Vấn đề phát triển con người Việt Nam trong hai thập niên trở lại đây

BÀI TIỂU LUẬN MÔN KINH TẾ PHÁT TRIỂN VẤN ĐỀ PHÁT TRIỂN CON NGƯỜI VIỆT NAM TRONG HAI THẬP NIÊN TRỞ LẠI ĐÂY Mở đầu Bản tiểu luận này đề cập tới vấn đề phát triển con người tại Việt Nam, đặc biệt trong thời kỳ đổi mới. Trong suốt quá trình đấu tranh giành độc lập dân tộc và xây dựng đất nước, Đảng và Nhà nước Việt Nam luôn kiên trì con đường phát triển mang lại hạnh phúc cho toàn thể nhân dân. Đối với nhiều người dân Việt Nam, quan niệm về phát triển con người (PTCN) như một quá trình mở rộng cơ

doc27 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1239 | Lượt tải: 2download
Tóm tắt tài liệu Vấn đề phát triển con người Việt Nam trong hai thập niên trở lại đây, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hội lựa chọn và tăng cường năng lực cho người dân mà Chương trình Phát triển Liên Hợp Quốc (UNDP) đưa ra, không phải hoàn toàn mới lạ. Tuy nhiên, đôi khi giữa chủ trương chính sách và thực tiễn triển khai lại có sự thiếu đồng bộ, ảnh hưởng đến việc thực hiện các mục tiêu phát triển nhằm nâng cao đời sống nhân dân. Công cuộc đổi mới, bắt đầu được khởi xướng và triển khai từ giữa những năm 1980, đã tạo dựng một khuôn khổ mới để thực hiện một cách tốt hơn các mục tiêu phát triển con người. Thông qua việc mở rộng cơ hội lựa chọn cho người dân, đổi mới đã mang lại những thay đổi lớn lao về cơ hội được làm việc, học tập và hưởng thụ một cuộc sống có ý nghĩa cho người dân trong hơn một thập niên qua. Bản tiểu luận này cũng nêu ra những thách thức chủ yếu mà Việt Nam đang và sẽ đối mặt trong việc thực hiện các mục tiêu phát triển con người trong mười năm tới dưới tác động của toàn cầu hoá kinh tế và bước chuyển sang kinh tế tri thức đang diễn ra mạnh mẽ trên phạm vi toàn thế giới. Một trong những thách thức đó là làm thế nào tiếp tục củng cố và nâng cao những thành quả của đổi mới đồng thời hạn chế chênh lệch giàu nghèo hiện đang có chiều hướng gia tăng. Việc chỉ ra các thách thức đó cũng hàm ý về những mục tiêu phát triển con người cần được Việt Nam ưu tiên giải quyết trong giai đoạn tới. Để vượt qua các thách thức lớn đang đặt ra trên con đường phát triển, để các mục tiêu phát triển con người của giai đoạn tới được thực hiện một cách có hiệu quả, Việt Nam không có cách nào khác hơn là phát huy sức mạnh toàn dân tộc, tiếp tục đổi mới, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và đẩy mạnh quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Bài này được chia làm 5 phần: Phần 1. Quan niệm phát triển con người. Phần 2. Những thành tựu đầy ấn tượng trong thời kỳ đổi mới. Phần 3. Những thách thức về phát triển con người ở Việt Nam. Phần 4. Các biện pháp tăng cường phát triển con người ở Việt Nam. Phần 5. Chỉ số phát triển con người (HDI). Những thông tin trong bài tiểu luận này được em tổng hợp từ một số tài liệu kinh tế (Kinh tế phát triển, Kinh tế chính trị đại cương,…) và các báo điện tử Vnexpress, Vneconomy, Việt Nam net- vnn. Phần I. Quan niệm phát triển con người. Phần này đề cập những nội dung cơ bản của quan điểm phát triển con người. Phát triển con người (tiếng Anh: human development) chính là, và phải là sự phát triển mang tính nhân văn. Đó là sự phát triển vì con người, của con người và do con người. Quan điểm này coi việc mở rộng nguồn thu