MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ngày 5-8-2003 Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá IX) ra Nghị quyết số 32-NQ/TW về xây dựng và phát triển thành phố Hải Phòng trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đây là sự kiện có ý nghĩa lịch sử mở ra giai đoạn phát triển mới của thành phố. Nghị quyết nhấn mạnh: Hải Phòng là thành phố cảng công nghiệp hiện đại; đô thị trung tâm cấp quốc gia, đầu mối giao thông quan trọng và cửa chính ra biển của các tỉnh phía Bắc, một cực tăng
132 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1748 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Văn hóa giải trí ở thành phố Hải Phòng trong thời kỳ đổi mới hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
trưởng quan trọng của vùng kinh tế động lực phía Bắc, một động lực phát triển kinh tế biển, một trong những trung tâm công nghiệp, thương mại lớn của cả nước và trung tâm dịch vụ, du lịch, thủy sản, giáo dục, y tế của vùng duyên hải Bắc Bộ...
Trong những năm đổi mới Hải Phòng đã có bước phát triển mạnh mẽ về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân thành phố được nâng lên rõ rệt. Các hoạt động sản xuất - kinh doanh, thương mại, du lịch, dịch vụ, giáo dục, thông tin, văn hóa thể thao... diễn ra sôi động, thu hút đông đảo các tầng lớp dân cư thành phố.
Hải Phòng là vùng đất có truyền thống văn hóa lâu đời, có nhiều danh lam thắng cảnh, di tích lịch sử, nhiều lễ hội dân gian đặc sắc, có khu du lịch biển, đảo (Đồ Sơn, Cát Bà...) là những địa điểm rất thuận lợi cho việc khai thác, tổ chức các hoạt động văn hóa giải trí cho nhân dân. Bên cạnh đó, sự phát triển các phương tiện thông tin đại chúng, sự đa dạng của hệ thống thiết chế văn hóa: Bảo tàng, thư viện, nhà văn hóa, cung văn hoá, nhà thi đấu TDTT, sự sôi động trong các hoạt động văn hóa nghệ thuật... đã đáp ứng nhu cầu tinh thần ngày càng phong phú và đa dạng của các tầng lớp nhân dân, góp phần giữ ổn định chính trị, phát triển kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tích đã đạt được trong phát triển văn hoá, thành phố Hải Phòng cũng còn có những tồn tại, yếu kém trong hoạt động này:
- Một số cấp, ngành thành phố chưa có nhận thức đầy đủ về vị trí, vai trò của văn hoá, văn hoá giải trí, còn quá coi trọng khía cạnh kinh tế trong lĩnh vực giải trí, coi nhẹ yếu tố văn hóa, cảnh quan, môi trường.
- Quá trình đô thị hoá nhanh khiến diện tích đất dành cho các hoạt động giải trí công cộng (nhất là dành cho trẻ em) ngày càng bị thu hẹp lại. Một số cấp, ngành, đơn vị, đoàn thể chưa thực sự quan tâm đến việc đẩy mạnh hoạt động văn hóa vui chơi giải trí cho người dân nên dẫn đến tình trạng thiếu điểm vui chơi giải trí và các nội dung hoạt động phù hợp, hoặc xuất hiện các loại hình trò chơi, cách chơi gây tổn hại tới sức khoẻ, tới kinh tế, tới việc hình thành nhân cách, ảnh hưởng tới trật tự an toàn xã hội.
- Với sự phát triển mạnh mẽ của các thành phần kinh tế, nhiều doanh nghiệp ngoài quốc doanh, công ty liên doanh, công ty có vốn đầu tư nước ngoài ra đời, số lượng công nhân lao động tăng nhanh nhưng tại nhiều doanh nghiệp, công nhân lao động phải làm việc trong những điều kiện hết sức khắc nghiệt, thời gian lao động và cường độ lao động cao, thu nhập thấp, ít được quan tâm đáp ứng nhu cầu văn hoá tinh thần, nhu cầu vui chơi giải trí nhằm tái sản xuất sức lao động. Có thể nói văn hóa giải trí cho số công nhân lao động ở đây còn rất ít được quan tâm, chú ý.
- Thành phố chưa phát huy hết các tiềm năng hiện có để phát triển lĩnh vực vui chơi giải trí như các tiềm năng trong du lịch, dịch vụ văn hoá công cộng, văn hoá nghệ thuật, phương tiện thông tin đại chúng... Chưa huy động được tốt các nguồn lực trong nước và nước ngoài đầu tư trong lĩnh vực vui chơi giải trí.
Những tồn tại nêu trên cần sớm được khắc phục nhằm thúc đẩy sự phát triển văn hóa giải trí ở thành phố Hải Phòng trong thời gian tới. Việc lựa chọn và nghiên cứu đề tài "Văn hóa giải trí ở thành phố Hải Phòng trong thời kỳ đổi mới hiện nay" sẽ góp phần vào việc tìm hiểu, phân tích, đánh giá thực trạng hoạt động văn hoá giải trí ở thành phố Hải Phòng trong thời gian qua, từ đó đề xuất phương hướng và giải pháp nhằm đưa văn hoá giải trí ở Hải Phòng trong thời gian tới tiếp tục phát triển mạnh mẽ và đúng hướng, góp phần đáp ứng nhu cầu văn hoá ngày càng đa dạng, phong phú của các tầng lớp nhân dân thành phố.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong những năm gần đây, việc nghiên cứu văn hóa giải trí và các hoạt động văn hoá vui chơi giải trí đã được một số nhà nghiên cứu, lý luận văn hóa, quản lý văn hóa quan tâm, đã có một số đề tài, công trình của các tác giả đi trước đề cập đến những vấn đề mà luận văn nghiên cứu.
- Đề tài "Nghiên cứu phát triển các hoạt động văn hóa vui chơi giải trí ở Hà Nội - thực trạng và giải pháp" do PGS.TS Phạm Duy Đức làm chủ nhiệm, Sở Văn hóa Thông tin Hà Nội là cơ quan chủ trì, thực hiện năm 2003 và công trình "Hoạt động giải trí ở đô thị Việt Nam hiện nay những vấn đề lý luận và thực tiễn"do PGS.TS Phạm Duy Đức (chủ biên) [22] đã phân tích một số vấn đề lý luận về văn hoá giải trí, đánh giá thực trạng hoạt động văn hoá giải trí ở Hà Nội và đề xuất các giải pháp phát triển các hoạt động văn hoá giải trí ở Hà Nội nói riêng, ở đô thị nước ta nói chung.
- Luận án tiến sĩ xã hội học của Đinh Thị Vân Chi, "Nhu cầu giải trí của thanh niên. Nghiên cứu khuôn mẫu giải trí của thanh niên và sự đáp ứng nhu cầu giải trí tại Hà Nội" [9] hoàn thành năm 2001 đã xác định quan niệm về giải trí và nhu cầu giải trí của thanh niên Hà Nội, các giải pháp đáp ứng nhu cầu giải trí trên địa bàn thành phố Hà Nội.
- Công trình, Vai trò của văn hóa dân gian trong các sân chơi trên truyền hình của PGS,TS. Trần Thị Trâm [49] đã khai thác các khía cạnh của văn hóa dân gian trong việc tổ chức các trò chơi giải trí trên truyền hình.
Về xây dựng và phát triển văn hoá ở thành phố Hải Phòng trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá cũng đã có những kết quả nghiên cứu bước đầu. Luận văn thạc sỹ Văn hoá học " Phương pháp và tổ chức hoạt động Cung văn hoá, Nhà văn hoá lao động trong thời kỳ đổi mới hiện nay" [7] hoàn thành năm 1998 và Luận án tiến sỹ Lịch sử " Giao tiếp và ứng xử với tư cách là thành tố văn hoá trong hoạt động doanh nghiệp thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước" [8] của tác giả Nguyễn Văn Bính, hoàn thành năm 2003 đã lấy Hải Phòng làm đối tượng khảo sát chủ yếu. Luận văn tốt nghiệp Đại học chính trị - Học viện CTQG Hồ Chí Minh (khoá 2000 - 2004) của tác giả Hoàng Đình Thi đã nghiên cứu "Báo chí Hải Phòng với nhiệm vụ xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc" [45]. Công trình "Lễ hội truyền thống văn hoá tiêu biểu Hải Phòng" do tác giả Trịnh Minh Hiên (chủ biên) [24] đã đề cập đến một số lĩnh vực của văn hoá giải trí ở Hải Phòng như: Lễ hội dân gian, các phương tiện thông tin đại chúng và các thiết chế văn hoá...Tuy nhiên, đó cũng chỉ là một phần của bức tranh toàn cảnh về văn hóa và văn hoá giải trí của thành phố Hải Phòng, đến lượt mình, chúng tôi sẽ đi sâu hơn trong việc tái hiện bức tranh toàn cảnh về văn hoá giải trí ở thành phố Hải Phòng trong thời kỳ đổi mới hiện nay.
3. Mục đích, nhiệm vụ của đề tài
* Mục đích nghiên cứu:
Trên cơ sở phân tích bản chất, chức năng của văn hóa giải trí và vai trò của văn hoá giải trí, đề tài đi sâu tìm hiểu thực trạng hoạt động văn hóa giải trí ở Thành phố Hải Phòng trong thời kỳ đổi mới hiện nay, trên cơ sở đó đề xuất phương hướng và những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng hoạt động văn hóa giải trí, góp phần đáp ứng nhu cầu văn hóa tinh thần của các tầng lớp nhân dân, xây dựng và hoàn thiện nhân cách con người, thúc đẩy sự phát triển KT - XH, văn hoá của thành phố Cảng trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
* Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Phân tích bản chất của văn hóa giải trí, vai trò của văn hóa giải trí trong đời sống xã hội và sự phát triển, hoàn thiện con người.
- Điều tra, khảo sát đánh giá thực trạng văn hóa giải trí ở thành phố Hải Phòng.
- Đề xuất phương hướng, giải pháp nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả của văn hóa giải trí hướng tới xây dựng con người Hải Phòng năng động, sáng tạo trong thời kỳ đổi mới hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
- Đối tượng nghiên cứu: Văn hoá giải trí ở thành phố Hải Phòng
- Phạm vi nghiên cứu: Văn hóa giải trí là một vấn đề rộng lớn. Vì vậy đề tài chỉ tập trung làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận về văn hóa giải trí và phân tích, đánh giá thực trạng hoạt động của văn hoá giải trí ở thành phố Hải Phòng trong khoảng thời gian từ năm 2000 đến nay. Các phương hướng và giải pháp được đề xuất hướng tới năm 2010.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Đề tài được tiến hành trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Các phương pháp nghiên cứu được sử dụng là: phương pháp lịch sử và lôgíc, phương pháp so sánh, tổng hợp, thống kê và điều tra xã hội học, phương pháp liên ngành (đô thị học, văn hoá học, xã hội học...).
6- Đóng góp mới về khoa học của đề tài
- Làm sáng tỏ hơn khái niệm, đặc trưng, bản chất của văn hóa giải trí và vai trò của văn hoá giải trí đối với việc xây dựng, hoàn thiện con người và phát triển kinh tế - xã hội.
- Phân tích thực trạng văn hóa giải trí ở thành phố Hải Phòng trong thời gian qua.
- Đề xuất giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động văn hóa giải trí ở Thành phố Hải Phòng trong những năm tới.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
* Về phương diện lý luận:
- Nhận thức sâu sắc hơn quan điểm của Đảng ta về xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc trong thời kỳ đổi mới hiện nay.
- Phân tích và làm sáng tỏ vai trò của văn hóa giải trí trong việc nâng cao đời sống văn hoá tinh thần của nhân dân, phát triển KT - XH, xây dựng và hoàn thiện nhân cách con người trong thời kỳ đổi mới hiện nay.
* Về phương diện thực tiễn :
Kết quả mà luận văn đạt được có thể sử dụng để làm tài liệu tham khảo cho việc tìm hiểu hoạt động văn hoá giải trí, và công tác lãnh đạo và quản lý văn hóa hiện nay ở Thành phố Hải Phòng.
8. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn gồm 3 chương, 9 tiết:
Chương 1: Vai trò của văn hoá giải trí trong đời sống xã hội hiện đại.
Chương 2: Thực trạng văn hoá giải trí ở thành phố Hải Phòng trong thời kỳ đổi mới hiện nay.
Chương 3: Phương hướng và giải pháp phát triển văn hoá giải trí ở Hải Phòng thời kỳ 2006 - 2010.
Chương 1
VAI TRÒ CỦA VĂN HÓA GIẢI TRÍTRONG ĐỜI SỐNG XÃ HỘI HIỆN ĐẠI
1.1. QUAN NIỆM VỀ VĂN HOÁ GIẢI TRÍ
1.1.1. Quan niệm về giải trí
Giải trí là một từ Hán - Việt. "Từ điển Hán - Việt" của cụ Đào Duy Anh giải thích: Giải trí là khi làm việc rỗi, làm cho trí não được khoan khoái, gần nghĩa với giải trí là tiêu khiển, tiêu khiển là giải muộn, khuây sầu. Giải trí còn đồng nghĩa với vui chơi cho nên người ta thường nói vui chơi, giải trí.
Hoạt động giải trí bắt nguồn từ nhu cầu (giải trí). Nhu cầu là đòi hỏi điều gì đó cần thiết để đảm bảo hoạt động sống của cơ thể, của nhân cách con người, của nhóm xã hội hoặc toàn XH nói chung; là nguồn thôi thúc nội tại của hành động. Nhu cầu không chỉ mang tính sinh học, nhằm đáp ứng những đòi hỏi sinh học của con người, nhu cầu còn mang tính xã hội, thể hiện ở chỗ: Thứ nhất, dù là của riêng mỗi cá nhân nhưng nhu cầu chỉ có thể được đáp ứng nhờ nền sản xuất xã hội, bị nền sản xuất đó quy định, và vì vậy chúng mang tính xã hội rõ nét. Các nền sản xuất khác nhau nên nhu cầu được thoả mãn theo sự quy định của nền sản xuất đó cũng khác nhau. Thứ hai, cũng những nhu cầu như nhau nhưng mỗi thời đại được đáp ứng theo những cách khác nhau, phù hợp với điều kiện lịch sử và mức độ phát triển xã hội đó, C.Mác đã từng nói: Cùng là cái đói, nhưng cái đói được thoả mãn bằng dĩa và dao khác với cái đói ngốn ngấu thịt sống bằng bàn tay, móng tay và răng, và thứ ba, nhu cầu còn được đáp ứng trong khuôn khổ phong tục tập quán (văn hoá) của cộng đồng và bị quy định bởi văn hoá cộng đồng.
