Vận dụng phương thức nêu vấn đề vào việc dạy học tác phẩm `Chiếc thuyền ngoài xa` của Nguyễn Minh Châu ở trường THPT

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH ---------- LÊ THỊ LOAN VẬN DỤNG PHƯƠNG THỨC NÊU VẤN ĐỀ VÀO VIỆC DẠY HỌC TÁC PHẨM “CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA” CỦA NGUYỄN MINH CHÂU Ở TRƯỜNG THPT Chuyên ngành: LÝ LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC VĂN Mã số: 60 14 10 LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGUYỄN ĐỨC ÂN Thành phố Hồ Chí Minh - 2010 LỜI CẢM ƠN Tôi xin chân thành cảm ơn Thầy Nguyễn Đức Ân trong suốt thời gian qua đã nhiệt tình

pdf107 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 2190 | Lượt tải: 2download
Tóm tắt tài liệu Vận dụng phương thức nêu vấn đề vào việc dạy học tác phẩm `Chiếc thuyền ngoài xa` của Nguyễn Minh Châu ở trường THPT, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hướng dẫn, giúp đỡ tôi hoàn thành luận văn. Xin chân thành cảm ơn quý Thầy, Cô trường Đại học Sư phạm TP. Hồ Chí Minh đã tận tình giảng dạy và giúp đỡ chúng tôi suốt thời gian qua. Xin chân thành cảm ơn khoa Ngữ văn, Phòng Khoa học Công nghệ - sau đại học - trường Đại học Sư phạm TP. Hồ Chí Minh; các cấp lãnh đạo, Sở Giáo dục và Đào tạo, các Thầy, Cô, học sinh trường THPT Chuyên Long An, THPT Lê Quý Đôn, THPT Tân An, THPT Hùng Vương; bạn bè, gia đình… đã tạo mọi điều kiện thuận lợi, nhiệt tình giúp đỡ tôi trong suốt quá trình làm luận văn. Tác giả Lê Thị Loan LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực. Tác giả luận văn Lê Thị Loan PHẦN MỞ ĐẦU 1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI 1.1. Trong nửa cuối của thế kỷ vừa qua, với đà tiến của cuộc cách mạng khoa học công nghệ diễn ra mạnh mẽ và sâu rộng, các lĩnh vực của đời sống kinh tế, xã hội, văn hóa GD đang đứng trước những thay đổi, phát triển nhanh chóng, nhân loại đang bước sang kỉ nguyên mới với tốc độ chuyển biến phi thường. Thành tựu của khoa học công nghệ trở nên đa dạng, sinh động như chưa từng thấy, làm cho những nhu cầu, hoạt động của con người được đáp ứng và vươn lên không ngừng. Cụ thể là cuộc cách mạng khoa học công nghệ lần thứ 3 (hệ thống công nghiệp hiện đại với tự động hóa, tin học hóa, cách mạng sinh học) đã hình thành xã hội siêu công nghiệp. Mục tiêu đầu tiên của nền GD thời đại siêu công nghiệp là làm tăng khả năng đối phó, thích nghi của con người trước tốc độ biến động kinh tế xã hội nhanh chóng, liên tục và khả năng giải quyết các vấn đề của cuộc sống đặt ra. Chính từ cơ sở lịch sử - xã hội nói đó mà nhà trường hiện đại nhằm tới xây dựng hệ PP GD tích cực (Hệ thống các PPDH theo định hướng tích cực). Dạy học văn cũng nằm trong xu thế tất yếu đó. 1.2. Những năm gần đây, GD đã trải qua sự thay đổi quan trọng. Năm 2003, chương trình, SGK môn Ngữ văn THPT được thiết kế điều chỉnh. Từ đó, PPDH cũng đổi mới. Chương trình GD phổ thông hiện hành đã nêu rõ: “Phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của HS; phù hợp với đặc trưng môn học, đặc điểm đối tượng HS, điều kiện của từng lớp học; bồi dưỡng cho HS phương pháp tự học, khả năng hợp tác; rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn; tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú và trách nhiệm học tập cho HS”. Tài liệu “Hướng dẫn thực hiện chương trình, SGK môn Ngữ văn lớp 12” đã giới thiệu một số PPDH theo định hướng tích cực như: thuyết trình, vấn đáp, đàm thoại, phát hiện và giải quyết vấn đề, lí thuyết tình huống, lí thuyết kiến tạo,… Vậy, dạy học tác phẩm văn chương (văn bản văn học) theo phương thức NVĐ là một kiểu dạy học chuyên biệt thuộc hệ PPDH tích cực. 1.3. Trong thực tế: - Việc dạy học theo định hướng tích cực đã được GV quán triệt về mặt quan điểm và nhận thức về lí luận. Tuy nhiên, khó khăn nhất là cách thức vận dụng vào thực tế sao cho có hiệu quả. “Bài toán có vấn đề” - bài toán ơrixtic trong giờ dạy học văn bản - tác phẩm văn chương là một vấn đề cần được quan tâm nhiều hơn, nhất là đối với những tác phẩm mới được đưa vào chương trình. - Tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu còn mới đối với GV và HS. Bởi thời kì văn học sau 1975 nói chung và “Chiếc thuyền ngoài xa” nói riêng vừa được đưa vào chương trình và SGK năm 2008. Xuất phát từ những lý do trên, với mong muốn góp phần cải tiến PPDH, nâng cao hiệu quả dạy học văn và rèn luyện được một số kỹ năng tiếp nhận văn bản văn học cho HS, chúng tôi chọn đề tài nghiên cứu: “Vận dụng phương thức nêu vấn đề vào việc dạy học tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu ở trường THPT”. 2. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ 2.1. Nguồn gốc: Dạy học nêu vấn đề là một quan điểm dạy học được đề cập tới trong nhà trường trên thế giới từ những năm năm mươi của thế kỉ XX và không ngừng được bổ sung hoàn thiện để trở thành một phương thức dạy học phù hợp với quan điểm dạy học phát triển và tích cực của nhà trường hiện đại. Thực ra, như I.Ia Lecne từng nêu “tính NVĐ” trong hoạt động dạy học không phải là hiện tượng mới mẻ xa lạ. Bởi từ xưa, hiện tượng NVĐ đã từng xuất hiện trong các buổi tọa đàm do Xocrate khởi xướng cũng như Khổng Tử - nhà GD cổ xưa của Trung Quốc - khơi gợi học trò bàn về Trí, trong đó có phần về NVĐ. Dần dần, qua các thời kì hình thành và tồn tại của nhà trường, từ những hình thức tranh luận quỷ biện thời trung cổ tới những Kolocvium rồi tiến đến việc tổ chức những buổi ceminair của nhà trường hiện đại, các phương thức, hình thức dạy học không ngừng cải tiến và DHNVĐ hoàn thiện thành một tư tưởng dạy học có cơ sở lý luận và thực tiễn vững vàng. “Cũng như bất kì hiện tượng nào nảy sinh một cách hữu cơ trong sự phát triển của nhà trường, DHNVĐ có lịch sử của nó. Các nguyên lý DHNVĐ đã được hình thành trong những tìm tòi suy nghĩ của các nhà sư phạm đi trước. Việc cố gắng tích cực hóa quá trình học tập, việc củng cố quan hệ giữa GD và đời sống, việc thúc đẩy hoạt động độc lập của người học, việc xây dựng các bài tập sáng tạo, đưa HS ra ngoài phạm vi của việc “lặp lại cái đã trải qua” - tất cả những nét riêng đó của hoạt động sư phạm, tiêu biểu cho những năm 50 - 60 (thế kỉ XX), là một sự vận động dẫn tới DHNVĐ và nhập vào làm yếu tố cấu thành của cách dạy đó” [116, tr.101]. Ở Việt Nam, trong nhà trường miền Bắc những năm 70 của thế kỉ trước, DHNVĐ đã bước đầu được vận dụng nhờ việc tiếp thu, học hỏi của một số nhà sư phạm có điều kiện tiếp cận các tài liệu lý luận dạy học và kinh nghiệm khá hiếm hoi từ Liên Xô và một số nước trong phe xã hội chủ nghĩa. Có thể xem đây là thời gian đầu trong bước tập dượt cho nên không tránh khỏi những vấp váp, lúng túng. Đến giữa những năm 80, khi tiến hành cải cách GD, nhờ tiếp thu những tài liệu lý luận tương đối có hệ thống của Liên Xô, dựa vào quan điểm đổi mới dạy học văn được đúc kết qua lý luận và thực tiễn, các nhà sư phạm, các chuyên gia có kinh nghiệm đã xây dựng quan điểm dạy học tiên tiến với việc đề xuất những PPDH mới, trong đó DHNVĐ được xem là một trong bốn PPDH văn cơ bản. Tuy nhiên, quá trình triển khai cải cách việc dạy học văn lại gặp những trở ngại, do việc chỉ đạo có phần nóng vội, thiếu chuẩn bị chu đáo, trong khi tình hình đất nước và ngành GD đứng trước yêu cầu bức xúc của công cuộc đổi mới đang diễn ra mạnh mẽ. Vì thế, những yêu cầu đặt ra đối với việc cải cách dạy học văn chưa đạt kết quả mong muốn, chất lượng GD đào tạo, do vậy, chưa vươn lên tương xứng với tầm phát triển chung của đất nước. Trong khi những PPDH mới chưa có cơ sở định hình và vận dụng đồng bộ thì tình trạng dạy học văn ít nhiều quay lại con đường mòn của cách thức dạy học cũ, thiên về nhồi nhét, đọc - chép vốn chịu ảnh hưởng của kiểu dạy học ghi nhớ - tái hiện. Dạy học NVĐ vô hình trung bị lãng quên thậm chí có những ý kiến ngần ngại, băn khoăn về hiệu quả của cách thức dạy học tiên tiến này. Vào đầu thế kỉ XXI, trước xu thế phát triển của đất nước trong kỉ nguyên mới, trước yêu cầu bức bách của xã hội về sự cấp thiết tạo bước chuyển biến mới của ngành GD, Quốc hội khóa X đã ra Nghị quyết về đổi mới GD. Vì thế, vào năm 2003, nền GD lại bước vào một chu kì thay đổi với hệ thống chương trình, SGK được biên soạn lại theo quan điểm mới. Môn văn được xác định tên gọi Ngữ văn, gắn với sự thay đổi cơ bản về nội dung và PPDH. Dựa trên quan điểm của nguyên tắc tích hợp và phát huy tính tích cực học tập của HS, nhiều PPDH mới chứa đựng yếu tố tích cực hiện đại lần lượt được xác định trong đó dạy học NVĐ vẫn giữ vai trò quan trọng vốn có. Nhờ nguồn tài liệu lý luận dạy học của thế giới được cập nhật phổ biến rộng cùng với sự tích lũy kinh nghiệm dạy học sau những lần cải cách, chỉnh lý chương trình, SGK nên người dạy có điều kiện mở rộng tầm nhìn để nắm bắt vận dụng PPDH mới có bài bản hơn. Tuy nhiên, có một thực tế dễ thấy, trong quá trình thay đổi quan điểm dạy học văn - môn học có tính chất đặc thù vốn dễ tạo ra những tranh luận về quan điểm dạy học - vẫn không tránh khỏi hiện tượng có những ý kiến trái chiều, không đồng thuận với nhau. Điều đó cho thấy “bài toán khó nhất là đổi mới PP, hiện đại hóa PP và đây cũng là vấn đề hiện đang còn nhiều ý kiến đối lập nhau thậm chí có nhiều ngộ nhận” [19, tr.79]. Vì thế, đã từng xảy ra điều khó tránh khỏi, khi trên một số diễn đàn trao đổi thảo luận về đổi mới PPDH văn, có những ý kiến hoài nghi tính hiệu quả của một số PPDH đã sử dụng như đọc sáng tạo, NVĐ, thậm chí còn xếp NVĐ vào hệ PPDH truyền thống!? Ngay trong quá trình vận dụng DHNVĐ, có hiện tượng từng xảy ra và đã tạo không ít trở ngại cho người dạy đó là việc quan niệm khác nhau về tên gọi. Cho nên lâu nay có những cách sử dụng khái niệm khác nhau. Có người xem NVĐ là một phương pháp dạy học [19], [42], có ý kiến cho đó là “quan niệm, tư tưởng dạy học” [103], lại có sự xác định đây là “hệ phương pháp chuyên biệt” [87], các nhà sư phạm Liên xô từ lâu thống nhất xem đây là một “phương hướng dạy học” [112], [116] và gần đây trong tài liệu bồi dưỡng do Bộ GD - Đào tạo ấn hành năm 2008 lại dùng tên là “Phương pháp phát hiện và giải quyết vấn đề” [19], còn các nhà sư phạm Trung Quốc lại gọi là một “phương thức dạy học” [30]. Nguyên nhân chính của tình trạng này là khi xây dựng hệ PPDH, chúng ta chưa có sự thống nhất để tìm ra cơ sở phân loại một cách đáng tin cậy. Tuy nhiên, đến nay, nhờ việc tiếp cận thông tin lý luận khoa học có thuận lợi, khoa lý luận dạy học ở nhà trường nước ta dần dần được hoàn thiện, nhờ đó, có thể đi tìm những lời giải đáp dựa trên căn cứ khoa học của việc phân định những khái niệm như: quan điểm dạy học, phương thức dạy học, phương pháp dạy học, hình thức và kĩ thuật dạy học. Bởi thế, có thể xác định rằng DHNVĐ không thể là một PPDH đơn nhất, nó là quan điểm, phương hướng hay như quan niệm của các nhà sư phạm Trung Quốc được trình bày gần đây là phương thức dạy học. Đó là cách thức tiến hành quá trình dạy học hướng tới phát huy năng lực suy nghĩ tìm tòi kiến thức độc lập sáng tạo của HS. 2.2. Những công trình nghiên cứu cơ sở lý luận dạy học nêu vấn đề: Tư tưởng DHNVĐ được hình thành và phát triển lần lượt tại nhà trường các nước tiên tiến trong hơn 50 năm qua. Ở Việt Nam, trong thời gian qua, lần lượt có một số công trình của nước ngoài được dịch và một số công trình được