BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
----------
LÊ THỊ LOAN
VẬN DỤNG PHƯƠNG THỨC NÊU VẤN ĐỀ
VÀO VIỆC DẠY HỌC TÁC PHẨM
“CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA” CỦA
NGUYỄN MINH CHÂU Ở TRƯỜNG THPT
Chuyên ngành:
LÝ LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC VĂN
Mã số: 60 14 10
LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. NGUYỄN ĐỨC ÂN
Thành phố Hồ Chí Minh - 2010
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin chân thành cảm ơn Thầy Nguyễn Đức Ân trong suốt thời gian qua
đã nhiệt tình
107 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 2190 | Lượt tải: 2
Tóm tắt tài liệu Vận dụng phương thức nêu vấn đề vào việc dạy học tác phẩm `Chiếc thuyền ngoài xa` của Nguyễn Minh Châu ở trường THPT, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hướng dẫn, giúp đỡ tôi hoàn thành luận văn.
Xin chân thành cảm ơn quý Thầy, Cô trường Đại học Sư phạm TP. Hồ Chí
Minh đã tận tình giảng dạy và giúp đỡ chúng tôi suốt thời gian qua.
Xin chân thành cảm ơn khoa Ngữ văn, Phòng Khoa học Công nghệ - sau
đại học - trường Đại học Sư phạm TP. Hồ Chí Minh; các cấp lãnh đạo, Sở Giáo
dục và Đào tạo, các Thầy, Cô, học sinh trường THPT Chuyên Long An, THPT
Lê Quý Đôn, THPT Tân An, THPT Hùng Vương; bạn bè, gia đình… đã tạo mọi
điều kiện thuận lợi, nhiệt tình giúp đỡ tôi trong suốt quá trình làm luận văn.
Tác giả
Lê Thị Loan
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan các số liệu,
kết quả nêu trong luận văn là trung thực.
Tác giả luận văn
Lê Thị Loan
PHẦN MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
1.1. Trong nửa cuối của thế kỷ vừa qua, với đà tiến của cuộc cách mạng khoa học công nghệ
diễn ra mạnh mẽ và sâu rộng, các lĩnh vực của đời sống kinh tế, xã hội, văn hóa GD đang đứng
trước những thay đổi, phát triển nhanh chóng, nhân loại đang bước sang kỉ nguyên mới với tốc độ
chuyển biến phi thường. Thành tựu của khoa học công nghệ trở nên đa dạng, sinh động như chưa
từng thấy, làm cho những nhu cầu, hoạt động của con người được đáp ứng và vươn lên không
ngừng. Cụ thể là cuộc cách mạng khoa học công nghệ lần thứ 3 (hệ thống công nghiệp hiện đại với
tự động hóa, tin học hóa, cách mạng sinh học) đã hình thành xã hội siêu công nghiệp. Mục tiêu đầu
tiên của nền GD thời đại siêu công nghiệp là làm tăng khả năng đối phó, thích nghi của con người
trước tốc độ biến động kinh tế xã hội nhanh chóng, liên tục và khả năng giải quyết các vấn đề của
cuộc sống đặt ra. Chính từ cơ sở lịch sử - xã hội nói đó mà nhà trường hiện đại nhằm tới xây dựng
hệ PP GD tích cực (Hệ thống các PPDH theo định hướng tích cực). Dạy học văn cũng nằm trong xu
thế tất yếu đó.
1.2. Những năm gần đây, GD đã trải qua sự thay đổi quan trọng. Năm 2003, chương trình, SGK
môn Ngữ văn THPT được thiết kế điều chỉnh. Từ đó, PPDH cũng đổi mới. Chương trình GD phổ
thông hiện hành đã nêu rõ: “Phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của HS; phù
hợp với đặc trưng môn học, đặc điểm đối tượng HS, điều kiện của từng lớp học; bồi dưỡng cho HS
phương pháp tự học, khả năng hợp tác; rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn; tác động
đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú và trách nhiệm học tập cho HS”.
Tài liệu “Hướng dẫn thực hiện chương trình, SGK môn Ngữ văn lớp 12” đã giới thiệu một số
PPDH theo định hướng tích cực như: thuyết trình, vấn đáp, đàm thoại, phát hiện và giải quyết vấn
đề, lí thuyết tình huống, lí thuyết kiến tạo,… Vậy, dạy học tác phẩm văn chương (văn bản văn học)
theo phương thức NVĐ là một kiểu dạy học chuyên biệt thuộc hệ PPDH tích cực.
1.3. Trong thực tế:
- Việc dạy học theo định hướng tích cực đã được GV quán triệt về mặt quan điểm và nhận
thức về lí luận. Tuy nhiên, khó khăn nhất là cách thức vận dụng vào thực tế sao cho có hiệu quả.
“Bài toán có vấn đề” - bài toán ơrixtic trong giờ dạy học văn bản - tác phẩm văn chương là một vấn
đề cần được quan tâm nhiều hơn, nhất là đối với những tác phẩm mới được đưa vào chương trình.
- Tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu còn mới đối với GV và HS. Bởi
thời kì văn học sau 1975 nói chung và “Chiếc thuyền ngoài xa” nói riêng vừa được đưa vào chương
trình và SGK năm 2008.
Xuất phát từ những lý do trên, với mong muốn góp phần cải tiến PPDH, nâng cao hiệu quả
dạy học văn và rèn luyện được một số kỹ năng tiếp nhận văn bản văn học cho HS, chúng tôi chọn đề
tài nghiên cứu: “Vận dụng phương thức nêu vấn đề vào việc dạy học tác phẩm “Chiếc thuyền
ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu ở trường THPT”.
2. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ
2.1. Nguồn gốc: Dạy học nêu vấn đề là một quan điểm dạy học được đề cập tới trong nhà trường
trên thế giới từ những năm năm mươi của thế kỉ XX và không ngừng được bổ sung hoàn thiện để
trở thành một phương thức dạy học phù hợp với quan điểm dạy học phát triển và tích cực của nhà
trường hiện đại. Thực ra, như I.Ia Lecne từng nêu “tính NVĐ” trong hoạt động dạy học không phải
là hiện tượng mới mẻ xa lạ. Bởi từ xưa, hiện tượng NVĐ đã từng xuất hiện trong các buổi tọa đàm
do Xocrate khởi xướng cũng như Khổng Tử - nhà GD cổ xưa của Trung Quốc - khơi gợi học trò bàn
về Trí, trong đó có phần về NVĐ. Dần dần, qua các thời kì hình thành và tồn tại của nhà trường, từ
những hình thức tranh luận quỷ biện thời trung cổ tới những Kolocvium rồi tiến đến việc tổ chức
những buổi ceminair của nhà trường hiện đại, các phương thức, hình thức dạy học không ngừng cải
tiến và DHNVĐ hoàn thiện thành một tư tưởng dạy học có cơ sở lý luận và thực tiễn vững vàng.
“Cũng như bất kì hiện tượng nào nảy sinh một cách hữu cơ trong sự phát triển của nhà
trường, DHNVĐ có lịch sử của nó. Các nguyên lý DHNVĐ đã được hình thành trong những tìm tòi
suy nghĩ của các nhà sư phạm đi trước. Việc cố gắng tích cực hóa quá trình học tập, việc củng cố
quan hệ giữa GD và đời sống, việc thúc đẩy hoạt động độc lập của người học, việc xây dựng các bài
tập sáng tạo, đưa HS ra ngoài phạm vi của việc “lặp lại cái đã trải qua” - tất cả những nét riêng đó
của hoạt động sư phạm, tiêu biểu cho những năm 50 - 60 (thế kỉ XX), là một sự vận động dẫn tới
DHNVĐ và nhập vào làm yếu tố cấu thành của cách dạy đó” [116, tr.101].
Ở Việt Nam, trong nhà trường miền Bắc những năm 70 của thế kỉ trước, DHNVĐ đã bước
đầu được vận dụng nhờ việc tiếp thu, học hỏi của một số nhà sư phạm có điều kiện tiếp cận các tài
liệu lý luận dạy học và kinh nghiệm khá hiếm hoi từ Liên Xô và một số nước trong phe xã hội chủ
nghĩa. Có thể xem đây là thời gian đầu trong bước tập dượt cho nên không tránh khỏi những vấp
váp, lúng túng. Đến giữa những năm 80, khi tiến hành cải cách GD, nhờ tiếp thu những tài liệu lý
luận tương đối có hệ thống của Liên Xô, dựa vào quan điểm đổi mới dạy học văn được đúc kết qua
lý luận và thực tiễn, các nhà sư phạm, các chuyên gia có kinh nghiệm đã xây dựng quan điểm dạy
học tiên tiến với việc đề xuất những PPDH mới, trong đó DHNVĐ được xem là một trong bốn
PPDH văn cơ bản. Tuy nhiên, quá trình triển khai cải cách việc dạy học văn lại gặp những trở ngại,
do việc chỉ đạo có phần nóng vội, thiếu chuẩn bị chu đáo, trong khi tình hình đất nước và ngành GD
đứng trước yêu cầu bức xúc của công cuộc đổi mới đang diễn ra mạnh mẽ. Vì thế, những yêu cầu
đặt ra đối với việc cải cách dạy học văn chưa đạt kết quả mong muốn, chất lượng GD đào tạo, do
vậy, chưa vươn lên tương xứng với tầm phát triển chung của đất nước. Trong khi những PPDH mới
chưa có cơ sở định hình và vận dụng đồng bộ thì tình trạng dạy học văn ít nhiều quay lại con đường
mòn của cách thức dạy học cũ, thiên về nhồi nhét, đọc - chép vốn chịu ảnh hưởng của kiểu dạy học
ghi nhớ - tái hiện. Dạy học NVĐ vô hình trung bị lãng quên thậm chí có những ý kiến ngần ngại,
băn khoăn về hiệu quả của cách thức dạy học tiên tiến này.
Vào đầu thế kỉ XXI, trước xu thế phát triển của đất nước trong kỉ nguyên mới, trước yêu cầu
bức bách của xã hội về sự cấp thiết tạo bước chuyển biến mới của ngành GD, Quốc hội khóa X đã
ra Nghị quyết về đổi mới GD. Vì thế, vào năm 2003, nền GD lại bước vào một chu kì thay đổi với
hệ thống chương trình, SGK được biên soạn lại theo quan điểm mới. Môn văn được xác định tên gọi
Ngữ văn, gắn với sự thay đổi cơ bản về nội dung và PPDH. Dựa trên quan điểm của nguyên tắc tích
hợp và phát huy tính tích cực học tập của HS, nhiều PPDH mới chứa đựng yếu tố tích cực hiện đại
lần lượt được xác định trong đó dạy học NVĐ vẫn giữ vai trò quan trọng vốn có. Nhờ nguồn tài liệu
lý luận dạy học của thế giới được cập nhật phổ biến rộng cùng với sự tích lũy kinh nghiệm dạy học
sau những lần cải cách, chỉnh lý chương trình, SGK nên người dạy có điều kiện mở rộng tầm nhìn
để nắm bắt vận dụng PPDH mới có bài bản hơn.
Tuy nhiên, có một thực tế dễ thấy, trong quá trình thay đổi quan điểm dạy học văn - môn học
có tính chất đặc thù vốn dễ tạo ra những tranh luận về quan điểm dạy học - vẫn không tránh khỏi
hiện tượng có những ý kiến trái chiều, không đồng thuận với nhau. Điều đó cho thấy “bài toán khó
nhất là đổi mới PP, hiện đại hóa PP và đây cũng là vấn đề hiện đang còn nhiều ý kiến đối lập nhau
thậm chí có nhiều ngộ nhận” [19, tr.79]. Vì thế, đã từng xảy ra điều khó tránh khỏi, khi trên một số
diễn đàn trao đổi thảo luận về đổi mới PPDH văn, có những ý kiến hoài nghi tính hiệu quả của một
số PPDH đã sử dụng như đọc sáng tạo, NVĐ, thậm chí còn xếp NVĐ vào hệ PPDH truyền thống!?
Ngay trong quá trình vận dụng DHNVĐ, có hiện tượng từng xảy ra và đã tạo không ít trở ngại cho
người dạy đó là việc quan niệm khác nhau về tên gọi. Cho nên lâu nay có những cách sử dụng khái
niệm khác nhau. Có người xem NVĐ là một phương pháp dạy học [19], [42], có ý kiến cho đó là
“quan niệm, tư tưởng dạy học” [103], lại có sự xác định đây là “hệ phương pháp chuyên biệt” [87],
các nhà sư phạm Liên xô từ lâu thống nhất xem đây là một “phương hướng dạy học” [112], [116] và
gần đây trong tài liệu bồi dưỡng do Bộ GD - Đào tạo ấn hành năm 2008 lại dùng tên là “Phương
pháp phát hiện và giải quyết vấn đề” [19], còn các nhà sư phạm Trung Quốc lại gọi là một “phương
thức dạy học” [30]. Nguyên nhân chính của tình trạng này là khi xây dựng hệ PPDH, chúng ta chưa
có sự thống nhất để tìm ra cơ sở phân loại một cách đáng tin cậy. Tuy nhiên, đến nay, nhờ việc tiếp
cận thông tin lý luận khoa học có thuận lợi, khoa lý luận dạy học ở nhà trường nước ta dần dần được
hoàn thiện, nhờ đó, có thể đi tìm những lời giải đáp dựa trên căn cứ khoa học của việc phân định
những khái niệm như: quan điểm dạy học, phương thức dạy học, phương pháp dạy học, hình thức
và kĩ thuật dạy học. Bởi thế, có thể xác định rằng DHNVĐ không thể là một PPDH đơn nhất, nó là
quan điểm, phương hướng hay như quan niệm của các nhà sư phạm Trung Quốc được trình bày gần
đây là phương thức dạy học. Đó là cách thức tiến hành quá trình dạy học hướng tới phát huy năng
lực suy nghĩ tìm tòi kiến thức độc lập sáng tạo của HS.
2.2. Những công trình nghiên cứu cơ sở lý luận dạy học nêu vấn đề:
Tư tưởng DHNVĐ được hình thành và phát triển lần lượt tại nhà trường các nước tiên tiến
trong hơn 50 năm qua. Ở Việt Nam, trong thời gian qua, lần lượt có một số công trình của nước
ngoài được dịch và một số công trình được các nhà sư phạm nước ta biên soạn lần lượt xuất bản. Có
thể kể tới một số tài liệu quan trọng sau đây:
- V. Okon: Những cơ sở của dạy học nêu vấn đề
Là nhà sư phạm người Ba Lan có công sớm đưa ra khái niệm về DHNVĐ, Ôkôn quan niệm
“DHNVĐ là tập hợp những hoạt động như tổ chức các tình huống có vấn đề, phát biểu vấn đề, giúp
đỡ cần thiết cho HS trong việc giải quyết vấn đề, kiểm tra phép giải đó và cuối cùng điều khiển quá
trình hệ thống hóa, củng cố kiến thức tiếp thu được” [115, tr.68].
Tác giả phân định “vấn đề” được nảy sinh từ “tình huống có vấn đề”. Và theo đó, vấn đề luôn
gắn với hai yếu tố “cái đã biết” và “cái chưa biết” trong đó cái đã biết là điều kiện để đi đến cái cần
biết. Bằng việc xây dựng cơ sở lý luận và kiểm chứng qua thực nghiệm, công trình của Ôkôn, từ lâu
nay, được xem là viên đá đặt nền móng xây dựng tư tưởng DHNVĐ trong lý luận dạy học hiện đại.
