BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP.HỒ CHÍ MINH
________
Hoàng Thị Minh Phương
VĂN HOÁ TÂM LINH TRONG VĂN
XUÔI TRUNG ĐẠI
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 60.22.34
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS LÊ THU YẾN
Thành phố Hồ Chí Minh – năm 2007
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
1. Lĩnh Nam chích quái LNCQ
2. Việt điện u linh VĐUL
3. Nam ông mộng lục NOML
4. Thánh Tông di thảo TTDT
5. Truyền kỳ mạn lục TKML
6. Việt điện u linh
155 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 2103 | Lượt tải: 4
Tóm tắt tài liệu Văn hóa tâm linh trong văn xuôi trung đại, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tục bổ VĐUL tục bổ
7. Công dư tiệp ký CDTK
8. Sơn cư tạp thuật SCTT
9. Vũ trung tuỳ bút VTTB
10. Thượng kinh kí sự TKKS
11. Tang thương ngẫu lục TTNL
12. Lan Trì kiến văn lục LTKVL
13. Hát đông thư dị HĐTD
14. Truyền kỳ tân phả TKTP
15. Vân nang tiểu sử VNTS
16. Nam triều công nghiệp diễn chí NTCNDC
17. Hoàng Lê nhất thống chí HLNTC
DẪN NHẬP
1. Lí do chọn đề tài
Đối với mỗi quốc gia dân tộc, cái quan trọng nhất, cao quí nhất là giá trị văn hoá. Văn
học là một biểu hiện của văn hóa, sản phẩm của văn hoá. Là một dạng văn hoá tinh thần,
văn học chính là nơi lưu giữ giá trị văn hoá tinh thần cho mọi thế hệ. Từ văn học hiểu thêm
về văn hoá. Đứng ở góc độ văn hoá nhìn sang văn học, văn hoá đựơc nhìn nhận một cách
tinh tế hơn, còn văn học có một nền tảng vững chắc để tồn tại và phát triển, văn học được
hiểu thấu đáo sâu sắc hơn.
Hơn đâu hết, thế giới tinh thần vô cùng phong phú của người Việt Nam, trong đó có
thế giới tâm linh thể hiện rõ nét trong văn học, từ văn học dân gian đến văn học viết. Văn
học Việt Nam thời trung đại một mặt kế thừa các giá trị tinh thần thiêng liêng trong văn học
dân gian, mặt khác phản ánh tòan diện thế giới ấy của con người Việt Nam trong suốt mười
thế kỉ tồn tại xã hội phong kiến. Trong văn học thời kì này, thông qua tài năng nghệ thuật và
vốn văn hoá truyền thống sâu rộng của các tác giả ta phần nào hiểu được niềm tin thiêng
liêng, tín ngưỡng truyền thống, phong tục tập quán, phương thức tư duy và những quan
niệm phổ biến của nhân dân – những điểm cốt lõi tạo nên giá trị văn hoá tinh thần đặc sắc
của văn hoá dân tộc – văn hoá tâm linh.
Nằm trong quá trình phát triển liên tục nhưng khác với các thời kì văn học khác, văn
học trung đại Việt Nam mang những đặc trưng và qui luật riêng. Đó là một thời kì văn học
thuộc thời đại văn hoá riêng- văn hoá trung đại với mô hình thế giới, với hệ thống giá trị,
với phương thức cảm nhận, tư duy khác. Văn xuôi trung đại không nằm ngoài qui luật ấy.
Thật cần thiết phải tiếp cận văn xuôi trung đại xuất phát từ ý thức phân biệt loại hình này.
Điều đó có ý nghĩa thiết thực cho việc tìm hiểu, đánh giá, giải thích một số tác phẩm văn
xuôi tiêu biểu, khẳng định giá trị riêng của các tác phẩm, góp phần giữ gìn bản sắc thẩm mỹ,
nghệ thuật của một thời đại văn học. Đó là lí do chúng tôi chọn đề tài luân văn: “Văn hoá
tâm linh trong văn xuôi trung đại”.
2. Mục đích nghiên cứu
Thuộc vào một giai đoạn phát triển đặc biệt của lịch sử dân tộc, đối với con người thời
trung đại, bên cạnh đời sống hiện thực, thế giới hiện thực với nhiều mối quan hệ, họ còn có
một đời sống tâm linh phong phú, một thế giới tâm linh với các thế lực huyền bí, những
điều kì lạ siêu nhiên do chính con người tưởng tượng ra, mà họ tin rằng nó đang tồn tại, hiện
hữu chi phối cuộc sống. Trong nhận thức, cách cảm nhận thế giới của họ, hai thế giới ấy có
mối liên thông “thiên nhân tương dữ” hay “thiên nhân tương cảm”. Trên cơ sở đó luận văn
đi sâu tìm hiểu thế giới tâm linh- thế giới thứ hai trong “mô hình hai thế giới” trong văn học
trung đại qua các tác phẩm văn xuôi được khảo sát. Điều đó giúp ta hiểu rõ hơn chiều sâu
tâm hồn con người thời trung đại – địa hạt hợp pháp của văn chương muôn đời.
Theo hướng nghiên cứu trên, luận văn cố gắng đi hệ thống hoá những biểu hiện của
thế giới tâm linh để có cái nhìn hệ thống, toàn diện về những yếu tố ấy trong cách cảm nhận
về thế giới và con người ở một thời kì lịch sử.
Sự hình thành và phát triển của nền văn xuôi trung đại gắn liền với nền văn hoá dân
gian lâu đời, bám rễ trong truyền thống văn hoá dân tộc, đồng thời như là sự phản chiếu tư
duy nghệ thuật của nền văn học sản sinh ra nó. Do đó, luận văn đi vào phân tích và bước
đầu có những kiến giải phù hợp về nhiều yếu tố tâm linh thường bị cho là “thần bí”, “duy
tâm” hay “mê tín dị đoan”. Đành rằng sự hạn chế trong nhận thức thế giới đã sản sinh ra tín
ngưỡng, song cần có cái nhìn lịch sử về các hiện tượng văn học ấy trong tương quan với
thời đại văn hoá nó ra đời.
Với đề tài này, chúng tôi hi vọng đóng góp một phần nhỏ vào khoa học nghiên cứu
văn học Việt Nam, mảng văn học trung đại, lĩnh vực văn xuôi.
3. Lịch sử vấn đề
Trong nhiều năm gần đây, các vấn đề văn hoá, văn hoá tâm linh, mối quan hệ giữa văn
hoá và văn học thu hút sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu văn hoá, văn học nước nhà.
Văn hoá là cội nguồn của văn học và “văn học nghệ thuật có nhiệm vụ và có tác dụng to lớn
trong việc sáng tạo nên những giá trị văn hoá cao quí ấy” (Phạm Văn Đồng). Giá trị văn
hóa, tính văn hoá luôn là một thước đo giá trị của tác phẩm văn học.
Xung quanh đề tài luận văn “Văn hoá tâm linh trong văn xuôi trung đại”, trong phạm
vi tư liệu sưu tầm được, chúng tôi điểm qua một số công trình, bài báo khoa học sau:
3.1. Nói riêng về văn hoá tâm linh, trong nhiều công trình nghiên cứu về văn hoá, các tác
giả đều có đề cập các vấn đề liên quan đến văn hoá tâm linh. Tuy nhiên sự đề cập mới chỉ
dừng lại ở nêu hiện tượng, nhìn nhận khái quát.
Đầu tiên phải kể đến công trình “Văn hoá tâm linh” của tác giả Nguyễn Đăng Duy
[17]. Công trình giới hạn những vấn đề về văn hóa tâm linh người Việt ở miền Bắc trong
các lĩnh vực: tín ngưỡng thần thánh trời đất, thờ mẫu, tang ma, thờ cúng tổ tiên, các tôn giáo
Phật, Đạo, Thiên chúa giáo. Tác giả điểm qua tâm linh trong mọi mặt đời sống: cá nhân, gia
đình, tín ngưỡng tôn giáo, mê tín dị đoan...Vấn đề tâm linh trong văn học nghệ thuật có
được nhắc đến với nét nghĩa là chiều sâu tâm hồn nhưng chỉ với cái nhìn sơ giản chung cho
mọi loại hình nghệ thuật: “Tâm linh trong sáng tác văn học nghệ thuật là những hình ảnh,
biểu tượng thiêng liêng nào đó mà tác giả thể hiện được ra trong tác phẩm, làm rung động
những trái tim, ngấn lệ những tâm hồn”[17;tr38].
Gần với công trình trên là chuyên luận “Tìm hiểu văn hoá tâm linh Nam Bộ” [42]. Tác
giả Nguyễn Hữu Hiếu tập trung bàn về văn hoá tâm linh của người Việt ở Nam Bộ qua tín
ngưỡng thờ Mẫu và các lễ hội cổ truyền từ ảnh hưởng văn hoá Chăm.
3.2. Về mối quan hệ giữa văn hoá và văn học, từ văn học hiểu thêm về văn hoá, một số nhà
nghiên cứu cũng đã ít nhiều bàn đến. GS Lê Trí Viễn trong bài “Từ văn học Việt Nam thử
nghĩ về văn hoá Việt Nam” [126] đã chỉ ra điểm cốt lõi trong mối quan hệ này: “Từ văn học
nhìn vào văn hoá đều thấy thấm nhuần hai tình cảm lớn là vì nước vì dân vì con người, hai
tư tưởng lớn: yêu nước và nhân văn, nhân đạo làm cốt lõi cho bản lĩnh dân tộc”[126;tr180].
Phần tâm linh trong văn hoá Việt Nam được ông nhắc đến ở phương diện thờ cúng tổ tiên,
các vị anh hùng dân tôc, thành hoàng làng với ý nghĩa là đạo lí biết ơn kèm theo tín ngưỡng.
Tâm linh trong văn hoá Việt Nam cũng được nhà văn Sơn Nam bàn đến trong bài viết
“Nói thêm về tâm linh trong liên hệ với văn hoá Việt Nam” [80]. Theo nhà văn, tâm linh tồn
tại trong mọi mặt đời sống từ xưa tới nay, từ trong truyền thuyết, các bài văn tế, các tác
phẩm văn học, trong tục thờ cúng tổ tiên, cúng cô hồn cho tới những ca khúc về Tổ Quốc và
cả những hành động, việc làm, nghĩa cử cao đẹp của những con người bình thường trong
cuộc sống. Tâm linh ở đây chính là niềm tin của con người đọng lại trong trí nhớ và con
người luôn tâm niệm, thành kính về điều mình tin, mình làm. “Trí nhớ không phải đứng
dừng một chỗ, lâu ngày phát triển thêm rồi tồn đọng trở thành tâm linh” [80; tr130].
3.3. Đáng chú ý là hướng nghiên cứu văn học trung đại dưới góc nhìn văn hoá. Trong cuốn
“Văn học trung đại Việt Nam dưới góc nhìn văn hoá” [112], nhà nghiên cứu Trần Nho Thìn
đã đề xuất phương pháp nghiên cứu văn học trung đại gắn liền với “mô hình hai thế giới” -
một đặc trưng của văn hoá trung đại. Trong quan niệm của người thời cổ trung đại luôn luôn
tồn tại hai thế giới, “một thế giới hiện thực với những quan hệ xã hội và thiên nhiên có thể
nhận thức được bằng kinh nghiệm” và “một thế giới tâm linh do chính con người tưởng
tượng ra theo một nguyên lí nào đó”. Theo đó, một đặc điểm cơ bản của văn hoá phương
Đông là xem xét con người và thế giới trong mối quan hệ chặt chẽ không tách rời, xem
Thiên đạo (đạo trời) và Nhân đạo (đạo người) như một thể thống nhất. Góc nhìn văn hoá
này được tác giả nghiên cứu qua hai trường hợp Truyện Kiều (Nguyễn Du) và Bình Ngô đại
cáo (Nguyễn Trãi) với những lí giải, phân tích sáng rõ, lôgic. Với Truyện Kiều gần như ông
đã “hoá giải” được chỗ mà lâu nay người ta cho là hạn chế tư tưởng của Nguyễn Du như
duy tâm, thần bí, nặng tư tưởng Thiên mệnh, nghiệp báo luân hồi...
3.4. Tâm linh trong văn học trung đại cũng được tác giả Thanh Tâm Langlet quan tâm
qua bài “Tâm linh và thơ ca Việt Nam giai đoạn cổ trung đại” [58]. Ở đây tác giả chủ yếu
dõi theo yếu tố tâm linh trong đời sống tôn giáo ở dòng thơ thiền Lí-Trần qua sáng tác của
các Thiền sư thuộc các thiền phái Nam Phương, Thảo Đường, Trúc Lâm. Bên cạnh đó là
tâm linh trong thơ của một số nhà thơ ở khía cạnh bộc lộ đời sống nội tâm (Nguyễn Trãi,
Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Du, Bà Huyện Thanh Quan…)
Dành nhiều tâm huyết cho hướng tiếp cận thơ trung đại từ nền văn hoá truyền thống,
PGS.TS Lê Thu Yến đưa ra cái nhìn bao quát, hệ thống những yếu tố tâm linh trong thơ
Nguyễn Du với bài “ Thế giới tâm linh trong sáng tác Nguyễn Du - một biểu hiện của văn
hoá Việt” [129]. Bằng những con số thống kê cụ thể, chính xác những biểu hiện truyền
thống văn hoá tinh thần dân tộc, tác giả đã khẳng định một giá trị văn hoá truyền thống
trong sáng tác của nhà thơ lớn Nguyễn Du - thế giới tâm linh: “Thế giới này biểu hiện rõ rệt
trong sáng tác Nguyễn Du làm cho người đọc không thể không nhận ra. Một Văn Chiêu Hồn
thấm đẫm màu sắc của thế giới bên kia, một Truyện Kiều bàng bạc không gian của cõi âm
và nhất là thơ chữ Hán nhan nhản bày ra những đình, đền, miếu, mộ...” [129; tr29]. Đây
chính là một gợi ý trực tiếp cho chúng tôi chọn đề tài luận văn này.
Riêng ở bộ phận văn xuôi trung đại, PGS.TS Nguyễn Đăng Na đã có cái nhìn khái
quát, hệ thống về tiến trình phát triển của văn xuôi tự sự nói chung và các thể loại truyện
ngắn, kí, tiểu thuyết chương hồi qua bài “Văn xuôi tự sự Việt Nam thời trung đại- những
bước đi lịch sử” [77] cùng với các bài giới thiệu trong các cuốn tuyển soạn [74],[75],[76].
Sau khi khái quát đặc điểm, thành tựu văn xuôi trung đại qua ba giai đoạn, tác giả đưa ra
nhận xét khái quát: “Cùng với các loại hình văn học khác, văn xuôi tự sự đã hoàn thành sứ
mệnh lịch sử mà thời đại giao phó: phản ánh tâm linh của người Việt Nam thời trung đại”
[77; tr38].
Như vậy, cho đến nay, nghiên cứu văn hoá tâm linh, tâm linh trong văn học, nhất là
thơ ca trung đại đã được một số nhà nghiên cứu bàn đến ở những phạm vi mức độ khác
nhau. Nhìn chung các nghiên cứu đều khẳng định có tồn tại một thế giới tâm linh trong đời
sống con người Việt Nam từ xưa tới nay trên nhiều phương diện, đặc biệt là trong văn học
trung đại. Tuy nhiên, trong lĩnh vực văn xuôi trung đại hiện vẫn chưa có công trình nghiên
cứu chuyên sâu, qui mô nào. Từ những gợi ý quí báu của người đi trước, chúng tôi mạnh
dạn đi vào tìm hiểu, tiếp cận văn xuôi trung đại Việt Nam ở góc độ văn hoá tâm linh- yếu tố
cơ bản tạo nên giá trị đặc sắc cho bộ phận văn học này.