các nhà sư phạm nước ta biên soạn lần lượt xuất bản. Có thể kể tới một số tài liệu quan trọng sau đây: - V. Okon: Những cơ sở của dạy học nêu vấn đề Là nhà sư phạm người Ba Lan có công sớm đưa ra khái niệm về DHNVĐ, Ôkôn quan niệm “DHNVĐ là tập hợp những hoạt động như tổ chức các tình huống có vấn đề, phát biểu vấn đề, giúp đỡ cần thiết cho HS trong việc giải quyết vấn đề, kiểm tra phép giải đó và cuối cùng điều khiển quá trình hệ thống hóa, củng cố kiến thức tiếp thu được” [115, tr.68]. Tác giả phân định “vấn đề” được nảy sinh từ “tình huống có vấn đề”. Và theo đó, vấn đề luôn gắn với hai yếu tố “cái đã biết” và “cái chưa biết” trong đó cái đã biết là điều kiện để đi đến cái cần biết. Bằng việc xây dựng cơ sở lý luận và kiểm chứng qua thực nghiệm, công trình của Ôkôn, từ lâu nay, được xem là viên đá đặt nền móng xây dựng tư tưởng DHNVĐ trong lý luận dạy học hiện đại. - I.Ia Lecne: Dạy học nêu vấn đề Là nhà sư phạm có đóng góp vào việc nghiên cứu lý luận dạy học thời Xô Viết, Lecne có nhiều công trình nghiên cứu về PPDH. Trên cơ sở phân biệt các kiểu dạy học xuất hiện từ lâu nay, Lecne chú ý tới vấn đề phát triển tư duy sáng tạo cho HS, xem đó là yêu cầu quan trọng của nhà trường trong giai đoạn mới.Vì thế, ông đi sâu nghiên cứu cơ sở lý luận của quan niệm DHNVĐ. Lecne cho rằng “DHNVĐ có nội dung là: trong quá trình HS giải quyết một cách sáng tạo các vấn đề và bài toán có vấn đề trong một hệ thống nhất định thì diễn ra sự lĩnh hội sáng tạo các tri thức và kĩ năng, sự nắm kinh nghiệm hoạt động sáng tạo mà xã hội tích lũy được, sự hình thành nhân cách có tính tích cực công dân, có trình độ phát triển cao và có ý thức tự giác của xã hội xã hội chủ nghĩa” [112, tr.81] Trên cơ sở phân tích mối quan hệ nội tại của DHNVĐ, tác giả đi sâu giải thích các yếu tố tạo nên tư tưởng dạy học này, đó là “vấn đề”, “tình huống có vấn đề”, đặc biệt chú ý “bài toán có vấn đề”. Đồng thời Lecne cũng xác định các dạng của DHNVĐ. - A. M. Machiuskin: Các tình huống có vấn đề trong tư duy và trong dạy học Là nhà sư phạm Liên Xô từng có một số công trình được dịch ở Việt Nam. Qua tài liệu này, Maschiuskin nhấn mạnh vai trò của DHNVĐ, xem “tính NVĐ trong dạy học phải được hiểu trước hết là một giai đoạn cần thiết trong quá trình hình thành hành động, trong quá trình lĩnh hội tri thức” [111. tr.120]. Từ căn cứ này, tác giả tập trung tìm hiểu yếu tố then chốt của DHNVĐ là tình huống có vấn đề và đi sâu lý giải mối quan hệ từ góc độ tâm lý và tư duy khi tiến hành cách thức dạy học có tính sáng tạo. - Nguyễn Ngọc Quang: Lý luận dạy học đại cương (tập 2) Từ những kinh nghiệm dạy học tích lũy được, Nguyễn Ngọc Quang là người sớm quan tâm nghiên cứu lĩnh vực Lý luận dạy học theo quan điểm hiện đại. Công trình Lý luận dạy học (2 tập) do ông biên soạn là một tài liệu có đóng góp đáng kể vào việc xây dựng cơ sở lý luận khoa học cho ngành PPDH ở nhà trường nước ta. Trên cơ sở tiếp cận quan điểm GD tích cực, tác giả đã đề ra hệ PPDH đa dạng hướng tới xu hướng dạy học phát triển. Do đó, tài liệu tập trung trình bày khá đầy đủ nội dung và hình thức của DHNVĐ. Cùng quan điểm với các nhà sư phạm Liên Xô, Nguyễn Ngọc Quang đề cao vai trò của dạy học sáng tạo nên ông gọi tên của PPDH này là “NVĐ - ơrixtic”. Theo đó, đặc trưng cơ bản của hoạt động dạy là “NVĐ nhận thức” và của hoạt động học là “ơrixtic - tức tìm tòi” (còn gọi là dạy học giải bài toán). Điều đáng chú ý, tác giả xem NVĐ là “một phân hệ PPDH chuyên biệt hóa, tức là một tập hợp nhiều PPDH liên kết với nhau chặt chẽ và tương tác với nhau, trong đó PP dựng bài toán ơrixtic giữ vai trò trung tâm chủ đạo, gắn bó với các PPDH khác tập hợp lại thành một hệ thống toàn vẹn” [86, tr.121] - Thái Duy Tuyên: Phương pháp dạy học truyền thống và hiện đại Đây là công trình nghiên cứu, hệ thống hóa lý luận dạy học nhằm xác định sự khác nhau giữa PPDH truyền thống và hiện đại. Theo quan điểm đổi mới PPDH theo xu thế chung trên thế giới, tác giả đã giới thiệu hệ PPDH hiện đại, trong đó DHNVĐ là một khâu quan trọng. Dựa trên yêu cầu của cuộc cách mạng trong khoa sư phạm, tác giả nêu những ưu thế của DHNVĐ trong quá trình GD đào tạo của nhà trường với những nội dung cụ thể và xem DH NVĐ là một “quan niệm tư tưởng dạy học”. Những vấn đề nghiên cứu về PPDH của tác giả đã cập nhật được thành tựu của Lý luận dạy học trong thời gian qua. 2.3. Những công trình nghiên cứu dạy học nêu vần đề vận dụng vào dạy học môn văn - Z. Ia Rez (chủ biên): Phương pháp luận dạy văn học Đây là cuốn giáo trình của các nhà sư phạm Liên xô về PP dạy học văn được viết vào giữa thập niên 70 của thế kỉ XX. Nên có thể xem là một công trình tương đối mới được dịch và giới thiệu trong nhà trường nước ta. Vì thế, có thể thấy những quan điểm đổi mới dạy học văn trong lần cải cách vào năm 1986 được tham khảo vận dụng từ công trình này. Trong một phần của nội dung giáo trình, các tác giả đã trình bày chuyên đề “DHNVĐ và sự phát triển năng lực văn học của HS”. Từ quan niệm: “DHNVĐ là một trong những phương hướng để chiếm lĩnh các tri thức phức tạp của tài liệu học tập. Nó rèn luyện khả năng tư duy khái quát, tạo điều kiện thuận tiện cho sự phát triển PP hệ thống đối với các hiện tượng, một PP đặc trưng cho khoa học hiện đại. Và đó cũng chính là một trong những nguyên nhân làm cho nhà trường hiện đại quan tâm đến DHNVĐ” [116, tr.100]. Vận dụng tư tưởng NVĐ vào dạy học văn, các tác giả quan tâm tới tình huống có vấn đề với sự liên kết nhau và phức tạp dần lên đã tạo điều kiện cho việc GV hướng dẫn HS chủ động nắm kiến thức. Từ đó khẳng định “Phân tích NVĐ” cùng “Hệ thống câu hỏi NVĐ” là những cơ sở quan trọng để GV cùng HS tiến hành giờ học TPVC theo quan điểm tích cực, sáng tạo. - Phan Trọng Luận (chủ biên): Phương pháp dạy học văn Đây là giáo trình PPDH dành cho sinh viên khoa Ngữ văn trường Đại học sư phạm. Trong kết cấu của giáo trình ở phần hai, chương V, khi trình bày PPDH TPVC trong nhà trường, các tác giả có đề cập tới hệ PP dạy học TPVC, trong đó có nói tới “Phân tích NVĐ”. Khái niệm “Phân tích NVĐ” được diễn giải với hàm ý nêu bật vai trò của quan điểm dạy học tích cực sáng tạo đối lập với kiểu dạy học thông tin - tiếp thụ và tái hiện. Tuy không đi sâu trình bày những kiến thức lý thuyết của DHNVĐ, nhưng ở một chừng mức nhất định, các tác giả cũng làm nổi bật ưu thế của phương hướng dạy học này trong giờ văn. Giáo trình nêu bật ý nghĩa của tình huống có vấn đề trong giờ học TP và từ đây hướng tới khâu then chốt của hoạt động phân tích TP là việc xây dựng câu hỏi NVĐ. Quanh hình thức đặt câu hỏi, giáo trình cũng nêu những yêu cầu tính chất cần thiết của dạng câu hỏi này. - Trương Dĩnh: Câu hỏi trong giảng văn Là một chuyên luận với nội dung có tính ứng dụng DHNVĐ vào việc phân tích TPVC. Bởi thế, việc đề cập tới những khái niệm cơ bản của DHNVĐ như “vấn đề” “tình huống có vấn đề” không nặng về lý thuyết; Tác giả hướng chú ý vào việc giải quyết những yêu cầu đặt ra của NVĐ trong giờ giảng văn là việc xác định, lựa chọn tình huống có vấn đề, từ đó và gắn nó với hoạt động của thầy và trò trong giờ văn là “câu hỏi NVĐ”. Những nội dung trình bày qua chuyên luận bước đầu đã góp phần giải đáp những yêu cầu đặt ra đối với việc vận dung DHNVĐ vào giờ văn trong trường phổ thông. - Vũ Nho: Vận dụng dạy học nêu vấn đề trong giảng văn Là tài liệu biên soạn phục vụ cho việc bồi dưỡng đội ngũ GV văn ở trường THCS. Cũng như những công trình nghiên cứu về PPDH nói chung, tài liệu đã nêu những căn cứ khoa học của dạy học nêu vần đề, từ đó khẳng định tác dụng của DHNVĐ đối với việc đổi mới cách thức dạy học TPVC. Bằng sự kết hợp giữa hiểu biết lý luận dạy học với kinh nghiệm dạy học, tác giả đã vận dụng DHNVĐ vào một số TPVC được dạy học ở trường THCS. - Sử Khiết Doanh - Lưu Tiểu Hòa: Kĩ năng giảng giải - kĩ năng nêu vấn đề Là cuốn sách nằm trong bộ tài liệu gồm 6 cuốn do Trung tâm thực nghiệm giáo dục Quốc gia và Học viện giáo dục Hắc Long Giang (Trung Quốc) biên soạn nhằm đáp ứng cho nhu cầu bồi dưỡng kĩ năng dạy học môn Ngữ văn THCS và THPT cho đội ngũ GV. Bởi vậy, đây là một tài liệu có tính lý luận và nghiệp vụ cao. Cuốn sách dành trình bày về “Kĩ năng giảng giải - Kĩ năng NVĐ” hướng theo mục đích là “trình bày kỹ lưỡng về cơ sở lý thuyết kèm theo các bài giảng minh họa”. Do vậy, có thể thấy hai nội dung: + Phần lý thuyết: Phương thức DHNVĐ thông qua những nội dung cơ bản cụ thể (bản chất, ý nghĩa, chức năng, nguyên tắc…) được xác định khá rạch ròi, hệ thống. + Phần vận dụng minh họa (dạy mẫu) có sự chuẩn bị chu đáo và sự hướng dẫn công phu với việc đã trình bày khá rạch ròi về “thiết kế và loại hình của NVĐ” nhờ đó làm nổi bật yêu cầu và mục đích dạy học đề ra. Vì thế, công trình có tính thực hành và ứng dụng thiết thực. Chúng tôi nhận thấy đây là một tài liệu tham khảo có giá trị, do vậy, đã vận dụng vào công việc dạy học cũng như rút tỉa những quan điểm lý thuyết và ứng dụng đáng tin cậy giúp xây dựng nội dung của luận văn… - Các luận án tiến sĩ, thạc sĩ giáo dục: Những năm gần đây, có khá nhiều công trình nghiên cứu cách ứng dụng phương pháp dạy học NVĐ vào những giờ dạy học tác phẩm văn chương. Chẳng hạn: + Nguyễn Thị Ngân (2001), Câu hỏi nêu vấn đề trong giảng văn ở trường THPT. Luận văn này đã đặt vấn đề tìm hiểu bản chất của câu hỏi NVĐ là dựa trên cơ sở tư duy sáng tạo. Đồng thời, tác giả đã hệ thống hóa được các dạng câu hỏi NVĐ trong việc dạy học tác phẩm theo loại thể. Tuy nhiên, luận văn chưa thể hiện được việc vận dụng dạy học NVĐ trong sự liên kết với các PP dạy học khác như thế nào. + Đặng Thị Trinh (2007), Vận dụng phương pháp nêu vấn đề vào dạy học một số bài thơ trữ tình ở lớp 11 trường THPT. Luận văn đi vào bản chất dạy học NVĐ. Tác giả đã xây dựng được cơ sở lí luận của dạy học NVĐ và xem đây là phương pháp dạy học hiện đại góp phần phát huy sự tìm tòi, sáng tạo - ơrixtic ở HS. Đặng Thị Trinh vận dụng NVĐ vào việc dạy học một loại thể trữ tình. Tuy nhiên, cách vận dụng còn thiếu sự kết nối thành hệ thống câu hỏi liên kết nhau trong giờ học tác phẩm văn chương. Cách làm này có tạo hứng thú và khả năng tư duy cho HS nhưng chưa làm sáng tỏ những vấn đề nguyên tắc và tính chất của dạy học NVĐ. + Khổng Thị Mai (2009), Xây dựng và giải quyết tình huống có vấn đề trong giờ đọc-hiểu văn bản cho HS THP. Luận văn đã tập trung vào xây dựng tình huống có vấn đề. Tác giả đã đưa ra nhiều loại tình huống có vấn đề dưới dạng những câu hỏi để kích thích tư duy của HS, phần tổ chức cho HS giải quyết vấn đề còn mờ nhạt. Trên cơ sở kế thừa những kinh nghiệm của các nhà sư phạm đi trước và tiếp cận những thông tin mới về lí luận dạy học, trong luận văn này, chúng tôi hướng tới việc vận dụng phương thức NVĐ một cách linh hoạt hơn (thực hiện ở nhiều khâu trong tiến trình dạy học, ở nhiều mức độ khác nhau), rõ ràng và đầy đủ hơn (với hai hoạt động tương tác: NVĐ của GV và giải quyết vấn đề của HS). Tóm lại, cho tới nay, có thể thấy những công trình nghiên cứu về DHNVĐ xuất hiện ngày càng nhiều và từng bước đã góp phần xác định cơ sở lí luận và thực tiễn để hoàn thiện PP dạy học theo hướng tích cực, hiện đại, giúp người GV Ngữ văn có cơ sở lý thuyết và thực hành để thực thi việc đổi mới dạy học văn. 3. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU 3.1. Đối tượng nghiên cứu Đề tài nghiên cứu về vấn đề “Vận dụng phương thức nêu vấn đề vào việc dạy học tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu ở trường THPT” 3.2. Phạm vi nghiên cứu - Luận văn tập trung nghiên cứu phương thức NVĐ dựa trên hai quá trình phát hiện và giải quyết vấn đề, cũng như khả năng vận dụng nó trong giờ dạy học TPVC để giúp HS phát huy tính tích cực chủ động trong việc tiếp nhận TP Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu. - Tiến hành ở khối lớp 12 của trường THPT Lê Quí Đôn, THPT Tân An và THPT Hùng Vương trên địa bàn tỉnh Long An. 4. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU Từ những kiến thức về phương pháp dạy học và các kết quả nghiên cứu đã được công bố, luận văn hướng vào việc tìm hiểu cách vận dụng và đề xuất những vấn đề có liên quan đến phương thức NVĐ. Quá trình NVĐ gồm hai khâu: phát hiện và giải quyết vấn đề, dựa trên mối quan hệ tương tác GV - HS. Từ đó, giúp HS bộc lộ vai trò chủ thể cảm thụ sáng tạo trong các giờ học TPVC, góp phần nâng cao chất lượng dạy học văn hiện nay. 5. PP NGHIÊN CỨU Để giải quyết các vấn đề đặt ra trong luận văn, trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi đã sử dụng kết hợp các PP nghiên cứu sau đây: 5.1. PP phân tích tổng hợp PP này được sử dụng trong việc nghiên cứu, xử lí các tài liệu, các ý kiến của các nhà nhà lãnh đạo trong lĩnh vực GD, các nhà nghiên cứu, phê bình, các loại sách báo liên quan đến đề tài. Từ chỗ đọc, phân tích, rồi tổng hợp để đi đến xác lập những vấn đề lý thuyết liên quan đến đề tài. 5.2. PP quan sát điều tra PP này được sử dụng khi thu thập thông tin, nắm bắt thực tế nhằm đánh giá về PP học tập, khả năng tiếp nhận TPVC của HS trong quá trình tiếp cận TP. Từ đó, xác lập những thông số về thực tiễn dạy học ở phổ thông và năng lực của HS, đặc biệt là việc tạo các tình huống trong giờ lên lớp của GV và HS ở một số trường THPT trên địa bàn tỉnh Long An. 5.3. PP thực nghiệm sư phạm Đây là PP được thực hiện trong suốt quá trình nghiên cứu đề tài: thiết kế các tình huống học tập, thiết kế giáo án, tổ chức dạy học thực nghiệm. PP này giúp cho việc kiểm tra đánh giá tính đúng đắn, hợp lý, tính khả thi của việc phát hiện và giải quyết các vấn đề cho HS THPT trong các giờ học TPVC. 5.4. PP thống kê Sử dụng PP này để thống kê kết quả khảo sát và kết quả thực nghiệm. 5.5. PP so sánh - đối chiếu PP này được dùng trong việc so sánh giữa các bài viết, bài nghiên cứu về cách hướng dẫn HS tiếp cận TP Chiếc thuyền ngoài xa; so sánh các tiết dạy của các GV khác nhau về cùng TP ấy. Từ đó rút ra cái được và cái chưa được trong quá trình giảng dạy TP bằng PP này. 6. ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN VĂN Từ những nhiệm vụ đã đề xuất trên, đề tài của chúng tôi mang tính chất học tập và thử nghiệm là chủ yếu. Từ đó, chúng tôi muốn góp phần vào việc nâng cao chất lượng hiệu quả dạy học văn ở trường THPT. Cụ thể: 6.1. Về lí luận - Xác định quan điểm dạy học TPVC theo định hướng tích cực. - Hệ thống hóa lí luận dạy học bằng phương thức NVĐ trong giờ dạy học TPVC. - Xây dựng quy trình dạy học bằng phương thức NVĐ. 6.2. Về thực tiễn - Thiết kế giáo án thực nghiệm có tạo một số cách thức NVĐ và hướng dẫn thực hiện giải quyết vấn đề trong giờ dạy học TP Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu. - Thực nghiệm sư phạm ở trường THPT, minh họa được tính khả thi và tính hiệu quả của dạy học bằng phương thức NVĐ trong giờ đọc-hiểu văn bản văn học. 7. CẤU TRÚC LUẬN VĂN Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn được cấu trúc thành 3 chương: Chương 1: Phương thức NVĐ trong dạy học TPVC ở trường THPT. Chương 2: Vận dụng phương thức NVĐ vào việc dạy học TP Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu. Chương 3: Thực nghiệm sư phạm. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU CHƯƠNG I PHƯƠNG THỨC NÊU VẤN ĐỀ TRONG DẠY HỌC TÁC PHẨM VĂN CHƯƠNG Ở THPT 1.1. Cơ sở lí luận khoa học của phương thức dạy học nêu vấn đề 1.1.1. Bản chất của dạy học nêu vấn đề Từ những quan niệm đã dẫn ở phần “lịch sử vấn đề”, có thể nêu một khái niệm chung: “DHNVĐ là một phương thức dạy học, (chúng tôi nhấn mạnh - LTL), trong đó GV nêu lên nghi vấn để hướng sự suy nghĩ tích cực, có định hướng của HS nhằm tạo nên tình huống có vấn đề. NVĐ có tác dụng nêu thắc mắc, gợi suy nghĩ; tập trung chú ý; đánh giá phản hồi và tổ chức học tập” [30, tr.91]. Có thể thấy quan điểm dạy học đó được thể hiện gần như thống nhất trong các tài liệu đã xuất bản khi đề cập tới nội dung của DHNVĐ. Vì thế, DHNVĐ chứa đựng trong nó bản chất tích cực tiến bộ của tư tưởng dạy học mới. Đó là làm sao tìm cách thức thích hợp nhằm giúp HS nắm tri thức một cách chủ động, sáng tạo dựa vào hoạt động của chính bản thân với nỗ lực tìm tòi nghiên cứu cùng sự trợ giúp, hướng dẫn của GV. DHNVĐ, vì thế xuất hiện hai yêu cầu cơ bản không tách rời của quá trình dạy học: - NVĐ nghiên cứu, tức đặt nhiệm vụ học tập cho HS trong giờ học. Vấn đề nêu ra phải có sức cuốn hút, mới mẻ và phù hợp với trình độ kiến thức của HS. - Tìm cách thức để hướng dẫn tổ chức cho HS tham gia vào việc nắm bắt giải quyết yêu cầu của vấn đề đặt ra. Dĩ nhiên, để tiến hành thực hiện hai bước nói đó, GV và HS phải biết hợp tác và nỗ lực phát huy tư duy nội tại của bản thân để hoàn thành nhiệm vụ học tập được đề ra. Từ đó, có thể thấy, dù cách gọi tên dạy học NVĐ có sự khác nhau nhưng nội dung của kiểu dạy học này được hiểu khá nhất quán. Đồng thời, việc dùng khái niệm “phương thức” khá sát hợp vì thực chất đây là một kiểu dạy học, một phương hướng dạy học. 1.1.2. Một số nội dung cơ bản của phương thức dạy học nêu vấn đề 1.1.2.1. Vấn đề là gì? Ở góc độ duy vật biện chứng, tư duy gắn với quá trình nhận thức. Nhờ hoạt động của hệ thần kinh cao cấp, con người có khả năng nhận biết và khám phá thế giới hiện thực khách quan và do vậy không ngừng tích lũy kho kiến thức phong phú cho mình. Vậy làm sao để có hiểu biết? Đó là khi con người biết tìm ra những mâu thuẫn, tức là biết tìm ra những điều nghi vấn luôn xảy ra quanh mình. Xét về phương diện tâm lí nhận thức “tư duy thường bắt đầu bằng một vấn đề hay một câu hỏi từ sự ngạc nhiên hay sự thắc mắc từ sự mâu thuẫn. Tình huống có vấn đề như thế có tác dụng lôi cuốn cá nhân vào quá trình tư duy.” (X.L. Rubistein) [122, tr.25]. Bởi thế, nói một cách đơn giản, tư duy nảy sinh khi có vấn đề tức là một nghi vấn và “tình huống có vấn đề là điểm khởi đầu cho tư duy”. 1.1.2.2. Thế nào là “Tình huống có vấn đề”? Dễ thấy, đây là một khái niệm được đề cập tới trong lí luận dạy học hiện đại, là điểm khởi đầu cho DHNVĐ. “Tình huống có vấn đề là một khó khăn được chủ thể ý thức rõ ràng hay mơ hồ mà muốn khắc phục thì phải tìm tòi những tri thức mới, những phương hướng hành động mới” [122, tr.25]. Trong DHNVĐ lâu nay, chúng ta thường nhắc tới quan điểm khá đầy đủ, chính xác của Macmutov về tình huống có vấn đề - đó là trở ngại về trí tuệ của con người, xuất hiện khi anh ta chưa biết cách giải thích hiện tượng sự kiện, quá trình của thực tế, khi chưa thể đạt đến mục đích bằng cách thức hành động quen thuộc. Tình huống này kích thích con người tìm tòi cách giải thích hay hành động mới. Tình huống có vấn đề là quy luật của hoạt động nhận thức sáng tạo có hiệu quả. Nó quy định sự khởi đầu của tư duy, hành động tư duy tích cực sẽ diễn ra trong quá trình nêu và giải quyết vấn đề” [86, tr.123]. Như chúng ta biết, hoạt động học tập cũng là một dạng nghiên cứu khoa học. Vì thế, xét ở góc độ tâm lý sư phạm và GD, DHNVĐ nhấn mạnh tới sự khác biệt giữa hai kiểu tư duy thường gặp: tư duy tái tạo và tư duy sáng tạo. Do tính chất mục tiêu của GD thay đổi, nhà trường hiện đại đòi hỏi “HS trong quá trình sáng tạo, tạo ra cái mới không phải chủ yếu đối với xã hội mà là đối với chủ quan mình, nhưng cái mới ấy đồng thời cũng có ý nghĩa xã hội bởi vì khi đó cá nhân được hình thành và biểu lộ. Mặc dù ở đây không có điều gì mới mẻ đối với xã hội, song sở dĩ sự sáng tạo của HS có thể có ý nghĩa xã hội là vì quá trình hoạt động sáng tạo của HS giống và có khi trùng với quá trình hoạt động sáng tạo của nhà bác học, nhà phát minh, tóm lại của một người trưởng thành về mặt sáng tạo… sáng tạo của một đứa trẻ và của một nhà bác học ._.giống hệt nhau về sự nỗ lực, về khó khăn và về quy trình” [112, tr.16-17]. Chính vì thế, các nhà lý luận sư phạm thống nhất rằng quá trình tư duy được thực hiện trong tình huống có vấn đề là khâu then chốt, là yếu tố trung tâm để hình thành tư duy. Nếu không tìm ra tình huống có vấn đề thì làm sao có thể gợi ra sự chú ý và kích thích khả năng tư duy sáng tạo của HS, cũng từ tình huống nói đó mà HS bị lôi cuốn vào quá trình hình thành và tích lũy kiến thức. Như Lecne quan niệm: “vấn đề là một tình huống có vấn đề mà chủ thể tiếp nhận để giải quyết dựa trên các phương tiện (tri thức, kĩ năng, kinh nghiệm tìm tòi) sẵn có của mình. Cho nên mọi vấn đề đều chứa đựng tình huống có vấn đề, nhưng không phải bất kì tình huống có vấn đề nào cũng đều là vấn đề cả” [112, tr.27]. Trong công trình xuất bản gần đây, các nhà sư phạm Trung Quốc đã đi sâu phân tích, làm rõ thêm khái niệm này. Theo đó, “Thành phần cơ bản của tình huống có vấn đề gồm: một là những thứ mới, chưa được biết, phản ánh đối tượng của tư duy, đó là nội dung; hai là nhu cầu đối với cái chưa biết, phản ánh động cơ của tư duy; ba là khả năng của HS, bao gồm khả năng sáng tạo và mặt bằng tri thức của HS. Các thành phần này của tình huống có vấn đề thể hiện điều kiện nội tại của tư duy” [30, tr.92]. Trên cơ sở quan niệm nói đó, chúng ta có thể nhận ra mối quan hệ biện chứng của cấu trúc nội tại của tư duy trong quá trình nhận thức học tập. Trong đó, vai trò then chốt quan trọng chính là “những thứ mới chưa được biết”, nhờ vai trò của nó “mới có thể hình thành tình huống có vấn đề; đồng thời chỉ có sự trợ giúp của tình huống có vấn đề mới có thể tạo được điều kiện nội tại cho tư duy HS một cách có hiệu quả nhất, thúc đẩy tính tích cực trong tư duy của HS”. Chính vì thế “những thứ mới chưa biết là hạt nhân của bối cảnh vấn đề. Do đó, mấu chốt của việc tạo lập bối cảnh vấn đề chính là đưa ra “những thứ mới, chưa được biết” [30, tr.92]. 