Khi nghiên cứu về nhu cầu các tác giả đều thống nhất rằng, nhu cầu là nguồn gốc mọi hành động của con người. Khi một nhu cầu xuất hiện, sẽ hình thành trong con người một động cơ, thôi thúc hành động để thoả mãn nhu cầu đó. Nhà phân tâm học nổi tiếng Freud khẳng định rằng mọi hiện tượng tâm lý (trong đó có nhu cầu) đều có nguồn năng lượng nuôi dưỡng, càng nhiều nhu cầu thì nguồn năng lượng trong cơ thể càng lớn. Nguồn năng lượng này tuân theo quy luật bảo toàn và chuyển hoá năng lượng cần được sử dụng hết. Nếu không được sử dụng hoặc bị dồn nén, năng lượng đó sẽ tìm cách giải toả trong giấc mơ, trong các hành động lố lăng, phá phách... Còn khi được sử dụng đúng cách, nó có thể thăng hoa và giúp các thiên tài làm nên những kiệt tác nghệ thuật. Và con người chỉ có thể phát triển toàn diện khi các nhu cầu của mình được đáp ứng đầy đủ. Trong trường hợp ngược lại sẽ bị kìm hãm và không thể phát triển hoặc phát triển lệch lạc.
Nhu cầu giải trí, với tư cách là một nhu cầu của con người, thể hiện trên hai khía cạnh:
- Ở khía cạnh sinh học: Sự thoả mãn nhu cầu giải trí là điều kiện để cơ thể phục hồi sức khoẻ sau quá trình lao động, lấy lại thăng bằng tâm - sinh lý để cơ thể tiếp tục làm việc.
- Ở khía cạnh xã hội: Con người giải trí không phải chỉ để giải trí. Mọi hoạt động của con người đều có mục đích, và bởi vậy, giải trí cũng mang lại cho họ sự phát triển về trí tuệ và nhân cách, sự thư thái, sảng khoái và những khoái cảm thẩm mỹ.
Như vậy khi nhu cầu giải trí được đáp ứng thoả đáng thì trí não được thư giãn, tinh thần được thanh thản, tâm hồn thêm trong sáng, đời sống cảm xúc thêm phong phú với nhiều rung cảm thẩm mỹ, sự phát triển của con người trở nên toàn diện. Ngược lại, khi nhu cầu giải trí không được đáp ứng đầy đủ, đúng đắn sẽ có nguy cơ làm con người "tha hoá " trong hoạt động sống.
Hoạt động giải trí thường diễn ra trong thời gian rỗi. Thời gian rỗi - đó là khoảng thời gian riêng - được dành cho các hoạt động cá nhân, trong đó có hoạt động giải trí. Theo C. Mác, quỹ thời gian của xã hội và cá nhân được phân chia thành thời gian lao động và thời gian tự do. Thời gian lao động là khoảng thời gian tất yếu mà mỗi cá nhân buộc phải thực hiện công việc lao động để bảo đảm sự sinh tồn. Thời gian tự do là khoảng thời gian còn lại ngoài thời gian lao động, dành cho những hoạt động mà cá nhân có quyền tự quyết định. Với C. Mác, khái niệm "thời gian rỗi" chưa xuất hiện, bởi khi đó các hoạt động giải trí chưa phong phú, công nghiệp giải trí chưa ra đời. Tuy vậy C.Mác cũng đã từng coi thời gian tự do là khoảng thời gian dành cho sự thoải mái, cho giải trí, và mở ra một khoảng không cho những hoạt động tự do của con người [dẫn theo 9, tr 23].
Theo nhà nghiên cứu văn hoá Đoàn Văn Chúc [10, tr. 224 - 225] thì trong bất kỳ xã hội nào cũng có 4 dạng hoạt động mà con người phải thực hiện:
- Những hoạt động lao động sản xuất để đảm bảo sự tồn tại và phát triển của cá nhân và xã hội. Đó là nghĩa vụ xã hội của mỗi người.
- Những hoạt động thuộc các quan hệ cá nhân trong xã hội như nuôi dạy con cái, chăm sóc gia đình, thăm viếng họ hàng, bạn bè... Đó là nghĩa vụ cá nhân của mỗi người.
- Những hoạt động thuộc đời sống vật chất của con người như nấu nướng, ăn uống, nghỉ ngơi, vệ sinh cá nhân... đó là hoạt động thoả mãn nhu cầu cá nhân của mỗi người.
- Những hoạt động thuộc đời sống tinh thần của cá nhân như thưởng thức nghệ thuật, chơi các trò chơi, sinh hoạt tôn giáo...Đó là hoạt động thoả mãn nhu cầu tinh thần của mỗi người.
Dạng hoạt động thứ nhất được thực hiện theo quy tắc chung của xã hội không thể tuỳ tiện theo ý thích hoặc hoàn cảnh cá nhân. Nó được xác định một cách nghiêm ngặt và được diễn ra trong một khoảng thời gian dành riêng, với thời điểm và độ lớn được quy định chặt chẽ, mà C.Mác gọi là thời gian tất yếu.
Ba dạng hoạt động còn lại cũng không thể thiếu, nhưng chúng được thực hiện một cách linh hoạt tuỳ theo điều kiện cụ thể của mỗi cá nhân. Chúng được diễn ra trong khoảng thời gian còn lại sau khi đã trừ đi thời gian tất yếu. Khoảng thời gian dành cho những hoạt động đó được gọi là thời gian tự do, nghĩa là thời gian mà xã hội dành cho cá nhân quyền tự do sử dụng.
Trong ba hoạt động trên thì hoạt động thứ tư mang tính tự do hơn cả. Nó không gắn với sự thúc bách sinh học nào, cũng không hề mang tính cưỡng bức. Nó là hoạt động hoàn toàn tự do mà cá nhân có toàn quyền lựa chọn theo sở thích, trong khuôn khổ hệ chuẩn mực của xã hội. Nó là bước chuyển từ những hoạt động nghĩa vụ, bổn phận sang những hoạt động tự nguyện. Nó đồng thời cũng là hoạt động không vụ lợi, nhằm mục đích giải toả căng thẳng thể chất và tinh thần để đạt tới sự thư giãn, thanh thản trong tâm hồn, và cao hơn nữa là đạt tới những rung cảm thẩm mỹ. Với tính chất đặc biệt như vậy, để phân biệt với các hoạt động trên, người ta gọi nó là hoạt động giải trí và thời gian dành cho hoạt động giải trí được gọi là thời gian rỗi.
Thời gian rỗi được coi là khái niệm đồng nghĩa với thời gian tự do, nghĩa là "phần thời gian ngoài lao động của cá nhân (nhóm xã hội) còn lại sau khi đã trừ đi chi phí thời gian cho những hoạt động cần thiết không thể thiếu" và "Thời gian rỗi là khoảng thời gian mà trong đó con người không bị thúc bách bởi các nhu cầu sinh tồn, không bị chi phối bởi bất cứ nghĩa vụ khách quan nào. Nó được dành cho các hoạt động tự nguyện, theo sở thích của chủ thể nhằm thoả mãn nhu cầu tinh thần của con ngườii (hoạt động giải trí)" [dẫn theo 9, tr.23].
Như vậy có thể thấy giải trí là một dạng hoạt động cơ bản của con người, đáp ứng những nhu cầu phát triển của con người về các mặt thể chất, trí tuệ và thẩm mỹ. Giải trí không chỉ là nhu cầu của từng cá nhân, mà còn là nhu cầu của đời sống cộng đồng, xã hội.
Giải trí - đó là sự giải toả những căng thẳng về thể chất và tinh thần, đạt tới sự thư giãn trong tâm hồn, và cao hơn nữa là những rung cảm thẩm mỹ. Giải trí là dạng hoạt động không vụ lợi, nó là hoạt động nhằm thoả mãn nhu cầu tinh thần của con người:Thư giãn,giải thoát sầu muộn, tìm trạng thái hưng phấn, vui thích.
Trong xã hội nông nghiệp truyền thống, người nông dân lao động theo thời vụ vì vậy các hoạt động giải trí thường diễn ra sau vụ thu hoạch hoặc trong lúc nông nhàn.
Trong xã hội công nghiệp, giải trí thường gắn liền với các hoạt động trong thời gian rỗi. Cho nên các từ như Leisure (tiếng Anh) hay Docur (tiếng Nga) lúc đầu có nghĩa là thời gian rỗi, sau chuyển thành hoạt động trong thời gian rỗi (gọi tắt là hoạt động rỗi), tức là sự giải trí hay hoạt động giải trí.
Đặc trưng nổi bật của xã hội công nghiệp là sự năng động xã hội, lao động căng thẳng và diễn ra với tiết tấu nhanh, phân công lao động cụ thể, do vậy hoạt động giải trí trong xã hội công nghiệp có nhiều nội dung mới. Nếu như hoạt động vui chơi giải trí của xã hội nông nghiệp phần lớn thường nhẹ nhàng, tiết tấu chậm rãi và thường không sôi động lắm (đánh đu, thả diều, chọi chim, chọi gà, chọi dế...) thì các hoạt động vui chơi giải trí ở xã hội công nghiệp thường diễn ra hết sức sôi động với tiết tấu nhanh, mạnh (Bóng đá, các cuộc thi thể thao như điền kinh, bơi lội, quần vợt...các hoạt động giải trí tìm "cảm giác mạnh", phiêu lưu, mạo hiểm...). Những hoạt động này hoàn toàn phù hợp với xã hội công nghiệp, góp phần giải toả những căng thẳng tâm thần, lập lại thế cân bằng nội tại nhằm tái sản xuất sức lao động.
Chúng ta biết rằng, giải trí là hoạt động diễn ra trong thời gian rỗi, nhưng không phải bất cứ hoạt động nào được thực hiện trong thời gian rỗi đều là giải trí. Trong thời gian rỗi người ta có thể làm nhiều việc khác nhau: Có người tranh thủ làm thêm để kiếm sống hoặc học thêm để nâng cao trình độ (khi đó thời gian rỗi đã bị biến thành thời gian lao động); cũng có người dùng thời gian rỗi để thực hiện những hoạt động không có tác dụng gì nhiều đối với sự phát triển toàn diện con người, thậm chí là vô bổ hoặc có hại (la cà hàng quán, rong chơi không mục đích hoặc sa vào các tệ nạn xã hội...) Những hoạt động lệch chuẩn như vậy không thuộc nội hàm khái niệm giải trí. Hoạt động giải trí là những hoạt động của con người nhằm nâng cao đời sống văn hoá tinh thần và phát triển toàn diện con người.
Giải trí hoàn toàn không phải sự nghỉ ngơi thụ động của con người mà là những hoạt động mang tính chủ động. Nó là những hoạt động hoàn toàn tự do, do mỗi cá nhân tự lựa chọn và tham gia một cách chủ động. Nhân tố quyết định mang tính tiên quyết là sở thích cá nhân (với điều kiện phù hợp hệ chuẩn mực và hoàn cảnh thực tế khách quan của xã hội) Bởi vậy, sự nghỉ ngơi thụ động không phải là giải trí. " Nghỉ " là sự ngừng làm việc, ngừng hoạt động nhằm lấy lại sức lực vật chất, sự thăng bằng tâm sinh lý để có thể tiếp tục làm việc sau đó. Tất nhiên, lúc nghỉ có thể đọc báo, nghe nhạc... nhưng đó chỉ là phụ, điều chính yếu là để cơ thể không hoạt động (nhưng nghỉ cũng khác với ngủ vào ban đêm). Nghỉ thuộc dạng hoạt động thứ ba và mang tính thụ động, trong khi giải trí thuộc dạng thứ tư (nằm trong phạm vi hoạt động tinh thần) mang tính chủ động và tích cực.
Vui chơi giải trí là nhu cầu văn hoá cơ bản của con người (cá nhân và cộng đồng) nhằm giải toả những căng thẳng, mệt mỏi do lao động đưa lại, bù đắp những thiếu hụt và mất mát về sức khoẻ và tinh thần, tạo điều kiện để con người phát triển toàn diện về thể lực, trí lực, tình cảm thẩm mỹ, thoả mãn nhu cầu tinh thần ngày càng cao của con người.
Trong vòng đời của con người, vui chơi giải trí gắn bó suốt đời người. Lịch sử phát triển của loài người đã cho thấy các hoạt động vui chơi giải trí gắn liền với sự xuất hiện của xã hội loài người và xã hội ngày càng phát triển, các hoạt động vui chơi giải trí ngày càng đóng vai trò quan trọng trong đời sống xã hội. Không một dân tộc nào, dù trình độ phát triển cao thấp đến đâu, lại không có các hoạt động vui chơi giải trí. Sử sách đã nói nhiều về tính chất đam mê kỳ diệu của các lễ hội, dù đó là hội Fiesta - đấu bò tót hàng năm tại thành phố Pamplona ở miền Bắc nước Tây Ban Nha, là lễ hội Carnavan mê say, điên cuồng thâu đêm ở Italia hay Braxin, là lễ hội Thai Pusam của người Đơ - ra - vi -điêng (Đravidiens) ở miền Nam Ấn Độ, hoặc như lễ hội nhảy múa của cư dân Châu Phi. Người da đen châu Phi thường đắm mình trong những điệu múa rực lửa, ngây ngất như hoà điệu với tiết tấu của vũ trụ...Góp vào tiếng nói đam mê của lễ hội, có thể kể đến những ngày hội đâm trâu ở vùng đất Tây Nguyên hùng vĩ, ở hội "chọi trâu" Đồ Sơn (Hải Phòng), ở những đêm quan họ thâu đêm ở làng Lim (Bắc Ninh), hay những cuộc "đua trải" sôi động vùng sông nước Nam Bộ.
Bước sang xã hội công nghiệp, các hoạt động vui chơi giải trí không hề giảm đi mà còn phát triển rầm rộ cùng với sự tăng trưởng mạnh mẽ về kinh tế. Đuy -ma -dơ-đi-ê - nhà xã hội học người Pháp coi giải trí như là sự biến đổi về chất của xã hội công nghiệp, từ chỗ bị bóc lột thô bạo bằng việc kéo dài thời gian lao động, người công nhân đã có quyền nghỉ ngơi mà vẫn hưởng lương. Ông tiên đoán về triển vọng của xã hội hậu công nghiệp sẽ là một " xã hội giải trí", trong đó thời gian lao động được rút ngắn một cách tối thiểu, thời gian rỗi được tăng lên, mối quan tâm của xã hội không phải là làm gì để sống, mà là làm thế nào để giải trí tốt hơn [dẫn theo 9, tr.24].
Có thể hiểu được Đumagdier thông qua dự đoán của C Mác, rằng trong xã hội tương lai, lao động không còn là cực nhọc, mà là lao động sáng tạo, lao động mang lại niềm vui và trở thành một hình thức giải trí. Nhờ có những tiến bộ của khoa học công nghệ mà năng suất, chất lượng và hiệu quả lao động ngày càng cao, tạo điều kiện cho con người thoát khỏi sự nặng nhọc, vất vả của lao động, thời gian rỗi nhiều hơn, con người có nhiều hơn các hoạt động giải trí nhằm phát triển nhân cách hài hoà và toàn diện.
