới, nếp sống tập thể của con cái đức Cao Đài. Người dạy người đạo luôn lấy tình thương yêu mà dìu dắt nhau hầu làm phương thức sống. Đối với người đạo trong việc tu học, người dạy phải làm để có mà ăn và tu trong tinh thần pháp, tài, lữ, địa không chỉ chú tâm dựa vào sự đóng góp của nhân sanh, việc lập nhà tu trung thừa là một sáng tạo của Cao Đài Ban Chỉnh, đây là điểm khác biệt với các chi phái khác. Con đường đi vào nhà tu trung thừa là con đường thể hiện sinh động đường lối đạo đức của người. Con đường này sẽ dẫn con người đến phương thức sống văn minh, khoa học, biết lao động. Nhà tu trung thừa còn là nơi phát huy cái thiên lương của người đạo để từ đó chuyển hóa lên bậc thượng thừa, bậc giác ngộ viên mãn.
Nhà tu thượng thừa là mục đích cuối cùng của người học đạo, luyện đạo để đạt đạo. Như vậy, từ thế đạo đến thiên đạo theo phương tu tam thừa đã đúng theo thánh ý của Đức Chí Tôn và Kinh luật đạo.
Cao Đài Ban Chỉnh đạo khi thành lập và hoạt động đã lập phép đạo riêng gọi là Tân Pháp gồm phép đại xá, phép giải khổ, phép tịnh luyện để hành đạo.
Về mô hình tổ chức: Giáo tông Nguyễn Ngọc Tương là người duy nhất trong các phái được suy tôn lên ngôi cực phẩm của Cửu Trùng Đài là Giáo tông. Điều ấy cho thấy ông quay về, trung thành với mô hình khởi thủy, Hội thánh của ông có cấu tạo của một mô hình hoàn chỉnh. Nhưng không giống với Cao Đài Tây Ninh về ngôi vị và tên gọi các cơ quan trực thuộc Hiệp Thiên Đài. Mặt khác, Giáo hội Bến Tre đưa Hiệp Thiên Đài về đúng vị trí như Pháp Chánh truyền chỉ định, không để cho cơ quan này lấn lướt. Điều khác cơ bản là Giáo hội Bến Tre không thiên phong chức sắc mà dùng luật công cử chức sắc [47, tr 220]. Vì lường trước hậu quả của việc lạm dụng cơ bút vì động cơ cá nhân, ngay trong chương trình chỉnh đạo ông Nguyễn Ngọc Tương đã chủ trương không thực hiện cơ bút, ông nói các chi phái hiện tại nảy sinh trong thời gian khảo thí do cơ bút bình thường tạo thành và dẫn dắt tệ huynh đã nhiều lần nhắc nhở ngưng việc cơ bút là tối trọng. Có hư hư thiệt thiệt khó mà phân biệt được. Vì vậy, Thầy cấm cơ bút từ tháng 7 năm 1927 là khi Thầy đã lập xong đạo rồi giao lại cho Hội thánh Chưởng quản sắp đặt phổ thông. Bởi không tuân lời Thầy cấm nên cơ bút là sự mới lan tràn, cám dỗ, xúi giục, lập ra nhiều phái, nhiều chi, đưa ra nhiều tôn chỉ, xa tôn chỉ Đại đạo [44, tr 70].
Đến nay, Cao Đài Ban Chỉnh đạo đã tuyệt đối không sử dụng cơ bút truyền đạo, trong khi đó một số chi phái giữ nền cơ bút (Cao Đài Tiên Thiên), họ luôn sử dụng cơ bút không chỉ trong sinh hoạt tôn giáo mà cả trong việc giải quyết các vấn đề tổ chức cũng như các quan hệ xã hội có liên quan. Chính điều này mà trong thời gian gần đây đã gây nên không ít vấn đề phức tạp cho chính quyền sở tại.
Về phương diện tôn giáo, nhìn chung đạo Cao Đài mang tính thực hành, họ đã trộn cái đời thường với cái siêu linh, muốn tìm cho quần chúng tín đồ con đường giải thoát ức chế của cuộc sống thường ngày bởi mục đích của đạo Cao Đài giải thoát con người khỏi thế giới đau khổ và con người ấy sẽ được tái tạo nơi Bồng lai tiên cảnh. Tuy nhiên, mỗi chi phái cũng có cách hành đạo khác nhau, phái Tiên Thiên, phái Chiếu minh lấy việc tu tịnh, thoát ly đời sống trần tục với những qui định rất chặt chẽ. Trong khi đó, phái Minh Lý, Minh Chơn đạo và đặc biệt là phái Cao Đài Ban Chỉnh không thiên về tu tịnh mà hành đạo theo hướng lấy đạo độ đời, vừa hoạt động tôn giáo vừa hoạt động xã hội tiến bộ.
Tất cả những yếu tố nói trên tạo thành nét cơ bản khác biệt giữa Cao Đài Ban Chỉnh đạo với các chi phái Cao Đài khác.
1.2. Một số quan niệm của đạo Cao Đài Ban Chỉnh
1.2.1. Thế giới quan và nhân sinh quan của đạo Cao Đài Ban Chỉnh
Đạo Cao Đài Ban Chỉnh là một chi phái của Cao Đài Tây Ninh, từ khi thành lập trải qua bao thăng trầm của lịch sử, từng chịu biết bao thử thách, trong sự va chạm với các tôn giáo khác, với Cao Đài gốc và cả với đời sống chính trị - xã hội, nhưng nó vẫn tồn tại được cho đến ngày nay.
Đạo Cao Đài Ban Chỉnh tồn tại được vì nó đã trở về với Cao Đài nguyên thủy, Cao Đài gốc do Đấng Chí Tôn phán bảo. Với mục đích tối thượng là cứu khổ, giải khổ đem lại sự hy vọng cuộc sống, an lạc cho con người trong kiếp sống mai sau ở nơi Bồng lai tiên cảnh, điều đó hoàn toàn phù hợp với nhu cầu của đông đảo quần chúng khi trình độ nhận thức còn nhiều hạn chế. Hơn thế nữa, nó đã khơi dậy được những giá trị văn hóa trong con người hướng tới chân - thiện - mỹ, khơi dậy được sự khát khao của con người muốn được giải thoát trước những mâu thuẫn, bế tắt do chính con người tạo ra. Nếu xét về mặt tích cực thì Cao Đài Ban Chỉnh đạo là chỗ dựa tinh thần cho một bộ phận đông đảo quần chúng trong xã hội và nó thật sự đã bám sâu vào đời sống tâm linh của con người.
