LờI NóI ĐầU
Ngày 7/10/1998 tại Manila, Philippines, Bộ trưởng kinh tế 10 nước thành viên Hiệp hội các quốc gia Đông nam á đã đặt bút ký vào bản Hiệp định khung về việc thành lập một Khu vực đầu tư ASEAN- AIA. Sự ra đời của AIA mở ra cơ hội không chỉ cho các nước thành viên trong khu vực thu hút nguồn đầu tư từ bên ngoài khu vực mà còn mở ra khả năng đẩy mạnh hơn nữa hoạt động đầu tư trong nội bộ giữa các nước ASEAN.
Theo nhìn nhận của các nhà kinh tế hiện đại, đầu tư trực tiếp được coi là một
76 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1355 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu AFTA- Khu vực đầu tư Asean - Cơ hội cho các quốc gia Đông Nam á phát triển hoạt động đầu tư, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hoạt động kinh tế cơ bản và đặc biệt quan trọng đối với các quốc gia đang trong giai đoạn phát triển. Theo họ, xu hướng đầu tư chung của thế giới trong những năm tới sẽ thiên về đầu tư vào từng nhóm quốc gia có những đặc điểm tương đồng về mặt địa lý, kinh tế, chính sách, và môi trường đầu tư. Do đó, đầu tư khu vực sẽ là xu hướng đầu tư của tương lai.
Trước triển vọng to lớn về mặt đầu tư đối với khu vực, hoạt động kinh tế vốn đang được các quốc gia đang phát triển quan tâm và coi là động lực cơ bản cho quá trình công nghiệp hoá- hiện đại hoá nền kinh tế nước mình, em đã quyết định chọn đề tài “ AIA- Khu vực đầu tư ASEAN- cơ hội cho các quốc gia Đông Nam á phát triển hoạt động đầu tư” cho khoá luận tốt nghiệp của mình.
Ngoài phần Lời nói đầu và phần Kết luận, khoá luận này được chia thành 3 chương.
Chương I: Khái quát về tổ chức ASEAN và Hiệp định Khu vực đầu tư ASEAN.
Chương II: Tổng quan hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài tại các nước ASEAN.
Chương III: Cơ hội thu hút và phát triển hoạt động đầu tư cho các nước ASEAN khi tham gia vào AIA.
Em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ của cán bộ Thư viện quốc gia, của Viện Kinh tế Thế giới, Vụ Quản lý dự án đầu tư nước ngoài thuộc Bộ Kế hoạch và Đầu tư, của gia đình và bạn bè và đặc biệt là sự chỉ bảo tận tình của giáo viên hướng dẫn, Tiến sĩ. Vũ Thị Kim Oanh, Khoa Kinh tế ngoại thương, Đại học Ngoại thương đã giúp em hoàn thành bài khoá luận này. Do trình độ còn hạn chế và phạm vi có hạn của đề tài nên bài Khoá luận này không tránh khỏi những thiếu sót vì vậy em rất mong nhận được sự góp ý và giúp đỡ từ phía các thầy cô giáo và bạn đọc.
Sinh viên
Nguyễn Bội Ngọc
Chương i
tổ chức asean và hiệp định khu vực đầu tư asean
khái quát về tổ chức asean
1. Vài nét về tổ chức ASEAN
Cách đây 36 năm, ngày 8/8/1967, Hiệp hội các quốc gia Đông Nam á (Association of Southeast Asian Nations), gọi tắt là ASEAN , ra đời. Đó là kết quả của quá trình tiến tới một tổ chức khu vực trong những năm 60, từ sáng kiến thành lập SEAFET (Hiệp ước hữu nghị và kinh tế Đông Nam á) qua ASA (Hội Đông Nam á) đến MAPHILINDO (gồm các nước Malaysia, Philippines, Indonesia) và cuối cùng là ASEAN.
Bản tuyên bố Bangkok năm 1967 của các nước thành viên đầu tiên là Indonesia, Malaysia, Singapore, Philippines và Thái Lan (năm 1984 thêm Brunây) nêu lên mục tiêu của ASEAN là thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế, tiến bộ xã hội và phát triển văn hoá trong khu vực, hợp tác bình đẳng và giúp đỡ lẫn nhau trong nhiều lĩnh vực nhằm tăng cường cơ sở cho một cộng đồng thịnh vượng, hoà bình và ổn định của các quốc gia Đông Nam á.
Bản tuyên bố Kuala Lampua năm 1971 đưa ra đề nghị xây dựng Đông Nam á thành khu vực hoà bình, tự do và trung lập, thường được gọi tắt là ZOPFAN (Zones of Peace, Freedom and Neutrality).
Hiệp ước thân thiện và hợp tác Bali năm 1976 được ký kết giữa các nguyên thủ 5 nước ASEAN đưa ra 6 nguyên tắc trong quan hệ giữa các nước Đông Nam á với nội dung chính là tôn trọng độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và bản sắc dân tộc; không gây sức ép hay can thiệp vào công việc nội bộ của nhau; giải quyết bất đồng và tranh chấp bằng con đường thương lượng, không đe doạ hay sử dụng vũ lực; hợp tác cùng phát triển.
Những văn kiện đầu tiên của ASEAN phản ánh nguyện vọng chung của các quốc gia mới giành được độc lập là liên kết để cùng nhau phát triển kinh tế và văn hoá, xây dựng Đông Nam á thành một khu vực hoà bình ổn định, một cộng đồng phát triển thịnh vượng. Ra đời trong bối cảnh thời kỳ chiến tranh lạnh chi phối tình hình trên phạm vi thế giới, lại nằm trong khu vực đang diễn ra cuộc chiến tranh Đông Dương nóng bỏng, các nước ASEAN tạm gác lại những bất đồng nội bộ để cùng nhau tạo nên tiếng nói chung nhằm bảo vệ những lợi ích của cả khối và cố gắng giữ khoảng cách trước sức ép từ các nước lớn. Cho nên giai đoạn mới thành lập, vấn đề quan tâm hàng đầu của tổ chức này chính là sự hợp tác về chính trị và an ninh trước những biến động của thời cuộc.
Từ giữa những năm 80, bắt đầu xuất hiện những tín hiệu về sự kết thúc chiến tranh lạnh, tình hình chính trị trên thế giới và khu vực có phần hoà dịu, xu hướng đối thoại dần dần thay thế sự đối đầu, vấn đề Campuchia bước vào tiến trình giải quyết. Do vậy, Hội nghị cấp cao ASEAN năm 1987 tại Manila nhấn mạnh quyết tâm bảo đảm hoà bình và ổn định ở Đông Nam á, tăng cường sự hợp tác phát triển trên tinh thần tự cường quốc gia và tự cường khu vực, đề ra kế hoạch cụ thể về hợp tác trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội và đối ngoại.
Đường lối đổi mới của Việt Nam, sự nỗ lực của các nước thành viên ASEAN cùng những thành quả của quá trình hoà giải và hoà hợp của các bên Campuchia được sự hưởng ứng của cộng đồng quốc tế đã tạo nên bầu không khí mới trong khu vực. Hội nghị cấp cao ASEAN năm 1992 tại Singapore đã xác định chủ trương nâng cao hơn nữa sự hợp tác giữa các nước thành viên và với Đông Dương, thông qua kế hoạch và biện pháp cụ thể về sự hợp tác trên các lĩnh vực. Hội nghị đã quyết định thành lập Khu vực mậu dịch tự do ASEAN, viết tắt là AFTA (ASEAN Free Trade Area) nhằm thực hiện kế hoạch thuế quan ưu đãi trong nội bộ khối. Qua đó, ASEAN đã tăng cường mối quan hệ hợp tác sâu rộng và toàn diện, mở ra khả năng phát triển mới cho mỗi nước cũng như cho Hiệp hội, tạo nên những điều kiện thuận lợi cho sự phát triển chung của toàn khu vực.
Việc Việt Nam và Lào tham gia ký Hiệp ước Bali (7-1992) đánh dấu một bước phát triển mới của ASEAN và mở rộng khả năng hợp tác nhiều mặt trong khu vực. Từ đó, hai nước trở thành quan sát viên của tổ chức này.
Ba năm sau, vào tháng 7/1995, ASEAN đón nhận Việt Nam là thành viên thứ bẩy và cuối năm đó, Hội nghị cấp cấp cao lần thứ năm đã thảo luận về tương lai của khu vực khi bước vào thế kỷ mới. Vấn đề mở rộng ASEAN 7 thành ASEAN 10 (thêm Lào, Campuchia, và Myanmar) bắt đầu được đặt ra và ngày càng thấy rõ khả năng hiện thực.
Sau đó, cuộc họp các ngoại trưởng ASEAN tại Kuala Lampua ngày 31/5/1997 đã quyết định đến tháng 7/1997 sẽ tiếp nhận ba nước Campuchia, Lào, Myanmar làm thành viên chính thức, đưa ASEAN từ 7 nước lên thành 10 nước, thành một tổ chức bao quát toàn khu vực.
Như vậy, sau hơn 30 năm tồn tại và phát triển, có thể thấy rằng:
ASEAN là biểu hiện thành công của một tổ chức khu vực chẳng những về sự tăng số lượng thành viên từ ASEAN 5 lên ASEAN 10 mà còn khẳng định xu thế phát triển khu vực hoá, toàn cầu hoá. Ra đời trong hoàn cảnh mâu thuẫn gay gắt giữa hai phe trên phạm vi thế giới và ngay trong khu vực, ASEAN kiên trì theo đuổi mục tiêu hoà bình, an ninh, ổn định và phát triển. Nguyên tắc ZOPFAN đã được đề ra từ những ngày không khí khu vực còn nóng bỏng chiến tranh nhưng phải đến khi cách mạng Đông Dương kết thúc thắng lợi và vấn đề Campuchia được giải quyết trên tinh thần hoà giải và hoà hợp dân tộc thì nó mới thực sự đi vào cuộc sống và tạo nên tình hình khả quan như ngày nay.
ASEAN thể hiện tính độc lập tự chủ và bản sắc riêng của mình trong mối quan hệ quốc tế nói chung và trước sức ép của các nước lớn nói riêng. Vượt qua những trở ngại về sự khác biệt ý thức hệ đã một thời được coi như hàng rào kiên cố, các nước Đông Nam á đã xích lại gần nhau, liên kết cùng nhau trong một tổ chức cộng đồng trên tinh thần tôn trọng sự lựa chọn chế độ chính trị của mỗi nước. Việc kết nạp những thành viên mới càng cho thấy sức ép từ bên ngoài không đem lại kết quả khi nhân dân các nước Đông Nam á quyết tâm theo đuổi mục tiêu ZOPFAN của mình.
Trên phạm vi quốc tế, ASEAN đã phát huy vai trò của một tổ chức khu vực có vị thế chính trị, tiềm năng kinh tế và văn hoá đầy bản sắc. Mỗi quốc gia đã góp phần vào sự lớn mạnh của tổ chức chung và đến lượt nó, ASEAN lại thúc đẩy sự phát triển của mỗi nước và củng cố khối đoàn kết toàn khu vực. Do vậy, uy tín quốc tế của ASEAN được nâng cao, mối quan hệ vói EU, APEC và các khu vực khác được tăng cường, tiếng nói của ASEAN là không thể thiếu trong nhiều công việc của thế giới và lập trường thống nhất của ASEAN trong vấn đề an ninh là điều luôn phải tính đến trong mọi công vệc của ASEAN.
Như vậy, ASEAN đã trải qua một chặng đường 36 năm đầy ý nghĩa, thực sự là một chuyển biến lớn trong đời sống kinh tế- xã hội của mỗi nước thành viên, tạo nên môi trường hoà bình và ổn định, mở ra khả năng hợp tác và phát triển ở Đông Nam á. Tuy nhiên vẫn còn không ít khó khăn trong sự hiểu biết và thông cảm lẫn nhau sau một thời gian lịch sử cách biệt, do sự chênh lệch khá xa về trình độ kinh tế và kỹ thuật, do sức ép từ nhiều phía đối với chủ quyền và an ninh khu vực. Nhân dân Đông Nam á ý thức được điều đó, bằng bản lĩnh chính trị và bề dày kinh nghiệm của mình, đang cố vượt qua để vươn tới những mục tiêu cao đẹp của ASEAN trong những năm bản lề của hai thế kỷ.
2. Các lĩnh vực hợp tác của ASEAN
2.1. Hợp tác trên lĩnh vực thương mại
Trước khi AFTA ra đời, hợp tác về thương mại trong ASEAN đã có những điều kiện khá chặt chẽ mà khi chấp nhận tham gia ASEAN, các nước thành viên bắt buộc phải thực hiện. Kết quả thực hiện các điều kiện này sẽ làm cho các chính sách tự do hoá thương mại của các quốc gia gần gũi hơn với thông lệ quốc tế và thúc đẩy hơn nữa hoạt động buôn bán trong khu vực. Các điều kiện hợp tác thương mại trong ASEAN gồm có:
Các quốc gia thành viên có nghĩa vụ tham gia Thoả thuận ưu đãi thương mại (PTA: Preferential Trading Arrangement) được thực hiện từ năm 1977.
Các quốc gia thành viên phải có nghĩa vụ thực hiện Hiệp định về thuế quan ưu đãi có hiệu lực chung (CEPT: Common Effective Preferential Tariff) đã được ký kết giữa các nước ASEAN năm 1992 để tiến tới hoàn thành Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA: ASEAN Free Trade Area) vào năm 2003.
Nghĩa vụ thực hiện các Thoả thuận ưu đãi thương mại (PTA) là một trong những công cụ đầu tiên nhằm tự do hoá thương mại và thúc đẩy hơn nữa các hoạt động buôn bán trong khu vực. Theo thoả thuận này, các nước thành viên sẽ phải dành cho nhau những ưu đãi về thuế quan. Mức giảm thuế quan hiện hành đối với các sản phẩm PTA là 50% so với mức thuế tối huệ quốc (MFN) của nước nhập khẩu. Những sản phẩm được hưởng PTA là những sản phẩm được sản xuất hoặc khai thác hoàn toàn tại các nước ASEAN. Những sản phẩm được hình thành từ nguyên vật liệu nhập khẩu ngoài ASEAN thì hàm lượng ASEAN tối thiểu phải là 50% và công đoạn cuối cùng phải được sản xuất từ ASEAN.
Hiệp định về thuế quan ưu đãi có hiệu lực chung(CEPT) là một thoả thuận giữa các nước thành viên ASEAN trong việc giảm thuế quan trong thương mại nội bộ ASEAN xuống còn từ 0-5%, đồng thời loại bỏ tất cả các hạn chế về định lượng và các hàng rào phi thuế quan trong vòng 10 năm, bắt đầu từ 1/1/1993 và hoàn thành vào 1/1/2003.