- I.Ia Lecne: Dạy học nêu vấn đề
Là nhà sư phạm có đóng góp vào việc nghiên cứu lý luận dạy học thời Xô Viết, Lecne có
nhiều công trình nghiên cứu về PPDH. Trên cơ sở phân biệt các kiểu dạy học xuất hiện từ lâu nay,
Lecne chú ý tới vấn đề phát triển tư duy sáng tạo cho HS, xem đó là yêu cầu quan trọng của nhà
trường trong giai đoạn mới.Vì thế, ông đi sâu nghiên cứu cơ sở lý luận của quan niệm DHNVĐ.
Lecne cho rằng “DHNVĐ có nội dung là: trong quá trình HS giải quyết một cách sáng tạo các vấn
đề và bài toán có vấn đề trong một hệ thống nhất định thì diễn ra sự lĩnh hội sáng tạo các tri thức và
kĩ năng, sự nắm kinh nghiệm hoạt động sáng tạo mà xã hội tích lũy được, sự hình thành nhân cách
có tính tích cực công dân, có trình độ phát triển cao và có ý thức tự giác của xã hội xã hội chủ
nghĩa” [112, tr.81]
Trên cơ sở phân tích mối quan hệ nội tại của DHNVĐ, tác giả đi sâu giải thích các yếu tố tạo
nên tư tưởng dạy học này, đó là “vấn đề”, “tình huống có vấn đề”, đặc biệt chú ý “bài toán có vấn
đề”. Đồng thời Lecne cũng xác định các dạng của DHNVĐ.
- A. M. Machiuskin: Các tình huống có vấn đề trong tư duy và trong dạy học
Là nhà sư phạm Liên Xô từng có một số công trình được dịch ở Việt Nam. Qua tài liệu này,
Maschiuskin nhấn mạnh vai trò của DHNVĐ, xem “tính NVĐ trong dạy học phải được hiểu trước
hết là một giai đoạn cần thiết trong quá trình hình thành hành động, trong quá trình lĩnh hội tri thức”
[111. tr.120]. Từ căn cứ này, tác giả tập trung tìm hiểu yếu tố then chốt của DHNVĐ là tình huống
có vấn đề và đi sâu lý giải mối quan hệ từ góc độ tâm lý và tư duy khi tiến hành cách thức dạy học
có tính sáng tạo.
- Nguyễn Ngọc Quang: Lý luận dạy học đại cương (tập 2)
Từ những kinh nghiệm dạy học tích lũy được, Nguyễn Ngọc Quang là người sớm quan tâm
nghiên cứu lĩnh vực Lý luận dạy học theo quan điểm hiện đại. Công trình Lý luận dạy học (2 tập) do
ông biên soạn là một tài liệu có đóng góp đáng kể vào việc xây dựng cơ sở lý luận khoa học cho
ngành PPDH ở nhà trường nước ta.
Trên cơ sở tiếp cận quan điểm GD tích cực, tác giả đã đề ra hệ PPDH đa dạng hướng tới xu
hướng dạy học phát triển. Do đó, tài liệu tập trung trình bày khá đầy đủ nội dung và hình thức của
DHNVĐ. Cùng quan điểm với các nhà sư phạm Liên Xô, Nguyễn Ngọc Quang đề cao vai trò của
dạy học sáng tạo nên ông gọi tên của PPDH này là “NVĐ - ơrixtic”. Theo đó, đặc trưng cơ bản của
hoạt động dạy là “NVĐ nhận thức” và của hoạt động học là “ơrixtic - tức tìm tòi” (còn gọi là dạy
học giải bài toán). Điều đáng chú ý, tác giả xem NVĐ là “một phân hệ PPDH chuyên biệt hóa, tức
là một tập hợp nhiều PPDH liên kết với nhau chặt chẽ và tương tác với nhau, trong đó PP dựng bài
toán ơrixtic giữ vai trò trung tâm chủ đạo, gắn bó với các PPDH khác tập hợp lại thành một hệ
thống toàn vẹn” [86, tr.121]
- Thái Duy Tuyên: Phương pháp dạy học truyền thống và hiện đại
Đây là công trình nghiên cứu, hệ thống hóa lý luận dạy học nhằm xác định sự khác nhau giữa
PPDH truyền thống và hiện đại. Theo quan điểm đổi mới PPDH theo xu thế chung trên thế giới, tác
giả đã giới thiệu hệ PPDH hiện đại, trong đó DHNVĐ là một khâu quan trọng. Dựa trên yêu cầu của
cuộc cách mạng trong khoa sư phạm, tác giả nêu những ưu thế của DHNVĐ trong quá trình GD đào
tạo của nhà trường với những nội dung cụ thể và xem DH NVĐ là một “quan niệm tư tưởng dạy
học”. Những vấn đề nghiên cứu về PPDH của tác giả đã cập nhật được thành tựu của Lý luận dạy
học trong thời gian qua.
2.3. Những công trình nghiên cứu dạy học nêu vần đề vận dụng vào dạy học môn văn
- Z. Ia Rez (chủ biên): Phương pháp luận dạy văn học
Đây là cuốn giáo trình của các nhà sư phạm Liên xô về PP dạy học văn được viết vào giữa
thập niên 70 của thế kỉ XX. Nên có thể xem là một công trình tương đối mới được dịch và giới thiệu
trong nhà trường nước ta. Vì thế, có thể thấy những quan điểm đổi mới dạy học văn trong lần cải
cách vào năm 1986 được tham khảo vận dụng từ công trình này.
Trong một phần của nội dung giáo trình, các tác giả đã trình bày chuyên đề “DHNVĐ và sự
phát triển năng lực văn học của HS”. Từ quan niệm: “DHNVĐ là một trong những phương hướng
để chiếm lĩnh các tri thức phức tạp của tài liệu học tập. Nó rèn luyện khả năng tư duy khái quát, tạo
điều kiện thuận tiện cho sự phát triển PP hệ thống đối với các hiện tượng, một PP đặc trưng cho
khoa học hiện đại. Và đó cũng chính là một trong những nguyên nhân làm cho nhà trường hiện đại
quan tâm đến DHNVĐ” [116, tr.100]. Vận dụng tư tưởng NVĐ vào dạy học văn, các tác giả quan
tâm tới tình huống có vấn đề với sự liên kết nhau và phức tạp dần lên đã tạo điều kiện cho việc GV
hướng dẫn HS chủ động nắm kiến thức. Từ đó khẳng định “Phân tích NVĐ” cùng “Hệ thống câu
hỏi NVĐ” là những cơ sở quan trọng để GV cùng HS tiến hành giờ học TPVC theo quan điểm tích
cực, sáng tạo.
- Phan Trọng Luận (chủ biên): Phương pháp dạy học văn
Đây là giáo trình PPDH dành cho sinh viên khoa Ngữ văn trường Đại học sư phạm. Trong
kết cấu của giáo trình ở phần hai, chương V, khi trình bày PPDH TPVC trong nhà trường, các tác
giả có đề cập tới hệ PP dạy học TPVC, trong đó có nói tới “Phân tích NVĐ”. Khái niệm “Phân tích
NVĐ” được diễn giải với hàm ý nêu bật vai trò của quan điểm dạy học tích cực sáng tạo đối lập với
kiểu dạy học thông tin - tiếp thụ và tái hiện. Tuy không đi sâu trình bày những kiến thức lý thuyết
của DHNVĐ, nhưng ở một chừng mức nhất định, các tác giả cũng làm nổi bật ưu thế của phương
hướng dạy học này trong giờ văn. Giáo trình nêu bật ý nghĩa của tình huống có vấn đề trong giờ học
TP và từ đây hướng tới khâu then chốt của hoạt động phân tích TP là việc xây dựng câu hỏi NVĐ.
Quanh hình thức đặt câu hỏi, giáo trình cũng nêu những yêu cầu tính chất cần thiết của dạng câu hỏi
này.
- Trương Dĩnh: Câu hỏi trong giảng văn
Là một chuyên luận với nội dung có tính ứng dụng DHNVĐ vào việc phân tích TPVC. Bởi
thế, việc đề cập tới những khái niệm cơ bản của DHNVĐ như “vấn đề” “tình huống có vấn đề”
không nặng về lý thuyết; Tác giả hướng chú ý vào việc giải quyết những yêu cầu đặt ra của NVĐ
trong giờ giảng văn là việc xác định, lựa chọn tình huống có vấn đề, từ đó và gắn nó với hoạt động
của thầy và trò trong giờ văn là “câu hỏi NVĐ”. Những nội dung trình bày qua chuyên luận bước
đầu đã góp phần giải đáp những yêu cầu đặt ra đối với việc vận dung DHNVĐ vào giờ văn trong
trường phổ thông.
- Vũ Nho: Vận dụng dạy học nêu vấn đề trong giảng văn
Là tài liệu biên soạn phục vụ cho việc bồi dưỡng đội ngũ GV văn ở trường THCS. Cũng như
những công trình nghiên cứu về PPDH nói chung, tài liệu đã nêu những căn cứ khoa học của dạy
học nêu vần đề, từ đó khẳng định tác dụng của DHNVĐ đối với việc đổi mới cách thức dạy học
TPVC. Bằng sự kết hợp giữa hiểu biết lý luận dạy học với kinh nghiệm dạy học, tác giả đã vận dụng
DHNVĐ vào một số TPVC được dạy học ở trường THCS.
- Sử Khiết Doanh - Lưu Tiểu Hòa: Kĩ năng giảng giải - kĩ năng nêu vấn đề
Là cuốn sách nằm trong bộ tài liệu gồm 6 cuốn do Trung tâm thực nghiệm giáo dục Quốc gia
và Học viện giáo dục Hắc Long Giang (Trung Quốc) biên soạn nhằm đáp ứng cho nhu cầu bồi
dưỡng kĩ năng dạy học môn Ngữ văn THCS và THPT cho đội ngũ GV. Bởi vậy, đây là một tài liệu
có tính lý luận và nghiệp vụ cao. Cuốn sách dành trình bày về “Kĩ năng giảng giải - Kĩ năng NVĐ”
hướng theo mục đích là “trình bày kỹ lưỡng về cơ sở lý thuyết kèm theo các bài giảng minh họa”.
Do vậy, có thể thấy hai nội dung:
+ Phần lý thuyết: Phương thức DHNVĐ thông qua những nội dung cơ bản cụ thể (bản chất, ý
nghĩa, chức năng, nguyên tắc…) được xác định khá rạch ròi, hệ thống.
+ Phần vận dụng minh họa (dạy mẫu) có sự chuẩn bị chu đáo và sự hướng dẫn công phu với
việc đã trình bày khá rạch ròi về “thiết kế và loại hình của NVĐ” nhờ đó làm nổi bật yêu cầu và
mục đích dạy học đề ra. Vì thế, công trình có tính thực hành và ứng dụng thiết thực.
Chúng tôi nhận thấy đây là một tài liệu tham khảo có giá trị, do vậy, đã vận dụng vào công
việc dạy học cũng như rút tỉa những quan điểm lý thuyết và ứng dụng đáng tin cậy giúp xây dựng
nội dung của luận văn…
- Các luận án tiến sĩ, thạc sĩ giáo dục:
Những năm gần đây, có khá nhiều công trình nghiên cứu cách ứng dụng phương pháp dạy
học NVĐ vào những giờ dạy học tác phẩm văn chương. Chẳng hạn:
+ Nguyễn Thị Ngân (2001), Câu hỏi nêu vấn đề trong giảng văn ở trường THPT. Luận văn
này đã đặt vấn đề tìm hiểu bản chất của câu hỏi NVĐ là dựa trên cơ sở tư duy sáng tạo. Đồng thời,
tác giả đã hệ thống hóa được các dạng câu hỏi NVĐ trong việc dạy học tác phẩm theo loại thể. Tuy
nhiên, luận văn chưa thể hiện được việc vận dụng dạy học NVĐ trong sự liên kết với các PP dạy
học khác như thế nào.
+ Đặng Thị Trinh (2007), Vận dụng phương pháp nêu vấn đề vào dạy học một số bài thơ trữ
tình ở lớp 11 trường THPT. Luận văn đi vào bản chất dạy học NVĐ. Tác giả đã xây dựng được cơ
sở lí luận của dạy học NVĐ và xem đây là phương pháp dạy học hiện đại góp phần phát huy sự tìm
tòi, sáng tạo - ơrixtic ở HS. Đặng Thị Trinh vận dụng NVĐ vào việc dạy học một loại thể trữ tình.
Tuy nhiên, cách vận dụng còn thiếu sự kết nối thành hệ thống câu hỏi liên kết nhau trong giờ học
tác phẩm văn chương. Cách làm này có tạo hứng thú và khả năng tư duy cho HS nhưng chưa làm
sáng tỏ những vấn đề nguyên tắc và tính chất của dạy học NVĐ.
+ Khổng Thị Mai (2009), Xây dựng và giải quyết tình huống có vấn đề trong giờ đọc-hiểu
văn bản cho HS THP. Luận văn đã tập trung vào xây dựng tình huống có vấn đề. Tác giả đã đưa ra
nhiều loại tình huống có vấn đề dưới dạng những câu hỏi để kích thích tư duy của HS, phần tổ chức
cho HS giải quyết vấn đề còn mờ nhạt.
Trên cơ sở kế thừa những kinh nghiệm của các nhà sư phạm đi trước và tiếp cận những thông
tin mới về lí luận dạy học, trong luận văn này, chúng tôi hướng tới việc vận dụng phương thức NVĐ
một cách linh hoạt hơn (thực hiện ở nhiều khâu trong tiến trình dạy học, ở nhiều mức độ khác
nhau), rõ ràng và đầy đủ hơn (với hai hoạt động tương tác: NVĐ của GV và giải quyết vấn đề của
HS).
Tóm lại, cho tới nay, có thể thấy những công trình nghiên cứu về DHNVĐ xuất hiện ngày
càng nhiều và từng bước đã góp phần xác định cơ sở lí luận và thực tiễn để hoàn thiện PP dạy học
theo hướng tích cực, hiện đại, giúp người GV Ngữ văn có cơ sở lý thuyết và thực hành để thực thi
việc đổi mới dạy học văn.
3. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu về vấn đề “Vận dụng phương thức nêu vấn đề vào việc dạy học tác phẩm
“Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu ở trường THPT”
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Luận văn tập trung nghiên cứu phương thức NVĐ dựa trên hai quá trình phát hiện và giải
quyết vấn đề, cũng như khả năng vận dụng nó trong giờ dạy học TPVC để giúp HS phát huy tính
tích cực chủ động trong việc tiếp nhận TP Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu.
- Tiến hành ở khối lớp 12 của trường THPT Lê Quí Đôn, THPT Tân An và THPT Hùng
Vương trên địa bàn tỉnh Long An.
4. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Từ những kiến thức về phương pháp dạy học và các kết quả nghiên cứu đã được công bố,
luận văn hướng vào việc tìm hiểu cách vận dụng và đề xuất những vấn đề có liên quan đến phương
thức NVĐ. Quá trình NVĐ gồm hai khâu: phát hiện và giải quyết vấn đề, dựa trên mối quan hệ
tương tác GV - HS. Từ đó, giúp HS bộc lộ vai trò chủ thể cảm thụ sáng tạo trong các giờ học TPVC,
góp phần nâng cao chất lượng dạy học văn hiện nay.