- Thế giới quan:
Đạo Cao Đài Ban Chỉnh đã dựa trên tinh thần quy nguyên tam giáo và hiệp nhất ngũ chi theo thánh ngôn hợp tuyển, pháp chánh truyền và tân luật. Bởi thế, nói thế giới quan của Cao Đài Ban Chỉnh đạo suy cho cùng cũng từ cơ sở thế giới quan của tam giáo (Phật giáo, Khổng giáo, Nho giáo) từ đó mà hình thành thế giới quan riêng cho chi phái của mình. Trong tài liệu thuyết đạo của Giáo tông Nguyễn Ngọc Tương, tuy là phái đối lập với phái Tây Ninh nhưng cũng cùng một ý chí với thánh ngôn hợp tuyển, năm 1926 ông đã nói: Thầy đã nói với các con rằng: khi chưa có chi trong càn khôn thế giới, thì khí hư vô sinh ra 1 Thầy, và ngôi Thầy là ngôi Thái Cực. Thầy phân thái cực ra Lưỡng Nghi, Lưỡng nghi phân Tứ tượng, Tứ tượng biến Bát quái; Bát quái biến hóa vô cùng lập ra Càn khôn thế giới. Thầy lại phân tích thầy sanh ra vạn vật, là: vật chất, thảo mộc, côn trùng, thú cầm. Loài người gọi là chúng sinh. Chi phí hữu sinh cũng bởi do chân linh Thầy mà ra. Hễ có sống ắt có thầy. Thầy là cha của sự sống. Cái sống của cả chúng sanh thầy phân phát khắp cả càn khôn thế giới, chẳng khác nào như một cành hoa trong cội, nó phải đủ thời giờ nhất định, mới nở bông mà sinh trái, đặng trồng tỉa nữa, biến hóa ra thêm [40, tr .45]. Lúc khác thì lại viết: Trời là cha chung của nhân loại và muôn loài vạn vật. Nhân loại vốn là anh em ruột thịt với nhau cùng một gốc mà sinh ra [44, tr.17].
Theo quan điểm của chủ nghĩa vô thần khoa học và triết học mác xít thì thế giới tồn tại vô tận và đa dạng, song nó lại thống nhất ở tính vật chất. Trong khi đó, quan điểm của tôn giáo nói chung và Cao Đài Ban Chỉnh nói riêng đã thừa nhận có một lực lượng siêu nhiên tạo ra và điều khiển thế giới. Lực lượng mà Cao Đài Ban Chỉnh cho đó là do Đức Chí Tôn, là thầy, Thầy đã sinh ra vạn vật trong đó có cả loài người; cũng chính Đức Chí Tôn, Thầy là người đưa họ lên thế giới thứ 67, nơi tiên cảnh trở lại thời thượng nguyên nguyên sơ, đó là đối với những người đắc đạo, còn đối với những kẻ hung ác, vô đạo cũng bị Thầy dìm trong bể trầm luân. Như vậy Đức Chí Tôn là đấng sáng tạo ra muôn loài, một vai trò rất to lớn đối với sự phát sinh, tồn tại cũng như hủy diệt vạn vật trên trái đất này, là chúa tể muôn loài, vũ trụ nhưng lại rất gần gủi, dễ đi vào nhân tâm, dễ đi vào lớp người bình dân Nam bộ có khi Đức Chí Tôn tự xưng với đệ tử là Thầy, là trời không thể nhìn thấy được, vô hình, quyền năng vô đối mà người Việt coi Trời là đấng tối cao, mắt trời sẽ thấu suốt, sẽ thấy hết mọi việc trên thế giới này. Vì vậy, đạo Cao Đài nói chung, Cao Đài Ban Chỉnh nói riêng đã lấy biểu tượng con mắt - mắt trời - và mắt trời được giải thích rằng chính là trời, là Thầy Thầy cũng cùng hết, ở đâu và giờ nào cũng có Trời cả. Trong Chánh tà thiệt luận năm 1930 ông Nguyễn Văn Kiết viết: Thiên nhãn chúng tôi thờ đây là mắt của Ngọc Hoàng Thượng đế, Ngài là đấng tối cao của chúa tể muôn loài, con mắt của ngài sáng như gương, soi khắp thế giới không một mảy may gì dưới phàm trần mà ngài không biết đến. Rõ ràng, Cao Đài Ban Chỉnh đạo đã giải thích sự hình thành thế giới theo quan điểm duy tâm trong khi quan điểm mác xít lại cho rằng không có thế giới thiên đường địa ngục, nơi cư trú của thánh thần, ma qủy nào cả. Như vậy, cùng một đối tượng phản ánh là thế giới hiện thực, nhưng khoa học và tôn giáo có cách tiếp cận và giải thích thế giới đó theo quan điểm đối lập nhau: khoa học phấn đấu phản ánh ngày càng gần, càng chính xác những gì đang tồn tại, ngược lại tôn giáo phản ánh sai lệch, méo nó, ngày càng xa rời thực tế hiện thực của đời sống con người. Sự thừa nhận lực lượng nào đó tạo ra và điều khiển thế giới là nội dung chủ yếu của thế giới quan tôn giáo nói chung của Cao Đài Ban Chỉnh đạo nói chung.
- Nhân sinh quan:
Quan điểm của đạo Cao Đài Ban Chỉnh giống như các chi phái Cao Đài khác cho rằng con người có 2 phần đó là phần xác và phần hồn. Phần xác tiêu dần theo thời gian, còn linh hồn là bất diệt, con người khi sống, nếu có công đức sẽ về sống sung sướng nơi Bạch Ngọc Kinh (thiên đường). Nhưng nếu có tội thì vướng trong vòng luân hồi sinh tử, vì thế đường lối hành đạo của Đức Giáo Tông Nguyễn Ngọc Tương yêu cầu có tinh thần vị nhân sinh, xả thân hành đạo, thực hành từ bi, bác ái, phải có công quả âm chất đầy đủ mới bảo đảm cho sự luyện hành tân pháp thành công. Cho nên cơ bút ngày 27-8-1926 đã phán rằng: Cửa Bạch Ngọc Kinh không phải ai vô cũng đặng.
Đạo Cao Đài nói chung và Cao Đài Ban Chỉnh nói riêng thờ ĐấngThượng đế, Đức Chí Tôn, Ngài là chúa tể của tạo hóa, của vũ trụ muôn loài và là bản thể độc nhất sinh ra các đấng Tiên, Phật, Thánh, Thần, và tùy cơ duyên hóa độ mà biểu hiện dưới nhiều hình thức khác nhau. Cõi thiêng liêng này được chia là 3 đẳng cấp:
- Thượng đẳng thiêng liêng Phật, Tiên, Thánh.
- Trung đẳng thiêng liêng nhân sinh
- Hạ đẳng thiêng liêng ma qủy.
Họ cho rằng, các vị thiêng liêng ấy đều phải trải qua kiếp làm người để giúp đời, chỉ có con người mới có thể trở nên ma qủy hay tiên phật. Nên con người chiếm một vị trí đặc biệt khi sống và lúc chết tùy duyên nghiệp mà linh hồn ở vào đẳng cấp thiêng liêng thích hợp.
Mục đích của đạo Cao Đài Ban Chỉnh về phương diện nhân sinh quan là khuyên răn, giác ngộ người đời hiểu rõ lý luận nhiệm màu ấy để có phương cách sống như thế nào cho được yên vui và trở về với chân, bản, tín là điều kiện tối cần cho sự siêu thoát.
Có thể nói, giáo lý, kinh sách của đạo Cao Đài Ban Chỉnh cũng như Cao Đài gốc là sự tổng hợp các triết lý duy tâm, siêu hình của khổng - Mạnh - Thích ca- Lão tử - Giê su và lý luận chính trị của thời kỳ phong kiến cổ xưa đến tư sản dân quyền Pháp, Tam dân chủ nghĩa của Trung Hoa và Quân chủ lập hiến của Nhật. Tất cả hoà trộn vào nhau để xây dựng thành lý thuyết về thế giới quan và nhân sinh quan của đạo.