Vào thời kỳ đầu của chủ nghĩa tư bản, xuất phát từ những tham vọng muốn đạt lợi nhuận tối đa, các nhà tư bản đã thúc ép công nhân gia tăng cường độ làm việc, khiến họ bị suy kiệt cả về thể chất lẫn tinh thần. Chính vì vậy, đã xuất hiện các phong trào đấu tranh của công nhân đòi được giảm giờ làm và tăng thời gian giành cho hoạt động nghỉ ngơi, giải trí. Năm 1883, Pôn La -phac-gơ - con rể của C.Mác viết cuốn sách "Quyền được hưởng nhàn" (Le droit à la paresse) để ủng hộ cuộc đấu tranh của những người lao động. Ở Pháp, vào năm 1900 có Luật Min-lơ-răng (Millerand) thiết lập chế độ ngày làm việc 10giờ. Năm 1906 mới đề ra chế độ nghỉ bắt buộc 1 ngày trong tuần. Năm 1910 có luật hưu trí đối với công nhân. Cũng vào thời gian này, quốc tế XHCN phát động cuộc đấu tranh với khẩu hiệu: 8 giờ lao động, 8 giờ nghỉ ngơi và 8 giờ giải trí. Cuộc đấu tranh giành thắng lợi, bắt đầu từ đây, người lao động mỗi ngày làm việc 8 giờ [dẫn theo 22, tr.17].
Tuy nhiên, trong 8 giờ giải trí, người ta còn phải làm một số công việc tất yếu như: nấu ăn, tắm rửa, săn sóc con cái... Các công việc trên đã tiêu tốn hết 4 - 5 giờ/ngày, còn lại 3 - 4 giờ/ngày gọi là thời gian tự do. Đây mới thực là thời gian dành cho các hoạt động giải trí.
Đương thời, C.Mác rất quan tâm đến khái niệm "thời gian tự do" của người lao động. Ông cho rằng:
Tiết kiệm thì giờ lao động là tăng thêm thì giờ tự do, tức là thì giờ dành cho sự phát triển toàn diện cá nhân, sự phát triển tác dụng trở lại sức lao động và làm tăng sức lao động, về phương diện sự sản xuất trực tiếp, thì giờ tiết kiệm được có thể coi là dùng để sản xuất ra vốn cố định, một vốn cố định làm nên con người [dẫn theo 22, tr.18].
Năm 1936 thoả ước Ma-ti-nhông (Matignon) ra đời, quy định mỗi tuần làm việc 40 giờ, cuối tuần có hai ngày nghỉ. Trong xã hội xuất hiện từ ("Week end" - Những ngày nghỉ cuối tuần, như một phong tục mới, ra đời và vận hành tại một số nước công nghiệp phát triển). Từ đó, người ta bắt đầu ý thức về phương thức sử dụng vốn thời gian tự do của mỗi con người. Các nhà xã hội học đã chia ra như sau:
- Thời gian tự do cấp ngày: 3 - 4 giờ.
- Thời gian tự do cấp tuần: 2 ngày nghỉ.
- Thời gian tự do cấp năm: những ngày nghỉ phép và những ngày nghỉ vào dịp lễ, tết.
- Thời gian tự do cấp đời người: Số năm về hưu sau khi đã hết tuổi làm việc.
Ở nước ta, tuy năng suất lao động chưa thật cao, ngân sách nhà nước cũng còn nhiều khó khăn, nhưng từ năm 1999 Chính phủ đã có quyết định cán bộ, công chức, viên chức mỗi tuần làm việc 5 ngày (40 giờ), nghỉ cả ngày thứ bẩy và chủ nhật. Cùng với việc tăng lượng thời gian rỗi cuối tuần, Nhà nước đã giành những khoản ngân sách lớn cho việc xây dựng các khu công viên, các khu du lịch, các trung tâm văn hoá - thể thao và các thiết chế văn hoá giải trí khác. Nhà nước cũng đã gia tăng mức lương tối thiểu của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức... Đến thời điểm tháng 10/2006 mức tăng đã là 450.000đ. Những việc này đã góp phần cải thiện và nâng cao hơn về mức sống của nhân dân, tạo điều kiện thuận lợi để người dân tham gia ngày càng nhiều hơn vào các hoạt động văn hoá vui chơi giải trí.
Có thể nói, vui chơi giải trí hiện nay đã trở thành một hoạt động xã hội khá phổ biến, hơn thế, nó còn trở thành một hướng đi đầy triển vọng trong hoạt động kinh tế của đất nước... Chính vì vậy, hoạt động vui chơi giải trí đã được Đảng và Nhà nước ta quan tâm thích đáng. Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X đã nêu rõ:
Phát huy tiềm năng, khuyến khích sáng tạo văn học nghệ thuật, tạo ra những tác phẩm có giá trị cao về tư tưởng và nghệ thuật. Xây dựng và nâng cấp đồng bộ hệ thống thiết chế văn hoá, chú trọng công trình văn hoá lớn, tiêu biểu. Nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống nhà văn hoá, bảo tàng, nhà truyền thống, thư viện, phòng đọc, điểm bưu điện - văn hoá xã, khu vui chơi, giải trí... [19, tr.106 - 107].
Như vậy, có thể nói rằng: Giải trí là một dạng hoạt động xã hội của con người, diễn ra trong thời gian rỗi nhằm giải toả những căng thẳng về trí não, thể lực; đáp ứng các nhu cầu về thể chất, trí tuệ, tình cảm thẩm mỹ..., tạo ra sự cân bằng tâm-sinh lý, nâng cao năng lực tinh thần và thể chất cho con người.
1.1.2. Quan niệm văn hoá giải trí
Khái niệm văn hoá đã xuất hiện từ lâu trong lịch sử nhân loại và ngừng được mở rộng cả về nội hàm cùng ngoại diên của nó. Theo người Trung Hoa cổ đại thì “văn hoá" là sự kết hợp giữa "vẻ đẹp” và "giáo hoá " đựơc dùng để chỉ một triều đại có sự thống trị "đẹp đẽ" dùng "văn trị” và "giáo hoá", tức là sự thống trị dựa trên sự giáo dục, thuyết phục con người. Còn ở Hy Lạp cổ đại thì thuật ngữ "cultus " tức là gieo trồng, ban đầu có nghĩa gieo trồng ngoài đồng ruộng, (cultus agree) sau được dùng với nghĩa là gieo trồng tinh thần (cultus animi - tức là văn hoá) chỉ sự nâng niu, nuôi dưỡng bản chất, phẩm giá của con người theo những cái hay, cái đẹp, cái tiến bộ, cái văn minh...
Định nghĩa về văn hoá ngày càng trở nên hết sức phong phú. Năm 1952 A.L Kroeber và C.L Kluckhohn đã trích lục được khoảng ba trăm định nghĩa văn hoá của các tác giả ở nhiều nước khác nhau. Đến nay đã có thêm hàng trăm định nghĩa nữa về văn hoá. Nhưng hầu như tất cả đều quan niệm văn hoá gắn liền với bản chất, năng lực của con người, với con người, nói cách khác, hệ thống các giá trị tinh thần và giá trị vật chất do con người sáng tạo ra - văn hoá, trở thành một bộ phận cấu thành của đời sống xã hội.
"Từ điển triết học" của Rôdentan đã đưa ra định nghĩa: "Văn hoá - toàn bộ những giá trị vật chất và tinh thần do con người tạo ra trong quá trrình thực tiễn xã hội - lịch sử và tiêu biểu cho trình độ đạt được trong lịch sử phát triển xã hội. Theo nghĩa hẹp hơn, người ta vẫn quen nói về văn hoá vật chất (kỹ thuật, kinh nghiệm sản xuất, giá trị vật chất...) và văn hoá tinh thần (khoa học, nghệ thuật và văn hoá, triết học, đạo đức, giáo dục...). Văn hoá là một hiện tượng lịch sử, phụ thuộc vào sự thay thế các hình thái kinh tế - xã hội" [35, tr.656].
Tổ chức Văn hoá, Giáo dục và Khoa học của Liên hợp quốc (UNESCO) nhìn nhận văn hoá với ý nghĩa rộng rãi nhất, như một phức thể, tổng thể các đặc trưng, diện mạo về tinh thần, vật chất, tri thức và tình cảm... khắc hoạ nên bản sắc của một cộng đồng: "Văn hoá là tổng thể những biểu trưng (ký hiệu) chi phối cách ứng xử và sự giao tiếp trong một cộng đồng, khiến cộng đồng ấy có đặc thù riêng... Văn hoá bao gồm hệ thống những giá trị để đánh giá một sự việc, một hiện tượng (đẹp hay xấu, đạo đức hay vô luân, phải hay trái, đúng hay sai...) theo cộng đồng ấy" [dẫn theo 44, tr.14].
Đại Bách khoa thư Xô Viết [16] đã coi văn hoá là: Trình độ phát triển về mặt lịch sử của xã hội và con người trong các dạng thức tổ chức đời sống và hoạt động của con người, cũng như trong các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra. Khái niệm văn hoá dùng để phân định trình độ phát triển vật chất và tinh thần của các thời đại lịch sử nhất định, các hình thái kinh tế - xã hội hay một xã hội, dân tộc, bộ tộc cụ thể (chẳng hạn văn hoá cổ đại, văn hoá xã hội chủ nghĩa, văn hoá Maya...) cũng như chỉ một đặc thù hay lĩnh vực của đời sống (văn hoá lao động, văn hoá nghệ th._.uật, văn hoá đời sống ...) Theo nghĩa hẹp hơn, thuật ngữ “văn hoá "chỉ liên quan tới lĩnh vực đời sống tinh thần của con người.
Ở Việt Nam, từ năm 1942 -1943, chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa ra quan niệm về văn hoá như sau:
Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về ăn, mặc, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hoá. Văn hoá là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn [30, tr.431].
Chúng ta đã biết rằng: Giải trí là một nhu cầu, một hoạt động văn hoá của con người. Giải trí mang ý nghĩa bao trùm là các hình thức vui chơi, thưởng thức. Hơn thế nữa, cái đích cuối cùng của giải trí là giải toả những căng thẳng về thể chất và tinh thần, đạt tới sự thư giãn trong tâm hồn, và cao hơn nữa là những rung cảm thẩm mỹ. Giải trí là dạng hoạt động nhằm đáp ứng nhu cầu tinh thần lành mạnh và bổ ích của con người. Có những hoạt động thoạt nhìn có vẻ là giải trí nhưng vì lý do nào đó mà không đạt được tới mục đích trên, đều không phải (hoặc không còn là) giải trí. Ví dụ, hoạt động chơi bài, nếu đó là hoạt động không vụ lợi, chỉ để tiêu khiển, giải toả căng thẳng tinh thần hoặc thể chất thì là hoạt động giải trí. Nhưng nếu lại gắn với mục đích kinh tế (ăn tiền) hoặc vụ lợi (cá cược) thì không còn là giải trí nữa. Như vậy, hoạt động giải trí là những hoạt động tạo cho cá nhân một đời sống tinh thần trong sáng, lành mạnh, phấn chấn... giúp họ phát triển toàn diện. Giải trí là những hoạt động thuộc đời sống văn hoá - tinh thần. Như vậy có thể coi " Văn hoá giải trí" (văn hoá vui chơi giải trí) là một trong những yếu tố của cấu trúc chỉnh thể của văn hoá cộng đồng.
Nói "văn hoá giải trí" cũng tức là “văn hoá vui chơi", "văn hoá vui chơi giải trí" cũng có thể hiểu là hoạt động vui chơi, giải trí có văn hoá, bằng các hoạt động và sản phẩm văn hoá và thông qua hoạt động giải trí nhằm xây dựng, hoàn thiện nhân cách con người.
Ở đây, ta có thể phân loại các hoạt động văn hoá giải trí theo nhiều tiêu chí khác nhau:
+ Theo chức năng của các hoạt động: Có hoạt động giải toả căng thẳng thể chất (thể dục thể thao...) hoạt động giải toả căng thẳng tinh thần (nghe nhạc, dạo chơi, giao tiếp...), hoạt động nhằm đạt khoái cảm thẩm mỹ (thưởng thức nghệ thuật).
+ Theo chủ thể tổ chức hoạt động: Có hoạt động cá nhân (nghe nhạc, làm thơ, đọc sách báo...) hoạt động trong nhóm hạn chế (giao lưu với bạn bè, tham gia các hoạt động cùng với họ ) hoạt động tập thể (hoạt động cùng các bạn đồng nghiệp hoặc trong một tổ chức đoàn thể nào đó ), hoạt động công cộng ngoài xã hội.
+ Theo địa điểm hoạt động: Có hoạt động giải trí tại gia đình, hoạt động giải trí tại nơi làm việc, hoạt động giải trí ngoài xã hội.
+ Theo hình thức hoạt động: Có những hoạt động chơi (chơi các trò chơi, dạo chơi...) hoạt động TDTT, tham quan, du lịch, những hoạt động thoả mãn nhu cầu thưởng thức nghệ thuật (xem phim, ca nhạc, sân khấu...) những hoạt động sáng tạo nghệ thuật (tham gia các CLB năng khiếu hoặc các hoạt động nghệ thuật nghiệp dư ); những hoạt động thoả mãn nhu cầu giao tiếp (gặp gỡ bạn bè, trò chuyện, tâm sự...) những hoạt động thoả mãn nhu cầu niềm tin (tham gia các sinh hoạt tôn giáo, tham gia các lễ hội hoặc các hoạt động tôn giáo tín ngưỡng khác...).
Để thấy rõ hơn rõ khái niệm “văn hoá giải trí" hay “văn hoá vui chơi giải trí” cần nhận thức hơn về nội dung bản chất của vui chơi giải trí.
Trò chơi - đó là hoạt động mang tính tự nguyện nhưng có ý nghĩa xã hội. Trong các hoạt động giải trí của con người, hoạt động vui chơi chiếm một vị trí hết sức quan trọng. Phân tích sự chơi theo lý thuyết hoạt động, nhận thấy có ít nhất 4 dạng hoạt động chơi là:
Hoạt động chơi không đối tượng - là hoạt động ngẫu hứng, chơi một mình, đối tượng của sự chơi là nhằm vào bản thân người chơi như "đi dạo”, "du xuân”, "câu cá ""đánh cờ một mình ", đối thoại với bản thân mình.
Hoạt động chơi với đối tượng là đồ vật hoặc động vật. Ví dụ: chơi đàn ghi ta, trẻ em chơi búp bê, người già chơi cây cảnh, chơi chim...
Chơi với đối tượng là máy điện tử. Gọi là “trò chơi ảo”, nin-ten-đo, chơi trên máy vi tính, chơi trên mạng... là thuộc dạng này.
Chơi với đối tượng là con người - một hay nhiều người: Ví dụ: Chơi cờ, chơi bóng chuyền, bóng đá... đây là sự chơi bằng trò chơi - một hình thức phát triển đa dạng nhất trong lĩnh vực giải trí của con người.