5. PP NGHIÊN CỨU
Để giải quyết các vấn đề đặt ra trong luận văn, trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi đã sử
dụng kết hợp các PP nghiên cứu sau đây:
5.1. PP phân tích tổng hợp
PP này được sử dụng trong việc nghiên cứu, xử lí các tài liệu, các ý kiến của các nhà nhà
lãnh đạo trong lĩnh vực GD, các nhà nghiên cứu, phê bình, các loại sách báo liên quan đến đề tài. Từ
chỗ đọc, phân tích, rồi tổng hợp để đi đến xác lập những vấn đề lý thuyết liên quan đến đề tài.
5.2. PP quan sát điều tra
PP này được sử dụng khi thu thập thông tin, nắm bắt thực tế nhằm đánh giá về PP học tập,
khả năng tiếp nhận TPVC của HS trong quá trình tiếp cận TP. Từ đó, xác lập những thông số về
thực tiễn dạy học ở phổ thông và năng lực của HS, đặc biệt là việc tạo các tình huống trong giờ lên
lớp của GV và HS ở một số trường THPT trên địa bàn tỉnh Long An.
5.3. PP thực nghiệm sư phạm
Đây là PP được thực hiện trong suốt quá trình nghiên cứu đề tài: thiết kế các tình huống học
tập, thiết kế giáo án, tổ chức dạy học thực nghiệm. PP này giúp cho việc kiểm tra đánh giá tính đúng
đắn, hợp lý, tính khả thi của việc phát hiện và giải quyết các vấn đề cho HS THPT trong các giờ học
TPVC.
5.4. PP thống kê
Sử dụng PP này để thống kê kết quả khảo sát và kết quả thực nghiệm.
5.5. PP so sánh - đối chiếu
PP này được dùng trong việc so sánh giữa các bài viết, bài nghiên cứu về cách hướng dẫn HS
tiếp cận TP Chiếc thuyền ngoài xa; so sánh các tiết dạy của các GV khác nhau về cùng TP ấy. Từ đó
rút ra cái được và cái chưa được trong quá trình giảng dạy TP bằng PP này.
6. ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN VĂN
Từ những nhiệm vụ đã đề xuất trên, đề tài của chúng tôi mang tính chất học tập và thử
nghiệm là chủ yếu. Từ đó, chúng tôi muốn góp phần vào việc nâng cao chất lượng hiệu quả dạy học
văn ở trường THPT. Cụ thể:
6.1. Về lí luận
- Xác định quan điểm dạy học TPVC theo định hướng tích cực.
- Hệ thống hóa lí luận dạy học bằng phương thức NVĐ trong giờ dạy học TPVC.
- Xây dựng quy trình dạy học bằng phương thức NVĐ.
6.2. Về thực tiễn
- Thiết kế giáo án thực nghiệm có tạo một số cách thức NVĐ và hướng dẫn thực hiện giải
quyết vấn đề trong giờ dạy học TP Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu.
- Thực nghiệm sư phạm ở trường THPT, minh họa được tính khả thi và tính hiệu quả của dạy
học bằng phương thức NVĐ trong giờ đọc-hiểu văn bản văn học.
7. CẤU TRÚC LUẬN VĂN
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn được cấu
trúc thành 3 chương:
Chương 1: Phương thức NVĐ trong dạy học TPVC ở trường THPT.
Chương 2: Vận dụng phương thức NVĐ vào việc dạy học TP Chiếc thuyền ngoài xa của
Nguyễn Minh Châu.
Chương 3: Thực nghiệm sư phạm.
NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
CHƯƠNG I
PHƯƠNG THỨC NÊU VẤN ĐỀ TRONG DẠY HỌC
TÁC PHẨM VĂN CHƯƠNG Ở THPT
1.1. Cơ sở lí luận khoa học của phương thức dạy học nêu vấn đề
1.1.1. Bản chất của dạy học nêu vấn đề
Từ những quan niệm đã dẫn ở phần “lịch sử vấn đề”, có thể nêu một khái niệm chung:
“DHNVĐ là một phương thức dạy học, (chúng tôi nhấn mạnh - LTL), trong đó GV nêu lên nghi
vấn để hướng sự suy nghĩ tích cực, có định hướng của HS nhằm tạo nên tình huống có vấn đề. NVĐ
có tác dụng nêu thắc mắc, gợi suy nghĩ; tập trung chú ý; đánh giá phản hồi và tổ chức học tập” [30,
tr.91].
Có thể thấy quan điểm dạy học đó được thể hiện gần như thống nhất trong các tài liệu đã xuất
bản khi đề cập tới nội dung của DHNVĐ. Vì thế, DHNVĐ chứa đựng trong nó bản chất tích cực
tiến bộ của tư tưởng dạy học mới. Đó là làm sao tìm cách thức thích hợp nhằm giúp HS nắm tri thức
một cách chủ động, sáng tạo dựa vào hoạt động của chính bản thân với nỗ lực tìm tòi nghiên cứu
cùng sự trợ giúp, hướng dẫn của GV. DHNVĐ, vì thế xuất hiện hai yêu cầu cơ bản không tách rời
của quá trình dạy học:
- NVĐ nghiên cứu, tức đặt nhiệm vụ học tập cho HS trong giờ học. Vấn đề nêu ra phải có
sức cuốn hút, mới mẻ và phù hợp với trình độ kiến thức của HS.
- Tìm cách thức để hướng dẫn tổ chức cho HS tham gia vào việc nắm bắt giải quyết yêu cầu
của vấn đề đặt ra.
Dĩ nhiên, để tiến hành thực hiện hai bước nói đó, GV và HS phải biết hợp tác và nỗ lực phát
huy tư duy nội tại của bản thân để hoàn thành nhiệm vụ học tập được đề ra. Từ đó, có thể thấy, dù
cách gọi tên dạy học NVĐ có sự khác nhau nhưng nội dung của kiểu dạy học này được hiểu khá
nhất quán. Đồng thời, việc dùng khái niệm “phương thức” khá sát hợp vì thực chất đây là một kiểu
dạy học, một phương hướng dạy học.
1.1.2. Một số nội dung cơ bản của phương thức dạy học nêu vấn đề
1.1.2.1. Vấn đề là gì?
Ở góc độ duy vật biện chứng, tư duy gắn với quá trình nhận thức. Nhờ hoạt động của hệ thần
kinh cao cấp, con người có khả năng nhận biết và khám phá thế giới hiện thực khách quan và do vậy
không ngừng tích lũy kho kiến thức phong phú cho mình. Vậy làm sao để có hiểu biết? Đó là khi
con người biết tìm ra những mâu thuẫn, tức là biết tìm ra những điều nghi vấn luôn xảy ra quanh
mình. Xét về phương diện tâm lí nhận thức “tư duy thường bắt đầu bằng một vấn đề hay một câu
hỏi từ sự ngạc nhiên hay sự thắc mắc từ sự mâu thuẫn. Tình huống có vấn đề như thế có tác dụng lôi
cuốn cá nhân vào quá trình tư duy.” (X.L. Rubistein) [122, tr.25]. Bởi thế, nói một cách đơn giản, tư
duy nảy sinh khi có vấn đề tức là một nghi vấn và “tình huống có vấn đề là điểm khởi đầu cho tư
duy”.
1.1.2.2. Thế nào là “Tình huống có vấn đề”?
Dễ thấy, đây là một khái niệm được đề cập tới trong lí luận dạy học hiện đại, là điểm khởi
đầu cho DHNVĐ. “Tình huống có vấn đề là một khó khăn được chủ thể ý thức rõ ràng hay mơ hồ
mà muốn khắc phục thì phải tìm tòi những tri thức mới, những phương hướng hành động mới” [122,
tr.25]. Trong DHNVĐ lâu nay, chúng ta thường nhắc tới quan điểm khá đầy đủ, chính xác của
Macmutov về tình huống có vấn đề - đó là trở ngại về trí tuệ của con người, xuất hiện khi anh ta
chưa biết cách giải thích hiện tượng sự kiện, quá trình của thực tế, khi chưa thể đạt đến mục đích
bằng cách thức hành động quen thuộc. Tình huống này kích thích con người tìm tòi cách giải thích
hay hành động mới. Tình huống có vấn đề là quy luật của hoạt động nhận thức sáng tạo có hiệu quả.
Nó quy định sự khởi đầu của tư duy, hành động tư duy tích cực sẽ diễn ra trong quá trình nêu và giải
quyết vấn đề” [86, tr.123].
Như chúng ta biết, hoạt động học tập cũng là một dạng nghiên cứu khoa học. Vì thế, xét ở
góc độ tâm lý sư phạm và GD, DHNVĐ nhấn mạnh tới sự khác biệt giữa hai kiểu tư duy thường
gặp: tư duy tái tạo và tư duy sáng tạo. Do tính chất mục tiêu của GD thay đổi, nhà trường hiện đại
đòi hỏi “HS trong quá trình sáng tạo, tạo ra cái mới không phải chủ yếu đối với xã hội mà là đối
với chủ quan mình, nhưng cái mới ấy đồng thời cũng có ý nghĩa xã hội bởi vì khi đó cá nhân được
hình thành và biểu lộ. Mặc dù ở đây không có điều gì mới mẻ đối với xã hội, song sở dĩ sự sáng tạo
của HS có thể có ý nghĩa xã hội là vì quá trình hoạt động sáng tạo của HS giống và có khi trùng với
quá trình hoạt động sáng tạo của nhà bác học, nhà phát minh, tóm lại của một người trưởng thành
về mặt sáng tạo… sáng tạo của một đứa trẻ và của một nhà bác học ._.giống hệt nhau về sự nỗ lực, về
khó khăn và về quy trình” [112, tr.16-17].
Chính vì thế, các nhà lý luận sư phạm thống nhất rằng quá trình tư duy được thực hiện trong
tình huống có vấn đề là khâu then chốt, là yếu tố trung tâm để hình thành tư duy. Nếu không tìm ra
tình huống có vấn đề thì làm sao có thể gợi ra sự chú ý và kích thích khả năng tư duy sáng tạo của
HS, cũng từ tình huống nói đó mà HS bị lôi cuốn vào quá trình hình thành và tích lũy kiến thức.
Như Lecne quan niệm: “vấn đề là một tình huống có vấn đề mà chủ thể tiếp nhận để giải quyết dựa
trên các phương tiện (tri thức, kĩ năng, kinh nghiệm tìm tòi) sẵn có của mình. Cho nên mọi vấn đề
đều chứa đựng tình huống có vấn đề, nhưng không phải bất kì tình huống có vấn đề nào cũng đều
là vấn đề cả” [112, tr.27].
Trong công trình xuất bản gần đây, các nhà sư phạm Trung Quốc đã đi sâu phân tích, làm rõ
thêm khái niệm này. Theo đó, “Thành phần cơ bản của tình huống có vấn đề gồm: một là những thứ
mới, chưa được biết, phản ánh đối tượng của tư duy, đó là nội dung; hai là nhu cầu đối với cái chưa
biết, phản ánh động cơ của tư duy; ba là khả năng của HS, bao gồm khả năng sáng tạo và mặt bằng
tri thức của HS. Các thành phần này của tình huống có vấn đề thể hiện điều kiện nội tại của tư duy”
[30, tr.92]. Trên cơ sở quan niệm nói đó, chúng ta có thể nhận ra mối quan hệ biện chứng của cấu
trúc nội tại của tư duy trong quá trình nhận thức học tập. Trong đó, vai trò then chốt quan trọng
chính là “những thứ mới chưa được biết”, nhờ vai trò của nó “mới có thể hình thành tình huống có
vấn đề; đồng thời chỉ có sự trợ giúp của tình huống có vấn đề mới có thể tạo được điều kiện nội tại
cho tư duy HS một cách có hiệu quả nhất, thúc đẩy tính tích cực trong tư duy của HS”. Chính vì thế
“những thứ mới chưa biết là hạt nhân của bối cảnh vấn đề. Do đó, mấu chốt của việc tạo lập bối
cảnh vấn đề chính là đưa ra “những thứ mới, chưa được biết” [30, tr.92].
1.1.2.3. Bài toán có vấn đề
Khi xem xét “tình huống có vấn đề”, lý luận dạy học cũng thường nêu khái niệm đi kèm là
“bài toán có vấn đề” (Nguyễn Ngọc Quang gọi là “bài toán NVĐ - Ơrixtíc”). Bài toán là một thuật
ngữ quen thuộc trong trường học, thể hiện phổ biến ở các môn thuộc khoa học tự nhiên, là dạng bài
tập đòi hỏi hoạt động nhận thức của người học phải có tính nỗ lực, tìm tòi vận dụng kiến thức một
cách tích cực sáng tạo. Vậy bài toán là gì? “Bài toán chỉ có thể là “bài toán” khi nó trở thành đối
tượng hoạt động của một chủ thể, khi có một người nào đó có nhu cầu chọn nó làm đối tượng hoạt
động, mong muốn giải bài toán đó tức là khi có một “người giải” [86, tr.104]. Vì thế, bài toán và
người giải tạo thành một thể thống nhất, liên hệ chặt chẽ và tương tác với nhau bao gồm: Bài toán -
đối tượng và người giải - chủ thể. Lecne là người từng nêu quan niệm: “Bài toán có vấn đề là một
vấn đề được giải quyết với những điều kiện hay thông số cho trước. Bài toán có vấn đề khác với vấn
đề ở chỗ, trong bài toán có vấn đề nội dung tìm kiếm lời giải được giới hạn rõ ràng”. “Nó là mô
hình bằng kí hiệu của tình huống có vấn đề” (A.M Maschiuskin. L.M. Fritman). Một bài toán có vấn
đề đều chứa đựng vấn đề và do đó đều chứa đựng tình huống có vấn đề, nhưng không phải bất cứ
tình huống có vấn đề nào và bất kì vấn đề nào đều là bài toán cả. Các tình huống có vấn đề và các
vấn đề phải được biến đổi đi và được phát biểu như thế nào đấy thì mới có tính chất và hình thức
của một bài toán”. Từ luận điểm nói đó, chúng ta hiểu rằng để có “bài toán” người dạy phải biết
cách tổ chức xây dựng tạo ra những giả thiết, những dữ kiện và nêu yêu cầu giải pháp để người học
đi tìm lời giải. Bởi “Bản thân sự tồn tại của bài toán ơrixtic - theo GS. Nguyễn Ngọc Quang - chưa
làm cho nó trở thành đối tượng của hoạt động nhận thức của HS trong bài học lên lớp. Nó chỉ trở
thành đối tượng của hoạt động này chừng nào làm xuất hiện trong ý thức của HS một mâu thuẫn
nhận thức tự giác, một nhu cầu bên trong muốn giải quyết mâu thuẫn đó (tức bài toán). Và cũng
chính từ momen đó, khi HS chấp nhận mâu thuẫn của bài toán (cái khách quan) thành mâu thuẫn và
nhu cầu bên trong của bản thân mình (cái chủ quan) thì anh ta biến thành chủ thể của hoạt động
nhận thức… Từ lúc đó xuất hiện hệ hoạt động nhận thức gồm hai thành tố: chủ thể - HS và đối
tượng - bài toán ơrixtic. Hai thành tố này tương tác với nhau, thâm nhập vào nhau, tồn tại vì nhau và
sinh thành ra nhau trong một hệ thống trọn vẹn: sự nhận thức học tập” [86, tr.124]. Tác giả khẳng
định “đây là momen quyết định đối với DHNVĐ - ơrixtic. Sự chuyển hoá cái khách quan bên ngoài
thành cái mâu thuẫn - nhu cầu chủ quan bên trong của HS chỉ xảy ra khi nào nhà sư phạm biết kiến
tạo một cách đúng đắn bài toán nhận thức. Và chỉ từ lúc đó HS mới bắt đầu học!” [86, tr.125].