1.1.2.3. Bài toán có vấn đề Khi xem xét “tình huống có vấn đề”, lý luận dạy học cũng thường nêu khái niệm đi kèm là “bài toán có vấn đề” (Nguyễn Ngọc Quang gọi là “bài toán NVĐ - Ơrixtíc”). Bài toán là một thuật ngữ quen thuộc trong trường học, thể hiện phổ biến ở các môn thuộc khoa học tự nhiên, là dạng bài tập đòi hỏi hoạt động nhận thức của người học phải có tính nỗ lực, tìm tòi vận dụng kiến thức một cách tích cực sáng tạo. Vậy bài toán là gì? “Bài toán chỉ có thể là “bài toán” khi nó trở thành đối tượng hoạt động của một chủ thể, khi có một người nào đó có nhu cầu chọn nó làm đối tượng hoạt động, mong muốn giải bài toán đó tức là khi có một “người giải” [86, tr.104]. Vì thế, bài toán và người giải tạo thành một thể thống nhất, liên hệ chặt chẽ và tương tác với nhau bao gồm: Bài toán - đối tượng và người giải - chủ thể. Lecne là người từng nêu quan niệm: “Bài toán có vấn đề là một vấn đề được giải quyết với những điều kiện hay thông số cho trước. Bài toán có vấn đề khác với vấn đề ở chỗ, trong bài toán có vấn đề nội dung tìm kiếm lời giải được giới hạn rõ ràng”. “Nó là mô hình bằng kí hiệu của tình huống có vấn đề” (A.M Maschiuskin. L.M. Fritman). Một bài toán có vấn đề đều chứa đựng vấn đề và do đó đều chứa đựng tình huống có vấn đề, nhưng không phải bất cứ tình huống có vấn đề nào và bất kì vấn đề nào đều là bài toán cả. Các tình huống có vấn đề và các vấn đề phải được biến đổi đi và được phát biểu như thế nào đấy thì mới có tính chất và hình thức của một bài toán”. Từ luận điểm nói đó, chúng ta hiểu rằng để có “bài toán” người dạy phải biết cách tổ chức xây dựng tạo ra những giả thiết, những dữ kiện và nêu yêu cầu giải pháp để người học đi tìm lời giải. Bởi “Bản thân sự tồn tại của bài toán ơrixtic - theo GS. Nguyễn Ngọc Quang - chưa làm cho nó trở thành đối tượng của hoạt động nhận thức của HS trong bài học lên lớp. Nó chỉ trở thành đối tượng của hoạt động này chừng nào làm xuất hiện trong ý thức của HS một mâu thuẫn nhận thức tự giác, một nhu cầu bên trong muốn giải quyết mâu thuẫn đó (tức bài toán). Và cũng chính từ momen đó, khi HS chấp nhận mâu thuẫn của bài toán (cái khách quan) thành mâu thuẫn và nhu cầu bên trong của bản thân mình (cái chủ quan) thì anh ta biến thành chủ thể của hoạt động nhận thức… Từ lúc đó xuất hiện hệ hoạt động nhận thức gồm hai thành tố: chủ thể - HS và đối tượng - bài toán ơrixtic. Hai thành tố này tương tác với nhau, thâm nhập vào nhau, tồn tại vì nhau và sinh thành ra nhau trong một hệ thống trọn vẹn: sự nhận thức học tập” [86, tr.124]. Tác giả khẳng định “đây là momen quyết định đối với DHNVĐ - ơrixtic. Sự chuyển hoá cái khách quan bên ngoài thành cái mâu thuẫn - nhu cầu chủ quan bên trong của HS chỉ xảy ra khi nào nhà sư phạm biết kiến tạo một cách đúng đắn bài toán nhận thức. Và chỉ từ lúc đó HS mới bắt đầu học!” [86, tr.125]. Đối với các môn học Ngữ văn cũng vậy, con đường tìm tòi phát hiện của người học cũng chính là quá trình của sự nỗ lực tìm tòi, phát hiện kiến thức bằng việc đưa ra các lời giải của bài toán nhận thức một cách thích hợp, sáng tạo, tức là biết cách nắm và xử lý trúng các tình huống có vấn đề. Chính vì thế khi nói tới tình huống có vấn đề, các nhà tâm lý và sư phạm đều thống nhất rằng “Nếu không giải quyết các vấn đề và các bài toán thì không tài nào nắm được kinh nghiệm hoạt động sáng tạo” [112, tr.32]. Bởi “tư duy là công cụ và quá trình nhận thức, sản sinh do nhu cầu phải khắc phục khó khăn về mặt nhận thức trong bất kỳ dạng hoạt động nào” [112, tr.24]. DHNVĐ chính là phương thức dạy học dẫn tới hiệu quả của quá trình đào tạo, đó là việc chuẩn bị cho thế hệ trẻ tham gia lao động sáng tạo trong tất cả mọi lĩnh vực hoạt động cho tương lai. Đặc biệt, trong bối cảnh của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật hiện nay với đà tăng tiến mạnh mẽ và sự thâm nhập ngày càng sâu của thành tựu khoa học kỹ thuật vào các môn học ở nhà trường thì “Trong dạy học, rất nên vận dụng các biện pháp và cách thức của thuật toán hóa, của dạy học chương trình hóa; đúng là, nhằm mục đích phát triển tư duy hiện đại, cần tăng cường vai trò của quá trình đi từ trừu tượng đến cụ thể, từ cái chung đến cái riêng; đúng là, việc cung cấp cho HS những cơ sở có tính chất định hướng hành động, trong những điều kiện nhất định nào đó, là con đường hợp lý và tiết kiệm trong dạy học… Không một trường phái nào có thể xây dựng được một quá trình dạy học hiện đại thật hoàn chỉnh nếu không lưu ý vận dụng tư tưởng DHNVĐ” 1.1.2.4. Cấu trúc của dạy học nêu vấn đề Căn cứ vào nội dung đã trình bày, có thể nhận ra dấu hiệu của “vấn đề” là: - Xuất hiện tình huống có vấn đề. - Chủ thể đã được chuẩn bị ở chừng mực nào đó để tìm lời giải. - Được nêu dưới dạng câu hỏi (là “câu hỏi NVĐ”). - Có thể tìm hiểu nhiều lời giải, và không có đáp số cho trước. “Bài toán có vấn đề” là một vấn đề trong đó phạm vi tìm kiếm lời giải được giới hạn rõ ràng. 1.1.2.5. Đặc trưng cơ bản của dạy học nêu vấn đề Từ việc tìm hiểu nội dung và cấu trúc của phương thức dạy học chứa đựng tính tích cực sáng tạo như vừa nêu trên, có thể khái quát những đặc trưng cơ bản của DHNVĐ như sau: - GV đặt ra trước cho HS một loạt những bài toán nhận thức có chứa đựng mâu thuẫn giữa cái đã biết và cái phải tìm nhưng chúng được cấu trúc lại một cách sư phạm, gọi là bài toán NVĐ - ơrixtic. - HS tiếp nhận mâu thuẫn của bài toán - ơrixtic như mâu thuẫn của nội tâm mình và được đặt vào tình huống có vấn đề tức là trạng thái có nhu cầu bên trong bức thiết muốn giải quyết bằng được bài toán đó. - Trong và bằng cách tổ chức giải bài toán ơrixtic mà HS lĩnh hội một cách tích cực, tự giác cả kiến thức lẫn cách thức giải, do đó, có được niềm vui sướng của sự nhận thức sáng tạo. Chính từ những đặc trưng nổi bật nói đó nên các nhà sư phạm Trung Quốc từng nhấn mạnh rằng: “NVĐ là phương thức quan trọng, theo đó GV gợi ra các vấn đề, đưa ra những thứ mới mẻ, chưa được biết, thúc đẩy nhu cầu (hiểu biết) đối với những thứ mới của HS, từ đó tạo lập nên tình huống có vấn đề” [30, tr.93]. Từ đó họ khuyến khích GV Ngữ văn các cấp phải nắm vững kiến thức và kỹ năng của DHNVĐ, biết vận dụng một cách thành thục nhằm nâng cao năng lực và kinh nghiệm sư phạm của người thầy trong bối cảnh đổi thay mạnh mẽ của lĩnh vực PPDH trong nhà trường hiện nay. 1.1.2.6. Chức năng của dạy học nêu vấn đề Là một phương thức dạy học có vai trò tích cực trong việc đảm nhận trách nhiệm của nhà trường là góp phần đào tạo thế hệ trẻ thành những người biết nắm vốn kiến thức phong phú của các ngành khoa học bằng sự nỗ lực tư duy, nghiên cứu của bản thân, DHNVĐ góp phần hình thành và phát triển PP học tập mới mẽ và có khả năng thâm nhập vào các môn học để tạo ra bước chuyển biến của quá trình đào tạo theo quan điểm GD tích cực. Chính vì thế, DHNVĐ có vị trí và vai trò đặc biệt trong quá trình đào tào của nhà trường hiện đại, thể hiện tác dụng hiệu quả của một PPDH mới. Trong quá trình nghiên cứu vận dụng DHNVĐ, các nhà tâm lý GD và sư phạm đã nhấn mạnh tới chức năng của kiểu dạy học chuyên biệt này. Cho nên dù cách trình bày, diễn đạt nội dung có khác nhau, nhưng nói chung các quan niệm đều có sự liên hệ gần gũi và đều chú ý nêu bật những tác dụng quan trọng của DHNVĐ. - Theo Lecne, DHNVĐ có ba chức năng sau đây: + Chuẩn bị cho HS tham gia lao động sáng tạo, biểu lộ tiềm lực sáng tạo trong mọi lĩnh vực hoạt động mai sau: Hoạt động sáng tạo bao giờ cũng nhằm tới một đối tượng nào đó, trong dạy học đó chính là những tri thức và kỹ năng mà HS cần nắm bắt và tích lũy để tìm tòi hay vận dụng một cách sáng tạo. “Trong mọi trường hợp lĩnh hội sáng tạo, bao giờ các tri thức kỹ năng cũng mềm dẽo, cũng thực tế, chứ không như các tri thức tiếp thu ở dạng “có sẵn” [112, tr.36]. + Đảm bảo cho HS lĩnh hội một cách sáng tạo các tri thức vào phương thức hoạt động. + Đảm bảo cho HS nắm được một cách sáng tạo các PP của khoa học hiện đại ở trình độ vừa sức và cần thiết. DHNVĐ bao gồm quá trình giải quyết các vấn đề khoa học hay các vấn đề thực hành trên cơ sở khoa học, mà muốn làm điều đó không thể nào không vận dụng đến các PP hiện đại. Lecne còn giải thích rõ: “Có thể thắc mắc rằng, tách bạch ba chức năng như vậy có hợp lý không, bởi vì khi nêu chức năng thứ nhất thì trong đó cũng đã ngụ ý hai chức năng kia. Song sở dĩ cần rành mạch cả hai chức năng kia nữa là vì hai chức năng đó sẽ dẫn đến những vấn đề mới mà chức năng thứ nhất thì không nảy ra” [112, tr.37]. - Các nhà sư phạm Trung Quốc lại có cách khái quát các khái niệm tương đối gọn rõ và sát hợp, theo đó, DHNVĐ có các chức năng cụ thể như sau: + Kích thích thắc mắc, gợi suy nghĩ: Kích thích thắc mắc và gợi suy nghĩ là chức năng chủ yếu của NVĐ. Bởi “Khi nghiên cứu ý nghĩa của NVĐ đã nhắc tới NVĐ là một trong các phương thức quan trọng tạo nên bối cảnh của vấn đề”. Trong quá trình DHNVĐ, GV luôn chú ý khơi gợi, kích thích HS tìm ra đáp án chính xác từ những nghi vấn, gợi ý HS vận dụng các kiến thức đã học và các kinh nghiệm đã có để giải quyết vấn đề mới, kích thích và rèn luyện năng lực tư duy, phân tích, quy nạp, khái quát cũng như khả năng liên tưởng cho HS. + Tập trung chú ý: Chức năng này dựa vào đặc điểm hoạt động của bộ não con người, thể hiện sự chọn lựa rõ ràng khi cảm nhận sự việc khách quan. Khi ý thức HS tập trung vào những tác động về ngôn ngữ do GV NVĐ thì đồng thời những tác động khác bị hạn chế, từ đó hình thành tiêu điểm ý thức và sự chú ý cũng được tạo nên. Sử dụng NVĐ để tập trung sự chú ý của HS, chính vì thế, là PP thường dùng của GV trong dạy học nói chung. + Đánh giá và phản hồi: Trong quá trình NVĐ, GV thông qua việc giải đáp phản hồi của HS mà có thể nắm bắt trình độ, kết quả học tập cũng như kiểm tra đánh giá trạng thái, kết quả học tập của HS, từ đó có sự điều chỉnh thích hợp kế hoạch NVĐ của mình. Có thể thấy chức năng đánh giá phản hồi của NVĐ có hiệu quả kích thích mối tương tác hai chiều giữa GV và HS trong quá trình dạy học trên lớp. + Tổ chức dạy học: Chức năng tổ chức giảng dạy vừa thể hiện ở việc sắp xếp nội dung giảng dạy vừa thể hiện ở việc điều chỉnh trình tự giảng dạy và tinh thần học tập của HS. GV dựa vào mục đích và nội dung giảng dạy thiết lập và nêu câu hỏi theo kế hoạch, có thể hướng cho HS suy nghĩ thảo luận đi sâu từng bước hoặc cũng có thể tùy lúc tạm chuyển đổi nội dung dạy học [30, tr.96-97]. 1.1.2.7. Các dạng của dạy học nêu vấn đề DHNVĐ - như bản chất vốn có - chứa đựng trong nó khả năng khơi gợi, tìm tòi kiến thức của HS thông qua “việc giải các bài toán có vấn đề mang tính chất nhận thức thực hành. Phương thức dạy học này giữ vị trí then chốt quan trọng, song không “choán hết cả quá trình học tập” (Lecne). Vì thế, trong vận dụng DHNVĐ lâu nay, chúng ta thường dựa theo quan điểm cho rằng “Thực tiễn đã sản sinh ra ba dạng DHNVĐ khác nhau, mỗi dạng đặc trưng bởi những hệ thống hành động của GV và HS riêng, tức là bởi những PPDH riêng”. Do vậy, trong dạy học, thường căn cứ theo ba kiểu NVĐ sau đây: + Trình bày NVĐ: Trường hợp này xảy ra khi tình huống NVĐ đặt ra mà “HS không biến được thành vấn đề”. Dễ hiểu, đây là những tình huống khó khăn HS không có khả năng tự phán đoán, phân tích vấn đề. Vì thế trong trường hợp như vậy “GV hay tác giả SGK chẳng những nêu lời giải cuối cùng mà còn vạch rõ logic của quá trình đi đến lời giải đó với những mâu thuẫn, những lệch lạc đó và nêu luận cứ củng cố cho mỗi bước tiến tới lời giải cuối cùng” [112, tr.48]. Nhờ có sự hướng dẫn của GV, HS được tiếp thu cách trình bày chặt chẽ, làm nảy nở những suy luận hợp lý có tác dụng lôi cuốn người học vào quá trình nghiên cứu tìm tòi tiếp theo. Dĩ nhiên, cách lựa chọn đối tượng để trình bày NVĐ hoàn toàn dựa vào sự chủ đạo của GV. Trong dạy học văn, chúng ta cũng từng làm quen với cách thức này để muốn lôi cuốn sự chú ý, muốn tạo ra ở HS những suy nghĩ, thắc mắc, tranh luận khi bắt đầu bước vào bài, khi muốn nhấn mạnh những điểm quan trọng của nội dung bài học, khi cần gợi mở tìm tòi hoặc đưa ra những nhận xét, bình luận. + Dạy học tìm tòi một phần: Thông thường các vấn đề đặt ra cho HS tìm tòi đều chứa trong nó những khó khăn về nhận thức. Vì thế, yêu cầu của hoạt động sư phạm là GV phải giúp đỡ HS duy trì “tính NVĐ” trong quá trình học tập. Nói cách khác, với dạng DHNVĐ này, HS không hoàn thành tất cả