Ảnh hưởng của cam kết trong tổ chức WTO đến hoạt động đầu tư nước ngoài của Việt Nam và giải pháp

MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU Ngày nay, tất cả các nước trên thế giới, dù muốn hay không, đều bị cuốn hút vào dòng chảy mãnh liệt của toàn cầu hoá. Hội nhập có nghĩa là chấp nhận cạnh tranh quốc tế. Tuy nhiên, hội nhập không chỉ bao hàm cạnh tranh. Sự hợp tác, liên minh giữa các doanh nghiệp, giữa các nền kinh tế trong khu vực cũng phải được đặt ra như một mục tiêu thiết yếu. Trong quá trình này, mỗi nước cần khai thác các cơ hội để thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào phát triển kinh tế đất nước. Toàn cầu

doc36 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1526 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Ảnh hưởng của cam kết trong tổ chức WTO đến hoạt động đầu tư nước ngoài của Việt Nam và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hóa là cơ hội rất tốt cho phép Việt Nam tham gia sâu vào phân công lao động quốc tế, khai thác các lợi thế so sánh của đất nước trong quá trình công nghiệp hoá. Trong 20 năm qua kể từ khi ban hành Luật Đầu tư nước ngoài vào năm 1987 đến nay, khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài (ĐTNN) đã góp phần đáng kể trong quá trình phát triển kinh tế-xã hội đất nước bằng việc tạo ra tổng giá trị doanh thu đáng kể, trong đó có giá trị xuất khẩu, cũng như đóng góp tích cực vào ngân sách, tạo việc làm và thu nhập ổn định cho người lao động. Đồng thời, ĐTNN tiếp tục khẳng định vai trò trong sự nghiệp phát triển kinh tế, đóng góp ngày càng lớn vào tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của đất nước và thực sự trở thành bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế. Ngày 7/11/2006, Việt Nam đã hoàn tất quá trình đàm phán để được kết nạp là thành viên thứ 150 của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). Sự kiện này có ý nghĩa quan trọng, thể hiện sự đánh giá cao của cộng đồng quốc tế về những thành tựu phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam trong hơn hai thập kỷ đổi mới; đồng thời, tạo động lực để Việt Nam tiếp tục đẩy mạnh tiến trình cải cách kinh tế - xã hội ở trong nước, mở ra một chặng đường mới trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của đất nước Trong hơn hai năm qua, nhìn chung Việt Nam đã thực thi đầy đủ và nghiêm túc các cam kết gia nhập WTO. Gia nhập WTO tác động tích cực đối với nền kinh tế, đặc biệt về thu hút đầu tư trực tiếp (FDI). Vốn đăng ký FDI đạt trên 20 tỷ USD năm 2007 và dự kiến sẽ đạt trên 60 tỷ USD trong năm 2008. Sự bùng nổ FDI trong hai năm qua phản ánh niềm tin của các nhà đầu tư nước ngoài vào công cuộc đổi mới cũng như tiềm năng phát triển dài hạn của Việt Nam. Các đối tác cho rằng tác động tích cực nhất của việc gia nhập WTO là môi trường kinh doanh và đầu tư tại Việt Nam được cải thiện đáng kể, nhờ đó Việt Nam đã trở thành điểm hấp dẫn các nguồn vốn từ bên ngoài. Xuất phát từ cơ sở lý luận và thực tiễn trên đây, tôi đã chọn đề tài: “Ảnh hưởng của cam kết trong tổ chức WTO đến hoạt động đầu tư nước ngoài của Việt Nam và giải pháp” để vừa xem xét tổng quan thực trạng thu hút nguồn vốn đầu tư nước ngoài ở Việt Nam trong thời gian qua và đánh giá ảnh hưởng của cam kết trong tổ chức WTO đến hoạt động đầu tư nước ngoài, đồng thời qua đó tìm ra giải pháp cơ bản để cải thiện hơn nữa trong kiến tạo nguồn vốn. Điều đó s? tạo đà cho phát triển kinh tế, thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước, tiến tới năm 2020 Việt Nam cơ bản là một nước công nghiệp. Trong quá trình nghiên cứu, tôi đã sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, trong đó đặc biệt chú ý phương pháp phân tích - tổng hợp, phương pháp diễn dịch - quy nạp, phương pháp thống kê, so sánh và các phương pháp khác để thực hiện đề tài. Kết cấu đề tài ngoài Lời mở đầu và Kết luận bao gồm 3 chương: Chương I: Tổng quan về đầu tư nước ngoài. Chương II: Thực trạng ảnh hưởng của cam kết trong WTO đến đầu tư nước ngoài tại Việt Nam Chương III: Một số giải pháp nhằm thu hút nguồn vốn đầu tư nước ngoài vào việt nam trong quá trình thực hiện cam kết WTO Đây là vấn đề mang tính thời sự và được nhiều người quan tâm, tuy nhiên do thời gian nghiên cứu và khả năng có hạn, nên mặc dù đã có nhiều cố gắng song đề tài khó tránh khỏi những thiếu sót. Tôi rất mong được sự góp ý của các thầy, cô giáo và bạn đọc để đề tài được hoàn thiện hơn. CHƯƠNG I TỔNG QUAN VỀ ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI 1.1 Khái niệm, đặc điểm và hình thức của đầu tư nước ngoài. 1.1.1. Khái niệm, đặc điểm về đầu tư và các hình thức biểu hiện a. Khái niệm đầu tư (Investment) Đầu tư là việc sử dụng vốn vào một hoạt động nhất định nhằm thu lợi nhuận và/hoặc lợi ích kinh tế xã hội. b. Đặc điểm *Có sử dụng vốn Vốn: là các nguồn lực (resources) có thể được huy động và sử dụng vào hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm thu lại lợi ích cho chủ đầu tư. Vốn đầu tư có thể tồn tại dưới 3 hình thái: Tài sản hữu hình (nhà xưởng, máy móc, thiết bị, hàng hóa, nguyên vật liệu v.v…), tài sản vô hình (bằng phát minh, sáng chế, bí quyết kỹ thuật, bí quyết kinh doanh, nhãn hiệu, quyền sử dụng đất…), tài sản tài chính (tiền, các giấy tờ có giá khác..); Vốn cần được quy về cùng một đơn vị tiền tệ nhất định Hoạt động nhất định: hoạt động sản xuất kinh doanh *Có sinh lợi: Lợi nhuận hoặc lợi ích kinh tế xã hội Lợi nhuận là chênh lệch giữa thu nhập mà hoạt động đầu tư đem lại cho chủ đầu tư với chi phí mà chủ đầu tư phải bỏ ra để tiến hành hoạt động đầu tư đó. Lợi ích kinh tế xã hội là chênh lệch giữa những gì mà xã hội thu được với những gì mà xã hội mất đi từ hoạt động đầu tư. Lợi ích kinh tế xã hội được đánh giá qua các chỉ tiêu định tính và các chỉ tiêu định lượng. Ví dụ: việc xây dựng cầu Thanh Trì mang lại lợi ích kinh tế xã hội Thông thường, tư nhân và doanh nghiệp theo đuổi mục tiêu lợi nhuận; còn chính phủ theo đuổi mục tiêu lợi ích kinh tế xã hội. *Có mạo hiểm: Hoạt động đầu tư thường diễn ra trong một thời gian dài vì vậy nó có tính mạo hiểm. Thời gian đầu tư càng dài thì tính mạo hiểm càng cao. VD: Cơn bão Katrina ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của tập đoàn Wall Mart. c/ Phân loại đầu tư: Theo lĩnh vực: Đầu tư vào công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ hay đầu tư vào thương mại, tài chính, sản xuất Theo quyền kiểm soát: Đầu tư trực tiếp, đầu tư gián tiếp Theo chủ đầu tư: Đầu tư tư nhân, đầu tư chính thức Theo nguồn vốn: Đầu tư trong nước, đầu tư nước ngoài 1.1.2. Khái niệm, đặc điểm đầu tư nước ngoài 1.1.2.1. Khái niệm: Đầu tư nước ngoài là việc các nhà đầu tư (pháp nhân hoặc cá nhân) đưa vốn hoặc bất kỳ hình thức giá trị nào khác vào nước tiếp nhận đầu tư để thực hiện các hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm thu lợi nhuận hoặc đạt các hiệu quả xã hội. --> sự di chuyển vốn qua khỏi biên giới một quốc gia 1.1.2.2. Đặc điểm Đầu tư quốc tế và đầu tư nước ngoài cũng có 3 đặc điểm của đầu tư nói chung. Điểm duy nhất phân biệt là nó có sự di chuyển vốn qua khỏi biên giới quốc gia (capital movement abroad) 1.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng thu hút nguồn vốn đầu tư nước ngoài Đầu tư nước ngoài là một hoạt động kinh tế có vai trò rất lớn với các nước trên thế giới, vì vậy việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố chủ quan và khách quan. Cụ thể như sau: 1.2.1. Hệ thống luật pháp. Hệ thống luật pháp là một trong những nhân tố sẽ kìm hãm hay thúc đẩy gia tăng của hoạt động đầu tư nước ngoài. Bởi lẽ, trong hệ thống luật đầu tư, nước sở tại sẽ nêu rõ quan điểm của mình trên lĩnh vực đầu tư về hình thức đầu tư, đảm bảo lợi ích cho các bên liên quan như thế nào.... Đồng thời các nhà đầu tư nước ngoài còn xem xét những luật liên quan như luật thuế, luật cho thuê đất đai.... Những nội dung của hệ thống luật càng