Tuy nhiên, Hội nghị lần thứ 13 Hội đồng AFTA họp tại Singapore tháng 10/1998 đã đưa ra quyết định về việc đẩy nhanh tiến trình thực hiện AFTA, cụ thể là: Sáu nước thành viên cũ sẽ đưa 85% số dòng thuế xuống mức 0-5% vào năm 2002. Các nước thành viên mới được khuyến khích tối đa hoá số dòng thuế có thuế suất 0-5% vào năm 2003 (đối với Việt Nam) và 2005 (đối với Lào và Myanmar) và tối đa hoá số dòng thuế có thuế suất 0% vào các năm 2006 và 2008 tương ứng.
Như vậy, công cụ chính để thực hiện AFTA là cắt giảm thuế trong thương mại nội bộ xuống còn 0-5%. Tuy nhiên, bên cạnh vấn đề cắt giảm thuế quan, việc loại bỏ các rào cản thương mại và việc hợp tác trong lĩnh vực hải quan cũng đóng vai trò quan trọng và không thể tách rời khi xây dựng một khu vực mậu dịch tự do.
2.2 Hợp tác trong lĩnh vực hải quan
Các nước thành viên ASEAN đã nhất trí trong vấn đề hợp tác về hải quan như sau:
Thống nhất biểu thuế quan: Các nước hiện đang sử dụng biểu thuế quan theo Hệ thống điều hoà của Hội đồng hợp tác hải quan (HS) ở các mức dộ khác nhau, từ 6 đến 10 chữ số. Hội nghị các Bộ trưởng kinh tế ASEAN lần thứ 26 vào tháng 9/1994 đã quyết định sẽ thống nhất biểu thuế trong khối ASEAN ở mức 8 chữ số và hiện nay các nhóm kỹ thuật về Danh mục biểu thuế vẫn đang xúc tiến các công việc để dạt mục tiêu này.
Thống nhất hệ thống tính giá hải quan: Các nước thành viên ASEAN đã cam kết trong Vòng đàm phán Uruguay của GATT (trừ Việt Nam chưa là thành viên của GATT/WTO) là vào năm 2000 sẽ thực hiện phương pháp xác định giá trị hải quan theo GATT/GTV (GATT Transaction Value) được nêu trong Hiệp định thực hiện điều khoản VII của Hiệp định chung về thương mại và thuế quan 1994 để tính giá hải quan, Hội nghị Hội đồng AFTA lần thứ 11 (tháng 10-1997) đã quyết định rằng thời hạn thực hiện sẽ được áp dụng với tất cả các nước thành viên mới (Việt Nam, Lào, và Myanmar).
Xây dựng hệ thống luồng xanh hải quan: Để tạo thuận lợi cho việc thực hiện Chương trình CEPT, Hội nghị Hội đồng AFTA lần thứ 8 đã thông qua khuyến nghị của Hội nghị Tổng cục trưởng Hải quan ASEAN về việc xây dựng luồng hệ thống Luồng xanh hải quan và được thực hiện từ 1/1/1996 nhằm đơn giản hoá thủ tục hải quan dành cho các hàng hoá thuộc diện được hưởng ưu đãi theo Chương trình CEPT.
Thống nhất thủ tục hải quan: Do có sự khác biệt giữa hàng hoá được hưởng nhượng bộ theo Chương trình CEPT với các hàng hóa khác ở tiêu chuẩn về hàm lượng xuất xứ, mức thuế suất ... nên cần thiết phải đơn giản hoá và thống nhất thủ tục hải quan giữa các nước thành viên. Hai vấn đề đã được các nước thành viên ưu tiên trong việc thống nhất thủ tục hải quan là:
Mẫu tờ khai hải quan chung cho hàng hoá thuộc diện CEPT: tất cả các hàng hoá giao dịch theo Chương trình CEPT trước tiên bắt buộc phải có Giấy chứng nhận xuất xứ (C/O) Mẫu D để xác định mặt hàng đó có ít nhất 40% hàm lượng ASEAN. Sau đó, hàng hoá này phải được hoàn thành thủ tục xuất nhập khẩu (Tờ khai hải quan xuất khẩu và Tờ khai hải quan nhập khẩu). Do các tờ khai hải quan của các nước thành viên tương tự như nhau nên thủ tục có thể được đơn giản hoá bằng cách gộp 3 loại tờ khai trên thành một mẫu tờ khai hải quan chung cho hàng hoá CEPT.
Thủ tục nhập khẩu chung: để xây dựng thủ tục xuất nhập khẩu chung trong khối ASEAN, các nước thành viên đang tập trung vào các vấn đề: Các thủ tục trước khi nộp tờ khai hàng hoá nhập khẩu; các vấn đề về giám định hàng hoá; các vấn đề về gửi hàng trong đó Giấy chứng nhận xuất xứ được cấp sau và có hiệu lực hồi tố; các vấn đề liên quan đến hoàn trả...
2.3. Hợp tác phát triển công nghiệp (AICO)
Theo sáng kiến của Phòng thương mại và công nghiệp ASEAN, chương trình mới về hợp tác công nghiệp ASEAN đã được đưa ra thảo luận lần đầu tiên tại cuộc họp tháng 7/1995 của Tổ công tác về hợp tác công nghiệp ASEAN. Sau nhiều phiên họp của tổ công tác, văn bản cuối cùng Hiệp định khung về chương trình hợp tác công nghiệp ASEAN đã được Cuộc họp các quan chức kinh tế cao cấp (SEOM) thông qua. Tại phiên họp các Bộ trưởng kinh tế vào dịp Hội nghị thượng đỉnh ASEAN lần thứ năm tại Bangkok, những nội dung cơ bản của Hiệp định đã được nhất trí thông qua. Sau một số sửa chữa và hoàn thiện, tháng 4/1996 các Bộ trưởng kinh tế ASEAN đã chính thức ký kết văn bản Hiệp định AICO tại Singapore. Kể từ tháng 11/1996, Hiệp định chính thức có hiệu lực đối với tất cả 7 nước thành viên.
Hiệp định AICO là văn bản pháp lý thiết lập thể chế hợp tác mới mà trọng tâm là dành ưu đãi thuế quan thấp bằng mức quy định trong Hiệp định thuế quan ưu đãi có hiệu lực chung (CEPT). Điều đó có nghĩa là, bất kỳ một công ty nào trong ASEAN muốn liên kết chế tạo sản phẩm công nghiệp với nhau mà có đủ các điều kiện tham gia như quy định sẽ được hưởng thuế suất thấp chỉ còn từ 0%-5% đối với tất cả các sản phẩm đầu ra hoàn chỉnh hoặc bán hoàn chỉnh và đầu vào. Sở dĩ đạt được ý kiến nhất trí ưu đãi như vậy là vì các thành viên ASEAN đều nhận thức được tầm quan trọng của việc di chuyển vốn cũng như các yếu tố đầu vào khác đối với sự phát triển năng lực công nghiệp nói riêng và phát triển kinh tế nói chung của từng nước và khu vực.
2.4. Hợp tác về các vấn đề liên quan đến đầu tư
Theo kế hoạch hành động và phát triển thị trường vốn trong Chương trình hành động Hà Nội, các nước thành viên sẽ thực hiện các công việc cụ thể sau: thực hiện các tiêu chuẩn và thông lệ được quốc tế chấp nhận vào năm 2003; thiết lập Bộ tiêu chuẩn tối thiểu vào năm 2003; phối hợp các hoạt động giám sát và các chương trình nhằm tăng cường thị trường vốn, cải thiện chế độ quản lý thị trường vốn minh bạch và công khai; xây dựng cơ sở niêm yết chéo ở thị trường vốn ASEAN vào năm 2003; tạo thuận lợi cho chu chuyển vốn và đầu tư qua biên giới; tạo thuận lợi cho hệ thống thanh toán trực tiếp và thanh toán bù trừ trong phạm vi ASEAN, thúc đẩy quá trình chứng khoán hoá trong ASEAN; thiết lập mạng liên kết giữa các ngân hàng phát triển ở các nước để cung cấp vốn cho các dự án đầu tư hiệu quả, mạng lưới cộng tác và hợp tác giữa các trung tâm nghiên cứu và đào tạo về thị trường vốn ở các nước thành viên ASEAN.
Đồng thời, các nước thành viên cũng quyết định ký kết và thực hiện Hiệp định khung về Khu vực đầu tư ASEAN (AIA): bao gồm việc thực hiện 3 chương trình hành động tổng quát và là động lực chính của Hiệp định AIA: (i) Chương trình hợp tác và hỗ trợ đầu tư, (ii) Chương trình xúc tiến dầu tư và tăng cường hiểu biết, (iii) Chương trình tự do hoá đầu tư. Các chương trình này sẽ được thực hiện thông qua các Kế hoạch hành động tập thể và quốc gia và theo thời gian biểu đã thoả thuận. AIA sẽ được triển khai thông qua việc thực hiện một loạt các vấn đề: thực hiện ngay chế độ đối xử quốc gia (NT) và mở cửa các ngành công nghiệp để thu hút đầu tư; xác định và loại bỏ dần các biện pháp hạn chế đầu tư; hoàn thành chương trình (i), (ii), (iii) vào năm 2010...
Ngoài các lĩnh vực hợp tác chủ yếu trên, các nước thành viên ASEAN còn nỗ lực hợp tác trong các lĩnh vực kinh tế khác như: hợp tác về năng lượng và khoáng sản; hợp tác về lương thực, nông nghiệp và lâm nghiệp; hợp tác về vận tải, thông tin liên lạc; hợp tác về dịch vụ; hợp tác du lịch; hợp tác bảo hộ sở hữu trí tuệ và hợp tác về tài chính-ngân hàng.
II. Hiệp định Khu vực đầu tư ASEAN
1. Lịch sử quá trình ra đời của Hiệp định khu vực đầu tư ASEAN
Bắt nguồn từ những cố gắng ban đầu nhằm khuyến khích và bảo hộ các luồng di chuyển vốn trong ASEAN đã hình thành từ nửa cuối thập kỷ 80, khi mà các luồng vốn đầu tư nước ngoài đổ ồ ạt vào các nước ASEAN, và bắt đầu hình thành ngày càng rõ nét xu thế chuyển vốn đầu tư từ các nước có trình độ phát triẻn công nghiệp cao sang những nước có trình độ phát triển thấp hơn trong khu vực. Năm 1987, các nước ASEAN đã đạt được Thoả thuận về Khuyến khích và Bảo hộ đầu tư- tiền đề để tiến tới những hợp tác sâu hơn trong lĩnh vực đầu tư của ASEAN.
Vào đầu những năm 90, tình hình chính trị kinh tế quốc tế và khu vực Đông Nam á có nhiều thay đổi quan trọng, tác động lớn tới các nước ASEAN. Về chính trị là sự chấm dứt chiến tranh lạnh và sự giảm bớt cam kết về an ninh và đi kèm theo đó là sự giúp đỡ về kinh tế của Mỹ và Trung Quốc cho ASEAN. Về kinh tế, sự cạnh tranh gay gắt trong lĩnh vực thương mại từ các nước đang phát triển khác mới nổi lên, đặc biệt là Trung Quốc cùng với sự xuất hiện và lớn mạnh của các tổ chức hợp tác khu vực như EU, NAFTA và MECOSUR đã làm cho hàng hoá của ASEAN khó len chân hơn vào thị trường quốc tế. Vì thế, tại Hội nghị Thượng đỉnh ASEAN lần thứ tư tổ chức tại Singapore năm 1992, các nhà lãnh đạo ASEAN đã quyết định đưa sự hợp tác và phát triển về kinh tế trong khối lên một bước tiến mới khác hẳn về chất với việc ký kết Hiệp định Thuế quan ưu đãi có hiệu lực chung làm cơ sở pháp lý cho quá trình tự do hoá thương mại trong khối, tiến tới thành lập Khu vực Mậu dịch tự do ASEAN (AFTA). Cũng tại cuộc họp Thượng đỉnh này, các nước thành viên ASEAN đã ký kết Thoả thuận Khung về Khuyến khích hợp tác kinh tế với mục tiêu cùng tiến hành tự do hoá thương mại, khuyến khích buôn bán và các luồng vốn đầu tư trong nội bộ ASEAN.
Trước thực tế bối cảnh khu vực và thế giới, đồng thời các nước ASEAN ngày càng phải chịu sức ép cạnh tranh mạnh mẽ về thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài của các nước đang phát triển khác trên thế giới cũng như trong khu vực, dặc biệt là từ phía hai nước lớn nhất và đông dân nhất của thế giới là Trung Quốc và ấn Độ, nên ngày 15/12/1995 tại Thái Lan, Hội nghị Thượng đỉnh lần thứ năm của ASEAN đã quyết định thành lập Khu vực đầu tư ASEAN (ASEAN Investment Area- gọi tắt là AIA), nhằm tăng cường thu hút vốn và khả năng cạnh tranh để khuyến khích đầu tư trực tiếp nước ngoài. Song quyết định này mới chỉ dừng lại ở việc khẳng định ý tưởng, là cơ sở cho việc đàm phán và thoả thuận những điều khoản và điều kiện chung cho việc ký kết một thoả thuận chung về Khu vực đầu tư ASEAN. Đến năm 1996, thêm một văn bản nữa của ASEAN đã được ký kết nhằm tạo đà cho những bước khởi sự của quá trình tự do hóa đầu tư nước ngoài là Công ước về khu vực đầu tư ASEAN nhằm tăng cường niềm tin đầu tư vào khu vực ASEAN của các nhà đầu tư.
Một lần nữa, trong tuyên bố chung của cuộc họp Thượng đỉnh không chính thức của ASEAN về tình hình tài chính ngày 15/12/97, những nhà lãnh đạo các nước thành viên ASEAN đã khẳng định cam kết tiếp tục duy trì việc mở cửa thương mại và môi trường đầu tư trong ASEAN, kể cả việc đẩy nhanh tiến độ thực hiện AFTA, AIA và Cơ chế hợp tác công nghiệp ASEAN (AICO). Các nhà lãnh đạo nhất trí rằng trong bối cảnh hiện nay cần phải nỗ lực hơn nữa để loại bỏ những rào cản thương mại và thúc đẩy hơn nữa thương mại và đầu tư nội bộ ASEAN.
Từ khi quyết định thành lập AIA được các nước thành viên ASEAN nhất trí thông qua năm 1995 đến nay, Uỷ ban soạn thảo hiệp định khung về Khu vực đầu tư ASEAN (WCAIA) gồm đại diện của tất cả các nước thành viên đã được thành lập để tập trung soạn thảo Hiệp định này. Qua nhiều vòng đàm phán, Hiệp định đã được hoàn chỉnh và được các Bộ trưởng Kinh tế ASEAN lần thứ 30 tại Manila, Philipines ký kết vào ngày 7/10/1998
2. Nội dung hiệp định AIA
2.1. Mục tiêu
Mục tiêu cuối cùng và cơ bản nhất của Hiệp định AIA là biến khu vực nhóm các nước ASEAN thành một nơi:
Có một chương trình hợp tác đầu tư ASEAN nhằm tạo ra đầu tư lớn hơn từ các nước ASEAN và các nước ngoài ASEAN.