1.2.2. Một số quan niệm về đạo đức của đạo Cao Đài Ban Chỉnh
Đạo Cao Đài nói chung và Cao Đài Ban Chỉnh nói riêng hình thành theo tôn chỉ quy nguyên tam giáo và ngũ chi hợp nhất. Trong khi đó, tam giáo Phật, Khổng, Nho đã có những yếu tố tiến bộ nhất định nhất là về mặt đạo đức. Vì vậy, Cao Đài Ban Chỉnh đã tiếp thu, sử dụng nó như một công cụ hành đạo của mình.
Sức thu hút của tôn giáo nói chung và Cao Đài Ban Chỉnh nói riêng đó là bên cạnh việc xây dựng niềm tin ở thế giới mai sau, đạo còn luôn nhắc nhở con người phải tu dưỡng đạo đức, phải giữ gìn đạo đức cho bền. Theo họ, chính đạo đức con người là cái thang vô ngần, bắc cho con người leo đến phẩm vị tối cao, tối trọng, là ngang bậc cùng Thầy hoặc hơn Thầy. Vì vậy đạo khuyên con người rèn luyện tâm tính, phải tu hành, phải công bình chính trực, phải sống chính danh, đúng vai của mình theo sự thống nhất của ngũ chi: “Nhân đạo”, “Thần đạo”, “Thánh đạo”, “Tiên đạo,” “Phật đạo”, để khi hồn xuất ra khỏi xác thì cứ theo đẳng cấp gần trên mà luân hồi lại nữa.
Quan điểm đạo đức được hình thành trên cơ sở tư tưởng chính danh của Nho giáo, họ xác định địa vị, danh phận rất rõ ràng, điều đó đã thể hiện rõ mô hình, cơ cấu tổ chức rườm rà, cầu kỳ và sự sắp xếp ngôi vị từ Bát quái Đài, Cửu trùng Đài đến Hiệp thiên Đài. Đối với Đức Giáo Tông, địa vị của ông là người cầm giềng mối đạo, có trách nhiệm với đạo, với nhân sinh, giáo dục tín đồ thực hiện những điều răn, những lẽ phải để sau này về nơi Bạch ngọc kinh. Còn đối với đời, ông cũng xác định làm tròn nghĩa vụ công dân của một dân tộc bị mất nước, cứu giúp loài người ra khỏi cơn bĩ cực, đau thương. Tín đồ muốn được đắc đạo, phải làm công quả, thương người, giúp người, sống thuận hòa, phải tu tâm, dưỡng tánh Tất nhiên quan điểm chính danh của Nho giáo có sự phân biệt đẳng cấp rất rõ ràng, dù có mối quan hệ giữa Đức Giáo Tông, Thầy với tín đồ là quan hệ thân thiết, gần gũi như thế nào chăng nữa (xưng hô với nhau là anh em, anh cả), nhưng đằng sau đó vẫn có sự phân biệt.
Cho nên, theo họ trước hết người Cao Đài phải vị nhân sinh phải biết quên mình làm nên cho đạo, cho nhân sinh được hạnh phúc, an bình, phải biết yêu qúi và tôn trọng nhân sinh, đan kết lại thành một khối thống nhất, một đại gia đình, có cùng chung một nguồn gốc và huyết thống, thường xuyên chăm sóc ._.quan tâm.
Mặt khác, cơ sở thờ tự là nơi hành đạo và cũng là nơi linh thiêng của bà con tín đồ. Hiện nay, Cao Đài Ban Chỉnh có 987 thánh thất, thánh tịnh, việc trùng tu, sửa chữa, thậm chí xây mới một số cơ sở thờ tự đã bị hư hại nặng phải được các cấp chính quyền hướng dẫn và tạo mọi điều kiện theo quy định của Nhà nước để cho bà con tín đồ an tâm hành đạo.
- Tổ chức tốt các phong trào văn hóa - xã hội, chú ý xây dựng gia đình văn hóa cho đồng bào có đạo.
Khi có các thiết chế văn hóa - xã hội, phải tổ chức ngay hoạt động của các phong trào văn hóa - xã hội. Đó là những phong trào văn nghệ quần chúng, đền ơn đáp nghĩa, xóa đói giảm nghèo, từ thiện xã hội. Thông qua các phong trào này một mặt, củng cố tính cộng đồng trong xã hội; mặt khác, là điều kiện để đồng bào có đạo tham gia hòa nhập với xã hội, với sự nghiệp xây dựng đất nước. Đặc biệt, trong tôn giáo nói chung, Cao Đài Ban Chỉnh nói riêng, hoạt động từ thiện là hoạt động vốn có và nổi trội, nó trở thành một nội dung hoạt động của đạo, thành nếp sống của nhiều tín đồ chân chính. Xét về mặt đạo đức, về hành vi nhân bản thì trong cơ chế thị trường khi đạo đức xã hội đang xuống cấp thì hành vi cứu khổ, cứu nạn, yêu thương con người, giúp đỡ con người của tôn giáo đáng được hoan nghênh. Vấn đề là làm sao cho hoạt động này không bị lợi dụng vào mục đích truyền giáo và những tuyên truyền phản cách mạng, làm cho hoạt động này xuất phát từ sự chia xẻ, từ tình cảm cộng đồng, từ truyền thống "nhường cơm, xẻ áo" chứ không phải hành động "ban ơn" người nhận phải lệ thuộc, Muốn vậy, những hoạt động này phải được sự quản lý chặt chẽ thông qua các tổ chức đoàn thể phụ nữ, thanh niên, nông dân, kể cả Mặt trận Tổ quốc ở địa phương.
Cần chú ý xây dựng gia đình văn hóa trong đồng bào có đạo, bởi gia đình là tế bào của xã hội, cùng xã hội xây dựng, rèn luyện tình cảm và hành vi đạo đức cho con người. Xây dựng gia đình văn hóa trong vùng đồng bào có đạo như thực hiện nếp sống văn hóa mới, bài trừ các hủ tục mê tín dị đoan, buôn thần bán thánh, xây dựng gia đình văn hóa, ấp văn hóa, xã văn hóa để đi đến khắc phục và hạn chế mức thấp nhất những ảnh hưởng tiêu cực của tôn giáo nói chung. Thực tế hiện nay, phong trào "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa" của tỉnh tiếp tục phát triển nhưng số lượng gia đình văn hóa là đồng bào tín đồ Cao Đài Ban Chỉnh chỉ đạt 80% trong tổng số gia đình tín đồ Cao Đài Ban Chỉnh toàn tỉnh. Về cơ sở thờ tự chỉ có 30/54 cơ sở thờ tự đạt chuẩn cơ sở thờ tự văn minh. Giải quyết vấn đề này đỏi hỏi phải có sự chỉ đạo và phối hợp chặt chẽ của các ngành liên quan như: Văn hóa thông tin, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể và sự lãnh đạo của các chức sắc, chức việc cũng như hoạt động của các tín đồ.