4. Phạm vi nghiên cứu
4.1. Ở đề tài này, do điều kiện tư liệu, chúng tôi chưa thể khảo sát toàn bộ sáng tác văn xuôi
trung đại mà chỉ giới hạn ở những tác phẩm quen thuộc có xuất hiện nhiều yếu tố tâm linh,
bao gồm:
1. Lĩnh Nam chích quái (Vũ Quỳnh – Kiều Phú)
2. Việt điện u linh (Lý Tế Xuyên )
3. Nam ông mộng lục (Hồ Nguyên Trừng)
4. Thánh Tông di thảo (Lê Thánh Tông)
5. Truyền kỳ mạn lục (Nguyễn Dữ)
6. Việt điện u linh tục bổ (Nguyễn Văn Chất)
7. Công dư tiệp ký (Vũ Phương Đề)
8. Sơn cư tạp thuật (Đan Sơn)
9. Vũ trung tuỳ bút (Phạm Đình Hổ)
10. Thượng kinh kí sự (Lê Hữu Trác)
11. Tang thương ngẫu lục (PhạmĐình Hổ-Nguyễn Án)
12. Lan Trì kiến văn lục (Vũ Trinh)
13. Hát đông thư dị (Nguyễn Thượng Hiền)
14. Truyền kỳ tân phả (Đoàn Thị Điểm)
15. Thính văn dị lục (Khuyết danh)
16. Nam thiên trân dị tập (Khuyết danh)
17. Thoái thực kí văn (Trương Quốc Dụng)
18. Vân nang tiểu sử (Phạm Đình Dục)
19. Tân đính Việt điện u linh tập (Gia Cát)
20. Việt Nam kì phùng sự lục (Khuyết danh)
21. Nam triều công nghiệp diễn chí (Nguyễn Khoa Chiêm)
22. Hoàng Lê nhất thống chí (Ngô gia văn phái)
Bên cạnh đó, để cho luận văn thêm phong phú và phục vụ việc phân tích, so sánh,
chúng tôi mở rộng liên hệ đến một số tác phẩm khác: Thiên đô chiếu (Lý Công Uẩn), Đại
Việt sử kí toàn thư (Ngô Sĩ Liên), Lam Sơn thực lục và Dư điạ chí (Nguyễn Trãi), Truyện
Kiều (Nguyễn Du), Tục công dư tiệp kí (Trần Trợ), Kiến văn tiểu lục (Lê Quí Đôn), Thiền
uyển tập anh, Tam tổ thực lục và một vài tác phẩm khuyết danh khác.
4.2. Vấn đề văn bản và tác giả của nhiều tác phẩm văn xuôi trung đại khá phức tạp và hiện
còn nhiều ý kiến khác nhau. Vì vậy chúng tôi xin không bàn đến. Chúng tôi khảo sát các tác
phẩm dựa theo các văn bản hiện hành của các tác giả theo quan niệm phổ biến.
4.3. Trên cơ sở thống kê, phân loại các hiện tượng tâm linh trong các tác phẩm, lấy điểm tựa
là văn hoá truyền thống dân tộc (phong tục tập quán, tín ngưỡng…), bước đầu chúng tôi đi
giải thích một số hiện tượng tâm linh nổi bật, qua đó thấy được ý nghĩa của chúng đối với
tác phẩm.
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn chúng tôi không loại trừ phương pháp luận nghiên cứu văn học nào, song với
đối tượng nghiên cứu của mình, chúng tôi sử dụng chủ yếu một số phương pháp nghiên cứu
sau:
5.1. Phương pháp lịch sử cụ thể
Tác phẩm văn học là sản phẩm của một hoàn cảnh lịch sử cụ thể trong tiến trình phát
triển của lịch sử dân tộc. Vì vậy phương pháp hướng đến việc tìm hiểu hoàn cảnh lịch sử xã
hội, môi trường văn hoá tư tưởng chung của thời đại, mối tương tác của chúng với các tác
giả, sự ra đời của các tác phẩm để lí giải các yếu tố văn hoá trong văn học một thời đại.
5.2. Phương pháp hệ thống
Chúng tôi coi văn xuôi trung đại là một cấu trúc, một hệ thống nhỏ trong hệ thống nền
văn học trung đại bao gồm nhiều đơn vị tác phẩm và từng tác phẩm cụ thể để có cái nhìn
bao quát, đồng thời xem xét chúng trong tương quan với văn học dân gian và văn học cận
hiện đại. Phương pháp giúp ta có cái nhìn hệ thống trong quá trình nghiên cứu. Từ đó sắp
xếp các yếu tố, phân tích, lí giải mối liên hệ giữa chúng để thấy tính chỉnh thể của một câú
trúc văn hoá trong văn học.
5.3. Phương pháp phân loại thống kê
Phương pháp giúp ta tổng hợp thống kê, phân loại tần số xuất hiện của các yếu tố tâm
linh trong từng tác phẩm và đơn vị tác phẩm để thấy mức độ ảnh hưởng của nền văn hoá
truyền thống đối với sáng tác của các tác giả và cả thời đại văn học, cũng như hiệu quả của
chúng trong việc thể hiện nội dung tư tưởng và nghệ thuật.
5.4. Phương pháp so sánh
Vấn đề nghiên cứu văn học trung đại nói chung hiện còn nhiều cách hiểu, lí giải khác
nhau. Phương pháp so sánh giúp người đọc thấy được điểm giống và khác nhau giữa các
yếu tố tâm linh trong từng đơn vị tác phẩm của các tác giả thuộc các giai đoạn lịch sử khác
nhau. Từ đó khẳng định giá trị đích thực của yếu tố văn hoá này trong văn xuôi trung đại nói
riêng và văn học trung đại nói chung. Qua đó thấy được đóng góp của các tác giả vào tiến
trình phát triển nền văn xuôi trung đại.
6. Đóng góp của luận văn
Luận văn tập trung tìm hiểu sự ảnh hưởng của các yếu tố văn hoá truyền thống dân tộc
đối với một bộ phận văn xuôi trung đại, từ đó góp một cách lí giải tương thích một số vấn
đề trong văn học thời kì này. Đồng thời khẳng định và làm sáng tỏ giá trị đặc sắc của nó do
yếu tố văn hoá tâm linh mang lại.
7. Cấu trúc của luận văn
Chương 1: Khái quát
1.1. Khái niệm
1.2. Cơ sở hình thành yếu tố tâm linh trong văn hoá Việt Nam
1.3. Cơ sở hình thành yếu tố tâm linh trong văn học trung đại
Chương 2: Những biểu hiện văn hoá tâm linh trong văn xuôi trung đại
2.1. Những biểu hiện
2.2. Nhận xét
Chương 3: Hiệu quả thẩm mĩ của yếu tố tâm linh trong văn xuôi trung đại
3.1. Phản ánh hiện thực và thể hiện tư tưởng
3.2. Hiệu quả nghệ thuật
3.3. Yếu tố tâm linh trong văn xuôi hiện đại
NỘI DUNG
Chương 1: KHÁI QUÁT
1.1 Khái niệm
1.1.1. Văn hoá tâm linh
1.1.1.1. Văn hoá
Văn hoá (dịch từ Culture) là một vấn đề rất rộng, khó có định nghĩa nào bao quát đầy
đủ nội hàm của nó. Văn hoá bao hàm hết thảy các sinh hoạt của loài người, từ sinh hoạt vật
chất đến sinh hoạt tinh thần, sinh hoạt xã hội. Mọi hoạt động của con người và sản phẩm -
kết quả của những hoạt động ấy do con người có ý thức tác động vào tự nhiên và xã hội mà
có đều thuộc về văn hoá. Quá trình phát triển của loài người gắn liền với các hoạt động cải
biến hoàn cảnh tự nhiên và hoàn cảnh xã hội. Con người sáng tạo ra văn hoá và văn hoá lại
tái tạo bản thân con người.
Nhìn một cách khái quát nhất, “văn hoá là tổng thể nói chung những giá trị vật chất và
tinh thần do con người sáng tạo ra trong quá trình lịch sử” [91;tr1100]; “văn hoá gồm tất cả
những sáng tạo kiến thiết của loài người ở trong xã hội, tất cả những cái gì không là không
phải tự nhiên, là phi tự nhiên” [2];
Văn học là một hình thái đặc biệt của văn hoá, thuộc về hệ ý thức, lĩnh vực văn hoá
tinh thần. Với đối tượng nghiên cứu là một phương diện của văn hoá tinh thần – văn hoá
tâm linh trong văn học, chúng tôi lưu ý đến một số định nghĩa sau:
Theo Bách Khoa Toàn Thư Pháp, “Văn hoá theo nghĩa rộng là tập tục, tín ngưỡng,
ngôn ngữ, tư tưởng, thị hiếu thẩm mỹ,… những hiểu biết kỹ thuật cũng như toàn bộ việc tổ
chức môi trường của con người, những công cụ, nhà ở,… và nói chung là toàn bộ công
nghiệp có thể truyền lại được, điều tiết những quan hệ và những ứng xử của một nhóm xã
hội với môi trường sinh thái của nó”.
Nhà dân tộc học người Anh, E.B.Tylor định nghĩa: “Văn hoá là một chỉnh thể phức
hợp bao gồm tri thức, tín ngưỡng, nghệ thuật, đạo đức, pháp luật, tập tục và bất kì năng lực
thói quen nào khác mà con người cần có với tư cách là một thành viên của xã hội” [121].
Nhân dịp phát động thập kỷ thế giới phát triển văn hoá (1988-1997), tổ chức văn hoá
thế giới UNESCO công bố định nghĩa mới về văn hoá: “Văn hoá là tổng thể các hệ thống
giá trị, bao gồm các mặt tình cảm, tri thức, vật chất, tinh thần của xã hội. Nó không thuần
tuý bó hẹp trong sáng tác nghệ thuật mà bao gồm cả phương thức sống, những quyền con
người cơ bản, truyền thống tín ngưỡng”.
Từ các định nghĩa trên, có thể hiểu văn hoá theo hai nghĩa rộng-hẹp. Nghĩa rộng, văn
hoá bao gồm các giá trị vật chất (văn hoá vật chất) và giá trị tinh thần (văn hoá tinh thần) do
con người sáng tạo ra và tích luỹ qua hoạt động thực tiễn trong quá trình lịch sử. Nghĩa hẹp,
văn hoá chỉ liên quan đến đời sống tinh thần của con người, tức những giá trị tinh thần nhằm
thoả mãn nhu yếu tinh thần trước hết của con người.
Với đối tượng nghiên cứu của luận văn là văn hoá tâm linh, chúng tôi hiểu và vận
dụng khái niệm văn hoá theo nghĩa hẹp là những giá trị văn hoá trong lĩnh vực tinh thần-văn
hoá tinh thần. Đó là “những di sản văn hoá đem lại nguồn cảm hứng thẩm mĩ cho con
người bằng những hoạt động của các loại hình nghệ thuật. Cụ thể là văn, thơ, hát… nghề mĩ
nghệ thủ công, trò chơi nghệ thuật…Cùng với các loại hình trên là phong tục, tập quán, lễ
nghi, tín ngưỡng, tết, lễ, luật tục và những hương ước, định ước và tri thức dân gian” [9]. Ở
đây, có thể xem các thành tố phong tục, tập quán, lễ nghi, tín ngưỡng thuộc về văn hoá tâm
linh bởi chúng đều gắn với yếu tố tâm linh - vấn đề cơ bản trong đời sống văn hoá tinh thần
dân tộc.
1.1.1.2. Tâm linh
Trong xu thế phát triển không ngừng của xã hội ngày nay, khi mà những nhu yếu vật
chất ngày càng được đáp ứng đầy đủ, thoả mãn, người ta lại có xu hướng tìm lại sự cân bằng
trong đời sống với những nhu cầu về tinh thần. Vì vậy mà hai chữ “tâm linh” thường được
nhắc nhiều. Tâm linh cũng được quan tâm rất nhiều trong văn hoá, văn học.
Qua tìm hiểu một số tài liệu, chúng tôi nhận thấy có khá nhiều cách hiểu khác nhau về
tâm linh, do vậy mà có nhiều khái niệm tâm linh không giống nhau.
Hướng thứ nhất, tâm linh được hiểu là khía cạnh tâm hồn, tinh thần, tình cảm của con
người. Theo Từ điển Tiếng Việt 2000, tâm linh có một nét nghĩa là “tâm hồn, tinh thần”
[91;tr897]. Trong khi đó, “tâm hồn” được định nghĩa là “ý nghĩ và tình cảm làm thành đời
sống nội tâm, thế giới bên trong của con người”[91;tr 896] và “tinh thần” là “tổng thể nói
chung những ý nghĩ, tình cảm, những hoạt động thuộc về đời sống nội tâm của con người”
[91;tr994]. Theo đó, thế giới tâm linh chính là thế giới tâm hồn, thế giới tinh thần và nói đến
tâm linh tức là nói đến đời sống nội tâm của con người trong tương quan với đời sống vật
chất bên ngoài. Theo nghĩa này, tâm linh còn là một phần của tâm lý bởi tâm lý là “toàn bộ
nói chung sự phản ánh của hiện thực khách quan vào ý thức con người, bao gồm nhận thức,
tình cảm, ý chí,… biểu hiện trong hoạt động cử chỉ của mỗi người” [91;tr897]. Ở đây tâm
linh là một biểu hiện của đời sống tâm lí con người ở khía cạnh tình cảm.
Hướng thứ hai, tâm linh được hiểu như một khả năng phán đoán, biết trước sự việc.
Trong Pháp Việt từ điển của Lê Khả Kế, tâm linh là: “linh tính”. Hay cũng theo Từ Điển
Tiếng Việt 2000, một nét nghĩa khác của tâm linh là “khả năng biết trước một số biến cố nào
đó sẽ xảy ra đối với mình, theo quan niệm duy tâm” [91;tr897]. Ở đây, tâm linh được dùng
như một động từ với nội hàm “tiên tri” (biết trước và nói ra trước các sự kiện trước khi
chúng xảy ra).
Các khái niệm tâm linh trên tuy khác nhau nhưng vẫn có điểm chung là hiểu tâm linh
gắn với con người, ở trong con người. Nhưng không thật là đủ nếu không hiểu tâm linh từ
chính nghĩa tự thân của nó cũng như từ thực tiễn đời sống tinh thần.
Tâm linh gồm hai chữ tâm và linh. Tâm (lòng, tấm lòng). Chữ tâm ở đây được hiểu
trong từ “tâm niệm” (thường xuyên nghĩ tới, tự nhắc mình ghi nhớ làm theo, tức tin theo
điều đó). Như thế tâm trong tâm linh là niềm tin. Còn linh là thiêng trong linh thiêng, thiêng
liêng (ví dụ: “linh khí” tức khí thiêng-khí thiêng sông núi). Vậy tâm linh là niềm tin của con
người vào sự linh thiêng.
Tâm linh là một phần không thể thiếu trong đời sống bởi “trong đời sống con người,
ngoài mặt hiện hữu còn có mặt tâm linh. Về mặt cá nhân đã như vậy, mà mặt cộng đồng (gia
đình, làng xã, dân tộc) cũng như vậy. Nếu mặt hiện hữu của đời sống con người có thể nhận
thức qua những tiêu chuẩn cụ thể sờ mó được, có thể đánh giá qua những gì cụ thể nhất
định, thì về mặt tâm linh bao giờ cũng gắn với cái gì đó rất trừu tượng, rất mông lung,
nhưng lại không thể thiếu được ở con người. Con người sở dĩ trở thành con người, một phần
căn bản là do nó có đời sống tâm linh. Nghĩa là tuân theo những giá trị bắt nguồn từ cái
thiêng liêng, cái bí ẩn, những giá trị tạo thành đời sống tâm linh của nó [73;tr36].
Tâm linh là thế giới của cái thiêng liêng, cao cả mà con người luôn hướng tới, luôn tin
tưởng nên nó có giá trị cố kết cộng đồng, ràng buộc con người bên cạnh các mối quan hệ
hữu hình khác. Nên tâm linh có mặt trong cả đời sống tinh thần, đời sống xã hội và đời sống
tôn giáo. “Không chỉ có thượng đế, có Chúa, Trời, Thần, Phật mới thiêng liêng, mà cả Tổ
quốc, lòng yêu thương con người, sự thật công lí cũng thiêng liêng không kém” [28; tr8].
Hiểu như vậy, khái niệm tâm linh của Nguyễn Đăng Duy được xem là khá toàn diện: “Tâm
linh là cái thiêng liêng cao cả trong cuộc sống đời thường, là niềm tin thiêng liêng trong tín
ngưỡng tôn giáo. Cái thiêng liêng cao cả, niềm tin thiêng liêng ấy được đọng lại ở những
biểu tượng, hình ảnh, ý niệm” [17; tr11].