đồng bộ, chặt chẽ tiên tiến, cởi mở phù hợp với thông lệ quốc tế thì khả năng hấp dẫn thu hút nguồn vốn FDI càng cao. 1.2.2. Ổn định về chính trị. Đây là điều kiện tiên quyết nhằm giảm thiểu những rủi ro, vượt khỏi sự kiểm soát của chủ đầu tư. Những bất ổn về kinh tế - chính trị không chỉ làm cho dùng vốn FDI bị chững lại và thu hẹp, mà còn làm cho quá trình huy động ngồn vốn trong nước bị giảm mạnh. Ngoài ra các cuộc xung đột nội chiến hay sự hoài nghi thiếu thiện cảm và gây khó dễ của giới lãnh đạo, nhân dân đối với vốn đầu tư nước ngoài đều là nhân tố tác động tâm lý tiêu cực của các chủ đầu tư nước ngoài. Bởi vậy, ổn định chính trị không chỉ trong thời gian ngắn mà còn là cần giữ vững lâu dài, để cho các nhà đầu tư yên tâm hoạt động. 1.2.3. Sự phát triển cơ sở hạ tầng. Sự phát triển cơ sở hạ tầng luôn là điều kiện vật chất hàng đầu để các chủ đầu tư có thể nhanh chóng thông qua các quyết định và triển khai các dự án đã cam kết. Một tổng thể hạ tầng bao gồm: cầu, cảng, đường xá, hệ thống điện nước dồi dào, phương tiện nghe nhìn hiện đại.... Trong các điều kiện và chính sách hạ tầng phục vụ cho hoạt động FDI, chính sách đất đai và bất động sản có sức chi phối mạnh mẽ đến luồng FDI. Khi đó càng tạo cho các chủ đầu tư nước ngoài an tâm về sở hữu và quyền chủ động định đoạt mua bán đất đai mà họ có được bằng nguồn vốn đầu tư của mình. Dịch vụ thông tin và tư vấn đầu tư có vai trò quan trọng trong việc cung cấp thông tin cập nhật và đáng tin cậy, để cho các nhà đầu tư tiếp xúc lựa chọn bên đối tác và sẽ ảnh hưởng hoạt động kinh doanh. 1.2.4. Chính sách tiền tệ.1 Mức độ ổn định của chính sách tiền tệ là một nhân tố quan trọng góp phần ổn định hoạt động xuất nhập khẩu và thu lợi nhuận của nhà đầu tư nước ngoài, nhất là trong chính sách lãi suất và tỷ giá hối đoái. Việc nguồn vốn FDI đổ vào một nước thường tỷ lệ nghịch với độ chênh lệch lãi suất trong - ngoài nước. Nếu độ chênh lệch lãi suất đó càng cao, tư bản nước ngoài càng ưa đầu tư theo kiểu cho vay ngắn hạn, ít chịu rủi ro và hưởng lãi ngay trên chỉ số chênh lệch lãi suất đó. Hơn nữa, khi mức lãi suất trong nước cao hơn mức lãi suất quốc tế thì sức hút với dòng vốn chảy vào càng mạnh. Tuy nhiên, đồng nghĩa với lãi suất cao là chi phí trong đầu tư là cao làm giảm lợi nhuận của các nhà đầu tư. Ngoài ra, một tỷ giá hối đoái linh hoạt, phù hợp với tình hình phát triển kinh tế ở từng giai đoạn thì khả năng thu lợi nhuận từ xuất khẩu càng lớn, sức hấp dẫn với vốn nước ngoài càng lớn, một nước có mức tăng trưởng xuất khẩu cao sẽ làm yên lòng các nhà đầu tư vì khả năng trả nợ của nước đó bảo đảm hơn, mức độ mạo hiểm trong đầu tư sẽ giảm. 1.2.5. Sự phát triển của nền hành chính quốc gia.1 Lực cản lớn nhất làm nản lòng các nhà đầu tư là thủ tục rườm rà, phiền phức gây tốn kém về thời gian, chi phí và đã làm mất cơ hội đầu tư. Đồng thời, với nhân tố này còn gắn liền với trình độ khả năng tính trách nhiệm của đội ngũ cán bộ trong việc thẩm định dự án, kiểm tra và xử lý việc phát sinh trong hoạt động đầu tư. Do vậy, bộ máy hành chính phải thật gọn nhẹ với những thủ tục, hành chính có tính chất đơn giản, công khai và nhất quán. Điều đó sẽ làm tăng tính hoạt động của đầu tư một cách không thông suốt và chính xác. 1.2.6. Đặc điểm thị trường nước nhận vốn.1 Đây có thể nới là yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Điều đó được thể hiện ở quy mô, dung lượng của thị trường, sức mua của các tầng lớp dân cư trong nước, khả năng mở rộng quy mô đầu tư... đặc biệt là sự hoạt động của thị trường nhân lực. Mặt khác, với giá nhân công rẻ sẽ là mối quan tâm hàng đầu của các nhà đầu tư nước ngoài, nhất là với những dự án đầu tư vào lĩnh vực sử dụng nhiều lao động. Ngoài ra, trình độ chuyên môn kỹ thuật, trình độ học vấn, khả năng quản lý... cũng có ý nghĩa nhất định. Bởi vậy, lợi thế về thị trường sẽ có sức hấp dẫn đối với các nhà đầu tư nước ngoài. 