Đồng thời, tăng cường xây dựng đời sống tinh thần cho đồng bào các tín đồ thông qua các hình thức lễ hội. Về qui mô, so với lễ hội Cao Đài Tây Ninh, lễ hội Cao Đài Ban Chỉnh Bến Tre không bằng nhưng vẫn chứa đựng trong đó những giá trị truyền thống tích cực. Là sự biểu dương những giá trị văn hóa và sức mạnh cộng đồng tạo nên tính cố kết cộng đồng; là sự trở về với cội nguồn tự nhiên, giống nòi và khẳng định nét độc đáo của văn hóa Nam bộ, tạo nên tính bền vững và sâu sắc của lễ hội, chan hòa con người trong không khí thiêng liêng, sống động của lễ hội, xóa nhòa những tách biệt giữa các cá nhân dự hội, giúp tín đồ tái tạo và sáng tạo những giá trị văn hóa của mình. Lễ hội Cao Đài còn là nơi lưu giữ và phổ biến các loại hình văn hóa nghệ thuật truyền thống. Có thể nói, lễ hội Cao Đài thật sự là ngày hội của quần chúng, không chỉ thu hút tín đồ quanh vùng thánh địa mà còn cả các tỉnh, huyện có đông tín đồ Cao Đài Ban Chỉnh cũng như cư dân địa phương quan tâm. Nếu đứng về mặt giá trị thì lễ hội Cao Đài mang lại giá trị văn hóa - xã hội tích cực; tuy nhiên, nó cũng chứa đựng những tồn tại cần được giải quyết bằng các giải pháp quản lý phù hợp.
Trước hết, phải nhìn nhận nhu cầu của lễ hội tôn giáo là một bộ phận của văn hóa và nó có mối quan hệ biện chứng với các lĩnh vực khác của đời sống xã hội để có biện pháp quản lý phù hợp với đặc điểm tín ngưỡng lễ hội của địa phương.
Tôn trọng tự do tín ngưỡng và không tín ngưỡng, tự do mở hội nhưng không thể để các cơ sở tôn giáo Cao Đài trong tỉnh mở hội tràn lan mà chính quyền sở tại giúp các tôn giáo nói chung, Cao Đài Ban Chỉnh nói riêng tổ chức lễ hội phải nhằm đáp ứng mục đích giáo dục truyền thống tốt đẹp của dân tộc, phát huy được tính tích cực của tôn giáo trên cả hai phương diện văn hóa và đạo đức.
Đặc điểm của lễ hội Cao Đài, từ lễ hội cá nhân đến lễ hội cộng đồng như lễ cưới, lễ tang, còn rất cầu kỳ, rườm rà, phô trương và hình thức, gây lãng phí, nhưng tính giáo dục, chiều sâu tư tưởng không cao. Do vậy, các ngành có liên quan cùng các cấp cần tuyên truyền vận động quần chúng tín đồ thực hiện tốt Chỉ thị 27 của Bộ Chính trị về việc tang, việc cưới nhằm đem lại tác dụng tích cực cho việc xây dựng đời sống tinh thần ngày càng tốt hơn.
3.2.3. Nhóm giải pháp về cán bộ tôn giáo vận
Hồ Chí Minh đã chỉ rõ:
Chính sách đúng là nguồn gốc của thắng lợi. Song từ nguồn gốc đi đến thắng lợi thực sự còn phải tổ chức đấu tranh, khi đã có chính sách đúng, thì sự thành công hoặc thất bại của chính sách đó là do nơi tổ chức công việc, nơi lựa chọn cán bộ và do nơi kiểm tra. Nếu 3 điều ấy sơ sài, thì chính sách ấy đúng mấy cũng vô ích [27, tr 520].
Như vậy, chính sách tôn giáo dù có đúng đắn đến đâu mà đội ngũ cán bộ vận dụng, thực thi chính sách còn thiếu và có những cán bộ yếu chắc chắn công tác tôn giáo không thể đem lại hiệu quả cao. Chính con người, chính sách cán bộ là khâu quyết định sự thành bại của cách mạng, của công việc.
Thực tế đội ngũ làm công tác tôn giáo của cả nước nói chung tỉnh Bến Tre nói riêng còn nhiều bất cập. ở tỉnh Bến Tre, bộ máy làm công tác tôn giáo còn thiếu về số lượng và yếu về chất lượng. Ban Tôn giáo tỉnh có 6 đồng chí làm công tác nghiệp vụ, quản lý tôn giáo trên qui mô toàn tỉnh, những đồng chí này đều có trình độ cử nhân nhưng không thuộc chuyên ngành tôn giáo; cấp huyện chỉ có một cán bộ chuyên trách; Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc tỉnh, Ban Dân vận Tỉnh ủy mỗi nơi chỉ có một cán bộ phụ trách công tác tôn giáo (không có cán bộ phụ trách Cao Đài vận). Những đồng chí này phần lớn không được đào tạo đúng chuyên ngành (chỉ tham gia các lớp bồi dưỡng ngắn ngày), trẻ, chưa có kinh nghiệm, chưa hiểu sâu về tôn giáo mà phải vừa làm, vừa học, vừa tìm hiểu. Do vậy, việc nhận thức về các tôn giáo, việc quán triệt chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về tôn giáo chưa đầy đủ, còn ở nhiều mức độ khác nhau. Có những nơi coi tôn giáo nói chung, Cao Đài Ban Chỉnh nói riêng là thù địch phản động, là mê tín dị đoan cần phải bài trừ dẫn đến thái độ thành kiến, khắc khe, hẹp hòi. Có nơi do thiếu sự hiểu biết về tôn giáo, về Cao Đài; do vậy, chưa khai thác được những ảnh hưởng tích cực và hạn chế được những ảnh hưởng tiêu cực về đời sống chính trị cũng như về mặt đạo đức thậm chí đôi lúc lúng túng trong việc xử lý các vụ việc.
Trong khi đó, nội dung cốt lõi hoạt động của cán bộ tôn giáo vận là công tác vận động quần chúng. Theo quan điểm của Hồ Chí Minh, vận động quần chúng là:
Tổ chức huy động lực lượng của toàn dân, không để sót một người nào, không chỉ dùng mít tinh, chỉ thị mà phải tìm mọi cách cho người dân hiểu rằng việc đó là lợi ích của họ, họ phải hăng hái làm cho kỳ được và bất cứ việc gì cũng phải bàn bạc với dân, hỏi ý kiến và kinh nghiệm của dân, cùng với dân đặt kế hoạch cho thiết thực, động viên tổ chức toàn dân ra thi hành, trong khi thi hành phải theo dõi đôn đốc, khuyến khích dân; khi thi hành xong phải cùng dân kiểm thảo lại công việc rút kinh nghiệm phê bình, khen thưởng [27, tr 698].
Công tác vận động quần chúng trong đồng bào tín đồ, thực chất trở về với quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin "cách mạng là sự nghiệp của quần chúng". Quần chúng ở đây là quần chúng tín đồ, chức sắc, họ là người quyết định thành công hay thất bại của sự nghiệp cách mạng tại vùng có đạo, chính họ cũng là người quyết định sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn vùng đạo. Từ đó mà xác định và thật sự đặt niềm tin vào họ, xem cách mạng ở vùng tôn giáo Cao Đài là sự nghiệp của quần chúng tín đồ Cao Đài dưới sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước.
Vì vậy, từ trong sự khác biệt về thế giới quan, nhân sinh quan thì việc tìm thấy những giá trị tương đồng trong mẫu số chung khối đoàn kết toàn dân tộc là thật cần thiết. Phải biết nhìn đằng sau những tín ngưỡng, mê tín là những con người, những nông dân chất phát, thật thà, cần cù lao động. Họ có lòng yêu nước, ghét xâm lược ngoại bang, họ có trái tim nhân hậu, có những khát khao hướng về đạo đức, phù hợp với giá trị đạo đức xã hội chủ nghĩa.