nhập là một phương tiện quan trọng để đạt được mục tiêu phát triển con người; song xét về bản chất sâu xa, mở rộng cơ hội lựa chọn cho người dân, hàm cả nghĩa tạo ra các điều kiện để họ thực hiện được sự lựa chọn đó, mới là mục tiêu tối thượng của mọi nỗ lực phát triển. Quan niệm phát triển con người - một quan điểm mang tính nhân văn coi con người là trung tâm, là mục đích tối thượng của sự phát triển. Phát triển con người là sự mở rộng cơ hội cho người dân nhằm hướng tới một cuộc sống đầy đủ về vật chất, phong phú về tri thức… Những sự lựa chọn quan trọng nhất trong số rất nhiều cơ hội lựa chọn theo quan điểm của người dân là được sống lâu và khoẻ mạnh, được học hành và được tiếp cận với các nguồn lực cần thiết để đảm bảo một cuộc sống ấm no. Phát triển con người cũng có thể được coi là sự tăng cường năng lực cho người dân, tức là khả năng thực hiện những công việc và ý tưởng mà họ cho là có giá trị. Cũng giống như khái niệm về cơ hội lựa chọn, khái niệm về năng lực rõ ràng hàm chứa ý tưởng của người dân về quyền tự do quyết định cuộc sống trên mọi mặt của mình. Ngoài ra, phát triển con người không chỉ là việc xây dựng năng lực cho con người, như nâng cao sức khoẻ, tri thức và kỹ năng, mà còn là việc sử dụng những năng lực đó thông qua các hoạt động sản xuất kinh doanh, văn hoá - xã hội và chính trị. Chỉ khi nào phát triển con người đảm bảo mối quan hệ cân bằng giữa hai quá trình xây dựng và sử dụng năng lực của con người, thì lúc đó tiềm năng của con người mới được khai thác đầy đủ. Các nền kinh tế Đông Á có thể coi là những thí dụ thành công trong việc tạo lập và phát triển một môi trường thuận lợi để mở rộng và thực hiện các cơ hội lựa chọn của người dân. Những nước này không chỉ tích cực đầu tư xây dựng những năng lực cơ bản, mà người dân còn được hỗ trợ để sử dụng những năng lực này thông qua các chính sách thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế nhanh chóng cũng như tăng cường các cơ hội lựa chọn cho người dân. Quan điểm phát triển con người có năm đặc trưng cơ bản. Thứ nhất, con người được coi như là trung tâm của sự phát triển. Những vấn đề phát triển cần được nhận thức trên cơ sở lợi ích và sự tham gia đóng góp của người dân. Thứ hai, người dân không chỉ là phương tiện mà còn là mục tiêu của phát triển. Vì vậy, quan điểm phát triển con người gắn liền với những lý thuyết về nguồn vốn con người hay nguồn nhân lực. Đặc trưng thứ ba là việc nâng cao vị thế của người dân. Người dân không chỉ đơn thuần là đối tượng thụ hưởng một cách thụ động thành quả của sự phát triển, mà còn là những thành viên tham gia tích cực, chủ động vào các hoạt động và quá trình phát triển có ý nghĩa quyết định tới cuộc sống của họ. Thứ tư, quan điểm phát triển con người chú trọng đến việc tạo lập sự bình đẳng về cơ hội cho mọi người dân, không phân biệt chủng tộc, tầng lớp, tôn giáo, giới tính, quốc tịch; đồng thời nhấn mạnh tầm quan trọng của sự công bằng giữa các thế hệ và tính bền vững về môi trường. Cuối cùng, quan điểm phát triển con người mang tính toàn diện vì đó là một quá trình mở rộng cơ hội lựa chọn của người dân về tất cả các mặt của cuộc sống, như kinh tế, chính trị, xã hội, văn hoá và môi trường. Đổi mới và Phát triển con người ở Việt Nam. Các chính sách kinh tế - xã hội mà Việt Nam thực hiện trong thời gian qua, đặc