1.3. Những tác động của việc đầu tư nước ngoài 1.3.1. Những tác động tích cực. - Đối với nước xuất khẩu vốn: Chủ đầu tư được trực tiếp tham gia điều hành và kiểm soát các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nên có thể chủ động đưa ra các quyết định kịp thời, có lợi cho doanh nghiệp. Do đó bảo đảm được hiệu quả sử dụng vốn đầu tư. Đầu tư trực tiếp giúp các chủ đầu tư nước ngoài mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm, tăng vường bành trướng sức mạnh kinh tế và vai trò ảnh hưởng trên thế giới, chiểm lĩnh được nguồn nguyên liệu chủ yếu của nước sở tại, có thể hạ thấp chi phí sản xuất do khai thác được nguồn lao động dồi dào, giá rẻ của nước sở tại, nhờ đó mà nâng cao được tỷ suất lợi nhuận. Đầu tư trực tiếp cho phép các chủ đầu tư có thể tránh được hàng rào bảo hộ mậu dịch của nước sở tại thông qua việc thành lập các doanh nghiệp nằm trong lòng các nước thi hành chính sách bảo hộ. - Đối với các nước tiếp nhận vốn: Loại hình FDI chỉ quy định vốn góp tối thiểu, do vậy cho phép các nước chủ nhà khai thác triệt để nguồn vốn từ bên ngoài, bổ sung sự thiếu hụt về vốn trong nước. Đặc biệt là các nước đang phát triển, nhu cầu về vốn rất lớn để phát triển đất nước, thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập với nền kinh tế thế giới. Do đó nguồn vốn FDI đã góp phần giải quyết tình trạng khó khăn về vốn. Đầu tư qua hình thức FDI giúp nước chủ nhà khai thác tối đa những lợi thế sẵn có, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn nhờ tiếp thu khoa học công nghệ, kinh nghiệm quản lý tiên tiến, góp phần tăng tích luỹ và nâng cao tốc độ tăng trưởng kinh tế. FDI còn tác động mạnh mẽ đến quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo chiều hướng tiến bộ. Ngoài ra, hoạt động FDI còn tạo ra một môi trường kinh doanh mang tính cạnh tranh ngày càng ác liệt, góp phần hình thành tinh thần doanh nghiệp cho các doanh nhân ở nước chủ nhà phù hợp với các đòi hỏi của nền kinh tế thị trường. FDI còn tạo thêm việc làm và góp phần nâng cao trình độ chuyên môn và quản lý cho người lao động. Thông qua hình thức FDI, nước chủ nhà có điều kiện thúc đẩy hoạt động thương mại, tạo hành lang cho hoạt động xuất khẩu và tiếp cận nhanh nhất với thị trường quốc tế, mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại với các quốc gia trên thế giới. Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực mà FDI mang lại đối với đời sống kinh tế xã hội của nước tiếp nhận đầu tư, chúng ta cũng không thể phủ nhận những ảnh hưởng tiêu cực có thể xảy ra nếu như không có sự quản lý tốt các hoạt động FDI. 1.3.2. Những hạn chế của đầu tư nước ngoài Thiếu sự quy hoạch, kế hoạch cụ thể và khoa học về FDI có thể sẽ dẫn tới tình trạng đầu tư tràn lan, kém hiệu quả, tài nguyên thiên nhiên bị khai thác bừa bãi, lãng phí, môi trường bị ô nhiễm nghiêm trọng. Tiếp nhận FDI đồng nghĩa với việc phải bắt tay làm ăn với các đối thủ sành sỏi, giàu kinh nghiệm kinh doanh. Nếu không đủ trình độ và bản lĩnh sẽ bị chủ đầu tư nước ngoài qua mặt, làm thiệt hại cho nền kinh tế. Tiếp thu công nghệ hiện đại để công nghiệp hóa, hiện đại hoá đất nước đối với các nước đang phát triển nếu không thận trọng sẽ trở thành bãi rác thải của các nước phát triển, làm suy thoái môi trường tự nhiên. Đầu tư theo hình thức FDI, nước chủ nhà sẽ không có toàn quyền chủ động trong việc sử dụng vốn đầu tư. Ngoài ra, các thế lực thù địch có thể thông qua FDI để phá rối an ninh chính trị, làm suy yếu nền kinh tế của nước tiếp nhận đầu tư…. Trên đây là những mặt tích cực và hạn chế của đầu tư trực tiếp nước ngoài, điều đó đòi hỏi nước tiếp nhận đầu tư phải nhận thức đầy đủ, không nên quá đề cao tính tích cực của FDI mà xem nhẹ những ảnh hưởng tiêu cực có thể gây ra cho đất nước. Có như vậy, FDI mới thực sự phát huy được vai trò quan trọng của nó đối với sự phát triển kinh tế xã hội của mỗi quốc gia, đặc biệt là các nước đang phát triển. CHƯƠNG II THỰC TRẠNG ẢNH HƯỞNG CỦA CAM KẾT TRONG WTO ĐẾN ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM 2.1. Tình hình thu hút nguồn vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam từ 1988 đến nay: 2.1.1. Cấp phép đầu tư từ 1988 đến nay: Trong 3 năm 1988-1990, mới thực thi Luật Đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam nên kết quả thu hút vốn ĐTNN còn ít (214 dự án với tổng vốn đăng ký cấp mới 1,6 tỷ USD), ĐTNN chưa tác động đến tình hình kinh tế-xã hội đất nước. Trong thời kỳ 1991-1995, vốn ĐTNN đã tăng lên (1.409 dự án với tổng vốn đăng ký cấp mới 18,3 tỷ USD) và có tác động tích cực đến tình hình kinh tế-xã hội đất nước. Thời kỳ 1991-1996 được xem là thời kỳ “bùng nổ” ĐTNN tại Việt Nam (có thể coi như là “làn sóng ĐTNN” đầu tiên vào Việt Nam) với 1.781 dự án được cấp phép có tổng vốn đăng ký (gồm cả vốn cấp mới và tăng vốn) 28,3 tỷ USD. Đây là giai đoạn mà môi trường đầu tư-kinh doanh tại Việt Nam đã bắt đầu hấp dẫn nhà đầu tư do chi phí đầu tư-kinh doanh thấp so với một số nước trong khu vực; sẵn lực lượng lao động với giá nhân công rẻ, thị trường mới, vì vậy, ĐTNN tăng trưởng nhanh chóng, có tác động lan tỏa tới các thành phần kinh tế khác và đóng góp tích cực vào thực hiện các mục tiêu kinh tế-xã hội của đất nước. Năm 1995 thu hút được 6,6 tỷ USD vốn đăng ký, tăng gấp 5,5 lần năm 1991 (1,2 tỷ USD). Năm 1996 thu hút được 8,8 tỷ USD vốn đăng ký, tăng 45% so với năm trước. Trong 3 năm 1997-1999 có 961 dự án được cấp phép với tổng vốn đăng ký hơn 13 tỷ USD; nhưng vốn đăng ký của năm sau ít hơn năm trước (năm 1998 chỉ bằng 81,8% năm 1997, năm 1999 chỉ bằng 46,8% năm 1998), chủ yếu là các dự án có quy mô vốn vừa và nhỏ. Cũng trong thời gian này nhiều dự án ĐTNN được cấp phép trong những năm trước đã phải tạm dừng triển khai hoạt động do nhà đầu tư gặp khó khăn về tài chính (đa số từ Hàn Quốc, Hồng Kông). Từ năm 2000 đến 2003, dòng vốn ĐTNN vào Việt Nam bắt đầu có dấu hiệu phục hồi chậm. Vốn đăng ký cấp mới năm 2000 đạt 2,7 triệu USD, tăng 21% so với năm 1999; năm 2001 tăng 18,2% so với năm 2000; năm 2002 vốn đăng ký giảm, chỉ bằng 91,6% so với năm 2001, năm 2003 (đạt 3,1 tỷ USD), tăng 6% so với năm 2002. Và có xu hướng tăng nhanh từ năm 2004 (đạt 4,5 tỷ USD) tăng 45,1% so với năm trước; năm 2005 tăng 50,8%; năm 2006 tăng 75,4% và năm 2007 đạt mức kỷ lục trong 20 năm qua 20,3 tỷ USD, tăng 69% so với năm 2006, và tăng hơn gấp đôi so với năm 1996, năm cao nhất của thời kỳ trước khủng hoảng. Trong giai đoạn 2001-2005 thu hút vốn cấp mới (kể cả tăng vốn) đạt 20,8 tỷ USD vượt 73% so với mục tiêu tại Nghị quyết 09/2001/NQ-CP ngày 28/8/2001 của Chính phủ [2], vốn thực hiện đạt 14,3 tỷ USD tăng 30% so với mục tiêu. Nhìn chung trong 5 năm 2001-2005, vốn ĐTNN cấp mới đều tăng đạt mức năm sau cao hơn năm trước (tỷ trọng tăng trung bình 59,5%), nhưng đa phần là các dự án có quy mô vừa và nhỏ. Đặc biệt trong 2 năm 2006-2007, dòng vốn ĐTNN vào nước ta đã tăng đáng kể (32,3 tỷ USD) với sự xuất hiện của nhiều dự án quy mô lớn đầu tư chủ yếu trong lĩnh vực công nghiệp (sản xuất thép, điện tử, sản phẩm công nghệ cao,...) và dịch vụ (cảng biển, bất động sản, công nghệ thông tin, du lịch-dịch vụ cao cấp .v.v.). Điều này cho thấy dấu hiệu của “làn sóng ĐTNN” thứ hai vào Việt Nam. Việc thực thi cam kết WTO tính đến cuối năm 2007, cả nước có hơn 9.500 dự án ĐTNN được cấp phép đầu tư với tổng vốn đăng ký khoảng 98 tỷ USD (kể cả vốn tăng thêm). Trừ các dự án đã hết thời hạn hoạt động và giải thể trước thời hạn, hiện có 8.590 dự án còn hiệu lực với tổng vốn đăng ký 83,1 tỷ USD. Trong tháng 8/2008, cả nước có 118 dự án được cấp Giấy chứng nhận đầu tư với tổng vốn đầu tư đăng ký là 1.827 triệu USD, đưa tổng số dự án cấp mới trong 8 tháng đầu năm 2008 lên 772 dự án với tổng vốn đầu tư đăng ký là 46,3 tỷ USD, bằng 79,2% về số dự án và tăng gấp 5 lần về vốn đăng ký so với cùng kỳ năm trước. Tính riêng tháng 10/2008, đã có 22 lượt dự án tăng vốn đầu tư với tổng vốn đầu tư là 169 triệu