Tuy nhiên, trước yêu cầu của cách mạng hiện nay, nhất là hoạt động tôn giáo nói chung, Cao Đài nói riêng đang diễn ra hết sức phức tạp khi mà các thế lực phản động phương Tây đang tìm mọi cách ráo riết lật đổ cách mạng Việt Nam bằng nhiều âm mưu, thủ đoạn khác nhau, trong đó âm mưu "diễn biến hòa bình" được chúng đặc biệt quan tâm, thì vấn đề vận động quần chúng tín đồ, nắm tâm tư, nguyện vọng của tín đồ là điều đặc biệt hệ trọng để định hướng hoạt động của họ đúng đường lối, chủ trương của Đảng và Nhà nước, gắn bó chặt chẽ giữa đạo với đời. Chú ý xây dựng bồi dưỡng phát triển Đảng, Đoàn cho con em tín đồ, chức sắc, học sinh sinh viên có đạo... với lý lịch rõ ràng không dính líu đến chính trị làm cơ sở để nắm chắc tín đồ, xây dựng cảm tình, nồng cốt đối với đơn tuyến trong các chức sắc. Đồng thời, đây cũng chính là lực lượng cán bộ tôn giáo vận hoạt động có hiệu quả nhất. Ngoài ra, cần động viên và sử dụng lực lượng bộ đội phục viên, cán bộ về hưu tham gia công tác tôn giáo vận, bởi đây là lực đông đảo có uy tín, có kinh nghiệm và sinh hoạt của họ hiện nay gắn với cơ sở, gắn với bà con, là điều kiện để họ gần gũi, vận động và nắm quần chúng tín đồ. Do vậy, vấn đề cán bộ tôn giáo vận là vấn đề cần quan tâm đúng mức, tránh quan điểm đã tồn tại phổ biến từ trước đến nay như người không làm được việc, năng lực hạn chế lại điều động về làm công tác tôn giáo, công tác Mặt trận, công tác Dân vận. Như thế công tác Dân vận đã yếu kém lại tiếp tục yếu kém.
Thực hiện quan điểm của Đảng về cán bộ tôn giáo vận đó là các cấp ủy đảng phải đổi mới quan điểm về công tác cán bộ tôn giáo vận. Đội ngũ này phải đủ về số lượng, mạnh về chất lượng. Về số lượng, phải đảm bảo đủ biên chế hoạt động từ cấp tỉnh đến cấp huyện. Về chất lượng, họ là những người nhiệt tình, năng động, có kiến thức và kinh nghiệm vận động quần chúng. iều cơ bản là họ phải được đào tạo qua các trường lớp, nắm vững được lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, những quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước ta về tôn giáo nói chung, Cao Đài Ban Chỉnh đạo nói riêng. Đặc biệt, một nội dung quan trọng không thể thiếu trong công tác đào tạo là cán bộ làm công tác tôn giáo phải được trang bị khái quát về nội dung, giáo lý, giáo luật, tổ chức của các tôn giáo để họ có sự hiểu biết về các tôn giáo nói chung và tôn giáo mà họ được phân công phụ trách. Hàng năm, Ban Tôn giáo và Ban Dân vận tỉnh cần thường xuyên tổ chức các lớp tập huấn nghiệp vụ, phổ cập thông tin, trao đổi giao lưu học tập kinh nghiệm trong các vùng tôn giáo khác như vùng Phật giáo, Hoà Hoả... qua đó họ sẽ tích luỹ được những kiến thức cũng như kinh nghiệm hoạt động thực tiễn trong công tác tôn giáo. Nói cách khác, là phải xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác dân vận vững vàng về lập trường chính trị, thạo về chuyên môn, có năng lực tổ chức thực hiện và được nhân dân tín nhiệm. Trên cơ sở đó, giúp cho cán bộ làm công tác tôn giáo thông qua sự hiểu biết của mình tự tin và có thái độ ứng xử phù hợp cho từng tôn giáo.
Về chế độ chính sách: để những người làm công tác tôn giáo vận thật sự yên tâm thực hiện nhiệm vụ, ngoài tinh thần trách nhiệm của họ thì tiền lương hay sinh hoạt phí cũng phải là nguồn thu nhập đảm bảo cuộc sống và mức sống trên trung bình của xã hội, nên chăng xem chế dộ bồi dưỡng của họ như một công chức, một thành viên của Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc ở cơ sở. Bởi chính sách đãi ngộ hợp lý, thoả đáng, một mặt sẽ kích thích sự phấn đấu vươn lên của cán bộ, làm cho họ càng thấy trách nhiệm nhiều hơn. Mặt khác, cũng nhằm động viên số cán bộ gắn với công tác tôn giáo lâu năm. Hơn nữa, đây cũng là hoạt động khó nhất, phức tập nhất so với hoạt động của các tổ chức đoàn thể xã hội khác.
3.2.4. Nhóm giải pháp về phát triển kinh tế - xã hội
Bến Tre là một tỉnh cù lao ở đồng bằng sông Cửu Long, có địa hình cách biệt với các tỉnh bạn, hệ thống sông ngòi, kênh rạch chằng chịt, hơn nữa Bến Tre lại là một tỉnh bị chiến tranh tàn phá nặng nề nhất nước. Do vậy nền kinh tế của tỉnh cũng như đời sống của nhân dân Bến Tre gặp không ít khó khăn, gần như phải bắt tay xây dựng từ đầu.
Nhất là sau khi thực hiện đường lối đổi mới của Đảng năm 1986 đến nay. Tỉnh Bến Tre đã vươn lên về mọi mặt, kinh tế phát triển, nhiều chỉ tiêu chủ yếu đã đạt và vượt kế hoạch so với nghị quyết đại hội, tốc độ tăng trưởng kinh tế năm sau luôn cao hơn năm trước, bình quân đạt 9,38% năm. Đến cuối năm 2005,thu nhập bình quân đầu người đạt 461 USD, kết cấu hạ tầng ở Bến Tre đã được tỉnh quan tâm đầu tư khá mạnh, hệ thống giao thông nông thôn được tỉnh đầu tư cao nhất so với các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long. Đến cuối năm 2005, tỉnh đã nhựa hóa và bê tông hóa 56,3% đường nông thôn, xây dựng 1.370 cây cầu, 158/160 xã có đường ô tô về đến trung tâm xã, 85% số hộ sử dụng lưới điện quốc gia, 55% hộ được cung cấp nước sạch, 6,92 máy điện thoại/100 dân, đặc biệt trong lĩnh vực y tế, đến cuối năm 2005, 100% xã, phường có bác sĩ, 100% xã, phường có y sĩ sản nhi và nữ hộ sinh, 57,44% ấp có nhân viên y tế cộng đồng. Nhìn chung, các chương trình phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh đã tạo điều kiện tăng thu nhập, cải thiện đời sống cho nhân dân trong tỉnh.
