Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong chiến lược phát triển kinh tế của đất nước mà đại hội IX của Đảng cộng sản Việt Nam đã đề ra là phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, tiếp tục đổi mới, vì mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”, đưa nước ta thành một nước văn minh hiện đại.
Để đạt được mục tiêu đó Đảng đã đề ra nhiều nghị quyết nhằm phát huy nhiều nguồn lực để tăng trưởng kinh tế. Trong đó có Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ Ba, về sắp xếp,
121 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1499 | Lượt tải: 3
Tóm tắt tài liệu Văn hoá doanh nghiệp và vai trò Công đoàn trong việc xây dựng văn hoá doanh nghiệp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả Doanh nghiệp Nhà nước. Nghị quyết khẳng định: “Doanh nghiệp nhà nước đã chi phối được các nghành, lĩnh vực then chốt và sản phẩm thiết yếu của nền kinh tế; góp phần chủ yếu để kinh tế Nhà nước thực hiện được vai trò chủ đạo, ổn định và phát triển kinh tế-xã hội, tăng thế và lực của đất nước…Doanh nghiệp Nhà nước ngày càng thích ứng với cơ chế thị trường; năng lực sản xuất tiếp tục tăng; cơ cấu ngày càng hợp lý hơn; trình độ công nghệ và quản lý có nhiều tiến bộ; hiệu quả và sức cạnh tranh từng bước được nâng lên; đời sống của người lao động được cải thiện.” Tuy nhiên Nghị quyết cũng chỉ ra những mặt yếu kém của doanh nghiệp nhà nước, đó là:” Cơ chế chính sách còn nhiều bất cập, chưa đồng bộ, còn nhiều điểm chưa phù hợp với cơ chế thị trường xã hội chủ nghĩa, chưa tạo được động lực mạnh mẽ thúc đẩy cán bộ và người lao động trong doanh nghiệp nâng cao năng suất lao động và hiệu quả kinh doanh”.
Như vậy, làm sao để tạo được động lực mạnh mẽ, thúc đẩy cán bộ và người lao động trong doanh nghiệp nâng cao năng suất lao động và hiệu quả kinh doanh? Làm sao để mọi người trong doanh nghiệp liên kết với nhau, hướng đến một mục tiêu duy nhất là luôn làm cho doanh nghiệp của mình ngày càng phát triển, góp phần vào sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và đời sống của chính mình. Thực hiện mục tiêu đó, tất yếu phải tiến hành xây dựng văn hoá doanh nghiệp trong các doanh nghiệp nhà nước.
Nghị quyết Trung ương Năm khoá VIII của Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định: “ Văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội.”Chúng ta phải làm cho văn hoá thấm sâu vào mọi lĩnh vực của đời sống. Vì vậy văn hoá doanh nghiệp được coi là nguồn lực nội sinh, trực tiếp thúc đẩy sự phát triển bền vững của các doanh nghiệp, góp phần vào thành công của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Thủ đô Hà Nội là trung tâm chính trị, kinh tế và văn hoá của cả nước.. Kinh tế của thủ đô Hà Nội đã có tác động không nhỏ đến sự phát triển chung của đất nước, những năm qua Đảng và Nhà nước đã có sự quan tâm đặc biệt đến sự phát triển kinh tế - xã hội của Hà Nội.
Nghị quyết 15 của Bộ Chính trị đã đề ra những nhiệm vụ chiến lược đối với Hà Nội: “Trong 10 năm tới, đảm bảo xây dựng về cơ bản nền tảng vật chất kỹ thuật và xã hội của Thủ đô xã hội chủ nghĩa” và quyết tâm thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá Thủ đô”. Thực hiện Nghị quyết trên một số doanh nghiệp nhà nước ở Hà Nội đã làm ăn có lãi, đứng vững trong cơ chế thị trường, đã tạo cho mình một diện mạo mới, cung cách làm ăn mới. ở những doanh nghiệp đó tổ chức Công đoàn phát huy được tinh thần sáng tạo và đóng góp của mọi thành viên trong doanh nghiệp, khẳng định vai trò của mình trong việc xây dựng Văn hoá doanh nghiêp.
Tuy nhiên, bên cạnh đó còn nhiều doanh nghiệp chỉ chú trọng đến lợi nhuận, coi lợi nhuận như là một “tiêu chuẩn duy nhất” để tồn tại doanh nghiệp, không quan tâm đến việc xây dựng “Văn hoá doanh nghiêp”. Từ đó dẫn đến lương tâm, phẩm giá của người lao động bị giảm sút, nạn ô nhiễm môi trường, các tệ nạn xã hội, các bệnh hiểm nghèo cũng phát triển theo. Một số doanh nghiệp khác cũng không quan tâm xây dựng VHDN nên làm ăn kém hiệu quả, chất lượng sản phẩm không đảm bảo, trình độ quản lý, kinh doanh kém, cạnh tranh không lành mạnh, không trả lương, trả thưởng cho người công nhân đúng thời hạn, không đảm bảo vệ sinh an toàn lao động, làm cho người lao động không hứng thú làm việc, không không gắn bó với doanh nghiệp. Tất cả những điều ấy cho thấy, các doanh nghiệp thiếu hẳn vai trò của văn hoá trong sản xuất kinh doanh. Hay nói một cách khác là các doanh nghiệp chưa thực sự hình thành cho mình một VHDN.
Do vậy, vấn đề đặt ra cho Đề tài này là phải khảo sát thực tiễn, rút ra bài học kinh nghiệm, về xây dựng mô hình VHDN gắn với vai trò của tổ chức Công đoàn trong các doanh nghiệp nhà nước trên địa bàn Hà Nội, nhằm phát huy được vai trò của DNNN trong sự nghiệp CNH, HĐH đất nước nói chung và Hà Nội nói riêng.
Về mặt lý luận và thực tiễn việc nghiên cứu VHDN ở nước ta chưa được chú ý. Hiện nay, mới có một số nhà nghiên cứu chỉ đề cập đến VHDN trên bình diện văn hoá trong kinh doanh, hoặc khai thác một vài khía cạnh của VHDN như: Tinh thần doanh nghiệp, Đạo đức kinh doanh, Triết lý kinh doanh, chưa có đề tài nào nghiên cứu VHDN trên bình diện chung. Đặc biệt chưa có đề tài nào nghiên cứu xây dựng VHDN trong các doanh nghiệp nhà nước gắn với vai trò của tổ chức Công đoàn trong doanh nghiệp nhà nước, ở Thủ đô Hà Nội nói riêng cũng như phạm vi cả nước nói chung. Vì vậy, việc nghiên cứu đề tài: “ Văn hoá doanh nghiệp và vai trò Công đoàn trong việc xây dựng Văn hoá doanh nghiệp” trong các doanh nghiệp nhà nước ở Hà Nội là vấn đề rất cần thiết. Bởi vì, vấn đề liên quan đến định hướng kinh tế - xã hội của đất nước, liên quan đến vai trò của giai cấp công nhân Việt Nam trong việc phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Do vậy, chọn đề tài này làm luận văn tốt nghiệp hệ Cao học chuyên ngành văn hoá học, là vấn đề rất có ý nghĩa cả về phương diện lý luận lẫn phương diện thực tiễn, trong sự nhiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo định hướng XHCN ở nước ta hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Về vấn đề VHDN trên thế giới mới được nghiên cứu trong mấy thập niên gần đây. Trong cuốn sách “Văn hoá học - những bài giảng của A.A. RADGHIN, nhà xã hội học người Mỹ, E.N.Schein đưa ra định nghĩa về Văn hoá Doanh nghiệp hay Văn hoá tổ chức (E. Schein. San- Francínco. 1985).
Trong cuốn “ Dự báo thế kỷ XXI” của các nhà khoa học Trung Quốc, đã đề cập đến vai trò của doanh nghiệp ở thế kỷ XXI và đưa ra lời khuyến cáo rằng: Nếu không chú ý đến văn hoá, thì doanh nghiệp không thể phát triển được; Đạo đức, lương tâm nghề nghiệp còn quan trọng hơn việc phát triển kỹ thuật mũi nhọn và cải cách thể chế của doanh nghiệp. Nhận thức được những lời khuyến cáo trên ở Nhật Bản, Trung Quốc, Anh, Pháp, Mỹ, Đức các doanh nghiệp đã chú trọng đến yếu tố văn hoá trong sản xuất, kinh doanh và đã bắt đầu xây dựng VHDN của mình.
Gần đây trong khoá học chuyên đề: Xây dựng Văn hoá doanh nghiệp của trung tâm hợp tác nguồn lực Việt Nam - Nhật Bản tháng 12 năm 2004 ở Hà nội người ta đã đưa ra một khái niệm về Văn hoá tổ chức.
ở Việt Nam ta, đề cập đến mối quan hệ giữa văn hoá và kinh tế khá muộn. Trước đây người ta cho rằng, văn hoá và kinh tế là hai lĩnh vực hoàn toàn tách biệt nhau, không có mối quan hệ hỗ trợ, gắn bó nào. Đấy là một nhận thức sai lầm. Sau Đại hội VI của Đảng, chúng ta bắt đầu đổi mới về tư duy, nhận thức, trước hết là đổi mới tư duy về kinh tế. Chúng ta đã nhận thức được tầm quan trọng của văn hoá trong phát triển kinh tế. Văn hoá vừa là mục tiêu, vừa là động lực để phát phát triển kinh tế - xã hội. Mãi đến năm 1995, tại Hà Nội, Trung tâm Khoa học xã hội - Nhân văn Quốc gia cùng với Uỷ ban Quốc gia Unesco của Việt Nam mới phối hợp tổ chức cuộc Hội thảo "Văn hoá và kinh doanh”. Trong Hội thảo này các Đại biểu quốc tế và Việt Nam đều nhất trí và khẳng định rằng, giữa văn hoá và kinh tế có mối quan hệ khăng khít, chặt chẽ với nhau, đồng thời chỉ ra rằng, trong kinh doanh yếu tố văn hoá đóng vai trò cực kỳ quan trọng.
Đến năm 2001, Ban Tư tưởng - Văn hoá Trung ương phối hợp với Bộ Văn hoá - Thông tin và viện Quản trị Doanh nghiệp, xuất bản cuốn sách Văn hoá và kinh doanh. Trong cuốn sách này các tác giả không đề cập đến “Văn hoá doanh nghiệp” mà chỉ nói đến văn hoá trong kinh doanh, quan hệ giữa văn hoá với kinh doanh. Đây chỉ là những ý kiến gợi mở để chúng ta có thể tham khảo, đồng thời bước đầu làm cơ sở cho việc xây dựng lý luận về hình thành VHDN.
Ngoài ra, còn có một số công trình đã được nghiên cứu về VHDN và được công bố như: Văn hoá và triết lý kinh doanh của tiến sĩ Đỗ Minh Cương (Xuất bản năm 2000). Trong tác phẩm này, tiến sĩ Đỗ Minh Cương đã đưa ra định nghĩa về VHDN và cấu trúc của nó. Nhưng tiến sĩ Đỗ Minh Cương lại không đi sâu hướng nghiên cứu này, mà chỉ chọn vấn đề triết lý kinh doanh để nghiên cứu.
Năm 2003, tác giả Trần Quốc Dân đã cho ra đời cuốn sách” Tinh thần doanh nghiệp giá trị định hướng của kinh doanh Việt Nam”.
Tác giả xác định: Tinh thần doanh nghiệp chính là giá trị định hướng của văn hoá kinh doanh Việt Nam. Như vậy tác giả mới chỉ đi sâu nghiên cứu một yếu tố trong văn hoá doanh nghiệp đó là “Tinh thần”. Ngoài ra có nhiều bài viết liên quan đến VHDN, được đăng rãi rác trên các tạp chí khoa học. Nỗi bật hơn cả là bài: Bàn về Văn hoá và Văn hóa kinh doanh của GS -TS Hoàng Vinh, đăng trong “ Thông tin Văn hoá và phát triển” của Khoa Văn hoá XHCN, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh tháng 8 năm 2004. GS -TS Hoàng Vinh đã đưa ra một quan niệm, muốn xây dựng thuật ngữ “Văn hoá kinh doanh”.
Gần đây tại khoa Văn hoá XHCN, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, học viên Cao học chuyên nghành Văn hoá học, Trần Thị Thuý Vân đã bảo vệ thành công luận văn “ Xây dựng Văn hoá doanh nghiệp trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh”. Luận văn này đã có những đóng góp nhất định về phương diện thực tiễn xây dựng VHDN nói chung ở một địa phương (Tp Hồ Chí Minh), song chưa chú ý nhiều đến VHDN của DNNN, đồng thời chưa quan tâm đến vai trò của tổ chức Công đoàn trong các doanh nghiệp nhà nước với việc xây dựng VHDN.
Tóm lại, tất cả những công trình nghiên cứu, những bài viết đã nêu ở trên, của các tác giả rất có ý nghĩa cho việc hình thành cơ sở lý luận về VHDN. Nhưng chưa có công trình nào nghiên cứu chuyên sâu và có hệ thống về VHDN ở Việt Nam nói chung và ở địa bàn Thủ Đô Hà Nội nói riêng đặc biệt trong DNNN. Vì vậy chúng tôi chọn đề tài Văn hoá doanh nghiệp và vai trò Công đoàn trong việc xây dựng văn hoá doanh nghiệp trong doanh nghiệp nhà nước ở Thủ đô Hà Nội để nghiên cứu là nhằm muốn được góp một phần nho nhỏ vào xây dựng cơ sở lý luận về VHDN đồng thời đưa ra một số phương hướng, giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả xây dựng văn hoá doanh nghiệp trong các DNNN và hoạt động Công đoàn cơ sở nhằm thúc đẩy doanh nghiệp phát triển một cách bền vững trên địa bàn thành phố Hà Nội.
3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn
3.1 Mục đích
- Trên cơ sở kế thừa các công trình nghiên cứu, các tài liệu đã có, Luận văn khái quát, hệ thống vấn đề mang tính lý luận: VHDN, cấu trúc văn hoá hoá doanh nghiệp và vai trò của văn hoá doanh nghiệp đối với sự phát triển của doanh nghiệp.
- Khảo sát, tìm hiểu thực trạng xây dựng văn hoá doanh nghiệp của một số doanh nghiệp nhà nước và hoạt động Công đoàn trong việc xây dựng văn hoá doanh nghiệp, ở thủ đô Hà Nội trong giai đoạn hiện nay. Từ đó, khẳng định vai trò của công đoàn cơ sở đối việc xây dựng VHDN trong các doanh nghiệp nhà nước, đồng thời đưa ra một số phương hướng và giải pháp hữu hiệu nhằm nâng cao hiệu quả xây dựng và phát triển doanh nghiệp, cũng như nâng cao vai trò hoạt động của Công đoàn cơ sở để giúp doanh nghiệp phát triển một cách toàn diện và bền vững.