Có chế độ đối xử quốc gia dành cho các nhà đầu tư ASEAN vào năm 2010 và dành cho tất cả các nhà đầu tư vào năm 2020.
Có quy định mở cửa tất cả các ngành nghề cho các nhà đầu tư ASEAN vào năm 2010 và cho tất cả các nhà đầu tư vào nâm 2020.
Có vai trò lớn trong các nỗ lực hợp tác về đầu tư và các hoạt động có liên quan trong ASEAN.
Có lưu chuyển tự do hơn về vốn, lao động lành nghề, chuyên gia và công nghệ giữa các quốc gia thành viên.
2.2 Phạm vi áp dụng
Theo Hiệp định khung, các quy định trong Hiệp định AIA sẽ chỉ có hiệu lực đối với các dự án đầu tư trực tiếp. Hiệp định AIA sẽ không có hiệu lực đối với các khoản đầu tư theo danh mục chứng khoán và đối với tất cả các vấn đề có liên quan đến các khoản đầu tư thuộc phạm vi điều chỉnh của các thoả thuận ASEAN khác, như Thoả thuận Khung về Dịch vụ ASEAN.
Tương tự như CEPT (Hiệp định về Thuế quan ưu đãi có hiệu lực chung), Hiệp định AIA cho phép các quốc gia thành viên có thể không mở cửa hoặc mở cửa muộn hơn một số ngành đầu tư thông qua việc lập ra danh mục loại trừ. Điều này nhằm đảm bảo cho các nước thành viên có thể bảo vệ được các ngành sản xuất của mình trong trường hợp bị thiệt hại nặng khi tham gia vào Khu vực đầu tư chung AIA.
Các danh mục này được chia làm hai loại:
Danh mục loại trừ chung: Danh mục này gồm các lĩnh vực sẽ không mở cửa cho đầu tư nước ngoài; và
Danh mục loại trừ khác, gồm hai loại: Danh mục nhạy cảm và Danh mục loại trừ tạm thời.
Tuy nhiên, ASEAN cũng dành một khung thời gian riêng áp dụng cho các nước mới là thành viên của ASEAN và cũng là các nước có trình độ phát triển kinh tế thấp hơn hẳn so với các nước ASEAN khác. Các nước này bao gồm Việt Nam, Lào và Myanmar. Theo quy định, Việt Nam sẽ phải mở cửa các lĩnh vực trong Danh mục loại trừ tạm thời vào năm 2013, còn hai nước Lào và Myanmar sẽ thực hiện vào năm 2015.
2.3. Chương trình và kế hoạch hành động
Để tiến tới thành lập Khu vực đầu tư ASEAN, các quốc gia thành viên có nghĩa vụ thực hiện 3 chương trình là: Chương trình hợp tác và tạo thuận lợi; Chương trình xúc tiến đầu tư và tăng cường hiểu biết và Chương trình tự do hoá đầu tư. Cụ thể, nội dung chính của 3 Chương trình này gồm:
2.3.1 Chương trình hợp tác và tạo thuận lợi
Đối với Chương trình hợp tác và tạo thuận lợi, các quốc gia thành viên sẽ thực hiện:
Sáng kiến để:
Tăng cường tính rõ, trong sáng của các quy tắc, quy định, chính sách và thủ tục đầu tư của các quốc gia thành viên thông qua việc xuất bản các thông tin đó một cách thường xuyên và làm cho các thông tin đó có thể tiếp cận một cách rộng rãi;
Đơn giản hóa và thực hiện nhanh chóng các thủ tục xin và phê duyệt các dự án đầu tư ở mọi cấp và mở rộng số lượng các Hiệp định song phương về tránh đánh thuế hai lần giữa các quốc gia thành viên ASEAN.
Sáng kiến tập thể để:
Thiết lập cơ sở dữ liệu về các ngành công nghiệp hỗ trợ của ASEAN và về các nhà cung cấp công nghệ ASEAN để tăng cường trao đổi dữ liệu đầu tư và thông tin về các cơ hội đầu tư ở ASEAN;
Thúc đẩy quan hệ giữa khu vực nhà nước và khu vực tư nhân thông qua đối thoại thường xuyên giữa khu vực doanh nghiệp ASEAN và các tổ chức quốc tế khác để xác định các trở ngại đầu tư trong và ngoài ASEAN và kiến nghị các giải pháp hoàn thiện môi trường đầu tư ASEAN;
Xác định các vấn đề trọng tâm để hợp tác kỹ thuật, như phát triển nguồn nhân lực, cơ sở hạ tầng, các ngành công nghiệp hỗ trợ, các doanh nghiệp vừa và nhỏ, công nghệ thông tin, công nghệ công nghiệp, nghiên cứu và phát triển; và phối hợp các nỗ lực trong ASEAN với các tổ chức quốc tế khác tham gia hợp tác kỹ thuật;
Xem xét lại và bổ sung Hiệp định ASEAN về khuyến khích và bảo hộ đầu tư và nghiên cứu khả năng ký kết Hiệp định ASEAN về tránh đánh thuế hai lần.
2.3.2 Chương trình xúc tiến đầu tư và tăng cường hiểu biết:
Đối với Chương trình xúc tiến đầu tư và tăng cường hiểu biết, các quốc gia thành viên sẽ tiến hành các hoạt động xúc tiến đầu tư chung như tổ chức các chuyến khảo sát làm quen cho các nhà đầu tư từ các nước xuất khẩu vốn đồng thời, triển khai các dự án cụ thể với sự tham gia tích cực của khu vực tư nhân.
Ngoài ra, các cơ quan đầu tư ASEAN cần trao đổi, hợp tác thường xuyên với nhau về các vấn đề xúc tiến đầu tư, tổ chức các chương trình đào tạo liên quan đến đầu tư cho các quan chức của các cơ quan đầu tư ASEAN, trao đổi danh mục các ngành, các lĩnh vực khuyến khích mà mỗi quốc gia thành viên có thể khuyến khích đầu tư từ các quốc gia thành viên khác và đề xuất các hoạt động xúc tiến đầu tư.
Cuối cùng, các quốc gia thành viên sẽ xem xét các giải pháp mà các cơ quan đầu tư của họ có thể tiến hành hỗ trợ cho hoạt động xúc tiến đầu tư của các quốc gia thành viên khác.
2.3.3 Chương trình tự do hoá:
Chương trình này bao gồm những nội dung như sau:
Các quốc gia thành viên sẽ đơn phương giảm bớt và loại bỏ những biện pháp hạn chế đầu tư và thường xuyên xem xét lại chế độ đầu tư theo hướng tự do hoá hơn. Về vấn đề này, các quốc gia thành viên có thể thực hiện các biện pháp để tự do hoá, bao gồm các quy tắc, quy định và chính sách liên quan đến đầu tư; các quy tắc liên quan đến việc tiếp cận nguồn vốn trong nước; và các quy tắc để tạo thuận lợi cho việc thanh toán, tiếp nhận và chuyển lợi nhuận của các nhà đầu tư ra nước ngoài.
Thực hiện các Kế hoạch hành động của từng nước để mở cửa tất cả các ngành nghề và dành đối xử quốc gia cho tất cả các nhà đầu tư ASEAN vào năm 2010 và cho tất cả các nhà đầu tư vào năm 2020 phù hợp với các điều khoản của Hiệp định này.
Thúc đẩy dòng lưu chuyển tự do hơn về vốn, lao động lành nghề, chuyên gia, và công nghệ giữa các quốc gia thành viên ASEAN.
2.4. Những nguyên tắc để thực hiện các Chương trình hợp tác
Hiệp định đã xác định những nguyên tắc chủ yếu sau để có thể thực hiện các Chương trình hợp tác trên:
2.4.1 Nguyên tắc mở cửa tất cả các ngành nghề và dành đối xử quốc gia (National Treatment- NT) cho các nhà đầu tư:
Theo quy định tại điều 7 của Hiệp định, ngoài các biện pháp hoặc lĩnh vực được liệt kê trong các Danh mục loại trừ tạm thời (Temporary Exclusion List) và Danh mục nhạy cảm (Sensetive List) của nước mình, tất cả các nước thành viên ASEAN sẽ dành chế độ đối xử không kém thuận lợi hơn so với các nhà đầu tư nước mình và mở cửa tất cả các ngành nghề cho các nhà đầu tư ASEAN ngay sau khi Hiệp định khung về Khu vực đầu tư ASEAN có hiệu lực.
Danh mục loại trừ tạm thời bao gồm các lĩnh vực hoặc biện pháp tạm thời chưa thể mở cửa hoặc dành NT ngay lập tức cho các nhà đầu tư ASEAN, nhưng sẽ được mở cửa hoặc dành NT cho từng nước trong khung thời gian thực hiện Khu vực đầu tư ASEAN theo nguyên tắc AFTA +7, tức là vào năm 2010 đối với 6 nước thành viên cũ, năm 2013 đối với Việt Nam và 2015 đối với Lào và Myanmar.
Danh mục nhạy cảm bao gồm các lĩnh vực hoặc biện pháp chưa thể mở cửa hoặc dành NT ngay và chưa thể xác định được thời hạn loại bỏ.
Các danh mục loại trừ tạm thời và nhạy cảm sẽ do các nước thành viên tự đưa ra. Tuy nhiên, để khắc phục tình trạng các nước đưa ra quá nhiều biện pháp và trường hợp loại trừ, Hiệp định áp dụng nguyên tắc có đi có lại, cụ thể là: nếu một nước thành viên chưa sẵn sàng dành đối xử quốc gia đối với một số biện pháp nào đó, hoặc chưa sẵn sàng mở cửa một số ngành nghề nào đó cho các nước thành viên khác thì nước đó cũng không được hưởng các ưu đãi liên quan đến các biện pháp hoặc ngành nghề đó trên lãnh thổ các nước kia. Nguyên tắc này áp dụng đối với Việt Nam sau 3 năm, đối với Lào và Myanmar sau 5 năm kể từ khi Hiệp định có hiệu lực, đối với các nước khác ngay sau khi Hiệp định có hiệu lực.
2.4.2 Nguyên tắc tối huệ quốc
Theo quy định tại điều 8, mỗi nước thành viên ASEAN sẽ dành ngay lập tức và vô điều kiện cho các nhà đầu tư của các nước thành viên ASEAN khác sự đối xử không kém thuận lợi hơn sự đối xử dành cho các nhà đầu tư của bất kỳ nước thứ 3 nào. Nếu nước thành viên không muốn dành cho các nhà đầu tư của ASEAN những ưu đãi của các Hiệp định đã ký kết trước ngày Hiệp định khung này được ký kết thì nước đó phải thông báo cho Hội đồng AIA trong vòng 6 tháng kể từ ngày ký kết Hiệp định khung này.
Về cơ bản, đây không phải là một nguyên tắc mới mà là nguyên tắc đã được quy định trong tất cả các Hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư song phương mà các nước đã ký kết với nhau và trong Hiệp định._. khuyến khích và bảo hộ đầu tư ASEAN năm 1987, được sửa đổi bổ sung vào năm 1996.
2.4.3 Nguyên tắc đảm bảo tính rõ ràng, trong sáng
Điều 11 Hiệp định quy định nghĩa vụ của các quốc gia thành viên khác phải cung cấp thông tin, đảm bảo tính rõ ràng, trong sáng của pháp luật và chính sách đầu tư nước mình, ngoại trừ các thông tin làm ảnh hưởng đến việc thực thi pháp luật, trái với lợi ích công cộng hoặc làm thiệt hại tới quyền lợi thương mại hợp pháp của các doanh nghiệp. Mỗi nước thành viên phải nhanh chóng và ít nhất mỗi năm một lần thông báo cho Hội đồng AIA các thay đổi về luật pháp và chính sách ảnh hưởng đến đầu tư hoặc các cam kết theo Hiệp định này.
2.5. Các biện pháp tự bảo vệ
Ngoài việc đưa ra danh mục các ngành sẽ mở cửa cho đầu tư nước ngoài, theo Hiệp định khung AIA, nhằm tránh những thiệt hại nặng nề cho những nước thành viên tham gia AIA, các nước thành viên còn có thể sử dụng các biện pháp tự bảo vệ khi cần thiết. Các biện pháp này đã được Hiệp định quy định rõ quyền và nghĩa vụ của các nước thành viên khi thực hiện, bao gồm:
2.5.1 Các biện pháp bảo vệ khẩn cấp:
Trong trường hợp khi thực hiện chương trình tự do hoá, một quốc gia thành viên phải gánh chịu hoặc bị đe doạ phải gánh chịu bất kỳ tổn hại nghiêm trọng nào, thì quốc gia thành viên đó có thể thực hiện các biện pháp bảo vệ khẩn cấp trong chừng mực và thời gian cần thiết để ngăn cản hoặc khác phục tổn hại đó. Các biện pháp này được thực hiện có tính chất tạm thời và không phân biệt đối xử.
Tuy nhiên, khi thực hiện các biện pháp khẩn cấp này, các quốc gia thành viên phải thông báo cho Hội đồng AIA trong vòng 14 ngày kể từ ngày tiến hành các biện pháp đó.
2.5.2 Các biện pháp bảo vệ cán cân thanh toán:
Trong trường hợp gặp hoặc bị đe doạ gặp những khó khăn nghiêm trọng về cán cân thanh toán và những khó khăn tài chính đối ngoại khác, thì một quốc gia thành viên có thể áp dụng và duy trì những hạn chế đối với đầu tư mà nó cam kết, kể cả những cam kết về thanh toán, chuyển tiền. Tuy nhiên, các nước thành viên cũng thừa nhận rằng những áp lực cụ thể đối với cán cân thanh toán của một quốc gia thành viên trong quá trình phát triển kinh tế hay chuyển đổi kinh tế có thể đòi hỏi phải sử dụng những hạn chế để đảm bảo việc duy trì dự trữ tài chính đủ để thực hiện chương trình phát triển hay chuyển đổi kinh tế của mình. Nhưng khi thực hiện các biện pháp này, các quốc gia thành viên phải thông báo cho Hội đồng AIA trong vòng 14 ngày kể từ ngày tiến hành các biện pháp đó.
Theo quy định của Hiệp định thì các biện pháp bảo vệ cán cân thanh toán phải bảo đảm các yêu cầu như không phân biệt đối xử giữa các quốc gia thành viên; phù hợp với các quy định của Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF); tránh sự thiệt hại không cần thiết đối với các quyền lợi thương mại, kinh tế và tài chính của các quốc gia thành viên khác; không quá mức cần thiết để giải quyết tình trạng khó khăn về cán cân thanh toán và tài chính đối ngoại; và chỉ mang tính chất tạm thời và được loại bỏ dần khi cán cân thanh toán được cải thiện.