Tuy nhiên, đời sống nhân dân trong tỉnh vẫn còn có nhiều khó khăn, thu nhập của người dân vùng nông thôn còn thấp so với thị trấn, thị xã. Tăng trưởng kinh tế chủ yếu dựa vào các nhân tố phát triển theo chiều rộng, chưa tương xứng với tiềm năng. Nền kinh tế phụ thuộc nhiều vào nông nghiệp nhưng sản xuất nông nghiệp chưa chủ động còn tự phát, lệ thuộc nhiều vào thời tiết. Kết cấu hạ tầng về kinh tế-xã hội tuy được tập trung đầu tư nhưng chưa đồng bộ, làm chậm sự phát triển kinh tế-xã hội của tỉnh. Đến cuối năm 2005, toàn tỉnh Bến Tre có 3,6% tỷ lệ hộ nghèo nếu tính theo tiêu chí cũ (20,02% theo tiêu chí mới) trong đó có đồng bào tín đồ Cao Đài Ban Chỉnh. Một mặt do đặc điểm thành phần xuất thân của họ phần lớn là nông dân, nơi cư trú là nông thôn, thời gian lao động của họ dành cho làm công quả là nhiều, bản thân họ chưa thật sự vươn lên, còn thụ động, trông chờ, ỷ lại, không những vào chính quyền, các đoàn thể mà còn dựa dẫm vào đấng bề trên, không phát huy tính năng động, độc lập, tự lực vươn lên. Mặt khác, chính sách của tỉnh đối với đồng bào tín đồ của các tôn giáo nói chung chưa thật cụ thể, chỉ là những nghị quyết, chương trình hành động chung chung, chưa thật chú trọng tới đồng bào tín đồ. Một số cuộc vận động của các đoàn thể chưa gắn chặt với các chương trình phát triển kinh tế - xã hội.
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật lịch sử: suy cho cùng kinh tế quyết định chính trị, vật chất quyết định ý thức. Như vậy, tập trung đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội để nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho đồng bào tín đồ là giải pháp thiết thực nhằm phát huy mặt tích cực và hạn chế mặt tiêu cực của Cao Đài Ban Chỉnh.
Trên cơ sở hai thế mạnh của nền kinh tế tỉnh Bến Tre đó là kinh tế vườn và kinh tế biển, tỉnh cần có hàng loạt chương trình chính sách để nâng cao đời sống vật chất cho đồng bào nói chung, đồng bào có đạo nói riêng.
Những năm tới, Bến Tre cần tiếp tục chuyển dịch mạnh mẽ cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá; tập trung đầu tư tạo bước đột phá trong phát triển công nghiệp và dịch vụ; phát triển kinh tế thuỷ sản và kinh tế vườn theo chiều sâu. Do vậy, đi đôi với phát triển kinh tế thuỷ sản và kinh tế vườn là việc thu hút đầu tư xây dựng và phát triển công nghiệp chế biến hàng xuất khẩu, các khu-cụm công nghiệp trọng điểm như: Giao Long, An Hiệp, Bình Phú; phấn đấu mỗi huyện, thị xã có một cụm công nghiệp nhằm đáp ứng nhu cầu sơ chế tại chỗ cung cấp nguyên liệu có chất lượng cho công nghiệp chế biến tập trung. Qua đó, sẽ tạo được nhiều việc làm và thu nhập cho xã hội.
Như vậy, đối với đồng bào có đạo trước hết phải tổ chức lao động sản xuất và việc làm cho đồng bào có đạo.. Tuỳ từng vùng mà có những hoạt động phát triển kinh tế - xã hội thích hợp. Đối với kinh tế vườn phải đẩy mạnh chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi theo hướng thâm canh, chuyên canh, phát triển kinh tế trang trại, kinh tế biển, kết hợp nuôi trồng, chế biến, dịch vụ nhằm khai thác hợp lý và sử dụng có hiệu quả hơn nữa tiềm năng đất đai, mặt nước, tăng giá trị và hiệu quả kinh tế trên từng đơn vị diện tích, nâng cao sức cạnh tranh của các sản phẩm nông lâm thuỷ hải sản. Trong phát triển kinh tế, chú ý ứng dụng những tiến bộ khoa học kỹ thuật nhất là công nghệ sinh học trong chăn nuôi và trồng trọt để tạo năng suất lao động ngày càng cao. Tận dụng thời gian nông nhàn của người nông dân để phát triển tiểu thủ công nghiệp với những nguyên liệu truyền thống tại chỗ như cây dừa với những sản phẩm mỹ nghệ xuất khẩu, cơm dừa nạo sấy, bột sữa dừa, chỉ xơ dừa, than hoạt tính, kẹo dừa hay những nguyên liệu từ chôm chôm, nhãn để tạo ra những mặt hàng xuất khẩu. Từng bước giải quyết được việc làm, nâng cao thu nhập cho nhân dân, tiến tới giảm tỷ lệ hộ nghèo và khắc phục dần khoảng cách về trình độ, về mức sống giữa các vùng, các tầng lớp dân cư có đạo với các vùng, các tầng lớp dân cư khác của tỉnh.
Để thực hiện được nhiệm vụ trên, hàng loạt vấn đề được đặt ra đó là vai trò của các đoàn thể, sự phối hợp của các ngành chuyên môn như thủy sản, nông nghiệp, công nghiệp, sự đầu tư cho vay vốn của ngân hàng và chính quyền các cấp tạo điều kiện thuận lợi cho bà con hoạt động. Nhưng đối với bà con vùng đạo quan trọng hơn cả vẫn là vai trò của các chức sắc, chức việc trong tổ chức, hướng dẫn cho đồng bào tín đồ của mình thực hiện theo chủ trương phát triển kinh tế xã hội chung của tỉnh, đồng thời là cầu nối tranh thủ sự hỗ trợ của các ngành chức năng trong hướng dẫn, tạo điều kiện cho tín đồ phát triển kinh tế. Vấn đề hiện nay, trong nội bộ tín đồ cần tổ chức các tổ tương trợ giúp đỡ về vốn, giống, cây, con, chuyển giao khoa học kỹ thuật trong chăn nuôi và trồng trọt để giúp nhau làm kinh tế, góp phần xóa đói, giảm nghèo, nâng dần mức sống của những người có đạo, là việc làm thiết thực trong giai đoạn hiện nay. Một khi mức sống được nâng cao, sẽ giúp cho đồng bào tín đồ cảm thấy có được niềm tin trong hiện thực, họ được tự do trong việc lựa chọn giá trị, lựa chọn hành vi mà xã hội thừa nhận, làm cho hoạt động của họ giảm bớt sự chi phối của cái ngẫu nhiên, dần dần họ thấy tự tin chủ động trong cuộc sống mà không trông chờ đến một đấng siêu nhiên nào khác ban phát cho họ. Đây là giải pháp quan trọng góp phần hạn chế những mặt tiêu cực của tôn giáo nói chung.
Mặt khác, các cấp chính quyền, đoàn thể cần động viên, hướng dẫn đồng bào có đạo tham gia vào các hoạt động xã hội như phong trào xóa đói giảm nghèo, xây dựng nhà tình nghĩa, xây dựng nhà tình thương, giúp đỡ gia đình có công với cách mạng là việc làm phù hợp với đạo lý của người Việt Nam “uống nước nhớ nguồn”,”lá lành đùm lá rách”; đồng thời, cũng là việc làm phù hợp với nội dung hoạt động của tôn giáo nếu không nói là thế mạnh của họ đó là hoạt động từ thiện, là hoạt động có ý nghĩa tích cực đối với xã hội.