Đối với các môn học Ngữ văn cũng vậy, con đường tìm tòi phát hiện của người học cũng
chính là quá trình của sự nỗ lực tìm tòi, phát hiện kiến thức bằng việc đưa ra các lời giải của bài
toán nhận thức một cách thích hợp, sáng tạo, tức là biết cách nắm và xử lý trúng các tình huống có
vấn đề. Chính vì thế khi nói tới tình huống có vấn đề, các nhà tâm lý và sư phạm đều thống nhất
rằng “Nếu không giải quyết các vấn đề và các bài toán thì không tài nào nắm được kinh nghiệm
hoạt động sáng tạo” [112, tr.32]. Bởi “tư duy là công cụ và quá trình nhận thức, sản sinh do nhu cầu
phải khắc phục khó khăn về mặt nhận thức trong bất kỳ dạng hoạt động nào” [112, tr.24]. DHNVĐ
chính là phương thức dạy học dẫn tới hiệu quả của quá trình đào tạo, đó là việc chuẩn bị cho thế hệ
trẻ tham gia lao động sáng tạo trong tất cả mọi lĩnh vực hoạt động cho tương lai. Đặc biệt, trong bối
cảnh của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật hiện nay với đà tăng tiến mạnh mẽ và sự thâm nhập
ngày càng sâu của thành tựu khoa học kỹ thuật vào các môn học ở nhà trường thì “Trong dạy học,
rất nên vận dụng các biện pháp và cách thức của thuật toán hóa, của dạy học chương trình hóa; đúng
là, nhằm mục đích phát triển tư duy hiện đại, cần tăng cường vai trò của quá trình đi từ trừu tượng
đến cụ thể, từ cái chung đến cái riêng; đúng là, việc cung cấp cho HS những cơ sở có tính chất định
hướng hành động, trong những điều kiện nhất định nào đó, là con đường hợp lý và tiết kiệm trong
dạy học… Không một trường phái nào có thể xây dựng được một quá trình dạy học hiện đại thật
hoàn chỉnh nếu không lưu ý vận dụng tư tưởng DHNVĐ”
1.1.2.4. Cấu trúc của dạy học nêu vấn đề
Căn cứ vào nội dung đã trình bày, có thể nhận ra dấu hiệu của “vấn đề” là:
- Xuất hiện tình huống có vấn đề.
- Chủ thể đã được chuẩn bị ở chừng mực nào đó để tìm lời giải.
- Được nêu dưới dạng câu hỏi (là “câu hỏi NVĐ”).
- Có thể tìm hiểu nhiều lời giải, và không có đáp số cho trước.
“Bài toán có vấn đề” là một vấn đề trong đó phạm vi tìm kiếm lời giải được giới hạn rõ ràng.
1.1.2.5. Đặc trưng cơ bản của dạy học nêu vấn đề
Từ việc tìm hiểu nội dung và cấu trúc của phương thức dạy học chứa đựng tính tích cực sáng
tạo như vừa nêu trên, có thể khái quát những đặc trưng cơ bản của DHNVĐ như sau:
- GV đặt ra trước cho HS một loạt những bài toán nhận thức có chứa đựng mâu thuẫn giữa
cái đã biết và cái phải tìm nhưng chúng được cấu trúc lại một cách sư phạm, gọi là bài toán NVĐ -
ơrixtic.
- HS tiếp nhận mâu thuẫn của bài toán - ơrixtic như mâu thuẫn của nội tâm mình và được đặt
vào tình huống có vấn đề tức là trạng thái có nhu cầu bên trong bức thiết muốn giải quyết bằng được
bài toán đó.
- Trong và bằng cách tổ chức giải bài toán ơrixtic mà HS lĩnh hội một cách tích cực, tự giác
cả kiến thức lẫn cách thức giải, do đó, có được niềm vui sướng của sự nhận thức sáng tạo.
Chính từ những đặc trưng nổi bật nói đó nên các nhà sư phạm Trung Quốc từng nhấn
mạnh rằng: “NVĐ là phương thức quan trọng, theo đó GV gợi ra các vấn đề, đưa ra những thứ mới
mẻ, chưa được biết, thúc đẩy nhu cầu (hiểu biết) đối với những thứ mới của HS, từ đó tạo lập nên
tình huống có vấn đề” [30, tr.93]. Từ đó họ khuyến khích GV Ngữ văn các cấp phải nắm vững kiến
thức và kỹ năng của DHNVĐ, biết vận dụng một cách thành thục nhằm nâng cao năng lực và kinh
nghiệm sư phạm của người thầy trong bối cảnh đổi thay mạnh mẽ của lĩnh vực PPDH trong nhà
trường hiện nay.
1.1.2.6. Chức năng của dạy học nêu vấn đề
Là một phương thức dạy học có vai trò tích cực trong việc đảm nhận trách nhiệm của nhà
trường là góp phần đào tạo thế hệ trẻ thành những người biết nắm vốn kiến thức phong phú của các
ngành khoa học bằng sự nỗ lực tư duy, nghiên cứu của bản thân, DHNVĐ góp phần hình thành và
phát triển PP học tập mới mẽ và có khả năng thâm nhập vào các môn học để tạo ra bước chuyển
biến của quá trình đào tạo theo quan điểm GD tích cực. Chính vì thế, DHNVĐ có vị trí và vai trò
đặc biệt trong quá trình đào tào của nhà trường hiện đại, thể hiện tác dụng hiệu quả của một PPDH
mới. Trong quá trình nghiên cứu vận dụng DHNVĐ, các nhà tâm lý GD và sư phạm đã nhấn mạnh
tới chức năng của kiểu dạy học chuyên biệt này. Cho nên dù cách trình bày, diễn đạt nội dung có
khác nhau, nhưng nói chung các quan niệm đều có sự liên hệ gần gũi và đều chú ý nêu bật những
tác dụng quan trọng của DHNVĐ.
- Theo Lecne, DHNVĐ có ba chức năng sau đây:
+ Chuẩn bị cho HS tham gia lao động sáng tạo, biểu lộ tiềm lực sáng tạo trong mọi lĩnh vực
hoạt động mai sau: Hoạt động sáng tạo bao giờ cũng nhằm tới một đối tượng nào đó, trong dạy học
đó chính là những tri thức và kỹ năng mà HS cần nắm bắt và tích lũy để tìm tòi hay vận dụng một
cách sáng tạo. “Trong mọi trường hợp lĩnh hội sáng tạo, bao giờ các tri thức kỹ năng cũng mềm dẽo,
cũng thực tế, chứ không như các tri thức tiếp thu ở dạng “có sẵn” [112, tr.36].
+ Đảm bảo cho HS lĩnh hội một cách sáng tạo các tri thức vào phương thức hoạt động.
+ Đảm bảo cho HS nắm được một cách sáng tạo các PP của khoa học hiện đại ở trình độ vừa
sức và cần thiết. DHNVĐ bao gồm quá trình giải quyết các vấn đề khoa học hay các vấn đề thực
hành trên cơ sở khoa học, mà muốn làm điều đó không thể nào không vận dụng đến các PP hiện đại.
Lecne còn giải thích rõ: “Có thể thắc mắc rằng, tách bạch ba chức năng như vậy có hợp lý
không, bởi vì khi nêu chức năng thứ nhất thì trong đó cũng đã ngụ ý hai chức năng kia. Song sở dĩ
cần rành mạch cả hai chức năng kia nữa là vì hai chức năng đó sẽ dẫn đến những vấn đề mới mà
chức năng thứ nhất thì không nảy ra” [112, tr.37].
- Các nhà sư phạm Trung Quốc lại có cách khái quát các khái niệm tương đối gọn rõ và sát
hợp, theo đó, DHNVĐ có các chức năng cụ thể như sau:
+ Kích thích thắc mắc, gợi suy nghĩ: Kích thích thắc mắc và gợi suy nghĩ là chức năng chủ
yếu của NVĐ. Bởi “Khi nghiên cứu ý nghĩa của NVĐ đã nhắc tới NVĐ là một trong các phương
thức quan trọng tạo nên bối cảnh của vấn đề”. Trong quá trình DHNVĐ, GV luôn chú ý khơi gợi,
kích thích HS tìm ra đáp án chính xác từ những nghi vấn, gợi ý HS vận dụng các kiến thức đã học
và các kinh nghiệm đã có để giải quyết vấn đề mới, kích thích và rèn luyện năng lực tư duy, phân
tích, quy nạp, khái quát cũng như khả năng liên tưởng cho HS.
+ Tập trung chú ý: Chức năng này dựa vào đặc điểm hoạt động của bộ não con người, thể
hiện sự chọn lựa rõ ràng khi cảm nhận sự việc khách quan. Khi ý thức HS tập trung vào những tác
động về ngôn ngữ do GV NVĐ thì đồng thời những tác động khác bị hạn chế, từ đó hình thành tiêu
điểm ý thức và sự chú ý cũng được tạo nên. Sử dụng NVĐ để tập trung sự chú ý của HS, chính vì
thế, là PP thường dùng của GV trong dạy học nói chung.
+ Đánh giá và phản hồi: Trong quá trình NVĐ, GV thông qua việc giải đáp phản hồi của HS
mà có thể nắm bắt trình độ, kết quả học tập cũng như kiểm tra đánh giá trạng thái, kết quả học tập
của HS, từ đó có sự điều chỉnh thích hợp kế hoạch NVĐ của mình. Có thể thấy chức năng đánh giá
phản hồi của NVĐ có hiệu quả kích thích mối tương tác hai chiều giữa GV và HS trong quá trình
dạy học trên lớp.
+ Tổ chức dạy học: Chức năng tổ chức giảng dạy vừa thể hiện ở việc sắp xếp nội dung giảng
dạy vừa thể hiện ở việc điều chỉnh trình tự giảng dạy và tinh thần học tập của HS. GV dựa vào mục
đích và nội dung giảng dạy thiết lập và nêu câu hỏi theo kế hoạch, có thể hướng cho HS suy nghĩ
thảo luận đi sâu từng bước hoặc cũng có thể tùy lúc tạm chuyển đổi nội dung dạy học [30, tr.96-97].
1.1.2.7. Các dạng của dạy học nêu vấn đề
DHNVĐ - như bản chất vốn có - chứa đựng trong nó khả năng khơi gợi, tìm tòi kiến thức của
HS thông qua “việc giải các bài toán có vấn đề mang tính chất nhận thức thực hành. Phương thức
dạy học này giữ vị trí then chốt quan trọng, song không “choán hết cả quá trình học tập” (Lecne). Vì
thế, trong vận dụng DHNVĐ lâu nay, chúng ta thường dựa theo quan điểm cho rằng “Thực tiễn đã
sản sinh ra ba dạng DHNVĐ khác nhau, mỗi dạng đặc trưng bởi những hệ thống hành động của GV
và HS riêng, tức là bởi những PPDH riêng”. Do vậy, trong dạy học, thường căn cứ theo ba kiểu
NVĐ sau đây:
+ Trình bày NVĐ: Trường hợp này xảy ra khi tình huống NVĐ đặt ra mà “HS không biến
được thành vấn đề”. Dễ hiểu, đây là những tình huống khó khăn HS không có khả năng tự phán
đoán, phân tích vấn đề. Vì thế trong trường hợp như vậy “GV hay tác giả SGK chẳng những nêu lời
giải cuối cùng mà còn vạch rõ logic của quá trình đi đến lời giải đó với những mâu thuẫn, những
lệch lạc đó và nêu luận cứ củng cố cho mỗi bước tiến tới lời giải cuối cùng” [112, tr.48]. Nhờ có sự
hướng dẫn của GV, HS được tiếp thu cách trình bày chặt chẽ, làm nảy nở những suy luận hợp lý có
tác dụng lôi cuốn người học vào quá trình nghiên cứu tìm tòi tiếp theo. Dĩ nhiên, cách lựa chọn đối
tượng để trình bày NVĐ hoàn toàn dựa vào sự chủ đạo của GV. Trong dạy học văn, chúng ta cũng
từng làm quen với cách thức này để muốn lôi cuốn sự chú ý, muốn tạo ra ở HS những suy nghĩ, thắc
mắc, tranh luận khi bắt đầu bước vào bài, khi muốn nhấn mạnh những điểm quan trọng của nội
dung bài học, khi cần gợi mở tìm tòi hoặc đưa ra những nhận xét, bình luận.
+ Dạy học tìm tòi một phần: Thông thường các vấn đề đặt ra cho HS tìm tòi đều chứa trong
nó những khó khăn về nhận thức. Vì thế, yêu cầu của hoạt động sư phạm là GV phải giúp đỡ HS
duy trì “tính NVĐ” trong quá trình học tập. Nói cách khác, với dạng DHNVĐ này, HS không hoàn
thành tất cả các giai đoạn nghiên cứu, mà chỉ hoàn thành một phần quá trình nghiên cứu và không
nhất thiết phải là liên tục” [112, tr.51]. Lý luận dạy học cho thấy các bước của việc nghiên cứu đều
diễn ra như sau: Quan sát tìm hiểu các sự kiện hiện tượng - Vạch ra những hiện tượng chưa hiểu cần
nghiên cứu (NVĐ) - Nêu giả thuyết; lập kế hoạch nghiên cứu - Thực hiện kế hoạch, tức vạch rõ
những liên hệ giữa hiện tượng cần nghiên cứu - Phát biểu lời giải đáp án - Kiểm tra lời giải - Rút ra
kết luận thực tiễn về khả năng và sự cần thiết vận dụng các tri thức đã thu được vào thực tế.
Có thể thấy kiểu dạy học này được vận dụng khá rõ rệt và thường xuyên trong giờ học. Đây
là công việc đòi hỏi GV lập kế hoạch các bước giải, lập kế hoạch cho quá trình đi đến lời giải, làm
cho quá trình đó trở nên thuận lợi; còn HS thì phải bằng sự nỗ lực chủ động giải quyết một phần vấn
đề, hoặc những vấn đề nhỏ. Đây là sự lựa chọn bước đi thích hợp của DHNVĐ, nhờ đó HS thu được
kinh nghiệm hoạt động sáng tạo, nắm được các yếu tố tìm tòi nghiên cứu cho dù không học được
cách nghiên cứu toàn bộ vấn đề từ đầu đến cuối. Thực tiễn dạy học cho thấy có nhiều cách giúp
thực hiện dạng dạy học này. Chẳng hạn, nếu HS không thể giải bài toán thì GV xây dựng một bài
toán khác tương tự nhưng phạm vi hẹp hơn; hoặc chia thành những bài toán nhỏ, dễ hơn nhưng tập
hợp lại thành lời giải cho bài toán lúc đầu; hoặc GV gợi ý những dữ kiện bổ sung cho điều kiện của
bài toán khó, hoặc giải thích rõ vấn đề rồi yêu cầu HS rút ra kết luận. Trong cách thực hiện như vậy,
còn có một hình thức khác nữa mà Lecne gọi là “đàm thoại có tính phát kiến” (ơrixtic). Theo đó
“Đàm thoại phát kiến là hệ thống câu hỏi do GV xây dựng thế nào để mỗi câu hỏi sau được suy ra
từ các câu hỏi trước, để việc đặt nó trong cuộc đàm thoại là có lý do, để tất cả các câu hỏi và lời giải
thích của HS cho các câu hỏi đó, tập hợp lại, cuối cùng sẽ giải quyết được một vấn đề nào đó, và
điều chủ yếu là làm sao cho một số câu hỏi, và là đa số câu hỏi, hợp thành những bài toán nhỏ trên
con đường đi tới lời giải cho bài toán cơ bản” [112, tr.53]. Dễ thấy đây là cách dạy học được sử
dụng khá gần gũi trong giờ học văn.