Ở khái niệm tâm linh ta cần lưu ý đến ba điểm cốt lõi:
Thứ nhất: Tâm linh là vấn đề thuộc ý thức, gắn liền với ý thức con người, bởi niềm tin
có được là do sự nhận biết của ý thức. Không có ý thức con người thì không thể có tâm linh.
Trong ý thức con người, tâm linh là một dạng của ý thức – ý thức hướng về cái thiêng liêng.
Ý thức tâm linh thường được biểu hiện dưới dạng quan niệm và những hình ảnh, biểu tượng
thiêng liêng.
Thứ hai: Hạt nhân cơ bản của tâm linh là niềm tin, không có niềm tin chắc chắn là
không có tâm linh. Đó là niềm tin, sự ngưỡng vọng vào “cái thiêng”, gọi là niềm tin tâm
linh hay niềm tin tâm thức. Do vậy niềm tin tâm linh thuộc về bản chất của con người, nó là
nhân tố cơ bản tạo nên đời sống tâm linh của con người, cũng giống như đời sống vật chất,
đời sống xã hội, tinh thần, tư tưởng.
Thứ ba: Tâm linh tồn tại trên nhiều phạm vi: đời sống cá nhân, gia đình, cộng đồng
làng xã, Tổ Quốc, trong văn học nghệ thuật, trong tín ngưỡng, tôn giáo.
Từ những điểm trên, ta lại cần phải bàn thêm một số khái niệm liên quan: tín ngưỡng,
tôn giáo, mê tín dị đoan và có sự phân biệt tâm linh trong từng lĩnh vực.
1.1.1.2.1. Tâm linh và tôn giáo
Là một dạng đặc biệt của văn hoá tinh thần, tôn giáo có vị trí vô cùng quan trọng trong
đời sống con người. Theo những định nghĩa phổ thông: tôn giáo là một dạng sinh hoạt tâm
linh trong đó con người tin vào sự hiện hữu của các thế lực siêu nhiên, có quyền lực siêu
phàm có thể tác động đến đời sống của con người khi còn sống cũng như khi đã chết, trong
đó linh hồn của những người đã chết vẫn tồn tại trong một cuộc sống khác. Từ đó con người
đi đến chỗ tôn vinh thờ phụng các thế lực siêu nhiên, những linh hồn của những người đã
chết với hi vọng được sống an bình nơi trần thế và hưởng phúc vĩnh hằng nơi thế giới bên
kia sau khi đã chết.
Đặc trưng nổi bật của tôn giáo là đặt niềm tin vào các lực lượng siêu nhiên. Niềm tin
ấy có tác dụng như một loại thuốc an thần tạo sự cân bằng về tinh thần cho con người trong
mọi hoàn cảnh như câu nói của Mác “tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân”. Niềm tin tôn
giáo (tín ngưỡng tôn giáo) là biểu hiện của đời sống tâm linh nhưng tín ngưỡng tôn giáo
không đồng nhất với tâm linh. Tâm linh chỉ là khả năng dẫn đến tôn giáo. Trong tín ngưỡng
tôn giáo, ngoài phần tâm linh còn có phần mê tín dị đoan và sự cuồng tín tôn giáo. Tâm linh
là phần cơ bản nhất, là biểu hiện của tôn giáo trong mặt tích cực, giá trị nhất (mặt đạo đức
và văn hoá, tính hướng thiện, tính nhân văn…). Mỗi tôn giáo đều hướng về những hình
tượng thiêng liêng (Trời trong Nho giáo, Phật trong Phật giáo, Chúa trong Gia tô giáo…) và
đặt đức tin vào những triết lý, tín điều riêng. Các tôn giáo đều có chung tâm linh hướng về
một thế giới khác, ở đó linh hồn được hạnh phúc trọn vẹn sau khi từ giã cuộc đời (thiên
đàng, cõi niết bàn, kiếp khác…). Bên cạnh mặt tích cực, văn hoá, tôn giáo (và cả tín
ngưỡng) còn biểu hiện mặt tiêu cực, phi văn hoá. Đó là khi con người vì lý do khác nhau
(nhận thức, mục tiêu, lợi ích…) mà sử dụng tôn giáo, tín ngưỡng sai lầm dẫn đến mê tín dị
đoan.
1.1.1.2.2. Tâm linh và mê tín dị đoan
Trước hết cần hiểu cặn kẽ hiện tượng bằng cách tách bóc hai vấn đề mê tín và dị đoan.
Mê tín (tin vào những điều không có thật); dị đoan (lắm mối rắc rối, quàng xiên, mù
quáng...). Thực chất các tôn giáo, tín ngưỡng đều là mê tín nhưng không có dị đoan. Nhưng,
thực tế mê tín thường đi liền với dị đoan để chỉ niềm tin đã bị biến dạng, bóp méo, dị
thường gây hại cho con người. Mê tín dị đoan “là những ý thức, hành vi mê muội, tin và dựa
vào những biểu tượng trái lẽ tự nhiên, có hành vi lễ bái ứng xử mang tính chất cuồng tín,
nhảm nhí trái với lẽ phải và hành vi thông thường của mọi người chung quanh; làm hại đến
đời sống vật chất và tinh thần của mọi người” (Từ điển Tôn Giáo - dẫn theo Mai Thanh Hải)
[30;tr107].
Niềm tin trong mê tín dị đoan là niềm tin mù quáng “nhắm mắt tin mò” vào cái thần bí
dẫn đến sự thương mại hoá niềm tin, “buôn thần bán thánh”, lợi dụng thần Phật để kiếm lợi
bất chính. Cho nên, mê tín dị đoan không thuộc dạng thức sinh hoạt tâm linh. Nói cách
khác, trong mê tín dị đoan không tồn tại tâm linh theo đúng nghĩa.
1.1.1.2.3. Tâm linh và tín ngưỡng
Thông thường, tín ngưỡng (tin tưởng, ngưỡng mộ) thường được dùng đi kèm với tôn
giáo với ý chỉ niềm tin tôn giáo. Song thực chất tín ngưỡng cũng là một dạng thức văn hoá,
một lĩnh vực của niềm tin nên nó có vị trí riêng với nội hàm khái niệm riêng.
Một số quan niệm cho rằng, tín ngưỡng là lòng tin và ngưỡng mộ đối với một tôn giáo
hay một chủ nghĩa. Nhưng như nói trên, lòng tin và sự ngưỡng mộ của con người không chỉ
giới hạn ở tôn giáo mà còn ở cả những lực lượng siêu nhiên, thánh thần trong thế giới quan
của nhân dân. Những lực lượng ấy có thể gây hoạ tác phúc, chi phối, can thiệp vào cuộc
sống của con người. Nên có thể hiểu tín ngưỡng là sự tin tưởng, ngưỡng mộ và sùng bái
những thần thánh, vật thiêng hoặc linh hồn người chết do con người tưởng tượng ra hay do
con người suy tôn gán cho những phẩm chất siêu phàm (Theo Hỏi đáp về văn hoá Việt
Nam) [100].
Là một thành tố văn hoá tổ chức cộng đồng, tín ngưỡng được hình thành tự phát từ
thực tế cuộc sống, được cộng đồng tin theo, tôn thờ… gây thành một nếp sống xã hội theo
niềm tin thiêng liêng (như tín ngưỡng phồn thực, tín ngưỡng sùng bái tự nhiên, tín ngưỡng
sùng bái con người…)
Cùng phát tín hiệu thiêng liêng nhưng tín ngưỡng và tôn giáo có sự khác nhau cơ bản.
Nếu như tín ngưỡng là một sự ý thức về thần linh với niềm tin, lòng ngưỡng mộ dưới các
hình thức lễ bái cầu cúng theo quan niệm dân gian; ý nghĩa của tín ngưỡng là biết ơn và cầu
mong đối tượng phù hộ cho mình bình yên, khoẻ mạnh, ăn nên làm ra; thì ở tôn giáo là niềm
tin vào những triết thuyết, giáo lý, kinh sách với một hệ thống lễ nghi (đọc kinh, quỳ
bái…), có tổ chức nhân sự điều hành nhằm giáo dục tín đồ theo lời dạy của đấng tối cao.
Tôn giáo chủ yếu hướng đến giải thoát cho cái chết, còn tín ngưỡng luôn hướng vào sự
thịnh vượng của cuộc sống.
Sự phân biệt trên cho phép ta một lần nữa nhận thức rõ vị ._.trí độc lập của tín ngưỡng
bên cạnh tôn giáo như là những thành tố cơ bản của đời sống tâm linh. Đồng thời, có thể
xem đây là những căn cứ để phân biệt các hiện tượng tâm linh là tín ngưỡng hay tôn giáo.
Có thể gọi niềm tin của các tín đồ tôn giáo là tín ngưỡng tôn giáo để phân biệt với niềm tin
của các tầng lớp nhân dân không theo tôn giáo là tín ngưỡng dân gian (hay tín ngưỡng
truyền thống)
Với nhận thức trên, luận văn chúng tôi chỉ bàn đến tâm linh trong tín ngưỡng dân gian
truyền thống thông qua văn học, thuộc phạm vi đời sống cá nhân.
1.1.1.3. Văn hoá tâm linh
Từ cách hiểu và giới hạn khái niệm văn hoá và tâm linh trên, chúng tôi hiểu văn hoá
tâm linh là những giá trị văn hoá tinh thần thiêng liêng. Đó là “văn hoá biểu hiện những giá
trị thiêng liêng trong cuộc sống đời thường và biểu hiện niềm tin thiêng liêng trong cuộc
sống tín ngưỡng tôn giáo” [17; tr26]
Thuộc lĩnh vực văn hoá tinh thần, nhưng văn hoá tâm linh với những đặc thù riêng
không chỉ gồm những giá trị văn hoá vô hình (những nghi lễ, ý niệm, tập tục…) mà cả
những giá trị văn hoá hữu hình phát tín hiệu thiêng liêng (đình, đền, miếu, chùa, nhà thờ,
tượng…)
Văn hoá tâm linh có nội hàm rộng (biểu hiện trong cả cuộc sống đời thường và trong
tín nguỡng tôn giáo), cho nên có thể thấy trong đời sống con người luôn tồn tại đời sống tâm
linh bên cạnh đời sống thường ngày với những nhu cầu vật chất (ăn, mặc, ở, đi lại…). Đời
sống tâm linh là một phần của đời sống tinh thần. Ở đó có niềm tin vào “cái thiêng”. Ở đó
con người chủ yếu sống với phần tâm linh trong mình. Với những người không theo tôn
giáo, đời sống tâm linh chỉ xuất hiện khi “hoàn cảnh thiêng”, “thời gian thiêng” xuất hiện.
Đó là không gian của những “thần cây đa, ma cây gạo, cú cáo cây đề”, của đủ thứ những
thần thánh, Phật tiên…Đó là thời gian giỗ, Tết, các lễ hội có phần lễ thiêng liêng, những
thời điểm giúp con người giao hoà với trời đất, thiên nhiên và các thế lực thánh thần. Sống
trong thứ không gian, thời gian mang tính tâm linh, mang tính vũ trụ ấy, con người thực sự
được giải toả tâm linh. Họ được thư giãn tinh thần, mong được cởi phiền muộn âu lo, cầu
những điều tốp đẹp cho mình và người thân. Sống đời sống tâm linh chính là cách để con
người đến gần hơn với thế giới tâm linh-thế giới của những biểu trưng “đạo trời”, của những
lực lượng huyền bí với những quyền năng vô hạn chi phối cuộc sống trần thế. Nói chung,
“thế giới tâm linh là thế giới của cái thiêng liêng mà ở đó chỉ có cái gì cao cả, lương thiện và
đẹp đẽ mới có thể vươn tới. Cả cộng đồng tôn thờ và cố kết nhau lại trên cơ sở của cái
thiêng liêng ấy” (Vũ Tự Lập).
Với luận văn của mình, chúng tôi chỉ giới hạn vấn đề ở phạm vi văn hoá tâm linh trong
tín ngưỡng người Việt- tín ngưỡng biểu hiện niềm tin vào “cái thiêng” của các tầng lớp
nhân dân không theo tôn giáo.
Trong ý niệm của nhân dân ta từ xa xưa, thế giới luôn có các lực lượng siên nhiên
mặc nhiên thống trị cuộc sống nhân gian và luôn tin như thế, “niềm tin đó tạo nên những
hoạt động tương ứng biểu hiện qua việc thờ cúng các nghi lễ, tập tục (…) làm nên tín
ngưỡng dân gian” [51;tr1030]. Tín ngưỡng dân gian người Việt vô cùng đa dạng, bao gồm
tín ngưỡng thờ thánh thần, trời đất ( thành hoàng làng, thần hộ mệnh cá nhân, thánh tổ nghề,
thờ các vị phúc thần, các anh hùng lịch sử văn hoá…); tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, tín
ngưỡng thờ mẫu…; niềm tin tướng số phép thuật…Các tín ngưỡng song hành tồn tại trong
đời sống nhân dân và trở thành những sinh hoạt văn hoá tạo nên bản sắc văn hoá truyền
thống Việt Nam.
Văn học chỉ là một biểu hiện của văn hoá, là một mảng màu của bức tranh văn hoá
thời đại nó ra đời. Vì vậy khi tìm hiểu văn hoá tâm linh người Việt trong văn xuôi trung đại,
chúng tôi thu hẹp bộ phận văn hóa này trong tín ngưỡng dân gian ở những biểu hiện sau:
việc thờ cúng trong các nghi lễ (lễ cầu đảo, lễ phong sắc thần, lập miếu, tạc tượng thờ) và
một số tập tục (tục thờ thần, khấn nguyện, cúng giỗ tổ tiên..). Bên cạnh đó là niềm tin thiêng
liêng đối với một số hiện tượng thiêng trong cuộc sống (giấc mộng, điềm báo, sự linh ứng,
niềm tin vào phép thuật, hoá kiếp…).
1.1.2. Văn xuôi trung đại
1.1.2.1. Thời kỳ trung đại trong văn học Việt Nam
1.1.2.1.1. Thời kì trung đại
Tên gọi “văn học Việt Nam thời trung đại” thực ra là một qui ước mang tính khoa học
mà các quốc gia phương Đông nói chung và Việt Nam nói riêng “mượn” từ khái niệm “thời
trung đại” trong lịch sử châu Âu. Thời trung đại được xem là thời đại văn hoá lớn trong lịch
sử nhân loại. Đó cũng là thời đại hình thành các giá trị văn hoá truyền thống có ảnh hưởng
đến ngày nay. Riêng đối với Việt Nam, thời trung đại là thời hình thành toàn bộ di sản văn
hoá thành văn của dân tộc.
Thời trung đại chuyển sang thời hiện đại thông qua thời kì quá độ là thời cận đại. Về
mặt lịch sử, ở Việt Nam thời cận đại được đánh dấu bằng sự kiện Pháp chính thức xâm lược
(31.8.1858). Còn xét về mặt văn học, thời cận đại thực sự mờ nhạt, không thật rõ nét. Bởi
vì, không giống như ở phương Tây, thời cận đại ở Việt Nam không phải là một giai đoạn
độc lập đích thực mà là giai đoạn giao thời chuyển mạnh sang thời hiện đại. Xét từ bình diện
văn hoá, thời hiện đại được tính từ cái mốc tiếp nhận và sáng tạo các hình thái văn hoá mới.
Đầu thế kỉ XX là thời điểm đánh dấu sự tiếp xúc, giao lưu toàn diện về văn hoá, văn học của
Việt Nam với các nước trong khu vực và thế giới. Đó là nền văn học mới với đề tài, phương
thức truyền bá, và những quan niệm văn học, lí tưởng thẩm mĩ, phương pháp sáng tác, thể
loại văn học…đặc biệt là sự xuất hiện của báo chí, in ấn, xuất bản. Sự đổi thay cơ bản này
đem đến cho văn học Việt Nam một diện mạo mới, một nhịp độ phát triển khẩn trương mau
lẹ, “một năm ở nước ta kể như ba mươi năm ở nước người” (Vũ Ngọc Phan). Nền văn học
bắt đầu bước vào quá trình hiện đại hoá, vận động trong quĩ đạo chung của nền văn học thế
giới. Do vậy có thể xem văn học Việt Nam từ thế kỉ X đến hết thế kỉ XIX thuộc phạm trù
trung đại và từ đầu thế kỉ XX đến nay thuộc phạm trù hiện đại.