3.2. Nhiệm vụ
Để đạt dược mục đích trên, luận văn cần tập trung giải quyết những vấn đề sau:
- Làm rõ khái niệm VHDN trên cơ sở phân biệt các khái niệm liên quan như Văn hoá, Văn hoá kinh tế, VHKD. Luận văn sẽ đưa ra một cách chia cấu trúc VHDN hợp lý, để nắm bắt được thực chất “Văn hoá doanh nghiệp”và mô tả đầy đủ các yếu tố của nó. Đồng thời chỉ ra vai trò đặc biệt quan trọng của VHDN trong sự phát triển bền vững của doanh nghiệp.
- Phân tích, đánh giá thực trạng VHDN của một số doanh nghiệp nhà nước ở thủ đô Hà Nội. Đưa ra một số phương hướng, giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả VHDN ở Thủ đô Hà Nội gắn với vai trò của tổ chức Công đoàn cơ sở trong doanh nghiệp
4. Phạm vi nghiên cứu luận văn
Phạm vi nghiên cứu của Luận văn là một số doanh nghiệp nhà nước tiêu biểu trên địa bàn thủ đô Hà nội, trong đó có cả doanh nghiệp trung ương và doanh nghiệp địa phương.
5.Cơ sở lí luận, phương pháp nghiên cứu luận văn
5.1. Cơ sở lí luận
Luận văn dựa trên cơ sở lý luận của Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các văn kiện của Đảng, Nhà nước và tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam về doanh nghiệp và phát triển doanh nghiệp trong tình hình mới.
Ngoài ra Luận văn còn tham khảo một số quan điểm lý luận trong các văn kiện của Thành uỷ, Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân thành phố Hà nội, Liên đoàn Lao động Hà nội về phát triển kinh tế Thủ đô trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Đồng thời luận văn còn kế thừa các công trình nghiên cứu của tập thể và các cá nhân liên quan đến đề tài.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
- Luận văn sử dụng phương pháp biện chứng của chủ nghĩa duy vật Mác - Lênin về các mối quan hệ vật chất và ý thức, lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, kinh tế và văn hoá.
- Luận văn sử dụng phương pháp nghiên cứu điều tra xã hội học, khảo sát thực tế và phỏng vấn chuyên gia và các nhà chuyên môn, cùng với phương pháp phân tích và tổng hợp, so sánh và đối chiếu để nghiên cứu và trình bày các vấn đề của bản Luận văn.
6. Đóng góp mới về khoa học của luận văn
- Góp phần định hình khái niệm VHDN và cấu trúc của VHDN.
- Góp phần nâng cao nhận thức về vấn đề xây dựng VHDN trong DNNN và khẳng định vai trò to lớn của tổ chức Công đoàn trong việc xây dựng VHDN. Qua đó khẳng định vai trò “chủ đạo” của kinh tế Nhà nước trong nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay.
- Những kết quả nghiên cứu của đề tài có thể dùng làm tài liệu cho việc nghiên cứu những vấn đề văn hoá và kinh tế, cho việc giảng dạy lĩnh vực văn hoá ở các trường đại học, đặc biệt là các trường đào tạo của hệ thống Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3 chương, 6 tiết.
Chương 1
Mấy vấn đề lý luận về Văn hoá Doanh nghiệp và vai trò Công đoàn trong việc xây dựng văn hóa doanh nghiệp
1.1. Tổng quan về văn hóa doanh nghiệp
1.1.1. Khái lược về “văn hoá”
Trong lịch sử phát triển xã hội và sự hoàn thiện nhân cách con người, văn hoá đồng hành với con người trên tất cả mọi phương diện: hoạt động và sáng tạo. Hoạt động nhằm bộc lộ sức mạnh bản chất người và hoàn thiện nhân tính. Sáng tạo như một đặc trưng bản chất của con người, cái thước đo phân biệt tồn tại người với tồn tại vật, giữa ý thức tự giác của người với bản năng tự phát của động vật, giữa tất yếu và tự do. Nhờ có sáng tạo mà nhân tính mới được khẳng định và hoàn thiện, con người mới biểu hiện như một chủ thể hoạt động và sáng tạo giá trị.
Văn hoá thống nhất trong đa dạng, thống nhất bao hàm bởi nhiều sự khác biệt. Nhờ nó, tự bản chất nó, văn hoá mang thuộc tính một động lưc phát triển và mang ý nghĩa của sự hoàn hảo, không ngừng vươn tới sự hoàn hảo. Bản chất văn hoá gắn liền với bản chất con người. Dưới tác động của văn hoá, đặc biệt là văn hoá đạo đức và văn hoá thẩm mỹ, con người có thể nảy nở khát vọng, nhu cầu trở nên tốt đẹp, cái mà từ lâu, Mác gọi là sự nãy nở nhân tính, làm cho hoàn cảnh có tính người ngày càng nhiều hơn.
Giữa con người và văn hoá có quan hệ mật thiết với nhau. Khi nói văn hoá hay nói con người, chỉ là những phạm trù tách ra để nhận thức, chúng là những đối tượng được khu biệt trong nhận thức. Nhưng trong tính hiện thực bản thể của chúng, văn hoá và con người luôn gắn liền với nhau, biểu hiện lẫn nhau. Không có con người và hoạt động người thì không có văn hoá. Bởi không có một giá trị, một sản phẩm văn hoá nào ra đời nếu không có bàn tay và khối óc của con người tạo nên. Ngược lại không có văn hoá con người sẽ không thể tồn tại như một sinh thể xã hội.
Trong đời thường, từ văn hoá dùng để đánh giá, chỉ phẩm chất ưu việt của một con người, một hiện tượng hay một sự vật nào đó. Chẳng hạn khi nói anh ấy cư xử rất văn hoá (nghĩa là có lễ độ, đúng phép lịch sự) hoặc buổi diễn thuyết hôm nay rất văn hoá (nghĩa là ý tưởng dồi dào, diễn đạt lưu loát, được đa số tán thưởng).
Đã có nhiều cách giải thích từ “Văn hoá”. Tuy diễn đạt khác nhau, nhưng có một số điểm chung mà mọi người đều thừa nhận rằng: “Văn hoá” là phương thức tồn tại đặc hữu của loài người, khác cơ bản với tổ chức đời sống các quần thể sinh vật trên trái đất. Nó là cái do con người học được mà có, chứ không phải là cái bẩm sinh do di truyền.
Bàn về văn hoá, Viện sĩ người Pháp Teihard de Chardin có đưa ra một nhận định, đại ý nói rằng: Trái đất hình thành và phát triển đến một lúc nào đó thì xuất hiện sự sống, ông gọi đó là sinh quyển (Bisophere). Tiếp đó là sự ra đời của tri quyển (Noosphere) gắn với sự xuất hiện của người khôn ngoan hiện đại (Hômo - Sapiens). Trí quyển là quyển về ý thức, về tinh thần do con người tạo ra trong quá trình hoạt động thực tiễn. Đó chính là văn hoá, biểu hiện như là “ Thế giới nhân tạo” của con người.
Để giải thích từ “Văn hoá”, các nhà văn hoá học phương Tây ngày nay thường chia ra làm hai trường hợp:
Một là, từ “Văn hoá “ viết hoa, số ít (LaCulture) được chỉ định là một thuộc tính chỉ có ở loài người. Nó là cái dùng để phân biệt giữa loài người và loài vật. Đó là khả năng tư duy, học hỏi thích ứng và sáng tạo ra những quan niệm, biểu tượng, giá trị, làm cơ sở cho hệ thống ứng xử, để loài người có thể tồn tại và phát triển.
Hai là, từ “Văn hoá” không viết hoa, số nhiều (LesCultures) chỉ những nền, “kiểu” văn hoá khác nhau, tức là lối sống của các thể cộng đồng, biểu hiện trong những quan niệm về giá trị, trong hệ thống các hành vi ứng xử, mà các cộng đồng người ấy học hỏi được và sáng tạo ra trong hoạt động sống của họ. Đó còn là những truyền thống của cộng đồng, hình thành nên trong các điều kiện xã hội - lịch sử nhất định.
Quan niệm về văn hoá trên đây tương đối phù hợp với định nghĩa văn hoá do nguyên Tổng giám đốc UNESCO Fderico Mayord đưa ra, nhân dịp phát động “ Thập kỷ thế giới phát triển văn hoá” (1988- 1997). Ông viết “Văn hoá là tổng thể sống động các họat động sáng tạo(của các cá nhân và cộng đồng) trong quá khứ và trong hiện tại. Qua các thế kỷ hoạt động sáng tạo ấy đã hình thành nên một hệ thống các giá trị, các truyền thống và các thị hiếu - những yếu tố xác định đặc tính riêng của mỗi dân tộc.”
Xuất phát từ quan niệm trên, các nhà xã hội học chia văn hoá thành hai hình thái: văn hoá cá nhân và văn hoá cộng đồng.
Văn hoá cá nhân là toàn bộ vốn tri thức, kinh nghiệm tích luỹ vào mỗi các nhân, biểu hiện ở hệ thống quan niệm và hành xử của các nhân ấy trong đời sống thực tiễn.
Văn hoá cộng đồng là văn hoá của một nhóm xã hội, nó không phải là số cộng giản đơn của những văn hoá cá nhân - thành viên trong cộng đồng cộng lại. Văn hoá cộng đồng là toàn bộ tri thức, kinh nghiệm, giá trị, phương thức ứng xữ…mà cả cộng động cùng chia sẽ và chấp nhập, đã trở thành truyền thống của cộng đồng ấy. Định nghĩa văn hoá của E Mayor vừa nêu trên chính là nói về nội dung và đặc điểm của Văn hoá công đồng.
ở Việt Nam, việc nghiên cứu văn hoá với tư cách là một khoa học xã hội ra đời rất muộn. Nhưng những nhận định, quan niệm về văn hoá thì có từ rất sớm, gắn với những tên tuổi các học giả như Lê Quý Đôn (1773), Phan Kế Bính (1915), Đào Duy Anh (1938), Nguyễn Văn Huyên (1944)…
Nhìn chung, các công trình của các ông được các nhà văn hoá hiện nay đánh giá là viết theo hướng lịch sử văn hoá, mang tính chất miêu tả là chủ yếu, nhưng rất công phu và tỷ mỷ.
Giữa thế kỷ 20 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa ra một quan niệm về văn hoá mà đến nay người ta cho vẵn còn nguyên giá giá trị: Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn hoá nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về ăn, mặc, ở và các phương tiện sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hoá.
Hiện nay, đất nước ta ngày càng đổi mới. Đảng và Nhà nước ta thực sự quan tâm đến các lĩnh vực nghiên cứu khoa học, đặc biệt là đầu tư cho lĩnh vực nghiên cứu về văn hoá, giáo dục. Bởi vậy, những công trình nghiên cứu văn hoá ngày càng nhiều và mang lại hiệu quả thiết thực, phục vụ đắc lực cho công cuộc kiến thiến đất nước, nâng cao mức sống vật chất và tinh thần cho nhân dân. Những công trình nghiên cứu về văn hoá ấy đã giúp cho chúng ta nhận thức một cách đầy đủ hơn về văn hoá, văn minh thế giới cũng như nhận thức một cách sâu sắc hơn về văn hoá dân tộc Việt Nam. Ví dụ như công trình nghiên cứu của GS-TS Hoàng Vinh đã tóm lược và giới thiệu 12 nhóm định nghĩa về văn hoá, từ đó giúp chúng ta nhận biết về các khái niệm văn hoá một cách đầy đủ hơn sâu sắc hơn và toàn diện hơn.
12 nhóm định nghĩa bao gồm:
(1) Định nghĩa mang tính chất miêu tả, tiêu biểu cho nhóm định nghĩa này là Edward Burnet Tylor;
(2) Định nghĩa manh tính chất lịch sử, nhấn mạnh vào sự kế thừa di sản xã hội;
(3) Định nghĩa nhấn mạnh vào nếp sống xã hội;
(4) Định nghĩa nhấn mạnh vào sự thích ứng của con người với môi trường tự nhiên;
(5) Định nghĩa nhấn mạnh vào tính chất di truyền xã hội, tức khả năng học tập của con người;
(6) Định nghĩa nhấn mạnh vào phương thức ứng xữ;
(7) Định nghĩa nhấn mạnh vào khía cạnh tư tưởng của văn hoá;
(8) Định nghĩa nhấn mạnh vào phương diện giá trị của văn hoá;
(9) Định nghĩa nhấn mạnh vào hoạt động sáng tạo trong lịch sử, nhằm hình thành nên hệ thống giá trị xã hội;
(10) định nghĩa nhấn mạnh vào mô hình các thể chế xã hội;
(11) Định nghĩa nhấn mạnh vào ý nghĩa biểu trưng của văn hoá;
(12) Định nghĩa mang tính chất điều khiển học [52, tr.33 - 37].
Từ sự phân tích ở trên, đã giúp chúng ta có cơ sở khoa học tiếp cận những vấn đề mới, đó là VHDN, văn hoá kinh doanh, văn hoá kinh tế… tất cả đấy là những dạng, kiểu của văn hoá, mang đầy đủ trong nó những đặc điểm, đặc trưng, thuộc tính của văn hoá tổ chức cộng đồng.
1.1.2. Khái niệm “Văn hóa doanh nghiệp”
Khái niệm VHDN được cấu tạo bởi bởi hai khái niệm văn hoá và doanh nghiệp. Để hiểu rõ nội hàm khái niệm VHDN, trước hết ta cần làm rõ khái niệm doanh nghiệp.
1.1.2.1. Khái niệm về “Doanh nghiệp”
Theo đại Từ điển tiếng Việt, doanh nghiệp là: “tổ chức hoạt động kinh doanh của những chủ sở hữu có tư cách pháp nhân, nhằm mục đích kiếm lời ở một hoặc nhiều ngành".
Như vậy, thuật ngữ “ doanh nghiệp” mang hai nghĩa rộng và hẹp.
Theo nghĩa rộng: Doanh nghiệp là đơn vị kinh tế cơ sở, có chức năng sản xuất - kinh doanh hàng hoá, dịch vụ, một cách hợp pháp theo nhu cầu của thị trường, nhằm đạt lợi nhuận hoặc hiệu quả kinh tế tối đa. Nghĩa là, doanh nghiệp bao gồm tất cả các cơ sở sản xuất - kinh doanh, từ các Tổng Công ty, các tập đoàn kinh tế xuyên quốc gia… đến các hộ gia đình kinh doanh cá thể nhỏ lẻ.
Theo nghĩa hẹp: Doanh nghiệp chỉ bao gồm các cơ sở thuộc khu vực chính thức, có đăng ký tư cách pháp nhân theo các Luật Doanh nghiệp và kinh doanh hiện hành.
Theo Khoản 1, Điều 3 Luật Doanh nghiệp đã đưa ra khái niệm doanh nghiệp như sau; “Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở, giao dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh”.