Nếu như ba dạng trên là chơi một mình, thì dạng thứ tư là chơi tập thể (giao tiếp tập thể), cuộc chơi có nội dung thi đấu, nên phải xây dựng thể chế và có trọng tài điều khiển.
Hoạt động chơi về bản chất là mang tính vô tư, đặc điểm của nó là ngẫu hứng, bất ngờ và đôi khi nghịch lý, nó chống lại tính máy móc trong cuộc sống thường nhật và sự áp đặt của tập quán xã hội.
Hoạt động chơi còn nhằm rèn luyện, tập dượt con người. Nó rất cần thiết để con người vượt qua những trở ngại, khó khăn, nó còn là bài học về chữ "nhẫn ", "thắng không kiêu, bại không nản", nó làm cho con người trầm tĩnh, thư thái hơn. Khía cạnh quan trọng nhất của nhu cầu chơi là nhằm bù đắp những cái mà con người không thể tìm thấy trong đời sống thực tiễn. Chẳng hạn như, khi con người có nhu cầu sống với quá khứ tổ tiên thì không gì hơn là tham gia vào vai diễn của các nhân vật lịch sử...
Các giá trị mà mỗi cuộc chơi mang lại là sự công bằng, bình đẳng và minh bạch (công khai). Sự công bằng biểu thị ở chỗ mọi người tham gia cuộc thi đều có thể thắng, hoặc có thể thua, không hề có sự ưu tiên cho bất cứ đối tượng nào. Sự bình đẳng trong cuộc chơi biểu hiện ở chỗ mọi người tham gia cuộc chơi đều có điều kiện ngang nhau trong cuộc tranh tài. Trong cuộc đua tranh quyết liệt này, người giỏi sẽ thắng, người kém sẽ thua; đối với những trò chơi có sự may rủi thì: vận may sẽ thắng, vận rủi sẽ thua, không có ngoại lệ. Đây là một chân lý hiển nhiên mà mọi người trong cuộc chơi đều thừa nhận.
Sự minh bạch ở đây còn là sự giám sát xã hội. Những người được cử ra làm "trọng tài” cho cuộc chơi phải thật “công tâm”, mọi xử lý phải trình ra công khai trước sự chứng kiến của mọi người. Sự khuất tất sẽ làm cho cuộc chơi trở nên mất hết ý nghĩa.
Tóm lại, trong cuộc chơi những người tham gia chơi hết mình theo đúng luật chơi, những người trọng tài xử lý công tâm theo luật định, các “Fan” (khán giả) cổ vũ “vô tư”, làm cho cuộc chơi đạt tới giá trị công bằng, bình đẳng và minh bạch. Đó là cái đẹp vĩnh hằng, làm cho ấn tượng của cuộc chơi sống mãi trong lòng mọi người. Có thể hình dung hoạt động của mỗi cuộc chơi giống như hoạt động của một hội thu nhỏ, ở đó các nguyên tắc công bằng, bình đẳng và minh bạch như những chân lý bình dị, đã được thực thi một cách nghiêm túc.
Chúng ta thấy rằng giải trí tự nó không phải là cái gì gắn liền với sự thấp kém, kém cỏi. Giải trí là nhu cầu thực sự cần thiết cho con người sau những giờ lao động cực nhọc, căng thẳng. Giải trí là một trong những hình thức sử dụng thời gian rỗi một cách có lợi (ích), là cách mà con người nghỉ ngơi một cách tích cực. Giải trí là hoạt động mang tính tự do cá nhân cao độ, tuỳ ý thích và không giống với hoạt động ở cơ quan, đơn vị nơi mình đang làm. Trong số những hoạt động được sử dụng khi con người rảnh rỗi thì nghệ thuật - bao gồm cả sáng tác và tiếp nhận là một trong những loại được ưa chuộng rộng rãi nhất. Tuy nhiên, mặc dù có tính độc lập tương đối, chức năng giải trí không bộc lộ như nhau ở mỗi loại hình văn hoá nghệ thuật. Nó phụ thuộc vào động cơ sáng tác của tác giả và thị hiếu, nhu cầu của từng cá nhân người tiếp nhận tác phẩm. Tuyệt đối hoá chức năng giải trí thường dẫn tới sự tước bỏ ý nghĩa xã hội tích cực của văn nghệ. Giải trí trong ý nghĩa lành mạnh nhất, có tác dụng phát triển trình độ và thị hiếu thẩm mỹ của công chúng bao giờ cũng gắn liền với chức năng thẩm mỹ, chức năng nhận thức và chức năng giáo dục. Tách biệt chức năng giải trí, đẩy nó lên như một chức năng cơ bản là hạ thấp vai trò tích cực của nghệ thuật trong đời sống. Ngược lại, không quan tâm tới khía cạnh giải trí là bỏ sót một khả năng tác động và tự giới hạn tầm ảnh hưởng của nghệ thuật trong đời sống thực tiễn.
Chính vì nghệ thuật đem lại nhiều cái vui mắt. vui tai, nhiều cái hấp dẫn, lôi cuốn. Một tiếng đàn, một điệu múa, những lời hát, những bộ quần áo biểu diễn đẹp đẽ, những câu chuyện hồi hộp, cảm động, những bộ phim nhiều tình tiết căng thẳng, gay cấn, hấp dẫn...tất cả những cái đó có sức hấp dẫn rất lớn và thường đem lại cho con người những niềm vui, niềm say mê. Có người lúc rảnh đi chơi cờ, xem đá bóng, dạo phố, có người lại thích đi nghe (xem) hát, đọc sách. Mỗi người có một sở thích riêng và mỗi loại cũng có cái hay riêng. Nghệ thuật lôi cuốn ở chỗ nó vừa vui tai, đẹp mắt, có sức thu hút, giúp con người có thêm những giá trị tinh thần bổ ích.
Đến đây có thể nêu lên một định nghĩa về văn hoá giải trí như sau: Văn hoá giải trí là một bộ phận của đời sống văn hoá xã hội, bao gồm toàn bộ những hoạt động giải trí của các cá nhân, các cộng đồng... diễn ra một cách tích cực, chủ động, lành mạnh và tiến bộ. Thông qua những trò chơi và những hoạt động giải trí tạo nên cho các cá nhân và cộng đồng một đời sống tinh thần phong phú và lành mạnh, hoàn thiện và phát triển.
1.1.3. Các loại hình văn hoá giải trí
Ngày nay, các loại hình giải trí ngày càng phát triển rộng rãi, phong phú về hình thức, đa dạng về nội dung (không chỉ giải trí bằng đọc sách, báo mà còn tham gia vào quá trình sáng tạo, biểu diễn văn hoá, văn nghệ, thể thao...) Hoạt động giải trí không dừng lại ở trạng thái thụ động tiếp nhận, mà phát triển đến trạng thái chủ động tham gia hoạt động sáng tạo. Hoạt động giải trí không chỉ ở trong trạng thái tĩnh (đọc, xem, nghe, nhìn) mà cả ở trạng thái vận động: Vận động cơ thể (thể dục thể thao, biểu diễn nghệ thuật) hay du lịch, tham quan...Tuy nhiên, phân loại các loại hình văn hoá giải trí không phải là điều đơn giản, bởi vì vui chơi giải trí là một dạng hoạt động xã hội, nếu căn cứ vào hình thái của hoạt động thì rất khó thực hiện, vì rằng, chỉ cần đổi phương tiện thành mục đích thì hoạt động nào cũng có thể trở thành hoạt động vui chơi giải trí, ví du: Chèo thuyền là lao động của người thuỷ thủ, còn chèo thuyền trong cuộc đua "trải” là tham gia cuộc vui của lễ hội. Bóng đá chuyên nghiệp là dạng hoạt động nghề nghiệp, còn bóng đá phong trào mang tính nghiệp dư là hoạt động vui chơi giải trí. Biểu diễn nghệ thuật không chỉ là hoạt động nghề nghiệp của các nghệ sỹ chuyên nghiệp mà còn là hoạt động có tính chất vui chơi, giải trí của đội ngũ văn nghệ nghiệp dư trong các hội diễn nghệ thuật quần chúng.
Chúng ta thấy có các loại hình văn hoá giải trí chủ yếu sau đây:
1.1.3.1. Loại hình văn hoá giải trí gắn với các trò chơi
Các loại trò chơi là những hoạt động vừa mang tính thể lực, vừa mang tính tinh thần nhằm rèn luyện sức khoẻ, năng lực tinh thần cho những người tham gia chơi và cả những người cổ vũ cuộc chơi, như:
+ Trò chơi thể lực: kéo co, đấu vật, bơi lội.
+ Trò chơi khéo léo - thể lực - trí tuệ: đánh đu, thi nấu cơm.
+ Trò chơi trí tuệ: Đánh cờ, đố chữ, câu đối.
+ Trò chơi rèn luyện ý thức, sự ứng xử: câu cá, thả diều, chọi gà, hát đối.
Các loại trò diễn là hoạt động vui chơi giải trí dựa vào đặc trưng thẩm mỹ và kỹ thuật của tác phẩm văn hoá nghệ thuật, như:
+ Ngôn ngữ - động tác: chèo, tuồng, hát ả đào.
+ Động tác, âm thanh: Múa rối, võ thuật, xiếc.
+ Hỗn hợp - tích hợp: Lễ hội, hội thi.
1.1.3.2. Loại hình văn hoá giải trí gắn với sáng tạo và thưởng thức nghệ thuật
Trong nghệ thuật, với sự hư cấu tưởng tượng nghệ thuật, người nghệ sỹ cuốn hút người đọc, người xem, người nghe vào trò chơi của các năng lực tinh thần. Trò chơi là mô hình của sáng tạo, dự báo trước hoạt động sáng tạo. Nghệ thuật giúp con người phát triển các năng lực cảm thụ, thể nghiệm chủ quan. Người đọc khi đọc các tác phẩm thường giả định mình là nhân vật, và như vậy là đã tham gia vào trò chơi rèn luyện tình cảm con người, phát huy năng lực trí tuệ. Các hoạt động nghệ thuật giúp phát triển toàn diện các năng lực của con người. Nó làm cho đầu óc con người nhạy bén, linh hoạt, sắc cạnh trước các biểu hiện sinh động và phức tạp của đời sống.
Trong các khoái cảm mà nghệ thuật đem lại có loại khoái cảm tiếp nhận, thưởng thức một cách vô tư. Vì vậy có thể khẳng định tác dụng giải trí như một chức năng độc lập của văn chương và nghệ thuật nói chung. Thật ra, giải trí là một nhu cầu tự nhiên của con người trước nghệ thuật. Trong sự cảm thụ tác phẩm, cùng với sự tiếp nhận nội dung tư tưởng của tác phẩm, công chúng còn tìm thấy sự khoái cảm trong nếm trải các tình huống tâm lý, những trạng thái xúc cảm vốn có trong cuộc sống con người.
1.1.3.3. Loại hình văn hoá giải trí gắn với thể dục thể thao
Hoạt động thể dục thể thao là hoạt động văn hoá thể chất, rèn luyện thể chất làm con người trở nên khoẻ đẹp. Thể thao là thao diễn thân thể, phô bày vẻ đẹp của con người và sức mạnh thể lực của con người.
+ Vui chơi giải trí bằng các hoạt động thể dục thể thao, như: Tập thể dục hàng ngày, dưỡng sinh, võ vật, bóng bàn, bóng đá, bóng chuyền...và các loại thể thao khác (thăng bằng trên dây, nhảy dù, leo núi, lướt ván...).
+ Vui chơi giải trí bằng biểu diễn, thi đấu TDTT: Xem biểu diễn thể dục dụng cụ, thi đấu bóng các loại, đấm bốc, đấu vật, chọi trâu, chọi gà...
1.1.3.4. Loại hình văn hoá giải trí gắn với thông tin đại chúng
Thông tin đại chúng vừa là một loại hình văn hoá vừa là một phương thức chuyển tải văn hoá. Vì vậy nó là một hoạt động giải trí cơ bản của con người và xã hội.
+ Vui chơi giải trí bằng đọc (xem): Sách, báo, tranh, ảnh, triển lãm, intenet...
+ Vui chơi giải trí bằng nghe: Nghe radio, casseet...
+ Vui chơi giải trí bằng nghe - nhìn: xem truyền hình, thông tin, quảng cáo, VCD, DVD...
1.1.3.5. Loại hìnhvăn hoá giải trí gắn với du lịch, dịch vụ
Du lịch dịch vụ là một hoạt động văn hoá mang tính tổng hợp, nguyên hợp nhưng cũng mang tính chuyên biệt. Con người tham gia các hoạt động du lịch, dịch vụ vừa để đáp ứng nhu cầu thực dụng, vừa đáp ứng nhu cầu vui chơi giải trí.
+ Vui chơi giải trí bằng du lịch: Du lịch văn hoá, du lịch sinh thái, thương mại chữa bệnh, hội thảo, thám hiểm...
+ Vui chơi giải trí bằng dịch vụ: mua sắm. may mặc, ăn uống, thư giãn, trang điểm...
1.1.3.6. Loại hình văn hoá giải trí gắn với lao động sản xuất
Có thể chia loại hình này thành các hoạt động chính là:
+ Giải trí trong khi lao động cần thiết: Đó là loại hình diễn ra đồng thời với quá trình sản xuất như nghe nhạc, chuyện trò (kể chuyện tiếu lâm...)
+ Vui chơi giải trí sau lao động cần thiết: Đây là sự chuyển trạng thái từ lao động sản xuất cần thiết sang một hình thức khác mang tính giải trí, như, lúc giải lao người công nhân đọc sách hay làm một việc khác như nguội, điện, làm thơ, vẽ tranh...
+ Vui chơi giải trí bằng lao động sản xuất trong thời gian rỗi: Đây là hình thức vui chơi giải trí rất có ý nghĩa, khi người công nhân làm lao động chân tay tranh thủ thời gian rỗi học thêm văn hóa, rèn luyện tay nghề, vi tính, ngoại ngữ, chăm sóc cây cảnh...
1.1.3.7. Loại hình văn hoá giải trí gắn với ẩm thực
Ăn uống cũng là một hoạt động văn hoá. Ăn uống trở thành hoạt động văn hoá ẩm thực khi ăn uống gắn với một nhu cầu tinh thần nào đó, khi món ăn, thức uống (được chế biến, bày biện hết sức nghệ thuật, khẩu vị phù hợp, có nguồn gốc từ truyền thống văn hoá dân tộc...) thể hiện một trình độ văn hoá thẩm mỹ của con người, Hoạt động giải trí qua ẩm thực bao gồm:
+ Vui chơi giải trí qua thưởng ngoạn các món ăn, thức uống: Những món ăn ngon miệng, quý hiếm, mới lạ, có thể bồi bổ sức khoẻ.