1.1.2.1.2. Đặc điểm cơ bản của văn học trung đại Việt Nam
Văn học Việt Nam đã hình thành và phát triển cùng với quá trình hình thành và phát
triển của dân tộc. Đó là quá trình xây dựng văn học viết bằng cách dựa vào truyền thống và
những thành tựu của văn hoá, văn học dân gian, trên cơ sở tiếp thu một cách chủ động ảnh
hưởng của văn hoá văn học nước ngoài, đặc biệt văn học Trung Quốc. Đó cũng là quá trình
nền văn học phát triển gắn liền với vận mệnh đất nước và số phận con người, thể hiện ý
thức dân tộc mạnh mẽ, đồng thời mang những đặc điểm loại hình thi pháp văn học trung đại
trong sự vận động theo hướng dân tộc hóa và dân chủ hoá.
Do hoàn cảnh lịch sử đặc biệt, ngay từ khi ra đời, văn học trung đại Việt Nam đã gắn
với vận mệnh đất nước và con người. Chủ đề nổi bật của văn học thời kì này là chủ nghĩa
yêu nước, tư tưởng nhân đạo và chủ nghĩa anh hùng. Chủ đề ấy là sợi chỉ đỏ xuyên suốt nền
văn học, từ thơ ca của các nhà sư đời Lí, các vị tướng đời Trần đến các nhà thơ nhà văn lớn
Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Nguyễn Đình Chiểu... Ở những giai đoạn lịch sử khác nhau, tư
tưởng yêu nước và nhân đạo có những biểu hiện khác nhau.
Đã trở thành qui luật, nền văn học trung đại của dân tộc nào cũng được xây dựng trên
cơ sở nền văn hoá văn học dân gian của dân tộc đó. Văn học dân gian Việt Nam là nền tảng
hình thành nền văn học viết trên nhiều phương diện. Tiếp thu nguồn mạch văn học dân gian,
văn học viết có cơ sở vững chắc để phát triển. Từ những tác phẩm văn xuôi thành văn đầu
tiên: Việt điện u linh, Lĩnh Nam chích quái… ra đời trên cơ sở sưu tầm ghi chép các truyền
thuyết dân gian, “từ bia miệng người đời”, đến những tác phẩm có qui mô lớn như Đại Việt
sử kí toàn thư cũng sử dụng nhiều yếu tố của văn học dân gian. Cũng không ai có thể phủ
nhận ảnh hưởng của văn học dân gian đậm đà về văn liệu, thi liệu, bút pháp thể hiện…đối
với những tác phẩm truyền kì như Thánh Tông di thảo, Truyền kì mạn lục, thơ Nguyễn Trãi,
Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Khuyến, Tú Xương, Nguyễn Đình Chiểu… Khẳng
định giá trị và tìm hiểu đặc điểm của văn học viết trung đại cũng đồng thời là sự đánh giá
cao vai trò, vị trí của văn học dân gian- suối nguồn tươi mát giàu dưỡng chất nuôi lớn nền
văn học viết.
Trong thời kì trung đại, sự giao lưu ảnh hưởng của các nền văn học lâu đời (Trung
Hoa, Ấn Độ…) với các nền văn học hình thành sau (Nhật Bản, Triều Tiên, Việt Nam…) là
một tất yếu khách quan. Ở Việt Nam mặc dù đã trải qua hàng ngàn năm Bắc thuộc, nền văn
hoá văn học dân tộc vẫn không bị đồng hoá. Sự tiếp thu ảnh hưởng văn học Trung Hoa
không làm mất đi bản sắc dân tộc mà càng làm cho nền văn học thêm phong phú đậm đà
bản sắc. Đặc biệt trên phương diện thể loại, sự tiếp thu đã diễn ra một cách toàn diện.
“Người Việt Nam hầu như đã di thực toàn bộ thể loại văn học của văn học Trung Quốc vào
Việt Nam với những qui mô và biến đổi khác nhau” (Trần Đình Sử). Thế nhưng con đường
phát triển của văn học dân tộc là vừa tiếp thu vừa Việt hoá những yếu tố Hán song song với
việc sáng tạo những yếu tố hình thức mang tính dân tộc. Sự tiếp thu một cách chủ động tinh
hoa văn học Trung Quốc trên tinh thần dân tộc vừa làm giàu có cho nền văn học, vừa thể
hiện ý thức dân tộc mạnh mẽ của cha ông ta trong quá trình xây dựng nền văn hoá dân tộc
mình.
Cũng như văn học viết trung đại các nước trên thế giới, văn học Việt Nam thế kỉ X-
XIX chịu sự qui định của thi pháp văn học trung đại nói chung. Nổi bật hơn cả là tính chất
ước lệ của hình thức biểu hiện. Tính ước lệ trung đại được biểu hiện ra ở tính chất tập cổ,
tính qui phạm, tính công thức, sáo ngữ, nghi thức, tính trang trí, gắn chặt với tính truyền
thống, nệ truyền thống rất nặng. Ngoài ra văn học trung đại cũng ưu tiên cho các chức năng
hành chính, giáo huấn, nghi lễ…, sự coi nhẹ biểu hiện cá tính. Tuy nhiên các đặc điểm thi
pháp trên không làm hạn chế sự phong phú và phát triển của văn học. Bằng trí tuệ, tâm hồn,
tài năng sáng tạo của các tác giả, văn học trung đại đã để lại nhiều áng thơ văn làm say đắm
lòng người. Trên đường sáng tạo, nền văn học luôn vận động theo hướng dân tộc hoá, dân
chủ hoá, thường xuyên tự đổi mới bằng cách bám sát cuộc sống của dân tộc để phản ánh.
Văn học đã dần trở nên gần gũi với tâm thức người dân. Đó cũng chính là nhu cầu tự thân
để văn học trung đại ngày càng làm cho các qui phạm dần bị lỏng lẻo, phá vỡ, đồng thời tạo
tiền đề cho quá trình hiện đại hoá văn học đầu thế kỉ XX.
Các đặc điểm cơ bản trên giúp ta nhận rõ đặc trưng của văn học trung đại Việt Nam
trong qui luật chung của các nền văn học trung đại thế giới và chỉ qua những đặc trưng ấy
mới có thể hiểu được văn học trung đại như là một bộ phận hữu cơ của nền văn hoá trung
đại. Đi trọn mười thế kỉ, văn học trung đại kết thúc vai trò lịch sử của mình trong tiến trình
văn học dân tộc: phản ánh một cách chân thực sinh động đời sống của con người Việt Nam
trên các phương diện vật chất và tinh thần, đặc biệt là đời sống tâm linh sâu sắc; để lại cho
nền văn học nhiều kinh nghiệm quí giá.
1.1.2.2. Thể loại văn xuôi trung đại
1.1.2.2.1. Thể loại văn học trung đại là một hiện tượng rất bề bộn, phức tạp. Việc phân loại
văn học, kể cả văn xuôi là một công việc rất khó trong điều kiện văn sử bất phân. Vấn đề thể
loại văn xuôi ở đây chỉ có ý nghĩa làm cơ sở lí luận cho các nội dung tiếp theo.
Văn xuôi, theo thi pháp học gồm hai thể văn xuôi tự sự và văn xuôi trữ tình. Thời
trung đại chưa xuất hiện văn xuôi trữ tình. Văn xuôi tự sự thời kì này chủ yếu viết bằng chữ
Hán. Bên cạnh loại tự sự bằng văn xuôi còn có tự sự bằng văn vần. Tự sự bằng văn vần
được gọi là truyện Nôm. Khái niệm văn xuôi tự sự (hay văn xuôi chữ Hán) được dùng để
khu biệt với truyện Nôm.
Theo Nguyễn Đăng Na trong cuốn Văn xuôi tự sự Việt Nam thời trung đại, [74], căn
cứ vào qui mô và tính chất của các tác phẩm, có thể chia văn xuôi tự sự thành ba nhóm:
truyện ngắn, ký và tiểu thuyết chương hồi. Luận văn chúng tôi theo cách phân chia này để
gọi tên các tác phẩm văn xuôi trung đại được khảo sát.
Tiểu thuyết chương hồi là thuật ngữ chỉ “một thể loại tác phẩm tự sự dài hơi của Trung
Quốc thịnh hành vào đời Minh Thanh” [32;tr280]. Loại tác phẩm này có ảnh hưởng sâu xa
đối với tiểu thuyết của các nước châu Á như Triều Tiên, Nhật Bản, Việt Nam. Trong đó,
tiểu thuyết chương hồi viết bằng văn xuôi chữ Hán của Việt Nam là một hiện tượng độc đáo
với các tác phẩm: Nam triều công nghiệp diễn chí, Tây Dương gia tô bí lục, đỉnh cao là
Hoàng Lê nhất thống chí. Đặc điểm tiểu thuyết chương hồi Việt Nam trước hết là viết về đề
tài lịch sử - lịch sử đương đại nên tính thời sự chính trị của các tác phẩm rất cao. Đây là loại
tiểu thuyết gắn với kí sự lịch sử. Về hình thức, các tác phẩm hoàn toàn theo mô hình chương
hồi Trung Quốc. Mỗi hồi chứa đựng một số sự kiến chính, có một câu đối ở đầu hồi tóm
gọn nội dung sự kiện; cách trần thuật mở đầu bằng niên hiệu lịch sử, dẫn truyện bằng “nói
về”, “ lại nói”, “chuyện chia thành hai mối”...
Về truyện và ký. Truyện ngắn trung đại thực ra là một khái niệm tương đối mà “giới
nghiên cứu hiện đại dùng để chỉ một hiện tượng rất không thuần nhất về cả nội dung và
nghệ thuật, bao hàm rất nhiều kiểu loại tác phẩm khác nhau ra đời trong một thời gian rất
dài (khoảng mười thế kỉ)”[111], gồm: chí, lục, phả, tuỳ bút, ký, ký sự, thuyết…Mặt khác,
theo nhà nghiên cứu văn học người Nga-B.L.Riptin, “thể loại trong văn học trung đại(…)
được thể hiện trong cách thường xuyên nêu bật nó lên ở ngay tên gọi tác phẩm”(dẫn theo
Nguyễn Đăng Na)[74]. Nên thật khó để tách bạch đâu là truyện đâu là ký. Ngoài một số đặc
điểm về cốt truyện, nhân vật, thời gian không gian, đặc biệt là tính chất hư cấu- yếu tố giúp
tách truyện ra khỏi các hình thức ghi chép khác như lục, ký, chí, thì thái độ người cầm bút,
sự thể hiện cái tôi cá nhân của tác giả là dấu hiệu làm nên sự phân biệt giữa ký với truyện
(như Thượng kinh kí sự của Lê Hữu Trác; ký khảo cứu, kí phong cảnh trong Vũ trung tuỳ
bút của Phạm Đình Hổ). Tuy nhiên, nhiều trường hợp như Tang thương ngẫu lục, Vũ trung
tuỳ bút hay Công dư tiệp kí , người ta vẫn quen gọi là truyện bởi tính truyện đậm hơn tính
ký. Ngoài ra, từ thế kỷ XVIII, ký đã tách khỏi văn học chức năng để trở thành những tác
phẩm ký nghệ thuật đích thực. Do vậy, dù được gọi nhiều tên gọi khác nhau, các tác phẩm
truyện và ký được khảo sát đều là những tác phẩm văn học đích thực trong tư cách chúng
thuộc phạm trù văn học trung đại. Chúng tôi cũng thống nhất gọi các thiên ký đậm tính
truyện trong các tác phẩm được khảo sát chính là truyện. Sau đây là số lượng truyện trong
mỗi tác phẩm :
1. Lĩnh Nam chích quái 18/20 truyện+22/23truyện dịch thêm.
2. Việt điện u linh 27/27 truyện
3. Nam ông mộng lục 8/28 truyện
4. Thánh Tông di thảo 14/19 truyện
5. Truyền kì mạn lục 20/20 truyện
6. Việt điện u linh tục bổ 3 truyện
7. Công dư tiệp ký 23/43 truyện
8. Sơn cư tạp thuật 7 truyện /184 thiên
9. Vũ trung tuỳ bút 7 truyện /89 thiên
10. Tang thương ngẫu lục 14 truyện / 90 thiên
11. Lan Trì kiến văn lục 23 truyện / 45 thiên
12. Hát đông thư dị 7/66 truyện
13. Truyền kỳ tân phả 4/4 truyện
14. Thính văn dị lục 5 truyện
15. Nam thiên trân dị tập 4/138 truyện
16. Thoái thực kí văn 3 truyện
17. Vân nang tiểu sử 13/109 truyện
18. Tân đính Việt điện u linh tập 3/41 truyện
19. Việt Nam kì phùng sự lục 2 truyện
1.1.2.2.2. Vấn đề tên gọi thể loại của nhiều tác phẩm văn xuôi trung đại chưa dừng lại ở
khái niệm truyện (truyện văn xuôi chữ Hán) mà thực tế người ta còn gọi là tiểu thuyết (tiểu
thuyết chữ Hán). Tại sao vậy ?
Trong văn học hiện đại, tiểu thuyết là thuật ngữ chỉ “tác phẩm tự sự cỡ lớn có khả
năng phản ánh hiện thực đời sống ở mọi giới hạn không gian và thời gian”, “là thể loại văn
học có khả năng tổng hợp nhiều nhất các khả năng nghệ thuật của các thể loại văn học
khác”[32; tr277-279]. Nhưng trong phạm trù văn học trung đại Việt Nam mà cái nôi ảnh
hưởng của nó là văn học Trung Quốc, khái niệm tiểu thuyết lại khác.
Ở Trung Quốc, từ “tiểu thuyết” xuất hiện trong Trang Tử chỉ những lời vụn vặt. Trong
quan niệm của nhà nước phong kiến, đây là loại văn học diễn xướng nơi đường sá đối lập
với thứ văn chương cao nhã. Tuy nhiên, gần đây người ta nhận thấy tiểu thuyết bắt nguồn từ
hình thức kể chuyện trong Sử kí của Tư Mã Thiên và Tả truyện thời Hán, manh nha là
“truyện”, “ký”. Tên gọi tiểu thuyết (cũng giống như truyện, ký) được mượn tên thể loại của
sử nhưng không phải là lịch sử. Chịu ảnh hưởng sâu sắc từ văn học Trung Quốc cổ trung
đại, trong văn học trung đại Việt Nam, tên gọi tiểu thuyết được dùng với nội hàm để chỉ bất
cứ tác phẩm tự sự nào có tính nghệ thuật được ghi theo thể loại của sử (chí, kí, lục...) và có
thể kể lại được. Bài Bạt của Kiều Phú viết: “Tôi cho rằng, việc thông thường trình bày trên
kinh, trên sử, cốt để dạy lại đời sau, việc quái gở được ghi chép thành truyện, kí cốt để mở
rộng hiểu biết chuyện lạ (dĩ quảng dị văn)”. Khái niệm truyện và tiểu thuyết gần như không
có sự phân biệt. Cho nên, khi giới thiệu Tang thương ngẫu lục, Trương Chính viết: “có điều,
tập sách có tính chất kí sự hơn là tiểu thuyết”. Khái niệm tiểu thuyết dùng ở đây chính là
truyện.
Như vậy, trong tình hình không “thuần chủng” của văn học trung đại, sự tách biệt thể
loại tác phẩm trong đó có khái niệm truyện và tiểu thuyết là điều thực sự khó khăn. Đó là lí
do tại sao lâu nay người ta chấp nhận những cách gọi khác nhau tên nhiều tác phẩm tự sự:
truyện văn xuôi chữ Hán (Ưu Đàm) [23]; truyện ngắn, ký, tiểu thuyết chương hồi (Nguyễn
Đăng Na) [74,75,76]; Tiểu thuyết chữ Hán (Trần Nghĩa) [84]. Riêng trong thể loại truyền kì,
Vũ Thanh gọi là truyện ngắn truyền kì [104], còn Đình Phan Cẩm Vân gọi là tiểu thuyết
truyền kì [125].