ở Việt Nam chúng ta hiện nay, tuỳ theo đặc điểm về hình thức sở hữu, về lĩnh vực sản xuất, về quy mô tổ chức sản xuất, người ta có thể phân ra các loại hình doanh nghiệp theo hình thức sở hữu như sau:
Doanh nghiệp nhà nước:
Doanh nghiệp Nhà nước là tổ chức kinh tế do Nhà nước sở hửu toàn bộ vốn điều lệ hoặc có cổ phần, vốn góp chi phối, được tổ chức dưới hình thức Công ty Nhà nước, Công ty Cổ phần, Công ty Trách nhiệm hữu hạn.
Doanh nghiệp nhà nước được tổ chức theo những loại hình sau:
Công ty nhà nước, là doanh nghiệp do Nhà nước sở hữu toàn bộ vốn điều lệ, thành lập tổ chức quản lý, đăng ký hoạt động theo quy định của Luật Doanh nghiệp nhà nước.
Công ty nhà nước có hai loại: Công ty Nhà nước độc lập và Tổng Công ty Nhà nước.
Công ty Cổ phần nhà nước là Công ty Cổ phần, mà toàn bộ cổ đông là các công ty Nhà nước hoặc tổ chức được Nhà nước uỷ quyền góp vốn, được tổ chức và hoạt động theo quy định của Luật Doanh nghiệp.
Công ty Trách nhiệm hữu hạn nhà nước một thành viên là Công ty trách nhiệm hữu hạn do Nhà nước sở hữu toàn bộ vốn điều lệ, được tổ chức quản lý và đăng ký hoạt động theo quy định của Luật Doanh nghiệp.
Công ty Trách nhiệm hữu hạn nhà nước có hai thành viên trở lên là Công ty trách nhiệm hữu hạn trong đó có tất cả các thành viên đều là Công ty Nhà nước hoặc có thành viên là Công ty Nhà nước và thành viên khác là tổ chức được Nhà nước uỷ quyền góp vốn, được tổ chức và hoạt động theo quy định của Luật Doanh nghiệp.
Doanh nghiệp có cổ phần, vốn góp chi phối của Nhà nước là doanh nghiệp mà cổ phần hoặc vốn góp của Nhà nước chiếm trên 50% vốn điều lệ. Nhà nước giữ quyền chi phối đối với doanh nghiệp đó.
Doanh nghiệp có một phần vốn Nhà nước là doanh nghiệp mà phần vốn góp của Nhà nước trong vốn điều lệ chiếm từ 50% trở xuống.
Công ty Nhà nước giữ quyền chi phối doanh nghiệp khác là Công ty sở hữu toàn bộ vốn điều lệ hoặc có cổ phần, vốn góp chiếm trên 50% vốn điều lệ của doanh nghiệp khác, giữ quyền chi phối đối với doanh nghiệp đó.
Công ty Nhà nước độc lập là Công ty Nhà nước không thuộc cơ cấu tổ chức của Tổng công ty Nhà nước. Vốn điều lệ của Công ty Nhà nước là số vốn Nhà nước đầu tư vào Công ty và ghi tại Điều lệ Công ty.
1.1.2.2. Quy mô và cơ cấu của doanh nghiệp
Trong những năm đổi mới, trong chiến lược phát triển kinh tế của Đảng ta, xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng XHCN đã tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế phát huy thế mạnh và khai thác mọi tiềm năng, nguồn lực của đất nước. Đặc biệt Nhà nước ban hành các luật về đăng ký kinh doanh như; Luật Doanh nghiệp Nhà nước, Luật đầu tư nước ngoài, Luật Doanh nghiệp làm hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp ngày càng trở nên sôi động và có hiệu quả. Số lượng doanh nghiệp trong các thành phần kinh tế của đất nước ngày càng tăng nhanh.
Nếu tính từ năm 2000 tổng số doanh nghiệp là 42.288 đơn vị thì đến năm 2003 tổng số doanh nghiệp lên tới 62.908 đơn vị.
- Xét theo quy mô lao động
Qua kết quả điều tra của Tổng cục thông kê, các doanh nghiệp Việt Nam xét theo quy mô lao động phần lớn là các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Tại thời điểm năm 2002, doanh nghiệp có số lao động từ 1000 CNLĐ trở lên chiếm tỷ trọng rất nhỏ (1,08%) trong tổng số các doanh nghiệp hiện có. Ngược lại, doanh nghiệp có số lao động nhỏ chiếm tỷ trọng khá lớn cụ thể như sau:
Doanh nghiệp - có từ 5 đến 9 lao động chiếm 28,3% trong tổng số 62.9 doanh nghiệp
Doanh nghiệp có 10 đến 49 lao động chiếm 32,94%
Doanh nghiệp có 50 đến 199 lao động chiếm 11,99%
Doanh nghiệp có 200 đến 299 lao động chiếm 2,15 %
Như vậy, số doanh nghiệp có quy mô lao động vừa và nhỏ hiện nay ở Việt Nam vẫn chiếm phần lớn trong tổng số doanh nghiệp, điều đó phản ánh nguồn vốn, công nghệ, trình độ quản lý của doanh nghiệp chưa cao. Nhưng với việc phát triển các loại hình doanh nghiệp vừa và nhỏ đã giải quyết một phần rất lớn lao động cho xã hội và đóng góp vào nền kinh tế quốc dân một phần ngân sách không nhỏ.
- Xét theo quy mô vốn
Tại thời điểm 31/12/2002 tổng số vốn doanh nghiệp là 1.441 nghìn tỷ đồng, số vốn này gấp 7 lần tại thời điểm ngày 1 tháng 1 năm 1995 và gấp 1,3 lần cùng thời điểm năm 2000.
Từ số liệu trên chúng ta thấy, lượng vốn đầu tư vào phát triển sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp ngày càng tăng lên, góp phần mở rộng quy mô sản xuất, thay đổi dây chuyền công nghệ, tạo nhiều công ăn việc làm cho xã hội.
Trong tổng số vốn của doanh nghiệp hiện có, doanh nghiệp nhà nước, (DNNN) chiếm 62,1% tổng số vốn doanh nghiệp (895 nghìn tỷ đồng), doanh nghiệp ngoài quốc doanh, (DNNQD) chiếm 16,5% (237 nghìn tỷ đồng) và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (ĐTNN) chiếm 21,4% (308 nghìn tỷ đồng). Hiện tại và trong thời gian tiếp theo, vốn của doanh nghiệp nhà nước vẫn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng số vốn của doanh nghiệp nói chung. Mặc dù đã có chủ trương chuyển đổi cơ cấu, sắp xếp, tổ chức lại và đổi mới phương thức quản lý, nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp nhà nước mà trọng tâm là thực hiện cổ phần hoá DNNN.
Đến năm 2005 Chính phủ quy định sẽ có 40% số lượng DNNN sẽ được cổ phần hoá, nhưng vốn của các doanh nghiệp này chỉ chiếm 16% trong tổng nguồn vốn của DNNN. Vì vậy, doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế Nhà nước vẫn chiếm tỷ trọng lớn về vốn.
Bảng 1.1: Doanh nghiệp phân theo quy mô vốn
Đơn vị: Doanh nghiệp
Doanh nghiệp
2000
2001
2002
Tổng số doanh nghiệp
42288
51680
62908
Doanh nghiệp có dưới 0,5 tỷ đồng
16267
18326
18591
doanh nghiệp có từ 0,5 đến dưới 1 tỷ đồng
6534
8403
10994
doanh nghiệp có từ 1 đến dưới 5 tỷ đồng
10759
14556
20141
doanh nghiệp có từ 5 đến dưới 10 tỷ đồng
2745
3385
4490
doanh nghiệp có từ 10 đến dưới 50 tỷ đồng
3957
4623
5711
doanh nghiệp có từ 50 đến dưới 200 tỷ đồng
1515
1781
2160
doanh nghiệp có từ 200 đến 500 tỷ đồng
312
383
501
doanh nghiệp có từ 500 tỷ đồng trở lên
199
223
260
Nguồn: Tổng cục Thống kê (2004). Thực trạng doanh nghiệp qua kết quả điều tra năm 2001, 2002, 2003 [tr.59].
Từ số liệu trên, có thể nói rằng các loại hình doanh nghiệp có quy mô, vốn, đặc điểm, cơ chế hoạt động khác nhau.
1.1.2.3. Các quan niệm văn hóa doanh nghiệp
Như chúng ta đã biết, doanh nghiệp tồn tại là để sản xuất của cải vật chất, kinh doanh và phục vụ nhu cầu của xã hội. Những hoạt động sản xuất này được thể hiện trên một dây chuyền công nghệ nhất định. Để vận hành tất cả các khâu của dây chuyền này, trong doanh nghiệp có hệ thống hành chính hoặc hệ thống quản lý mà trong đó mọi người đều phải thực hiện các chức năng của mình hoặc là lãnh đạo cấp trên hoặc là nhân viên cấp dưới. Hoạt động của doanh nghiệp chỉ thực hiện được trên cơ sở có kỹ thuật công nghệ và có kỷ cương gắn với các cấp độ quản lý. Hoạt động trong các doanh nghiệp, các tổ chức là những con người. Điều này có nghĩa là trong hoạt động của mình, họ tuân theo những quy định cụ thể nào đó và thực hiện những nghi thức nhất định… Theo ý nghĩa này, mỗi doanh nghiệp là một cộng đồng xã hội hoặc một không gian văn hoá cụ thể.
Mỗi doanh nghiệp được thành lập để thực hiện mục đích do nhà kinh doanh đặt ra. Phương thức thực hiện mục đích kinh doanh trong doanh nghiệp đã tạo cho doanh nghiệp một sắc thái riêng, một màu sắc riêng, một vị thế riêng. Xét từ góc độ ấy, chúng ta có thể xác định VHDN như một hệ thống đặc thù, đặc trưng cho._. tổ chức đó, một hệ thống các mối liên hệ, các hành động, các tác động qua lại và các mối quan hệ được thực hiện trong khuôn khổ một hoạt động kinh doanh cụ thể.
Nhà xã hội học người Mỹ E.N.Schein cho rằng:
Văn hóa doanh nghiệp hoặc Văn hoá tổ chức là tổng thể những thủ pháp và quy tắc giải quyết vấn đề thích ứng bên ngoài và thích ứng bên trong các nhân viên, những quy tắc đã tỏ ra hữu hiệu trong quá khứ và vẫn cấp thiết trong hiện tại. Những quy tắc và những thủ pháp này là yếu tố khởi nguồn trong việc các nhân viên lựa chọn phương thức hành động, phân tích và ra quyết định thích hợp. Các thành viên của tổ chức không đắn đo suy nghĩ về ý nghĩa của những quy tắc và thủ pháp ấy, mà coi chúng là đúng đắn ngay từ đầu [1, tr.150].
Còn nhà xã hội học Pháp N.Đemetr cho rằng:
Văn hóa doanh nghiệp đó là hệ thống quan niệm, những biểu tượng, những giá trị và mẫu hành vi được tất cả các thành viên chia sẻ. Điều đó có nghĩa là trong doanh nghiệp, tất cả các thành viên đó đều gắn bó vơí nhau bởi quan điểm chung về những vấn đề như doanh nghiệp đó là gì, vai trò kinh tế và xã hội của nó như thế nào, nó chiếm vị trí ra sao đối với những doanh nghiệp cạnh tranh với nó, những nghĩa vụ của nó đối với khách hàng là gì…Chức năng văn hoá tổ chức là tạo ra cảm giác thống nhất của mọi thành viên, tạo ra hình ảnh cái “chúng tôi” tập thể [1, tr.151].
ở Việt Nam theo tiến sĩ Đỗ Minh Cương trong cuốn sách: "Văn hoá và triết lý kinh doanh" Xuất bản năm 2000, Ông đã đưa ra một khái niệm VHDN như sau: “Văn hoá kinh doanh là việc sử dung các nhân tố văn hoá vào trong hoạt động kinh doanh của chủ thể, là cái văn hoá mà các chủ thể tạo ra trong quá trình kinh doanh, hình thành nên những kiểu kinh doanh ổn định và đặc thù của nó.”
Còn theo tiến sĩ Lê Đăng Doanh chuyên gia cao cấp của Ban sắp xếp doanh nghiệp Chính phủ thì cho rằng "Văn hóa doanh nghiệp (Văn hoá trong kinh doanh) trước tiên là tôn trọng pháp luật, tôn trọng nhân phẩm con người, phải giữ chử tín và điều này đòi hỏi người lãnh đạo doanh nghiệp phải có một bản lĩnh đổi mới…”.
Từ những quan niệm về VHDN trên chúng ta thấy VHDN bao gồm các yếu tố, thủ pháp, nguyên tắc, hệ thống quan niệm, biểu tượng, giá trị hành vi của một cộng đồng doanh nghiệp có chức năng tổ chức, thống nhất mọi thành viên của doanh nghiệp hướng tới mục tiêu chung vì sự phát triển của doanh nghiệp. Với ý nghĩa đó, chúng tôi xin hệ thống lại và đưa ra một quan niệm về VHDN như sau:
Văn hóa doanh nghiệp là một dạng của Văn hoá cộng đồng, bao gồm những hệ thống triết lý, đạo lý kinh doanh, thông qua hệ thống tổ chức, công nghệ, mối quan hệ ứng xử hài hòa bên trong và bên ngoài doanh nghiệp, nhằm đạt mục đích đưa doanh nghiệp ngày càng phát triển.
Như vậy, VHDN có tính ổn định và bền vững, bất chấp sự thay đổi thường xuyên của các cá nhân kể cả những người sáng lập và lãnh đạo doanh nghiệp. Nó tác động sâu sắc tới động cơ hành động của doanh nghiệp, tạo thành định hướng có tính chất chiến lược cho bản thân doanh nghiệp. VHDN luôn đóng vai trò như một lực lượng hướng dẫn, như một sức mạnh cố hữu trong doanh nghiệp là ý chí thống nhất toàn thể lãnh đạo và nhân viên của doanh nghiệp. Văn hoá càng mạnh và càng giữ vai trò định hướng hoạt động của doanh nghiệp mạnh bao nhiêu, thì doanh nghiệp càng ít chỉ thị, mệnh lệnh, càng giảm bớt bộ máy tổ chức và những điều lệnh bấy nhiêu. Một VHDN mạnh sẽ tạo nên sức mạnh của doanh nghiệp.