USD, đưa tổng dự án tăng vốn 10 tháng đầu năm 2008 là 247 lượt dự án với tổng vốn đầu tư đăng ký tăng thêm là 1,02 tỉ USD. Cục Đầu tư nước ngoài đánh giá: Vốn FDI tiếp tục đổ vào VN bất chấp tác động của khủng hoảng kinh tế toàn cầu. Điều đó chứng tỏ nhà đầu tư nước ngoài vẫn đặt niềm tin vào thị trường VN. 2.1.2. Tình hình tăng vốn đầu tư từ 1988 dến nay: Cùng với việc thu hút các dự án đầu tư mới, nhiều dự án sau khi hoạt động có hiệu quả đã mở rộng quy mô sản xuất-kinh doanh, tăng thêm vốn đầu tư, nhất là từ năm 2001 trở lại đây. Tính đến hết năm 2007 có gần 4.100 lượt dự án tăng vốn đầu tư với tổng vốn tăng thêm hơn 18,9 tỷ USD, bằng 23,8% tổng vốn đầu tư đăng ký cấp mới. Trong 8 tháng đầu năm 2008 có 210 lượt dự án tăng vốn đầu tư với tổng vốn đầu tư đăng ký tăng thêm là 833,6 triệu USD, bằng 81,7% về số lượt dự án tăng vốn và 55,5% tổng vốn tăng thêm so với cùng kỳ năm trước. Vốn đầu tư tăng thêm chủ yếu từ các nhà đầu tư Hàn Quốc đứng đầu, chiếm 23,6% tổng vốn đầu tư tăng thêm, như dự án Nhà máy đóng tàu biển Hyndai-Vinashin tăng trên 82,7 triệu USD. Tính chung cả vốn cấp mới và tăng thêm trong 8 tháng đầu năm 2008, cả nước đã thu hút được 47,15 tỷ USD vốn đầu tư đăng ký, tăng gấp 4,5 lần so với cùng kỳ năm 2007. Thời kỳ 1988-1990 việc tăng vốn đầu tư hầu như chưa có do số lượng doanh nghiệp ĐTNN còn ít. Từ số vốn đầu tư tăng thêm đạt 2,13 tỷ USD trong 5 năm 1991-1995 thì ở giai đoạn 1996-2000 đã tăng gần gấp đôi so với 5 năm trước (4,17 tỷ USD). Giai đoạn 2001-2005 vốn đầu tư tăng thêm đạt 7,08 tỷ USD (vượt 18% so dự kiến là 6 tỷ USD) tăng 69% so với 5 năm trước. Trong đó, lượng vốn đầu tư tăng thêm vượt con số 1 tỷ USD bắt đầu từ năm 2002 và từ năm 2004 đến 2007 vốn tăng thêm mỗi năm đạt trên 2 tỷ USD, mỗi năm trung bình tăng 35%. Vốn tăng thêm chủ yếu tập trung vào các dự án thuộc lĩnh vực sản xuất công nghiệp và xây dựng, đạt khoảng 40,6% trong giai đoạn 1991-1995 ; 65,7% trong giai đoạn 1996-2000, khoảng 77,3% trong thời kỳ 2001-2005. Trong 2 năm 2006 và 2007 tỷ lệ tương ứng là 80,17% và 79,1% tổng vốn tăng thêm. Do vốn đầu tư chủ yếu từ các nhà đầu tư châu Á (59%) nên trong số vốn tăng thêm, vốn mở rộng của các nhà đầu tư châu Á cũng chiếm tỷ trọng cao nhất 66,8% trong giai đoạn 1991-1995, đạt 67% trong giai đoạn 1996-2000, đạt 70,3% trong thời kỳ 2001-2005. Trong 2 năm 2006 và 2007 tỷ lệ tương ứng là 72,1% và 80%. Việc tăng vốn đầu tư mở rộng sản xuất thực hiện chủ yếu tại các vùng kinh tế trọng điểm nơi tập trung nhiều dự án có vốn ĐTNN: Vùng trọng điểm phía Nam chiếm 55,5% trong giai đoạn 1991-1995 ; đạt 68,1% trong thời kỳ 1996-2000 và 71,5% trong giai đoạn 2001-2005. Trong 2 năm 2006 và 2007 tỷ lệ tương ứng là 71% và 65%. Vùng trọng điểm phía Bắc có tỷ lệ tương ứng là 36,7%; 20,4% ; 21,1% ; 24% và 20%. Qua khảo sát của Tổ chức Xúc tiến thương mại Nhật Bản -JETRO tại Việt Nam có trên 70% doanh nghiệp ĐTNN được điều tra có kế hoạch tăng vốn, mở rộng sản xuất tại Việt Nam. Điều này chứng tỏ sự tin tưởng và an tâm của nhà ĐTNN vào môi trường đầu tư-kinh doanh tại Việt Nam. 2.1.3. Quy mô dự án từ 1988 đến nay: Qua các thời kỳ, quy mô dự án ĐTNN có sự biến động thể hiện khả năng tài chính cũng như sự quan tâm của các nhà ĐTNN đối với môi trường đầu tư Việt Nam. Quy mô vốn đầu tư bình quân của một dự án ĐTNN tăng dần qua các giai đoạn, tuy có “trầm lắng” trong vài năm sau khủng hoảng tài chính khu vực 1997. Thời kỳ 1988-1990 quy mô vốn đầu tư đăng ký bình quân đạt 7,5 triệu USD/dự án/năm. Từ mức quy mô vốn đăng ký bình quân của một dự án đạt 11,6 triệu USD trong giai đoạn 1991-1995 đã tăng lên 12,3 triệu USD/dự án trong 5 năm 1996-2000. Điều này thể hiện số lượng các dự án quy mô lớn được cấp phép trong giai đoạn 1996-2000 nhiều hơn trong 5 năm trước. Tuy nhiên, quy mô vốn đăng ký trên giảm xuống 3,4 triệu USD/dự án trong thời kỳ 2001-2005. Điều này cho thấy đa phần các dự án cấp mới trong giai đoạn 2001-2005 thuộc