2.5.3 Những ngoại lệ chung
Trong những trường hợp cần thiết, các quốc gia thành viên có thể tiến hành các biện pháp để bảo vệ an ninh quốc gia hoặc đạo đức xã hội, bảo vệ cuộc sống hoặc sức khoẻ con người và động thực vật, bảo đảm sự tuân thủ pháp luật phù hợp với các điều khoản của Hiệp định AIA, đảm bảo việc đặt ra và thu một cách công bằng và hiệu quả các loại thuế trực thu đối với đầu tư hoặc các nhà đầu tư của các quốc gia thành viên.
Ví dụ như để đảm bảo sự tuân thủ pháp luật phù hợp với các điều khoản của Hiệp định AIA, các quốc gia thành viên phải tiến hành:
Ngăn cản các hiện tượng lừa đảo, gian lận hoặc giải quyết các tác động của việc không hoàn thành nghĩa vụ theo đúng thoả thuận đầu tư.
Bảo vệ sự riêng tư của cá nhân liên quan đến việc đưa ra và phổ biến các tư liệu cá nhân và việc bảo vệ bí mật các hồ sơ và tài khoản cá nhân.
2.6. Thể chế thực hiện
Việc quản lý, điều hành và rà soát việc thực hiện các bước thành lập AIA sẽ do Hội đồng AIA đảm nhiệm. Hội đồng này do các Bộ trưởng Kinh tế ASEAN thành lập và bao gồm các Bộ trưởng có trách nhiệm đối với vấn đề đầu tư và Tổng thư ký ASEAN. Các cuộc họp của Hội đồng AIA sẽ có sự tham gia của những người đứng đầu các cơ quan đầu tư của các nước ASEAN.
Để đảm nhiệm chức năng của mình, Hội đồng AIA sẽ được hỗ trợ bởi Uỷ ban Điều phối Đầu tư (CCI). Uỷ ban này bao gồm các quan chức cao cấp có trách nhiệm đối với vấn đề đầu tư và các quan chức cao cấp khác có liên quan từ những cơ quan của chính phủ. CCI sẽ thực hiện việc báo cáo cho Hội đồng AIA thông qua Hội nghị các quan chức Kinh tế cao cấp (SEOM).
2.7. Giải quyết tranh chấp
Những tranh chấp phát sinh từ hoặc bất kỳ bất đồng nào giữa các quốc gia thành viên có liên quan đến việc thực hiện Hiệp định khung AIA sẽ được giải quyết theo Nghị định thư về cơ chế giải quyết tranh chấp trong ASEAN. Tuy nhiên, nếu cần thiết, một cơ chế giải quyết tranh chấp cụ thể sẽ được thành lập.
Mặc dù mới chỉ là Hiệp định khung xác định mục tiêu, định hướng và nguyên tắc hợp tác trong lĩnh vực hợp tác đầu tư ASEAN, nhưng việc ký kết và triển khai thực hiện Hiệp định có ý nghĩa chính trị và kinh tế to lớn, thể hiện quyết tâm của các nước ASEAN trong việc xây dựng ASEAN thành một khối liên kết chính trị và kinh tế ngày càng cao hơn. Việc xây dựng ASEAN thành một khu vực đầu tư có sức hấp dẫn, cạnh tranh cao trên cơ sở cải thiện môi trường đầu tư từng nước và toàn khu vực không những tạo cơ hội thu hút luồng vốn FDI từ bên ngoài khu vực cũng như tăng cường hoạt động đầu tư lẫn nhau giữa các nước trong khối mà còn phù hợp với xu hướng toàn cầu hoá đời sống kinh tế quốc tế và phù hợp với thực tế cuộc cạnh tranh thu hút FDI ngày càng gay gắt hơn của một số nước và khu vực trên thế giới.
Chương II
tổng quan hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài tại các nước ASEAN
I. Một số vấn đề lý luận về đầu tư trực tiếp nước ngoài
1. Khái niệm và đặc điểm của đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI)
1.1. Khái niệm
Bất kỳ một quá trình tăng trưởng và phát triển kinh tế nào muốn tiến hành được đều phải cần đến vốn đầu tư. Vốn đầu tư được hiểu là giá trị tài sản xã hội được bỏ vào đầu tư nhằm mang lại hiệu quả trong thời gian tương lai. Đây là yếu tố quan trọng để quyết định kết hợp các yếu tố khác trong sản xuất kinh doanh và là yếu tố có tầm quan trọng hàng đầu đối với các dự án đầu tư. Chính vì vậy, đi tìm lời giải đáp cho câu hỏi làm thế nào để giải quyết được nguồn vốn cho phát triển kinh tế là vấn đề cấp thiết đặt ra cho mỗi quốc gia. Lịch sử đã cho thấy chỉ có hai con đường để giải quyết vấn đề trên, đó là: (i) Huy động nguồn vốn trong nước và (ii) Huy động nguồn vốn nước ngoài. Tuỳ vào điều kiện và hoàn cảnh kinh tế xã hội của từng quốc gia mà có những lựa chọn nguồn vốn trong nước hay nước ngoài cho thích hợp. Có thể lấy ví dụ về chính sách huy động vốn ở các nước trên thế giới để chứng minh cho điều này: Anh, Pháp tích luỹ nguyên thuỷ tư bản cao; Nhật có tiết kiệm cao trong một thời gian dài do duy trì được mức lương thấp trong khi năng suất lao động tăng nhanh, chi phí quân sự thấp, hạn chế gắt gao phúc lợi xã hội và tinh giảm bộ máy nhà nước; trong khi đó, các nước Châu á khác đều chú trọng đến chiến lược tạo vốn hướng ngoại. Tuy nhiên, chính sách tạo vốn hướng ngoại ở từng quốc gia Châu á cũng không giống nhau: trong khi các nước ASEAN, Trung Quốc, Đài Loan tập trung vào thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thì Hàn Quốc lại chú trọng vào việc vay nợ của chính phủ và các tổ chức, cá nhân nước ngoài để phát triển các ngành công nghiệp nặng trong nước.
Huy động vốn ngoài nước có thể thực hiện được dưới các hình thức: đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài: Là loại hình di chuyển vốn quốc tế trong đó người chủ sở hữu vốn đồng thời là người trực tiếp quản lý và điều hành hoạt động sử dụng vốn.
Đầu tư gián tiếp nước ngoài: Là loại hình di chuyển vốn quốc tế trong đó người chủ sở hữu góp vốn nhưng không tham gia trực tiếp điều hành đối tượng mà họ bỏ ra đầu tư.
So với đầu tư gián tiếp, ở hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài nước chủ nhà có nhiều khả năng tiếp thu được công nghệ và kinh nghiệm quản lý tiên tiến của các chủ đầu tư nước ngoài. Mặt khác, các chủ đầu tư nước ngoài (ở mức độ nhất định) có thể tham gia điều hành quá trình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp và đưa ra những quyết định có lợi nhất cho vốn đầu tư mà họ đã bỏ ra. Ngoài ra, một số nước muốn huy động vốn nước ngoài thông qua đầu tư gián tiếp (mà cụ thể là thông qua hình thức tín dụng quốc tế) sẽ dễ bị trục lợi về chính trị, dễ bị trói buộc vào vòng ảnh hưởng của nước cho vay hơn là hình thức đầu tư trực tiếp. Vay vốn nước ngoài cũng có những bất lợi hơn do thời hạn trả vốn vay thường cố định và đôi khi quá ngắn so với một số dự án đầu tư. Trong khi đó thời hạn của dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài thường linh hoạt hơn.
Chính vì những lợi ích như vậy mà đa số các nước đang phát triển đều coi FDI là chìa khoá để mở cánh cửa cho phát triển kinh tế. Đặc biệt, đối với các quốc gia đang ở giai đoạn đầu phát triển kinh tế, khi thị trường chứng khoán- công cụ cho việc thu hút vốn đầu tư gián tiếp- còn chưa hoàn thiện thì đầu tư trực tiếp nước ngoài càng đóng vai trò quan trọng.
1.2. Đặc điểm của FDI
Đặc điểm chủ yếu của FDI được thể hiện ở một số điểm sau:
Các chủ đầu tư nước ngoài phải đóng góp một số vốn tối thiểu theo Luật đầu tư của từng nước quy định. Ví dụ, Luật đầu tư nước ngoài ở Việt Nam quy định chủ đầu tư nước ngoài phải đóng góp tối thiểu 30% vốn pháp định của dự án trong khi Mỹ quy định là 10% và một số nước khác là 20%.
Quyền quản lý xí nghiệp phụ thuộc vào mức độ góp vốn. Nếu góp 100% vốn pháp định, thì doanh nghiệp hoàn toàn do chủ đầu tư nước ngoài điều hành và quản lý.
Lợi nhuận của chủ đầu tư nước ngoài thu được phụ thuộc vào kết quả hoạt động kinh doanh và được chia theo tỷ lệ góp vốn trong vốn pháp định sau khi nộp thuế cho nước sở tại và trả lợi tức cổ phần (nếu có).
FDI được thực hiện thông qua việc xây dựng doanh nghiệp mới, mua lại từng phần hoặc toàn bộ doanh nghiệp đang hoạt động hoặc mua cổ phiếu để sát nhập các doanh nghiệp với nhau.
2. Nguyên nhân hình thành FDI
Nếu như đặc điểm của thời kỳ CNTB tự do cạnh tranh là việc xuất khẩu hàng hoá sang các nước kém phát triển hơn thì đến cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, với sự hình thành các tổ chức độc quyền, trong nền kinh tế TBCN xuất hiện thêm một hình thức xuất khẩu mới- xuất khẩu tư bản. Xuất khẩu tư bản có thể được thực hiện thông qua hai con đường chính là con đường trực tiếp và con đường gián tiếp.
Con đường gián tiếp chính là việc các tổ chức tín dụng, các công ty có nguồn vốn dư thừa lớn sử dụng đồng vốn đó của mình cho các công ty, chính phủ nước ngoài vay nhằm thu hút được một dòng lợi tức nhất định cao hơn so với cho vay trong nước. Khi các nước chưa có một mối quan hệ mở cửa, chưa có chính sách mời chào đầu tư nước ngoài thì đây chính là một kênh xuất khẩu tư bản chủ yếu.
Tuy nhiên dòng xuất khẩu tư bản chảy qua kênh trực tiếp ngày càng tăng lên nhờ nhận thức của bên nhận đầu tư cũng như của bên đầu tư về các mặt lợi ích mà nó mang lại. Có thể nói nguyên nhân sâu xa hình thành nên FDI cũng chính là nguyên nhân hình thành nên xuất khẩu tư bản mà bản chất kinh tế là sự chênh lệch giữa tỷ suất lợi nhuận ở các quốc gia khác nhau trên thế giới trong các ngành sản xuất nhất định.
Nền kinh tế thế giới hiện nay có thể phân ra làm hai nhóm chính: Thứ nhất là nhóm các quốc gia có nền kinh tế phát triển cao, tiên tiến và thứ hai là nhóm các quốc gia chậm và đang phát triển. Tại các nước phát triển, lượng của cải mà nền sản xuất tạo ra dồi dào khiến cho việc tích luỹ đầu tư ngày càng mở rộng, nguồn vốn đầu tư có thể cung cấp với giá khá rẻ. Mặt khác, do thu nhập cao, mức sống cao nên lực lượng lao động ở các quốc gia này đòi hỏi tiền lương cũng rất cao. Ngược lại, ở các quốc gia chậm phát triển, nền kinh tế còn lạc hậu, lượng của cải tạo ra chỉ đủ cho các nhu cầu tiêu dùng tối thiểu mà không đủ cho tích luỹ đầu tư. Điều này hiển nhiên dẫn đến sự thiếu hụt trong vốn đầu tư, nền sản xuất không phát triển, người lao động có thu nhập thấp, nguồn lao động rẻ, trình độ thấp. Vậy thì, điều tất yếu sẽ diễn ra trong nền kinh tế thế giới là sự kết hợp giữa nguồn vốn dồi dào từ các nước phát triển và nguồn cung lao động rẻ từ các nước đang phát triển để hình thành nên một tổ chức sản xuất có sự kết hợp hữu cơ tư bản hợp lý nhất, tạo ra lợi nhuận cao nhất.
Vậy có thể nói rằng, cũng giống như thương mại quốc tế, dòng đầu tư nước ngoài cũng được hình thành trên cơ sở lý thuyết về lợi thế so sánh của các quốc gia trên thị trường cung ứng các yếu tố chính của quá trình sản xuất là vốn và lao động. Các nước phát triển có lợi thế so sánh về vốn và các nước đang phát triển có lợi thế so sánh về lao động.
Tuy nhiên, dòng đầu tư trực tiếp nước ngoài còn được hình thành bởi nhiều nguyên nhân khác nữa như lợi thế so sánh giữa các quốc gia do điều kiện tài nguyên thiên nhiên, do chính sách quản lý thị trường, thuế quan của chính phủ hay do việc cơ cấu lại vòng đời của công nghệ. Chính những nguyên nhân này giải thích vì sao dòng đầu tư trực tiếp nước ngoài không chỉ chảy từ các nước phát triển sang các nước đang phát triển mà còn chảy giữa các nước đang phát triển với nhau.
3. Vai trò của FDI
3.1 Đối với các nước đầu tư
FDI được các nhà đầu tư đánh giá như một công cụ hiệu quả để từng bước thâm nhập thị trường các nước, đặc biệt là những nước có chế độ bảo hộ cao đối với các ngành sản xuất trong nước thông qua các công cụ gián tiếp như thuế quan, cơ chế giấy phép, hạn ngạch... Ngoài ra, các nước tiếp nhận đầu tư thường xuyên khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài vào hoạt động sản xuất kinh doanh ở nước mình nên luôn đưa ra các cơ chế và chính sách ưu đãi dành riêng cho các nhà đầu tư nước ngoài do đó đem lại nhiều lợi thế về lợi nhuận cũng như môi trường kinh doanh thuận lợi cho các nhà đầu tư nước ngoài.
Dưới hình thức FDI, các nước chủ đầu tư dễ dàng tận dụng những lợi thế về nguồn nguyên liệu phong phú, về nguồn lao động dồi dào với giá rẻ của nước sở tại nhờ đó làm giảm chi phí sản xuất, giá thành sản phẩm, vốn là các yếu tố tạo nên sức cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường.
Cũng phải nói thêm rằng bằng con đường đầu tư trực tiếp nước ngoài nhiều nước chủ đầu tư đã tìm được giải pháp cho việc đổi mới và không ngừng ứng dụng công nghệ, kỹ thuật hiện đại cho nền sản xuất nước mình. Con đường đó là thực hiện từng bước chuyển giao các công nghệ và kỹ thuật giản đơn hơn cho các nước nhận đầu tư và thực hiện ở đó các công đoạn sản xuất làm bước đệm cho quá trình sản xuất ở nước mình.