1.1.3. Cơ cấu của Văn hóa doanh nghiệp
Có thể nói rằng, hiện tại ở Việt Nam chúng ta có khá nhiều quan niệm, khái niệm về VHDN. ở mỗi người nghiên cứu, ở từng góc độ khác nhau lại có một khái niệm và một cơ cấu văn hoá tương ứng. ở đây chúng tôi nghiên cứu cơ cấu VHDN là dựa vào những thành tố cấu thành của VHDN đã được nêu ở trên. Vậy, cơ cấu VHDN được bao gồm các thành tố sau:
1.1.3.1. Đạo lý, triết lý kinh doanh
Việc đưa “đạo đức” vào hoạt động kinh doanh không phải là điều mới mẻ. Về phương diện lịch sử, các nhà doanh nghiệp Mỹ là những người đầu tiên quan tâm đến đạo đức. Ngay từ năm 1913, doanh nghiệp Penny Company đã có một “Bộ luật” về đạo đức. Các tín đồ giáo phái Quây-cơ là những người đầu tiên thực hiện đầu tư theo tiêu chuẩn đạo đức bằng cách khước từ đầu tư vào các doanh nghiệp sản xuất vũ khí và thuốc lá. Xu hướng này đã lan rộng ra toàn xã hội trong những năm 50, các Hiến chương về đạo đức liên tiếp được đưa ra. Các ấn phẩm văn hoá về đạo đức ngày càng phong phú, đã có nhiều Tạp chí đề cập đến lĩnh vực này như:
“Nhật báo về đạo đức trong kinh doanh, Nhật báo về đạo đức trong kinh doanh và nghề nghiệp”.
Ngay từ lúc mới thành lập, Trường Đại học Harvard đã đưa vào giảng dạy môn “ Luân lý trong thương mại”. Nội dung chính của môn học này nhằm giải quyết những vấn đề nan giải về luân lý mà các nhà quản lý thường gặp. Tại thị trường chứng khoán New york, các tín đồ Dòng Tên đã mở một trung tâm nghiên cứu về luân lý phục vụ các chủ ngân hàng và các nhà lãnh đạo Cơ đốc giáo. Business ethics là lý thuyết cơ bản về đạo đức kinh doanh ở Hoa Kỳ. Lý thuyết này bắt nguồn từ một lôgích thực dụng, kết hợp luân lý, pháp luật và khế ước.
ở Pháp, đạo đức trong kinh doanh trở thành đối tượng nghiên cứu ở nhiều Hiệp hội, nhiều học giả từ những năm 60. Cũng chính trong những năm đó, Trung tâm giới chủ Cơ đốc giáo của Pháp (CFPC), Hiệp hội cán bộ lãnh đạo (AcaDi) đã cho xuất bản nhiều ấn phẩm, tổ chức nhiều Hội thảo về chủ đề này. O. Geliner (1991), Chủ tịch danh dự của Cegos, là người đầu tiên đã xuất bản một cuốn sách về đạo đức trong kinh doanh với tựa đề: "Đạo đức trong kinh doanh, chú ý kẻo chệch hướng”. Sau khi cuốn sách ra đời đã được độc giả và các nhà quản lý doanh nghiệp đón nhận nhiệt liệt [31, tr.30].
Như vậy, một điều khẳng định rằng các doanh nghiệp không chỉ quan tâm đến các quy luật kinh tế mà phải quan tâm đến phạm trù đạo đức trong kinh doanh.
Căn cứ vào các quan niệm chung về thiện và ác, chính nghĩa và phi nghĩa, nghĩa vụ và danh dự… có tính bền vững và truyền thống mà dư luận xã hội (khách hàng) sẽ đánh giá hành vi và phẩm giá của các nhà kinh doanh thông qua sự thôi thúc của lương tâm và sự kiểm soát, bình giá của dư luận xã hội.
Đạo đức kinh doanh đòi hỏi việc kinh doanh phải thực hiện đúng đạo lý dân tộc và phù hợp với các quy chuẩn về cái thiện, cái tốt và cái đẹp. Sở dĩ nghề kinh doanh cần coi trọng tiêu chuẩn đạo đức vì sản phẩm và dịch vụ mà nhà kinh doanh bán ra thị trường liên quan trực tiếp tới sức khoẻ và đời sống của mọi người. Khách hàng thường không thể tự kiểm tra mọi thông tin về chất lượng, tính năng, tác động về sản phẩm mà nhà kinh doanh đã công bố, quảng cáo, tức là khách hàng hoàn toàn tin vào tính trung thực của của nhà kinh doanh. Nếu những thông tin này thiếu trung thực hoặc bị cắt xén, cố ý gian dối để vụ lợi cá nhân, thì hậu quả mà nhà kinh doanh gây ra cho khách hàng và xã hội rất tại hại và khôn lường.
Có thể quan niệm rằng: Đạo đức kinh doanh là một loại hình đạo đức, có tác động và chi phối hành vi của các chủ thể hoạt động kinh doanh, nhằm mang lại hiệu quả kinh tế - xã hội cao cho doanh nghiệp.
Từ sự phân tích ở trên, chúng tôi có thể khái quát một số tiêu chuẩn về phẩm chất đạo đức trong kinh doanh như sau:
Một là, tính trung thực: Thể hiện trong sự nhất quán giữa nói và làm, tức là danh và thực. Không được dùng những thủ đoạn lừa dối, xảo trá để kiếm tiền, không được quảng cáo sai sự thật. Thật sự coi trọng tính công bằng, chính đáng và đạo lý trong sáng trong kinh doanh.
Hai là, tôn trọng khách hàng: Coi trọng những nhu cầu, sở thích và tâm lý của khách hàng. Tôn trọng và đánh giá cao những sáng tạo, đóng góp của nhân viên trong doanh nghiệp. Coi trọng chữ tín trong giao tiếp, buôn bán và hoạt động kinh doanh.
Ba là, luôn vươn tới sự hoàn hảo: Không ngừng tu dưỡng bản thân, luôn luôn lắng nghe ý kiến khách hàng, luôn nỗ lực vươn lên, không cho phép tự thoả mãn với những gì mình đã đạt được. Phải có hoài bảo lớn, không chịu khuất phục trước thách thức, quyết tâm vươn lên để thành đạt trong kinh doanh.
Bốn là, phải biết đương đầu với thử thách: Không ngại khó khăn gian khổ, biết lường trước những tình huống có thể xảy ra mà nghề kinh doanh thường gặp phải.
Năm là, coi trọng hiệu quả gắn liền với trách nhiệm xã hội, hiệu quả kinh tế là thước đo thành công, thành đạt trong kinh doanh. Muốn tiếp tục phát triển, doanh nghiệp không những nâng cao hiệu quả, hiệu suất trong hoạt động kinh doanh mà còn phải làm tốt công tác xã hội, gắn trách nhiệm của doanh nghiệp với xã hội.
Còn một yếu tố quan trọng trong hệ thống tổ chức - công nghệ để từ đó hình thành VHDN, đó là vấn đề ứng xử với môi trường xã hội và môi trường tự nhiên. ứng xử hài hoà với tự nhiên, bảo vệ môi trường tự nhiên là nét đẹp truyền thống của con người Việt Nam. Nhưng hiện nay trong nền kinh tế thị trường, cạnh tranh nghiệt ngã, nhiều doanh nghiệp vì mục đích lợi nhuận đã không quan tâm đến sự bảo vệ mội trường tự nhiên. Nạn phá rừng khắp cả nước, những bải rác thải để không đúng chổ trong các thành phố lớn, đã dẫn đến sự ô nhiễm không khí, lụt lội tàn phá mùa màng, những trận sạt lở đất ở Hà giang, Quảng Ninh, Yên Bái gần đây nhất, đã làm hàng chục người thiệt mạng.
Qua đây chúng ta thấy rằng, một trong những thành tố để xây dựng VHDN đó là bảo vệ mội trường quan trọng biết nhường nào.
1.1.3.2. Hệ thống tổ chức - công nghệ
Tổ chức là bố trí, sắp xếp công việc làm sao cho thật hợp lý để đạt hiệu quả cao nhất. Ví dụ bố trí sắp xếp cán bộ trong cơ quan, doanh nghiệp, đặt mọi người thật đúng vị trí công việc để ai cũng có thể phát huy hết năng lực, trí tuệ của mình, góp phần xây dựng cơ quan, doanh nghiệp ngày càng phát triển.
Như vậy, việc bố trí sắp xếp cán bộ cũng như sắp xếp các dây chuyền sản sản xuất công nghệ trong doanh nghiệp là một yếu tố thực sự quan trọng, nó góp phần quyết định sự thành công hay thất bại của doanh nghiệp.
Công nghệ là một tập hợp bao gồm các quy trình, phương pháp, kỹ năng, bí quyết, phương tiện, công cụ, con người để biến đổi các nguồn lực thành sản phẩm phục vụ xã hội và mang về lợi nhuận cho doanh nghiệp. Nó được thể hiện bằng những yếu tố cơ bản sau:
Con người - bao gồm kiến thức chuyên môn cơ bản, kỹ năng, kỹ xảo, trình độ tay nghề, kinh nghiệm, thói quen nghề nghiệp.
Công cụ - bao gồm máy móc, trang thiết bị, nhà xưởng, khí cụ, đường sá, giao thông, bến bãi…
Thông tin - bao gồm quy trình, phương pháp, dữ liệu, thiết kế và các bí quyết nghề nghiệp.
Như vậy, tổ chức - công nghệ là một thành tố vô cùng quan trọng của VHDN, nó sẽ quyết định sự thành công hay thất bại trong quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Như đã phân tích ở trên, kinh nghiệm trong việc tổ chức, sắp xếp, quản lý nguồn nhân lực là một yếu tố tổ chức - công nghệ của VHDN. Sắp xếp như thế nào cho hợp lý, quản lý như thế nào cho tốt, để mọi thành viên trong doanh nghiệp đều có thể cống hiến hết mình, phát huy mọi năng lực, trí tuệ, kỹ năng, kỹ xão, kinh nghiệm thực tiễn của mỗi các nhân, tất cả đều hướng đến một mục tiêu là doanh nghiệp phát triển. Làm được như vậy gọi là kỹ năng quản lý, và như vậy đã vận dụng thành công các yếu tố của văn hoá vào sản xuất kinh doanh.
Tuy nhiên, trong quá trình vận hành của doanh nghiệp còn phải thực hiện những nguyên tắc, những quy định, những chuẩn mực về cách ứng xử cũng là một trong những yếu tố của hệ thống tổ chức- công nghệ. Hệ thống này sẽ giúp doanh nghiệp vận hành có trật tự, quy cũ, nền nếp và tất nhiên sẽ làm cho doanh nghiệp hoạt động ngày càng có hiệu quả. Bởi vì những chuẩn mực ấy, những nguyên tắc ấy, những quy định ấy vừa là ý thức, nhưng vừa là trách nhiệm tạo động lực thúc đẩy, động viên các thành viên trong doanh nghiệp hướng tới mục tiêu cao cả vì sự phát triển, phồn thịnh của doanh nghiệp, vì lợi ích của cộng đồng doanh nghiệp và xã hội.
Bên cạnh đó, ngoài những quy tắc, quy định mà doanh nghiệp đề ra để quản lý đơn vị, doanh nghiệp còn phải chịu trách nhiệm trước một số quy định của cộng đồng. ở Việt Nam chúng ta nói chung và thành phố Hà Nội nói riêng, có nhiều doanh nghiệp đang phấn đấu thực hiện các phương thức quản lý tiên tiến như: ISO 9000, ISO 9002, ISO 14.000, và tiêu chuẩn SA 8000. Theo như các chuyên gia nghiên cứu của Viện nghiên cứu Quản lý kinh tế TW, SA 8000 là một hệ thống tiêu chuẩn quy định về điều kiện làm việc của người lao động, được xem như một giải pháp khẳng định về giá trị đạo đức của sản phẩm. Cụ thể nó quy định rõ về trách nhiệm xã hội, liên quan đến lao động trẻ em, lao động cưỡng bức, sức khoẻ của người lao động, môi trường sản xuất, tính phân biệt đối xử và kỷ luật về giờ giấc lao động vv…Tóm lai tạo môi trường lao động tốt, có kỷ luật, nhưng phải đảm bảo yếu tố nhân đạo trong quản lý lao động. Còn ISO 9000 và ISO 9002 quy định về chất lượng sản phẩm, còn ISO 14.000 là quy định trách nhiệm của doanh nghiệp đối với môi trường tự nhiên…
Như vậy, với ý nghĩa hệ thống tổ chức - công nghệ như là một yếu tố quan trọng tác động tích cực cho sự phát triển của doanh nghiệp, thì máy móc, dây chuyền sản xuất hiện đại, cơ sở vật chất kỹ thuật đầy đủ, sẽ tạo ra một môi trường sản xuất, kinh doanh thuận lợi, nâng cao năng suất lao động, sản phẩm đạt chất lượng cao. Tuy nhiên trong thực tế nhiều người chưa hiểu, họ cho rằng đấy là yếu tố đơn thuần về vật chất, không liên quan gì đến VHDN.
Song ở đây, chúng ta xét những yếu tố đó với tư cách là một trong những yếu tố cơ bản thuộc VHDN. Bởi vì, đây là sự kết tinh của tri thức, là trình độ, là nghệ thuật vận hành dây chuyền sản xuất, là tay nghề, kinh nghiệm, kỹ thuật, kỹ năng, kỷ xão trong lĩnh vực sử dụng máy móc và các thiết bị khoa học công nghệ dãn đến chất lượng sản phẩm và uy tín của doanh nghiệp.
Yếu tố tổ chức - công nghệ trong VHDN còn bao gồm các yếu tố như: Marketing, quảng cáo. Đây là con đường ngắn nhất để đưa sản phẩm của doanh nghiệp đến với người tiêu dùng đồng thời tìm kiếm đối tác trong làm ăn. Nhưng quảng cáo như thế nào đây để vừa hấp dẫn, mang đậm yếu tố văn hoá là một điều hơi khó đối với các doanh nghiệp. Hiện nay trên đường phố Hà nội có nhiều biển quảng cáo loè loẹt, thiếu văn hoá mà báo chí, Đài truyền hình nhắc đến nhiều. Trong Marketing và quảng cáo nếu thiếu đi yếu tố văn hoá thì không những không có hiệu quả mà còn bị phản tác dụng. Do vậy, doanh nghiệp muốn cho khách hàng hiểu được sản phẩm của mình thông qua quảng cáo, Marketing nhất thiết không thể thiếu được yếu tố văn hoá trong quá trình thực hiện và sản xuất.
1.1.3.3. Hệ thống biểu hiện, thương hiệu doanh nghiệp
Hệ thống biểu hiện, thương hiệu trong VHDN giống như “ bộ mặt” của chính doanh nghiệp. Những biểu hiện ấy bao gồm: lôgô, huy hiệu, thương hiệu, trang phục, biểu tượng, lễ hội, nghi thức, tiếp khách, biểu diễn văn nghệ… Tất cả các thứ đó không phải là những cái ngẫu nhiên, sẵn có mà doanh nghiệp phải trải qua một quá trình dài tìm tòi, lựa chọn, sáng tạo, làm sao cho các biểu tượng ấy phải phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của doanh nghiệp và phải mang bản sắc riêng của doanh nghiệp mình. Ví dụ khi vào một Công ty người ta nhìn vào đồng phục của những nhân viên đang mặc, người ta biết ngay đó là doanh nghiệp nào. Quan trọng nhất trong hệ thống này là thương hiệu của doanh nghiệp.
Vậy thương hiệu là gì?