các giai đoạn nghiên cứu, mà chỉ hoàn thành một phần quá trình nghiên cứu và không nhất thiết phải là liên tục” [112, tr.51]. Lý luận dạy học cho thấy các bước của việc nghiên cứu đều diễn ra như sau: Quan sát tìm hiểu các sự kiện hiện tượng - Vạch ra những hiện tượng chưa hiểu cần nghiên cứu (NVĐ) - Nêu giả thuyết; lập kế hoạch nghiên cứu - Thực hiện kế hoạch, tức vạch rõ những liên hệ giữa hiện tượng cần nghiên cứu - Phát biểu lời giải đáp án - Kiểm tra lời giải - Rút ra kết luận thực tiễn về khả năng và sự cần thiết vận dụng các tri thức đã thu được vào thực tế. Có thể thấy kiểu dạy học này được vận dụng khá rõ rệt và thường xuyên trong giờ học. Đây là công việc đòi hỏi GV lập kế hoạch các bước giải, lập kế hoạch cho quá trình đi đến lời giải, làm cho quá trình đó trở nên thuận lợi; còn HS thì phải bằng sự nỗ lực chủ động giải quyết một phần vấn đề, hoặc những vấn đề nhỏ. Đây là sự lựa chọn bước đi thích hợp của DHNVĐ, nhờ đó HS thu được kinh nghiệm hoạt động sáng tạo, nắm được các yếu tố tìm tòi nghiên cứu cho dù không học được cách nghiên cứu toàn bộ vấn đề từ đầu đến cuối. Thực tiễn dạy học cho thấy có nhiều cách giúp thực hiện dạng dạy học này. Chẳng hạn, nếu HS không thể giải bài toán thì GV xây dựng một bài toán khác tương tự nhưng phạm vi hẹp hơn; hoặc chia thành những bài toán nhỏ, dễ hơn nhưng tập hợp lại thành lời giải cho bài toán lúc đầu; hoặc GV gợi ý những dữ kiện bổ sung cho điều kiện của bài toán khó, hoặc giải thích rõ vấn đề rồi yêu cầu HS rút ra kết luận. Trong cách thực hiện như vậy, còn có một hình thức khác nữa mà Lecne gọi là “đàm thoại có tính phát kiến” (ơrixtic). Theo đó “Đàm thoại phát kiến là hệ thống câu hỏi do GV xây dựng thế nào để mỗi câu hỏi sau được suy ra từ các câu hỏi trước, để việc đặt nó trong cuộc đàm thoại là có lý do, để tất cả các câu hỏi và lời giải thích của HS cho các câu hỏi đó, tập hợp lại, cuối cùng sẽ giải quyết được một vấn đề nào đó, và điều chủ yếu là làm sao cho một số câu hỏi, và là đa số câu hỏi, hợp thành những bài toán nhỏ trên con đường đi tới lời giải cho bài toán cơ bản” [112, tr.53]. Dễ thấy đây là cách dạy học được sử dụng khá gần gũi trong giờ học văn. + PP nghiên cứu: PP nghiên cứu vốn xuất hiện trong dạy học từ lâu, nó cũng là cách thức thúc đẩy hoạt động nhận thức sáng tạo của người học dựa trên khả năng nghiên cứu, tìm hiểu, nắm bắt kiến thức bằng quá trình tìm tòi sáng tạo. Chính nhờ chức năng quan trọng nói đó mà có thể nhận xét DHNVĐ có phần gần gũi gắn bó với PP nghiên cứu. Các hình thức bài làm theo PP nghiên cứu rất đa dạng: có thể là những bài làm giải nhanh ở lớp hay ở nhà, những bài làm trong suốt giờ học hay những bài tập ở nhà theo kì hạn. Dù với mức độ nào, loại bài tập nghiên cứu đòi hỏi người học phải nắm hiểu biết vững vàng với óc tìm tòi sáng tạo. Cho nên đây là dạng học tập được gọi là “tự học NVĐ”. Dù sao thì không nên đưa ra những bài tập quá sức, không phù hợp với trình độ kiến thức và kỹ năng học tập của HS. Và điều đáng chú ý là khi nêu một vấn đề nào đó cho HS tự nghiên cứu, GV đã biết rõ lời giải, quá trình giải và biết rõ trong quá trình giải người học cần thể hiện những điểm nào của hoạt động sáng tạo. Vì thế, không thể xem nhẹ vai trò của GV trong việc tổ chức, xây dựng và hướng dẫn một hệ thống vấn đề cho HS nghiên cứu. Đó chính là nền tảng để từng bước hình thành ở HS phẩm chất của con người tư duy sáng tạo [112, tr.6]. Có thể nhận ra sự gần gũi trong quan niệm về “dạng NVĐ” qua tài liệu của một số nhà sư phạm học. Từ đây, phạm vi nội dung “dạng NVĐ” vừa đề cặp có sự khái quát rộng, hẹp khác nhau tùy theo quan điểm và PP tiếp cận. Tuy nhiên, giữa cách phân loại xác định có độ vênh nói đó, chúng ta vẫn có thể nhận ra mối liên hệ gần gũi giữa những quan niệm đúng đắn, hợp lý để tìm tới việc lựa chọn cách thức dạy học thích hợp. Chẳng hạn: Nguyễn Ngọc Quang trong Lý luận dạy học đại cương có nói tới “những thách thức xây dựng bài toán NVĐ ơrixtic hay tình huống có vấn đề”. Theo đó, trong nhà trường mỗi môn học có rất nhiều cách xây dựng tình huống có vấn đề tùy theo đặc điểm khoa học của nó. Nhưng nhìn chung, có bốn kiểu cơ bản là: tình huống nghịch lý, tình huống bế tắc, tình huống lựa chọn và tình huống “tại sao” hay “nhân - quả”. Tác giả cũng đi sâu phân tích nội dung của từng dạng và nhấn mạnh “chất lượng của việc xây dựng các bài toán ơrixtic phụ thuộc đồng thời cả vào sự uyên bác khoa học, cả vào trình độ nghệ thuật sư phạm của người GV” [86, tr.136]. Còn các tác giả của “Kỹ năng NVĐ”- một tài liệu vừa có tính lý luận lại vừa mang tính ứng dụng khá sát hợp với người GV Ngữ văn hiện nay - thì lại đề cập khái niệm “loại hình của NVĐ”. Các tác giả xác định: “Hiểu đặc điểm NVĐ là tiền đề để chọn loại hình NVĐ theo yêu cầu giảng dạy; nắm vững tác dụng khơi gợi tư duy là mấu chốt trong hoạch định NVĐ với chất lượng cao; nắm vững yêu cầu về hoạch định và vận dụng các loại hình NVĐ là đảm bảo cần thiết cho NVĐ được thực hiện thuận lợi, đạt được mục đích đã định” [30, tr.111]. Có thể thấy phạm vi loại hình câu hỏi NVĐ do các tác giả vận dụng khá rộng và được minh họa bằng những mẫu dẫn chứng cụ thể sát hợp. Vì thế, quan điểm dạy học này có sức thuyết phục cao. Quả thực, đây là một vấn đề khá cần thiết và thích hợp đối với việc vận dụng DHNVĐ vào dạy học Ngữ văn. Bởi trong quá trình vận dụng DHNVĐ lâu nay, GV thường gặp khó khăn lúng túng, thậm chí có sự dè dặt, e ngại trong việc xử lý, lựa chọn “tình huống có vấn đề” để vận dụng vào thực tiễn dạy học văn. Vì thế, kinh nghiệm vừa nêu của các nhà sư phạm Trung Quốc rất thiết thực và bổ ích, chúng tôi sẽ kết hợp đề cập tới những nội dung này trong phần sau. 1.1.2.8. Nguyên tắc nêu vấn đề DHNVĐ dựa trên những nguyên tắc sau: + Tính mục đích: NVĐ phải hướng tới mục đích. Chẳng hạn trong giờ văn, GV nêu cho HS tìm hiểu nhiều vấn đề. Tuy nhiên, những vấn đề đưa ra phải nhằm vào mục tiêu của việc GD đào tạo. “Do đó, hoạch định (sắp xếp) vấn đề phải căn cứ vào mục đích giảng dạy để suy nghĩ, tạo nên bối cảnh tư duy cho tri thức cần truyền thụ, phát triển trí lực, nâng cao khả năng ngôn ngữ, bồi dưỡng phẩm chất cao đẹp, khiến tư duy của HS gián tiếp hoặc trực tiếp luôn luôn xoay quanh mục đích giảng dạy” [30, tr.98]. + Tính khơi gợi: NVĐ luôn tạo sự thắc mắc tìm tòi kiến thức ở HS, từ đây sẽ góp phần vào việc thực hiện nhiệm vụ của nhà trường là đào tạo lớp trẻ có khát vọng, hình thành khả năng đào sâu suy nghĩ bằng tìm tòi sáng tạo kiến thức. + Tính rõ ràng: NVĐ phải đảm bảo tính rõ ràng. Nội dung vấn đề nêu ra phải hợp lý, chính xác, không có sự đánh đố hay quá khó với trình độ HS; về hình thức ngôn ngữ, phải có sự diễn đạt chính xác nhằm giúp HS hiểu rõ mục đích câu hỏi, tránh tình trạng thầy hỏi nhưng HS “không biết trả lời ra sao” hoặc “hỏi một đàng trả lời một nẻo”. + Tính thích ứng: Sự thích ứng thể hiện qua các mặt: thích ứng về khối lượng (nội dung vấn đề nêu lên phải hợp lý, bám sát mục đích yêu cầu bài học); thích ứng về mức độ (vấn đề nêu lên phù hợp với năng lực trình độ HS, không quá dễ nhưng cũng không quá khó, làm hạn chế hứng thú của HS); thích ứng về thời gian (chọn thời điểm NVĐ, bao gồm thời điểm nêu câu hỏi và thời điểm giải quyết vấn đề. NVĐ kịp thời giúp bắt nhịp giữa câu hỏi của GV với tư duy của HS, nhờ đó kích thích tâm lý tìm tòi, hưng phấn ở HS). + Tính phối hợp: Phương thức NVĐ cần có sự phối hợp đa dạng giữa các loại hình, các góc độ yêu cầu và hình thức diễn đạt khác nhau. 1.2. Phương thức nêu vấn đề với việc dạy học tác phẩm văn chương 1.2.1. Phương thức dạy học nêu vấn đề phù hợp với đặc trưng, tính chất môn học Ngữ văn Như chúng ta từng biết, kể từ lần thay đổi chương trình SGK môn văn ở THPT, tên gọi của môn học đã thay đổi. Với quan điểm dạy học mới, có thể thấy đối tượng, tính chất của môn văn giờ đây được nhìn nhận thấu đáo, khoa học hơn. Môn văn với tính chất là môn học đặc thù mang tính nghệ thuật lại vừa là khoa học nay gắn kết theo quan điểm tích hợp, không còn tách bạch theo những môn học riêng rẻ với những tên gọi Tiếng Việt, Làm văn, Văn học vốn đã từng làm cho việc dạy học Ngữ văn trở nên tách biệt, xơ cứng. Chính vì thế có một thời, người GV khi lên lớp chỉ chăm chút vào việc truyền thụ kiến thức, chỉ nhằm vào việc yêu cầu HS làm những bài làm văn theo công thức cho sẵn, lập lại những kiến thức sáo mòn hoặc hướng sự chú ý chính yếu vào những rung động cảm xúc trong bài “giảng văn” hay “phân tích TP” mà quên đi giờ học là một quá trình phát hiện, tìm tòi vận dụng kiến thức một cách chủ động sáng tạo bằng chính họat động tích cực của người học. Những thiếu sót, hạn chế nói đó đã dẫn tới hậu quả nặng nề với lối dạy học trì trệ, lạc hậu kéo dài và làm mờ nhạt tác dụng của nguyên tắc dạy học phát huy tính tích cực sáng tạo của HS đang được triển khai rộng rãi qua việc đổi thay chương trình, SGK hiện nay. Cũng bởi thế mà có những PPDH chứa đựng ý nghĩa tích cực như DHNVĐ, gợi mở, đọc sáng tạo… tuy được đề cập từ lâu nhưng trong thực tế dạy học lại được vận dụng một cách dè dặt nếu không muốn nói là có khi bị cản trở bởi sức níu kéo của quan điểm, thói quen dạy học xưa cũ. Chẳng hạn, trong dạy học TPVC, việc nhấn mạnh quá nhiều vào sự rung động cảm xúc, yêu cầu HS ghi nhớ lời thầy diễn giảng rồi trả lời sao cho đúng đáp án mà ngần ngại “NVĐ”, ngại để HS suy nghĩ độc lập, nỗ lực kiến tạo nên kiến thức cho chính mình bằng con đường tìm tòi sáng tạo. Bởi theo thói quen của lối dạy học truyền thống, có những ý kiến cho rằng làm như vậy là phá vỡ tính chất giờ học vốn là loại hình nghệ thuật tuân thủ sự rung động cảm xúc theo tư duy hình tượng. Từ đó, chúng ta nhận thấy rõ một phần những hạn chế của quan niệm dạy học văn chương trước đây và việc đổi mới PPDH văn là điều cần thiết. Vì thế, cấu tạo chương trình Ngữ văn hiện nay đã thay đổi, phạm vi các văn bản được dạy học có sự mở rộng, bên cạnh bộ phận chính là loại hình nghệ thuật ngôn từ dựa trên phương thức tư duy hình tượng - cảm tính thì còn một phần thuộc dạng nghị luận xã hội vốn là những văn bản dựa vào tư duy lôgic. Với lọai văn bản này, người học phải nắm khái niệm, phán đoán, suy lý, phải biết tìm tới những thao tác của lập luận như luận điểm, luận cứ, luận chứng. Do vậy, làm sao có sự tách bạch giữa các lọai tư duy trong dạy học một cách cứng nhắc, máy móc được? 1.2.2. Tác phẩm văn chương ẩn chứa những yếu tố cấu thành của phương thức dạy học nêu vấn đề 1.2.2.1. Tác phẩm văn chương là thông điệp nghệ thuật của nhà văn gửi tới người đọc TPVC là sản phẩm tinh thần độc đáo do nhà văn sáng tạo nên bằng quá trình tư duy theo quy luật thẩm mỹ đặc thù. Bởi thế, sản phẩm tinh thần nói đó là sự thể hiện cho những điều do nhà văn khám phá về cuộc đời và con người được soi sáng bằng những tư tưởng, những quan niệm qua sự chuyển hóa giữa hiện thực khách quan của đời sống và những suy nghĩ, cảm xúc chủ quan của nhà văn. Với “những điều trông thấy”, “những tấc lòng” của nhà văn được khái quát bằng hình tượng nghệ thuật có sức lôi cuốn người đọc khám phá, chiêm nghiệm những quy luật của cuộc sống. Đó là những điều nhà văn muốn nói, muốn gởi gắm qua những trang viết. TPVC, do vậy có sức chứa đựng những vấn đề khái quát từ các lĩnh vực phong phú, phức tạp trong mối quan hệ xã hội