3.2. ối với nước nhận đầu tư
Đối với nước tiếp nhận đầu tư, FDI có tác động rất lớn trong việc đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước. FDI giúp các nước nhận đầu tư tăng cường khai thác vốn từ bên ngoài, có điều kiện tiếp thu kỹ thuật và công nghệ tiên tiến, kinh nghiệm quản lý kinh doanh của các nhà đầu tư nước ngoài. Mặt khác FDI cũng tạo cơ hội cho nước sở tại khai thác tốt nhất những lợi thế của mình về tài nguyên thiên nhiên và vị trí địa lý. FDI góp phần đẩy lùi hai chướng ngại lớn trong quá trình phát triển kinh tế là: (i) tiết kiệm không đủ đáp ứng cho nhu cầu đầu tư và (ii) thu nhập của hoạt động xuất khẩu không đủ bù đắp cho chi phí hoạt động nhập khẩu. FDI làm tăng khả năng cạnh tranh, tăng khả năng xuất khẩu của nước sở tại, mặt khác lại góp phần làm tăng khoản thu ngoại tệ từ xuất khẩu cũng như hoạt động dịch vụ phục vụ FDI. Nhìn chung, FDI có tác dụng nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, mở rộng tích luỹ và góp phần đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế các nước nhận FDI.
4. Các nhân tố ảnh hưởng đến dòng vốn FDI
Tình hình chính trị ở nước chủ nhà là yếu tố đầu tiên được các nhà đầu tư xem xét trước khi đưa ra quyết định đầu tư. Các nhà đầu tư không muốn đầu tư vào những nước không ổn định về chính trị. Bởi vì, tình hình chính trị không ổn định sẽ khó bảo đảm được an toàn vốn và cam kết cho các chủ đầu tư nước ngoài. Mặt khác, nó còn thường kéo theo sự bất ổn định về tình hình kinh tế- xã hội, làm tăng tính rủi ro của môi trường đầu tư. Thực tế cho thấy, dòng vốn FDI vào Châu Phi rất nhỏ vì một nguyên nhân quan trọng là những nước này luôn xảy ra các cuộc nội chiến, tranh giành quền lực giữa các phe phái. Trong khi đó, FDI tăng mạnh vào những nước có tình hình chính trị khá ổn định là các nước phát triển và một số nước đang phát triển Châu á như Trung Quốc, Singapore, Malaysia,..
Tiếp theo là các chính sách của nước tiếp nhận đầu tư đối với FDI là yếu tố tác động trực tiếp tới dòng vốn FDI. Các chính sách này liên quan đến những quy định mở cửa thị trường đầu tư trong nước cho các nhà đầu tư nước ngoài, tỷ lệ sở hữu vốn đầu tư nước ngoài, các khuyến khích ưu đãi đầu tư vào các ngành kinh tế, quản lý các hoạt động đầu tư nước ngoài.. Những quy định này tạo nên mức độ hấp dẫn hoặc cản trở của môi trường đầu tư.
Bên cạnh đó, các chính sách khác như thương mại, tiền tệ, tài chính, cổ phần hoá, chuyển lợi nhuận của người nước ngoài về nước.. cũng có ảnh hưởng lớn đến chiến lược đầu tư của các nhà đầu tư và qua đó tác động đến dòng vốn đầu tư. Chẳng hạn, chính sách bảo hộ thị trường nội địa sẽ khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào những sản phẩm thay thế hàng nhập khẩu. Ngược lại, sẽ thúc đẩy nhà đầu tư hướng vào xuất khẩu. Nếu duy trì tỷ gía đồng nội tệ cao sẽ không khuyến khích được xuất khẩu. Bởi vậy, làm tăng khó khăn cho các nhà đầu tư sản xuất hàng xuất khẩu. Khuyến khích cổ phần hoá sẽ tạo điều kiện tốt cho các chủ đầu tư mua lại các công ty nội địa,.. Các chính sách này hỗ trợ, có tính bổ sung quan trọng cho các chính sách trực tiếp đối với FDI.
Vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên và dân số có ảnh hưởng đến quyết định đầu tư của các chủ đầu tư ở các mặt chi phí chuyên chở, khả năng cung cấp nguyên liệu. Nếu địa điểm sản xuất gần nơi tiêu thụ, cảng biển, địa hình không phức tạp,.. sẽ giảm được chi phí vận tải nhờ đó giảm giá thành sản phẩm. Khả năng cung cấp nguyên liệu dồi dào tạo nên sự hấp dẫn các nhà đầu tư đi theo hướng khai thác nguyên liệu. Quy mô dân số là yếu tố ảnh hưởng lớn đến mức độ hấp dẫn của môi trường đầu tư. Những nước có số dân đông thường có lợi thế về lực lượng lao động dồi dào, giá lao động rẻ, sức tiêu thụ lớn,.. Đây chính là những điểm hấp dẩn các nhà đầu tư nước ngoài và cũng là lợi thế quan trọng trong thu hút FDI của các nước đang phát triển.
Trình độ phát triển của nền kinh tế đóng vai trò cực kỳ quan trọng đối với việc tạo nên môi trường đầu tư hấp dẫn. Đặc điểm này liên quan đến hàng loạt các yếu tố về ổn định kinh tế vĩ mô (tiền tệ, tài chính,..), thu nhập của dân cư (sức mua của dân chúng), kết cấu thị trường (cơ cấu hàng công nghiệp, nông nghiệp,..), cơ sở hạ tầng (các dịch vụ), chất lượng lao động (đội ngũ lao động kỹ thuật), các thủ tục quản lý hành chính,..
Cùng với các yếu tố trên, đặc điểm văn hoá- xã hội (giáo dục, tập quán, tôn giáo, sắc tộc,..), mức độ mở cửa của nền kinh tế (tự do hoá thương mại, đầu tư,..), sự hội nhập khu vực, các biện pháp tích cực thúc đẩy thu hút FDI (các khu chế xuất, khu công nghiệp, khu kỹ thuật cao,..) cũng là các yếu tố ảnh hưởng tới tính hấp dẫn của môi trường đầu tư và dòng vốn FDI.
Ngoài ra, dòng lưu chuyển vốn giữa các nước còn phụ thuộc quan trọng vào những thay đổi của môi trường đầu tư quốc tế. Những thay đổi này được đặc trưng bởi xu thế đối thoại và hợp tác ngày càng tăng giữa các nước, quá trình khu vực hoá, toàn cầu hoá diễn ra nhanh chóng, sự phát triển mạnh mẽ của khoa hoc- kỹ thuật. Các yếu tố này góp phần quan trọng thúc đẩy xu hướng tự do hoá đầu tư giữa các nước trong khu vực và quốc tế.
Những thay đổi trong chính sách phát triển và môi trường kinh doanh của các nước đầu tư cũng ảnh hưởng lớn đến dòng vốn đầu tư quốc tế. Bởi vì đây là các yếu tố ‘đẩy’ dòng vốn đầu tư ra nước ngoài. Các hiệp định đầu tư song phương hoặc đa phương là cơ sở quan trọng để khuyến khích chủ đầu tư chuyển vốn ra nước ngoài. Mặt khác, nếu việc thay đổi các chính sách tiền tệ (tỷ giá, quản lý ngoại hối), tài chính (lãi suất, thuế,..) làm giảm hấp dẫn của môi trường đầu tư trong nước, thì các nhà đầu tư phải tìm địa điểm đầu tư bên ngoài.
5. Xu hướng vận động của dòng FDI trên thế giới hiện nay
Theo “ Báo cáo đầu tư thế giới năm 2002 “ của Hội nghị về Thương mại và Phát triển của Liên Hợp Quốc (UNCTAD), dòng vốn FDI trong những năm tới sẽ vẫn tiếp tục suy giảm ở một số nước phát triển cũng như đang phát triển do sự đình trệ của hoạt động kinh tế cũng như sự suy thoái của thị trường chứng khoán một số quốc gia công nghiệp mà cụ thể đã phần nào tác động gián tiếp đến luồng vốn quốc tế mới, luồng vốn FDI vào các nước dưới hình thức sát nhập và chuyển nhượng xuyên quốc gia của các công ty. Tuy nhiên về mặt dài hạn, toàn cảnh bức tranh đầu tư thế giới có thể sẽ tươi sáng hơn do các công ty đa quốc gia, một nhân tố đóng vai trò quan trọng chi phối hoạt động thương mại và đầu tư trong nền kinh tế hiện đại, đang ngày càng chú trọng hơn nữa đến việc mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh sang nhiều quốc gia khác nhau nhằm phân tán rủi ro tong kinh doanh.
Một lí do khác để hy vọng vào dòng vốn FDI toàn cầu dần phục hồi và tăng trưởng trong những năm tới là bên cạnh tình hình suy giảm FDI chung của thế giới, FDI vào một số nước và một số khu vực vẫn ở mức cao. Chẳng hạn, trong khi FDI toàn cầu giảm trên 40% trong năm 2001 thì tại 14 trong tổng số 19 quốc gia Đông Âu FDI lại tăng 2% năm 2001, nâng thị phần vốn FDI của Đông Âu trong tổng FDI thế giới lên 3,7%; Trung Quốc trong năm qua thu hút được 47 tỷ USD và con số này sẽ còn tiếp tục tăng trong năm 2002 khi mà tốc độ tăng FDI của Trung Quốc tính đến thời điểm hiện nay đã tăng 19% so với cùng kỳ năm ngoái; tại các quốc gia ASEAN ngoài Indonesia, các quốc gia thành viên khác đều có những dấu hiệu cho thấy FDI đang dần phục hồi sau cuộc khủng hoảng năm 1997. FDI vào Malaysia vẫn ở mức ổn định còn Philippines, Singapore, Thái Lan và Việt Nam lượng FDI có tăng lên đạt mức 1,8 tỷ USD; 9 tỷ USD; 3,8 tỷ USD và 1,3 tỷ USD tương ứng lần lượt.
Một đặc điểm nữa còn phải nhắc đến trong xu hướng FDI toàn cầu là dòng vốn FDI thế giới hiện nay có thiên hướng đi theo khu vực, nghĩa là FDI chủ yếu dồn vào một nhóm các quốc gia có đặc điểm tương đồng về mặt địa lý, kinh tế cùng nhau hợp tác tạo lập nên một khu vực đầu tư chung có môi trường đầu tư thông thoáng, hấp dẫn các nhà đầu tư bên ngoài, đem lại lợi ích cũng như thuận lợi cho cả hai phía, các nhà đầu tư và các nước tiếp nhận đầu tư. Và đây cũng chính là mô hình lý tưởng được nhiều quốc gia phát triển và đang phát triển áp dụng để tăng cường thu hút và mở rộng hoạt động FDI trong nhưng năm tới.
II. Tình hình hoạt động FDI tại các nước ASEAN
Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào khu vực ASEAN là sự kết hợp của hai nguồn vốn từ bên ngoài khối và trong nội bộ khối. Nếu nói nguồn vốn từ các quốc gia bên ngoài ASEAN là luồng vốn cơ bản đẩy mạnh hoạt động đầu tư trong khu vực thì nguồn FDI đầu tư lẫn nhau giữa các quốc gia thành viên chính là động lực thúc đẩy và tăng thêm tính hấp dẫn đối với luồng vốn từ nước ngoài.
1. Tầm quan trọng của nguồn vốn FDI đối với các quốc gia ASEAN
Đầu tư trực tiếp nước ngoài đã đang và sẽ đóng một vai trò có ý nghĩa trong phát triển kinh tế và công nghiệp tại mỗi quốc gia thành viên của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam á- ASEAN. Mặc dù để diễn tả chính xác mối quan hệ nhân quả giữa FDI với quá trình phát triển kinh tế và công nghiệp là công việc không hề đơn giản nhưng chúng ta có thể tự hào mà nói rằng chính FDI chứ không phải nhân tố nào khác đã giúp các nước ASEAN khẳng định vị trí của mình trên bản đồ thế giới, làm khác biệt hoá các nhà sản xuất và sản phẩm của khu vực giữa vô vàn các nhà sản xuất và các sản phẩm chế biến xuất khẩu khác trên thế giới, như các sản phẩm bán dẫn, đồ gia dụng, các sản phẩm điện-điện tử;..
Trong số rất nhiều dòng vốn chảy vào khu vực ASEAN, FDI chiếm một tỷ trọng tương đối lớn và điều này phần nào phản ánh được tầm quan trọng của nguồn vốn FDI đối với các quốc gia Đông Nam á, với tư cách là động lực cho quá trình phát triển kinh tế và công nghiệp. Trong giai đoạn 1990-1997, FDI chiếm gần 40% tổng số vốn đầu tư vào các nước ASEAN và riêng ở Malaysia, Myanmar và Việt Nam con số này là trên 50%.
Nếu đem so sánh với mức trung bình của thế giới và của các nước đang phát triển thì lượng FDI vào ASEAN là liên tục tăng trong cơ cấu tổng vốn đầu tư trong nước và trong cơ cấu tổng sản phẩm quốc nội (GDP). Ví dụ, tỷ lệ dòng FDI vào bình quân trong cơ cấu GDP và tỷ lệ FDI ròng trong cơ cấu tổng vốn đầu tư ở các nước đang phát triển năm 1997 là 16,6% và 10,3% trong khi đó con số này ở khu vực ASEAN lần lượt là 33,4% và 11,9%. Lượng vốn FDI với tư cách là một phần của GDP đang có xu hướng ngày càng tăng cho thấy mức độ đóng góp không nhỏ của FDI tới sự phát triển kinh tế trong khu vực Đông Nam á, đặc biệt là các nước Singapore, Malaysia và gần đây là Việt Nam và Campuchia.
Trong bối cảnh nguồn vốn Hỗ trợ Phát triển Chính thức (ODA) tiếp tục suy giảm và việc vay vốn từ thị trường cho vay nợ quốc tế cũng như từ các ngân hàng ngày càng khó khăn như hiện nay thì FDI vẫn sẽ tiếp tục là một nguồn tài chính có ý nghĩa to lớn đối với sự phát triển của các quốc gia Đông Nam á. FDI sẽ đóng vai trò nhân tố chủ chốt trong việc hỗ trợ quá trình phục hồi kinh tế và quá trình phát triển công nghiệp trong khu vực theo hướng phát triển bền vững. Do đó, vấn đề cấp thiết hiện nay đối với các nước ASEAN là phải tìm ra giải pháp thu hút và duy trì nguồn FDI để thực hiện hai mục tiêu trên.
FDI không chỉ mang lại dòng vốn đầu tư làm cân bằng cán cân thanh toán hiện thời mà còn mang lại nhiều lợi ích kinh tế khác như: tạo việc làm cho người lao động, mở rộng thị trường xuất khẩu, lợi ích về công nghệ và kỹ thuật quản lý hiện đại. Tuy vậy, cũng phải nói thêm rằng FDI không phải không có những tác động tiêu cực như công nghệ chuyển giao lạc hậu, không phù hợp và nguy cơ thâm hụt cán cân thanh toán trong dài hạn
2. Tình hình hoạt động FDI tại các nước ASEAN
2.1. Tình hình hoạt động của luồng vốn FDI từ bên ngoài khối ASEAN
2.1.1 Các nước chủ đầu tư chính
Trong những năm qua, Nhật Bản, Mỹ, EU và các nước công nghiệp mới Châu á (ANIEs) luôn là những nước, những khu vực đứng đầu trong danh sách các chủ đầu tư chính vào ASEAN. Theo số liệu thống kê tổng hợp của Ngân hàng và Phòng thống kê Trung ương ASEAN, dòng vốn FDI vào các nước ASEAN liên tục tăng trong các năm 1993-1997, sau đó giảm dần qua các năm 1998 và 1999 (giảm 22% từ mức cao nhất trong năm 1997 là 21,5 tỷ USD) và có xu hướng tăng chậm trong các năm 2001 và 2002.