Trong cuốn sách “ Xây dựng thương hiệu mạnh và thành công” Nhà xuất bản Thống kê (9/2004) của nhà nghiên cứu người Mỹ JAMES
R.GREGORY, sau 13 năm nghiên cứu, sau khi khảo sát 10.000 doanh nghiệp của 40 ngành công nghiệp ở Mỹ, ông đã đưa ra khái niệm về thương hiệu như sau: “Thương hiệu là một tài sản Doanh nghiệp, có thể - và phải - được quản lý qua thời gian giống như một tài sản doanh nghiệp khác” [31, tr.12].
Đây là tài sản được kết tinh các yếu tố vật chất và tinh thần của doanh nghiệp, được cả cộng đồng xây đắp và chi sẻ, giữ gìn và trao truyền từ thế này sang thế hệ khác tạo nên.
Như vậy, thương hiệu là tài sản của doanh nghiệp, đã là tài sản, tất yếu thương hiệu sẽ mang về các lợi ích cho doanh nghiệp. Trước tiên nó làm cho việc tiếp thị của doanh nghiệp có hiệu quả hơn. Nó có thể làm chậm hoặc ngưng sự xói mòn của thị phần. Nó giúp doanh nghiệp dễ dàng tuyển mộ nhân lực có tài năng hơn, đồng thời nó tăng sức lôi cuốn của doanh nghiệp đối với các thị trường nhà đầu tư và tài chính.
Chúng ta có thể thấy thương hiệu sẽ mang về các lợi cho Công ty có thương hiệu mạnh:
1. Dẫn đến các kết quả kinh doanh tốt hơn: doanh thu, tiền lời và luồng tiền mặt.
2. Dẫn đến nguồn tài chính tốt hơn.
3. Có thể hưởng một giá cao hơn mức bình thường.
4. Xây dựng được lòng trung thành của khách hàng.
5. Tạo cho tiếp thị hiệu quả hơn.
6. Tạo sự phân biệt giữa các nhà cạnh tranh.
7. Giúp Công ty tuyển dụng và giữ được người tài năng hơn.
8. Có thể đứng vững và vượt qua các cuộc khủng hoảng dễ dàng hơn.
9. Làm chậm hay ngăn chặn sự xói mòn của thị phần.
10. Giảm thiểu các trận chiến sống còn của Công ty, do mọi người đang làm việc trên các mục tiêu chung.
11. Lôi cuốn các thị trường nhà đầu tư và tài chính.
12. Giúp định hình các quyết định phức tạp của những nhà điều tiết [31, tr.32].
Hiện nay ở Việt Nam các công ty đang từng bước xây dựng thương hiệu của mình. Như Công ty May 10, Công ty giày Thượng Đình ở Hà Nội, Công ty Tàu biển Nam Triệu ở Hải phòng, Hãng Hàng không Việt Nam Airlines Công ty Chiếu sáng và thiết bị đô thị Hà Nội…Tuy nhiên điều quan trọng khi mỗi doanh nghiệp xây dựng cho mình một thương hiệu mang bản sắc riêng thì phải đăng ký quyền bảo hộ thương hiệu, đồng thời phải đưa hình ảnh của doanh nghiệp đến với quần chúng rộng rãi để quảng bá cho doanh nghiệp.
Bên cạnh đó, VHDN còn được thể hiện qua các Lễ hội truyền thống, kỷ niệm sự ra đời của Công ty hay giỗ tổ nghề hoặc giao lưu văn hoá vv… để nâng cao uy tín và vị thế của doanh nghiệp trong xã hội.
1.1.3.4. Nhân cách của nhà doanh nghiệp
Trong doanh nghiệp nguồn lực con người là yếu tố quan trọng nhất, đồng thời cũng là thành tố quan trọng của VHDN. Các yếu tố như: đạo đức, tài năng, khả năng quản lý, điều hành doanh nghiệp của mỗi thành viên trong doanh nghiệp là nguồn lực cơ bản, ổn định và bền vững của doanh nghiệp. Làm thế nào để phát huy được mọi tiềm năng sẵn có ở mỗi con người, thì doanh nghiệp phải có những chiến lược định hướng cụ thể. Một trong những định hướng quan trọng là rèn luyện nhân cách của mọi thành viên trong doanh nghiệp. Điều này thể hiện đến việc xây dựng môi trường nhân văn, nhân bản của Công ty. Bởi vì mọi thành viên trong doanh nghiệp sống và làm việc trong bầu không khí hoà thuận, vui tươi, đoàn kết giúp đở lẫn nhau chắc rằng hiệu suất công tác sẽ được nâng lên rõ rệt. Ngược lại, nếu nội bộ doanh nghiệp lục đục, mất đoàn kết, thiếu sự cộng tác trong quá trình tổ chức sản xuất, kinh doanh, chắc chắn không những hiệu quả lao động sẽ giảm xuống, mà uy tín của doanh nghiệp cũng bị mất đi.
Mỗi một thành viên trong doanh nghiệp phải biết tự rèn luyện mình cả đức lẫn tài. Muốn doanh nghiệp ngày càng phát triển thì nhất thiết mỗi thành viên phải có tinh thần sáng tạo, cống hiến, làm việc hết khả năng của mình vì mục tiêu chung của doanh nghiệp. Tất nhiên, bên cạnh đó doanh nghiệp luôn luôn tạo mọi điều kiện cho mọi thành viên được thể hiện vai trò cá nhân của mình, được trau dồi tay nghề, nâng cao kiến thức chuyên môn, phát huy được nhiều sáng kiến, cải tiến kỹ thuật, nhằm đưa năng suất lao động ngày một lên cao, tạo ra những sản phẩm mới, đẹp về kiểu dáng, đa dạng về mẫu mã, chất lượng đảm bảo, làm vừa lòng khách hàng.
Song, điều đặc biệt quan trọng là nhân cách của nhà quản lý, nhà điều hành doanh nghiệp, hay còn gọi là người đứng đầu của doanh nghiệp. Bởi vì họ là hạt nhân trong việc xây dựng VHDN, đồng thời là tấm gương phản ánh VHDN.
Sự thành bại của doanh nghiệp phụ thuộc rất lớn vào vai trò cá nhân của người đứng đầu doanh nghiệp. Như Lênin đã thường nói” Vai trò của lãnh tụ là vai trò quyết định.” Chủ tịch Hồ Chí Minh nói “ Công việc thành công hay thất bại là do cán bộ tốt hay xấu”. Theo quan điểm của Hồ Chí Minh cán bộ tốt ở đây là cán bộ vừa có đức vừa có tài
Như vậy, nhân cách của người đúng đầu một đơn vị quan trọng biết nhường nào. ở nhiều nước trên thế giới, đã hình thành những tiêu chuẩn cơ bản dể lựa chọn người lãnh đạo doanh nghiệp.
Giới quản lý Mỹ đã đưa ra 6 tiêu chuẩn đối với nhà lãnh đạo doanh nghiệp:
Một là, làm việc có hiêụ quả cao, chủ động tiến thủ.
Hai là, có năng lực tư duy lôgic, năng lực khái niệm hoá, năng lực phán đoán.
Ba là, quan tâm, giúp đỡ, mọi người bằng hành động tích cực, khéo gây ảnh hưởng đến mọi người.
Bốn là, lãnh đạo tập thể, sử dụng đúng quyền lực.
Năm là, cá tính, tâm lý chín muồi, biết tự kiềm chế, khách quan, cố gắng, tự chủ.
Sáu là, có tri thức phong phú.
ở Nhật Bản, đối với một doanh nhân người ta đã khái quát thành 4 tiêu chuẩn:
1. Độ lượng, khoan dung.
2. Hiểu rõ nghề nghiệp, quyết đoán.
3. Dám chịu trách nhiệm.
4. Công bằng.
ở Trung Quốc, người tiêu biểu trong cuộc đời mưu sinh bằng buôn bán đó là Phạm Lãi, ông đã đúc kết thành 16 nguyên tắc kinh doanh căn bản, trong đó có 5 nguyên tắc cơ bản cho mọi người chủ kinh doanh đó là:
1. Trước hết người làm ăn buôn bán phải luôn siêng năng, tích cực, năng động và nắm được mọi thời cơ.
2. Phải biết tiết kiệm, không xa hoa lãng phí.
3. Phải biết chọn người giúp việc ngay thẳng, không có tính tham lam, giữ chữ tín.
4. Phải tích cực, có tinh thần trách nhiệm, có lòng say mê kinh doanh.
5. Luôn sáng suốt, bình tỉnh trong mọi tình huống, không phiêu lưu mạo hiểm, cần lấy sự chắc chắn, an toàn làm đầu [58, tr.21].
ở Việt Nam, việc xây dựng nhân cách Văn hoá doanh nhân chưa được quan tâm nhiều, chưa đúc kết thành những tiêu chuẩn cơ bản trong kinh doanh. Nhưng rãi rác trong một số quyển sách có một vài tác giả đã đề cập đến vấn đề này.
“Trong cuốn sách Văn hoá và phát triển ở Việt Nam”của Nhà xuất bản lý luận chính trị (Năm 2004), GS - TS Hoàng Vinh đã nêu ra một số yêu cầu đối với nhân cách nhà doanh nhân như sau:
Một là, có tinh thần hợp tác. Có ham thích làm việc với người khác và được người khác hợp tác với mình dựa trên tinh thần tự nguyện.
Hai là, có khả năng quyết đoán. mỗi khi đưa ra quyết sách phải dựa vào những dữ kiện thật, không dựa vào sức tưởng tượng chủ quan. Có kả năng nhìn xa trông rộng.
Ba là, có năng lực tổ chức, nghĩa là có thể phát huy tài năng của những người dưới quyền mình, biết tổ chức tốt về nhân lực, tài lực và vật lực.
Bốn là, có thái độ tin cậy khi giao nhiệm vụ cho người khác. Nắm chắc việc lớn, giao các việc nhỏ cho cấp dưới.
Năm là, giám chịu trách nhiệm. Có ý thức trách nhiệm với cấp trên, cấp dưới, với khách hàng và toàn xã hội.
Sáu là, ứng biến linh hoạt. Có thể thích ứng với mọi hoàn cảnh, cơ động, linh hoạt, không khư khư ôm lấy sai lầm, không cố chấp bảo thủ.
Bảy là, dám đổi mới. Dám chấp nhận những rủi ro do tình hình xấu tạo ra, có ý chí và lòng tin để thay đổi tình thế, tạo ra diện mạo mới cho doanh nghiệp.
Tám là, tôn trọng người khác, sẵn sàng tiếp thu ý kiến người khác, không võ đoán kiêu ngạo.
Chín là, nêu gương về nếp sống đạo đức. Có phẩm chất tốt, được cộng đồng doanh nghiệp và xã hội thừa nhận.
Từ những tiêu chuẩn nêu trên về đạo đức, nhân cách trong kinh doanh, chúng ta có thể khẳng định rằng, để trở thành một người chủ doanh nghiệp có đầy đủ bản lĩnh, giám làm, giám chịu trách nhiệm, dám đổi mới vì sự phát triển của doanh nghiệp, hoàn toàn không dễ một chút nào. Để đạt được điều đó người chủ doanh nghiệp phải thường xuyên rèn luyện đạo đức, tích lũy kinh nghiệm, học tập nâng cao kiến thức chuyên môn, biết láng nghe và luôn luôn trong sự tỉnh táo, biết điều chỉnh các mối quan hệ bên trong, bên ngoài, để làm lợi cho công việc kinh doanh của mình một cách trong sáng.
Như vậy, trong xu thế hội nhập kinh tế khu vực và kinh tế toàn cầu, các chủ doanh nghiệp, các doanh nhân Việt Nam cần học học hỏi được nhiều kinh nghiệm bổ ích trong công tác quản lý, điều hành doanh nghiệp làm ăn ngày có lãigóp phần quan trọng vào sự phồn thịnh của đất nước. công tác quản lý, điều hành Doanh nghiệp làm ăn ngày có lãi,oanh một cách t, góp phần quan trọng vào sự phồn thịnh của đất nước.
Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi còn thấy VHDN được phân chia theo các mối quan hệ ứng xử trong doanh nghiệp.
Nếu xem văn hoá là là sự thể hiện trình độ Người trong các quan hệ xã hội, thì VHDN được biểu hiện trong hai mối quan hệ cơ bản, đó là mối quan hệ bên trong và mối quan hệ bên ngoài.
1. Mối quan hệ bên ngoài, đó là mối quan hệ giữa chủ thể doanh nghiệp với khách thể. Trong mối quan hệ này chủ thể phải ứng xử với đối tác cạnh tranh, khách hàng tiêu dùng đối với toàn xã hội và với môi trường tự nhiên.
2. Mối quan hệ bên trong, đó là mối quan hệ giữa chủ thể doanh nghiệp với các thành viên trong doanh nghiệp, mối quan hệ giữa các thành viên với nhau, mối quan hệ giữa các thành viên lãnh đạo doanh nghiệp.
Đối với mối quan hệ bên ngoài, thông qua mối ứng xữ này chúng ta có thể hiểu được bản chất cũng như nhân cách đạo đức kinh doanh của doanh nghiệp. Nhân cách ấy thể hiện trong việc tương trợ giúp đở lẫn nhau, trong sản xuất kinh doanh cùng nhau tồn tại và phát triển. Hay ngược lại chèn ép nhau, cạnh tranh bằng mọi giá, cá lớn nuốt cá bé. Trên thực tế đối với các nước tư bản chủ nghĩa kinh tế thị trường là chiến trường, cạnh tranh một mất một còn.
Đối với Việt Nam chúng ta, dưới sự lãnh đạo của Đảng, các doanh nghiệp cạnh tranh với nhau một cách lành mạnh, tôn trọng lẫn nhau và bình đẵng trước pháp luật.
Trong mối quan hệ bên ngoài, doanh nghiệp cần phải giữ mối quan hệ tốt đẹp với khách hàng. Cha ông ta thường nói: “ Quen mặt thì đắt hàng”. Có nghĩa rằng trong quá trình làm ăn buôn bán đã thực sự tin tưởng lẫn nhau. Những người khách đã quá hiểu chất lượng sản phẩm, giá cả cũng như phương thức thanh toán của doanh nghiệp. Do vậy, khách thường xuyên đến mua hàng một nơi. Nếu doanh nghiệp thường xuyên coi trọng khách hàng, quan tâm đến nhu cầu của khách hàng, thường xuyên thay đổi mẫu mã, thì khách hàng sẽ gắn bó mật thiết với sự đi lên của doanh nghiệp, làm cho uy tín của doanh nghiệp ngày một nâng cao trong xã hội.