1.1.2.2.3. Truyện Việt Nam thời trung đại có một tỉ lệ lớn truyện truyền kì (tiểu thuyết
truyền kì) như Truyền kì mạn lục, Thánh Tông di thảo, Truyền kì tân phả ...Vậy truyền kì là
gì và yếu tố văn hóa tâm linh trong loại truyện này là ở đâu ?
Trước hết, truyền kì được hiểu là truyền đi một sự lạ. Truyền kì có tính chất là những
truyện kì lạ được lưu truyền lại. Đồng thời truyền kì cũng là khái niệm chỉ “một thể loại tự
sự ngắn cổ điển của văn học Trung Quốc thịnh hành ở thời Đường” [32; tr386], là thể loại
“chứa đựng nhiều tình tiết li kì,quái dị”.
Truyện truyền kì có nguồn gốc trong văn học Trung Quốc. Loại này đã thúc đẩy sự ra
đời của thể loại truyền kì trong văn học vùng Đông Á trong đó có Việt Nam. Truyền kì đã
trở thành một thể loại truyện mang tính chất “kì văn dị sự”- một bộ phận tạo nên diện mạo
nền văn xuôi trung đại Việt Nam.
Hạt nhân cơ bản của truyện truyền kì là yếu tố kì. Kì trước hết là cái lạ, cái khác biệt
trái với cái bình thường (kì lạ, li kì). Kì cũng còn là cái quái đản, phi thường, siêu nhiên (kì
quái, kì dị). Cái lạ, phi thường, siêu nhiên trong truyện truyền kì đã tạo nên những “kì văn”
với những “kì nhân”, “kì sự”. Cái kì tạo nên sức hấp dẫn lạ lùng, góp phần làm nên sức sống
lâu bền cho tác phẩm. Sức nặng nghệ thuật của yếu tố này được Nghê Trác trong Nhị kì
duyên tiểu dẫn cô đúc “vô truyền bất kì, vô kì bất truyền” (tác phẩm không lưu truyền được
là do không có gì lạ, và không có gì lạ nên tác phẩm không lưu truyền được) (dẫn theo Trần
Lê Bảo )[6].
Vậy phạm vi của cái lạ trong truyền kì là đâu vì lạ cũng là phạm trù của cái quái trong
truyện chí quái? Cả hai loại truyện đều có yếu tố thần kỳ quái dị, nói đến hiện tượng bất
bình thường trong tự nhiên và xã hội (gió, bão, lụt bất thường, những con vật quái dị, người
biến dạng hóa hình hay sự nhân hóa thần linh, động vật, đồ vật, sự thần kì hóa con người...).
Tuy nhiên truyện chí quái chủ yếu nói truyện ma quỷ, truyện quái dị gây cảm giác quái đản,
sợ hãi (như chuyện người nôn trong trong mồm ra đủ loại thức ngon vật lạ và người con gái
đẹp -Truyện Cái lông ngỗng ở Dương Tiễn -Sách chí quái Lục Triều). Còn sự lạ trong
truyền kì chủ yếu nói chuyện con người, xoay quanh các hiện tượng nhân hoá thần linh và
thần kì hóa con người (như loài vật biến thành người, người ân ái kết duyên với tiên, với
ma... trong Thánh Tông di thảo, Truyền kì mạn lục). Quan trọng hơn, kì trong truyền kì tham
gia vào sự kiện cốt truyện nhằm phản ánh hiện thực xã hội. Nó không chỉ thể hiện trình độ
tư duy nghệ thuật độc đáo mà còn là phương tiện, thủ pháp nghệ thuật có hiệu quả cao trong
phản ánh hiện thực và chuyển tải những vấn đề nhân sinh. Với những đặc trưng và vẻ đẹp
nghệ thuật riêng, yếu tố kì làm cho truyện truyền kì khác với các loại truyện gần gũi với nó
như truyện thần quái, chí quái. Nó khiến cho người đọc bao thế hệ được “tâm khai thần
thích” (tâm thần sảng khoái).
Trong văn xuôi trung đại Việt Nam, những yếu tố kì lạ, khác thường trong tự nhiên
hay xã hội luôn được kèm theo một quan niệm riêng về một thế giới khác, một niềm tin
thiêng liêng và lòng tôn sùng ngưỡng mộ đối với các lực lượng trong thế giới ấy. Nói cách
khác, chính thế giới quan thần bí và trí tưởng tượng phong phú, niềm tin sâu xa vào một thế
giới khác thế giới hiện thực có sức mạnh chi phối đời sống đã tạo cho họ một đời sống tâm
linh phong phú. Đời sống ấy luôn hiện hữu những điều kì lạ, khác thường (hiện tượng điềm
báo, hóa kiếp, hồn ma, đạo sĩ làm bùa phép phù chú, nhà sư có phép thần thông..., hiện
tượng con người giao tiếp với thần linh, lạc vào thế giới thần thánh thông qua giấc mộng,
cúng tế...). Dĩ nhiên những hiện tượng “kì hình dị sự” ấy luôn mang niềm tin thiêng liêng
của con người, thể hiện nguyện vọng ước mơ của họ về nhiều vấn đề trong cuộc sống.
Khi bàn đến yếu tố văn hóa tâm linh trong văn xuôi trung đại, luận văn sử dụng thể
loại truyền kì và cả chất liệu của nó trong các tác phẩm khác như là một bộ phận quan trọng
bởi yếu tố kì ở đây luôn mang tín ngưỡng, quan niệm dân gian. Ngoài ra là yếu tố quái của
truyện thần quái: hiện tượng gái hóa trai, con vật quái dị hay truyện về người phương Bắc
giấu của cải, xem phong thủy, huyệt mạch…Tất nhiên những hiện tượng quái này luôn xuất
phát và hàm chứa tín ngưỡng dân gian. Đó là các vấn đề công lí đạo nghĩa, luật nhân quả,
dương trợ âm phù....
Vậy, cũng giống như đặc điểm của yếu tố kì trong truyện truyền kì, các yếu tố văn hóa
tâm linh trong văn xuôi tự sự vừa mang nội dung phản ánh, khái quát hiện thực, thể hiện tư
tưởng niềm tin của con người thời trung đại vừa có giá trị nghệ thuật tạo nên sắc màu lung
linh, huyền ảo hấp dẫn cho truyện kể.
1.1.2.2.4. Yếu tố tâm linh trong văn xuôi trung đại Việt Nam - “địa hạt” của những điều kì
lạ, siêu nhiên, huyền bí, sản phẩm của trí tưởng tượng của con người thời trung đại làm ta
liên tưởng đến yếu tố huyền thoại, kì ảo phổ biến trong văn học.
Kì ảo là một tính từ chỉ những gì “được tạo nên bởi trí tưởng tượng, chứ không tồn tại
trong thực tế ”, “gợi lên những chuyện ma quỉ, cái siêu nhiên, những giấc mơ quái đản, kể
cả những ác mộng” (M.Renard). Kì là lạ lùng; ảo là không có thật. Từ đó có thể hiểu: “Cái
kì ảo là cái lạ lùng, không có thật, không thể bắt gặp trong thế gian này, nói chung là cái
siêu nhiên, nếu ta hiểu các siêu nhiên là những gì không tồn tại ở trên đời” (Phùng Văn
Tửu). Như vậy, phạm vi của cái kì ảo trong văn học là rất rộng, từ các vị thần trong thần
thoại, các ông bụt bà tiên, mụ phù thủy trong truyện dân gian, đến các quỉ sứ, hồn ma, phép
thuật, người biến dạng...trong truyện trung đại, hiện đại bởi đó đều là những hiện tượng siêu
nhiên, nhân vật siêu trần. Theo đó, dễ dàng thấy trong văn chương cổ kim Đông Tây xuất
hiện nhiều yếu tố kì ảo: Hămlet (thế kỷ XVII), Truyện Kiều (thế kỷ XVIII), Truyền kì mạn
lục (thế kỷ XVI), Liêu Trai chí dị (thế kỷ XVIII, XIX), hay sáng tác của Hoffmann, A.Poe,
H.Balzac thế kỷ XIX, của F.Kafka, Aymé, Boges thế kỉ XX... Nhưng không phải bất cứ tác
phẩm nào xuất hiện yếu tố siêu nhiên đều là văn học kì ảo. Do vậy, cần có sự phân biệt “cái
siêu nhiên” thuộc về “thế giới bên kia” đầy bí ẩn và “cái siêu nhiên” thuần túy do trí tưởng
tượng của nhà văn sáng tạo nên.
Trường hợp thứ nhất, cái siêu nhiên là những quỉ dữ, bóng ma, oan hồn, thần chú,
thánh thần trên thiên đường dưới địa phủ... nói chung là “thế giới bên kia” xuất hiện ở “bên
này” với những năng lực bí ẩn chi phối đời sống con người. Đây là những hiện tượng xuất
hiện nhiều trong tác phẩm của nhiều nhà văn như Bồ Tùng Linh ở Trung Quốc, Nguyễn Dữ
ở Việt Nam...
Trường hợp thứ hai, cái siêu nhiên là những sự kiện, con người trên thế gian được kì
ảo hóa qua sự tưởng tượng của nhà văn, và tất nhiên ở đây chẳng có thế lực siêu nhiên,
chẳng có dấu vết thần linh nào đối với nhân vật, sư kiện. Đây chính là chất liệu của văn học
kì ảo nở rộ ở phương Tây thế kỉ XIX, XX. Ví dụ: các nhân vật hiện tượng trong Biến dạng,
Một người thầy thuốc ở nông thôn, Cái hang thú của Kafka, Người đi xuyên tường của
Aymé, Cụ già với đôi cánh khổng lồ của Macquez...Với tính chất là sự “xuất hiện đột ngột
của cái siêu nhiên trong thế giới tự nhiên”, “sự xâm nhập tàn bạo của điều bí ẩn vào cuộc
sống thực tại”, cái kì ảo trong văn học kì ảo thực sự gây cảm giác mãnh liệt, “mang cái ý
nghĩa khủng khiếp, sợ hãi, kì quái, bí hiểm.” Chính cảm giác đó tạo nên chất lượng, sức hấp
dẫn của văn học kì ảo.
Sự phân biệt giữa văn học kì ảo và cái kì ảo trong văn học giúp ta nhận ra yếu tố kì ảo
trong văn học truyền thống với khuynh hướng văn học kì ảo hiện đại. Trong văn xuôi trung
đại Việt Nam tồn tại yếu tố kì ảo. Nếu trong văn học kì ảo, cái kì ảo được dùng là thủ pháp
nghệ thuật, là “hình thức thuần túy” trong mối quan hệ với nội dung, tư tưởng thì trong văn
xuôi trung đại cái kì ảo chính là yếu tố nội dung, là bản chất của thế giới bên cạnh yếu tố có
tính nghệ thuật. Giống như cái kì ảo, các yếu tố tâm linh trong văn học là sản phẩm của trí
tưởng tượng của con người. Nhưng, mang hình thức kì ảo, hoang đường, siêu nhiên, yếu tố
này tồn tại như một tất yếu, là hiện thực thứ hai tồn tại song cùng hiện thực trần thế. Ở đó,
con người luôn tin vào những điều huyền hoặc, những hiện tượng mang tính quái dị, hoang
đường mà không hề nghi ngờ sợ hãi. Chính niềm tin ấy tạo nên nét riêng trong đời sống tâm
linh dân tộc một thời kì.
Liên quan đến những yếu tố có “tính mập mờ khó phân định giữa thực và ảo” trong
văn học, huyền thoại cũng là một vấn đề được nhiều người quan tâm.
Theo cách hiểu phổ biến, huyền thoại là những sáng tác không tưởng từ xưa đến nay,
những hiện tượng văn học mang tính chất của những sáng tác văn hóa dân gian thời cổ.
Huyền thoại chính là sản phẩm của kiểu tư duy cổ nguyên sơ nhất của nhân loại - tư duy
huyền thoại. Ở hình thức có tính tưởng tượng, huyền hoặc và kì diệu, huyền thoại là một
yếu tố có sức sống lâu bền trong văn chương xưa nay. Nếu ở thời cổ đại, huyền thoại là
phương tiện nhận thức thế giới, là phương pháp biểu đạt tình cảm suy nghĩ, ước mơ, nguyện
vọng của người nguyên thủy thì ở thời hiện đại, đặc biệt trong văn học phương Tây, huyền
thoại chủ yếu được dùng là một thủ pháp nghệ thuật- huyền thoại hóa nhằm phản ánh hiện
thực muôn màu và phản ứng của con người, sự đổ vỡ niềm tin trước một trật tự không còn
phù hợp với qui luật tự nhiên của sự sống.
Dù tồn tại dưới dạng nào, là một kiểu tư duy hay là thủ pháp nghệ thuật, phương pháp
sáng tác thì huyền thoại đều sử dụng cái có tính chất hoang đường kì lạ làm yếu tố nghệ
thuật có tính chất công cụ. Huyền thoại trong văn học phát triển rực rỡ nhất, mạnh mẽ nhất
ở thời kì hiện đại bởi nó mang lại hiệu quả cao trong việc giải quyết vấn đề cơ bản có tính
quyết định: vấn đề quan hệ với hiện thực của huyền thoại.
Đến đây ta đã thấy mối liên hệ giữa yếu tố văn hóa tâm linh với yếu tố huyền thoại
trong văn học. Thể hiện đời sống tâm linh con người thời trung đại, văn xuôi thời kì này
chứa đựng bao yếu tố huyền hoặc, siêu nhiên, hoang đường. Những yếu tố ấy có được trong
trí tưởng tượng và quan niệm của nhân dân, luôn hiện hữu trong đời sống. Tất nhiên trong
văn học trung đại, những yếu tố này không chỉ là tư duy về thế giới của con người mà còn là
yếu tố có tính nghệ thuật được các tác giả sử dụng trong việc tái hiện đời sống hiện thực và
chuyển tải tư tưởng, tình cảm của con người đương thời. Và như thế, ta có thể gọi những tác
phẩm văn xuôi có yếu tố văn hóa tâm linh ấy là những tác phẩm mang tính huyền thoại.
Sự mở rộng liên hệ trên giúp ta có cái nhìn khái quát về yếu tố văn hóa tâm linh trong
tương quan với các yếu tố khác gần với nó. Qua đó một lần nữa khẳng định những nét riêng
độc đáo của bộ phận văn xuôi trung đại.
1.1. 2.3. Khái quát văn xuôi trung đại
Văn học trung đại Việt Nam có hai bộ phận song song tồn tại cùng phát triển: văn học
viết bằng chữ Hán và văn học viết bằng chữ Nôm. Do hoàn cảnh lịch sử xã hội đương thời,
những tác phẩm văn học đầu tiên đều viết bằng chữ Hán. Các thể loại từ truyện ngắn, ký
đến tiểu thuyết chương hồi đều phản ánh khá chân thật và toàn diện đời sống tâm linh, sinh
hoạt văn hóa tâm linh đa dạng của người dân Việt.
Trên các chặng đường thịnh suy, các giai đoạn phát triển khác nhau của lịch sử - xã
hội Việt Nam thời trung đại, nền văn học cũng vận động phát triển qua nhiều giai đoạn.
Trên cơ sở thành tựu thể loại, đặc trưng nghệ thuật và chủ đề của các tác phẩm văn xuôi
trung đại, chúng tôi tạm chia tiến trình văn xuôi trung đại qua ba chặng đường: Từ thế kỉ X
đến thế kỉ XV, từ thế kỷ XVI đến thế kỉ XVII, từ thế kỉ XVIII đến hết thế kỉ XIX. Việc phân
chia giai đoạn chỉ có tính chất tương đối nhằm giới thiệu sơ lược các tác phẩm thuộc các
giai đoạn có cùng xu hướng tư tưởng hoặc đặc điểm nội dung nghệ thuật.
1.1.2.3.1. Giai đoạn thứ nhất : từ thế kỉ X đến thế kỉ XV
Đây là giai đoạn văn xuôi tự sự chưa tách khỏi văn h._.hị tịch Truyện sự chết của Trúc
Lâm
2 Tăng Đạo thần thông Truyện phép thần thông
của Tăng Đạo
3 Tấu chương minh nghiệm Truyện Tờ tấu thiên đình
ứng nghiệm
4 Áp lãng Chân Nhân Truyện Chân Nhân đè
sóng
5 Minh Không thần dị Truyện sự thần dị của
Minh Không
6 Nhập mộng liệu bệnh Truyện chiêm bao chữa
bệnh
3.