+ Vui chơi giải trí qua các món ăn, thức uống truyền thống văn hoá của dân tộc.
+ Vui chơi, giải trí gắn với các hoạt động tinh thần khác: Uống cà phê nghe ca nhạc, xem bóng đá...
+ Vui chơi giải trí qua các món ăn, thức uống trong các dịp lễ tết: Mừng sinh nhật, mừng thọ, liên hoan, giỗ, lễ cưới, tết...
Có thể nói, phân loại các loại hình vui chơi giải trí là một việc làm cần thiết giúp cho việc tổ chức, điều hành và quản lý văn hoá giải trí cho phù hợp với chủ thể, đối tượng và mục đích của chúng. Tuy nhiên, sự phân loại này chỉ có ý nghĩa tương đối mà thôi.
1.2. CHỨC NĂNG XÃ HỘI CỦA VĂN HOÁ GIẢI TRÍ
Hoạt động văn hoá giải trí là một hoạt động thiết yếu của xã hội nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển về tư tưởng, tình cảm, thẩm mỹ và thể chất của con người. Là một hiện tượng xã hội, hoạt động văn hoá giải trí phản ánh năng lực thực tiễn của con người trong việc vượt qua giới hạn của lao động vì lợi ích vật chất trực tiếp, sử dụng các sản phẩm văn hoá, thông qua các thiết chế văn hoá để sáng tạo tự do trong môi trường dân chủ và bình đẳng ở khoảng thời gian rỗi.
Văn hoá giải trí của con người bắt nguồn từ lao động sản xuất và có tác động trở lại thúc đẩy quá trình sản xuất của xã hội phát triển. Có có nhiều quan niệm khác nhau về chức năng của văn hoá vui chơi giải trí trong xã hội. Ở đây chúng tôi nhận thấy văn hoá giải trí có một số chức năng cơ bản sau đây:
1.2.1. Chức năng nhận thức của các hoạt động văn hoá giải trí
Các hoạt động văn hoá giải trí cung cấp cho con người những hiểu biết nhất định về thế giới xung quanh và bản thân mình. Thông qua các loại hình hoạt động của văn hoá giải trí con người được phát triển trí tuệ, tình cảm nâng cao nhận thức đúng đắn về tự nhiên, xã hội và chính bản thân mình.
1.2.2. Chức năng giáo dục
Hoạt động văn hoá giải trí chân chính bao giờ cũng mang ý nghĩa giáo dục, góp phần xây dựng và phát triển toàn diện con người cả về thể chất và tinh thần, đánh thức khát vọng vươn tới tự do, công bằng, dân chủ và khát vọng vươn tới cái đúng, cái tốt và cái đẹp.
1.2.3. Chức năng điều chỉnh quan hệ xã hội
Các quan hệ xã hội không phải bao giờ cũng diễn ra chỉ trong các quan hệ kinh tế, quan hệ công quyền mà còn diễn ra các quan hệ dân sự phức tạp. Nhu cầu được thoả mãn khát vọng dân chủ, bình đẳng, công khai trên cơ sở bình đẳng trước "luật chơi "chung luôn cuốn hút sự quan tâm của cộng đồng. Các hoạt động văn hoá giải trí góp phần điều chỉnh và làm cân bằng tâm trạng xã hội, góp phần giải toả những căng thẳng do lao động trí óc và lao động chân tay đưa lại, tạo điều kiện để con người có thể tái sản xuất sức lao động, kích thích năng lực sáng tạo của con người.
1.2.4. Chức năng kinh tế của các hoạt động văn hoá giải trí
Trong thời kỳ phát triển kinh tế thị trường và đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, nhu cầu văn hoá giải trí của xã hội ngày càng gia tăng và các ngành công nghiệp, các ngành dịch vụ hướng vào sản xuất các sản phẩm văn hoá, đáp ứng nhu cầu văn hoá giải trí ngày càng tăng. Như vậy, các hoạt động văn hoá giải trí không chỉ hướng tới thoả mãn nhu cầu về tinh thần mà còn thực hiện chức năng kinh tế, góp phần tích cực vào việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội.
Sự phân định các chức năng xã hội của hoạt động văn hoá giải trí chỉ là tương đối. Sử dụng và khai thác tổng hợp các chức năng trên sẽ góp phần quan trọng để các hoạt động văn hoá giải trí thực sự là mục tiêu và động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội.
1.3. VĂN HOÁ GIẢI TRÍ TRONG XÃ HỘI HIỆN ĐẠI
Nhu cầu vui chơi giải trí là một nhu cầu văn hoá cơ bản của con người, tạo điều kiện để con người thoát khỏi những ràng buộc vật chất của lao động bắt buộc, để vươn tới sự tự do bên trong về phương diện tinh thần. Ở mỗi thời kỳ lịch sử, do điều kiện kinh tế xã hội khác nhau mà văn hoá giải trí cũng khác nhau.
1.3.1. Văn hoá giải trí trong xã hội tiền công nghiệp và công nghiệp
Ở các chế độ xã hội trước thời kỳ chủ nghĩa tư bản, nhu cầu vui chơi giải trí của con người bị hạn chế bởi các quan hệ kinh tế nông nghiệp gia trưởng và tôn giáo chi phối. Thời kỳ này, năng suất lao động và mức thu nhập lao động xã hội thấp nên thời gian rỗi ít và tập trung vào những thời điểm “nông nhàn”, sau vụ thu hoạch hoặc chờ vụ thu hoạch. Các hoạt động vui chơi giải trí tập trung xung quanh các sinh hoạt nghi lễ mang tính chất tôn giáo tín ngưỡng là chủ yếu.
Nhìn chung, trong xã hội tiền công nghiệp, khái niệm “thời gian rỗi” chưa được quan tâm đầy đủ như một khái niệm khoa học vì thời gian rỗi của con người rất ít và phân tán. Các hoạt động vui chơi giải trí của cộng đồng cư dân trong xã hội nông nghiệp tuỳ thuộc vào thời vụ, ít được chủ động để thực hiện giải trí một cách tự do theo sở thích cá nhân. Các sở thích giải trí của mỗi người thường quy chiếu vào một số dạng vui chơi giải trí lặp đi, lặp lại và có tính khép kín cục bộ.
Trong xã hội công nghiệp, thời gian nhàn rỗi của các tầng lớp dân cư xuất hiện nhiều hơn do năng suất lao động công nghiệp tăng lên và những cuộc đấu tranh của những người lao động công nghiệp với giới chủ tư bản đòi giảm giờ làm trong xí nghiệp, công xưởng. Việc sử dụng thời gian nhàn rỗi đã kéo theo quá trình hình thành một nền văn hoá đại chúng, phục vụ quần chúng được sử dụng sâu rộng trong các vùng khác nhau trong quá trình phát triển công nghệ và sản xuất hàng loạt. Thời gian nhàn rỗi lúc này đã trở thành một bộ phận trong cuộc sống của những người dân.
Bản thân khái niệm “giải trí” xuất hiện trong xã hội công nghiệp mang một ý nghĩa mới. Trong xã hội tiền công nghiệp, giải trí của quần chúng mang hình thức những ngày nghỉ dành cho nghi lễ gia đình, hôn lễ, tôn giáo và những hội lẽ nông nghiệp, cầu an... Quan niệm mới về giải trí được coi là sản phẩm của xã hội công nghiệp hiện đại. Sản xuất cơ giới làm cho năng suất lao động được nâng lên, tạo điều kiện cho họ có thể kiếm sống với một chế độ làm việc ít giờ, ít ngày hơn, thậm chí có tiền để chi tiêu cho giải trí trong những giờ nhàn rỗi. Sự phân biệt ranh giới giữa “thời gian lao động”và “thời gian nghỉ ngơi”rõ rệt hơn.
Tuy nhiên, những người lao động trong ngành công nghiệp giành được nhiều ngày nghỉ không phải là không qua đấu tranh. Thời gian đầu, thông qua nghiệp đoàn, những người làm công ăn lương đấu tranh đòi hỏi giảm bớt giờ làm vì lý do sức khoẻ và gia đình. Đến đầu thế kỷ XX, khi ngày làm việc 10 giờ trở thành phổ biến thì người ta tiếp tục đấu tranh đòi bớt giờ làm để nghỉ ngơi giải trí.
Vào những năm 1950, ngoài khu vực công nghiệp, khái niệm giờ lao động ngắn, ngày nghỉ có lương được thừa nhận ở tất cả các nước công nghiệp hoá ở phương Tây.
Nhu cầu giải trí, tiêu khiển, tìm kiếm cơ hội trong thông tin, thể thao, nghệ thuật, giao tiếp cộng đồng của công chúng ngày càng cao. Ngành công nghiệp phục vụ giải trí nhanh chóng nắm bắt, khai thác để sản xuất, đáp ứng nhu cầu đa dạng này, tạo thành một thị trường mới, thị trường giải trí thông qua các hình thức khác nhau như sách, báo, tạp chí, phim ảnh, truyền thanh và truyền hình, các thiết bị thể dục thể thao...vv. Tuy nhiên, các quy tắc chỉ đạo việc sử dụng thì giờ nhàn rỗi không bao giờ được giao phó cho sự biến động của thị trường hay các doanh nghiệp hoạt động vì động cơ thương mại thuần tuý mà còn phụ thuộc vào Nhà nước, các tổ chức tôn giáo hay từ thiện. Ở đô thị xuất hiện nhiều công viên, sân chơi, bảo tàng, vườn thú, thư viện... các hình thức giải trí xuất hiện cũng đa dạng, phong phú và không kém phần phức tạp.
1.3.2. Văn hoá giải trí trong xã hội hiện đại
Trong xã hội tiền công nghiệp, hoạt động vui chơi giải trí thường mang ý nghĩa hạn hẹp, khép kín, cục bộ. Hoạt động giải trí ở đây thường mang tính chất đáp ứng yêu cầu cá nhân, nhóm xã hội nhất định và có ý nghĩa tự phục vụ cá nhân và tầng lớp hữu sản ở bên trên là chủ yếu. Điều này phản ánh tính chất giai cấp của các hoạt động vui chơi giải trí. Tính chất quần chúng của hoạt động vui chơi giải trí chỉ xuất hiện nhiều ở các hoạt động văn hoá dân gian như lễ hội, nghi lễ tôn giáo hoặc gia đình. Tính chất "hàng hoá "của các hoạt động vui chơi giải trí bị giới hạn ở sự trao đổi bằng hiện vật thông qua sự ban thưởng của tầng lớp thống trị xã hội và tự ban thưởng lẫn nhau, đáp ứng nhu cầu tinh thần giải trí, chưa nhấn mạnh đến việc khai thác lợi ích vật chất của các hoạt động này.
Khi chuyển sang xã hội công nghiệp và thị trường, các quan hệ trong hoạt động vui chơi giải trí chuyển đổi mạnh sang sản xuất hàng hoá, biến các hoạt động giải trí có thể lưu thông trên thị trường và đem lại lợi nhuận cho các chủ thể của nó trong tổ chức hoạt động giải trí. Sự sáng tạo ra các sản phẩm tinh thần được khẳng định như một loại hình lao động, một loại hình sản xuất hàng hoá đặc biệt. Loại hình này như C.Mác đã nhận xét, nó vừa có chức năng hàng hoá, được lưu thông trên thị trường, hoạt động theo quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh, vừa có chức năng văn hoá xã hội, đáp ứng nhu cầu phát triển tinh thần, trí tuệ và tình cảm của xã hội. Các hoạt động văn hoá vui chơi giải trí là một bộ phận của hoạt động văn hoá cộng đồng. Nó mang chức năng “kép”, vừa mang chức năng kinh tế vừa mang chức năng văn hoá. Xã hội hiện đại ngày nay là xã hội thị trường hướng nền sản xuất vào mục tiêu lợi nhuận. Điều này ở các nước mới phát triển kinh tế thị trường còn là điều mới lạ, tính tự phát của nền kinh tế xuất hiện nhiều. Mặt khác, do công tác quản lý xã hội ở các nước mới mở cửa thị trường gặp nhiều khó khăn nên đã dẫn đến tình trạng nhiễu loạn trên thị trường giải trí.
Vì vậy, nhận thức rõ hơn về thị trường văn hoá giải trí là một vấn đề không chỉ mang ý nghĩa lý luận mà còn mang ý nghĩa thực tiễn cấp bách hiện nay.
Trước hết cần xem xét mối quan hệ giữa kinh tế và văn hoá trong hoạt động vui chơi giải trí:
Thứ nhất, cần khắc phục tư tưởng tách rời văn hoá ra khỏi kinh tế chỉ đề cao những giá trị văn hoá tinh thần, coi thường những vấn đề thực tiễn xã hội, coi thường những vấn đề kinh tế. Cực đoan hơn, có quan điểm coi kinh tế là những vấn đề thông tục, thấp kém, coi thường lao động làm ra của cải vật chất, coi thường lao động chân tay, tách kinh tế ra khỏi văn hoá.
Thứ hai, trong khi tiến hành phát triển kinh tế thị trường, đã xuất hiện quan điểm khá phổ biến ở nhiều nước đang phát triển là tuyệt đối hoá nhân tố kinh tế, lấy mô hình Phương Tây làm trung tâm; không chú trọng đến phát huy các nguồn lực văn hoá dân tộc. Điều đó dẫn các quốc gia này đến suy thoái cả về kinh tế và văn hoá, biến các nước này trở thành một xã hội tiêu thụ hơn là một xã hội sản xuất và phụ thuộc vào các nền kinh tế bên ngoài.
Như vậy, tuyệt đối hoá nhân tố văn hoá hay tuyệt đối hoá nhân tố kinh tế đều là sai lầm. Xu hướng chung hiện nay là đi tìm sự tương tác giữa nhân tố văn hoá và nhân tố kinh tế trong quá trình phát triển. Đối với văn hoá giải trí hiện nay cũng như vậy.
Trong quá trình phát triển nền kinh tế thị trường, hoạt động giải trí cần được nhìn nhận như một hoạt động kinh tế có tính văn hoá cao. Quy luật kinh tế tác động một cách trực tiếp, cụ thể và là động lực cơ bản (bên cạnh động lực văn hoá) để phát triển các hoạt động giải trí và đáp ứng nhu cầu giải trí của xã hội.