Mối ứng xử quan trọng nhất đối với doanh nghiệp đó là mối quan hệ bên trong của nội bộ doanh nghiệp. Trong mối quan hệ này, người chủ doanh nghiệp phải đối xử làm sao thật công bằng đối với các thành viên trong Công ty. Đồng thời phải giải quyết hài hoà mối quan hệ giữa các thành viên với nhau, cũng như các thành viên trong ban quản lý doanh nghiệp. Tất các những mối quan hệ đó người chủ doanh nghiệp phải rất thông hiểu và xữ lý một cách có lý có tình. Có như vậy, tập thể những thành viên trong doanh nghiệp mới đoàn kết, thương yêu nhau, sẵn sàng phát huy mọi năng lực sẵn có để cống hiến thật nhiều cho doanh nghiệp. Bởi trong họ hình tượng người chủ doanh nghiệp luôn luôn là tấm gương sáng về đạo đức, lối sống, là lương tâm, trách nhiệm nghề nghiệp, luôn luôn cùng với họ để đưa doanh nghiệp ngày càng phát triển.
1.2. Vai trò của văn hóa doanh nghiệp trong phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
1.2.1. Vai trò chủ đạo của doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế đất nước
Thực tiễn đã chứng minh rằng, trong chiến tranh chống Mỹ cứu nước, nếu không phát triển kinh tế quốc doanh và kinh tế hợp tác xã để xây dựng hậu phương vững mạnh, giải quyết hậu cần tại chổ thì không thể huy động được tổng lực của dân tộc chi viện cho tiền tuyến để đưa cuộc kháng chiến đến thắng lợi hoàn toàn.
Sau khi thống nhất đất nước, nền kinh tế bị ảnh hưởng nặng nề bởi chính sách bao vây cấm vận triệt để của Mỹ, sự duy trì quá lâu cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, trong điều kiện xây dựng hoà bình và sau đó là sự tan rã của hệ thống XHCN. Đại hội VI của Đảng đã đề ra đường lối đổi mới, phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng XHCN. Từ đó đến nay, chúng ta kiên trì chủ trương này, nền kinh tế nước ta đã phát triển với tốc độ khá cao trong nhiều năm, thoát khỏi khủng hoảng, đảm bảo được những cân đối lớn, từng bước cải thiện đời sống nhân dân, giữ vững ổn định chính trị, xã hội tạo ra thế và lực mới để tiếp tục đưa sự nghiệp đổi mới đi lên.
Nếu nhìn từ hệ thống cơ sở vật chất, kỹ thuật và những đóng góp của doanh nghiệp nhà nước hiện nay, rõ ràng là DNNN đang có vai trò hết sức to lớn, quan trọng trong nền kinh tế nước ta. Thể hiện trên những mặt chủ yếu sau đây:
Doanh nghiệp Nhà nước đang nắm giữ những ngành, những lĩnh vưc then chốt, hệ thống cơ sở vật chất, kỹ thuật quan trọng nhất cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Nắm giữ toàn bộ hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội có tính huyết mạch; hầu hết các doanh nghiệp lớn là DNNN trong các ngành: Xây dựng (về giao thông, thuỷ lợi, công nghiệp, dân dụng) cơ khí chế tạo, luyện kim, xi măng, điện tử, hoá chất, dầu khí, than, phát dẫn điện, thông tin liên lạc, vận tải đường sắt, đường biển, đường không, ô tô…, sản xuất hàng công nghiệp tiêu dùng, chế biến nông, thuỷ hải sản; nắm giữ tỷ lệ quan trọng trong hầu hết trong ngành kinh doanh dịch vụ, thương mại, xuất nhập khẩu; chiếm thị phần áp đảo trong huy động vốn và cho vay.
Cụ thể tỷ trọng phần DNNN trong một số ngành như: 80% công nghiệp khai thác, trên 60 % công nghiệp chế biến. 99% công nghiệp điện - gaz - dầu khí - cung cấp nước, trên 82% vận chuyển hàng hoá, 50 % vận chuyển hành khách, chiếm tỷ trọng tuyệt đối trong sản xuất phân bón hoá học 99,8%, thuốc trừ sâu 93,6%, Axitsulfuric100%, xút 100%, lốp ô tô 100%, lốp xe đạp 80%, pin 100%, chế tạo động cơ diesel loại nhỏ 100%, 88% năng lực kéo sợi, 50% năng lực dệt thoi, 30% năng lực dệt kim và khoảng trên dưới 50% năng lực may mặc; giày dép. Bán buôn chiếm tỷ trọng 70% và 20% bán lẻ. Hệ thống các ngân hàng thương mại Quốc doanh chiếm thị phần áp đảo trong huy động vốn tới 80% thị phần và cho vay 74% thị phần đối với nền kinh tế [3, tr.20].
Có thể khẳng định rằng, doanh nghiệp nhà nước đã góp phần quan trọng vào việc điều tiết quan hệ cung cầu, ổn định giá cả, chống lạm phát, ổn định tỷ giá, khắc phục mặt trái của cơ chế thị trường.
Doanh nghiệp Nhà nước chiếm một phần quan trọng trong xuất nhập khẩu; trong đó DNNN giữ tỷ trọng tuyệt đối trong hoạt động xuất khẩu; riêng công nghiệp năm 1999 đã xuất khẩu được 6,17 tỷ USD (chủ yếu do các DNNN) chiếm gần 54 tổng kim ._.c công nghệ tiên tiến.
Như vậy, cả về khách quan lẫn chủ quan việc nâng cao trình độ học vấn, tay nghề chuyên môn cho CNVC- LĐ là vấn đề cấp bách và cần thiết hiện nay. Đây không những trách nhiệm của bản thân giai cấp công nhân và tổ chức Công đoàn, mà còn là trách nhiệm của Đảng, Nhà nước và các tổ chức chính trị xã hội ở nước ta hiện nay.
3.2.3.2. Tổ chức luyện tay nghề, thi thợ giỏi cho công nhân, viên chức, lao động
Việc tổ chức luyện tay nghề, thi thợ giỏi cho CNVC- LĐ đó là việc làm cần thiết và thường xuyên của Công đòan trong các doanh nghiệp. Chỉ có thể thông qua các Hội thi luyện tay nghề, thi thợ giỏi thì mới tạo được phong trào thi đua lao động sản xuất, sáng tạo, cải tiến kỹ thuật, áp dụng vào sản xuất và tạo ra những sản phẩm có chất lượng cao.
Hiện nay một thực tế cho thấy, CNLĐ chúng ta có bàn tay lao động rất khéo léo, lại chịu khó. Trong những Hội thi mang tầm cở khu vực nhiều công nhân trẻ đạt giải cao, như Hội thi tay nghề khu vực ASEAN năm 2003, đoàn Việt Nam đã giành được một số huy chương Vàng và Bạc. Nhưng để tổ chức thành phong trào luyện tay nghề, thi thợ giỏi một cách thường xuyên thì chưa được các doanh nghiệp quan tâm đúng mức. Bởi vậy, dẫn đến tình trạng nhiều công nhân lao động có tay nghề cao nhưng bậc thợ vẫn thấp, tạo nên tâm lý không hứng thú làm việc, thiếu sự gắn bó với doanh nghiệp.
Trước tình hình này, tháng 4 năm 2005, Tổng Liên đoàn đã có Nghị quyết 4b về nâng cao trình độ học vấn và tay nghề cho CNLĐ, và Nghị Quyết Liên tịch giữa Tổng Liên đoàn và Bộ Giáo dục & Đào tạo về đào tạo tay nghề cho CNLĐ trong thời kỳ mới, vì vậy Công đoàn trong các doanh nghiệp sớm xây dựng kế hoạch, phối hợp cùng chính quyền tổ chức Hội thi luyện tay nghề, thi thợ giỏi, tạo nên phong trào thi đua sâu rộng trong doanh nghiệp để nâng cao tay nghề chuyên sâu cho CNLĐ, tạo ra những sản phẩm “ Vàng”, đáp ứng với nhu cầu của khách hàng ngày càng nhiều, cũng như đủ sức cạnh tranh với thị trường khu vực và quốc tế
3.2.3.3. Xây dựng phong cách người công nhân mới
Sự nghiệp công nghiệp, hiện đại hoá của nước ta đòi hỏi người công nhân phải có phong cách lao động mới, đáp ứng nhu cầu sản xuất hiện đại, văn minh, tiên tiến.
Đa phần công nhân lao động xuất phát từ nông thôn. Sau khi học xong cấp III, một số đi vào các trường Đại học, Cao đẳng. Số còn lại đi vào các trường Kỹ thuật dạy nghề. Sau khi tốt nghiệp ra trường các em dự tuyển vào các doanh nghiệp để làm việc. Do đặc điểm của nền kinh tế nông nghiệp nước ta trên 80% là nông nghiệp, các em từ giã quê hương, bản quán đến với cuộc sống của các đô thị, nhưng trong tâm trí vẫn đọng lại sự tự do trong sinh hoạt, dẫn đến tình trạng thiếu ý thức chấp hành kỉ luật lao động. Do vậy, việc xây dựng, rèn luyện người công nhân mới trong các doanh nghiệp là việc làm vô cùng cần thiết. Việc giáo dục cho những người công nhân mới vào nghề, về kỉ luật lao động, bảo hộ lao động, vệ sinh an toàn, là việc làm thường xuyên của các doanh nghiệp. Ngoài ra, doanh nghiệp còn giáo dục cho CNLĐ về tác phong công nghiệp. Người công nhân phải có tác phong nhanh nhẹn, hoạt bát, đi làm đúng giờ và làm đúng việc mà mình được giao phó. Bên cạnh đó, doanh nghiệp phải giáo dục cho công nhân biết phép ứng xử đối với lãnh đạo, cũng như những người công nhân lao động với nhau.
Để nâng cao chất lượng đội ngũ CNVC- LĐ Thủ đô, đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH đất nước và góp phần xây dựng văn hoá “ Người Hà Nội”. Liên đoàn Lao động thành phố Hà Nội đã triển khai thực hiện phong trào xây dựng “Nếp sống văn hoá công nghiệp” với các tiêu chí như sau:
“Tiên tiến- Sáng tạo”. “Đoàn kết- Kỷ cương”. “Giữ gìn môi trường”. “Thanh lịch- Nhân ái”
Nội dung của các tiêu chí trên được cụ thể hoá như sau:
- Tiên tiến- Có bản lĩnh chính trị vững vàng, có tinh thần và năng lực làm chủ, dám nghĩ dám làm, gương mẫu, đi đầu hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao, lao động có kỉ luật, có kĩ thuật, có năng suất, chất lượng, hiệu quả.
- Sáng tạo- Không ngừng học tập, rèn luyện nâng cao trình độ, năng lực trí tuệ vươn lên tiếp thu khoa học công nghệ mới. Phát huy sáng kiến cải tiến kĩ thuật và lề lối làm việc.
- Đoàn kết- Thể hiện sự thống nhất cao trên cơ sở đấu tranh tự phê bình và phê bình của mỗi cá nhân. Trong tập thể vì lợi ích chung. Đoàn kết tạo nên sức mạnh dẫn đến thành công.
- Kỷ cương- Thực hiện nghiêm hiến pháp pháp luật của Nhà nước, quy ước của cộng đồng, nội quy, quy chế của đơn vị, quy trình, quy phạm kĩ thuật trong lao động san xuất.
- Giữ gìn môi trường- Bảo đảm cân bằng sinh thái, giữ gìn vệ sinh, xanh- sạnh- đẹp ở đơn vị, nơi cơ trú, nơi cộng đồng. Xây dựng mối quan hệ tốt đẹp giữa con người với con người trong gia đình, tập thể, cộng đồng; Xây dựng lối sống đẹp, đấu tranh phong chống các tệ nan xã hội; Tích cực tham gia các hoạt động văn hoá- xã hội ở doanh nghiệp và địa phương.
- Thanh lịch- Đặc trưng cho nét đẹp truyền thống của người Hà Nội. Sống trong sáng, giản dị, lịch sự, tinh tế, có trình độ thẩm mĩ.
- Nhân ái- Yêu thương con người, vì con người, yêu thương gia đình, bạn bè, chia sẻ, giúp đỡ đồng nghiệp, cảm thông, trợ giúp những hoàn cảnh khó khăn trong xã hội.
Từ nội dung của các tiêu chí trên, LĐLĐ thành phố Hà Nội đã xây dựng những nhiệm vụ cụ thể của người công nhân “Có nếp sống văn hoá công nghiệp” trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá như sau:
1. Lao động cần cù, sáng tạo với lương tâm nghề nghiệp, có kĩ thuật, có năng suất, chất lượng, hiệu quả cao vì lợi ích của bản thân, gia đình, tập thể và xã hội.
2. Nâng cao ý thức tập thể, thực hành tiết kiệm, chống tham ô lãng phí.
3.Thường xuyên học tập để tiến bộ và trưởng thành.
4. Sống lành mạnh, trung thực, nhân nghĩa. Tôn trọng luât pháp của Nhà nước, qui ước của cộng đồng. Giữ gìn vệ sinh công cộng, nơi làm việc, có ý thức bảo vệ và cải thiện môi trường sinh thái.
5. Lịch sự, tôn trọng, đoàn kết với mọi người.
Thực hiện phong trào xây dựng “Nếp sống văn hoá công nghiệp” của Liên đoàn lao động Hà nội phát động, nhiều doanh nghiệp đã triển khai thực hiện có hiệu quả, điển hình là Công ty Chiếu sáng và thiết bị đô thị Hà Nội.
Hàng tháng Ban lãnh đạo Công ty họp bình bầu thi đua cho người lao động trên cơ sở bình bầu thi đua của tổ. Bảng bình bầu thi đua luôn luôn được CNLĐ rất tôn trọng và và được bổ sung hàng năm trong các kỳ Đại hội của toàn thể doanh nghiệp. Nhờ bảng thi đua này mà CNVC - LĐ trong doanh nghiệp luôn tự rèn luyện mình, phấn đấu, mang lại hiệu quả cao trong lao động sản xuất kinh doanh. Công ty Chiếu sáng và thiết bị đô thị Hà Nội là một trong 40 đơn vị toàn quốc được báo cáo điển hình tại “Hội nghị Tổng kết 5 năm (200 - 2005) xây dựng đời sống văn hoá cơ sở trong công nhân, viên chức, lao động toàn quốc” ngày 14 tháng 9 năm 2005 do Tổng Liên đoàn - Bộ Văn hoá - Thông tin - Uỷ Ban thể dục thể thao Việt Nam tổ chức tại Hà Nội. Đồng thời là đơn vị được nhận cờ xuất sắc của Tổng Liên đoàn Lao dộng Việt Nam.
- Tổ chức giao lưu văn hoá cho CNVC- LĐ trong và ngoài doanh nghiệp.
Để tạo cho CNVC- LĐ có nhiều hứng khởi, vui vẽ, gắn bó với xí nghiệp, lãnh đạo doanh nghiệp nhất thiết phải tổ chức giao lưu văn hoá cho CNVC- LĐ trong và ngoài doanh nghiệp.