dự án có quy mô vừa và nhỏ. Trong 2 năm 2006 và 2007, quy mô vốn đầu tư trung bình của một dự án đều ở mức 14,4 triệu USD, cho thấy số dự án có quy mô lớn đã tăng lên so với thời kỳ trước, thể hiện qua sự quan tâm của một số tập đoàn đa quốc gia đầu tư vào một số dự án lớn (Intel, Panasonic, Honhai, Compal, Piaggio....). Trong tháng 8/ 2008 quy mô dự án: đạt 60 triệu USD/dự án. 2.1.4. Cơ cấu vốn ĐTNN từ 1988 đến nay: a. ĐTNN phân theo ngành nghề: - Lĩnh vực công nghiệp và xây dựng: Từ khi ban hành Luật Đầu tư nước ngoài năm 1987, Việt Nam đã chú trọng thu hút ĐTNN vào lĩnh vực công nghiệp-xây dựng. Qua mỗi giai đoạn các lĩnh vực ưu tiên thu hút đầu tư, các sản phẩm cụ thể được xác định tại Danh mục các lĩnh vực khuyến khích và đặc biệt khuyến khích đầu tư. Trong những năm 90 thực hiện chủ trương thu hút ĐTNN, Chính phủ ban hành chính sách ưu đãi, khuyến khích các dự án : sản xuất sản phẩm thay thế hàng nhập khẩu; sản xuất hàng xuất khẩu (có tỷ lệ xuất khẩu 50% hoặc 80% trở lên); sử dụng nguồn nguyên liệu trong nước và có tỷ lệ nội địa hoá cao. Sau khi gia nhập và thực hiện cam kết với WTO (năm 2006), Việt Nam đã bãi bỏ các quy định về ưu đãi đối với dự án có tỷ lệ xuất khẩu cao, không yêu cầu bắt buộc thực hiện tỷ lệ nội địa hoá và sử dụng nguyên liệu trong nước. Qua các thời kỳ, định hướng thu hút ĐTNN lĩnh vực công nghiệp- xây dựng tuy có thay đổi về lĩnh vực, sản phẩm cụ thể nhưng cơ bản vẫn theo định hướng khuyến khích sản xuất vật liệu mới, sản phẩm công nghệ cao, công nghệ thông tin, cơ khí chế tạo, thiết bị cơ khí chính xác, sản xuất sản phẩm và linh kiện điện tử... Đây cũng chính là các dự án có khả năng tạo giá trị gia tăng cao và Việt Nam có lợi thế so sánh khi thu hút ĐTNN. Nhờ vậy, cho đến nay các dự án ĐTNN thuộc các lĩnh vực nêu trên (thăm dò và khai thác dầu khí, sản xuất các sản phẩm công nghệ cao, sản phẩm điện và điện tử, sản xuất sắt thép, sản xuất hàng dệt may...) vẫn giữ vai trò quan trọng đóng góp cho tăng trưởng kinh tế, xuất khẩu và tạo nhiều việc làm và nguồn thu nhập ổn định cho hàng triệu lao động trực tiếp. Cơ cấu đầu tư có chuyển biến tích cực theo hướng gia tăng tỷ trọng đầu tư vào lĩnh vực công nghệ cao, lọc dầu và công nghệ thông tin (IT) với sự có mặt của các tập đoàn đa quốc gia nổi tiếng thế giới: Intel, Panasonic, Canon, Robotech.v.v. Hầu hết các dự án ĐTNN này sử dụng thiết bị hiện đại xấp xỉ 100% và tự động hoá đạt 100% cho sản lượng, năng suất, chất lượng cao, do đó có ảnh hưởng lớn đến các chỉ tiêu giá trị của toàn ngành. Tính đến hết năm 2007, lĩnh vực công nghiệp và xây dựng có tỷ trọng lớn nhất với 5.745 dự án còn hiệu lực, tổng vốn đăng ký hơn 50 tỷ USD, chiếm 66,8% về số dự án, 61% tổng vốn đăng ký và 68,5% vốn thực hiện. STT Chuyên ngành Số dự án Vốn đầu t ư (USD) Vốn thực hiện (USD) 1 CN dầu khí 38 3,861,511,815 5,148,473,303 2 CN nhẹ 2,542 13,268,720,908 3,639,419,314 3 CN nặng 2,404 23,976,819,332 7,049,365,865 4 CN thực phẩm 310 3,621,835,550 2,058,406,260 5 Xây dựng 451 5,301,060,927 2,146,923,027 Tổng số 5,745 50,029,948,532 20,042,587,769 - ĐTNN trong lĩnh vực dịch vụ: Nước ta đã có nhiều chủ trương chính sách, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động kinh doanh dịch vụ phát triển từ khi thi hành Luật Đầu tư nước ngoài (1987). Nhờ vậy, khu vực dịch vụ đã có sự chuyển biến tích cực đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu sản xuất, tiêu dùng và đời sống nhân dân, góp phần đẩy nhanh tăng trưởng kinh tế. Một số ngành dịch vụ (bưu chính viễn thông, tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, vận tải hàng không, vận tải biển, du lịch, kinh doanh bất động sản) tăng trưởng nhanh, thu hút nhiều lao động và thúc đẩy xuất khẩu. Cùng với việc thực hiện lộ trình cam kết thương mại dịch vụ trong WTO, Việt Nam tiếp tục đẩy mạnh thu hút ĐTNN, phát triển các ngành dịch vụ trực tiếp phục vụ sản xuất và xuất khẩu. Trong khu vực dịch vụ ĐTNN tập trung