Có thể nói, nếu chúng ta biết trân trọng và phát huy những mặt tích cực của đạo Cao Đài Ban Chỉnh, nhất là việc lưu giữ một số nét văn hóa truyền thống, tinh thần yêu nước và những thành tích của họ đối với dân tộc và cách mạng qua 2 cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Đồng thời, biết hạn chế những mặt tiêu cực với việc thực hiện tốt chính sách đối với tôn giáo nói chung, đạo Cao Đài Ban Chỉnh nói riêng trong giai đoạn mới sẽ góp phần vào việc động viên tín đồ, chức sắc của đạo tiếp nối truyền thống Nước vinh Đạo sáng để thực hiện mục đích chung của dân tộc: dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Trên đây là những giải pháp đề xuất bước đầu của tác giả nhằm góp phần phát huy những ảnh hưởng tích cực và hạn chế ảnh hưởng tiêu cực của đạo Cao Đài Ban Chỉnh đối với đời sống tinh thần ở Bến Tre hiện nay. Mặc dù, đó là những giải pháp mang tính đề xuất nhưng theo tác giả nó rất cần thiết, nó góp phần định hướng hoạt động của đạo thực hiện tốt phương châm truyền thống phụng đạo - yêu nước, đồng thời, cũng là nội dung tham khảo cho việc hoạch định chủ trương, chính sách đối với công tác tôn giáo nhất là đạo Cao Đài Ban Chỉnh ở Bến Tre.
KếT LUậN
Bảy mươi hai năm trôi qua, Cao Đài Ban Chỉnh hình thành, tồn tại và phát triển qua nhiều giai đoạn lịch sử khác nhau, trong quá trình tồn tại của mình, một mặt Cao Đài Ban Chỉnh đã có những đóng góp tích cực vào hai cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc. Mặt khác, nó đã ảnh hưởng nhất định đối với đời sống tinh thần của nhân dân Bến Tre cả mặt tích cực lẫn mặt tiêu cực.
Từ góc độ triết học, luận văn góp phần xây dựng một hình ảnh tương đối hoàn chỉnh về tôn giáo Cao Đài Ban Chỉnh. Khái quát sự hình thành đạo Cao Đài nói chung, đi đến phân tích sự hình thành Cao Đài Ban Chỉnh ở Bến Tre. Đặc biệt, từ việc nghiên cứu đường lối hành đạo của Đức Giáo Tông Nguyễn Ngọc Tương, nghiên cứu thế giới quan và nhân sinh quan cũng như giá trị đạo đức của Cao Đài Ban Chỉnh, từ đó so sánh những nét tương đồng và khác biệt của đạo Cao Đài Ban Chỉnh với Cao Đài nói chung. Với tính cách là một hình thái ý thức xã hội đặc thù, luận văn đã cố gắng phân tích ảnh hưởng hai mặt của nó đối với đời sống tinh thần một cách khách quan cùng với những nhóm giải pháp nhằm phát huy những mặt tích cực, hạn chế đến mức thấp nhất mặt tiêu cực trong tôn giáo Cao Đài Ban Chỉnh đối với quá trình xây dựng đời sống tinh thần ở Bến Tre hiện nay. Phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực của Cao Đài Ban Chỉnh cần thực hiện đồng bộ các giải pháp: về nhận thức, về văn hóa tinh thần, về đào tạo cán bộ tôn giáo vận và phát triển kinh tế - xã hội ở Bến Tre.
Danh mục tài liệu tham khảo
1. Ban Dân vận Tỉnh uỷ Bến Tre (2003), Kế hoạch số 18/ DVTW tổ chức thực hiện Nghị quyết Trung ương VII ( khoá IX).
2. Châu Tri chỉnh đạo (1954), Nhà in Hoa Chánh Sài Gòn.
3. Chi bộ đặc biệt giáo Hội Cao Đài Ban Chỉnh trực thuộc Tỉnh uỷ (1985), Báo cáo thành tích tham gia kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, xây dựng đất nước của Cao Đài Ban Chỉnh.
4. Đặng Thế Đại (1993), Đôi điều bàn thêm về hấp lực của đạo Cao Đài, Viện Nghiên cứu tôn giáo, Hà Nội.
5. Đại thừa chân giáo (1972), Cao Đài chiếu minh Tam Thanh Cần Thơ.
6. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội.
7. Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Văn kiện Hội nghị lần thứ năm ban Chấp hành Trung ương khoá VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội
8. Đảng Cộng sản Việt Nam (2003), Văn kiện Hộ inghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương khoá IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
9. Đảng Cộng sản Việt Nam , Tỉnh uỷ Bến Tre (2005), Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Bến Tre lần thứ VIII.
10. Đề cương bài giảng Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề tôn giáo (1999), Trung tâm Khoa học về Tín ngưỡng và tôn giáo, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
11. Địa chí Bến Tre (2001), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
12. Đường lối hành đạo của giáo tông Nguyễn Ngọc Tương, Hội thánh Đại đạo Tam kỳ phổ độ ấn hành.
13. Trần Văn Giàu (1993), Sự phát triển của tư tưởng Việt Nam, tập III, Nxb thành phố Hồ Chí Minh.
14. Trần Hồng Kỳ (1998), “C.Mác-Ph.ăngghen và vấn đề tương lai của tôn giáo”, Tạp chí Triết học, (3).
15. Trầm Hương, Đêm trắng của Đức Giáo Tông, Nxb Công an nhân dân.
16. Hiến chương Hội thánh Cao Đài Ban Chỉnh đạo (bổ sung) (2003).
17. Hiến pháp Việt Nam (năm 1946, 1959, 1980 và 1992).
18. Đinh Gia Khánh, Cù Huy Cận (1995), Các vùng văn hoá Việt Nam, Nxb Văn học.
19. Nguyễn Văn Kiệm (1988), “Tôn giáo tính phức hợp và đa nghĩa của tôn giáo”, Tạp chí Văn hoá văn nghệ, (11).
20. Kinh cúng tứ thời và quan hôn tang tế (2005), in tại Công ty cổ phần in Vườn Lài, thành phố Hồ Chí Minh.
21. Kỷ yếu kỷ niệm 80 năm khai đạo Cao Đài-Hội thánh Cao Đài Ban Chỉnh đạo.
22. Nguyễn Văn Long (1999), “Về quan hệ giữa tôn giáo và văn hoá nghệ thuật”, Tạp chí Nghiên cứu lý luận, (1), tr.39-41.
23. Lời thuyết đạo của Phạm Công Tắc, quyển 1.
24. Nguyễn Phú Lợi (1995), ”Một số vấn đề về công tác vận động giáo dân”, Tạp chí Lịch sử Đảng, (2).
25. Nguyễn Đức Lữ (1993), ”Sự đan xen hoà đồng của các tín ngưõng tôn giáo ở Việt Nam”, Tạp chí Dân tộc học, (4).
26. Hồ Chí Minh (1996), Về vấn đề tôn giáo tín ngưỡng, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
27. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, Tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