Nhật Bản luôn là quốc gia dẫn đầu trong số các nước đầu tư vào khu vực ASEAN, chiếm 20% tổng số FDI vào khu vực thời kỳ 1995-2000, tiếp đến là nhóm các nước EU (27%), Bắc Mỹ (13%), và các nước ANIEs (12%).
a/ Nhật Bản
Trong giai đoạn 1995-2000, Nhật đã đầu tư 15,8tỷ USD vào ASEAN, chủ yếu là vào các nước Indonesia, Thái Lan, Singapore và Malaysia (chiếm 85%) còn Việt Nam và Philippines là 8% mỗi nước. Đầu tư của Nhật vào các quốc gia thành viên mới (Lào, Campuchia, Myanmar) nhìn chung là còn nhỏ ,tuy vậy con số này đang ngày càng tăng qua các năm. Đầu tư của Nhật sau cuộc khủng hoảng tài chính-tiền tệ 1997, theo đánh giá của các thành viên ASEAN, là giảm (từ 9613 tỷ yên năm 1997 xuống còn 5159 tỷ yên năm 1998 và 4404 tỷ yên năm 1999).
Nhật chủ yếu đầu tư vào các ngành dệt, điện- điện tử, thương mại và bất động sản trong số đó đáng chú ý phải nhắc đến lĩnh vực sản xuất các sản phẩm điện- điện tử với số các dự án luôn ở mức trung bình trên 50 dự án mỗi năm và trị giá các dự án luôn ở mức cao (năm 1997 là 1404 tỷ yên) (Bảng II.2).
b/ Mỹ
Trong giai đoạn 1995-2000, Mỹ đầu tư trên 9,6 tỷ USD vào ASEAN, chủ yếu là vào Singapore (28%), Malaysia (27%), Thái Lan (27%), Philippines (8%).
Bất chấp những tác động của cuộc khủng hoảng năm 1997, dòng vốn đầu tư của Mỹ vào các nước ASEAN vẫn không giảm (năm 1997 là 38,836 tỷ USD, năm 1998 là 41,399 tỷ USD). Năm 1999, Mỹ đầu tư trên 19 tỷ USD vào các nước ASEAN (chiếm gần 60% FDI của Mỹ vào ASEAN năm 1997). Điều này cho phép các nước Đông Nam á hy vọng vào lượng FDI lớn hơn từ phía Mỹ trong những năm tới.
c/ EU
Trong thời kỳ 1995-2000, EU đầu tư khoảng 20,5 tỷ USD vào ASEAN, trong đó nước tiếp nhận đầu tư của EU nhiều nhất là Indonesia (31%), tiếp đến là Singapore, Malaysia và Thái Lan với số vốn đầu tư lần lượt là 26%; 13%; 12%.
Phần lớn FDI của EU vào Indonesia là đầu tư của hai nước Anh và Hà Lan. Anh chủ yếu đầu tư vào lĩnh vực khai thác và chế biến dầu mỏ của Indonesia. Trong số 4,7tỷ USD của Anh đầu tư vào ASEAN, đã có tới 27% số vốn là dành cho Indonesia còn lại là các nước Singapore (24%), Malaysia (20%).
Đức đầu tư khoảng 3,1 tỷ USD vào ASEAN và tập trung vào một số nước như Malaysia (36%), Indonesia (30%), Singapore (16%), Thái Lan (12%) và Philippines (6%).
Do mối quan hệ đã có trước đây trong lịch sử mà đầu tư 5,4 tỷ USD của Hà Lan vào khu vực phần lớn là vào Indonesia (46%) và Singapore (25%).
Thái Lan và Indonesia là hai nước tiếp nhận đầu tư lớn nhất của Pháp tại khu vực ASEAN, hai nước này chiếm tới gần 2/3 số vốn đầu tư 191 triệu của Pháp tại khu vực.
d/ Các nước Công nghiệp mới Châu á (ANIEs)
Trong giai đoạn 1995-2000, các nước ASEAN đã tiếp nhận khoảng 9,44 tỷ USD đầu tư từ các nước ANIEs, chiếm gần 12% tổng số FDI vào khu vực thời kỳ này. Hàn Quốc, HongKong và Đài Loan đã đầu tư lần lượt 2,2 tỷ USD; 4,2 tỷ USD; và 2,9 tỷ USD vào khu vực.
Việt Nam là nước nhận đầu tư của Hàn Quốc nhiều nhất, với khoảng 41% lượng FDI của Hàn Quốc vào khu vực, tiếp theo là các nước Indonesia, Lào Campuchia. Nhưng do tác động của cuộc khủng hoảng ở Hàn Quốc, lượng FDI từ quốc gia này vào ASEAN đã giảm mạnh (từ 811 triệu năm 1997 xuống còn 407 triệu năm 1998. Lượng FDI của Hàn Quốc vào ASEAN vẫn còn thấp trong các năm 1999, 2000 và ngay cả khi quá trình cải tổ khu vực kinh tế tư nhân đang được các tập đoàn khổng lồ của Hàn Quốc tiến hành kể từ sau cuộc khủng hoảng thì triển vọng về luồng vốn FDI từ phía Hàn Quốc cũng không mấy sáng sủa.
Đầu tư của Hong._.u hút và phát triển đầu tư nhằm tạo nên một thị trường đầu tư năng động và hấp dẫn vào bậc nhất thế giới trong con mắt các nhà đầu tư trong và ngoài khu vực.
iii. một số gợi ý cho việt nam
AIA thực sự là một “ sân chơi” tạo ra rất nhiều cơ hội cho các nước ASEAN , và Việt Nam với tư cách là một thành viên thuộc nhóm các nước thành viên mới của Hiệp hội, vậy làm thế nào để Việt Nam tham gia có hiệu quả, phần dưới đây em xin trình bày một số gợi ý để Việt Nam tham gia có hiệu quả và khai thác những lợi ích to lớn của AIA.
1. Lợi thế và hạn chế của Việt Nam so với các nước ASEAN
Tham gia vào AIA, Việt Nam có được 2 lợi thế cơ bản so với các nước ASEAN khác, đó là lợi thế về tình hình chính trị ổn định lợi thế của người đi sau. Tuy nhiên, Việt Nam cũng không tránh khỏi những hạn chế như: hệ thống pháp luật liên quan đến FDI còn nhiều bất cập; thủ tục hành chính còn rắc rối; chất lượng lao động chưa thức sự cao và cơ sở hạ tầng còn tương đối lạc hậu so với khu vực.
1.1. Lợi thế của Việt Nam
Sự ổn định về chính trị, kinh tế và xã hội
Có thể nói, sự ổn định về chính trị, kinh tế và xã hội là những yếu tố của môi trường vĩ mô được các nhà đầu tư quan tâm hàng đầu khi quyết định đầu tư vào một nước. Sự ổn định về chính trị và xã hội sẽ tạo điều kiện cho các hoạt động kinh tế phát triển và ngược lại, sự phát triển kinh tế cũng làm cho bộ mặt xã hội thay đổi theo chiều hướng tốt đẹp hơn. Đối với hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài, điều này càng thể hiện rõ nét. Các nhà đầu tư nước ngoài sẽ không mạo hiểm đầu tư vào một nước có sự bất ổn về chính trị và xã hội vì khi đó mức độ rủi ro đầu tư sẽ rất cao.
Sau hơn 10 năm đổi mới, Việt Nam ta đã có những bước tiến đáng kể về các mặt kinh tế, chính trị, xã hội. Ngoài sự ổn định về mặt chính trị, xã hội, sự ổn định và phát triển kinh tế cũng là một kết quả không thể phủ nhận được. Liên tục trong những năm qua, tăng trưởng kinh tế của Việt Nam luôn đạt mức cao, lạm phát nằm trong tầm kiểm soát cùng với một số chính sách ưu đãi đầu tư hợp lý đã làm các nhà đầu tư nước ngoài có lòng tin và giúp họ yên tâm hơn khi quyết định đầu tư vào Việt Nam.
Sự ổn định về chính trị kinh tế, xã hội và kinh tế của Việt Nam- một nước thành viên ASEAN đã góp phần vào sự ổn định chung của toàn khối. Đây chính là “điều kiện cần” để giúp Việt Nam nói riêng và ASEAN nói chung trong việc thực hiện một mục tiêu quan trọng của AIA là thúc đẩy ASEAN thành một khu vực đầu tư hấp dẫn nhằm thu hút FDI từ cả các nguồn trong và ngoài ASEAN nhất là trong bối cảnh mà những ưu tiên ổn định được đặt lên hàng đầu như hiện nay.
Lợi thế của người đi sau
Ngoài những lợi thế chung như các nước ASEAN khác như tài nguyên con người, tài nguyên thiên nhiên, hệ thống chính sách ưu đãi… Việt Nam còn có thêm một lợi thế, đó là lợi thế của người đi sau.Nghĩa là, như đã trình bày trong chương trước, trong ASEAN có hai nhóm nước khác nhau về trình độ phát triển. Nhóm I bao gồm các nước Singapore, Thái Lan, Indonesia, Malaysia là những nước đã bước sang giai đoạn thứ hai của quá trình Công nghiệp hoá nên đã có trình độ phát triển tương đối cao. Nhóm II là những nước đang ở giai đoạn đầu của quá trình Công nghiệp hoá- Hiện đại hoá mà Việt Nam là một đại diện tiêu biểu. Tuy là nước phát triển chậm hơn so với các nước ở nhóm I, nhưng giữa các nước này và Việt Nam vẫn có thể diễn ra một quá trình bổ sung cơ cấu, trong đó các nước phát triển hơn sẽ chuyển những ngành có công nghệ không cao và sử dụng nhiều lao động sang nước ta thông qua hình thức FDI để tiến nhanh vào các ngành hiện đại. Còn những nước kém phát triển hơn như nước ta không những tranh thủ được nguồn lao động dồi dào, nguồn công nghệ thích hợp mà còn tiếp thu được những kinh nghiệm quý báu của những nước đi trước để tránh những sai lầm có thể mắc phải, đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá, rút ngắn khoảng cách chênh lệch với các nước đó. Trước bối cảnh trên thì Hiệp định AIA sẽ là một tác nhân quan trọng giúp Việt Nam khai thác triệt để lợi thế của mình trong việc thực hiện nguyên tắc dành chế độ dối xử quốc gia và mở cửa thu hút FDI vào các ngành có công nghệ không cao và sử dụng nhiều lao động để tận dụng “ lợi thế của người đi sau” trong vòng chuyển dịch cơ cấu của các nước ASEAN.
1.2. Hạn chế của Việt Nam
Tuy Việt Nam có nhiều điểm mạnh và lợi thế không thể phủ nhận trong việc thu hút FDI và tham gia vào khu vực đầu tư ASEAN, nhưng những mặt hạn chế của môi trường đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam không những làm giảm khả năng cạnh tranh của Việt Nam với các nước tron khu vực và thế giới trong việc thu hút FDI mà còn làm giảm hiệu quả tham gia vào khu vực đầu tư ASEAN của Vịêt Nam. Những hạn chế lớn nhất của môi trường đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam bao gồm:
1.2.1. Hệ thống pháp luật liên quan đến hoạt động FDI còn nhiều bất cập và chưa hoàn chỉnh
Luật đầu tư nước ngoài của Việt Nam được đánh giá là một trong những Bộ luật “ thông thoáng” và “ hấp dẫn” các nhà đầu tư nước ngoài. nhưng còn nhiều quy định trong Bộ luật chưa thực sự phù hợp với thông lệ quốc tế, với những điều kiện của một nền kinh tế thị trường và “ mở” ra bên ngoài, cụ thể là những vấn đề sau:
Về điều kiện chuyển nhượng vốn cho các bên: Theo quy định của pháp luật hiện hành, hình thức pháp luật của công ty liên doanh là một công ty trách nhiệm hữu hạn, chứ không phải là công ty cổ phần. Do đó, việc thiếu tự do trong chuyển nhượng vốn góp trong các công ty liên doanh có thể gây ảnh hưởng xấu tới tâm ly của các nhà đầu tư và kìm hãm đầu tư. Việc cần phải có sự cho phép của cơ quan cấp giấy phép đầu tư để bán toàn bộ hay một phần vốn góp của mình đã hạn chế khả năng vay vốn và như vậy, cũng đã làm giảm khả năng đầu tư.
Vấn đề chuyển lỗ của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài: Theo quy định của Luật đầu tư nước ngoài, chỉ có các doanh nghiệp liên doanh mới được chuyển lỗ của bất kỳ năm tính thuế sang năm có lãi tiếp theo, thời gian chuyển lỗ không quá 5 năm. Nhưng cũng theo Luật này, thì doanh nghiệp liên doanh và doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài đều là pháp nhân Việt Nam, việc quy định chuyển lỗ như trên đã gây nên sự phân biệt đối xử giữa các nhà đầu tư nước ngoài.
Về nguyên tắc nhất trí trong Hội đồng quản trị của doanh nghiệp liên doanh: Điều 14 của Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam quy định: Hội đồng quản trị cần phải có sự nhất trí của toàn thể thành viên Hội đồng mới có thể thông qua những vấn đề liên quan đến ngân sách, vay nợ, thay đổi điều lệ, duyệt quyết toán tài chính hàng năm, quyết toán công trình và quyết định bổ nhiệm lãnh đạo.
Về nguyên tắc chuyển đổi ngoại tệ: Theo quy định hiện hành, các công ty có vốn đầu tư nước ngoài chỉ có thể đổi VND ra ngoại tệ khi được phép của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Không phải bất kỳ trường hợp nào Ngân hàng Nhà nước cũng cho phép chuyển đổi ngoại tệ mà chỉ những dự án sản xuất thay thế nhập khẩu, xây dựng cơ sở hạ tầng mới được chuyển đổi ngoại tệ. Tình trạng này đã gây ra khó khăn vì doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài cần phải có khả năng đảm bảo cho việc cung ứng cho xí nghiệp từ nước ngoài và chuyển lợi nhuận về nước cho các nhà đầu tư nước ngoài.