Có thể trong một doanh nghiệp, do quy trình và quy mô sản xuất có hàng nghìn công nhân nên không thể biết hết nhau, và cũng không thể hiểu về công việc của nhau. Do đó hàng tháng hoặc hàng quý, hay nhân ngày truyền thống của đơn vị, lãnh đạo doanh nghiệp tổ chức các hoạt động giao lưu văn hoá, tổ chức thi đấu thể thao, tạo điều kiện cho công nhân gặp gỡ lẫn nhau, học hỏi kinh nghiệm, làm quen với nhau thì việc làm đó mang lại ý nghĩa rất lớn. Thông qua những hoạt động này, công nhân phấn khởi hơn, tâm trạng, tư tưởng thoải mái hơn, từ đó họ sẽ say mê công việc hơn và tất yếu họ sẽ gắn bó với doanh nghiệp hơn.
Bên cạnh đó, việc tổ chức giao lưu văn hoá với bên ngoài doanh nghiệp cũng không kém phần quan trọng. Thông qua các buổi giao lưu văn nghệ, thể dục thể thao mà công nhân học hỏi ở nhau những kinh nghiệm về quản lý sản xuất sao cho có hiệu quả; tổ chức phong trào thi đua sao cho thường xuyên, lại được mọi người tham gia ủng hộ. Đồng thời mang lại cho CNLĐ một ý nghĩa sâu sắc hơn đó là ý thức trách nhiệm xã hội của người công nhân, giúp họ hiểu biết hơn về văn hoá ứng xữ, từ đó họ có thể điều chỉnh những hành vi của mình trong mối quan hệ đồng nghiệp ở đơn vị tốt hơn; góp phần vào việc xây dựng VHDN, đưa doanh nghiệp ngày càng phát triển, ổn định.
Kết luận
Có thể khẳng định rằng, xây dựng VHDN là góp phần xứng đáng vào việc xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Bởi vì, xây dựng VHDN phải biết kế thừa văn hoá truyền thống vừa phải biết tiếp thu những tinh hoa văn hoá nhân loại.
Văn hóa doanh nghiệp cũng được khẳng định là một trong những nguồn lực quan trọng để phát triển doanh nghiệp, đồng thời là nhân tố căn bản, cần thiết cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Nhưng hiện nay chúng ta chưa thống nhất được khái niệm VHDN là gì? Cấu trúc của nó như thế nào? Vai trò ảnh hưởng của nó đối với sự phát triển của doanh nghiệp to lớn bao nhiêu, chưa ai có thể đo đếm hoặc tính toán được. Vì vậy, việc triển khai áp dụng VHDN vào các doanh nghiệp còn gặp nhiều khó khăn, nan giải. Mặc dầu đã có một số doanh nghiệp tự lực cánh sinh, mò mẫm, xây dựng một nét văn hoá riêng cho doanh nghiệp của mình như Công ty giày Thượng Đình có quy ước văn hoá là một ví dụ. Nhưng còn rất nhiều doanh nghiệp còn rất mơ hồ về VHDN. Có doanh nghiệp cho rằng, chỉ tổ chức các hoạt động bề nổi như: thi đấu thể dục, thể thao, giao lưu văn hoá, văn nghệ là được. Nhận thức như vậy thì đơn giản quá, không thể đưa doanh nghiệp phát triển đúng tầm, đúng hướng được. Bên cạnh đó, nhận thức của xã hội, của cộng đồng về xây dựng VHDN chưa sâu, chưa đúng. Phần lớn CNVC- LĐ khi hỏi về VHDN là gì, họ đều không trả lời được.
Hiểu được VHDN chỉ có một số ít các nhà nghiên cứu văn hoá ở trong trường Đại học, Viện nghiên cứu. Việc tuyên truyền thông tin trên các phương tiện thông tin đại chúng cũng chưa nhiều. Những tài liệu, sách vở viết về VHDN còn ít, vì vậy nhận thức chung của xã hội về vấn đề này còn hạn chế, dẫn đến những hạn chế trong việc xây dựng và phát triển VHDN trong bản thân của mỗi doanh nghiệp ở Hà Nội nói riêng và cả nước nói chung.
Hiện nay trong chiến lược phát triển kinh tế của đất nước, chuẩn bị điều kiện và tư thế để hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế, các doanh nghiệp phải rèn luyện cho mình một bản lĩnh vững vàng, xây dựng cho mình một nét văn hoá riêng, chính đó là VHDN để mạnh dạn bước vào cơ chế thị trường đầy cam go và cạnh tranh khốc liệt.
Chúng ta biết rằng, quá trình xây dựng VHDN là quá trình đầy thử thách của doanh nghiệp. Các doanh nghiệp phải tự lực cánh sinh, lần mò, vừa làm vừa rút kinh nghiệm. Bởi vì đến giờ phút này, chưa có một văn bản chính thống nào của Đảng, Nhà nước quy định về những chuẩn mực để xây dựng VHDN. Có chăng thì rất hi hữu một vài bài phát biểu của các nhà lãnh đạo, các nhà nghiên cứu trong các cuộc Hội nghị, Hội thảo, tổng kết có liên quan đến VHDN. Chứ chưa có một văn bản đầy đủ tính pháp quy nào về VHDN để các doanh nghiệp thực hiện. Tại “Hội nghị Tổng kết 5 năm (2000- 2005) xây dựng đời sống Văn hoá cơ sở trong công nhân, viên chức, lao động toàn quốc” ngày 14 tháng 9 năm 2005, giữa Tổng Liên đoàn - Bộ Văn hoá - Thông tin - Uỷ ban Thể dục thể thao Việt Nam, tổ chức tại Cung Văn hoá Lao động Hữu nghị Việt - Xô, trong bài phát biểu tổng kết Hội nghị, đồng chí Đỗ Đức Ngọ Phó Chủ tịch Tổng Liên đoàn nhấn mạnh: “Hoạt động Công đoàn cần hướng về cơ sở, xây dựng đời sống văn hoá trong công nhân, viên chức, lao động trọng tâm là xây dựng văn hóa doanh nghiệp”.
Tuy nhiên, đứng trước cơn lốc của sự cạnh tranh trên thị trường, bắt buộc các doanh nghiệp muốn tồn tại, muốn phát triển thì phải mạnh dạn xây dựng VHDN. Bởi vì, có xây dựng được VHDN thì mới có thương hiệu. Xây dựng được thương hiệu mạnh, thì sản phẩm của doanh nghiệp mới được thị trường chấp nhận, uy tín của doanh nghiệp mới được nâng cao, thị trường, thị phần của doanh nghiệp mới ngày càng mở rộng.
Chúng tôi tin rằng, với sự ưu thế của doanh nghiệp nhà nước không riêng gì ở địa bàn Hà Nội mà cả phạm vi cả nước, sẽ xây dựng cho mình một nét văn hoá đặc trưng của doanh nghiệp mình, một thương hiệu mạnh, phù hợp với hoàn cảnh, đặc điểm của doanh nghiệp mình, để vừa đứng vững trên thị trường, vừa đảm bảo được lợi ích doanh nghiệp, lợi ích đất nước, như lời Thủ tướng Chính phủ Phan Văn Khải đã khẳng định: “Phải đề cao văn hoá kinh doanh, trước hết kinh doanh là tôn trọng chử “Tín”. Đối với doanh nghiệp và doanh nhân, lợi nhuận là động lực trực tiếp, song người kinh doanh có văn hoá luôn đặt lợi ích của mình trong sự kết hợp hài hoà với lợi ích của cộng đồng đất nước” [33, tr.2].
Trên cơ sở nghiên cứu và và khảo sát thực tế về thực trạng xây dựng VHDN và vai trò Công đoàn trong việc xây dựng VHDN ở thủ đô Hà Nội, Luận văn đã đề cập đến một số vấn đề cơ bản sau đây:
* Đưa ra khái niệm, cấu trúc của VHDN.
* Vai trò của VHDN đối với sự phát triển của doanh nghiệp.
* Một số kết quả bước đầu xây dựng VHDN trong doanh nghiệp nhà nước ở thủ đô Hà Nội.
* Những khó khăn trong việc xây dựng VHDN ở thủ đô Hà Nội.
* Vai trò của Công đoàn trong việc xây dựng VHDN.
* Những giải pháp để xây dựng VHDN trong tình hình hiện nay.
* Luận văn cũng nêu những đề xuất, kiến nghị với Đảng, Nhà nước và Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, Thành uỷ, UBND thành phố và LĐLĐ Hà Nội phải có những chính sách cụ thể, sát đúng với thực tiễn, để tạo đà cho doanh nghiệp phát triển.
* Luận văn cũng đề xuất với Tổng Liên đoàn phải đưa VHDN trở thành một môn chính trong chương trình giảng dạy của trường Đại học Công đoàn Việt Nam.
Vấn đề xây dựng VHDN là vấn đề rất quan trọng, nhưng cũng rất mới mẽ và khó khăn đối với các doanh nghiệp Việt Nam. Vì vậy bản Luận văn này chưa thể hoàn chỉnh được, chỉ đóng góp một phần nhỏ vào lĩnh vực nghiên cứu VHDN. Nếu có điều kiện, Luận văn sẽ tiếp tục nghiên cứu sâu hơn, tìm ra những giải pháp tốt hơn, để giúp doanh nghiệp phát huy hết sức mạnh nội sinh, xây dựng doanh nghiệpViệt Nam ngày càng phát triển, góp phần vào việc phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, đồng thời giới thiệu những sản phẩm mang thương hiệu Việt Nam đi khắp thế giới.
Trong quá trình nghiên cứu không thể tránh khỏi những sơ suất, xin chân thành cám ơn các thầy cô và bạn bè đã quan tâm, giúp đở chúng tôi hoàn thành bản Luận văn này.
2. Một số đề xuất, kiến nghị
* Kiến nghị với Đảng
Trong những năm gần đây, Đảng đã có những Nghị quyết, Chỉ thị nhằm phát triển kinh tế - xã hội đất nước, đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá để nhanh chóng đưa nước ta thoát ra khỏi nghèo nàn và lạc hậu. Một trong những Nghị quyết quan trọng đó là Nghị quyết TW III, khoá IX để sắp xếp lại các loại hình doanh nghiệp trong đó có doanh nghiệp nhà nước, để phù hợp với từng ngành nghề và phát huy tác dụng tối đa về mặt kinh tế của doanh nghiệp.
Để giúp các doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp nhà nước nói riêng phát huy có hiệu quả, Đảng phải có chính sách cụ thể như: chính sách khoa học công nghệ, chính sách lao động và đào tạo nguồn nhân lực, chính sách về môi trường để xây dựng và phát triển doanh nghiệp.
Đảng phải chỉ thị cho các đảng viên của mình trong các doanh nghiệp phải thấy được tầm quan trọng của việc xây dựng VHDN. Chỉ có làm tốt công việc xây dựng VHDN thì doanh nghiệp mới phát triển bền vững được. Không chỉ riêng doanh nghiệp nhà nước mà tất cả các loại hình doanh nghiệp, khi làm tốt việc xây dựng VHDN thì không những mang lại lợi ích kinh tế cho doanh nghiệp, cho xã hội, mà xây dựng được một phong cách văn hoá, văn minh công nghiệp, phong cách đó sẽ làm cho doanh nghiệp đứng vững trên cơ chế thị trường.
Đối với Thành uỷ Hà Nội, cần quan tâm hơn nữa, chỉ đạo sát sao hơn nữa đối với các đoàn thể chính trị - xã hội trên địa bàn Thủ đô về phong trào xây dựng “Nếp sống văn hoá công nghiệp”, “ Xây dựng người Hà Nội Văn minh - Thanh lịch - Hiện đại”. Đây là những phong trào lớn, có ý nghĩa thiết thực, trong việc xây dựng đời sông văn hoá cơ sở. Song, Thành uỷ phải chỉ đạo có tổng kết, rút ra bài học kinh nghiệm và nhân điển hình, có như vậy phong trào mới đi vào chiều sâu, có sức lan toả mạnh trong đời sống nhân dân nói chung đối với công nhân viên chức, lao động nói riêng và mới xứng đáng với Thủ đô nghìn năm văn hiến.
* Đối với Nhà nước
Cần tạo chính sách thông thoáng để cho doanh nghiệp phát triển. Cần loại bỏ những trở ngại về pháp luật và chính sách với với việc chuyển giao công nghệ từ nước ngoài vào nước ta. Tạo điều kiện để cho các doanh nghiệp nhập được những máy móc thiết bị hiện đại ứng dụng khoa học vào sản xuất, để nâng cao năng suất lao động và năng lực cạnh tranh sản phẩm.
Một điều quan trọng là Nhà nước tạo điều kiện, mở rộng việc nghiên cứu gắn với các trường Đại học, các Viện nghiên cứu với doanh nghiệp. Có như vậy việc học và hành mới đi đôi với nhau, mới mang lại hiệu quả thiết thực. Phải miễn thuế nhập khẩu đối với các thiết bị công nghệ hiện đại, đồng thời mở rộng mạng lưới tư vấn dịch vụ khoa học đến với các doanh nghiệp.
Đối với Uỷ ban nhân dân thành phố Hà Nội, cần có những chính sách cụ thể, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực để phục vụ công nghiệp hoá hiện đại hoá. Là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hoá của cả nước, Hà Nội rất có điều kiện để đầu tư vào kinh tế trí thức. Vì, Hà Nội có gần 50 trường Đại học và Cao đẳng, nên sẽ rất thuận lợi cho việc chọn lựa những học sinh xuất sắc, sau khi ra trường bố trí vào các lĩnh vực kinh tế trọng điểm, các Viện nghiên cứu khoa học đặc biệt là khoa học ứng dụng. Đặc biệt phải mở rộng và nâng cao chất lượng các trường dạy nghề để đào tao đội ngũ công nhân lành nghề, bổ sung cho các nhà máy, các khu công nghiệp mới, đáp ứng với tốc độ phát triển của Thủ đô.
Hà Nội cũng phải có chính sách cụ thể, thoả đáng để thu hút và sử dụng nhân tài. Vì, thủ đô Hà Nội cần phải có đội ngũ cán bộ khoa học tài năng, để góp tay xây dựng Thủ đô ngày càng giàu đẹp.
Bên cạnh đó Hà Nội cần có chính sách bảo vệ môi trường. Khi các cấp trình dự án xây dựng tổng thể, trước tiên UBND Thành phố phải xem xét kỷ lưỡng về yêu cầu bảo vệ môi trường. Các cơ quan ở Hà Nội khi lập dự án quy hoạch, kế hoạch phát triển, phải đồng thời lập báo cáo đanh giá môi trường chiến lược, gửi cơ quan quản lý Nhà nước có thẩm quyền quyết định. Kết quả thẩm định báo cáo đánh giá môi trường chiến lược là căn cứ để xem xét điều chỉnh, bổ sung và phê duyệt dự án, quy hoạch, kế hoạch phát triển.