+ PP nghiên cứu: PP nghiên cứu vốn xuất hiện trong dạy học từ lâu, nó cũng là cách thức
thúc đẩy hoạt động nhận thức sáng tạo của người học dựa trên khả năng nghiên cứu, tìm hiểu, nắm
bắt kiến thức bằng quá trình tìm tòi sáng tạo. Chính nhờ chức năng quan trọng nói đó mà có thể
nhận xét DHNVĐ có phần gần gũi gắn bó với PP nghiên cứu. Các hình thức bài làm theo PP nghiên
cứu rất đa dạng: có thể là những bài làm giải nhanh ở lớp hay ở nhà, những bài làm trong suốt giờ
học hay những bài tập ở nhà theo kì hạn. Dù với mức độ nào, loại bài tập nghiên cứu đòi hỏi người
học phải nắm hiểu biết vững vàng với óc tìm tòi sáng tạo. Cho nên đây là dạng học tập được gọi là
“tự học NVĐ”. Dù sao thì không nên đưa ra những bài tập quá sức, không phù hợp với trình độ kiến
thức và kỹ năng học tập của HS. Và điều đáng chú ý là khi nêu một vấn đề nào đó cho HS tự nghiên
cứu, GV đã biết rõ lời giải, quá trình giải và biết rõ trong quá trình giải người học cần thể hiện
những điểm nào của hoạt động sáng tạo. Vì thế, không thể xem nhẹ vai trò của GV trong việc tổ
chức, xây dựng và hướng dẫn một hệ thống vấn đề cho HS nghiên cứu. Đó chính là nền tảng để
từng bước hình thành ở HS phẩm chất của con người tư duy sáng tạo [112, tr.6].
Có thể nhận ra sự gần gũi trong quan niệm về “dạng NVĐ” qua tài liệu của một số nhà sư
phạm học. Từ đây, phạm vi nội dung “dạng NVĐ” vừa đề cặp có sự khái quát rộng, hẹp khác nhau
tùy theo quan điểm và PP tiếp cận. Tuy nhiên, giữa cách phân loại xác định có độ vênh nói đó,
chúng ta vẫn có thể nhận ra mối liên hệ gần gũi giữa những quan niệm đúng đắn, hợp lý để tìm tới
việc lựa chọn cách thức dạy học thích hợp.
Chẳng hạn: Nguyễn Ngọc Quang trong Lý luận dạy học đại cương có nói tới “những thách
thức xây dựng bài toán NVĐ ơrixtic hay tình huống có vấn đề”. Theo đó, trong nhà trường mỗi môn
học có rất nhiều cách xây dựng tình huống có vấn đề tùy theo đặc điểm khoa học của nó. Nhưng
nhìn chung, có bốn kiểu cơ bản là: tình huống nghịch lý, tình huống bế tắc, tình huống lựa chọn và
tình huống “tại sao” hay “nhân - quả”. Tác giả cũng đi sâu phân tích nội dung của từng dạng và
nhấn mạnh “chất lượng của việc xây dựng các bài toán ơrixtic phụ thuộc đồng thời cả vào sự uyên
bác khoa học, cả vào trình độ nghệ thuật sư phạm của người GV” [86, tr.136].
Còn các tác giả của “Kỹ năng NVĐ”- một tài liệu vừa có tính lý luận lại vừa mang tính ứng
dụng khá sát hợp với người GV Ngữ văn hiện nay - thì lại đề cập khái niệm “loại hình của NVĐ”.
Các tác giả xác định: “Hiểu đặc điểm NVĐ là tiền đề để chọn loại hình NVĐ theo yêu cầu giảng
dạy; nắm vững tác dụng khơi gợi tư duy là mấu chốt trong hoạch định NVĐ với chất lượng cao;
nắm vững yêu cầu về hoạch định và vận dụng các loại hình NVĐ là đảm bảo cần thiết cho NVĐ
được thực hiện thuận lợi, đạt được mục đích đã định” [30, tr.111]. Có thể thấy phạm vi loại hình câu
hỏi NVĐ do các tác giả vận dụng khá rộng và được minh họa bằng những mẫu dẫn chứng cụ thể sát
hợp. Vì thế, quan điểm dạy học này có sức thuyết phục cao. Quả thực, đây là một vấn đề khá cần
thiết và thích hợp đối với việc vận dụng DHNVĐ vào dạy học Ngữ văn. Bởi trong quá trình vận
dụng DHNVĐ lâu nay, GV thường gặp khó khăn lúng túng, thậm chí có sự dè dặt, e ngại trong việc
xử lý, lựa chọn “tình huống có vấn đề” để vận dụng vào thực tiễn dạy học văn. Vì thế, kinh nghiệm
vừa nêu của các nhà sư phạm Trung Quốc rất thiết thực và bổ ích, chúng tôi sẽ kết hợp đề cập tới
những nội dung này trong phần sau.
1.1.2.8. Nguyên tắc nêu vấn đề
DHNVĐ dựa trên những nguyên tắc sau:
+ Tính mục đích: NVĐ phải hướng tới mục đích. Chẳng hạn trong giờ văn, GV nêu cho HS
tìm hiểu nhiều vấn đề. Tuy nhiên, những vấn đề đưa ra phải nhằm vào mục tiêu của việc GD đào
tạo. “Do đó, hoạch định (sắp xếp) vấn đề phải căn cứ vào mục đích giảng dạy để suy nghĩ, tạo nên
bối cảnh tư duy cho tri thức cần truyền thụ, phát triển trí lực, nâng cao khả năng ngôn ngữ, bồi
dưỡng phẩm chất cao đẹp, khiến tư duy của HS gián tiếp hoặc trực tiếp luôn luôn xoay quanh mục
đích giảng dạy” [30, tr.98].
+ Tính khơi gợi: NVĐ luôn tạo sự thắc mắc tìm tòi kiến thức ở HS, từ đây sẽ góp phần vào
việc thực hiện nhiệm vụ của nhà trường là đào tạo lớp trẻ có khát vọng, hình thành khả năng đào sâu
suy nghĩ bằng tìm tòi sáng tạo kiến thức.
+ Tính rõ ràng: NVĐ phải đảm bảo tính rõ ràng. Nội dung vấn đề nêu ra phải hợp lý, chính
xác, không có sự đánh đố hay quá khó với trình độ HS; về hình thức ngôn ngữ, phải có sự diễn đạt
chính xác nhằm giúp HS hiểu rõ mục đích câu hỏi, tránh tình trạng thầy hỏi nhưng HS “không biết
trả lời ra sao” hoặc “hỏi một đàng trả lời một nẻo”.
+ Tính thích ứng: Sự thích ứng thể hiện qua các mặt: thích ứng về khối lượng (nội dung vấn
đề nêu lên phải hợp lý, bám sát mục đích yêu cầu bài học); thích ứng về mức độ (vấn đề nêu lên phù
hợp với năng lực trình độ HS, không quá dễ nhưng cũng không quá khó, làm hạn chế hứng thú của
HS); thích ứng về thời gian (chọn thời điểm NVĐ, bao gồm thời điểm nêu câu hỏi và thời điểm giải
quyết vấn đề. NVĐ kịp thời giúp bắt nhịp giữa câu hỏi của GV với tư duy của HS, nhờ đó kích thích
tâm lý tìm tòi, hưng phấn ở HS).
+ Tính phối hợp: Phương thức NVĐ cần có sự phối hợp đa dạng giữa các loại hình, các góc
độ yêu cầu và hình thức diễn đạt khác nhau.
1.2. Phương thức nêu vấn đề với việc dạy học tác phẩm văn chương
1.2.1. Phương thức dạy học nêu vấn đề phù hợp với đặc trưng, tính chất môn học Ngữ văn
Như chúng ta từng biết, kể từ lần thay đổi chương trình SGK môn văn ở THPT, tên gọi của
môn học đã thay đổi. Với quan điểm dạy học mới, có thể thấy đối tượng, tính chất của môn văn giờ
đây được nhìn nhận thấu đáo, khoa học hơn. Môn văn với tính chất là môn học đặc thù mang tính
nghệ thuật lại vừa là khoa học nay gắn kết theo quan điểm tích hợp, không còn tách bạch theo
những môn học riêng rẻ với những tên gọi Tiếng Việt, Làm văn, Văn học vốn đã từng làm cho việc
dạy học Ngữ văn trở nên tách biệt, xơ cứng. Chính vì thế có một thời, người GV khi lên lớp chỉ
chăm chút vào việc truyền thụ kiến thức, chỉ nhằm vào việc yêu cầu HS làm những bài làm văn theo
công thức cho sẵn, lập lại những kiến thức sáo mòn hoặc hướng sự chú ý chính yếu vào những rung
động cảm xúc trong bài “giảng văn” hay “phân tích TP” mà quên đi giờ học là một quá trình phát
hiện, tìm tòi vận dụng kiến thức một cách chủ động sáng tạo bằng chính họat động tích cực của
người học. Những thiếu sót, hạn chế nói đó đã dẫn tới hậu quả nặng nề với lối dạy học trì trệ, lạc
hậu kéo dài và làm mờ nhạt tác dụng của nguyên tắc dạy học phát huy tính tích cực sáng tạo của HS
đang được triển khai rộng rãi qua việc đổi thay chương trình, SGK hiện nay. Cũng bởi thế mà có
những PPDH chứa đựng ý nghĩa tích cực như DHNVĐ, gợi mở, đọc sáng tạo… tuy được đề cập từ
lâu nhưng trong thực tế dạy học lại được vận dụng một cách dè dặt nếu không muốn nói là có khi bị
cản trở bởi sức níu kéo của quan điểm, thói quen dạy học xưa cũ. Chẳng hạn, trong dạy học TPVC,
việc nhấn mạnh quá nhiều vào sự rung động cảm xúc, yêu cầu HS ghi nhớ lời thầy diễn giảng rồi trả
lời sao cho đúng đáp án mà ngần ngại “NVĐ”, ngại để HS suy nghĩ độc lập, nỗ lực kiến tạo nên
kiến thức cho chính mình bằng con đường tìm tòi sáng tạo. Bởi theo thói quen của lối dạy học
truyền thống, có những ý kiến cho rằng làm như vậy là phá vỡ tính chất giờ học vốn là loại hình
nghệ thuật tuân thủ sự rung động cảm xúc theo tư duy hình tượng. Từ đó, chúng ta nhận thấy rõ một
phần những hạn chế của quan niệm dạy học văn chương trước đây và việc đổi mới PPDH văn là
điều cần thiết.
Vì thế, cấu tạo chương trình Ngữ văn hiện nay đã thay đổi, phạm vi các văn bản được dạy
học có sự mở rộng, bên cạnh bộ phận chính là loại hình nghệ thuật ngôn từ dựa trên phương thức tư
duy hình tượng - cảm tính thì còn một phần thuộc dạng nghị luận xã hội vốn là những văn bản dựa
vào tư duy lôgic. Với lọai văn bản này, người học phải nắm khái niệm, phán đoán, suy lý, phải biết
tìm tới những thao tác của lập luận như luận điểm, luận cứ, luận chứng. Do vậy, làm sao có sự tách
bạch giữa các lọai tư duy trong dạy học một cách cứng nhắc, máy móc được?
1.2.2. Tác phẩm văn chương ẩn chứa những yếu tố cấu thành của phương thức dạy học
nêu vấn đề
1.2.2.1. Tác phẩm văn chương là thông điệp nghệ thuật của nhà văn gửi tới người đọc
TPVC là sản phẩm tinh thần độc đáo do nhà văn sáng tạo nên bằng quá trình tư duy theo quy
luật thẩm mỹ đặc thù. Bởi thế, sản phẩm tinh thần nói đó là sự thể hiện cho những điều do nhà văn
khám phá về cuộc đời và con người được soi sáng bằng những tư tưởng, những quan niệm qua sự
chuyển hóa giữa hiện thực khách quan của đời sống và những suy nghĩ, cảm xúc chủ quan của nhà
văn. Với “những điều trông thấy”, “những tấc lòng” của nhà văn được khái quát bằng hình tượng
nghệ thuật có sức lôi cuốn người đọc khám phá, chiêm nghiệm những quy luật của cuộc sống. Đó là
những điều nhà văn muốn nói, muốn gởi gắm qua những trang viết. TPVC, do vậy có sức chứa
đựng những vấn đề khái quát từ các lĩnh vực phong phú, phức tạp trong mối quan hệ xã hội mà nhờ
nó, ý nghĩa của TP được suy ngẫm phát hiện không bao giờ vơi cạn với bao thế hệ người đọc. Rõ
ràng, qua tác phẩm, nhà văn đưa người đọc gặp gỡ, giải đáp những vấn đề từ thực tiễn cuộc sống.
Bởi thế, trong tiếp nhận văn học, người ta mới cần những tiếng nói tri âm. Hơn hai trăm năm sau khi
Nguyễn Du qua đời, giữa những ngày máu lửa của chiến tranh vệ quốc, Tố Hữu từng thảng thốt bày
tỏ nỗi lòng mình trước nỗi đau nhân thế qua lời thơ thắm thiết: “Tố Như ơi! Lệ chảy quanh thân
Kiều”. Trong những ngày đất nước dồn sức cho cuộc ra trận lớn lao của lịch sử, Nguyễn Minh
Châu, Nguyễn Khải - lớp nhà văn - chiến sĩ - qua những trang viết nóng bỏng hơi thở chiến đấu đã
nêu bật phẩm chất anh hùng của thế hệ thanh niên cầm súng xốc tới giữa bom đạn, sẵn sàng dâng
hiến tuổi trẻ theo tiếng gọi của lý tưởng cao cả “cuộc đời đẹp nhất là trên chiến trường”. Từ đó, lớp
trẻ trên ghế nhà trường có thể nhận ra ý nghĩa của chân lý cao đẹp từ cuộc sống. Nhưng tới những
ngày đất nước có hòa bình, khi cuộc sống trở về với nhịp điệu đời thường thì con người đứng trước
bao điều mới lạ và không ít những thử thách khắc nghiệt của hiện thực xã hội tác động tới khiến cho
nhà văn tích lũy thêm những trải nghiệm, phát hiện mới. Vì thế, người đọc lại gặp những con người
với những sự việc, hiện tượng xảy ra trong Chiếc thuyền ngoài xa, Một người Hà Nội cũng do chính
những người cầm bút trước đây thể hiện. Những trang viết nồng ấm hơi thở cuộc sống hiện thực lại
đưa người đọc đến những khám phá suy ngẫm mới - những vấn đề trong cuộc sống thường nhật mà
có một thời bị lãng quên. Cho nên, nói như M.Gocki “Tác phẩm văn học nào cũng có vấn đề”.
Phạm vi những vấn đề cuộc sống, vì thế, thật phong phú đa dạng. Để hiểu biết cảm thông với những
điều nhà văn khám phá phát hiện, người đọc phải biết cách tìm tới những vấn đề thuộc nội dung
thường được thể hiện qua đề tài, chủ đề và tư tưởng trong văn bản văn học. Cho nên, cơ sở của
DHNVĐ được khởi phát từ đây - những vấn đề do tác giả đặt ra.