1.2.2. Thủ tục hành chính còn rắc rối
Có nhà đầu tư đã ví von rằng, chính sách của Việt Nam “ trên mở, dưới thắt”, nghĩa là quan điểm, chủ trương của Chính phủ thì rất thông thoáng, nhưng khi đi vào thực tiễn công việc, nhất là đối với thủ tục cấp giấy phép đầu tư, thì ở ngành này, địa phương nọ lại gặp nhiều khó khăn và rất mất thời gian. Việc chậm trễ trên đã làm quá trình triển khai dự án bị chậm lại vì các dự án này chỉ có thể triển khai sau khi có Giấy phép đầu tư. Thậm chí có trường hợp sau khi “ chạy” được Giấy phép đầu tư và các thủ tục khác thì chủ đầu tư không còn ý chí để triển khai dự án nữa. Kết quả là mặc dù đã được cấp giấy phép nhưng chủ đầu tư có thể không muốn thực hiện dự án nữa hoặc là thời điểm, thời cơ đầu tư đã qua.
1.2.3. Yếu kém về cung ứng lao động cho các doanh nghiệp FDI
Mặc dù Việt Nam có một lực lượng lao động dồi dào và có thể cung ứng 1,5 triệu lao động mỗi năm cho các doanh nghiệp FDI và cho các doanh nghiệp khác, nhưng đến nay, lực lượng lao động của ta vẫn bộc lộ khá nhiều yếu kém so với các nước ASEAN, cụ thể là:
Thứ nhất, rất hiếm lực lượng công nhân lành nghề do cơ cấu đào tạo của ta chưa hợp lý. Hiện nay, ở Việt Nam, cứ 1 sinh viên đại học tốt nghiệp ra trường thì chỉ có 0,4 học sinh tốt nghiệp trung học chuyên nghiệp và 3 công nhân đã qua trường dạy nghề, trong khi đó, tỷ lệ hợp lý phải là 1:4:10. Do đó, việc tuyển một công nhân có tay nghề cao ngay tại địa bàn Hà nội khó khăn hơn nhiều so với việc tuyển một sinh viên tốt nghiệp đại học. Đã có những doanh nghiệp FDI thuộc ngành cơ khí không tuyển nổi một công nhân kỹ thuật dưới 30 tuổi có tay nghề bậc 5.
Thứ hai, hệ thống các trường đại học của ta chưa đảm bảo chất lượng về đào tạo ngoại ngữ, đặc biệt là chuyên ngành tài chính- kế toán. Vì thế, lại có một nghịch lý nữa là các doanh nghiệp FDI buộc phải tuyển sinh viên tốt nghiệp khối đại học ngoại ngữ rồi sau đó cho đi đào tạo chuyên ngành kinh tế, tài chính- kế toán.
Thứ ba, hầu hết lao động trực tiếp của các doanh nghiệp FDI đều được tuyển từ các vùng nông thôn, chưa qua đài tạo. Chính vì vậy, chi phí cho dạy nghề rất tốn kém. Các nhà quản lý nước ngoài đều có đánh giá chung là lao động Việt Nam tuy chịu khó và cần cù nhưng vì kinh nghiệm nghề nghiệp ít, không có tác phong công nghiệp cho nên năng suất lao động thấp.
1.2.4. Cơ sở hạ tầng còn lạc hậu so vói các nước trong khu vực
Cơ sở hạ tầng (hệ thống giao thông , thông tin liên lạc, nhà cửa, điện nước...) của Việt Nam còn yếu kém, giá dịch vụ lại quá cao so với nhiều nước trong khu vực đã gây nhiều khó khăn cho Việt Nam trong việc cạnh tranh với các nước để thu hút FDI cả trong và ngoài khu vực. Thật vậy, hầu hết các trục đường giao thông chính, các phố lớn, sân bay, bến cảng...của Việt Nam đều được xây dựng từ thời Pháp thuộc nên đã xuống cấp đòi hỏi phải được cải tạo, nâng cấp đồng bộ. Nhưng trong điều kiện hiện nay thì việc cải tạo, nâng cấp đồng bộ hệ thống này là chưa thể thực hiện được trong một thời gian ngắn. Ngoài ra, hệ thống cung cấp điện, nước của Việt Nam cũng đã xuống cấp nghiêm trọng gây nhiều thất thoát, chất lượng dịch vụ cũng vì thế không đảm bảo cho hoạt động sản xuất kinh doanh của người tiêu dùng. Vì thế, mặc dù giá các dịch vụ điện, nước của Vịêt Nam thuộc loại cao trong khu vực nhưng cũng không đủ bù đắp chi phí cho những ngành này. Cuối cùng, giá thuê đất của Việt Nam tuy đã được điều chỉnh giảm hơn nhiều so với trước nhưng vẫn thuộc loại cao và bị nhiều nhà đầu tư nước ngoài phàn nàn.
Nhiều nước đang phát triển như chúng ta đã từng có những hạn chế tương tự về môi trường đầu tư, nhưng họ đã có nhiều nỗ lực tháo gỡ và đã đật rất nhiều thành công trong việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Do đó, nếu chúng ta không tự mình phát huy nội lực, chuẩn bị tốt những tiền đề cho môi trường đầu tư thì dù có các hiệp định đầu tư khu vực hay quốc tế đi nữa, các nhà đầu tư cũng sẽ không mặn mà gì với thị trường Việt Nam.
2. Một số giải pháp để Việt Nam tham gia có hiệu quả vào AIA
Như đã phân tích, AIA mang lại cơ hội đầu tư rất lớn cho các nước ASEAN, và Việt Nam với tư cách là một nước thành viên thuộc nhóm các nước thành viên kém phát triển hơn, do đó, vấn đề đặt ra cho Việt Nam là phải tìm ra những biện pháp nhằm khắc phục các hạn chế về mặt pháp luật điều chỉnh FDI, về chất lượng lao động, về chất lượng cơ sở hạ tầng...để khai thác triệt để và có hiệu quả hơn những cơ hội đầu tư do AIA mang lại. Sau đây là một số giải pháp cơ bản cho tình trạng trên:
2.1. Chuẩn hoá khung pháp lý điều chỉnh hoạt động FDI
Trước hết đối với hệ thống luật pháp đối với đầu tư nước ngoài, chúng ta nên có những biện pháp để chuẩn hoá khung pháp lý điều chỉnh hoạt động FDI, trong đó cần đặc biệt chú ý những điểm sau:
Cho phép các nhà đầu tư thành lập các doanh nghiệp đa mục đích hoặc đa dự án để tránh gây khó khăn cho các nhà đầu tư nước ngoài khi họ buộc phải thành lập một thực thể pháp lý đối với mỗi dự án, vì vậy chi phí xin cấp giấy phép đầu tư và chi phí thành lập tăng lên rất nhiều cũng như làm chậm trễ các dự án đầu tư và gây khó khăn trong việc kết chuyển các khoản lỗ và lãi phát sinh từ các hoạt động khác nhau của các công ty.
Tạo điều kiện thuận lợi hơn cho việc chuyển nhượng vốn của một bên tham gia liên doanh khi có sự đồng ý của tất cả các bên tham gia liên doanh. Chúng ta có thể cho phép thực hiện việc chuyển nhượng vốn giữa các đối tác nước ngoài mà không cần phải có giấy phép của Bộ Kế hoạch và Đầu tư và sau một thời gian nhất định nếu không có ý kiến phản đối gì của Cơ quan này thì coi như việc chuyển nhượng đã được chấp thuận; hoặc quy định việc chuyển nhượng vốn giữa các đối tác nước ngoài cho các nhà đầu tư nước ngoài khác chỉ cần đăng ký với Bộ Kế hoạch và Đầu tư nếu các đối tác nước ngoài đó nắm giữ một số phần trăm nhất định trong vốn của công ty liên doanh.
Nới lỏng những quy định về nguyên tắc nhất trí trong các công ty liên doanh thông qua việc: (i) Thay thế nguyên tắc nhất trí bằng nguyên tắc đa số tuyệt đối (2/3), nghĩa là đối với một số vấn đề của công ty như ngân sách, kế hoạch sản xuất, vay mượn, thay đổi Điều lệ công ty... có thể không cần toàn thể số thành viên Hội đồng quản trị nhất trí mà chỉ cần đa số thành viên thông qua; (ii) Giảm bớt các trường hợp bắt buộc phải có sự biểu quyết nhất trí vì trong nhiều trường hợp như việc bổ nhiệm các giám đốc điều hành là không cần thiết do theo Luật đầu tư nước ngoài hiện nay thì Tổng giám đốc và Phó tổng giám đốc thứ nhất phải là người có quốc tịch Việt Nam.
Về mặt thủ tục cấp giấy phép đầu tư, chúng ta nên đơn giản hoá thủ tục xin cấp giấy phép đầu tư theo hình thức liên doanh thông qua việc từng bước loại bỏ những giấy tờ mang tính trùng lặp tương đối với nhau trong bộ Hồ sơ xin cấp giấy phép đầu tư (chẳng hạn, Hợp đồng liên doanh và Điều lệ doanh nghiệp có rất nhiều nội dung giống nhau như tên và địa chỉ các bên liên doanh, mục tiêu và phạm vi kinh doanh, các loại vốn, tỷ lệ, phương thức và tiến độ góp vốn).
Về vấn đề quản lý ngoại hối, ta nên cấp giấy phép mua ngoại tệ cho các công ty nước ngoài khi các công ty này thường xuyên dùng ngoại tệ vào việc mua nguyên vật liệu hoặc chuyển ngoại tệ cho các nhà đầu tư nhằm tránh tình trạng gây khó khăn cho các nhà đầu tư nước ngoài do quy định chỉ cấp giấy phép đổi VND ra ngoại tệ trong trường hợp doanh nghiệp sản xuất sản phẩm thay thế nhập khẩu hoặc xây dựng cơ sở hạ tầng.
Về vấn đề giá cho thuê đất, chúng ta nên xây dựng cơ chế cho thuê đất thu tiền một lần cũng như xem xét và đánh giá lại khung giá tiền thuê đất áp dụng đối với từng địa phương và từng ngành nghề khuyến khích đầu tư nhằm đảm bảo không cao hơn các nước trong khu vực.
Về vấn đề huy động vốn, ngoài việc tích cực khuyến khích sự phát triển của thị trường chứng khoán hiện nay để giúp các công ty liên doanh có thể huy động vốn thông qua việc bán cổ phần của mình trên thị trường chứng khoán. Mặt khác, Ngân hàng Nhà nước nên xem xét để bảo lãnh cho những khoản vay minh bạch của các công ty liên doanh trong trường hợp các công ty này có nhu cầu đi vay.
Củng cố và hoàn thiện hệ thống Tài chính- Ngân hàng thông qua việc từng bước cơ cấu lại hệ thống ngân hàng theo hướng buộc các ngân hàng phải minh bạch mọi khoản vay khó đòi; kiên quyết loại bỏ các tổ chức tài chính mất khả năng thanh toán để tránh các tác động dây chuyền ảnh hưởng đến tâm lý nhà đầu tư; hoàn thiện các quy định về phòng ngừa rủi ro và thanh tra trong hệ thống Tài chính- Ngân hàng; hoàn thiện các quy định về vay nợ nước ngoài theo hướng vừa bảo đảm uy tín tín dụng của Việt Nam trên các thị trường tài chính quốc tế vừa quy định rõ ràng trách nhiệm trả nợ của các ngân hàng và các doanh nghiệp vay nợ.
Hài hoà và thống nhất hệ thống pháp luật điều chỉnh đầu tư nước ngoài và đầu tư trong nước nhằm xoá bỏ tâm lý nghi ngại của nhà đầu tư khi bỏ vốn ra đầu tư ở Việt Nam. Đồng thời thiết lập các chuẩn mực đối xử đảm bảo các nhà đầu tư vào làm ăn ở Việt Nam có lợi ích kinh tế lâu dài và trên mức trung bình của khu vực.
2.2. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực Việt Nam
Như trên đã nói, nguồn cung cấp lao động dồi dào là lợi thế của Việt Nam nói riêng và của các nước đang phát triển nói chung trong việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Nó chính là một trong những nguyên nhân chủ yếu khiến các dòng đầu tư trong những năm gần đây liên tục chảy vào Việt Nam. Tuy nhiên, trong bối cảnh hoà nhập với nền kinh tế khu vực và quốc tế, không nói gì đến toàn thế giới, chỉ trong khu vực của chúng ta cũng đã có nhiều quốc gia khác như Lào, Philippines, Indonesia, Thái Lan... cũng có được những lợi thế này. Các nước này cũng như Việt Nam đang rất cần nguồn vốn đầu tư nước ngoài để thoát khỏi “vòng luẩn quẩn” của các nước đang phát triển nắm bắt lấy những cơ hội để vươn lên. Mặt khác, nguồn đầu tư nước ngoài lại không phải là vô hạn, cứ mở cửa ra là tự động chảy vào. Vì thế, để tăng cường thu hút FDI và tham gia có hiệu quả vào AIA, chúng ta cần nâng cao khả năng cạnh tranh của môi trường đầu tư Việt Nam hơn nữa không chỉ nhờ vào các quy định pháp lý ưu đãi đầu tư mà còn chính là tạo một thị trường cung cấp lao động dồi dào về số lượng và chuyên sâu về chất lượng.
Với lợi thế hơn 78 triệu dân trong đó trên 95% số người biết chữ, chúng ta cần đẩy mạnh ưu điểm này bằng các chương trình hành động cụ thể.
2.2.1. Đào tạo thêm nhiều cán bộ quản lý dự án bằng nhiều con đường khác nhau như:
Mở rộng quy mô đào tạo cán bộ quản lý dự án tại các trường đại học thuộc khối các trường kinh tế song song với việc đưa các mô hình dự án đầu tư vào học tập và giảng dạy tại trường nhằm nâng cao kiến thức thực tế cho sinh viên. Mặt khác, cần nâng cao và bồi dưỡng trình độ ngoại ngữ cho các cán bộ và sinh viên trong các trường đại học thuộc khối kinh tế.
Gửi các sinh viên chuyên ngành thực tập dài hạn trong các dự án cụ thể trong quá trình học tập và trước khi tốt nghiệp.
Trang bị kiến thức cho các cán bộ quản lý dự án hiện thời băng việc đào tạo lại tại các trường đại học trong nước cũng như nước ngoài.
Khuyến khích tranh thủ học tập kinh nghiệm quản lý dự án của các cán bộ Việt Nam đang làm việc tại các dự án đầu tư nước ngoài hiện thời.
Cần yêu cầu phía đối tác đầu tư nước ngoài phải có chương trình đào tạo cho cán bộ quản lý Việt Nam trong các dự án liên doanh liên kết.
2.2.2. Ra sức đào tạo công nhân, thợ lành nghề tạo một nguồn cung lao động có chiều sâu:
Tổ chức tốt hệ thống các trường dạy nghề phân bố đều khắp các vùng trên toàn quốc góp phần nâng cao số lượng cũng như chất lượng công nhân kỹ thuật cũng như thợ lành nghề làm việc trong các dự án FDI, cân bằng lại tỷ lệ bất hợp lý trong cơ cấu đào tạo của Việt Nam. Điều này đồng thời giúp chúng ta có được hai mục tiêu chủ yếu là cải thiện môi trường đầu tư và khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài dần dần vào đầu tư vào các ngành có hàm lượng khoa học kỹ thuật cao, tỷ suất sinh lời lớn.