mà nhờ nó, ý nghĩa của TP được suy ngẫm phát hiện không bao giờ vơi cạn với bao thế hệ người đọc. Rõ ràng, qua tác phẩm, nhà văn đưa người đọc gặp gỡ, giải đáp những vấn đề từ thực tiễn cuộc sống. Bởi thế, trong tiếp nhận văn học, người ta mới cần những tiếng nói tri âm. Hơn hai trăm năm sau khi Nguyễn Du qua đời, giữa những ngày máu lửa của chiến tranh vệ quốc, Tố Hữu từng thảng thốt bày tỏ nỗi lòng mình trước nỗi đau nhân thế qua lời thơ thắm thiết: “Tố Như ơi! Lệ chảy quanh thân Kiều”. Trong những ngày đất nước dồn sức cho cuộc ra trận lớn lao của lịch sử, Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải - lớp nhà văn - chiến sĩ - qua những trang viết nóng bỏng hơi thở chiến đấu đã nêu bật phẩm chất anh hùng của thế hệ thanh niên cầm súng xốc tới giữa bom đạn, sẵn sàng dâng hiến tuổi trẻ theo tiếng gọi của lý tưởng cao cả “cuộc đời đẹp nhất là trên chiến trường”. Từ đó, lớp trẻ trên ghế nhà trường có thể nhận ra ý nghĩa của chân lý cao đẹp từ cuộc sống. Nhưng tới những ngày đất nước có hòa bình, khi cuộc sống trở về với nhịp điệu đời thường thì con người đứng trước bao điều mới lạ và không ít những thử thách khắc nghiệt của hiện thực xã hội tác động tới khiến cho nhà văn tích lũy thêm những trải nghiệm, phát hiện mới. Vì thế, người đọc lại gặp những con người với những sự việc, hiện tượng xảy ra trong Chiếc thuyền ngoài xa, Một người Hà Nội cũng do chính những người cầm bút trước đây thể hiện. Những trang viết nồng ấm hơi thở cuộc sống hiện thực lại đưa người đọc đến những khám phá suy ngẫm mới - những vấn đề trong cuộc sống thường nhật mà có một thời bị lãng quên. Cho nên, nói như M.Gocki “Tác phẩm văn học nào cũng có vấn đề”. Phạm vi những vấn đề cuộc sống, vì thế, thật phong phú đa dạng. Để hiểu biết cảm thông với những điều nhà văn khám phá phát hiện, người đọc phải biết cách tìm tới những vấn đề thuộc nội dung thường được thể hiện qua đề tài, chủ đề và tư tưởng trong văn bản văn học. Cho nên, cơ sở của DHNVĐ được khởi phát từ đây - những vấn đề do tác giả đặt ra. Nhưng chủ đề hay vấn đề không phải bộc lộ rõ như những hiện tượng thông thường. Điều kỳ diệu mà nghệ thuật đem đến là những hiện tượng, sự kiện và tư tưởng, tình cảm của nhà văn khi nhìn nhận hiện thực - tức phương diện nội dung - lại được thể hiện qua phương tiện khái quát nghệ thuật là hình tượng văn học chứa đựng giá trị thẩm mỹ. Văn chương dùng chất liệu là nghệ thuật ngôn từ để xây dựng nên thế giới hình tượng phong phú sinh động dựa vào tài năng sáng tạo của nhà văn. “Hình thức của TP văn học chính là tác động hợp thành của nhiều yếu tố: nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ, các quy định của loại thể văn học, những biện pháp kết cấu, cách xây dựng nhân vật, thể hiện hình tượng,... tất cả nhằm mục đích biểu hiện trực tiếp và sinh động nội dung TP, tạo nên một dạng tồn tại nhất định của nội dung ấy, qua đó xây dựng toàn bộ TP thành một chỉnh thể thống nhất” [38, tr.44]. Như thế, khi dạy học văn bản văn học, người GV phải biết cách hướng tới sự khai thác các yếu tố nội dung thông qua hình thức nghệ thuật một cách linh hoạt, gắn bó. Bởi sáng tác của nhà văn không chỉ đơn giản là việc gửi đi một thông điệp mà đó còn là một “quá trình tư duy ngôn ngữ thầm lặng” thể hiện cho sự lao động nghệ thuật gian khổ bằng việc trau dồi, chọn lọc từng chữ, từng câu nhằm biểu đạt sao cho hiệu quả nhất ý đồ, tư tưởng nghệ thuật của mình. Chẳng hạn, khi nói tới bi kịch của cuộc đời Chí Phèo, ai cũng hiểu Nam Cao muốn vạch trần bộ mặt thật tàn bạo dựa trên quy luật “cá lớn nuốt cá bé” bằng quyền lực của kẻ có của cải và thế lực để chèn ép người thấp cổ bé họng trong một xã hội dựa trên sự câu kết giữa các thế lực thống trị của chế độ thực dân nửa phong kiến ở nông thôn trước đây. Nhưng nếu không có những biểu hiện của phương tiện hình thức nghệ thuật kết tinh từ ngôn ngữ chọn lọc đầy sắc sảo với ngồn ngộn các chi tiết, sự việc về cuộc đời Chí Phèo, không có cái tiếng chửi độc của Chí trong phần mở đầu, không có giọng điệu và hành vi thâm độc xảo trá “vừa đẩy người xuống sông rồi lại đưa tay dắt nó lên để nó đền ơn” của Bá Kiến - con cáo già làng Vũ Đại - cũng như không có sự dằng xé nội tâm của Chí sau ngày bị Thị Nở từ chối mối tình vốn là nỗi khát khao hạnh phúc, là điểm tựa để nâng mình đứng d._.ẻ đẹp độc đáo của sH. Đằng sau tình yêu, niềm tự hào tha thiết, sâu lắng mà tác giả dành cho dòng sông quê hương, cho xứ Huế thân yêu và cũng là cho đất nước. II. Đọc văn: -? Sông Hương vùng thượng lưu -? SH gắn bó với dãy Trường Sơn như thế nào -? Tìm những chi tiết diễn tả cảnh SH chảy xuôi về đồng bằng và ngoại vi thành phố -? Sông Hương chảy vào thành phố với vẻ đẹp ra sao -? Thế nào là vẻ đẹp như điệu slow -? Những phẩm chất của sH trong lịch sử và thi ca +? SH trong mối quan hệ với lịch sử dân tộc +? SH với cuộc đời và thi ca -? Đặc sắc nghệ thuật 1.Sông Hương vùng thượng lưu: -SH nhìn từ cội nguồn là dòng chảy có mối quan hệ sâu sắc với dãy Trường Sơn: khi rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn, lúc mãnh liệt qua ghềnh thác, khi cuộn xoáy như con lốc, lúc dịu dàng và say đắm,… -Bằng biện pháp nhân hoá, sH hiện ra tựa như một cô gái Di-gan phóng khoáng và man dại,… -Theo tác giả, nếu chỉ ngắm khuôn mặt của dòng sông thì không hiểu bản chất sâu thẳm mà nó không muốn bộc lộ. ->SH vùng thượng lưu toát lên vẻ đẹp của một sức sống mãnh liệt, hoang dại, đầy cá tính. 2.Sông Hương chảy xuôi về đồng bằng và ngoại vi thành phố: -Đoạn văn này bộc lộ những nét lịch lãm, tài hoa trong lối hành văn của tác giả. Sức hấp dẫn toát lên từ hàng loạt động từ diễn tả dòng chảy sống động qua những địa danh khác nhau của xứ Huế. -Hai bút pháp kể và tả được kết hợp nhuần nhuyễn và tài hoa trong đoạn văn làm nổi bật sH đẹp bởi phối cảnh kì thú giữa nó với thiên nhiên xứ Huế phong phú mà hài hoà. 3.Sông Hương chảy vào thành phố: -Khi tìm đúng đường về, sH như đã tìm thấy chính mình: vui tươi hẳn lên, kéo một nét thẳng thực yên tâm theo hướng TNĐB, rồi uốn một cánh cung rất nhẹ sang cồn Hến khiến cho dòng sông mềm hẳn đi. -SH nằm giữa lòng thành phố, sH được cảm nhận ở nhiều góc độ: +Được nhìn bằng con mắt hội hoạ, sH với những chi lưu của nó tạo những đường nét thật tinh tế làm nên vẻ đẹp cổ kính của cố đô. +Qua cách cảm nhận âm nhạc, sH đẹp như điệu slow chậm rãi, sâu lắng, trữ tình. +Với cái nhìn đắm say của một trái tim đa tình, sH là người tình thuỷ chung. 4.Những phẩm chất của sH trong lịch sử và thi ca: a.SH trong mối quan hệ với lịch sử dân tộc: -Một dòng sông biên thuỳ xa xôi của đất nước các vua hùng. -TK XVIII, nó vẻ vang soi bóng kinh thành Phú Xuân của người anh hùng Nguyễn Huệ. -Sống hết lịch sử bi tráng của thế kỉ XIX. -Chứng kiến thời đại CM.8 và bao chiến công qua hai cuộc chiến tranh vệ quốc. b.SH với cuộc đời và thi ca: -SH như một người con gái dịu dàng của đất nước. -Dòng sông ấy không bao giờ tự lặp lại mình trong cảm hứng của các nghệ sĩ. 5.Đặc sắc nghệ thuật: Những cảm xúc sâu lắng được tổng hợp từ một vốn hiểu biết phong phú về văn hoá, lịch sử, địa lí và văn chương cùng một văn phong tao nhã, hướng nội, tinh tế và tài hoa. III.Tổng kết: Ghi nhớ SGK * Luyện tập: SGK -Hs đọc Ghi nhớ SGK. -Gv hướng dẫn hs LT 4. Củng cố: Nhận xét chung về giá trị nội dung và nghệ thuật của tác phẩm? 5. Dặn dò: Chuẩn bị bài mới Đọc thêm: Những ngày đầu của nước VN mới. PHỤ LỤC 4, Phiếu học tập 1: HƯỚNG DẪN CHUẨN BỊ BÀI “CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA” (tiết 1) 1. Đọc kĩ phần tiểu dẫn để có cái nhìn chung về tác giả, tác phẩm. 2. Đọc truyện nhiều lần, tóm tắt truyện, nắm chắc các chi tiết của truyện, nắm bắt những điểm nổi bật về nội dung và nghệ thuật của tác phẩm. 3. Tìm hiểu tình huống truyện: - Xác định loại tình huống, - Những biểu hiện của tình huống truyện, - Tác dụng của tình huống truyện trong việc bộc lộ tính cách các nhân vật và thể hiện chủ đề của tác phẩm. PHỤ LỤC 4. Phiếu học tập 2: HƯỚNG DẪN CHUẨN BỊ BÀI “CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA” (tiết 2) 1. Vấn đề thuyết trình: “Hình tượng nhân vật người đàn bà hàng chài”. Hệ thống câu hỏi gợi ý: + Nhân vật người đàn bà hàng chài được đặt trong những tình huống, những hoàn cảnh cụ thể nào? + Trong sự phát hiện của Phùng ở ngoài bãi biển: ngoại hình, cách ứng xử,… nói lên điều gì về tính cách của chị? + Ở toà án: thái độ và những lời lẽ của người đàn bà cho thấy ở chị có những phẩm chất gì? + Từ nhân vật người đàn bà hàng chài, tác giả muốn gửi đến người đọc thông điệp gì? Qua đó còn cho thấy tấm lòng nhân đạo của tác giả như thế nào? 2. Suy nghĩ về các nhân vật: - Người đàn ông hàng chài. - Bé Phác. PHỤ LỤC 4, Phiếu học tập 3: HƯỚNG DẪN CHUẨN BỊ BÀI “CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA” (tiết 3) 1. Tìm hiểu nhân vật Phùng: - Hai Phát hiện của Phùng? - Sự “vỡ ra” của Phùng sau khi nghe câu chuyện của người đàn bà ở toà án? - Thông điệp từ nhân vật Phùng? 2. Tìm hiểu nhân vật Đẩu: - Những suy nghĩ và thái độ của Đẩu trước câu chuyện của người đàn bà? - Bài học rút ra từ nhân vật Đẩu là gì? 3. Những điểm chính về giá trị nhân đạo của tác phẩm? 4. Những đặc sắc về nghệ thuật của tác phẩm: - Những hình ảnh mang ý nghĩa biểu tượng? - Nghệ thuật trần thuật? PHỤ LỤC 5: TÓM TẮT NỘI DUNG BÀI HỌC: CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA (Nguyễn Minh Châu) I. Giới thiệu chung: 1. Những điểm chính về tác giả: +Nguyễn Minh Châu (1930-1989), quê ở Làng Thơi, xã Huỳnh Hải, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An. +Nếu trước 1975, Nguyễn Minh Châu là ngòi bút sử thi có thiên hướng trữ tình lãng mạn thì từ sau 1980, ông chuyển hẳn sang cảm hứng thế sự với những vấn đề đạo đức và triết lí nhân sinh. +Ông là một trong số những người “mở đường tinh anh và tài năng” trong chặng mở đầu của công cuộc đổi mới văn học sau 1975. 