NAM
ÔNG
MỘNG
LỤC
(Hồ
Nguyê
n
Trừng)
7 Ni sư đức hạnh
1 Mai Châu yêu nữ truyện Truyện yêu nữ Mai
Châu
2 Nhị nữ thần truyện Truyện hai nữ thần
3 Hoa quốc kỳ duyên Truyện Duyên lạ xứ hoa
4 Ngư gia chí dị Truyện lạ nhà thuyền
chài
5 Ngọc nữ quy chân chủ Truyện Ngọc nữ về tay
chân chủ
6 Hiếu để nhị thần truyện Turyện hai thần hiếu để
7 Dương phu truyện Truyện chồng dê
8 Trần nhân cư thuỷ phủ Truyện người trần ở
thuỷ phủ
9 Lãng Bạc phùng tiên Truyện gặp tiên ở hồ
Lãng Bạc
10 Thử tinh truyện Truyện tinh chuột
11 Nhất thư thủ thần nữ Truyện Một dòng chữ
lấy được gái thần
12 Lưỡng Phật đấu thuyết ký Truyện hai Phật cãi nhau
4.
THÁN
H
TÔNG
DI
THẢO
(Lê
Thánh
Tông)
13 Mộng ký Bài ký một giấc mộng
1 Hạng Vương Từ kí Truyện ở đền Hạng
Vương
2 Khoái Châu nghĩa phụ truyện Truyện người nghĩa phụ
Khoái Châu
3 Mộc miên thụ truyện Truyện ma cây gạo
4 Trà Đồng giáng đán lục Truyện Trà Đồng giáng
sinh
5. TRUY
ỀN
KỲ
MẠN
LỤC
(Ngưyễ
n Dữ)
5 Tây Viên kỳ ngộ ký Truyện kỳ ngộ ở trại
Tây
Tên truyện
Stt
Tác
phẩm-
tác giả
Stt
Phiên âm Dịch nghĩa
6 Long Đình đối tụng lục Truyện kiện tụng chốn
Long Cung
7 Đào Thị nghiệp oan ký Truyện nghiệp oan nàng
họ Đào
8 Tản Viên từ phán sự lục Truyện về chức phán sự
đền Tản Viên
9 Từ Thức tiên hôn lục Truyện Từ Thức lấy vợ
tiên
10 Phạm Tử Hư du Thiên Tào lục Truyện Phạm Tử Hư
lên chơi Thiên Tào
11 Xương Giang yêu quái lục Truyện yêu quái ở
Xương Giang
12 Na Sơn tiều đối lục Truyện đối đáp ở núi
Nưa
13 Đông Triều phế tự lục Truyện ngôi chùa hoang
ở Đông Triều
14 Thuý Tiêu truyện Truyện nàng Thuý Tiêu
15 Đà Giang dạ ẩm kí Truyện tiệc đêm ở Đà
Giang
16 Nam Xương nữ tử truyện Truyện người con gái
Nam Xương
17 Lý tướng quân truyện Truyện tướng quân họ
Lý
18 Lệ Nương truyện Truyện nàng Lệ Nương
19 Kim Hoa thi thoại ký Truyện thơ ở Kim Hoa
20 Dạ Xoa bộ soái lục Truyện tướng Dạ Xoa
1 Sóc Thiên Vương sự tích ký Truyện Sóc Thiên
Vương
2 Thanh Sơn Đại Vương Thần núi Tam Đảo
6. VIỆT
ĐIỆN
U
LINH
TỤC
BỔ
(Nguyễ
n Văn
Chất)
3 Kiền Hải môn từ Truyện đền Càn Hải
1 Cô Đào
2 Đế Thích
3 Ngồi đền thiêng ở Trung
Hoa
4 Cường bạo Đại Vương
5 Đinh Tiên Hoàng
6 Hổ ông ở Tống Sơn
7 Cọp báo số mệnh người
8 Truyện Hồ Ba Bể
9 Miếu Phạm Nhan
10 Sư chăn trâu
7.
CÔNG
DƯ
TIỆP
KÝ
(Vũ
Phương
Đề)
11 Nhà sư Bật sô
12 Đạp đầu Thuồng Luồng
oai thần hiển hách
13 Ngôi mộ họ Trần
Tên truyện
Stt
Tác
phẩm-
tác giả
Stt
Phiên âm Dịch nghĩa
14 Truyện Trâu Canh
15 Điền Quận Công
16 Truyện Nguyễn Giám
Sinh
17 Xà tuyền kí Suối rắn
18 Dóng ngựa thi thơ
19 Thám hoa được giáng
xuống Phù Khê
20 Mạo thủ khoa, cửu trùngđặc chỉ Thủ khoa mặt đẹp
21 Ngân khách tầm địa báo hiếu tâm nhân Tìm đất đền ơn
22 Thương thư Lương Hữu
Khánh
23 Nhận ra mẹ đẻ
1 Gái hoá trai
2 Động Hồ Công
3 Ông sư tiên núi Nưa
4 Thi đỗ do tiền định
5 Cờ vàng cắm trên lều thi
6 Không được! không
được!
8.
SƠN
CƯ
TẠP
THUẬ
T
(Đan
Sơn) 7 Trạng Nguyên đạo sĩ
1 Cá voi
2 Thần hồ Động Đình
3 Nguyễn Kính
4 Ông Nguyễn Trọng
Thường
5 Ông Phạm Ngũ Lão
6 Ông Đồ Uông
7 Nhà họ Nguyễn ở Tiên
Điền
8 Mộng và số
9 Điềm quái gở
9.
VŨ
TRUN
G
TUỲ
BÚT
(Phạm
Đình
Hổ)
10 Việc thi cử
10. THƯỢ
NG
KINH
KÍ SỰ
(Lê
Hữu
Trác)
Tên truyện
Stt
Tác
phẩm-
tác giả
Stt
Phiên âm Dịch nghĩa
1 An Mô nông phu Người nông phu ở An
Mô
2 Dùng Giang Sông Dùng
3 Thành đạo tử Thành đạo tử
4 Nôi đạo trường Nội đạo tràng
5 Phạm Viên dật sử Dật sử ông tiên họ Phạm
6 Càn sát quỷ mẫu Mẹ sanh càn sát
7 Nguyễn Công Đăng Cảo Ông Nguyễn Đăng Cảo
8 Trấn Võ Quán Đền Trấn Võ
9 Lê công Thì Hiến Ông Lê Thì Hiến
10 Hoá hổ Hoá hổ
11 Đồng Xuân quỷ Ma Đồng Xuân
12 Đồ Công Uông Ông Đồ Uông
13 Độc Giang Sông Độc
14 Võ Công Trấn Ông Võ Công Trấn
15 Bằng quận công tổ phần Mả tổ Quận Bằng
16 Như Kinh nông phu Người nông phu ở Như
Kinh
17 Kiếm hồ Hồ Gươm
18 Nguyễn Công Hãng Ông Nguyễn Công Hãng
19 Đoàn phu nhân liệt phụ Liệt phụ Đoàn phu nhân
20 Kinh thành dung Người làm mướn ở kinh
thành
21 Lê Công Anh Tuấn Ông Lê Anh Tuấn
22 Đàm công Thận Huy Ông Đàm Thận Huy
23 Dương công Bang Bảng Ông Dương Bang Bảng
24 Đông Liệt sơn Núi Đông Liệt
25 Lê Công Trãi Ông Lê Trãi
26 Dã tự Già Lam Tương Già Lam ở chùa
Đông
27 Dương Công Cảo Ông Dương Công Cảo
28 Tiên quận chúa Tiên quận chúa
29 Nguyễn Trật Ông Nguyễn Trật
11.
TANG
THƯƠ
NG
NGẪU
LỤC
(Phạm
Đình
Hổ-
Nguyễ
n Án)
30 Linh Lang từ Đền Linh Lang
Tên truyện
Stt
Tác
phẩm-
tác giả
Stt
Phiên âm Dịch nghĩa
1 Lôi thủ pha Dốc đầu sấm
2 Cần Hải thần Thần Cửa Cờn
3 Xà sinh Đứa con của rắn
4 Hải đảo tiên Tiên trên đảo
5 Nguyễn Quỳnh Nguyễn Quỳnh
6 Sản dị Đẻ la
7 Tái sinh Sống lại
8 Nữ biến thành nam Gái hoá trai
9 Thanh Trì tình trái Câu chuyện tình ở
Thanh Trì
12. LAN
TRÌ
KIẾN
VĂN
LỤC
(Vũ
Trinh)
10 Thần ngự Cá thần
11 Ngộ tiền sinh Nhớ kiếp trước
12 Tàng thần Thần giữ của
13 Quỷ đấu Đánh ma
14 Nguyễn Danh Được Nguyễn Danh Được
15 Ký tam sinh Nhớ ba kiếp
16 Linh xà Rắn thiêng
17 Hải Sơn động Hang núi giữa biển
18 Thụ yêu Ma cổ thụ
19 Nhân hổ Con hổ nhân đức
20 Báo ân tháp Tháp báo ân
21 Kỳ mộng Mông lạ
22 Nguyễn Khắc Hoành Nguyễn Khắc Hoành
23 Tiên ăn mày Tiên ăn mày
1 Nốt đỏ ở chân
2 Bảng nhãn họ Hà
3 Tổng đốc họ Nguyễn
4 Minh hôn Cưới vợ dưới âm phủ
5 Hổ bộc Làm đầy tớ hổ
6 Quy nữ Gái đội lốt rùa
13.
HÁT
ĐÔNG
THƯ
DỊ
(Nguyễ
n
Thượn
g Hiền)
7 Địa tiên
Tiên ở dưới nước
Tên truyện
Stt
Tác
phẩm-
tác giả
Stt
Phiên âm Dịch nghĩa
1 Hải khẩu linh từ lục Truyện đền thiêng ở của
bể
2 An Ấp liệt nữ Truyện người liệt nữ ở
An Ấp
3 Vân Cát thần nữ Truyện nữ thần ở Vân
Cát
14. TRUY
ỀN
KỲ
TÂN
PHẢ
(Đoàn
Thị
Điểm)
4 Bích Câu kỳ ngộ Cuộc gặp gỡ kỳ lạ ở
Bích Câu
1 Truyện Tú Uyên
2 Truyện luân hồi kiếp
trước
3 Mộng lạ Trần Bá Kiên
4 Truyện Trương Ba
15. THÍNH
VĂN
DỊ
LỤC
(Khuyế
t danh) 5 Nguyễn Văn Đạt ở
Đường An
1 Tiên nhân Phạm Viên ký Chân nhân Phạm Viên
2 Tiến sĩ Trần Danh Tiêu ký Tiến sĩ Trần Danh Tiêu
3 Lê Kính ký Lê Kính
16. NAM
THIÊN
TRÂN
DI
TẬP
(Khuyế
t danh)
4 Loa Đại Vương truyện ký Đại Vương ốc
1 Thách thức với thần
2 Ông tiên Đông Thành
17. THOÁI
THỰC
KÝ 3 Biết chuyện kiếp trước
VĂN
(Trươn
g Quốc
Dụng)
1 Bách nhật ngải Ngải trăm ngày
2 Nghiễn thử Xử tội chuột
3 Hổ Trành Ma Trành
4 Tỉ muội dịch nhi Chị em đổi con
5 Minh quý Vinh hiển ở cõi âm
6 Cổ tử khoán Khoán ước chết thuê
7 Tướng cốt Xem tướng ở xương
8 Phóng đồ dao Vứt dao đồ tể
9 Thần nữ Gái thần
10 Qua bằng hữu lễ Cá trắm gián dưa
11 Na sơn kỳ tích Chuyện lạ núi Nưa
12 Hồng mai hiệp cốt Hài cốt nữ hiệp dưới gốc
hồng mai
18.