Quyết định phê duyệt, báo cáo đánh giá tác động môi trường là căn cứ để xem xét cấp phép đầu tư xây dựng thực hiện dự án. Nhiệm vụ này đặt ra trách nhiệm với các doanh nghiệp, khi đầu tư xây dựng dự án phải xem xét đến yếu tố môi trường. Có như vậy mới giảm được sự ô nhiễm môi trường và xây dựng Hà Nội thành phố - Hoà bình, Xanh- Sạch - Đẹp.
* Kiến nghị với Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam.
Như ở chương 2 chúng tôi đã trình bày vai trò của Công đoàn rất quan trọng trong việc xây dựng VHDN.
Bởi vậy, ở tầm vĩ mô Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam nên chỉ đạo, hướng dẫn cho các cấp Công đoàn thấy được việc xây dựng VHDN là nhiệm vụ thiết yếu của tổ chức Công đoàn; vì VHDN là một trong những yếu tố cơ bản quyết định sự thành công của doanh nghiệp. Do vậy, hướng hoạt động Công đoàn về cơ sở trọng tâm là xây dựng VHDN.
Xây dựng VHDN, tức là xây dựng mối quan hệ bản chất giữa chủ doanh nghiệp đối với khách hàng, giữa chủ doanh nghiệp với mọi thành viên trong doanh nghiệp, giữa công nhân viên chức, lao động với nhau và đặc biệt là mối quan hệ lãnh đạo giữa Đảng, Công đoàn và Giám đốc doanh nghiệp. Nếu xây dựng tốt các mối quan hệ này chắc chắn rằng doanh nghiệp chỉ có thể ổn định, bền vững và phát triển đi lên. Bởi vì khi xây dựng tốt các mối quan hệ đó, thì trong doanh nghiệp không có tư tưởng lo lắng, hoài nghi, mất đoàn kết. Mà ngược lại, chỉ có tư tưởng thống nhất, tin tưởng, phấn khởi, toàn tâm toàn ý của công nhân viên chức lao động ra sức xây dựng doanh nghiệp.
Tổng Liên đoàn cần chỉ đạo cho trường Đại học Công đoàn đưa môn VHDN vào giảng dạy trong chương trình đạo tạo các khoá học.
Đối với Liên đoàn Lao động thành phố Hà Nội, trong những năm qua đã đi đầu trong cuộc vận động “ Xây dựng nếp sống văn hoá công nghiệp”, bước đầu đã thu được nhiều kết quả tốt đẹp. Đã tổ chức được nhiều cuộc Hội thảo khoa học nhằm tận dụng trí tuệ của các nhà khoa học để xây dựng người Hà Nội “Văn minh- Thanh lịch-Hiện đại”. Song, không thể dừng lại ở đây mà phải làm cho phong trào xây dựng “ Nếp sống văn hoá công nghiệp” thấm sâu vào máu thịt của từng công nhân lao động. Phải giáo dục cho công nhân lao động đặc biệt là lớp công nhân trẻ hiểu về lịch sử văn hoá của Thủ đô, tự hào về truyền thống văn hoá của một Thủ đô anh hùng. Có hiểu được những điều đó, công nhân lao động mới tích cực tham gia, đóng góp vào các phong trào như: Phong trào thi đua sản xuất, phong trào cải tiến kỹ thuật, phong trào học tập nâng cao trình độ học vấn tay nghề, phong trào đền ơn đáp nghĩa, phong trào xóa đói giảm nghèo… Thực hiện tốt những phong trào đó, nghĩa là CNVC-LĐ Thủ đô đã góp phần xây dựng Thủ đô ngày càng văn minh giàu đẹp, xứng đáng là Thủ đô anh hùng, nghìn năm văn hiến.
Danh mục công trình của tác giả được công bố
Trương Thanh Cần (2002), Một số tư liệu cần thiết đối với cán bộ Tư tưởng - Văn hoá Công đoàn, Nxb Lao động, Hà Nội.
Trương Thanh Cần (2002), Những Bài giáo dục chính trị cơ bản trong công nhân, viên chức, lao động, Nxb Lao động, Hà Nội.
Trương Thanh Cần (2003), Kỷ niệm sâu sắc, Nxb Lao động, Hà Nội.
Trương Thanh Cần (2003), Đề cương tuyên truyền Đại hội IX Công đoàn Việt Nam, Nxb Lao động, Hà Nội.
Trương Thanh Cần (2003), Tài liệu tuyên truyền nhanh kết quả Đại hội IX Công đoàn Việt Nam, Nxb Lao động, Hà Nội.
Trương Thanh Cần (2004), Đề cương tuyên truyền 75 năm thành lập Công đoàn Việt Nam, Nxb Lao động, Hà Nội.
Trương Thanh Cần (2004), Tài liệu tuyên truyền đường lối chính, chính sách của Đảng, Nhà nước về công tác Tôn giáo trong công nhân, viên chức, lao động, Nxb Lao động, Hà Nội.
Trương Thanh Cần (2005), "Vai trò Công đoàn trong việc xây dựng văn hóa doanh nghiệp", Tạp chí Lao động & Công đoàn, (337), tr. 9-10.
Trương Thanh Cần (2005), "Công ty giày Thượng Đình, điểm sáng trong xây dựng văn hóa doanh nghiệp của thủ đô Hà Nội", Tạp chí Lao động & Công đoàn, (339), tr.14.
Trương Thanh Cần (2003), Tham gia Đề tài cấp Bộ: Khảo sát thực trạng tâm trạng, tư tưởng và trình độ học vấn, tay nghề trong công nhân, viên chức, lao động.
Trương Thanh Cần (2005), Chủ nhiệm Đề tài cấp Bộ: Xây dựng văn hóa doanh nghiệp và vai trò Công đoàn trong việc xây dựng văn hóa doanh nghiệp.
Trương Thanh Cần (2005), Tham gia Đề tài cấp Bộ: Thực trạng và giải pháp nâng cao trình độ nhận thức pháp luật trong công nhân, viên chức, lao động.
Danh mục tài liệu tham khảo
A.A.Radughin (2004), Văn hóa học, Những bài giảng, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.
Đào Duy Anh (2000), Việt Nam văn hoá sử cương, Nxb Văn hoá- thông tin, Hà Nội.
Ban Kinh tế Trung ương (2005), Báo cáo một số vấn đề về tiếp tục đổi mới và phát triển có hiệu quả khu vực doanh nghiệp nhà nước.
Ban Tư tưởng - Văn hoá Trung ương, Bộ Văn hoá thông tin, Viện quản trị doanh nghiệp (2001), Văn hoá và kinh doanh, Nxb Lao động, Hà Nội.
Ban Tư tưởng - Văn hoá Trung ương (2004), Kết luận Hội nghị lần thứ X Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương (2004), Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa, Hà Nội.
Báo cáo Chính trị Đại hội Liên đoàn lao động thành phố Hà Nội lần thứ XIII (2003), Nxb Lao động, Hà Nội.
Bộ Văn hoá - Thông tin (1994), Bảo vệ và phát huy di sản văn hoá Việt Nam, Nxb Văn hoá - Thông tin, Hà Nội.
Bộ Văn hoá - Thông tin (1995), Đường lối văn hoá văn nghệ của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb Văn hoá - Thông tin, Hà Nội.
Bộ Văn hoá - Thông tin, Uỷ ban Quốc gia về thập kỷ quốc tế phát triển văn hoá (1992), Thập kỷ thế giới phát triển văn hoá, Nxb Văn hoá - Thông tin Hà Nội.
Bí quyết kinh doanh (2003), (Con đường dẫn đến thành công của doanh nhân và doanh nghiệp) Tạ Ngọc ái dịch, Nxb Văn hoá - Thông tin, Hà Nội.
BUILDING W.EALTH (2003), Làm giàu trong nền kinh tế tri thức, Nxb Trẻ, Hà Nội.
Trương Đình Chiến (2002), "Những tư tưởng cơ bản về quản lý của peter Drucker và sự vần dụng trong kinh doanh của các doanh nghiệp Việt Nam", Tạp chí Kinh tế và phát triển (68), tr. 42- 43.
Đoàn Văn Chúc (2004), Văn hoá học, Nxb Lao động, Hà Nội.
Đỗ Minh Cương - Phương Kỳ Sơn (1995), Vai trò con người trong quản lý doanh nghiệp, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Đỗ Minh Cương (2001), Văn hoá kinh doanh và triết lý kinh doanh, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Đỗ Minh Cương (2002), “Văn hoá kinh doanh Việt Nam”, Tạp chí Lý luận chính trị, (1), tr. 30 - 40.
Lê Anh Cường - Nguyễn Thị Lệ Huyền (2004), Nghệ thuật và phương pháp lãnh đạo doanh nghiệp, Nxb Lao động xã hội, Hà Nội.
Trần quốc Dân (2003), Tinh thần doanh nghiệp - Giá trị định hướng của Văn hoá kinh doanh Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Phương Dung (2003), "Bức tranh thương hiệu qua con mắt của doanh nhân”, Tạp chí Thương mại, (18), tr.18.
Đoàn Nhật Dũng (2001), “Xây dựng một thế hệ doanh nhân Việt Nam mới, vững bước tiến vào thế kỷ XXI", Tạp chí Nghiên cứu Kinh tế, (11), tr.58.
Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Đảng Cộng sản Việt Nam (2004), Các Nghị quyết của Trung ương 2001- 2004, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Nguyễn Khoa Điềm (2001), Xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Ngô Đình Giao (chủ biên) (1997), Môi trường kinh doanh và đạo đức kinh doanh, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
Trần Văn Giàu (1980), Giá trị truyền thống của dân tộc Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
Giải pháp Xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam trong những năm đầu thế kỷ XXI (2002), Kỷ yếu Hội thảo khoa học của Viện Công nhân & Công đoàn, Nxb Lao động, Hà Nội.
Hà Nội 50 năm thành tựu và những thách thức trên đường phát triển (2004), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1992), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Đỗ Huy (1996), "Văn hoá kinh doanh ở nước ta, thực trạng và giải pháp", Tạp chí Triết học, (2) tr. 22 - 25.
JERO MEBALLET - FRANCOIEBRY(2005), Doanh nghiệp và đạo đức, Nxb Thế giới, Hà Nội.
JMES (2004), Thương hiệu mạnh và thành công, Nxb Thống kê, Hà Nội.
Phan Văn Khải (2003), “Doanh nghiệp là lực lượng xung kích trong sự nghiệp phát triển kinh tế, thực hiện dân giàu, nước mạnh", Báo Nhân dân, ngày 25/3/2003.
Khoa học chuyên đề “Xây dựng văn hóa doanh nghiệp” (2004), Trung tâm hợp tác nguồn nhân lực Việt Nam - Nhật Bản.
Tương Lai (2003) "Doanh nghiệp và doanh nhân", Tạp chí Phát triển kinh tế, (134).
Nguyễn Thường Lạng (2002), “Văn hoá doanh nghiệp”, Tạp chí Kinh tế và phát triển, (55), tr. 24- 27.
Luật Công đoàn (1990), Nxb Lao động, Hà Nội.
Luật Doanh nghiệp (2004), Nxb Thống kê, Hà Nội.
MarLene CaroSelli (2004), Các kỷ năng lãnh đạo dành cho nhà quản trị, Nxb Thống kê, Hà Nội.
Phạm Xuân Nam (chủ biên) (1996), Văn hóa doanh nghiệp, Nxb Khoa học và xã hội, Hà Nội.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 10 của thường vụ Thành uỷ Hà Nội (2003).
Nghị quyết 4b của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam (2005), Công đoàn với nhiệm vụ nâng cao trình độ học vấn và nghề nghiệp cho công nhân, viên chức, lao động trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Pháp lệnh thủ đô Hà Nội (2004), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Tôn Trung Phạm- An Miêu- Phùng Đồng Khánh - Trần Kỳ (2004), Lý luận Công đoàn trong thời kỳ chuyển sang kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa, Nxb Lao động, Hà Nội.
Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (2003), Doanh nhân Việt Nam và cách tiếp cận mới, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
Lê Minh Quốc (2004), Doanh nghiệp Việt Nam xưa và nay, Nxb Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh.
Dương Văn Sao- Chử Văn Thịnh (2005), Tổ chức và hoạt động của Công đoàn cơ sở trong tình hình mới, Nxb Lao động, Hà Nội
Nguyễn Xuân Thảo, Nguyễn Văn Tuyền (1999), Phát huy những nhân tỗ truyền thống của dân tộc trong kinh doanh dịch vụ ở nước ta hiện nay, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
Công Thắng (2003), “Kinh doanh cần có triết lý”, Thời báo kinh tế sài Gòn, ngày 04/12/2003, tr. 27- 28.
Trần Ngọc Thêm (2001), Tìm về bản sắc văn hoá Việt Nam, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh.
Phan Minh Toàn Thư (2001), "ý tưởng sáng tạo trong kinh doanh", Thời báo kinh tế Sài Gòn, ngày 08/02/2001
Phạm Quốc Toản (2002), Đạo đức kinh doanh, Nxb Thống kê, Hà Nội.
Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, (2001), Hệ thống các văn bản về công tác tổ chức và cán bộ Công đoàn, Nxb Lao động, Hà Nội.
Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam (2002), Những quy định mới về kinh tế, lao động đối với doanh nghiệp nhà nước, Nxb Lao động, Hà Nội.
Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam (2003), Văn kiện Đại hội IX Công đoàn Việt Nam, Nxb Lao động, Hà Nội.
Tổng cục Thống kê (2003), Kinh tế xã hội Việt Nam 3 năm 2001- 2003, Nxb Thống kê, Hà Nội.
Trần Hoàng Trung (2001), Bí quyết thàng công của các nhà kinh doanh nỗi tiếng thế giới, Nxb Thanh niên, Hà Nội.
Tấn Tuấn (2002), "16 nguyên tác kinh doanh của Phạm Lãi", Tạp chí Thương mại, (32), tr. 21.
Văn hoá và phát triển ở Việt Nam (2004), Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội
Hoàng Vinh (2004), "Bàn về Văn hoá và Văn hoá kinh doanh", Thông tin Văn hoá và phát triển, Khoa Văn hóa xã hội chủ nghĩa, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, (1), tr.23.
Hoàng Vinh (2004), Góp bàn về thuật ngữ văn hoá kinh doanh, Kỷ yếu Hội thảo khoa học “Giải pháp giải quyết một số vấn đề bức xúc vể kinh tế -xã hội - nhân văn ở Hà Nội”, Hà Nội.
Hoàng Vinh (1999), Mấy vấn đề lý luận và thực tiễn xây dựng văn hoá nước ta, Nxb Văn hoá Thông tin, Hà Nội.
Trần Quốc Vượng (2003), Văn hoá Việt Nam tìm tòi và suy ngẫm, Nxb Văn học, Hà Nội.
"Xây dựng văn hóa doanh nghiệp" (2004), Thời báo kinh tế Việt Nam, Số ra ngày 10/01/2001.
XOMKHIT CHATUXIPHITHAT (2004), Chiến thuật tiếp thị, bài học từ Nhật Bản, Nxb Văn hoá - Thông tin, Hà Nội.
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Luan van cao hoc 2.doc
- bia.doc