2. TP Chiếc thuyền ngoài xa: a. Xuất xứ và hoàn cảnh ra đời của tác phẩm: Truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa được Nguyễn Minh Châu hoàn thành vào tháng 8/1983, in trong tập Bến quê (1985). b. Thể loại: Thể loại truyện ngắn hiện đại. c. Cốt truyện: Có hai mạch truyện đan lồng vào nhau: chuyện về một chuyến đi “săn ảnh” của phóng viên nhiếp ảnh Phùng ở một vùng ven biển miền Trung và chuyện về những cảnh ngộ ngang trái của một gia đình ngư dân ở vùng biển đó mà Phùng bất ngờ biết được. Cuối cùng là sự “vỡ ra” của Phùng về con người và cuộc sống. II. Đọc-hiểu: 1. Tình huống truyện: - TP được trần thuật theo quá trình tự nhận thức, cũng có thể gọi là quá trình giác ngộ về hiện thực và con người của Phùng - nghệ sĩ nhiếp ảnh và Đẩu - chánh án huyện: + Trước mắt Đẩu và Phùng là một hiện tượng cuộc sống đầy nghịch lí: người đàn bà bị người chồng vũ phu và độc ác đánh đập hằng ngày, vậy mà không hề kêu ca, chống đối gì; ở toà án huyện, người đàn bà từ chối dứt khoát thiện ý của người đại diện công lí là giải phóng chị ta khỏi ách nặng nề của người chồng tàn bạo. + Điều khó hiểu đó được giải tỏa qua lời của người đàn bà. Lí do khiến người đàn bà không bỏ chồng: cuộc sống người dân chài phải luôn chống chọi với những bất trắc của biển khơi nên rất cần có một người đàn ông trong gia đình, vợ chồng con cái cũng có lúc hạnh phúc, tình thương đối với lũ con. - Qua tình huống này, người nghệ sĩ nhiếp ảnh không chỉ phát hiện ra chân lí nghệ thuật mà anh còn khám phá ra nhiều điều bí ẩn của cuộc sống và con người. Anh đã hiểu hơn về cuộc sống của người lao động vùng biển, về bạn mình và về chính mình. 2. Các nhân vật: a. Người đàn bà hàng chài: - Thân phận: lam lũ, cay cực, nạn nhân của sự bạo hành từ người chồng vũ phu: + Cuộc sống nghèo khổ, chật vật khi phải nuôi mười miệng ăn trên chiếc thuyền ọp ẹp. + Vẻ ngoài thô kệch, xấu xí. + Bị chồng đánh rất tàn bạo - Phẩm cách: một sức sống bền bỉ, một tâm hồn đầy tình thương và đức hi sinh. - Câu chuyện của người đàn bà gửi đến thông điệp: không thể dễ dãi, đơn giản trong việc nhìn nhận mọi sự việc, hiện tượng cuộc sống. b. Người đàn ông hàng chài: - Lão đàn ông hàng chài xuất hiện trong sự độc dữ, gây ác cảm với mọi người. +Về ngoại hình: tấm lưng rộng và cong như mũi thuyền, mái tóc tổ quạ, hai mắt đầy vẻ độc dữ,… +Về hành vi: đánh vợ rất tàn nhẫn - Đẩu, Phùng, Phác đều cho rằng người đàn ông này là thủ phạm gây bao đau khổ cho vợ con, cần lên án. Người đàn bà hàng chài cho rằng người đàn ông này là nạn nhân của hoàn cảnh, đáng cảm thông, chia sẻ. - Từ đó, tác giả gửi đến một thông điệp: không thể nhìn đời, nhìn người một phía, phải tìm hiểu những nguyên nhân sâu xa dẫn đến hành vi của con người trước khi kết luận về tính cách hay phán xét họ; phải làm sao để nâng cao cái phần thiện, cái phần người trong những kẻ thô bạo ấy. c. Bé Phác +Phác đáng trách ở hành vi đối với bố, đáng mến ở tình thương mẹ dạt dào, đáng thương xót bởi phải chịu cảnh bạo hành gia đình. + Qua nhân vật Phác, nhà văn tỏ bày nỗi lo âu đầy trách nhiệm về tương lai của trẻ em trong nạn bạo hành gia đình. d. Nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng: - Hai phát hiện của nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng: + Phát hiện thứ nhất đầy thơ mộng về chiếc thuyền ngư phủ trên mặt biển mờ sương. Anh thấy tâm hồn mình như được gọt giũa trở nên thật trong trẻo, tinh khôi bởi cái đẹp hài hoà lãng mạn của cuộc đời. + Phát hiện thứ hai đầy bất ngờ và trớ trêu như trò đùa quái ác của cuộc sống là cảnh người đàn ông đánh vợ rất tàn nhẫn. Anh nhận ra đằng sau cái đẹp không phải là đạo đức, chân lí của sự toàn thiện. - Sự “vỡ ra” của Phùng sau khi nghe câu chuyện của người đàn bà ở toà án: +Hành trình tìm kiếm hạnh phúc của con người không hề đơn giản +Người đàn bà ấy là hiện thân của tình yêu thương và một sự hy sinh vô bờ bến - Qua nhân vật Phùng, tác giả muốn nhắn gửi đến người đọc những thông điệp: + Đừng vì nghệ thuật mà quên cuộc đời, bởi lẽ nghệ thuật chính là cuộc đời. + Đừng bao giờ nhìn nhận cuộc đời và con người một cách dễ dãi, xuôi chiều. e. Chánh án Đẩu: - Trong đầu óc Đẩu đã “vỡ ra” nhiều điều. + Sự hiểu ra những nhọc nhằn, vất vả trong công việc làm ăn của những ngư dân ở vùng biển. + Sự thức tỉnh với chính mình, để từ bỏ cái nhìn đơn giản, nặng nề duy ý chí trước cuộc đời và con người, cùng với nó là những ảo tưởng về sự thay đổi dễ dàng cho cuộc sống của người dân sau khi được Cách mạng giải phóng. - Bài học rút ra từ nhân vật Đẩu: + Lòng tốt đáng quí nhưng chưa đủ, luật pháp là cần thiết nhưng cần phải đi vào đời sống. + Con người cần vượt lên, từ bỏ cái nhìn và lối nghĩ giản đơn, dễ dãi, để nhìn thấu cái phức tạp đa đoan của hiện thức cuộc đời. 3. Giá trị nhân đạo của tác phẩm: - Truyện cho thấy lòng yêu thương, sự cảm thông của tác giả đối với cuộc sống nghèo khổ và những bất hạnh trong gia đình hàng chài. - Đề cập tình trạng bạo lực trong gia đình cậu bé Phác, nhà văn kêu gọi mọi người hãy bảo vệ trẻ em, chống nạn bạo hành gia đình. - Từ sự tha hóa của người đàn ông hàng chài qua điểm nhìn của một người lính, Nguyễn Minh Châu muốn nói đến một cuộc chiến mới, không kém phần khó khăn, gian khổ so với hai cuộc kháng chiến chống kẻ thù xâm lược đã qua: cuộc chiến đấu bảo vệ nhân tính, thiên lương và vẻ đẹp tâm hồn của con người. 4. Giá trị nghệ thuật của tác phẩm: a. Những hình ảnh mang ý nghĩa biểu tượng: - Hình ảnh chiếc thắt lưng lính ngụy và bãi xe tăng hỏng: cuộc chiến đấu chống đói nghèo, lạc hậu còn diễn ra dai dẳng. Nó cũng khốc liệt chẳng kém gì cuộc chiến chống ngoại xâm vừa qua đi. - Tấm ảnh được chọn trong “bộ lịch năm ấy”: Nghệ thuật chân chính không bao giờ xa rời cuộc đời. Nghệ thuật chân chính là cuộc đời và phải luôn vì cuộc đời. - Hình ảnh chiếc thuyền ngoài xa và ý nghĩa nhan đề của TP: Nhan đề như một gợi ý về một khoảng cách, về cự li nhìn ngắm đời sống mà người nghệ sĩ cần coi trọng. b. Nghệ thuật trần thuật: - Nghệ thuật xây dựng cốt truyện: Cốt truyện được xây dựng bằng tình huống mang tính chất khám phá, phát hiện về cuộc sống. - Hình thức kể chuyện (người kể, điểm nhìn trần thuật): + Người kể chuyện là nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng tức là một nhân vật trong câu chuyện. Nhờ hình thức này, câu chuyện trở nên gần gũi hơn, khách quan, chân thực hơn và cũng có sức thuyết phục hơn. + Điểm nhìn trần thuật không chỉ đặt ở nhân vật Phùng mà có sự phối hợp nhiều điểm nhìn khác nhau. - Giọng điệu trần thuật: Sắc thái giọng điệu luôn thay đổi theo diễn tiến tình tiết khá giàu kịch tính. - Nghệ thuật ngôn ngữ: Ngôn ngữ TP có sự kết hợp giữa chất trữ tình và chất triết lí. III. Tổng kết: 1. Giá trị nội dung: * Chủ đề tác phẩm: Nguyễn Minh Châu đã thể hiện cái nhìn thấu hiểu, nặng trĩu tình thương và nỗi lo âu đối với những cảnh đời, thân phận trớ trêu của con người và gửi gắm chiêm nghiệm sâu sắc của mình về nghệ thuật. Nghệ thuật chân chính phải gắn bó với cuộc đời và và vì cuộc đời. Người nghệ sĩ cũng như tất cả mọi người cần phải nhìn cuộc sống và con người một cách đa diện nhiều chiều. - Thông điệp từ tác phẩm + Phải tạo điều kiện sống như thế nào đó để những gia đình dân chài không phải tự giải quyết cho sự sống còn của mình bằng giải pháp cực kì vô lí của người đàn bà bất hạnh kia. + Bài học rút ra đối với nghệ thuật: tránh cái nhìn giản đơn, thi vị hoá, lãng mạn hoá hiện thực. + Hiện thực và con người rất phức tạp, đầy bí ẩn không được coi là cái đã biết trước. 2. Giá trị nghệ thuật: + Cái nhìn hiện thực sắc sảo, sự quan sát bằng mắt nhưng thấy bằng tấm lòng của nhà văn. + Cách khắc họa nhân vật, xây dựng cốt truyện, sử dụng ngôn ngữ rất linh hoạt, sáng tạo đã làm nổi bật chủ đề - tư tưởng của TP. * LUYỆN TẬP: 1. Nhân vật nào trong truyện để lại cho anh/ chị ấn tượng sâu sắc nhất? 2. Vẽ sơ đồ thể hiện sự biến đổi nhận thức của nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng và chánh án Đẩu trong tác phẩm. 3. Chủ nghĩa nhân văn trong sáng tác của Nguyễn Minh Châu có những điểm kế thừa và sáng tạo riêng so với Nam Cao như thế nào? PHỤ LỤC 6, GIÁO ÁN DÙNG CHO LỚP ĐỐI CHỨNG Tiết 73, 74, 75 CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA (Nguyễn Minh Châu) * MỤC TIÊU BÀI HỌC: Giúp hs: - Cảm nhận được suy nghĩ của người nghệ sĩ nhiếp ảnh: đằng sau bức ảnh đẹp về chiếc thuyền trong sương sớm là số phận đau đớn của người phụ nữ và bao ngang trái trong một gia đình hàng chài. Từ đó thấu hiểu: không thể đơn giản, sơ lược khi nhìn nhận cuộc sống. - Nắm những đặc sắc về nghệ thuật: kết cấu độc đáo, cách triển khai cốt truyện, khắc hoạ nhân vật,… * PHƯƠNG TIỆN DẠY HỌC: SGK, thiết kế bài học. * CÁCH THỨC THỰC HIỆN: Đọc diễn cảm, phát vấn, đàm thoại, nêu vấn đề, thảo luận. * TIẾN TRÌNH DẠY HỌC: 1. Ổn định lớp: 2. Kiểm tra bài cũ: 3. Tổ chức dạy học: HOẠT ĐỘNG CỦA NỘI DUNG CẦN ĐẠT GV VÀ HS -Gv giới thiệu và hs đọc tiểu dẫn để rút ra: +? Những điểm chính về tác giả +? Thể loại +? Hoàn cảnh sáng tác -Hs tóm tắt truyện. -? Nội dung -Hs đọc văn bản ở nhà, đọc một số đoạn tiêu biểu ở lớp. -? Hai phát hiện của người nghệ sĩ nhiếp ảnh +? Lần thứ nhất +? Tìm các chi tiết thể hiện +? Lần thứ hai +? Ý nghĩa của sự phát hiện ấy -? Các nhân vật +? Phân tích hình tượng người đàn bà vùng biển +? Nhận xét về số phận và tính cách I. Giới thiệu: 1.Tác giả: -Nguyễn Minh Châu (1930-1989), quê ở Nghệ An. -Một trong những cây bút tiên phong của văn học Việt Nam thời kì mới. 2.TP: -Truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa được viết 1983, in trong tập truyện cùng tên 1987. -Tóm tắt truyện: -Nội dung: Truyện kể về sự phát hiện của người nghệ sĩ nhiếp ảnh: đằng sau bức ảnh đẹp về chiếc thuyền trong sương sớm là số phận đau đớn của người phụ nữ và bao ngang trái trong một gia đình hàng chài. Từ đó đưa đến thông điệp: không thể đơn giản, sơ lược khi nhìn nhận cuộc sống. II. Đọc-hiểu: 1.Hai phát hiện của người nghệ sĩ nhiếp ảnh: - Phát hiện thứ nhất đầy thơ mộng: anh phát hiện một vẻ đẹp trời cho trên mặt biển mờ sương. Vẻ đẹp mà cả đời bấm máy có lẽ anh chỉ diễm phúc gặp một lần -> Niềm hạnh phúc của nghệ sĩ là hạnh phúc của khám phá và sáng tạo, của sự cảm nhận cái đẹp tuyệt diệu. Trong hình ảnh chiếc thuyền ấy, anh đã gặp cái tận chân, tận mĩ; thấy tâm hồn mình như được gọt giũa trở nên thật trong trẻo, tinh khôi bởi cái đẹp hài hoà lãng mạn của cuộc đời. - Phát hiện thứ hai đầy bất ngờ và trớ trêu như trò đùa quái ác của cuộc sống. Đằng sau cái đẹp toàn bích, toàn thiện mà anh vừa bắt gặp không phải là đạo đức, chân lí của sự toàn thiện. Anh chứng kiến từ chiếc thuyền ngư phủ bước ra một người đàn bà xấu xí, mệt mỏi và cam chịu và một người đàn ông thô kệch, dữ dằn và độc ác đánh vợ. 2.Các nhân vật: a.Người đàn bà vùng biển: -Ngoại hình gây ấn tượng về cuộc đời học nhằn, lam lũ: trạc ngoài bốn mươi, thô kệch, rỗ mặt, lúc nào cũng xuất hiện với khuôn mặt mệt mỏi. -Thầm lặng chịu đựng mọi nỗi đau: khi bị chồng đánh không kêu, không chống trả, không tìm cách chạy trốn. -Nhất quyết gắn bó với lão đàn ông vũ phu mặc dù bị “ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng”. -Nguồn gốc của sự chịu đựng là tình thương con vô bờ: “đám đàn bà hàng chài ở thuyền chúng tôi cần phải có người đàn ông chèo chống khi phong ba, để cùng làm ăn nuôi nấng đặng một sắp con nhà nào cũng trên chục đứa”, “đàn bà ở thuyền chúng tôi phải sống cho con chứ không thể sống cho mình”,… Cách xử sự không khác được vì trong đau khổ triền miên vẫn chắt lọc được những niềm hạnh phúc nho nhỏ: “trời sinh ra đàn bà là để đẻ con, rồi nuôi con cho đến khi khôn lớn”, “ở trên thuyền cũng có lúc vợ chồng con cái chúng tôi sống hoà thuận, vui vẻ”, “Vui nhất là lúc nhìn đàn con chúng tôi nó được ăn no”,… -> Số phận đáng thương, sự cam chịu nhẫn nhục đáng được cảm thông. Thấp thoáng trong người đàn bà ấy là bóng dáng của biết bao phụ nữ VN nhân hậu, bao dung, vị tha, giàu đức hi sinh. +? Nhân vật lão đàn ông độc ác có những đặc điểm gì về tính cách +? Những đứa trẻ (chị em Phác) có phải là nạn nhân của bạo hành gia đình không +? Suy nghĩ của anh/ chị về điều này +? Phẩm chất của người nghệ sĩ nhiếp ảnh +? Diễn biến tâm trạng của Phùng khi chứng kiến cảnh người đàn ông đánh vợ -> Câu chuyện của người đàn bà gửi đến thông điệp: không thể dễ dãi, đơn giản trong việc nhìn nhận mọi sự việc, hiện tượng cuộc sống. b.Lão đàn ông độc ác: -Ngoại hình dữ tợn: tấm lưng rộng và cong như mũi thuyền, mái tóc tổ quạ, hai mắt đầy vẻ độc dữ,… -Cuộc đời nghèo, vất vả, quẩn quanh bao nhiêu lo toan, cực nhọc đã biến anh con trai cục tính nhưng hiền lành” xưa kia thành người chồng vũ phu, người đàn ông độc ác. Khi nào thấy