VÂN
NANG
TIỂU
SỬ
(Phạm
Đình
Dục)
13 Địa lý thiên lý
Mạch đất mạch trời
Tên truyện
Stt
Tác
phẩm-
tác giả
Stt
Phiên âm Dịch nghĩa
1 Vua bà Lệ Hải
2 Mai Hắc Đế
19. TÂN
ĐỈNH
HIỆU
BÌNH
VIỆT
ĐIỆN
U
LINH
TẬP
(Gia
Cát)
3 Hai tướng quân ở
Trường Tân
1 Việt Nam kỳ phùng sự lục Cuộc gặp gỡ kỳ lạ 20. VIỆT
NAM
KỲ
PHÙN
G SỰ
LỤC
(Khuyế
t danh)
2 Ngọc thân huyền hoá Mình ngọc biến ảo
21. NAM
TRIỀU
CÔNG
NGHIỆ
P
DIỄN
CHÍ
(Nguyễ
n Khoa
Chiêm)
22. HOÀN
G LÊ
NHẤT
THỐN
G CHÍ
(Ngô
gia văn
phái)
PHỤ LỤC 2: KHẢO SÁT SỰ XUẤT HIỆN CÁC HIỆN TƯỢNG TÂM LINH
Mộng Thờ cúng, khấn vái Điềm báo Linh ứng Tướng số, phép thuật Hồn ma, hoá kiếp
Tác phẩm
S
T
T
Tên
truyện
Giấc
mộng
Báo
mộn
g
Cầu
đảo
Th
ờ
cún
g
Khấn
vái
Lập
miếu,
tạc
tượng,
phong
thần
Điềm
lành
Điềm
giữ
Qu
ả
báo
ứng
báo
Biến
hoá
Thầy
địa lý
chỉ
đất
thiêng
Xem
tướng
số, bói
toán
Phép
thuậ
t
H
oá
ki
ếp
ng
ư
ời
V
ật
Hoá
kiếp
Người
Tiên Hồn ma
Đầu
thai
kiếp
khác
1 Hồng Bàng thị
truyện
x x x
2 Ngư Tinh
truyện
x
3 Hồ Tinh
truyện
x x
4 Đổng Thiên
Vương truyện
x x x x
5 Nhất Dạ Trạch
truyện
x x x x
6 Mộc Tinh
truyện
x x
7 Tân Lang
truyện
x x
x
x
8 Chưng bính
truyện
x x
9 Tây qua
truyện
x
1
0
Lý Ông Trọng
truyện
x xx
1
1
Kim Quy
truyện
x x x xx
x
xx x
1
2
Nhị Trưng phu
nhân truyện
x x xx x
LĨNH
NAM
CHÍCH
QUÁI
1
3
Man Nương
truyện
x x x
1
4
Tô Lịch Giang
truyện
x xx xx
1
5
Tản Viên Sơn
truyện
x x x
1
6
Long Nhãn,
Như Nguyệt
nhị thần
truyện
xx x x x
1
7
Từ Đạo Hạnh,
Nguyễn Minh
Không truyện
x x xx
x
1
8
Dương Không
Lộ, Nguyễn
Giác Hải
truyện
x
1
9
Hà Ô Lôi
truyện
x x x
2
0
Việt Tỉnh
truyện
x x x x x
2
1
Nam Chiếu
truyện
2
2
Vũ Ninh Cao
Tướng quân
truyện
x x x
Mộng Thờ cúng, khấn vái Điềm báo Linh ứng Tướng số, phép thuật Hồn ma, hoá kiếp
Tác phẩm
S
T
T
Tên
truyện
Giấc
mộng
Báo
mộn
g
Cầu
đảo
Th
ờ
cún
g
Khấn
vái
Lập
miếu,
tạc
tượng,
phong
thần
Điềm
lành
Điềm
giữ
Qu
ả
báo
ứng
báo
Biến
hoá
Thầy
địa lý
chỉ
đất
thiêng
Xem
tướng
số, bói
toán
Phép
thuậ
t
H
oá
ki
ếp
ng
ư
ời
V
ật
Hoá
kiếp
Người
Tiên Hồn ma
Đầu
thai
kiếp
khác
2
3
Bạch Hạc
Giang thần
truyện
x x x x xx
2
4
Long Đỗ
chính khí thần
truyện
x x x x x
2
5
Quốc Sư lập
Sóc Thiên
Vương từ
x xx x
2
6
Hoằng Thánh
Đại Vương Từ
x x x
2
7
Khai Thiên
Đằng Châu
thần truyện
x x x x xx
2
8
Mỵ Ê Trinh
liệt phu nhân
truyện
x x x
2
9
Ứng Thiên
hoá dục Hậu
thổ thần
x x xx xxx x xx
x
3
0
Hồng Lĩnh sơn
thần truyện
x x x x
3
1
Vọng Phu sơn
thần truyện
x x
3
2
Tiên Du Kim
Ngưu tích
truyện
x
3
3
Bố Bái thần
truyện
x xx x
3
4
Lâm Đàm thần
truyện
x x x
3
5
Long trảo
khước lỗ
truyện
x x x x
3
6
Phùng Bố Cái
Đại Vương
truyện
x x
3
7
Đinh Tiên
Hoàng ký
x x
3
8
Minh chủ
Đồng Cổ sơn
thần truyện
x xx x x
3
9
Mục Thận
truyện
x x x
4
0
Hạ Bì dị nhân
ký
x x x
4
1
Hồi thiên
trung liệt Đại
Vương truyện
x x xx x x
1 Sĩ Nhiếp x x x VIỆT
ĐIỆN 2 Phùng Hưng
x x x xx
Mộng Thờ cúng, khấn vái Điềm báo Linh ứng Tướng số, phép thuật Hồn ma, hoá kiếp
Tác phẩm
S
T
T
Tên
truyện
Giấc
mộng
Báo
mộn
g
Cầu
đảo
Th
ờ
cún
g
Khấn
vái
Lập
miếu,
tạc
tượng,
phong
thần
Điềm
lành
Điềm
giữ
Qu
ả
báo
ứng
báo
Biến
hoá
Thầy
địa lý
chỉ
đất
thiêng
Xem
tướng
số, bói
toán
Phép
thuậ
t
H
oá
ki
ếp
ng
ư
ời
V
ật
Hoá
kiếp
Người
Tiên Hồn ma
Đầu
thai
kiếp
khác
3 Triệu Quang
Phục
x xx x
4 Hậu Tắc x x
5 Nhị Trưng phu
nhân
xx x xx x
6 Mỵ Ê x x xx x
7 Lý Hoảng x xx x xx
8 Lý Ông Trọng x x xx x
9 Lý Thường
Kiệt
x
1
0
Tô Bá xx x xx x
1
1
Phạm Cự
Lương
xx x x
1
2
Lê Phụng
Hiểu
x x x
1
3
Mục Thận x x x x
1
4
Trương Hồng,
Trương Hát
xx x x x xx
1
5
Lý Phục Man x x
U
LINH
1 Lý Đô Uý x x xx x x
6
1
7
Cao Lỗ x x
1
8
Hậu Thổ Phu
nhân
x x x x x x xx
1
9
Đồng Cổ x xx x x
2
0
Long Đỗ
vương khí
x x x
2
1
Khai Nguyên
thần
x x x x
2
2
Phù Đổng thổ
địa thần
x xx x
2
3
Đằng Châu địa
thổ thần
x x x x
2
4
Bạch Hạc thổ
thần
x xx x xx
2
5
Hải Thanh
quận
x x x
2
6
Nam Hải Long
Vương
x x x x x
1 Trúc Lâm thị
tịch
x x NAM
ÔNG
2 Tăng Đạo thần
thông
x
Mộng Thờ cúng, khấn vái Điềm báo Linh ứng Tướng số, phép thuật Hồn ma, hoá kiếp
Tác phẩm
S
T
T
Tên
truyện
Giấc
mộng
Báo
mộn
g
Cầu
đảo
Th
ờ
cún
g
Khấn
vái
Lập
miếu,
tạc
tượng,
phong
thần
Điềm
lành
Điềm
giữ
Qu
ả
báo
ứng
báo
Biến
hoá
Thầy
địa lý
chỉ
đất
thiêng
Xem
tướng
số, bói
toán
Phép
thuậ
t
H
oá
ki
ếp
ng
ư
ời
V
ật
Hoá
kiếp
Người
Tiên Hồn ma
Đầu
thai
kiếp
khác
3 Tấu chương
minh nghiệm
x x xx
MỘNG
LỤC 4 Áp lãng Chân x x x
Nhân
5 Minh Không
thần dị
x x
6 Nhập mộng
liệu bệnh
x x
7 Ni sư Đức
Hạnh
x x
1 Mai Châu yêu
nữ truyện
xx
2 Nhị Nữ thần
truyện
x
3 Hoa quốc kỳ
duyên
xxx
x
xx
x
4 Ngư gia chí dị x x
5 Ngọc nữ quy
chân chủ
6 Hiếu để nhị
thần truyện
x
7 Dương phu
truyện
x x x x
8 Trần nhân cư
thuỷ phủ
x x
9 Lãng Bạc
phùng tiên
x
1
0
Thử tinh
truyện
x x x
1
1
Nhất thư thủ
thần nữ
x x
1
2
Lưỡng Phật
đấu thuyết
ký
x
THÁNH
TÔNG
DI
THẢO
1
3
Mộng ký xx x xx x
1 Hạng Vương
Từ kí
x
2 Khoái Châu
nghĩa phụ
truyện
x x
TRUYỀN
KỲ 3 Mộc miên thụ x xx
truyện
4 Trà Đồng
giáng đán lục
x x x xx
5 Tây Viên kỳ
ngộ ký
x x x
6 Long Đình đối
tung lục
xx
7 Đào Thị
nghiệp oan ký
x x x x x
MẠN
LỤC
8 Tản Viên từ
phán sự lục
x x x x
Mộng Thờ cúng, khấn vái Điềm báo Linh ứng Tướng số, phép thuật Hồn ma, hoá kiếp
Tác phẩm
S
T
T
Tên
truyện
Giấc
mộng
Báo
mộn
g
Cầu
đảo
Th
ờ
cún
g
Khấn
vái
Lập
miếu,
tạc
tượng,
phong
thần
Điềm
lành
Điềm
giữ
Qu
ả
báo
ứng
báo
Biến
hoá
Thầy
địa lý
chỉ
đất
thiêng
Xem
tướng
số, bói
toán
Phép
thuậ
t
H
oá
ki
ếp
ng
ư
ời
V
ật
Hoá
kiếp
Người
Tiên Hồn ma
Đầu
thai
kiếp
khác
9 Từ Thức tiên
hôn lục
x
1
0
Phạm Tử Hư du
Thiên Tào lục
x x
1
1
Xương Giang
yêu quái lục
x x x xx
1
2
Na Sơn tiều
đối lục
x
1
3
Đông Triều
phế tự lục
x x x x x
1
4
Thuý Tiêu
truyện
x
1
5
Đà Giang dạ
ẩm kí
x
x
1
6
Nam Xương
nữ tử truyện
x x x x
1
7
Lý tướng quân
truyện
x x x
1
8
Lệ Nương
truyện
xx xx
1
9
Kim Hoa thi
thoại ký
x x
2
0
Dạ Xoa bộ
soái lục
x x x x
1 Sóc Thiên
Vương sự tích
ký
x x xxx xx x
2 Thanh Sơn
Đại Vương
x x x
VIỆT ĐIỆN
U LINH
TỤC BỘ
3 Kiền Hải môn
từ
x x x
1 Cô Đào x x
2 Đế Thích x xx x x xx
x
xx x x
3 Ngôi đền
thiêng ở Trung
Hoa
x
4 Cường bạo
Đại Vương
x x x xx
x
x
5 Đinh Tiên
Hoàng
x xx x x
6 Hổ ông ở
Tống Sơn
xx x
7 Cọp báo số
mệnh người
x x x
8 Truyện Hồ Ba
Bể
x x x
9 Miếu Phạm
Nhan
x x x x x
1
0
Sư chăn trâu x x x x xxx x xx x
CÔNG
DƯ
TIỆP
KÝ
1
1
Nhà sư Bật Sô x x x x
Tác phẩm S Tên Mộng Thờ cúng, khấn vái Điềm báo Linh ứng Tướng số, phép thuật Hồn ma, hoá kiếp
T
T
truyện
Giấc
mộng
Báo
mộn
g
Cầu
đảo
Th
ờ
cún
g
Khấn
vái
Lập
miếu,
tạc
tượng,
phong
thần
Điềm
lành
Điềm
giữ
Qu
ả
báo
ứng
báo
Biến
hoá
Thầy
địa lý
chỉ
đất
thiêng
Xem
tướng
số, bói
toán
Phép
thuậ
t
H
oá
ki
ếp
ng
ư
ời
V
ật
Hoá
kiếp
Người
Tiên Hồn ma
Đầu
thai
kiếp
khác
1
2
Đạp đầu
Thuồng Luồng
oai thần hiển
hách
x x xx x
1
3
Ngôi mộ họ
Trần
xx x x
1
4
Truyện Trâu
Canh
x x x
1
5
Điền Quận
Công
x xxx xx
xx
xx x xx
1
6
Truyện
Nguyễn Giám
Sinh
xx x x xx
1
7
Suối rắn x x
1
8
Dóng ngựa thi
thơ
x xx xx
x
x
1
9
Thám hoa
được giáng
xuống Phù
Khê
x x x
2
0
Thủ khoa mặt
đẹp
x x x
2
1
Tìm đất đền
ơn
xx x
2
2
Thương thư
Lương Hữu
Khánh
x x
2
3
Nhận ra mẹ đẻ x x x xx x x
1 Gái hoá trai x x x x
2 Động Hồ
Công
x x x x
3 Ông sư tiên
núi Nưa
xx
4 Thi đỗ do tiền
định
x x
5 Cờ vàng cắm
trên lều thi
x x
6 Không được!
không được!
x x
SƠN
CƯ
TẠP
THUẬT
7 Trạng Nguyên
đạo sĩ
x x
1 Cá voi x x
2 Thần hồ Động
Đình
xx xxx
xx
x x x xx
xx
x
3 Nguyễn Kính x x x
VŨ
TRUNG
TUỲ
BÚT
4 Ông Nguyễn
Trọng Thường
xx x x
Mộng Thờ cúng, khấn vái Điềm báo Linh ứng Tướng số, phép thuật Hồn ma, hoá kiếp
Tác phẩm
S
T
T
Tên
truyện
Giấc
mộng
Báo
mộn
g
Cầu
đảo
Th
ờ
cún
g
Khấn
vái
Lập
miếu,
tạc
tượng,
phong
thần
Điềm
lành
Điềm
giữ
Qu
ả
báo
ứng
báo
Biến
hoá
Thầy
địa lý
chỉ
đất
thiêng
Xem
tướng
số, bói
toán
Phép
thuậ
t
H
oá
ki
ếp
ng
ư
ời
V
ật
Hoá
kiếp
Người
Tiên Hồn ma
Đầu
thai
kiếp
khác
5 Ông Phạm
Ngũ Lão
x xx
6 Ông Đỗ Uông x x
7 Nhà họ
Nguyễn ở Tiên
Điền
xxx x
8 Mộng và số x
9 Điềm quái gở x x
1
0
Việc thi cử x x
1 An Mô nông
phu
x x
2 Dùng Giang x x
3 Thành đạo tử x x
4 Nôi đạo
trường
x xx
x
5 Phạm Viên dật
sự
x x x x
6 Càn sát quỷ
mẫu
x xx
7 Nguyễn Công
Đăng Cảo
x x
8 Trấn Võ Quán x x xx x x x
9 Lê công Thì
Hiến
x
1
0
Hoá hổ x
x
1
1
Đồng Xuân
quỷ
x x
1
2
Đỗ Công
Uông
x x xx x
1
3
Độc Giang x x x x x
1
4
Võ Công Trấn x x xx
1
5
Bằng quận
công tổ phần
xx x x
1
6
Như Kinh
nông phu
x
1
7
Kiếm hồ x
1
8
Nguyễn Công
Hãng
xx xx
1
9
Đoàn phu
nhân liệt phụ
x x
TANG
THƯƠNG
NGẪU
LỤC
2 Kinh thành x x
0 dung
2
1
Lê Công Anh
Tuấn
x
Mộng Thờ cúng, khấn vái Điềm báo Linh ứng Tướng số, phép thuật Hồn ma, hoá kiếp
Tác phẩm
S
T
T
Tên
truyện
Giấc
mộng
Báo
mộn
g
Cầu
đảo
Th
ờ
cún
g
Khấn
vái
Lập
miếu,
tạc
tượng,
phong
thần
Điềm
lành
Điềm
giữ
Qu
ả
báo
ứng
báo
Biến
hoá
Thầy
địa lý
chỉ
đất
thiêng
Xem
tướng
số, bói
toán
Phép
thuậ
t
H
oá
ki
ếp
ng
ư
ời
V
ật
Hoá
kiếp
Người
Tiên Hồn ma
Đầu
thai
kiếp
khác
2
2
Đàm công
Thận Huy
x x
2
3
Dương công
Bang Bảng
x
2
4
Đông Liệt sơn x x
2
5
Lê Công Trãi xx xx
x
x xx xx
x
x x
2
6
Dã tự Già Lam x
2
7
Dương Công
Cảo
x x
2
8
Tiên quận
chúa
x x
2
9
Nguyễn Trật x x
3
0
Linh Lang từ
x x
1 Lôi thủ pha x x
2 Cần Hải thần x x x
3 Xà sinh x
4 Hải đảo tiên x
5 Nguyễn
Quỳnh
x
6 Sản dị x
LAN
TRÌ
KIẾN
VĂN
LỤC 7 Tái sinh x x
8 Nữ biến thành
nam
x x
9 Thanh Trì tình
trái
x
1
0
Thần ngự x x
1
1
Ngộ tiền sinh x
1
2
Tàng thần x x x
1
3
Quỷ đấu x
1
4
Nguyễn Danh
Dược
x x
1
5
Ký tam sinh xxx
1
6
Linh xà xx