Nhưng chủ đề hay vấn đề không phải bộc lộ rõ như những hiện tượng thông thường. Điều kỳ
diệu mà nghệ thuật đem đến là những hiện tượng, sự kiện và tư tưởng, tình cảm của nhà văn khi
nhìn nhận hiện thực - tức phương diện nội dung - lại được thể hiện qua phương tiện khái quát nghệ
thuật là hình tượng văn học chứa đựng giá trị thẩm mỹ. Văn chương dùng chất liệu là nghệ thuật
ngôn từ để xây dựng nên thế giới hình tượng phong phú sinh động dựa vào tài năng sáng tạo của
nhà văn. “Hình thức của TP văn học chính là tác động hợp thành của nhiều yếu tố: nghệ thuật sử
dụng ngôn ngữ, các quy định của loại thể văn học, những biện pháp kết cấu, cách xây dựng nhân
vật, thể hiện hình tượng,... tất cả nhằm mục đích biểu hiện trực tiếp và sinh động nội dung TP, tạo
nên một dạng tồn tại nhất định của nội dung ấy, qua đó xây dựng toàn bộ TP thành một chỉnh thể
thống nhất” [38, tr.44]. Như thế, khi dạy học văn bản văn học, người GV phải biết cách hướng tới
sự khai thác các yếu tố nội dung thông qua hình thức nghệ thuật một cách linh hoạt, gắn bó. Bởi
sáng tác của nhà văn không chỉ đơn giản là việc gửi đi một thông điệp mà đó còn là một “quá trình
tư duy ngôn ngữ thầm lặng” thể hiện cho sự lao động nghệ thuật gian khổ bằng việc trau dồi, chọn
lọc từng chữ, từng câu nhằm biểu đạt sao cho hiệu quả nhất ý đồ, tư tưởng nghệ thuật của mình.
Chẳng hạn, khi nói tới bi kịch của cuộc đời Chí Phèo, ai cũng hiểu Nam Cao muốn vạch trần bộ mặt
thật tàn bạo dựa trên quy luật “cá lớn nuốt cá bé” bằng quyền lực của kẻ có của cải và thế lực để
chèn ép người thấp cổ bé họng trong một xã hội dựa trên sự câu kết giữa các thế lực thống trị của
chế độ thực dân nửa phong kiến ở nông thôn trước đây. Nhưng nếu không có những biểu hiện của
phương tiện hình thức nghệ thuật kết tinh từ ngôn ngữ chọn lọc đầy sắc sảo với ngồn ngộn các chi
tiết, sự việc về cuộc đời Chí Phèo, không có cái tiếng chửi độc của Chí trong phần mở đầu, không
có giọng điệu và hành vi thâm độc xảo trá “vừa đẩy người xuống sông rồi lại đưa tay dắt nó lên để
nó đền ơn” của Bá Kiến - con cáo già làng Vũ Đại - cũng như không có sự dằng xé nội tâm của Chí
sau ngày bị Thị Nở từ chối mối tình vốn là nỗi khát khao hạnh phúc, là điểm tựa để nâng mình đứng
d._.ẻ đẹp độc đáo của sH. Đằng sau tình yêu, niềm tự hào tha
thiết, sâu lắng mà tác giả dành cho dòng sông quê hương, cho xứ Huế
thân yêu và cũng là cho đất nước.
II. Đọc văn:
-? Sông Hương vùng
thượng lưu
-? SH gắn bó với dãy
Trường Sơn như thế
nào
-? Tìm những chi tiết
diễn tả cảnh SH chảy
xuôi về đồng bằng và
ngoại vi thành phố
-? Sông Hương chảy
vào thành phố với vẻ
đẹp ra sao
-? Thế nào là vẻ đẹp
như điệu slow
-? Những phẩm chất
của sH trong lịch sử và
thi ca
+? SH trong mối quan
hệ với lịch sử dân tộc
+? SH với cuộc đời và
thi ca
-? Đặc sắc nghệ thuật
1.Sông Hương vùng thượng lưu:
-SH nhìn từ cội nguồn là dòng chảy có mối quan hệ sâu sắc với dãy
Trường Sơn: khi rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn, lúc mãnh liệt qua
ghềnh thác, khi cuộn xoáy như con lốc, lúc dịu dàng và say đắm,…
-Bằng biện pháp nhân hoá, sH hiện ra tựa như một cô gái Di-gan
phóng khoáng và man dại,…
-Theo tác giả, nếu chỉ ngắm khuôn mặt của dòng sông thì không hiểu
bản chất sâu thẳm mà nó không muốn bộc lộ.
->SH vùng thượng lưu toát lên vẻ đẹp của một sức sống mãnh liệt,
hoang dại, đầy cá tính.
2.Sông Hương chảy xuôi về đồng bằng và ngoại vi thành phố:
-Đoạn văn này bộc lộ những nét lịch lãm, tài hoa trong lối hành văn
của tác giả. Sức hấp dẫn toát lên từ hàng loạt động từ diễn tả dòng
chảy sống động qua những địa danh khác nhau của xứ Huế.
-Hai bút pháp kể và tả được kết hợp nhuần nhuyễn và tài hoa trong
đoạn văn làm nổi bật sH đẹp bởi phối cảnh kì thú giữa nó với thiên
nhiên xứ Huế phong phú mà hài hoà.
3.Sông Hương chảy vào thành phố:
-Khi tìm đúng đường về, sH như đã tìm thấy chính mình: vui tươi hẳn
lên, kéo một nét thẳng thực yên tâm theo hướng TNĐB, rồi uốn một
cánh cung rất nhẹ sang cồn Hến khiến cho dòng sông mềm hẳn đi.
-SH nằm giữa lòng thành phố, sH được cảm nhận ở nhiều góc độ:
+Được nhìn bằng con mắt hội hoạ, sH với những chi lưu của nó tạo
những đường nét thật tinh tế làm nên vẻ đẹp cổ kính của cố đô.
+Qua cách cảm nhận âm nhạc, sH đẹp như điệu slow chậm rãi, sâu
lắng, trữ tình.
+Với cái nhìn đắm say của một trái tim đa tình, sH là người tình thuỷ
chung.
4.Những phẩm chất của sH trong lịch sử và thi ca:
a.SH trong mối quan hệ với lịch sử dân tộc:
-Một dòng sông biên thuỳ xa xôi của đất nước các vua hùng.
-TK XVIII, nó vẻ vang soi bóng kinh thành Phú Xuân của người anh
hùng Nguyễn Huệ.
-Sống hết lịch sử bi tráng của thế kỉ XIX.
-Chứng kiến thời đại CM.8 và bao chiến công qua hai cuộc chiến tranh
vệ quốc.
b.SH với cuộc đời và thi ca:
-SH như một người con gái dịu dàng của đất nước.
-Dòng sông ấy không bao giờ tự lặp lại mình trong cảm hứng của các
nghệ sĩ.
5.Đặc sắc nghệ thuật:
Những cảm xúc sâu lắng được tổng hợp từ một vốn hiểu biết phong
phú về văn hoá, lịch sử, địa lí và văn chương cùng một văn phong tao
nhã, hướng nội, tinh tế và tài hoa.
III.Tổng kết: Ghi nhớ SGK
* Luyện tập: SGK
-Hs đọc Ghi nhớ SGK.
-Gv hướng dẫn hs LT
4. Củng cố: Nhận xét chung về giá trị nội dung và nghệ thuật của tác phẩm?
5. Dặn dò: Chuẩn bị bài mới Đọc thêm: Những ngày đầu của nước VN mới.
PHỤ LỤC 4, Phiếu học tập 1:
HƯỚNG DẪN CHUẨN BỊ BÀI “CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA” (tiết 1)
1. Đọc kĩ phần tiểu dẫn để có cái nhìn chung về tác giả, tác phẩm.
2. Đọc truyện nhiều lần, tóm tắt truyện, nắm chắc các chi tiết của truyện, nắm bắt những điểm
nổi bật về nội dung và nghệ thuật của tác phẩm.
3. Tìm hiểu tình huống truyện:
- Xác định loại tình huống,
- Những biểu hiện của tình huống truyện,
- Tác dụng của tình huống truyện trong việc bộc lộ tính cách các nhân vật và thể hiện chủ đề của
tác phẩm.
PHỤ LỤC 4. Phiếu học tập 2:
HƯỚNG DẪN CHUẨN BỊ BÀI “CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA” (tiết 2)
1. Vấn đề thuyết trình: “Hình tượng nhân vật người đàn bà hàng chài”. Hệ thống câu hỏi gợi ý:
+ Nhân vật người đàn bà hàng chài được đặt trong những tình huống, những hoàn cảnh cụ thể
nào?
+ Trong sự phát hiện của Phùng ở ngoài bãi biển: ngoại hình, cách ứng xử,… nói lên điều gì về
tính cách của chị?
+ Ở toà án: thái độ và những lời lẽ của người đàn bà cho thấy ở chị có những phẩm chất gì?
+ Từ nhân vật người đàn bà hàng chài, tác giả muốn gửi đến người đọc thông điệp gì? Qua đó
còn cho thấy tấm lòng nhân đạo của tác giả như thế nào?
2. Suy nghĩ về các nhân vật:
- Người đàn ông hàng chài.
- Bé Phác.
PHỤ LỤC 4, Phiếu học tập 3:
HƯỚNG DẪN CHUẨN BỊ BÀI “CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA” (tiết 3)
1. Tìm hiểu nhân vật Phùng:
- Hai Phát hiện của Phùng?
- Sự “vỡ ra” của Phùng sau khi nghe câu chuyện của người đàn bà ở toà án?
- Thông điệp từ nhân vật Phùng?
2. Tìm hiểu nhân vật Đẩu:
- Những suy nghĩ và thái độ của Đẩu trước câu chuyện của người đàn bà?
- Bài học rút ra từ nhân vật Đẩu là gì?
3. Những điểm chính về giá trị nhân đạo của tác phẩm?
4. Những đặc sắc về nghệ thuật của tác phẩm:
- Những hình ảnh mang ý nghĩa biểu tượng?
- Nghệ thuật trần thuật?
PHỤ LỤC 5: TÓM TẮT NỘI DUNG BÀI HỌC:
CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA (Nguyễn Minh Châu)
I. Giới thiệu chung:
1. Những điểm chính về tác giả:
+Nguyễn Minh Châu (1930-1989), quê ở Làng Thơi, xã Huỳnh Hải, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh
Nghệ An.
+Nếu trước 1975, Nguyễn Minh Châu là ngòi bút sử thi có thiên hướng trữ tình lãng mạn thì từ
sau 1980, ông chuyển hẳn sang cảm hứng thế sự với những vấn đề đạo đức và triết lí nhân sinh.
+Ông là một trong số những người “mở đường tinh anh và tài năng” trong chặng mở đầu của
công cuộc đổi mới văn học sau 1975.
2. TP Chiếc thuyền ngoài xa:
a. Xuất xứ và hoàn cảnh ra đời của tác phẩm:
Truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa được Nguyễn Minh Châu hoàn thành vào tháng 8/1983, in
trong tập Bến quê (1985).
b. Thể loại: Thể loại truyện ngắn hiện đại.
c. Cốt truyện:
Có hai mạch truyện đan lồng vào nhau: chuyện về một chuyến đi “săn ảnh” của phóng viên
nhiếp ảnh Phùng ở một vùng ven biển miền Trung và chuyện về những cảnh ngộ ngang trái của một
gia đình ngư dân ở vùng biển đó mà Phùng bất ngờ biết được. Cuối cùng là sự “vỡ ra” của Phùng
về con người và cuộc sống.
II. Đọc-hiểu:
1. Tình huống truyện:
- TP được trần thuật theo quá trình tự nhận thức, cũng có thể gọi là quá trình giác ngộ về hiện
thực và con người của Phùng - nghệ sĩ nhiếp ảnh và Đẩu - chánh án huyện:
+ Trước mắt Đẩu và Phùng là một hiện tượng cuộc sống đầy nghịch lí: người đàn bà bị người
chồng vũ phu và độc ác đánh đập hằng ngày, vậy mà không hề kêu ca, chống đối gì; ở toà án
huyện, người đàn bà từ chối dứt khoát thiện ý của người đại diện công lí là giải phóng chị ta khỏi
ách nặng nề của người chồng tàn bạo.
+ Điều khó hiểu đó được giải tỏa qua lời của người đàn bà. Lí do khiến người đàn bà không bỏ
chồng: cuộc sống người dân chài phải luôn chống chọi với những bất trắc của biển khơi nên rất
cần có một người đàn ông trong gia đình, vợ chồng con cái cũng có lúc hạnh phúc, tình thương đối
với lũ con.
- Qua tình huống này, người nghệ sĩ nhiếp ảnh không chỉ phát hiện ra chân lí nghệ thuật mà anh
còn khám phá ra nhiều điều bí ẩn của cuộc sống và con người. Anh đã hiểu hơn về cuộc sống của
người lao động vùng biển, về bạn mình và về chính mình.
2. Các nhân vật:
a. Người đàn bà hàng chài:
- Thân phận: lam lũ, cay cực, nạn nhân của sự bạo hành từ người chồng vũ phu:
+ Cuộc sống nghèo khổ, chật vật khi phải nuôi mười miệng ăn trên chiếc thuyền ọp ẹp.
+ Vẻ ngoài thô kệch, xấu xí.
+ Bị chồng đánh rất tàn bạo
- Phẩm cách: một sức sống bền bỉ, một tâm hồn đầy tình thương và đức hi sinh.
- Câu chuyện của người đàn bà gửi đến thông điệp: không thể dễ dãi, đơn giản trong việc nhìn
nhận mọi sự việc, hiện tượng cuộc sống.
b. Người đàn ông hàng chài:
- Lão đàn ông hàng chài xuất hiện trong sự độc dữ, gây ác cảm với mọi người.
+Về ngoại hình: tấm lưng rộng và cong như mũi thuyền, mái tóc tổ quạ, hai mắt đầy vẻ độc
dữ,…
+Về hành vi: đánh vợ rất tàn nhẫn
- Đẩu, Phùng, Phác đều cho rằng người đàn ông này là thủ phạm gây bao đau khổ cho vợ con,
cần lên án. Người đàn bà hàng chài cho rằng người đàn ông này là nạn nhân của hoàn cảnh, đáng
cảm thông, chia sẻ.
- Từ đó, tác giả gửi đến một thông điệp: không thể nhìn đời, nhìn người một phía, phải tìm hiểu
những nguyên nhân sâu xa dẫn đến hành vi của con người trước khi kết luận về tính cách hay phán
xét họ; phải làm sao để nâng cao cái phần thiện, cái phần người trong những kẻ thô bạo ấy.
c. Bé Phác
+Phác đáng trách ở hành vi đối với bố, đáng mến ở tình thương mẹ dạt dào, đáng thương xót
bởi phải chịu cảnh bạo hành gia đình.
+ Qua nhân vật Phác, nhà văn tỏ bày nỗi lo âu đầy trách nhiệm về tương lai của trẻ em trong
nạn bạo hành gia đình.
d. Nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng:
- Hai phát hiện của nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng:
+ Phát hiện thứ nhất đầy thơ mộng về chiếc thuyền ngư phủ trên mặt biển mờ sương. Anh thấy
tâm hồn mình như được gọt giũa trở nên thật trong trẻo, tinh khôi bởi cái đẹp hài hoà lãng mạn của
cuộc đời.
+ Phát hiện thứ hai đầy bất ngờ và trớ trêu như trò đùa quái ác của cuộc sống là cảnh người
đàn ông đánh vợ rất tàn nhẫn. Anh nhận ra đằng sau cái đẹp không phải là đạo đức, chân lí của sự
toàn thiện.