Hoạt động giải trí phải hướng tới phục vụ công chúng một cách tốt nhất. Điều này phản ánh bản chất chung của kinh tế thị trường. Thực chất của hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực giải trí là giải quyết mối quan hệ giữa ba nhân tố hợp thành quan hệ thị trường. Đó là các doanh nghiệp - công chúng - và các đối tác cạnh tranh. Đảng và Nhà nước ta đã xác định trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, các thành phần kinh tế khác nhau đều tự do, bình đẳng cạnh tranh trong khuôn khổ tôn trọng luật pháp và đạo lý dân tộc. Điều này làm thay đổi nhận thức cũ của thời kỳ bao cấp trước đây là Nhà nước làm văn hoá cho nhân dân hưởng, Nhà nước đầu tư về cơ sở vật chất kỹ thuật, đầu tư về nội dung, chỉ đạo nhất quán theo bộ máy của nhà nước lập ra và nhu cầu của nhân dân phụ thuộc vào sự “mở” hay "đóng” của Nhà nước. Từ đó dẫn đến tâm lý chờ đợi, ỷ lại và thụ động của nhân dân trong hoạt động văn hoá, trong đó có lĩnh vực giải trí. Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, tham gia vào hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực vui chơi giải trí có rất nhiều các thành phần kinh tế khác nhau, trong đó có cả các nhà đầu tư nước ngoài. Các chủ thể này luôn tìm cách để khai thác nhu cầu và đáp ứng nhu cầu giải trí của xã hội theo nguyên tắc của thị trường. Nguyên tắc chung của thị truờng là bình đẳng, công khai. Bản chất chung của thị trường là hoạt động hướng tới phục vụ khách hàng tốt nhất trên cơ sở cạnh tranh quyết liệt. Đây được coi là triết lý sơ đẳng nhất, đơn giản nhất, cốt lõi nhất và cũng là cơ bản nhất của kinh tế thị trường. Như vậy, các hoạt động vui chơi giải trí do Nhà nước lập ra hay là do các thành phần kinh tế, các tổ chức chính trị tạo nên thì cũng phải chuyển sang thực hiện theo quy luật chung này. Vấn đề xây dựng thị trường văn hoá giải trí ở nước ta trước hết là phải làm cho các chủ thể, ở các thành phần khác nhau hoạt động theo quy luật của kinh tế thị trường. Cưỡng lại quy luật này sẽ dẫn đến sự nhiễu loạn của thị trường. Tất nhiên, ở đây cũng cần phân biệt có hai loại phục vụ giải trí: Loại hoạt động mang tính lợi nhuận và loại hoạt động phi lợi nhuận. Loaị hoạt động phi lợi nhuận thường do các cơ quan văn hoá của nhà nước, các tổ chức kinh tế - xã hội đứng ra tổ chức nhằm phục vụ những mục tiêu về chính trị, văn hoá, xã hội khác nhau. Vì vậy không nên đồng nhất hoá các loại hoạt động này mà cần có sự phân biệt chính xác để có những chính sách phù hợp thúc đẩy sự phát triển việc xây dựng môi trường văn hoá giải trí công cộng.
Kinh tế thị trường là một nền kinh tế mở, mọi chủ thể đều bình đẳng và chủ động kinh doanh tất những gì mà Nhà nước và luật pháp không cấm. Nó khác nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, quan liêu trước đây ở chỗ không chờ đợi khách hàng có nhu cầu mới sản xuất để đáp ứng mà ngược lại, nó chủ động kích thích, khai thác các nhu cầu mới của khách hàng để bán hàng, tạo nên sự cạnh tranh gay gắt.
Vì vậy, các hoạt động vui chơi giải trí của xã hội trong nền kinh tế thị trường thường luôn luôn năng động, đổi mới, tạo ra các hình thức vui chơi giải trí mới lạ, hấp dẫn đối với công chúng. Tiến công là triết lý kinh doanh nói chung và là triết lý kinh doanh trong lĩnh vực vui chơi giải trí nói riêng.
Như vậy, thừa nhận có thị trường văn hoá giải trí, chúng ta phải vận dụng._.í
Các hoạt động vui chơi giải trí trong thời kỳ phát triển phát triển kinh tế thị trường và mở rộng giao lưu hợp tác quốc tế liên quan đến lĩnh vực công nghiệp giải trí, dịch vụ giải trí và văn hoá giải trí. Điều đó đã đặt ra yêu cầu phải đào tạo liên ngành, chuyên sâu về lĩnh vực này cho những người tham gia vào hoạt động này. Khi được đào tạo cơ bản và chuyên sâu, họ sẽ có điều kiện đưa các hoạt động giải trí, văn hoá giải trí phát triển lành mạnh đúng hướng, đem lại hiệu quả kinh tế. Hiện nay, ở thành phố Hải Phòng chưa có cơ sở đào tạo tập trung chuyên sâu về lĩnh vực này mà phụ thuộc vào từng doanh nghiệp vì vậy các ngành Văn hoá Thông tin, Du lịch, Kế hoạch và Đầu tư...cần sớm lựa chọn những người có năng lực, tâm huyết, yêu nghề đi đào tạo chuyên sâu về lĩnh vực vui chơi giải trí trong nước và quốc tế. Đặc biệt là năng lực quản lý các hoạt động văn hóa vui chơi giải trí.
3.4. NHỮNG KIẾN NGHỊ
Chúng tôi xin đề xuất với Thành uỷ và Uỷ ban nhân dân cùng các cơ quan hữu quan của thành phố một số kiến nghị sau:
1. Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân thành phố cần xây dựng và hoàn chỉnh Quy hoạch tổng thể phát triển các hoạt động văn hoá vui chơi giải trí trên địa bàn thành phố từ nay đến năm 2010 - 2020 ở các địa bàn khác nhau, các loại hình hoạt động khác nhau. Hệ thống quy hoạch này phải đảm bảo đáp ứng tốt nhu cầu giải trí của cộng đồng dân cư trên địa bàn thành phố.
2. Thành uỷ, Uỷ ban nhân dân thành phố xây dựng các chính sách khuyến khích phát triển văn hoá giải trí và các loại hình văn hoá vui chơi giải trí lành mạnh ở thành phố. Đó là các chính sách về xã hội hoá, chính sách về đầu tư và thu hút đầu tư vào các lĩnh vực vui chơi giải trí, chính sách mở rộng giao lưu, trao đổi, học tập kinh nghiệm trong lĩnh vực tổ chức các hoạt động vui chơi giải trí. Đề nghị thành phố xác định rõ chức năng, nhiệm vụ của một số ngành, một số cơ quan của thành phố trong việc quản lý và tổ chức hoạt động các loại hình văn hoá giải trí. Việc phân công, phân cấp quản lý phải rõ ràng, tránh chồng chéo và phải tạo ra được sự thống nhất trong quản lý của thành phố, tránh tình trạng cục bộ, khép kín.
3. Hải Phòng là thành phố công nghiệp lớn có đội ngũ công nhân lao động đông đảo. Trong nhiều năm qua, Hải Phòng đã xây dựng nhiều khu công nghiệp tập trung, thu hút nhiều doanh nghiệp đầu tư sản xuất và một số lượng công nhân lao động không nhỏ đến đây làm việc. Nhiều doanh nghiệp Nhà nước và doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế có số lượng công nhân lớn. Một số doanh nghiệp ngoài quốc doanh vì lợi nhuận đã gia tăng cường độ lao động, ít quan tâm đến điều kiện vật chất, tinh thần cho người lao động, bên cạnh đó là điều kiện ăn, ở của CNLĐ tại các khu công nghiệp tập trung gặp rất nhiều khó khăn, đó là chưa kể đến đời sống văn hoá tinh thần của họ rất thiếu thốn, ít có điều kiện để giải trí, hồi phục sức khoẻ, trong khi xung quanh những nơi ở của họ có không ít những tệ nạn xã hội, những hoạt động giải trí phản văn hoá, tiêu cực. Vì vậy, đề nghị Thành uỷ, Uỷ ban nhân dân thành phố và các ban ngành chức năng thành phố cần quan tâm:
+ Trong quy hoạch về chiến lược phát triển thành phố những năm 2010 - 2020, ngoài việc cấp đất cho các doanh nghiệp đầu tư cơ sở sản xuất, cần tạo điều kiện về quỹ đất để doanh nghiệp xây dựng các khu nhà ở, khu vui chơi giải trí, công viên, cây xanh dành cho công nhân lao động của các doanh nghiệp này.
+ Thành phố có cơ chế, chính sách, quy định cụ thể yêu cầu các doanh nghiệp cần tuân thủ nghiêm túc Bộ luật lao động và các quy định của thành phố về thời gian lao động, thời gian nghỉ ngơi và những điều kiện về đời sống vật chất, văn hoá tinh thần cho người lao động.
4. Uỷ ban nhân dân thành phố cần quan tâm đầu tư nhiều hơn trong lĩnh vực văn hoá để tạo ra động lực mới cho quá trình phát triển các hoạt động văn hoá vui chơi giải trí ở Hải Phòng. Các lĩnh vực trọng điểm đó là:
+ Đầu tư vào các hoạt động vui chơi giải trí gắn liền với việc giữ gìn và phát huy các giá trị văn hoá truyền thống của thành phố Hải Phòng (như hoạt động giải trí trong sinh hoạt lễ hội truyền thống, du lịch sinh thái nhân văn...)
+ Đầu tư vào các khu vực sáng tạo các hoạt động vui chơi giải trí theo hướng dân tộc, hiện đại, nhân văn, đặc biệt là trong lĩnh vực văn hoá nghệ thuật, sáng tạo các loại hình vui chơi giải trí độc đáo của Hải Phòng.
+ Đầu tư vào ngành công nghiệp giải trí như sản xuất các chương trình giải trí trên phát thanh, truyền hình, điện ảnh, Video... đặc biệt là khai thác lợi thế của các phương tiện thông tin đại chúng để giáo dục, định hướng các hoạt động vui chơi giải trí lành mạnh ở thành phố Hải Phòng.
5. Sở Văn hoá Thông tin, Sở Du lịch, Báo Hải Phòng, Đài Phát thanh -Truyền hình Hải Phòng và các cơ quan thông tin đại chúng khác cần đẩy mạnh tuyên truyền về văn hoá vui chơi giải trí lành mạnh cho nhân dân thành phố, đồng thời phê phán xu hướng giải trí tiêu cực, chống các phản giá trị trong lĩnh vực văn hoá vui chơi giải trí.
KẾT LUẬN
1. Từ việc nhận thức toàn diện và sâu sắc hơn về vai trò, vị trí, chức năng xã hội của các hoạt động vui chơi giải trí, coi các hoạt động vui chơi giải trí như một bộ phận trọng yếu của văn hoá, có tác động to lớn đến việc xây dựng môi trường văn hoá, xây dựng tư tưởng, đạo đức, lối sống xã hội, nhất là trong tình hình hiện nay, luận văn " Văn hoá giải trí ở thành phố Hải Phòng trong thời kỳ đổi mới hiện nay" đã đánh giá thực trạng và đề xuất các phương hướng và giải pháp phát triển văn hoá giải trí ở thanh phố Hải Phòng trong thời gian tới, làm cho văn hoá giải trí trở thành một động lực thúc đẩy kinh tế xã hội phát triển, đáp ứng nhu cầu vui chơi giải trí, nhu cầu tinh thần ngày càng cao của nhân dân thành phố Hải Phòng.
2. Việc khảo sát, phân tích, đánh giá văn hoá giải trí trên địa bàn thành phố Hải Phòng là một công việc gặp nhiều khó khăn, phức tạp, vì vậy luận văn mới chỉ tập trung vào khảo sát một số lĩnh vực cơ bản là: Văn hoá giải trí qua các thiết chế văn hoá công cộng; văn hoá giải trí qua các phương tiện thông tin đại chúng; văn hoá giải trí qua các dịch vụ văn hoá nghệ thuật; văn hoá giải trí qua các sinh hoạt văn hoá truyền thống; văn hoá giải trí qua các hoạt động du lịch; hoạt động đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực văn hoá giải trí...
Có thể nói, trong thời gian qua, các hoạt động văn hoá giải trí ở Hải Phòng đã có sự chuyển biến tích cực nhằm đáp ứng nhu cầu vui chơi giải trí của nhân dân thành phố. Các loại hình này đã được phát triển một cách đa dạng hơn, từng bước đáp ứng nhu cầu tinh thần ngày càng cao của công chúng thành phố, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc. Những mặt hạn chế trong lĩnh vực văn hoá giải trí thể hiện cả về phương diện lãnh đạo quản lý và cả về tổ chức các hoạt động vui chơi giải trí. Đó là những bất cập về nhận thức, quản lý, điều hành và giám sát, kiểm tra của các cơ quan có trách nhiệm đối với lĩnh vực này.
3. Trên cơ sở dự báo về nhu cầu văn hoá giải trí cuả nhân dân thành phố Hải Phòng trong thời gian tới, đề tài đã đề xuất một số phương hướng và giải pháp nhằm đẩy mạnh phát triển văn hoá giải trí trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Hiện nay, tốc độ phát triển các loại hình của văn hoá giải trí diễn ra rất mạnh mẽ, bao gồm cả xu hướng tích cực và tiêu cực, trong khi đó, các chính sách và công tác quản lý văn hoá giải trí còn chưa theo kịp, hoặc còn lúng túng, bị động. Do vậy, thành phố cần quan tâm hơn về việc ban hành, bổ sung hoàn thiện các chính sách về lĩnh vực này để các lĩnh vực của văn hoá giải trí thành phố Hải Phòng phát triển đúng hướng, góp phần xây dựng môi trường văn hoá lành mạnh và sự phát triển toàn diện con người Hải Phòng trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH, hội nhập kinh tế quốc tế.
Trong quá trình thực hiện luận văn chúng tôi đã nhận được sự giúp đỡ quý báu của Liên đoàn Lao động thành phố, Sở Văn hoá Thông tin, Sở Du lịch, Đài Phát thanh và Truyền hình thành phố Hải Phòng, Viện Văn hoá và Phát triển - Học viện CTQG Hồ Chí Minh, các thầy, cô giáo và các bạn đồng nghiệp. Xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ quý báu đó.
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
1. Nguyễn Quang Linh (2006), "Tổ chức các hoạt động văn hóa vui chơi giải trí cho công nhân lao động ở Thành phố Hải Phòng hiện nay", Thông tin Văn hóa và phát triển, (9), tr.54-57.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Đào Duy Anh (1938), Việt Nam văn hoá sử cương, Quan Hải tùng thư, Huế.
Bảo tàng Hải Phòng, (2005) Báo các tổng hợp một số hoạt động Bảo tồn - Bảo tàng từ năm 2001 - 2005, Hải Phòng.
Bộ Văn hoá- Thông tin - Thể thao (1992), Mấy vấn đề văn hoá và phát triển ở Việt Nam hiện nay, Hà Nội.
Bộ Văn hoá Thông tin (1994), Các văn bản pháp quy về văn hoá thông tin, Tập 4, Hà Nội.
Bộ Văn hoá Thông tin (2000), Các văn bản pháp quy về văn hoá thông tin, Tập 5, Hà Nội.
Phan Kế Bính (1990), Việt Nam phong tục, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh.
Nguyễn Văn Bính (1998), Phương pháp và tổ chức hoạt động Cung văn hoá, Nhà văn hoá lao động trong thời kỳ đổi mới hiện nay, Luận Văn thạc sĩ Văn hóa học, Đại học văn hoá, Hà Nội.