chủ yếu vào kinh doanh bất động sản, bao gồm: xây dựng căn hộ, văn phòng, phát triển khu đô thị mới, kinh doanh hạ tầng khu công nghiệp (42% tổng vốn ĐTNN trong khu vực dịch vụ), du lịch-khách sạn (24%), giao thông vận tải-bưu điện (18%) (xem bảng). TT Chuyên ngành Số dự án Vốn đầu tư (triệu USD) Đầu tư đã thực hiện (triệu USD) 1 Giao thông vận tải-Bưu điện ( bao gồm cả dịch vụ logicstics) 208 4.287 721 2 Du lịch - Khách sạn 223 5.883 2.401 3 Xây dựng văn phòng, căn hộ để bán và cho thuê 153 9.262 1.892 4 Phát triển khu đô thị mới 9 3.477 283 5 Kinh doanh hạ tầng KCN-KCX 28 1.406 576 6 Tài chính – ngân hàng 66 897 714 7 Văn hoá - y tế – giáo dục 271 1.248 367 8 Dịch vụ khác (giám định, tư vấn, trợ giúp pháp lý, nghiên cứu thị trường...) 954 2.145 445 Tổng cộng 1.912 28.609 7.399 Trong năm 2007 tuy vốn đầu tư đăng ký tiếp tục tập trung vào lĩnh vực công nghiệp (50,6%), nhưng đã có sự chuyển dịch cơ cấu đầu tư mạnh vào lĩnh vực dịch vụ, chiếm 47,7% tổng vốn đăng ký của cả nước, tăng 16,5% so với năm 2006 (31,19%) với nhiều dự án xây dựng cảng biển, kinh doanh bất động sản, xây dựng khu vui chơi, giải trí.v.v. - ĐTNN trong lĩnh vực Nông-Lâm-Ngư : Dành ưu đãi cho các dự án đầu tư vào lĩnh vực Nông Lâm ngư nghiệp đã được chú trọng ngày từ khi có luật đầu tư nước ngoài 1987. Tuy nhiên đến nay do nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân rủi ro đầu tư cao trong lĩnh vực này, nên kết quả thu hút ĐTNN vào lĩnh vực Nông – Lâm ngư chưa được như mong muốn. Đến hết năm 2007, lĩnh vực Nông- Lâm- Ngư nghiệp có 933 dự án còn hiệu lực, tổng vốn đăng ký hơn 4,4 tỷ USD, đã thực hiện khoảng 2,02 tỷ USD; chiếm 10,8% về số dự án ; 5,37% tổng vốn đăng ký và 6,9% vốn thực hiện, (giảm từ 7,4% so với năm 2006). Trong đó, các dự án về chế biến nông sản, thực phẩm chiếm tỷ trọng lớn nhất 53,71% tổng vốn đăng ký của ngành, trong đó, các dự án hoạt động có hiệu quả bao gồm chế biến mía đường, gạo, xay xát bột mì, sắn, rau. Tiếp theo là các dự án trồng rừng và chế biến lâm sản, chiếm 24,67% tổng vốn đăng ký của ngành. Rồi tới lĩnh vực chăn nuôi và chế biến thức ăn gia súc chiếm 12,7%. Cuối cùng là lĩnh vực trồng trọt, chỉ chiếm gần 9% tổng số dự án. Có 130 dự án thuỷ sản với vốn đăng ký là 450 triệu USD, Cho đến nay, đã có 50 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư trực tiếp vào ngành nông-lâm-ngư nghiệp nước ta, trong đó, các nước châu Á ( Đài Loan, Nhật Bản, Trung Quốc, Hồng Kông,..) chiếm 60% tổng vốn đăng ký vào ngành nông nghiệp (riêng Đài Loan là 28%). Các nước thuộc EU đầu tư vào Việt Nam đáng kể nhất gồm có Pháp (8%), quần đảo British Virgin Islands (11%). Một số nước có ngành nông nghiệp phát triển mạnh (Hoa Kỳ, Canada, Australi)a vẫn chưa thực sự đầu tư vào ngành nông nghiệp nước ta. Các dự án ĐTNN trong ngành nông-lâm-ngư nghiệp tập trung chủ yếu ở phía Nam. Vùng Đông Nam Bộ chiếm 54% tổng vốn đăng ký của ngành, đồng bằng sông Cửu Long 13%, duyên hải Nam Trung Bộ 15%. Miền Bắc và khu vực miền Trung, lượng vốn đầu tư còn rất thấp, ngay như vùng đồng bằng sông Hồng lượng vốn đăng ký cũng chỉ đạt 5% so với tổng vốn đăng ký của cả nước. STT Nông, lâm nghiệp Số dự án Vốn đăng ký (USD) Vốn thực hiện (USD) 1 Nông-Lâm nghiệp 803 4,014,833,499 1,856,710,521 2 Thủy sản 130 450,187,779 169,822,132 Tổng số 933 4,465,021,278 2,026,532,653 b. ĐTNN phân theo vùng, lãnh thổ : Qua 20 thu hút, ĐTNN đã trải rộng khắp cả nước, không còn địa phương “trắng” ĐTNN nhưng tập trung chủ yếu tại các địa bàn trọng điểm, có lợi thế, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế của địa phương, làm cho các vùng này thực sự là vùng kinh tế động lực, lôi kéo phát triển kinh tế-xã hội chung và các vùng phụ cận (xem biểu 5). Vùng trọng điểm phía Bắc có 2.220 dự án còn hiệu lực với vốn đầu tư trên 24 tỷ USD, chiếm 26% về số dự án, 27% tổng vốn đăng ký cả nước v._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc25125.doc
Tài liệu liên quan