- Sự “vỡ ra” của Phùng sau khi nghe câu chuyện của người đàn bà ở toà án:
+Hành trình tìm kiếm hạnh phúc của con người không hề đơn giản
+Người đàn bà ấy là hiện thân của tình yêu thương và một sự hy sinh vô bờ bến
- Qua nhân vật Phùng, tác giả muốn nhắn gửi đến người đọc những thông điệp:
+ Đừng vì nghệ thuật mà quên cuộc đời, bởi lẽ nghệ thuật chính là cuộc đời.
+ Đừng bao giờ nhìn nhận cuộc đời và con người một cách dễ dãi, xuôi chiều.
e. Chánh án Đẩu:
- Trong đầu óc Đẩu đã “vỡ ra” nhiều điều.
+ Sự hiểu ra những nhọc nhằn, vất vả trong công việc làm ăn của những ngư dân ở vùng biển.
+ Sự thức tỉnh với chính mình, để từ bỏ cái nhìn đơn giản, nặng nề duy ý chí trước cuộc đời và
con người, cùng với nó là những ảo tưởng về sự thay đổi dễ dàng cho cuộc sống của người dân sau
khi được Cách mạng giải phóng.
- Bài học rút ra từ nhân vật Đẩu:
+ Lòng tốt đáng quí nhưng chưa đủ, luật pháp là cần thiết nhưng cần phải đi vào đời sống.
+ Con người cần vượt lên, từ bỏ cái nhìn và lối nghĩ giản đơn, dễ dãi, để nhìn thấu cái phức tạp
đa đoan của hiện thức cuộc đời.
3. Giá trị nhân đạo của tác phẩm:
- Truyện cho thấy lòng yêu thương, sự cảm thông của tác giả đối với cuộc sống nghèo khổ và
những bất hạnh trong gia đình hàng chài.
- Đề cập tình trạng bạo lực trong gia đình cậu bé Phác, nhà văn kêu gọi mọi người hãy bảo vệ
trẻ em, chống nạn bạo hành gia đình.
- Từ sự tha hóa của người đàn ông hàng chài qua điểm nhìn của một người lính, Nguyễn Minh
Châu muốn nói đến một cuộc chiến mới, không kém phần khó khăn, gian khổ so với hai cuộc kháng
chiến chống kẻ thù xâm lược đã qua: cuộc chiến đấu bảo vệ nhân tính, thiên lương và vẻ đẹp tâm
hồn của con người.
4. Giá trị nghệ thuật của tác phẩm:
a. Những hình ảnh mang ý nghĩa biểu tượng:
- Hình ảnh chiếc thắt lưng lính ngụy và bãi xe tăng hỏng: cuộc chiến đấu chống đói nghèo, lạc
hậu còn diễn ra dai dẳng. Nó cũng khốc liệt chẳng kém gì cuộc chiến chống ngoại xâm vừa qua đi.
- Tấm ảnh được chọn trong “bộ lịch năm ấy”: Nghệ thuật chân chính không bao giờ xa rời cuộc
đời. Nghệ thuật chân chính là cuộc đời và phải luôn vì cuộc đời.
- Hình ảnh chiếc thuyền ngoài xa và ý nghĩa nhan đề của TP: Nhan đề như một gợi ý về một
khoảng cách, về cự li nhìn ngắm đời sống mà người nghệ sĩ cần coi trọng.
b. Nghệ thuật trần thuật:
- Nghệ thuật xây dựng cốt truyện: Cốt truyện được xây dựng bằng tình huống mang tính chất
khám phá, phát hiện về cuộc sống.
- Hình thức kể chuyện (người kể, điểm nhìn trần thuật):
+ Người kể chuyện là nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng tức là một nhân vật trong câu chuyện. Nhờ hình
thức này, câu chuyện trở nên gần gũi hơn, khách quan, chân thực hơn và cũng có sức thuyết phục
hơn.
+ Điểm nhìn trần thuật không chỉ đặt ở nhân vật Phùng mà có sự phối hợp nhiều điểm nhìn
khác nhau.
- Giọng điệu trần thuật: Sắc thái giọng điệu luôn thay đổi theo diễn tiến tình tiết khá giàu kịch
tính.
- Nghệ thuật ngôn ngữ: Ngôn ngữ TP có sự kết hợp giữa chất trữ tình và chất triết lí.
III. Tổng kết:
1. Giá trị nội dung:
* Chủ đề tác phẩm: Nguyễn Minh Châu đã thể hiện cái nhìn thấu hiểu, nặng trĩu tình thương và
nỗi lo âu đối với những cảnh đời, thân phận trớ trêu của con người và gửi gắm chiêm nghiệm sâu
sắc của mình về nghệ thuật. Nghệ thuật chân chính phải gắn bó với cuộc đời và và vì cuộc đời.
Người nghệ sĩ cũng như tất cả mọi người cần phải nhìn cuộc sống và con người một cách đa diện
nhiều chiều.
- Thông điệp từ tác phẩm
+ Phải tạo điều kiện sống như thế nào đó để những gia đình dân chài không phải tự giải quyết
cho sự sống còn của mình bằng giải pháp cực kì vô lí của người đàn bà bất hạnh kia.
+ Bài học rút ra đối với nghệ thuật: tránh cái nhìn giản đơn, thi vị hoá, lãng mạn hoá hiện thực.
+ Hiện thực và con người rất phức tạp, đầy bí ẩn không được coi là cái đã biết trước.
2. Giá trị nghệ thuật:
+ Cái nhìn hiện thực sắc sảo, sự quan sát bằng mắt nhưng thấy bằng tấm lòng của nhà văn.
+ Cách khắc họa nhân vật, xây dựng cốt truyện, sử dụng ngôn ngữ rất linh hoạt, sáng tạo đã
làm nổi bật chủ đề - tư tưởng của TP.
* LUYỆN TẬP:
1. Nhân vật nào trong truyện để lại cho anh/ chị ấn tượng sâu sắc nhất?
2. Vẽ sơ đồ thể hiện sự biến đổi nhận thức của nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng và chánh án Đẩu trong
tác phẩm.
3. Chủ nghĩa nhân văn trong sáng tác của Nguyễn Minh Châu có những điểm kế thừa và sáng
tạo riêng so với Nam Cao như thế nào?
PHỤ LỤC 6, GIÁO ÁN DÙNG CHO LỚP ĐỐI CHỨNG
Tiết 73, 74, 75 CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA
(Nguyễn Minh Châu)
* MỤC TIÊU BÀI HỌC: Giúp hs:
- Cảm nhận được suy nghĩ của người nghệ sĩ nhiếp ảnh: đằng sau bức ảnh đẹp về chiếc
thuyền trong sương sớm là số phận đau đớn của người phụ nữ và bao ngang trái trong một gia đình
hàng chài. Từ đó thấu hiểu: không thể đơn giản, sơ lược khi nhìn nhận cuộc sống.
- Nắm những đặc sắc về nghệ thuật: kết cấu độc đáo, cách triển khai cốt truyện, khắc hoạ
nhân vật,…
* PHƯƠNG TIỆN DẠY HỌC:
SGK, thiết kế bài học.
* CÁCH THỨC THỰC HIỆN:
Đọc diễn cảm, phát vấn, đàm thoại, nêu vấn đề, thảo luận.
* TIẾN TRÌNH DẠY HỌC:
1. Ổn định lớp:
2. Kiểm tra bài cũ:
3. Tổ chức dạy học:
HOẠT ĐỘNG CỦA NỘI DUNG CẦN ĐẠT
GV VÀ HS
-Gv giới thiệu và hs đọc
tiểu dẫn để rút ra:
+? Những điểm chính về
tác giả
+? Thể loại
+? Hoàn cảnh sáng tác
-Hs tóm tắt truyện.
-? Nội dung
-Hs đọc văn bản ở nhà,
đọc một số đoạn tiêu
biểu ở lớp.
-? Hai phát hiện của
người nghệ sĩ nhiếp ảnh
+? Lần thứ nhất
+? Tìm các chi tiết thể
hiện
+? Lần thứ hai
+? Ý nghĩa của sự phát
hiện ấy
-? Các nhân vật
+? Phân tích hình tượng
người đàn bà vùng biển
+? Nhận xét về số phận
và tính cách
I. Giới thiệu:
1.Tác giả:
-Nguyễn Minh Châu (1930-1989), quê ở Nghệ An.
-Một trong những cây bút tiên phong của văn học Việt Nam thời kì
mới.
2.TP:
-Truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa được viết 1983, in trong tập
truyện cùng tên 1987.
-Tóm tắt truyện:
-Nội dung: Truyện kể về sự phát hiện của người nghệ sĩ nhiếp ảnh:
đằng sau bức ảnh đẹp về chiếc thuyền trong sương sớm là số phận đau
đớn của người phụ nữ và bao ngang trái trong một gia đình hàng chài.
Từ đó đưa đến thông điệp: không thể đơn giản, sơ lược khi nhìn nhận
cuộc sống.
II. Đọc-hiểu:
1.Hai phát hiện của người nghệ sĩ nhiếp ảnh:
- Phát hiện thứ nhất đầy thơ mộng: anh phát hiện một vẻ đẹp trời cho
trên mặt biển mờ sương. Vẻ đẹp mà cả đời bấm máy có lẽ anh chỉ
diễm phúc gặp một lần -> Niềm hạnh phúc của nghệ sĩ là hạnh phúc
của khám phá và sáng tạo, của sự cảm nhận cái đẹp tuyệt diệu. Trong
hình ảnh chiếc thuyền ấy, anh đã gặp cái tận chân, tận mĩ; thấy tâm
hồn mình như được gọt giũa trở nên thật trong trẻo, tinh khôi bởi cái
đẹp hài hoà lãng mạn của cuộc đời.
- Phát hiện thứ hai đầy bất ngờ và trớ trêu như trò đùa quái ác của cuộc
sống. Đằng sau cái đẹp toàn bích, toàn thiện mà anh vừa bắt gặp
không phải là đạo đức, chân lí của sự toàn thiện. Anh chứng kiến từ
chiếc thuyền ngư phủ bước ra một người đàn bà xấu xí, mệt mỏi và
cam chịu và một người đàn ông thô kệch, dữ dằn và độc ác đánh vợ.
2.Các nhân vật:
a.Người đàn bà vùng biển:
-Ngoại hình gây ấn tượng về cuộc đời học nhằn, lam lũ: trạc ngoài bốn
mươi, thô kệch, rỗ mặt, lúc nào cũng xuất hiện với khuôn mặt mệt
mỏi.
-Thầm lặng chịu đựng mọi nỗi đau: khi bị chồng đánh không kêu,
không chống trả, không tìm cách chạy trốn.
-Nhất quyết gắn bó với lão đàn ông vũ phu mặc dù bị “ba ngày một
trận nhẹ, năm ngày một trận nặng”.
-Nguồn gốc của sự chịu đựng là tình thương con vô bờ: “đám đàn bà
hàng chài ở thuyền chúng tôi cần phải có người đàn ông chèo chống
khi phong ba, để cùng làm ăn nuôi nấng đặng một sắp con nhà nào
cũng trên chục đứa”, “đàn bà ở thuyền chúng tôi phải sống cho con
chứ không thể sống cho mình”,… Cách xử sự không khác được vì
trong đau khổ triền miên vẫn chắt lọc được những niềm hạnh phúc nho
nhỏ: “trời sinh ra đàn bà là để đẻ con, rồi nuôi con cho đến khi khôn
lớn”, “ở trên thuyền cũng có lúc vợ chồng con cái chúng tôi sống hoà
thuận, vui vẻ”, “Vui nhất là lúc nhìn đàn con chúng tôi nó được ăn
no”,…
-> Số phận đáng thương, sự cam chịu nhẫn nhục đáng được cảm
thông. Thấp thoáng trong người đàn bà ấy là bóng dáng của biết bao
phụ nữ VN nhân hậu, bao dung, vị tha, giàu đức hi sinh.
+? Nhân vật lão đàn ông
độc ác có những đặc
điểm gì về tính cách
+? Những đứa trẻ (chị
em Phác) có phải là nạn
nhân của bạo hành gia
đình không
+? Suy nghĩ của anh/ chị
về điều này
+? Phẩm chất của người
nghệ sĩ nhiếp ảnh
+? Diễn biến tâm trạng
của Phùng khi chứng
kiến cảnh người đàn ông
đánh vợ
-> Câu chuyện của người đàn bà gửi đến thông điệp: không thể dễ dãi,
đơn giản trong việc nhìn nhận mọi sự việc, hiện tượng cuộc sống.
b.Lão đàn ông độc ác:
-Ngoại hình dữ tợn: tấm lưng rộng và cong như mũi thuyền, mái tóc tổ
quạ, hai mắt đầy vẻ độc dữ,…
-Cuộc đời nghèo, vất vả, quẩn quanh bao nhiêu lo toan, cực nhọc đã
biến anh con trai cục tính nhưng hiền lành” xưa kia thành người chồng
vũ phu, người đàn ông độc ác. Khi nào thấy khổ là đánh vợ, đánh để
giải toả uất ức, trút sạch tức tối buồn phiền. Đánh rất tàn nhẫn, đánh để
thoả mãn lòng ích kỉ tự cho mình cái quyền được hành hạ mọi người.
->Là nạn nhân của cuộc sống cực khổ, vừa là thủ phạm gây bao đau
khổ cho người thân của mình.
-> Tác giả đặt vấn đề phải làm sao nâng cao phần thiện trong những kẻ
thô bạo ấy.
c.Những đứa trẻ (chị em Phác):
-Chúng bị đẩy vào tình thế khó xử: biết đứng về ai, biết làm thế nào để
giữ đạo làm con.
-Người chị:
+Yếu ớt mà can đảm, phải vật lộn để tước con dao không cho em làm
việc trái đạo lí. Trong lòng tan nát bởi bố điên cuồng hành hạ mẹ, em
thương mẹ cầm dao ngăn bố.
+Là điểm tựa cho mẹ: hành động bảo vệ mẹ, biết chăm sóc lo toan khi
mẹ đến toà án.
-Phác:
+Bảo vệ mẹ bằng cách giật chiếc thắt lưng quật lại bố, cầm dao ngăn
bố.
+Thương mẹ kiểu đứa con nhỏ, theo cách con trai vùng biển: lặng lẽ
đưa những ngón tay sờ lên khuôn mặt người mẹ như muốn lau đi
những giọt nước mắt, tuyên bố nếu nó còn có mặt ở dưới biển này thì
mẹ nó không bị đánh.
-> Tuy không chấp nhận tình thương mẹ của Phác những vẫn thấy ở
đó tình thương mẹ dạt dào.
d.Người nghệ sĩ nhiếp ảnh:
-Phẩm chất nghệ sĩ: thật sự xúc động ngỡ ngàng trước vẻ đẹp tinh khôi
của biển lúc mờ sương. Sự nhạy cảm như anh không tránh được nỗi
giận khi phát hiện sự bạo hành đằng sau cảnh lãng mạn.
-Phẩm chất của người lính đã từng vào sinh ra tử: căm ghét mọi áp
bức bất công, sẵn sàng làm tất cả vì điều thiện, lẽ công bằng. Anh đã
hai lần xông ra cứu người đàn bà.