Tổ chức thực hiện tốt luật lao động trong các dự án đầu tư nước ngoài, vừa đảm bảo nguồn thu nhập cho công nhân Việt Nam, vừa tạo được một thị trường cung ứng lao động với giá rẻ, ổn định.
2.3. Xây dựng và phát triển cơ sở hạ tầng
Như đã trình bày ở phần trên, hệ thống cơ sở hạ tầng kỹ thuật thấp kém của chúng ta là một khó khăn cản trở lớn cho việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài cũng như giữ các nhà đầu tư nước ngoài ở lại Việt Nam. Nếu như chúng ta không nỗ lực ngay từ bây giờ để tranh thủ mọi nguồn vốn có thể để tự xây dựng và phát triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật thì chúng ta sẽ mất đi nhiều cơ hội đáng tiếc.
Tuy nhiên việc xây dựng một cơ sở hạ tầng vật chất kỹ thuật hoàn thiện trên toàn quốc ngay trong vài năm tới là một điều không tưởng. Để thu hút các nhà đầu, chúng ta cần phải chú trọng phát triển từng phần, theo trọng điểm và theo cơ cấu tối ưu nhất.
Một trong những giải pháp khả rhi là chúng ta dựa vào chính nguồn vốn FDI liên doanh liên kết với những tập đoàn lớn trên thế giới để xây dựng những khu công nghiệp tập trung, khu chế xuất với điều kiện ưu đãi như giảm thuế, giảm giá đất...
Việc cải thiện các tuyến giao thông trọng yếu như đường 1, đường 5 là một trong những bước đi đúng đắn của chúng ta trong việc dự án hoá các công trình hạ tầng vật chất công cộng. Nếu như những tuyến đường quan trọng khác cũng được chúng ta lập dự án khả thi một cách thận trọng và kêu gọi đầu tư nước ngoài thì việc cải tạo, sửa chữa sẽ có thể được tiến hành trong nay mai.
Tuy nhiên ngay trước mắt, chúng ta cần xem xét đến mặt bằng giá cả cung ứng các dịch vụ hạ tầng cơ sở như giá điện, giá nước, giá cước viễn thông liên lạc trong tương quan với các nước khác trong khu vực và trên thế giới. Ví dụ như giá cước viễn thông quốc tế của của chúng ta luôn cao hơn từ 2 đến 2,5 lần so với các nước trong khu vực và cao hơn từ 4 đến 5 lần so với các nước phát triển trên thế giới. Hơn nữa đường truyền của chúng ta là đường truyền Analog tốc độ chỉ bằng một nửa đường truyền kỹ thuật số của các nước khác, vì vậy giá viễn thông tính trên đơn vị thông tin truyền đi của chúng ta cao hơn gấp 8 đến 10 lần so với thế giới. Các công ty nước ngoài có nhu cầu viễn thông rất lớn, nếu chúng ta không kịp thời hạ giá thành thì sẽ mất dần đi rất nhiều nhà đầu tư.
Một giải pháp cho vấn đề này là chúng ta nên tạo ra cạnh tranh có sự quản lý trong các ngành cung ứng này chứ không để tình trạng độc quyền như hiện nay. Chúng ta có thể dùng các công cụ thuế, pháp luật để quản lý các doanh nghiệp tham gia cạnh tranh trong lĩnh vực này để vừa đảm bảo được tính cân bằng của thị trường, đảm bảo được hạ giá thành sản phẩm, vừa có thể mở rộng quy mô đầu tư cho các ngành này vì trên lý thuyết, độc quyền sẽ không hướng sản lượng của ngành kinh tế đến sản lượng tối ưu mà hướng tới sản lượng nhỏ hơn sao cho lợi nhuận độc quyền cao nhất.
2.4. Bảo hộ có điều kiện các ngành sản xuất trong nước trong tiến trình tham gia AIA
Một trong những yêu cầu cơ bản của AIA đối với các nước thành viên là tiến hành mở cửa tất cả các ngành nghề và lĩnh vực và cho các nhà đầu tư ASEAN và cho các nhà đầu tư nước ngoài hưỏng chế độ đối xử quốc gia lần lượt vào năm 2010 và 2020. Tuy nhiên, trong điều kiện nước ta hiện nay nếu mở cửa tất cả các ngành sản xuất cho các nhà đầu tư sẽ dẫn đến nguy cơ đầu tư tràn lan và đi chệch định hướng phát triển đầu tư của Nhà nước ta. Chính vì vậy mà một giải pháp đã được chúng ta đưa ra và đã được thực hiện, đó là xây dựng Danh mục nhạy cảm (Danh mục này bao gồm các biện pháp hoặc lĩnh vực chưa thể dành đối xử quốc gia hoặc mở cửa ngay và chưa thể xác định trước thời hạn loại bỏ)và Danh mục loại trừ tạm thời (Danh mục này bao gồm các ngành tạm thời chưa phải mở cửa cho các nhà đầu tư nước ngoài cho đến năm 2013). Để tránh đi ngược lại mục tiêu tự do hoá đầu tư của AIA và tránh tình trạng bảo hộ tràn lan làm mất đi yếu tố thúc đẩy cạnh tranh và đầu tư, các danh mục này đã được xây dựng trên 2 nguyên tắc cơ bản:
Bảo hộ cho một số ngành, lĩnh vực hẹp mà chúng ta có khả năng tự lực phát triển thông qua việc từng bước đưa các ngành, các lĩnh vực này vào Danh mục loại từ tạm thời.
Việc bảo hộ phải được quy định cụ thể trong từng trường hợp, từng thời gian cụ thể, không bảo hộ vĩnh viễn cho bất kỳ ngành, lĩnh vực nào (trừ các lĩnh vực có liên quan đến quốc phòng và an ninh).
Nói tóm lại, chúng ta có thể tiến hành bảo hộ một số ngành sản xuất của chúng ta bằng việc đưa các ngành đó vào Danh mục loại trừ tạm thời hoặc Danh mục nhạy cảm để tránh phải dành đối xử quốc gia hoặc mở cửa cho các nhà đầu tư. Tuy nhiên, các ngành và lĩnh vực được đưa vào các danh mục này không có nghĩa là những ngành được bảo hộ vĩnh viễn mà chỉ là những ngành hiện nay chưa thể mở cửa ngay để cho phép cạnh tranh bình đẳng nhưng sẽ được xem xét để đưa vào danh mục các ngành cho phép dành đối xử quốc gia trong thời gian tới.
2.5. Phối hợp tự do hoá thương mại với tự do hoá đầu tư
Tự do hoá thương mại và tự do hoá đầu tư có mối quan hệ chặt chẽ và khăng khít với nhau. Thông thường, việc tự do hoá di chuyển về hàng hoá giữa các nước diễn ra trước rồi đến việc tự do hoá sự di chuyển của các nhân tố sản xuất như vốn lao động, công nghệ... Quá trình này cũng đang được định hình dần trong ASEAN. Việt Nam, với tư cách là thành viên của ASEAN, đã tham gia vào Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) và đang chuẩn bị tham gia vào Khu vực đầu tư ASEAN (AIA). Mục tiêu cuối cùng của quá trình này là tạo ra cho Việt Nam các ngành công nghiệp có đủ sức cạnh tranh với các nươc ASEAN khác. điều này đòi hỏi phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa chính sách tự do hoá thương mại với chính sách tự do hoá đầu tư.
Việc tự do hoá thương mại bao gồm việc cắt giảm thuế quan và loại bỏ các hàng rào phi thuế quan phải được thực hiện sao cho không thủ tiêu các nhân tố thúc đẩy đầu tư. Bởi trên thực tế, không ít các nhà đầu tư đã than phiền về việc cắt giảm thuế nhập khẩu hàng hoá trong khi không có biện pháp để hỗ trợ sản xuất trong nước khiến cho hàng nhập khẩu lấn át hàng hoá sản xuất trong nước, và kết quả là thủ tiêu đầu tư.
Trên cơ sở định hướng đầu tư vào các ngành và lĩnh vực ưu tiên, cần phải có chính sách thương mại phù hợp để tạo điều kiện thúc đẩy các ngành đó phát triển trên cơ sở huy động các nguồn lực trong và ngoài nước. Theo em, với các ngành công nghiệp mới, đòi hỏi công nghệ cao, Việt Nam nên có chính sách bảo hộ và ưu đãi về mặt thương mại để các ngành này có thể phát triển được. Dĩ nhiên, việc bảo hộ và dành ưu dãi nói trên phải được tính trong khuôn khổ AFTA. Bên cạnh đó, cũng cần tăng cường ngăn chặn tình trạng nhập lậu hàng hoá từ bên ngoài bỏi vì hàng nhập lậu với giá rẻ có thể bóp chết các ngành sản xuất trong nước và làm xấu đi môi trường kinh doanh của Việt Nam.
Để tham gia có hiệu quả vào chương trình hợp tác này của khu vực, Việt Nam cần phải phối hợp đồng bộ các giải pháp trên để tận dụng triệt để lợi thế và giảm thiểu những hạn chế của mình nhằm đón nhận được cơ hội lớn lao mà Hiệp định này mang lại.
Kết luận
Kể từ khi ra đời vào tháng 8/1967, Hiệp hội các quốc gia Đông Nam á- gọi tắt là ASEAN đã có nhiều sáng kiến hợp tác xây dựng và phát triển trên cả lĩnh vực chính trị, văn hoá và kinh tế vì một Khu vực ASEAN hoà bình, ổn định, hữu nghị, hợp tác và phát triển. Trong số những sáng kiến đó phải kể đến ý tưởng về việc thành lập một Khu vực tự do đầu tư ASEAN và được hiện thực hoá tại Hội nghị lần thứ 30 các Bộ trưởng Kinh tế ASEAN tại Manila, Philippines ngày 7/10/1998 khi Bộ trưởng Kinh tế các quốc gia thành viên cùng đặt bút ký vào bản Hiệp định khung về Khu vực đầu tư ASEAN- AIA .
Phải nói rằng, Hiệp định AIA ra đời trong bối cảnh hoạt động đầu tư thế giới và Khu vực đang có những dấu hiệu suy giảm. Suy giảm trong đầu tư trực tiếp tại Khu vực không chỉ xảy ra ở luồng vốn FDI đến từ những quốc gia chủ đầu tư quen thuộc của Khu vực như Nhật Bản, Mỹ, EU, các nước ANIEs mà còn ngay cả ở dòng vốn FDI bên trong Khu vực dưới tác động của nhiều yếu tố khách quan và chủ quan. Vì thế, AIA với mục tiêu thành lập một thị trường đầu tư cho toàn Khu vực chắc chắn sẽ tạo ra nhiều thuận lợi cũng như nhiều cơ hội cho các quốc gia thành viên. Trước hết, đó là những cơ hội để thu hút hơn nữa luồng vốn FDI đến từ các quốc gia bên ngoài Khu vực thông qua việc từng bước lấy lại sức hấp dẫn vốn có của môi trường đầu tư ở các nước thành viên Đông Nam á và lấy lại lòng tin của các nhà đầu tư nước ngoài; và sau đó là thúc đẩy và mở rộng hơn nữa những hoạt động đầu tư trực tiếp vốn đã được chú trọng từ trước giữa các nước thành viên với nhau.
Tuy cơ hội cho hoạt động đầu tư tại các nước thành viên Hiệp hội các quốc gia Đông Nam á là khá nhiều những thách thức đặt ra cho các quốc gia này cũng không ít. Đó là thách thức tự hoàn thiện mình cả về mặt môi trường chính trị, môi trường kinh doanh, hệ thống chính sách, cơ sở hạ tầng cũng như hoàn thiện các cơ chế hợp tác Khu vực trên các lĩnh vực thương mại, công nghiệp, hải quan và các lĩnh vực liên quan đến các hoạt động kinh tế khác.
Sự xuất hiện của một Khu vực đầu tư ASEAN trong lòng các quốc gia Đông Nam á đang khao khát phát triển và mở rộng hoạt động đầu tư trực tiếp, có thể nói là phù hợp với xu hướng phát triển chung của thế giới cũng như xu thế hội nhập chung trong tiến trình toàn cầu hoá, khu vực hoá. Hơn thế nữa, AIA sẽ là một thứ “ vũ khí ” có sức nặng tương đối cho các quốc gia ASEAN trong cuộc cạnh tranh giành vị trí số một trong số các khu vực đầu tư năng động nhất thế giới.
Tài liệu tham khảo
ASEAN Investment Report 1999, 2000 Edition, ASEAN Secretariat.
Statistic of Foreign Direct Investment in ASEAN 1999, 2000 Edition, Secretariat.
World Investment Report 2002, UNTAD- United Nations Conference on Trade and Development.
Staement on Bold Measures 6th Summit, Hanoi, Vietnam, 16th December 1998.
Join Press Statement Fourth Meeting of the ASEAN Investment Area Ministerial Council 14th September 2001, Hanoi, Vietnam.
The Second Volume of AFTA Reader.
Jeffery Heinrich And Denise Eby Konan, “Prospect for FDI in AFTA”, ASEAN Economic Bulletin Vol.18. No.2, August 2001.
ASEAN Investment Area: An Update, www. Aseansec.org.
Hiệp định khung Khu vực Đầu tư ASEAN.
10.”Các chính sách ưu đãi đầu tư nước ngoài của Philippines”, Thông tin Kinh tế- Xã hội, Số 2 (02), Thông tấn xã Việt Nam.
11.” Triển vọng kinh tế Châu á trong năm 2002”, Thông tin Kin tế- Xã hội, Số 2 (37), Thông tấn xã Việt Nam.
12. “Vài nét về đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Malaysia”, Thông tin Kinh tế- Xã hội, Số 6 (06), Thông tấn xã Việt Nam.
13. Luật đầu tư nước ngoài của Việt Nam được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua vào ngày 12/11/1996.
14. Giáo trình Đầu tư nước ngoài năm 1997- Chủ biên: TS. Vũ Chí Lộc - Đại học Ngoại Thương.
15. Thạc sí Phạm Thị Thanh Bình, Viện Kinh tế Thế giới, “Đầu tư ASEAN vào Việt Nam thập kỷ 90”, Tạp chí Kinh tế Châu á- Thái Bình Dương.
16. Vũ Lê Thái Hoàng,” Trung Quốc giành thị phần FDI ở Châu á- Cuộc chiến không cân sức với các nước ASEAN”, Thời báo Kinh tế Việt Nam, trang 14, số 34, thứ Hai ngày 19/03/2001.
17. Tổng hợp các tài liệu về các lĩnh vực hợp tác của ASEAN, Vụ Quan hệ quốc tế, Bộ Tài chính.
Mục lục
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Khoa luan tot nghiep.doc