Nguyễn Văn Bính (2003), Giao tiếp và ứng xử với tư cách là thành tố văn hoá trong hoạt động doanh nghiệp thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, Luận án tiến sĩ Lịch sử, Viện Văn hoá thông tin, Hà Nội.
Đinh Thị Vân Chi (2001), Nhu cầu giải trí của thanh niên, Luận án tiến sĩ Xã hội học, Đại học quốc gia, Hà Nội.
Đoàn Văn Chúc (1999), Xã hội học văn hoá, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội
Trần Tất Chủng (1997), "Còn không các trò vui chơi giải trí dân gian?", Tạp chí Du lịch Việt Nam, (50), Hà Nội.
Công đoàn công ty LD du lịch quốc tế Hải Phòng, (2005), Báo cáo tóm tắt một số hoạt động Công đoàn từ năm 2001 - 2005, Hải Phòng.
Công ty cổ phần thông tin kinh tế thương mại (2003) Hải Phòng, Thế và lực trong thế kỷ XXI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Cục Thống kê Hải Phòng, Báo cáo phân tích đời sống các tầng lớp dân cư thành phố Hải Phòng năm 2004.
Cung Văn hoá LĐHN Việt Tiệp Hải Phòng (2006), Tổng hợp kết quả hoạt động từ năm 2001 - 2005, Hải Phòng
Đại Bách khoa thư Xô viết (1985), Nxb Bách khoa toàn thư Xô Viết, M., (tiếng Nga).
Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Văn kiện Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương (khoá VIII), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Đảng bộ thành phố Hải Phòng (2005), Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ thành phố lần thứ XIII, Nxb Hải Phòng.
Đồ Sơn thắng cảnh và du lịch (1997), Nxb Hải Phòng.
Phạm Duy Đức (2004), Hoạt động giải trí ở đô thị Việt Nam hiện nay những vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Văn hoá thông tin, Hà Nội.
Trịnh Minh Hiên (1993), Hải Phòng - Di tích lịch sử - Văn hoá, Nxb Hải Phòng.
Trịnh Minh Hiên (2006), Lễ hội truyền thống tiêu biểu Hải Phòng, Nxb Hải Phòng.
Nguyễn Xuân Kính (chủ biên) (2002), Văn hóa dân gian trong đời sống đô thị, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
Đinh Gia Khánh (1995), Văn hóa dân gian với sự phát triển của xã hội, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Hữu Ngọc (1995), Hồ sơ Văn hoá Mỹ, Nxb Thế giới, Hà Nội.
C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin (1977), Về văn học nghệ thuật, Nxb Sự thật, Hà Nội.
Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, Tập 1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, Tập 3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Hồ Chí Minh (1996), Toàn tập, Tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Hồ Chí Minh (1996), Toàn tập, Tập 6, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Hoàng Phê (chủ biên) (1988), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
Quá trình hình thành, phát triển thành phố và đặc tính người Hải Phòng (1987), Nxb Hải Phòng.
Rodentan (1975), Từ điển triết học, Nxb Tiến bộ Mátxcơva, Bản Tiếng Việt, Nxb Sự thật, Hà Nội.
Sở Kế hoạch và Đầu tư Hải Phòng, Kinh tế Hải Phòng 50 năm xây dựng và phát triển (1955 - 2005), Nxb Thống kê, Hà Nội
Sở Thể dục Thể thao Hải Phòng (5/2006), Định hướng phát triển xã hội hoá thể dục thể thao thành phố Hải Phòng năm 2006 - 2010.
Sở Văn hoá Thông tin - Uỷ ban DS - GĐ & Trẻ em thành phố Hải Phòng (2006), Báo cáo Sơ kết 5 năm thực hiện Chỉ thị 03/2000/CT- TTg của Thủ tưởng chính phủ về việc đẩy mạnh các hoạt động Văn hoá, vui chơi, giải trí trẻ em.
Sở Văn hoá Thông tin Hải Phòng, Báo cáo tổng hợp quy hoạch ngành văn hoá thông tin giai đoạn đến năm 2010.
Sở Văn hoá Thông tin Hải Phòng, Báo cáo hiện trạng văn hoá Hải Phòng từ năm 1990 đến tháng 9/2002.
Sở Văn hoá Thông tin, Quy hoạch ngành Văn hoá Thông tin đến năm 2010 (Chuyên đề V - khôi phục, phát triển lễ hội truyền thống, văn hoá dân gian, văn hoá làng xã) - Hải Phòng, tháng 10/2003.
Sở Văn hoá Thông tin Hải Phòng (2005), 50 năm xây dựng và phát triển 1955 - 2005, Nxb Hải Phòng.
Tạp chí Nghiên cứu lịch sử Hải Phòng (1988), Nxb Hải Phòng.
Văn Đức Thanh (2004), Về xây dựng môi trường văn hóa cơ sở, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Hoàng Đình Thi (2004), Báo chí Hải Phòng với nhiệm vụ xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, Luận văn tốt nghiệp Đại học chính trị, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
Thành uỷ, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân thành phố Hải Phòng (2005), Hải Phòng 50 năm chiến đấu, xây dựng và trưởng thành 1955 - 2005, Nxb Hải Phòng.
Giang Thu (2006), Xuân về- hấp dẫn trò chơi tổ tôm điếm, Sở Văn hóa Thông tin Hải Phòng Hướng dẫn nghiệp vụ văn hóa cơ sở.
Thư viện Hải Phòng, Báo cáo tổng hợp hoạt động thư viện từ năm 2001 - 2005, Hải Phòng.
Trần Thị Trâm (2005), "Vai trò của văn hoá dân gian trong các sân chơi trên truyền hình", Tạp chí Nguồn sáng Dân gian, (3).
Trung tâm biên soạn Từ điển Bách khoa Việt Nam (1995), Từ điển bách khoa Việt Nam, Hà Nội, Tập 3
Ánh Tuyết (1996), "Du lịch vui chơi giải trí sẽ là ngành phát triển nhanh", Tạp chí Du lịch Việt Nam, (37).
PHỤ LỤC
Phụ lục 1
Một số kết quả phát triển kinh tế - xã hội - văn hoá
của thành phố Hải Phòng 5 năm (2001 - 2005)
chỉ tiêu
Đ.vị tính
2001
2002
2003
2004
2005
* Tổng sản phẩm trong nước (GDP)
Tỷ đồng
9.178
10.153
11,241
12.536
14,071
- Tốc độ tăng trưởng
%
9,1
10,40
10,64
10,71
12,25
* GDP B/quân đầu người
USD
725,2
793,3
872,8
962,2
1.070,0
* Dân số trung bình
Nghìn người
1.723,5
1.743,4
1.754,2
1.770,
1.784,2
- Tỷ lệ dân số đô thị
%
45
* Thu hút khách Du lịch
Triệu lượt
1,16
1,45
1,68,
2,12
2,43
*Doanh thu ngành D.lịch
Tỷ đồng
319
441
457
464
546
* Tỷ lệ hộ nghèo
%
11,7
9,5
6,7
4,5
3,0
* Bưu chính viễn thông
- Số điện thoại/100dân
Máy
7,4
9,9
12,3
14,9
17,6
- Số người sử dụng Intenet
1000 ng
68
99
177
253
340
- Thuê bao Intenet/100dân
Thuê bao
0,23
0,33
0,58
0,82
1,09
* Văn hoá
- Tổng số sách xuất bản
Triệu bản
0,18
- Tổng số Báo xuất bản
Triệu bản
10,7
- Số giờ phát sóng Đài Tiếng nói VN + Đài TP
Giờ/ngày /năm
4,3
4,4
4,5
4,7
6,6
-Tỷ lệ số hộ được nghe đài
%
75,0
95
95
98
98
- Số giờ phát sóng Truyền hình Việt Nam + Đài TP
Giờ/ngày /năm
14,60
15,50
18,60
20,0
20,0
- Tỷ lệ số hộ được xem truyền hình
%
90
90
95
95
95
Nguồn: Sở Kế hoạch đầu tư Hải Phòng, Kinh tế Hải Phòng 50 năm xây dựng và phát triển (1955-2005), Nxb Thống kê, Hà Nội, 2005.
Phụ lục 2
Một số đồ dùng lâu bền được người dân thành phố Hải Phòng sử dụng
CÁC ĐỒ DÙNG LÂU BỀN
ĐƠN VỊ TÍNH
NĂM
TÊN ĐỒ DÙNG
%/100 HỘ
2004
Xe máy
52,36
Máy điện thoại
42,37
Tủ lạnh
24,84
Đầu Video
49,14
Ti vi màu
87,63
Dàn nghe nhạc
16,45
Máy vi tính
7,2
Máy điều hoà nhiệt độ
3,01
Máy giặt, máy sấy quần áo
14,52
Bình tắm nước nóng
13,44
Nguồn: Cục Thống kê Hải Phòng, Báo cáo phân tích đời sống các tầng lớp dân cư thành phố Hải Phòng năm 2004.
Phụ lục 3
Kết quả hoạt động bảo tồn - bảo tàng thời kỳ 2001-2005
Các hoạt động bảo tồn - bảo tàng
Đ.vị tính
2001
2002
2003
2004
2005
1-Tổng số Bảo tàng thuộc sở hữu NN có trên địa bàn
4
4
4
4
4
2- Tổng số bảo tàng được xếp loại
Loại 2
4
4
4
4
4
3- Tổng số hiện vật, tài liệu hiện có
Hiện vật
17.502
17.594
19.549
4- Tổng số khách tham quan
Người
28.958
36.125
35.775
34.392
35.300
5- Tổng số di tích lịch sử, V.hoá và danh lam, thắng cảnh có trên địa bàn
Di tích
147
147
147
147
147
6- Tổng số di tích lịch sử, văn hoá và danh lam, thắng cảnh đã được xếp hạng quốc gia.
-
96
96
96
96
96
* Tổng số khách tham quan
Nghìn người
250
256
259
263
254
- Khách nước ngoài
-
12.000
15.000
15.500
16.200
17.000
- Khách trong nước
-
238
241
243,5
246,8
237,0
7- Tổng số di sản văn hoá phi vật thể có trên địa bàn (ghi tổng số và liệt kê số loại) trong đó:
Di sản
125
125
125
125
125
* Lễ hội
-
95
95
95
95
95
* Nghệ thuật biểu diễn dân gian
-
3
3
3
3
3
* Tôn giáo - tín ngưỡng dân gian
-
8
8
8
8
8
* Nghệ thuật tạo hình dân gian
-
3
3
3
3
3
* Nghề truyền thống
-
16
16
16
16
16
Nguồn:
- Sở Văn hoá Thông tin Hải Phòng - Báo cáo hiện trạng văn hoá Hải Phòng từ năm 1990 đến tháng 9 năm 2002
- Bảo tàng Hải Phòng - Báo cáo tổng hợp hoạt động bảo tồn - bảo tàng từ 2002 - 2005
Phụ lục 4
Kết quả hoạt động thư viện thành phố Hải phòng thời kỳ 2001 - 2005
Các số liệu
Đ/v tính
2001
2002
2003
2004
2005
1- Tống số Thư viện có trên địa bàn, trong đó:
Thư viện
28
28
28
28
28
* Thư viện tổng hợp
-
1
1
1
1
1
* Thư viện chuyên ngành
-
13
13
13
13
13
* Thư viện Thiếu nhi
-
1
1
1
1
1
* Thư viện quận, huyện..
-
13
13
13
13
13
* Phòng đọc, tủ sách cơ sở
Phòng
tủ
135
135
135
135
135
2- Tình hình hoạt động
* Tổng số vốn tài liệu hiện có
Bản
319.695
325.882
305.048
303.295
313.385
* Tổng số vốn tài liệu được bổ sung trong năm
-
8.669
8.187
9.670
10.090
11.876
* Số lượt sách báo được luân chuyển
Lượt
311.123
320.713
360.602
384.952
403.403
* Tổng số thẻ được cấp trong năm
Thẻ
6.380
7.794
7.665
7.642
8.131
* Tổng số lượt bạn đọc trong năm
Lượt
153.419
159.011
184.851
180.588
191.804
Nguồn: Thư viện Hải Phòng, Báo cáo tổng hợp hoạt động thư viện thành phố Hải Phòng từ năm 2001 - 2005.
Phụ lục 5
Bảng tổng hợp kết quả hoạt động của Cung Văn hoá LĐHN Việt Tiệp thời kỳ 2003 - 2005
TT
Nội dung hoạt động
Đ/v tính
2003
2004
2005
I/văn hoá nghệ thuật
1
Số lượng câu lạc bộ
Số lượng hội viên (được cấp thẻ)
Số buổi sinh hoạt
CLB
Người
Buổi
9
486
218
11
1.019
479
14
1.159
490
2
Biểu diến văn hoá nghệ thuật (ca nhạc, thời trang, chương trình thơ, dạ hội
Chương trình
12
14
18
3
Tổ chức - phục vụ Hội diễn
Chương trình
4
11
12
4
Chuyên đề, tập huấn nghiệp vụ
Chương trình
2
4
8
5
Triển lãm (Tranh, ảnh, tem, thư pháp, mỹ thuật
Cuộc
4
5
5
6
Giao lưu văn hoá, trao đổi kinh nghiệm
Cuộc
11
13
14
7
Các lớp đào tạo
Số lượng học viên
Lớp
Lượt người
4
120
10
300
13
390
8
Sinh hoạt Văn hoá Nghệ thuật tại Cung VH (tham dự các hoạt động)
Lượt/ người/ ngày
500
580
650
II/ Thể dục thể thao
1
Số lượng CLB
Số lượng hội viên (được cấp thẻ)
Số buổi sinh hoạt
CLB
Người
Buổi
13
1.412
415
13
1.316
437
14
1.556
510
2
Tổ chức Giải, Hội thao
Cuộc
3
6
9
3
Tập huấn
Đợt
4
4
5
4
Giao lưu, thi đấu giao hữu
Cuộc
6
12
13
5
Các lớp đào tạo
Số lượng học viên
Lớp
Người
8
400
10
500
12
600
6
Tham gia các giải
Lần
4
5
4
7
Thành tích (tại các giải đấu thành phố, quốc gia, quốc tế)
Giải, Huy chương
7
18
38
8
Sinh hoạt TDTT tại Cung văn hoá
Lượt/ người/ ngày
1.100
980
1.100
Nguồn: Cung Văn hoá LĐHN Việt Tiệp Hải Phòng - Báo cáo tổng hợp kết quả hoạt động từ năm 2003 - 2005.