1
7
Hải Sơn động
Mộng Thờ cúng, khấn vái Điềm báo Linh ứng Tướng số, phép thuật Hồn ma, hoá kiếp
Tác phẩm
S
T
T
Tên
truyện
Giấc
mộng
Báo
mộn
g
Cầu
đảo
Th
ờ
cún
g
Khấn
vái
Lập
miếu,
tạc
tượng,
phong
thần
Điềm
lành
Điềm
giữ
Qu
ả
báo
ứng
báo
Biến
hoá
Thầy
địa lý
chỉ
đất
thiêng
Xem
tướng
số, bói
toán
Phép
thuậ
t
H
oá
ki
ếp
ng
ư
ời
V
ật
Hoá
kiếp
Người
Tiên Hồn ma
Đầu
thai
kiếp
khác
1
8
Thụ yêu x x x
1
9
Nhân hổ x
2
0
Báo ân tháp x x x x
2
1
Kỳ mộng x x
2
2
Nguyễn Khắc
Hoành
X
2
3
Tiên ăn mày x x
1 Nốt đỏ ở chân x x
2 Bảng nhãn họ
Hà
x x x
3 Tổng đốc họ
Nguyễn
x
4 Cưới vợ dưới
âm phủ
x x x x x
5 Làm đầy tớ hổ x
x
x
6 Gái đội lốt rùa x x
HÁT
ĐÔNG
THƯ
DỊ
7 Tiên ở dưới
nước
xx
x
x
1 Hải khẩu linh
từ lục
x xx xx x xxx
x
x xx x
2 An Ấp liệt nữ xx x x x x x
3 Vân Cát thần
nữ
x x x x xx x xx
x
xx x x
TRUYỀN
KỲ
TÂN
PHẢ
4 Bích Câu kỳ
ngộ
xx
x
x xxx x xx
x
x x xxx
x
1 Truyện Tú
Uyên
x xx xx
2 Truyện luân
hồi kiếp trước
xx
3 Mộng lạ Trần
Bá Kiên
x
4 Truyện
Trương Ba
x x x x xx
THÍNH
VĂN
DỊ
LỤC
5 Nguyễn Văn
Đạt ở Đường
An
x x x
1 Tiên nhân
Phạm Viên ký
x x x NAM
THIÊN
TRÂN 2 Tiến sĩ Trần xx x xx x
Danh Tiêu ký
3 Lê Kính ký x x
Mộng Thờ cúng, khấn vái Điềm báo Linh ứng Tướng số, phép thuật Hồn ma, hoá kiếp
Tác phẩm
S
T
T
Tên
truyện
Giấc
mộng
Báo
mộn
g
Cầu
đảo
Th
ờ
cún
g
Khấn
vái
Lập
miếu,
tạc
tượng,
phong
thần
Điềm
lành
Điềm
giữ
Qu
ả
báo
ứng
báo
Biến
hoá
Thầy
địa lý
chỉ
đất
thiêng
Xem
tướng
số, bói
toán
Phép
thuậ
t
H
oá
ki
ếp
ng
ư
ời
V
ật
Hoá
kiếp
Người
Tiên Hồn ma
Đầu
thai
kiếp
khác
DI TẬP 4 Loa Đại
Vương truyện
ký
x x
1 Thách thức
với thần
xx x x xx x
2 Ông tiên Đông
Thành
x x
THOÁI
THỰC
KÝ VĂN
3 Biết chuyện
kiếp trước
x xx
1 Bách nhật ngải x
2 Nghiễn thử x
3 Hổ Trành x x
4 Tỉ muội dịch
nhi
x
5 Minh quý x xx
6 Cố tử khoán x
7 Tướng cốt x x
8 Phóng đồ dao x x
9 Thần nữ x x x
1
0
Qua bằng hữu
lễ
x
1
1
Na sơn kỳ tích x
1
2
Hồng mai hiệp
cốt
x x
VÂN
NANG
TIỂU
SỬ
1 Địa lý thiên lý x x
3
1 Vua bà Lệ Hải x x x x x x
2 Mai Hắc Đế x x x
TÂN ĐỈNH HIỆU
BÌNH VIỆT ĐIỆN
U LINH TẬP 3 Hai tướng
quân ở Trường
Tân
x x
1 Việt Nam kỳ
phùng sự lục
x x VIỆT NAM KỲ
PHÙNG SỰ LỤC
2 Ngọc thân
huyền hoá
x x x
Mộng Thờ cúng, khấn vái Điềm báo Linh ứng Tướng số, phép thuật Hồn ma, hoá kiếp
Tác phẩm
S
T
T
Tên
truyện
Giấc
mộng
Báo
mộn
g
Cầu
đảo
Th
ờ
cún
g
Khấn
vái
Lập
miếu,
tạc
tượng,
phong
thần
Điềm
lành
Điềm
giữ
Qu
ả
báo
ứng
báo
Biến
hoá
Thầy
địa lý
chỉ
đất
thiêng
Xem
tướng
số, bói
toán
Phép
thuậ
t
H
oá
ki
ếp
ng
ư
ời
V
ật
Hoá
kiếp
Người
Tiên Hồn ma
Đầu
thai
kiếp
khác
1 Hồi thứ nhất xx xx
2 Hồi thứ hai x x x x x
3 Hồi thứ ba x x xx xx
4 Hồi thứ tư x xx x x
5 Hồi thứ năm x
6 Hồi thứ mười x x x
7 Hồi thứ mười
bốn
x x
HOÀNG
LÊ
NHẤT
THỐNG
CHÍ
8 Hồi thứ mười
bảy
x
PHỤ LỤC 3: THỐNG KÊ HIỆN TƯỢNG LẺ TÁC PHẨM / HIỆN TƯỢNG LẺ CÁC TÁC PHẨM
Mộng Thờ cúng, khấn vái Điềm báo Linh ứng Xem tướng số, phép thuật Hồn ma, hoá kiếp
S
tt Tên tác phẩm
Giấc
mộng
SL/%
Báo
mộng
SL/%
Cầu
đảo
SL/
%
Thờ
Cúng
SL/%
Khấn
Vái
SL/%
Lập
miếu,
tạc
tượng,
phong
thần
SL/%
Điềm
lành
SL/%
Điềm
giữ
SL/%
Quả
báo
SL/%
Ứng
Báo
SL/%
Biến
Hoá
SL/
%
Thầy
địa lý
chỉ đất
thiêng
SL/%
Tướng
số, bói
toán
SL/%
Phép
thuật
SL/%
Hoá
kiếp
Người
Vật
SL/%
Hoá
kiếp
Người
Tiên
SL/%
Hồn
Ma
SL/%
Đầu
thai
kiếp
khác
SL/%
1 Lĩnh Nam Chích Quái 14 16.7
11
18.6
8
19.0
6
19.4
8
13.3
36
34.0
5
27.8
3
14.3
4
9.8
23
13.7
7
0.7
1
6.7
1
4.2
11
19.6
5
20.0
2
8.7
3
5.5
2
13.3
2 Việt Điện U Linh 15 17.9
12
20.3
8
19.0
8
25.8
6
10.0
32
30.2
3
16.7
- - 26
15.5
1
0.1
- - - - - 2
3.6
-
3 Nam Ông Mộng Lục 1 1.2
- 1
2.4
- 1
1.7
- 2
11.1
- 1
2.4
5
3.0
- - 1
4.2
3
5.4
- - - 1
6.7
4 Thánh Tông Di Thảo 7 8.3
- - 1
3.2
3
5.0
1
0.9
- - 1
2.4
4
2.4
- - - 1
1.8
1
4.0
4
17.4
5
9.1
-
5 Việt Điện U Linh Tục Bổ 1 1.2
- 2
4.8
- 1
1.7
5
4.7
- - - 4
2.4
1
0.1
- - - - - - -
6 Truyền Kỳ Mạn Lục 5 6.0
3
5.1
2
4.8
3
9.7
7
11.7
1
0.9
- 1
4.8
2
4.9
11
6.5
- - 5
20.8
3
5.4
- 2
8.7
11
20
-
7 Công Dư Tiệp Kí 2 2.4
6
10.2
5
11.9
6
19.4
8
13.3
10
9.4
1
5.6
1
4.8
13
31.7
29
17.3
- 5
33.3
3
12.5
11
19.6
4
16.0
- 7
12.7
1
6.7
8 Sơn Cư Tạp Thuật 2 2.4
1
1.7
- 1
3.2
1
1.7
1
0.9
- - 2
4.9
5
3.0
- 1
6.7
- 3
5.4
- - 1
1.8
-
9 Vũ Trung Tuỳ Bút 9 10.7
5
8.5
1
2.4
- 3
5.0
- - 2
9.5
3
7.3
10
6.0
- 1
6.7
2
8.3
1
1.8
1
4.0
- - -
10 Tang Thương Ngẫu Lục 5 6.0
5
8.5
3
7.1
- 4
6.7
6
5.7
2
11.1
4
19.0
5
12.2
21
12.5
- 4
26.7
6
25.0
8
14.3
5
20.0
1
4.3
10
18.2
-
11 Lan Trì Kiến Văn Lục 3 3.6
3
5.1
- 2
6.5
3
5.0
3
2.8
- - 2
4.9
7
4.2
1
0.1
- - - 2
8.0
3
13.0
5
9.1
6
40.0
12 Hát Đông Thư Dị -
- 3
7.1
- 2
3.3
1
0.9
- - 1
2.4
3
1.8
- 1
6.7
- 3
5.4
4
16.0
1
4.3
1
1.8
-
13 Truyền Kỳ Tân Phả 4 4.8
6
10.2
3
7.1
1
3.2
7
11.7
4
3.8
1
5.6
4
19.0
2
4.9
9
5.4
- - 2
8.3
3
5.4
- 5
21.7
- 1
6..7
Mộng Thờ cúng, khấn vái Điềm báo Linh ứng Xem tướng số, phép thuật Hồn ma, hoá kiếp
S
tt Tên tác phẩm
Giấc
mộng
SL/%
Báo
mộng
SL/%
Cầu
đảo
SL/
%
Thờ
Cúng
SL/%
Khấn
Vái
SL/%
Lập
miếu,
tạc
tượng,
phong
thần
SL/%
Điềm
lành
SL/%
Điềm
giữ
SL/%
Quả
báo
SL/%
Ứng
Báo
SL/%
Biến
Hoá
SL/
%
Thầy
địa lý
chỉ đất
thiêng
SL/%
Tướng
số, bói
toán
SL/%
Phép
thuật
SL/%
Hoá
kiếp
Người
Vật
SL/%
Hoá
kiếp
Người
Tiên
SL/%
Hồn
Ma
SL/%
Đầu
thai
kiếp
khác
SL/%
14 Thính Văn Dị Lục 2 2.4
- - - 2
3.3
1
0.9
- - 1
2.4
1
0.6
- - - 5
9.0
- 3
13.0
- 2
13.3
15 Nam Thiên Trân Dị Tập 2 2.4
2
3.4
- - - - - - - 5
3.0
- 1
6.7
1
4.2
1
1.8
- - 1
1.8
-
16 Thoái Thực Ký Văn -
2
3.4
- 1
3.2
1
1.7
- - - 2
4.9
- - - - 1
1.8
1
4.0
1
4.3
1
1.8
2
13.3
17 Vân Nang Tiểu Sử 6 7.1
1
1.7
1
2.4
- - 1
0.9
- - 1
2.4
3
1.8
- 1
6.7
1
4.2
1
1.8
1
4.0
1
4.3
4
7.3
-
18 Tân Đính Hiệu Bình Việt Điện U Linh Tập
2
2.4
1
1.7
1
2.4
- - 3
2.8
1
5.6
- - 1
0.6
- - - 1
1.8
- - 1
1.8
-
19 Việt Nam Kì Phùng Sự Lục 1 1.2
- 1
2.4
- - 1
0.9
- - - - - - - - 1
4.0
- 1
1.8
-
20 Hoàng Lê Nhất Thống Chí 3 3.6
1
1.7
3
7.1
2
6.5
3
5.0
- 3
16.7
6
28.6
1
2.4
1
0.6
- - 2
8.3
- - - 2
3.6
-
Tổng: 84 59 42 31 60 106 18 21 41 168 10 15 24 56 25 23 55 15
PHỤ LỤC 4: THỐNG KÊ HIỆN TƯỢNG TÁC PHẨM / HIỆN TƯỢNG TỔNG CÁC TÁC PHẨM
Mộng Thờ cúng, khấn vái Điềm báo Linh ứng
Xem tướng số,
phép thuật
Hồn ma,
hoá kiếp Tổng
S
tt Tên tác phẩm Số
lượng %
Số
lượng %
Số
lượng %
Số
lượng %
Số
lượng %
Số
lượng %
Số
lượng %
1 Lĩnh Nam Chích Quái 25 17.5 58 24.3 8 20.5 27 12.9 20 19.0 13 10.6 151 17.6
2 Việt Điện U Linh 27 18.9 54 22.6 3 7.7 26 12.4 1 1.0 2 1.6 113 13.2
3 Nam Ông Mộng Lục 1 0.7 2 0.8 2 5.1 6 2.9 4 3.8 1 0.8 16 1.9
4 Thánh Tông Di Thảo 7 4.9 5 2.1 - - 5 2.4 1 1.0 12 9.8 30 3.5
5 Việt Điện U Linh Tục Bổ 1 0.7 8 3.3 - - 4 1.9 1 1.0 - - 14 1.6
6 Truyền Kỳ Mạn Lục 8 5.6 13 5.4 1 2.6 13 6.2 8 7.6 14 11.4 57 6.6
7 Công Dư Tiệp Kí 8 5.6 29 12.1 2 5.1 42 20.0 19 18.1 12 9.8 112 13.1
8 Sơn Cư Tạp Thuật 3 2.1 3 1.3 - - 7 3.3 4 3.8 1 0.8 18 2.1
9 Vũ Trung Tuỳ Bút 14 9.8 4 1.7 2 5.1 13 6.2 4 3.8 1 0.8 38 4.4
10 Tang Thương Ngẫu Lục 10 7.0 13 5.4 6 15.4 26 12.4 18 17.1 16 13.0 89 10.4
11 Lan Trì Kiến Văn Lục 6 4.2 8 3.3 - - 9 4.3 1 1.0 17 13.8 41 4.8
12 Hát Đông Thư Dị - - 6 2.5 - - 4 1.9 4 3.8 6 4.9 20 2.3
13 Truyền Kỳ Tân Phả 10 7.0 15 6.3 5 12.8 11 5.3 5 4.8 6 4.9 52 6.1
14 Thính Văn Dị Lục 2 1.4 3 1.3 - - 2 1.0 5 4.8 5 4.1 17 2.0
15 Nam Thiên Trân Dị Tập 4 2.8 - - - - 5 2.4 3 2.9 1 0.8 13 1.5
16 Thoái Thực Ký Văn 2 1.4 2 0.8 - - 2 1.0 1 1.0 5 4.1 12 1.4
17 Vân Nang Tiểu Sử 7 4.9 2 0.8 - - 4 1.9 3 2.9 6 4.9 22 2.6
18 Tân Đính Hiệu Bình Việt Điện U Linh Tập 3 2.1 4 1.7 1 2.6 1 0.5 1 1.0 1 0.8 11 1.3
19 Việt Nam Kì Phùng Sự Lục 1 0.7 2 0.8 - - - - - - 2 1.6 5 0.6
20 Hoàng Lê Nhất Thống Chí 4 2.8 8 3.3 9 23.1 2 1.0 2 1.9 2 1.6 27 3.1
Tổng 143 239 39 209 105 123 858
PHỤ LỤC 5: THỐNG KÊ HIỆN TƯỢNG / TỔNG HIỆN TƯỢNG TỪNG TÁC PHẨM
Mộng Thờ cúng, khấn vái Điềm báo Linh ứng
Xem tướng số,
phép thuật
Hồn ma,
hoá kiếp Tổng
S
tt Tên tác phẩm Số
lượng %
Số
lượng %
Số
lượng %
Số
lượng %
Số
lượng %
Số
lượng %
Số
lượng
1 Lĩnh Nam Chích Quái 25 16.6 58 34.8 8 5.3 27 17.9 20 13.2 13 8.6 151
2 Việt Điện U Linh 27 24.0 54 47.8 3 2.7 26 23.0 1 0.9 2 1.8 113
3 Nam Ông Mộng Lục 1 6.3 2 12.5 2 12.5 6 37.5 4 25.0 1 6.3 16
4 Thánh Tông Di Thảo 7 23.3 5 16.7 - 5 16.7 1 3.3 12 40.0 30
5 Việt Điện U Linh Tục Bổ 1 7.1 8 57.1 - 4 28.6 1 7.1 - 14
6 Truyền Kỳ Mạn Lục 8 14.0 13 22.8 1 1.8 13 22.8 8 14.0 14 24.6 57
7 Công Dư Tiệp Kí 8 7.1 29 25.9 2 1.8 42 37.5 19 17.0 12 10.7 112
8 Sơn Cư Tạp Thuật 3 16.7 3 16.7 - 7 38.9 4 22.2 1 5.6 18
9 Vũ Trung Tuỳ Bút 14 36.8 4 10.5 2 5.3 13 34.2 4 10.5 1 2.6 38
10 Tang Thương Ngẫu Lục 10 11.2 13 14.6 6 6.7 26 29.2 18 20.2 16 18.0 89
11 Lan Trì Kiến Văn Lục 6 14.6 8 19.5 - 9 22.0 1 2.4 17 41.5 41
12 Hát Đông Thư Dị - 6 30.0 - 4 20.0 4 20.0 6 30 20
13 Truyền Kỳ Tân Phả 10 19.2 15 28.8 5 9.6 11 21.2 5 9.6 6 11.5 52
14 Thính Văn Dị Lục 2 11.8 3 17.6 - 2 11.8 5 29.4 5 29.4 17
15 Nam Thiên Trân Dị Tập 4 30.8 - - 5 38.5 3 23.1 1 7.7 13
16 Thoái Thực Ký Văn 2 16.7 2 16.7 - 2 16.7 1 8.3 5 41.7 12
17 Vân Nang Tiểu Sử 7 31.8 2 9.1 - 4 18.2 3 13.6 6 27.3 22
18 Tân Đính Hiệu Bình Việt Điện U Linh Tập
3 27.3 4 36.4 1 9.1 1 9.1 1 9.1 1 9.1 11
19 Việt Nam Kì Phùng Sự Lục 1 20.0 2 40.0 - - - 2 40 5
20 Hoàng Lê Nhất Thống Chí 4 14.8 8 29.6 9 33.3 2 7.4 2 7.4 2 7.4 27
Tổng: 143 16.7 239 27.9 39 4.5 209 24.4 105 12.2 123 14.3 858
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LA7105.pdf