khổ là đánh vợ, đánh để giải toả uất ức, trút sạch tức tối buồn phiền. Đánh rất tàn nhẫn, đánh để thoả mãn lòng ích kỉ tự cho mình cái quyền được hành hạ mọi người. ->Là nạn nhân của cuộc sống cực khổ, vừa là thủ phạm gây bao đau khổ cho người thân của mình. -> Tác giả đặt vấn đề phải làm sao nâng cao phần thiện trong những kẻ thô bạo ấy. c.Những đứa trẻ (chị em Phác): -Chúng bị đẩy vào tình thế khó xử: biết đứng về ai, biết làm thế nào để giữ đạo làm con. -Người chị: +Yếu ớt mà can đảm, phải vật lộn để tước con dao không cho em làm việc trái đạo lí. Trong lòng tan nát bởi bố điên cuồng hành hạ mẹ, em thương mẹ cầm dao ngăn bố. +Là điểm tựa cho mẹ: hành động bảo vệ mẹ, biết chăm sóc lo toan khi mẹ đến toà án. -Phác: +Bảo vệ mẹ bằng cách giật chiếc thắt lưng quật lại bố, cầm dao ngăn bố. +Thương mẹ kiểu đứa con nhỏ, theo cách con trai vùng biển: lặng lẽ đưa những ngón tay sờ lên khuôn mặt người mẹ như muốn lau đi những giọt nước mắt, tuyên bố nếu nó còn có mặt ở dưới biển này thì mẹ nó không bị đánh. -> Tuy không chấp nhận tình thương mẹ của Phác những vẫn thấy ở đó tình thương mẹ dạt dào. d.Người nghệ sĩ nhiếp ảnh: -Phẩm chất nghệ sĩ: thật sự xúc động ngỡ ngàng trước vẻ đẹp tinh khôi của biển lúc mờ sương. Sự nhạy cảm như anh không tránh được nỗi giận khi phát hiện sự bạo hành đằng sau cảnh lãng mạn. -Phẩm chất của người lính đã từng vào sinh ra tử: căm ghét mọi áp bức bất công, sẵn sàng làm tất cả vì điều thiện, lẽ công bằng. Anh đã hai lần xông ra cứu người đàn bà. -Động thái trong lần đầu chứng kiến cảnh người đàn ông đánh vợ: kinh ngạc, phản xạ tự nhiên là vứt máy ảnh chạy tới -> Thông điệp: chiếc thuyền nghệ thuật thì ở ngoài xa, một khoảng cách đủ để tạo nên vẻ đẹp huyền ảo; nhưng sự thật cuộc đời thì rất gần. Đừng vì nghệ thuật mà quên cuộc đời, bởi lẽ nghệ thuật chính là cuộc đời. Trước khi là nghệ sĩ biết rung động trước cái đẹp hãy là một con người biết yêu ghét vui buồn trước mọi lẽ đời, biết hành động để có cuộc sống xứng đáng với con người. 2.Nghệ thuật: a.Nghệ thuật xây dựng cốt truyện: Cốt truyện được xây dựng bằng tình huống mang tính chất khám phá, phát hiện về cuộc sống. Đó là việc Phùng chứng kiến lão đàn ông đánh -? Đặc sắc nghệ thuật +? Nghệ thuật xây dựng cốt truyện +? Ngôn ngữ +? Người kể chuyện là ai +? Nhận xét về ngôn ngữ nhân vật -Hs đọc Ghi nhớ SGK. -Gv hướng dẫn hs LT vợ. Trước đó Phùng nhìn đời bằng con mắt nghệ sĩ. Chính lúc tâm hồn thăng hoa nhất anh lại chứng kiến cảnh đau lòng nhất. Tình huống đó được lặp lại lần nữa và từ đó về sau anh nhìn đời bằng cặp mắt khác hẳn. Anh hiểu những ngang trái trong gia đình hàng chài, tính cách người đàn bà và chị em Phác, bản chất đồng đội Đẩu. b.Nghệ thuật ngôn ngữ: -Ngôn ngữ kể chuyện: người kể chuyện là Phùng, xưng “tôi” (sự hoá thân của tác giả) -> Tạo điểm nhìn trần thuật sắc sảo, làm cho lời kể chuyện trở nên khách quan, chân thật. -Ngôn ngữ nhân vật phù hợp với đặc điểm tính cách của từng người: +Lời người đàn bà dịu dàng, xót xa khi nói với con và đớn đau thấu trải lẽ đời khi nói về thân phận mình. +Lời của Đẩu với giọng điệu tốt bụng, hiền lành. III.Tổng kết: Ghi nhớ SGK * Luyện tập: Nhân vật nào trong truyện để lại cho anh/ chị ấn tượng sâu sắc nhất? 4. Củng cố: Qua Tổng kết và Luyện tập. 5. Dặn dò: Chuẩn bị bài mới Thực hành về hàm ý. PHỤ LỤC 7, Phiếu 1: PHIẾU ĐÁNH GIÁ NHANH SAU GIỜ HỌC (CUỐI BÀI HỌC) (Dùng chung cho lớp thực nghiệm và lớp đối chứng) -------------- Anh/ chị hãy: -Phát biểu 3 vấn đề chưa rõ: + ……………………………………………………………………………………… + ……………………………………………………………………………………… + ……………………………………………………………………………………… -Nhận xét góp ý 2 vấn đề: + ……………………………………………………………………………………… + ……………………………………………………………………………………… -Đưa ra 1 giải pháp: ………………………………………………………………………………………… PHỤ LỤC 7, Phiếu 2: PHIẾU THỐNG KÊ KẾT QUẢ ĐÁNH GIÁ NHANH Nội dung Lớp TN (78 HS) Lớp ĐC (78 HS) Số lượng Tỉ lệ % Số lượng Tỉ lệ % Phát biểu 3 vấn đề chưa rõ 5 6,4 16 20,5 Nhận xét góp ý 2 vấn đề 7 9 3 3,8 Đưa ra 1 giải pháp 6 7,7 1 1,3 PHỤ LỤC 8, ĐỀ KIỂM TRA THỰC NGHIỆM DẠY BÀI “CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA” CỦA NGUYỄN MINH CHÂU Đề bài: Câu hỏi 1: (2 điểm) Ý nghĩa nhan đề “Chiếc thuyền ngoài xa”? Câu hỏi 2: (3 điểm) Phân tích tình huống truyện Câu hỏi 3: (3 điểm) Cảm nhận về nhân vật người đàn bà hàng chài? Câu hỏi 4: (2 điểm) Suy nghĩ về tác giả Nguyễn Minh Châu qua nhân vật Phùng? Đáp án: Câu hỏi 1: (2 điểm) Nhan đề như một gợi ý về một khoảng cách, về cự li nhìn ngắm đời sống mà người nghệ sĩ cần coi trọng. Câu hỏi 2: (3 điểm) -Phân tích tình huống truyện: +Tình huống nhận thức. +Phùng và Đẩu chứng kiến một hiện tượng cuộc sống đầy nghịch lí. +Điều khó hiểu đó được giải tỏa qua lời của người đàn bà ở tòa án huyện. +Qua tình huống này, người nghệ sĩ nhiếp ảnh không chỉ phát hiện ra chân lí nghệ thuật mà anh còn khám phá ra nhiều điều bí ẩn của cuộc sống và con người. -Ý nghĩa tác dụng của tình huống truyện: làm cho mạch truyện tự nhiên mà chặt chẽ, bộc lộ tính cách các nhân vật, thể hiện chủ đề tác phẩm. Câu hỏi 3: (3 điểm) -Thân phận: lam lũ, cay cực, nạn nhân của sự bạo hành từ người chồng vũ phu: -Phẩm cách: một sức sống bền bỉ, một tâm hồn đầy tình thương và đức hi sinh. -Câu chuyện của người đàn bà gửi đến thông điệp: không thể dễ dãi, đơn giản trong việc nhìn nhận mọi sự việc, hiện tượng cuộc sống. Câu hỏi 4: (2 điểm) Trong nhân vật Phùng thấp thoáng bóng dáng của chính tác giả: -Con người tài hoa, nghệ sĩ say mê nghệ thuật, yêu cái đẹp của cuộc sống và con người. -Có cái nhìn sắc sảo đối với cuộc sống, luôn cố gắng phát hiện những giá trị đích thực của nhân cách con người. -Người chiến sĩ nhiệt thành, kiên quyết trong cuộc đấu tranh loại bỏ cái xấu, cái ác hướng tới hoàn thiện cuộc sống. * Lưu ý: -Điểm tối đa phải bảo đảm yêu cầu về nội dung và diễn đạt: trình bày ý rõ ràng, không mắc lỗi chính tả, dùng từ, ngữ pháp. -Khuyến khích những bài làm sáng tạo, thể hiện sự cảm nhận của cá nhân PHỤ LỤC 9, Phiếu 1: PHIẾU DỰ GIỜ GIÁO VIÊN BẬC TRUNG HỌC (LỚP THỰC NGHIỆM) Họ và tên GV dạy: Nguyễn Huy Bình Trường: THPT Lê Quí Đôn Môn: Ngữ văn Tên bài dạy: Chiếc thuyền ngoài xa (NMC) Tiết: 74 Họ tên người dự: 1/ Lê Thị Loan 2/Nguyễn Thị Kim Phụng 3/ Nguyễn Thị Thủy I. BẢNG ĐÁNH GIÁ CÁC MẶT CÁC YÊU CẦU ĐIỂM NỘI DUNG 1 Chính xác khoa học (khoa học bộ môn và quan điểm tư tưởng, lập trường chính trị) 2 2 3 Bảo đảm tính hệ thống, đủ nội dung, làm rõ trọng tâm Liên hệ với thực tế (nếu có), có tính giáo dục 1.5 2 PHƯƠNG PHÁP 4 Sử dụng phương pháp phù hợp với đặc trưng bộ môn, với nội dung củ kiểu bài lên lớp 2 5 Kết hợp tốt các phương pháp trong các hoạt động dạy và học 2 PHƯƠNG TIỆN 6 Sử dụng và kết hợp tốt các phương tiện, thiết bị dạy và học phù hợp với nội dung của kiểu bài lên lớp 2 7 Trình bày bảng hợp lý, chữ viết, hình vẽ, lời nói rõ ràng, chuẩn mực, giáo án hợp lý 2 TỔ CHỨC 8 Thực hiện linh hoạt các khâu lên lớp, phân phối thời gian hợp lý ở các phần, các khâu 1.5 9 Tổ chức và điều khiển học sinh học tập tích cực, chủ động, phù hợp với nội dung của kiểu bài, với các đối tượng, học sinh hứng thú học 2 KẾT QUẢ 10 Đa số học sinh hiểu bài, nắm vững trọng tâm, biết vận dụng kiến thức 2 Điểm tổng cộng: 19/20 II. CÁCH XẾP LOẠI: 2.1. Loại giỏi: a/.Điểm tổng cộng đạt từ 17-20đ b/.Các yêu cầu 1,4,6,9 phải đạt 2đ 2.2. Loại khá: a/.Điểm tổng cộng đạt từ 13-16.5đ b/.Các yêu cầu 1,4,9 phải đạt 2đ 2.3. Loại trung bình: a/. Điểm tổng cộng đạt từ 10-12.5đ b/.Các yêu cầu 1,4 phải đạt 2đ 2.4. Loại yếu kém: a/. Điểm tổng cộng đạt từ 9đ XẾP LOẠI TIẾT DẠY: Giỏi III. Ý KIẾN GIÁO VIÊN ĐƯỢC THANH TRA Nhất trí ……………………………………………………………... Người dạy (kí tên) Tân An, ngày 24 tháng 2 năm 2010 Người dự (kí tên) PHỤ LỤC 9, Phiếu 2: PHIẾU DỰ GIỜ GIÁO VIÊN BẬC TRUNG HỌC (LỚP ĐỐI CHỨNG) Họ và tên GV dạy: Nguyễn Thị Nhạn Trường: THPT Hùng Vương Môn: Ngữ văn Tên bài dạy: Chiếc thuyền ngoài xa (NMC), Tiết: 74 Họ tên người dự: 1/ Lê Thị Loan 2/Trần Thị Điểm 3/ Nguyễn Thành Hưng BẢNG ĐÁNH GIÁ CÁC MẶT CÁC YÊU CẦU ĐIỂM NỘI DUNG 1 Chính xác khoa học (khoa học bộ môn và quan điểm tư tưởng, lập trường chính trị) 2 2 3 Bảo đảm tính hệ thống, đủ nội dung, làm rõ trọng tâm Liên hệ với thực tế (nếu có), có tính giáo dục 1.5 1.5 PHƯƠNG PHÁP 4 Sử dụng phương pháp phù hợp với đặc trưng bộ môn, với nội dung của kiểu bài lên lớp 2 5 Kết hợp tốt các phương pháp trong các hoạt động dạy và học 0.5 PHƯƠNG TIỆN 6 Sử dụng và kết hợp tốt các phương tiện, thiết bị dạy và học phù hợp với nội dung của kiểu bài lên lớp 2 7 Trình bày bảng hợp lý, chữ viết, hình vẽ, lời nói rõ ràng, chuẩn mực, giáo án hợp lý 1.5 TỔ CHỨC 8 Thực hiện linh hoạt các khâu lên lớp, phân phối thời gian hợp lý ở các phần, các khâu 1.5 9 Tổ chức và điều khiển học sinh học tập tích cực, chủ động, phù hợp với nội dung của kiểu bài, với các đối tượng, học sinh hứng thú học 1.5 KẾT QUẢ 10 Đa số học sinh hiểu bài, nắm vững trọng tâm, biết vận dụng kiến thức 1.0 Điểm tổng cộng: 15/20 I. CÁCH XẾP LOẠI: 1.1. Loại giỏi: a/.Điểm tổng cộng đạt từ 17-20đ b/.Các yêu cầu 1,4,6,9 phải đạt 2đ 1.2. Loại khá: a/.Điểm tổng cộng đạt từ 13-16.5đ b/.Các yêu cầu 1,4,9 phải đạt 2đ 1.3. Loại trung bình: a/. Điểm tổng cộng đạt từ 10-12.5đ b/.Các yêu cầu 1,4 phải đạt 2đ 1.4. Loại yếu kém: a/. Điểm tổng cộng đạt từ 9đ XẾP LOẠI TIẾT DẠY: Trung bình II. Ý KIẾN GIÁO VIÊN ĐƯỢC THANH TRA Nhất trí ……………………………………………………………... Người dạy (kí tên) Tân An, ngày 25 tháng 2 năm 2010 Người dự (kí tên) PHỤ LỤC 9, Phiếu 3: PHIẾU DỰ GIỜ GIÁO VIÊN BẬC TRUNG HỌC (LỚP ĐỐI CHỨNG) Họ và tên GV dạy: Nguyễn Văn Lang Trường: THPT Hùng Vương Môn: Ngữ văn Tên bài dạy: Chiếc thuyền ngoài xa (NMC), Tiết: 74 Họ tên người dự: 1/ Lê Thị Loan 2/Nguyễn Thị Bích Hạnh 3/ Nguyễn Sự I. BẢNG ĐÁNH GIÁ CÁC MẶT CÁC YÊU CẦU ĐIỂM NỘI DUNG 1 Chính xác khoa học (khoa học bộ môn và quan điểm tư tưởng, lập trường chính trị) 2 2 3 Bảo đảm tính hệ thống, đủ nội dung, làm rõ trọng tâm Liên hệ với thực tế (nếu có), có tính giáo dục 1.5 2 PHƯƠNG PHÁP 4 Sử dụng phương pháp phù hợp với đặc trưng bộ môn, với nội dung của kiểu bài lên lớp 2 5 Kết hợp tốt các phương pháp trong các hoạt động dạy và học 1.0 PHƯƠNG TIỆN 6 Sử dụng và kết hợp tốt các phương tiện, thiết bị dạy và học phù hợp với nội dung của kiểu bài lên lớp 2 7 Trình bày bảng hợp lý, chữ viết, hình vẽ, lời nói rõ ràng, chuẩn mực, giáo án hợp lý 1.5 TỔ CHỨC 8 Thực hiện linh hoạt các khâu lên lớp, phân phối thời gian hợp lý ở các phần, các khâu 1.5 9 Tổ chức và điều khiển học sinh học tập tích cực, chủ động, phù hợp với nội dung của kiểu bài, với các đối tượng, học sinh hứng thú học 2 KẾT QUẢ 10 Đa số học sinh hiểu bài, nắm vững trọng tâm, biết vận dụng kiến thức 1.0 Điểm tổng cộng: 16,5/20 II. CÁCH XẾP LOẠI: 2.1. Loại giỏi: a/.Điểm tổng cộng đạt từ 17-20đ b/.Các yêu cầu 1,4,6,9 phải đạt 2đ 2.2. Loại khá: a/.Điểm tổng cộng đạt từ 13-16.5đ b/.Các yêu cầu 1,4,9 phải đạt 2đ 2.3. Loại trung bình: a/. Điểm tổng cộng đạt từ 10-12.5đ b/.Các yêu cầu 1,4 phải đạt 2đ 2.4. Loại yếu kém: a/. Điểm tổng cộng đạt từ 9đ XẾP LOẠI TIẾT DẠY: Khá III. Ý KIẾN GIÁO VIÊN ĐƯỢC THANH TRA Nhất trí ……………………………………………………………... Người dạy (kí tên) Tân An, ngày 27 tháng 2 năm 2010 Người dự (kí tên) ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLA5506.pdf
Tài liệu liên quan