Phụ lục 6
Số liệu tổng hợp về trung tâm văn hoá, Nhà văn hoá ở Hải Phòng thời kỳ 2001 - 2005
Văn hoá thông tin cơ sở
Đơn vị
2001
2002
2003
2004
2005
- Nhà Văn hoá tỉnh/thành
Nhà VH
01
01
01
01
01
- Trung tâm Thông tin - triển lãm Thành phố
T. tâm
01
01
01
01
01
- Nhà Thiếu nhi (cả tỉnh/ thành và quận huyện
Nhà
03
03
03
03
03
- Cung VH Công đoàn quản lý
Cung VH
01
01
01
01
01
- Cung VH Thanh niên
-
01
01
01
01
01
- Nhà VH, Trung tâm VHTT quận, huyện
NVH
12
12
12
12
12
- NVH xã, phường
CLB
169
169
169
169
169
* Tổng số các đội Văn nghệ quần chúng
Đội
497
497
497
497
497
* Tổng số các liên hoan, hội diễn
Cuộc
47
47
47
47
47
* Tổng số nhà Bưu điện văn hoá xã
Nhà
142
142
142
142
142
- Số sách, báo, tạp chí có trong Bưu điện văn hoá xã
Bản
14.800
14.800
14.800
14.800
14.800
Nguồn: Sở Văn hoá Thông tin Hải Phòng
-Báo cáo hiện trạng văn hoá Hải Phòng từ năm 1990 đến tháng 9 năm 2002.
- Báo cáo tổng hợp một số hoạt động văn hoá thông tin cơ sở thành phố Hải Phòng năm 2003- 2005
Phụ lục 7
Kết quả hoạt động TDTT ở Hải Phòng thời kỳ 2001 - 2005
Nội dung
Đơn vị tính
2001
2002
2003
2004
2005
* Số người tập luyện TDTT thường xuyên
%
19
19,5
19,5
20
20,5
* Gia đình Thể thao
%
6,5
7
7,2
7,3
7,8
* Câu lạc bộ TDTT cơ sở
Câu lạc bộ
2.025
2.150
2.200
2.215
2.230
* Số trường giảng dạy nội khoá đúng quy định
%
75
80
90
90
91
* Số trường tổ chức ngoại khoá chất lượng tốt
%
35
40
50
52
52
* Tổ chức các cuộc thi đấu Thể thao thành phố
Cuộc
35
35
37
38
40
Nguồn: Sở Thể dục Thể thao Hải Phòng, Định hướng phát triển xã hội hoá thể dục thể thao thành phố Hải Phòng 2006-2010, 5/2006.
Phụ lục 8
Bảng tổng hợp hoạt động báo chí ở thành phố Hải Phòng thời kỳ 2001-2005
Đơn vị
2001
2002
2003
2004
2005
1- Số lượng các tờ báo của thành phố
* Báo chính trị - xã hội
tờ
01
01
01
01
01
* Báo chuyên ngành
-
01
01
01
01
01
* Tạp chí chuyên ngành
-
03
03
03
03
03
* Các hình thức xuất bản nội bộ, thông tin KH, nghiệp vụ
17
17
17
17
17
2- Số lượng báo, tạp chí trên được phát hành/năm
Bản
* Báo của Đảng bộ, chính quyền thành phố
-
4 triệu
4 triệu
4 triệu
4 triệu
4 triệu
* Báo An ninh Hải Phòng
-
2 triệu
2 triệu
2 triệu
2 triệu
2 triệu
* Tạp chí tổng hợp
Bản
- Tạp chí Sinh hoạt chi bộ
-
6.500
6.500
6.500
6.500
6.500
- Tạp chí Cửa biển
-
6.600
6.600
6.600
6.600
6.600
- Tạp chí Khoa học, Kinh tế HP
-
15.900
15.900
15.900
15.900
15.900
* Tạp chí Chuyên ngành
-
- Thông tin Khoa học kinh tế
-
2.400
2.400
2.400
2.400
2.400
-Thông tin Nông nghiệp, Thuỷ sản
-
2.400
2.400
2.400
2.400
2.400
- Tạp chí Văn hoá Thông tin HP
-
2.000
2.000
2.000
2.000
2.000
* Các hình thức Xuất bản nội bộ
bản
3.000
3.000
3.000
3.000
3.000
Nguồn: Hoàng Đình Thi, Báo chí Hải Phòng với nhiệm vụ xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, Luận văn tốt nghiệp Đại học chính trị, Học viện CTQG Hồ Chí Minh, năm 2004.
Phụ lục 9
Bảng tổng hợp hoạt động phát thanh - truyền hình ở thành phố Hải Phòng thời kỳ 2001-2005
Đài
2001
2002
2003
2004
2005
1- Tổng số đài Phát thanh, TH
* Đài PTTH trực thuộc thành phố
-
01
01
01
01
01
* Đài PT trực thuộc huyện
10
10
10
10
10
* Đài truyền thanh xã, phường
-
216
216
216
216
216
* Tỷ lệ huyện, thị được phủ sóng trong địa bàn thành phố (Phần trăm được tính bằng số lượng huyện, thị trên tổng số huyện, thị có trong tỉnh thành)
%
92,30
(12/13)
92,30 (12/13)
92,30
(12/13)
92,30
(12/13)
92,30
(12/13)
* Tổng số cán bộ hiện có ở khu vực báo chí, phát thanh, truyền hình (do địa phương quản lý)
Cán bộ
340
340
340
340
340
* Số giờ phát sóng Đài Tiếng nói Việt Nam + đài thành phố
Ngh.giờ /năm
4.40
4.50
4.70
6.60
6,70
* Tỷ số hộ được nghe đài
%
95
95
98
987
98
* Số giờ phát sóng Đài Truyền hình Việt Nam + đài thành phố
Ngh.giờ /năm
14.60
15.50
18.60
20.00
20.00
* Tỷ số hộ được xem truyền hình
%
90
90
95
95
95
Nguồn:
- Hoàng Đình Thi, Báo chí Hải Phòng với nhiệm vụ xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, Luận văn tốt nghiệp Đại học chính trị.
- Văn kiện trình Đại hội lần thứ XIII - Đảng bộ thành phố Hải Phòng, 12/2005
Phụ lục 10
Tổng hợp hoạt động của các đoàn Nghệ thuật thành phố Hải Phòng thời kỳ 2001 - 2005
Hoạt động biểu diễn
đ.vị
2001
2002
2003
2004
2005
* Tổng số Đoàn NT chuyên nghiệp có trên địa bàn, trong đó:
Đoàn
13
13
13
13
13
- Đoàn thuộc tỉnh/thành
-
5
5
5
5
5
* Tổng số đoàn NT chia theo loại hình
-
13
13
13
13
13
- Cải lương
-
2
2
2
2
2
- Chèo
-
1
1
1
1
1
- Kịch nói
-
2
2
2
2
2
- Múa rối
-
1
1
1
1
1
- Xiếc
-
2
2
2
2
2
- Ca múa nhạc
-
5
5
5
5
5
* Tổng số các vở diễn, chương trình mới dàn dựng trong năm
vở
26
24
24
20
20
- Sân khấu
-
16
14
14
14
14
- Ca múa nhạc
-
10
10
10
6
6
* Tổng số buổi biểu diễn nghệ thuật, trong đó:
Buổi
1.500
1.521
1.642
1.551
1.587
- Của các đơn vị địa phương
-
800
812
916
899
900
- Của các đoàn tư nhân
-
700
589
726
652
687
* Tổng số lượt người xem biểu diễn nghệ thuật, trong đó:
Lượt
nghìn người
1.205,0
1.116,0
1.108,0
1.092,0
1.112,0
- Của các đơn vị địa phương
lượt
645.000
603.000
750.000
710.000
790.000
- Của các đoàn tư nhân
-
560.000
513.000
358.000
382.000
322.000
* Tổng số các buổi BDNT phục vụ vùng sâu, vùng xa
-
247
223
251
233
265
* Doanh thu( 5 đoàn Nghệ thuật của TP)
tỷ đồng
1,1
1,05
1.2
Nguồn: Sở Văn hoá Thông tin Hải Phòng
- Báo cáo hiện trạng văn hoá Hải Phòng từ năm 1990 đến tháng 9 năm 2002.
- báo cáo tổng hợp hoạt động của các đoàn nghệ thuật Hải Phòng từ năm 2001 - 2005
Phụ lục 11
Số liệu tổng hợp về tình hình hoạt động của Điện ảnh thành phố Hải Phòng thời kỳ 2001 - 2005
Điện ảnh
đơn vị
2001
2002
2003
2004
2005
1- Tổng số phim phát hành trong năm, (phim truyện)
bộ
27
42
62
87
106
2- Phim Video phát hành trong năm (cả phim Tr.hình):
-
16
34
50
51
50
3- Số đơn vị chiếu phim
Đơn vị
04
04
04
04
04
+ Rạp
Rạp
02
02
03
03
04
+ Đội chiếu bóng lưu động
Đội
02
02
02
02
02
4- Phim chiếu lưu động
Buổi
288
288
288
288
288
5- Tổng số lượt người xem các buổi chiếu phim lưu động
Lượt người
43.260
50.080
60.000
78.000
90.000
6- Số cửa hàng băng hình
Cửa hàng
210
186
152
122
106
Nguồn: Sở Văn hoá Thông tin Hải Phòng- Báo cáo hiện trạng văn hoá Hải Phòng từ năm 1990 đến tháng 9 năm 2002
- Trung tâm Phát hành phim và Chiếu bóng Hải Phòng - Báo các tổng hợp một số hoạt động từ năm 2001 2005
Phụ lục 12
Số liệu về số lượng các quán Bar, Karaoke, Vũ trường ở thành phố Hải Phòng thời kỳ 2001-2005
Số điểm
2001
2002
2003
2004
2005
Karaoke
433
402
408
382
265
Vũ trường
13
13
11
11
9
Ca nhạc phòng trà (bar)
21
21
19
8
8
Nguồn: Sở Văn hoá Thông tin thành phố Hải Phòng năm 2005
Phụ lục 13
Kết quả hoạt động du lịch ở thành phố Hải Phòng
thời kỳ 2001-2005
Chỉ tiêu
Đ/vị tính
2001
2002
2003
2004
2005
1- Mạng lưới
- Khách sạn, trong đó
cái
126
134
171
193
221
+ Khách sạn 3 sao trở lên
-
4
6
7
8
11
+ Công suất sử dụng phòng
%
51
53
46
48
51
2- Tổng lượt khách du lịch
1000 lượt
1,234
1,722
1,883
2,035
2,429
+ Khách quốc tế
1000 lượt
373,6
558,9
602
495,5
511,5
+ Khách nội địa
1000 lượt
860
1,163
1,281
1,540
1,918
3- Doanh thu ngành du lịch
tỷ đồng
319
441
457
464
546
Nguồn: Sở Kế hoạch đầu tư Hải Phòng, Kinh tế Hải Phòng 50 năm xây dựng và phát triển (1955-2005), Nxb Thống kê, Hà Nội, 2005.
Phụ lục 14
Kết quả nộp ngân sách nhà nước của Casino Đồ Sơn từ năm 2001- 5005
2001
2002
2003
2004
2005
25 tỷ 570 triệu
35 tỷ 285 triệu
25 tỷ 978 triệu
25 tỷ 763 triệu
24 tỷ125 triệu
Nguồn: Công đoàn Công ty Liên doanh Du lịch quốc tế Hải Phòng - Báo cáo tóm tắt một số hoạt động từ năm 2001 - 2005.
Phụ lục 15
Tổng hợp chi ngân sách cho các hoạt động văn hoá - xã hội ở thành phố Hải Phòng thời kỳ 2001 - 2003
Đơn vị: tỷ đồng
Stt
Ngành
2001
2002
2003
Bình quân năm
1
Văn hoá
15,66
17,62
16,79
16,69
2
Giáo dục - đào tạo
337
325,1
380
347,3
3
Y tế
93,10
97,3
109,46
99,6
4
Thể dục thể thao
15,20
15,3
16,68
15,7
5
Các ngành khác
55,56
51,88
62,30
56,58
Cộng
516,52
507,2
585,23
536,3
1
Văn hoá
3,0
3,5
2,9
3,1
2
Giáo dục - đào tạo
65,2
64,1
64,9
64,7
3
Y tế
18,0
19,2
18,7
18,6
4
Thể dục thể thao
2,9
3,0
2,8
2,9
5
Các ngành khác
10,8
10,2
10,6
10,5
Cộng
100
100
100
100
Nguồn: Sở Văn hoá Thông tin Hải Phòng - Báo cáo tổng hợp quy hoạch ngành văn hoá thông tin giai đoạn đến năm 2010.
Phụ lục 16
Chi ngân sách cho sự nghiệp biểu diễn nghệ thuật (2000 - 2002)
Đơn vị: triệu đồng
Loại nghệ thuật
2000
2001
2002
1
Kịch nói
327
650
740
2
Chèo
367
953
508
3
Cải lương
433
450
495
4
Ca múa nhạc
695
417
530
5
Rối
325
350
410
Tổng số
2.147
2.820
2.683
Nguồn: Nguồn: Sở Văn hoá Thông tin Hải Phòng - Báo cáo tổng hợp quy hoạch ngành văn hoá thông tin giai đoạn đến năm 2010.
Phụ lục 17
Điều chỉnh quy hoạch các khu công nghiệp tập trung
Khu cụm công nghiệp
Khu đô thị mới
I. Khu vực ven sông Bạch Đằng
1. Khu CN Minh Đức - Tràng Kênh
- Thị trấn Minh Đức mở rộng quy
2. Khu CN Bến Rừng
mô 65.000 dân
3. Khu CN Đình Vũ
- Khu đô thị đông nam TP, quy mô
175.000 dân; 2.350 ha
II. Khu vực ven sông Cấm
1. Khu CN Lê Thiện-Đại Bản-An Hưng
- Đô thị bắc sông Cấm, quy mô:
120.000 dân, 3030 ha
2. Khu CN Nômura
- Đô thị tâybắc TP quy mô: 120.000
dân, 1650 ha
3. Khu CN Bến Kiền
4. Khu CN Vật Cách-Nam Sơn
-Quận Hồng Bàng mở rộng
5. Khu CN Thượng Lý-Sở Dầu
6. Khu CN An Đông
quy mô 191.000 dân, 2060 ha
7. Khu CN Đông Hải
- Quận Hồng Bàng mở rộng
quy mô 187.000 dân, 1.241 ha
III. Khu ven sông Lạch Tray
1. Cụm CN An Tràng-Cống Đôi
- Quận Kiến An mở rộng
quy mô 120.000 dân, 2.955 ha
2. Cụm CN Tiên Hội-Quán Trữ
3. Cụm CN Đông Hoà
4. Cụm CN Vĩnh Niệm
- Quận Lê Chân mở rộng
quy mô 200.000 dân, 1.156 ha
5. Cụm CN Thành Tô-Hải Thành
- Đường 353, quy mô khoảng 100.000 dân, 2300 ha
Nguồn: Sở Văn hoá Thông tin Hải Phòng -Báo cáo tổng hợp quy hoạch ngành văn hoá thông tin giai đoạn đến năm 2010.
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LA2454.doc