28. Một số hiểu biết về tôn giáo, tôn giáo ở Việt Nam(1993). Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.
29. Một số tôn giáo ở Vịêt Nam (1998), Phòng Thông tin tư liệu, Ban Tôn giáo Chính phủ, Hà Nội.
30. Nguyễn Chí Mỳ (1985), “Bài giảng tôn giáo dưới góc dộ triết học”, Tạp chí Nghiên cứu lý luận, (8).
31. Nguyễn Chí Mỳ (1998), “Tôn giáo và hiện thực-Một số vấn đề đặt ra hiện nay”, Tạp chí Triết học, (2).
32. Những đặc điểm của một số tôn giáo lớn ở Việt Nam (1997), Viện Nghiên cứu Tôn giáo và Tín ngưỡng.
33. Đặng Thu Nga (2000), ảnh hưởng của đạo Cao Đài đối với đời sống tinh thần ở Tây Ninh, Luận văn thạc sĩ Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
34. Nghị quyết 24 của Bộ Chính trị (1990), Hà Nội.
35. Võ Văn Phuông (1995), Đạo Cao Đài và quá trình đấu tranh loại bỏ mặt chính trị phản động của giáo phái Cao Đài Tây Ninh trong giai đoạn cách mạng hiện nay, Luận văn thạc sĩ Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
36. Quá trình hình thành và phát triển của Hội thánh Đại đạo Tam kỳ phổ độ-Cao Đài Ban Chỉnh đạo (2001).
37. Nguyễn Văn Ron (1995), Bước đầu tìm hiểu một số biểu hiện đặc thù của đạo Cao Đài, Luận văn thạc sĩ Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
38. Nguyễn Hoàng Sa (1999), Đạo Hoà Hảo và ảnh hưởng của nó ở đồng bằng sông Cửu Long, Luận án tiến sĩ Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
39. Trần Văn Sinh (1998), “Giá trị đạo đức trong tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt Nam”, Hoạt động khoa học, (11).
40. Thánh ngôn hợp tuyển (1992), tái bản lần thứ sáu.
41. Tài liệu thuyết đạo (1961), quyển 1, Sài Gòn.
42. Nguyễn Tài Thư (1997), ảnh hưởng của các hệ tư tưởng và tôn giáo đối với con người Việt Nam hiện nay, NXb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
43. Nguyễn Tài Thư (1995), ‘Vai trò của các học thuyết tư tưởng và tôn giáo hiện nay ở Việt Nam”, Tạp chí Cộng sản, (3).
44. Tiểu sử Đức Giáo Tông Nguyễn Ngọc Tương (1958).
45. Tôn giáo ở Việt Nam-Mấy vấn đề lý luận và thực tiễn (1995), Đề tài cấp Bộ, Khoa Chủ nghĩa Xã hội khoa học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
46. Tuyên truyền dạy đạo của Đức Lý Giáo Tông ( 1992), Xí nghiệp in Bộ Giáo dục và Đào tạo.
47. Đặng Nghiêm Vạn (chủ biên) (1995), Bước đầu tìm hiểu về đạo Cao Đài, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
48. Đặng Nghiêm Vạn (1997), “ Vai trò tôn giáo trong việc bảo tồn di sản văn hoá dân tộc”, Tạp chí Văn hoá nghệ thuật, (1).
49. Lê Trung Vũ ( 1993), Đại lế vía Đức Chí Tôn (nghi thức đạo Cao Đài).
50. Nguyễn Hữu Vui (1993), “ Tôn giáo và đạo đức-nhìn từ mặt triết học”. Tạp chí Triết học, (4).
51. Nguyễn Thanh Xuân (2005), Một số tôn giáo ở Việt Nam, Nxb Tôn giáo.
PHụ LụC
Phụ lục 1
THựC TRạNG ĐạO CAO Đài VIệT NAM
TT
TÊN CHI PHáI,
Tổ CHứC
(NĂM THàNH LậP)
TíN Đồ
CHứC SắC
Họ ĐạO
TòA THáNH Tổ ĐìNH
Số ĐịA PHƯƠNG
NHữNG ĐịA PHƯƠNG Có ĐÔNG TíN Đồ
1
CAO Đài BAN CHỉNH ĐạO (1934)
930.000
271
245
Bến Tre
27
Bến Tre, Long An, Trà Vinh, Sài Gòn, Quảng Ngãi, Mỹ Tho
2
CAO Đài TòA THáNH TÂY NINH (1926)
1.200.000
2.500
335
Tây Ninh
34
Tây Ninh, Long An, Cao Lãnh, Sa Đéc, Bến Tre, Sài Gòn, Long Xuyên, Châu Đốc, Mỹ Tho, Gò Công
3
CAO Đài MINH CHƠN Lý (1932)
50.000
500
25
Mỹ Tho
15
Mỹ Tho, Long An, Rạch Giá, Bình Định...
4
CAO Đài TIÊN THIÊN
(1934)
350.000
700
107
Bến Tre
14
Bến Tre, Vĩnh Long, Mỹ Tho, Sóc Trăng, Long An…
5
CAO Đài MINH CHƠN ĐạO (1934)
100.000
400
49
Cà Mau
04
Cà Mau, Bạc Liêu, Rạch Giá, Hà Tiên
6
CAO Đài TRUYềN GIáO ĐạO (1939)
100.000
150
53
Đà Nẵng
13
Nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên
7
CAO Đài CHƠN Lý CầU KHO (1937)
70.000
100
24
Bình Định
08
Bình Định, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Phú Yên
TT
TÊN CHI PHáI,
Tổ CHứC
(NĂM THàNH LậP)
TíN Đồ
CHứC SắC
Họ ĐạO
TòA THáNH Tổ ĐìNH
Số ĐịA PHƯƠNG
NHữNG ĐịA PHƯƠNG Có ĐÔNG TíN Đồ
8
CAO Đài CHIếU MINH LONG CHÂU (1956)
10.000
200
18
Cần Thơ
03
Cần Thơ,
Vĩnh Long
9
CAO Đài BạCH Y LIÊN ĐOàN CHƠN Lý
(1936)
10.000
81
15
Rạch Giá
03
Rạch Giá, Hà Tiên,
Tp Sài Gòn
10
CAO Đài PHổ THÔNG GIáO Lý (1968)
Sài Gòn
Sài Gòn
TổNG CộNG
2.820.000
4.902
871
34
Nguồn: Tổng hợp báo cáo tình hình tôn giáo Việt Nam năm 2004 của Ban Tôn giáo Chính Phủ.
Phụ lục 2
PHáP TU TAM THừA
CủA HộI THáNH CAO Đài BAN CHỉNH ĐạO
Pháp tu Tam Thừa của Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh đạo gồm 3 bậc: Hạ Thừa Trung Thừa - Thượng Thừa.
1. Hạ Thừa: Người tu bậc Hạ Thừa lấy gia đình làm nền tảng tu thân; thực hiện Tứ Đại điều qui, Ngũ Giới Cấm, Ngũ Thường, Tứ Đức... căn cứ Thế Luật mà hành đạo.
2. Trung Thừa: Người tu bậc Trung Thừa hiến thân nửa đời - nửa đạo; lấy Nhà Tu Trung Thừa ở Tòa Thánh hoặc Nhà Tu Trung Thừa ở các Họ đạo để thực hiện Chân Truyền đạo.
3. Thượng Thừa: thượng Thừa là bậc tu cao nhất trong đạo. Người tu bậc Thượng Thừa hiến thân trọn đời hành đạo, phụng sự nhân sinh, lấy Nhà Tu Thượng Thừa ở Tòa Thánh để thừa hành Tân Pháp, tu giải thoát theo Thập đẳng cấp thiêng liêng (Thính Thiện, Hành Thiện, Giáo Thiện, Chí Thiện, Hiền Nhơn, Thánh Nhơn, Chơn Nhơn, Đạo Nhơn, Tiên Tử, Phật Tử).
Nguồn: Điều 39 - Hiến chương Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh đạo
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LA2582.Doc