-Động thái trong lần đầu chứng kiến cảnh người đàn ông đánh vợ:
kinh ngạc, phản xạ tự nhiên là vứt máy ảnh chạy tới -> Thông điệp:
chiếc thuyền nghệ thuật thì ở ngoài xa, một khoảng cách đủ để tạo nên
vẻ đẹp huyền ảo; nhưng sự thật cuộc đời thì rất gần. Đừng vì nghệ
thuật mà quên cuộc đời, bởi lẽ nghệ thuật chính là cuộc đời. Trước khi
là nghệ sĩ biết rung động trước cái đẹp hãy là một con người biết yêu
ghét vui buồn trước mọi lẽ đời, biết hành động để có cuộc sống xứng
đáng với con người.
2.Nghệ thuật:
a.Nghệ thuật xây dựng cốt truyện:
Cốt truyện được xây dựng bằng tình huống mang tính chất khám phá,
phát hiện về cuộc sống. Đó là việc Phùng chứng kiến lão đàn ông đánh
-? Đặc sắc nghệ thuật
+? Nghệ thuật xây dựng
cốt truyện
+? Ngôn ngữ
+? Người kể chuyện là ai
+? Nhận xét về ngôn ngữ
nhân vật
-Hs đọc Ghi nhớ SGK.
-Gv hướng dẫn hs LT
vợ. Trước đó Phùng nhìn đời bằng con mắt nghệ sĩ. Chính lúc tâm hồn
thăng hoa nhất anh lại chứng kiến cảnh đau lòng nhất. Tình huống đó
được lặp lại lần nữa và từ đó về sau anh nhìn đời bằng cặp mắt khác
hẳn. Anh hiểu những ngang trái trong gia đình hàng chài, tính cách
người đàn bà và chị em Phác, bản chất đồng đội Đẩu.
b.Nghệ thuật ngôn ngữ:
-Ngôn ngữ kể chuyện: người kể chuyện là Phùng, xưng “tôi” (sự hoá
thân của tác giả) -> Tạo điểm nhìn trần thuật sắc sảo, làm cho lời kể
chuyện trở nên khách quan, chân thật.
-Ngôn ngữ nhân vật phù hợp với đặc điểm tính cách của từng người:
+Lời người đàn bà dịu dàng, xót xa khi nói với con và đớn đau thấu
trải lẽ đời khi nói về thân phận mình.
+Lời của Đẩu với giọng điệu tốt bụng, hiền lành.
III.Tổng kết: Ghi nhớ SGK
* Luyện tập: Nhân vật nào trong truyện để lại cho anh/ chị ấn tượng
sâu sắc nhất?
4. Củng cố: Qua Tổng kết và Luyện tập.
5. Dặn dò: Chuẩn bị bài mới Thực hành về hàm ý.
PHỤ LỤC 7, Phiếu 1:
PHIẾU ĐÁNH GIÁ NHANH SAU GIỜ HỌC (CUỐI BÀI HỌC)
(Dùng chung cho lớp thực nghiệm và lớp đối chứng)
--------------
Anh/ chị hãy:
-Phát biểu 3 vấn đề chưa rõ:
+ ………………………………………………………………………………………
+ ………………………………………………………………………………………
+ ………………………………………………………………………………………
-Nhận xét góp ý 2 vấn đề:
+ ………………………………………………………………………………………
+ ………………………………………………………………………………………
-Đưa ra 1 giải pháp:
…………………………………………………………………………………………
PHỤ LỤC 7, Phiếu 2:
PHIẾU THỐNG KÊ KẾT QUẢ ĐÁNH GIÁ NHANH
Nội dung Lớp TN (78 HS) Lớp ĐC (78 HS)
Số lượng Tỉ lệ % Số lượng Tỉ lệ %
Phát biểu 3 vấn đề chưa rõ 5 6,4 16 20,5
Nhận xét góp ý 2 vấn đề 7 9 3 3,8
Đưa ra 1 giải pháp 6 7,7 1 1,3
PHỤ LỤC 8, ĐỀ KIỂM TRA THỰC NGHIỆM DẠY BÀI
“CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA” CỦA NGUYỄN MINH CHÂU
Đề bài:
Câu hỏi 1: (2 điểm)
Ý nghĩa nhan đề “Chiếc thuyền ngoài xa”?
Câu hỏi 2: (3 điểm)
Phân tích tình huống truyện
Câu hỏi 3: (3 điểm)
Cảm nhận về nhân vật người đàn bà hàng chài?
Câu hỏi 4: (2 điểm)
Suy nghĩ về tác giả Nguyễn Minh Châu qua nhân vật Phùng?
Đáp án:
Câu hỏi 1: (2 điểm)
Nhan đề như một gợi ý về một khoảng cách, về cự li nhìn ngắm đời sống mà người nghệ sĩ cần
coi trọng.
Câu hỏi 2: (3 điểm)
-Phân tích tình huống truyện:
+Tình huống nhận thức.
+Phùng và Đẩu chứng kiến một hiện tượng cuộc sống đầy nghịch lí.
+Điều khó hiểu đó được giải tỏa qua lời của người đàn bà ở tòa án huyện.
+Qua tình huống này, người nghệ sĩ nhiếp ảnh không chỉ phát hiện ra chân lí nghệ thuật mà anh
còn khám phá ra nhiều điều bí ẩn của cuộc sống và con người.
-Ý nghĩa tác dụng của tình huống truyện: làm cho mạch truyện tự nhiên mà chặt chẽ, bộc lộ tính
cách các nhân vật, thể hiện chủ đề tác phẩm.
Câu hỏi 3: (3 điểm)
-Thân phận: lam lũ, cay cực, nạn nhân của sự bạo hành từ người chồng vũ phu:
-Phẩm cách: một sức sống bền bỉ, một tâm hồn đầy tình thương và đức hi sinh.
-Câu chuyện của người đàn bà gửi đến thông điệp: không thể dễ dãi, đơn giản trong việc nhìn
nhận mọi sự việc, hiện tượng cuộc sống.
Câu hỏi 4: (2 điểm)
Trong nhân vật Phùng thấp thoáng bóng dáng của chính tác giả:
-Con người tài hoa, nghệ sĩ say mê nghệ thuật, yêu cái đẹp của cuộc sống và con người.
-Có cái nhìn sắc sảo đối với cuộc sống, luôn cố gắng phát hiện những giá trị đích thực của nhân
cách con người.
-Người chiến sĩ nhiệt thành, kiên quyết trong cuộc đấu tranh loại bỏ cái xấu, cái ác hướng tới hoàn
thiện cuộc sống.
* Lưu ý:
-Điểm tối đa phải bảo đảm yêu cầu về nội dung và diễn đạt: trình bày ý rõ ràng, không mắc lỗi
chính tả, dùng từ, ngữ pháp.
-Khuyến khích những bài làm sáng tạo, thể hiện sự cảm nhận của cá nhân
PHỤ LỤC 9, Phiếu 1:
PHIẾU DỰ GIỜ GIÁO VIÊN BẬC TRUNG HỌC
(LỚP THỰC NGHIỆM)
Họ và tên GV dạy: Nguyễn Huy Bình
Trường: THPT Lê Quí Đôn
Môn: Ngữ văn
Tên bài dạy: Chiếc thuyền ngoài xa (NMC) Tiết: 74
Họ tên người dự:
1/ Lê Thị Loan 2/Nguyễn Thị Kim Phụng 3/ Nguyễn Thị Thủy
I. BẢNG ĐÁNH GIÁ
CÁC MẶT CÁC YÊU CẦU ĐIỂM
NỘI DUNG
1
Chính xác khoa học (khoa học bộ môn và quan điểm
tư tưởng, lập trường chính trị)
2
2
3
Bảo đảm tính hệ thống, đủ nội dung, làm rõ trọng tâm
Liên hệ với thực tế (nếu có), có tính giáo dục
1.5
2
PHƯƠNG
PHÁP
4
Sử dụng phương pháp phù hợp với đặc trưng bộ môn,
với nội dung củ kiểu bài lên lớp
2
5
Kết hợp tốt các phương pháp trong các hoạt động dạy
và học
2
PHƯƠNG
TIỆN
6
Sử dụng và kết hợp tốt các phương tiện, thiết bị dạy
và học phù hợp với nội dung của kiểu bài lên lớp
2
7
Trình bày bảng hợp lý, chữ viết, hình vẽ, lời nói rõ
ràng, chuẩn mực, giáo án hợp lý
2
TỔ CHỨC
8
Thực hiện linh hoạt các khâu lên lớp, phân phối thời
gian hợp lý ở các phần, các khâu
1.5
9
Tổ chức và điều khiển học sinh học tập tích cực, chủ
động, phù hợp với nội dung của kiểu bài, với các đối
tượng, học sinh hứng thú học
2
KẾT QUẢ 10
Đa số học sinh hiểu bài, nắm vững trọng tâm, biết
vận dụng kiến thức
2
Điểm tổng cộng: 19/20
II. CÁCH XẾP LOẠI:
2.1. Loại giỏi: a/.Điểm tổng cộng đạt từ 17-20đ b/.Các yêu cầu 1,4,6,9 phải đạt 2đ
2.2. Loại khá: a/.Điểm tổng cộng đạt từ 13-16.5đ b/.Các yêu cầu 1,4,9 phải đạt 2đ
2.3. Loại trung bình: a/. Điểm tổng cộng đạt từ 10-12.5đ b/.Các yêu cầu 1,4 phải đạt 2đ
2.4. Loại yếu kém: a/. Điểm tổng cộng đạt từ 9đ
XẾP LOẠI TIẾT DẠY: Giỏi
III. Ý KIẾN GIÁO VIÊN ĐƯỢC THANH TRA
Nhất trí
……………………………………………………………...
Người dạy (kí tên) Tân An, ngày 24 tháng 2 năm 2010
Người dự (kí tên)
PHỤ LỤC 9, Phiếu 2:
PHIẾU DỰ GIỜ GIÁO VIÊN BẬC TRUNG HỌC
(LỚP ĐỐI CHỨNG)
Họ và tên GV dạy: Nguyễn Thị Nhạn
Trường: THPT Hùng Vương
Môn: Ngữ văn
Tên bài dạy: Chiếc thuyền ngoài xa (NMC), Tiết: 74
Họ tên người dự:
1/ Lê Thị Loan 2/Trần Thị Điểm 3/ Nguyễn Thành Hưng
BẢNG ĐÁNH GIÁ
CÁC MẶT CÁC YÊU CẦU ĐIỂM
NỘI DUNG
1
Chính xác khoa học (khoa học bộ môn và quan điểm
tư tưởng, lập trường chính trị)
2
2
3
Bảo đảm tính hệ thống, đủ nội dung, làm rõ trọng tâm
Liên hệ với thực tế (nếu có), có tính giáo dục
1.5
1.5
PHƯƠNG
PHÁP
4
Sử dụng phương pháp phù hợp với đặc trưng bộ môn,
với nội dung của kiểu bài lên lớp
2
5
Kết hợp tốt các phương pháp trong các hoạt động dạy
và học
0.5
PHƯƠNG
TIỆN
6
Sử dụng và kết hợp tốt các phương tiện, thiết bị dạy
và học phù hợp với nội dung của kiểu bài lên lớp
2
7
Trình bày bảng hợp lý, chữ viết, hình vẽ, lời nói rõ
ràng, chuẩn mực, giáo án hợp lý
1.5
TỔ CHỨC
8
Thực hiện linh hoạt các khâu lên lớp, phân phối thời
gian hợp lý ở các phần, các khâu
1.5
9
Tổ chức và điều khiển học sinh học tập tích cực, chủ
động, phù hợp với nội dung của kiểu bài, với các đối
tượng, học sinh hứng thú học
1.5
KẾT QUẢ 10
Đa số học sinh hiểu bài, nắm vững trọng tâm, biết
vận dụng kiến thức
1.0
Điểm tổng cộng: 15/20
I. CÁCH XẾP LOẠI:
1.1. Loại giỏi: a/.Điểm tổng cộng đạt từ 17-20đ b/.Các yêu cầu 1,4,6,9 phải đạt 2đ
1.2. Loại khá: a/.Điểm tổng cộng đạt từ 13-16.5đ b/.Các yêu cầu 1,4,9 phải đạt 2đ
1.3. Loại trung bình: a/. Điểm tổng cộng đạt từ 10-12.5đ b/.Các yêu cầu 1,4 phải đạt 2đ
1.4. Loại yếu kém: a/. Điểm tổng cộng đạt từ 9đ
XẾP LOẠI TIẾT DẠY: Trung bình
II. Ý KIẾN GIÁO VIÊN ĐƯỢC THANH TRA
Nhất trí
……………………………………………………………...
Người dạy (kí tên) Tân An, ngày 25 tháng 2 năm 2010
Người dự (kí tên)
PHỤ LỤC 9, Phiếu 3:
PHIẾU DỰ GIỜ GIÁO VIÊN BẬC TRUNG HỌC
(LỚP ĐỐI CHỨNG)
Họ và tên GV dạy: Nguyễn Văn Lang
Trường: THPT Hùng Vương
Môn: Ngữ văn
Tên bài dạy: Chiếc thuyền ngoài xa (NMC), Tiết: 74
Họ tên người dự:
1/ Lê Thị Loan 2/Nguyễn Thị Bích Hạnh 3/ Nguyễn Sự
I. BẢNG ĐÁNH GIÁ
CÁC MẶT CÁC YÊU CẦU ĐIỂM
NỘI DUNG
1
Chính xác khoa học (khoa học bộ môn và quan điểm
tư tưởng, lập trường chính trị)
2
2
3
Bảo đảm tính hệ thống, đủ nội dung, làm rõ trọng tâm
Liên hệ với thực tế (nếu có), có tính giáo dục
1.5
2
PHƯƠNG
PHÁP
4
Sử dụng phương pháp phù hợp với đặc trưng bộ môn,
với nội dung của kiểu bài lên lớp
2
5
Kết hợp tốt các phương pháp trong các hoạt động dạy
và học
1.0
PHƯƠNG
TIỆN
6
Sử dụng và kết hợp tốt các phương tiện, thiết bị dạy
và học phù hợp với nội dung của kiểu bài lên lớp
2
7
Trình bày bảng hợp lý, chữ viết, hình vẽ, lời nói rõ
ràng, chuẩn mực, giáo án hợp lý
1.5
TỔ CHỨC
8
Thực hiện linh hoạt các khâu lên lớp, phân phối thời
gian hợp lý ở các phần, các khâu
1.5
9
Tổ chức và điều khiển học sinh học tập tích cực, chủ
động, phù hợp với nội dung của kiểu bài, với các đối
tượng, học sinh hứng thú học
2
KẾT QUẢ 10
Đa số học sinh hiểu bài, nắm vững trọng tâm, biết
vận dụng kiến thức
1.0
Điểm tổng cộng: 16,5/20
II. CÁCH XẾP LOẠI:
2.1. Loại giỏi: a/.Điểm tổng cộng đạt từ 17-20đ b/.Các yêu cầu 1,4,6,9 phải đạt 2đ
2.2. Loại khá: a/.Điểm tổng cộng đạt từ 13-16.5đ b/.Các yêu cầu 1,4,9 phải đạt 2đ
2.3. Loại trung bình: a/. Điểm tổng cộng đạt từ 10-12.5đ b/.Các yêu cầu 1,4 phải đạt 2đ
2.4. Loại yếu kém: a/. Điểm tổng cộng đạt từ 9đ
XẾP LOẠI TIẾT DẠY: Khá
III. Ý KIẾN GIÁO VIÊN ĐƯỢC THANH TRA
Nhất trí
……………………………………………………………...
Người dạy (kí tên) Tân An, ngày 27 tháng 2 năm 2010
Người dự (kí tên)
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LA5506.pdf