biệt trong quá trình đổi mới, về căn bản là thực hiện phương thức tiếp cận hướng tới việc phát triển theo quan điểm phát triển con người. Trước đổi mới, Việt Nam đã đạt được những thành tựu tương đối tốt về phát triển con người, đặc biệt trong các lĩnh vực phát triển nguồn nhân lực, y tế, giáo dục. Tuy nhiên, quá trình mở rộng cơ hội lựa chọn và tăng cường năng lực của người dân trong lĩnh vực kinh tế bị hạn chế bởi việc duy trì quá lâu cơ chế kế hoạch hoá tập trung. Trong những năm 1980, những yếu kém của cơ chế này bắt đầu được bộc lộ, cùng với hậu quả nặng nề của chiến tranh đã đẩy nền kinh tế rơi vào tình trạng khủng hoảng, nhiều người dân bị nghèo đói. Trước tình hình đó, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ 6 năm 1986 đã chủ trương tiến hành công cuộc đổi mới. Đổi mới không thay đổi các mục tiêu phát triển vì định hướng xã hội chủ nghĩa tiếp tục được khẳng định là phương hướng cơ bản để đáp ứng nhu cầu của người dân. Định hướng này được phản ánh rõ qua mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh". Đổi mới ở Việt Nam được bắt đầu từ đổi mới tư duy phát triển. Trên cơ sở giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa, các chính sách mới được đề ra nhằm thiết lập nền kinh tế thị trường, đồng thời mở cửa, tích cực, chủ động hội nhập vào nền kinh tế thế giới. Đổi mới thực sự đã mang lại những kết quả phát triển con người đầy ấn tượng (đặc biệt trong lĩnh vực kinh tế - xã hội), qua đó tạo đà phát triển mới, đảm bảo năng lực để giải quyết những thách thức mới trong giai đoạn phát triển tiếp theo. Toàn cầu hoá và phát triển con người. Trước tác động của quá trình tự do hoá thương mại và những tiến bộ mang tính đột phá của khoa học kỹ thuật và công nghệ, toàn cầu hoá đã và đang làm thu hẹp không gian và thời gian, mở ra những thị trường mới, công cụ mới, thể chế mới, quy tắc mới và giá trị mới. Toàn cầu hoá đã đóng vai trò xúc tác quan trọng trong việc tăng cường sự phồn thịnh và đẩy lùi đói nghèo ở nhiều nước. Song nếu chỉ tích cực tham gia vào quá trình hội nhập không thôi thì chưa đủ. Một quá trình hội nhập thực sự thành công đòi hỏi phải xây dựng được những chính sách mang tính chủ động nhằm tranh thủ tối đa mặt tích cực, lợi ích và giảm thiểu mặt tiêu cực, rủi ro của quá trình toàn cầu hóa. Cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ châu Á năm 1997 là một ví dụ rất rõ ràng về tiềm năng gây mất ổn định của quá trình toàn cầu hoá. Điều đó cho thấy hệ thống tài chính toàn cầu ngày nay chứa đựng những yếu tố bất ổn định và dễ bị tổn thương. Kinh nghiệm cũng chỉ ra rằng tính linh hoạt, chủ động là những yếu tố hết sức quan trọng để vượt qua khủng hoảng. Những nền kinh tế châu Á thoát khỏi cuộc khủng hoảng một cách tương đối an toàn là những nền kinh tế có tính linh hoạt cao và hội nhập tốt hoặc có mức độ hội nhập tài chính yếu như Việt Nam. Mặc dù cuộc khủng hoảng châu Á có ảnh hưởng đáng kể tới Việt Nam, đặc biệt là làm suy giảm tốc độ xuất khẩu và các dòng đầu tư trực tiếp nước ngoài, song nhìn chung Việt Nam đã chống chọi khá tốt cuộc khủng hoảng này, thông qua một loạt các biện pháp cần thiết như kiểm soát chặt chẽ các hoạt động giao dịch ngoại hối và sử dụng nguồn vốn nước ngoài chủ yếu là các khoản đầu tư trực tiếp thay vì các khoản đầu tư gián tiếp. Trong tương lai, việc tiếp tục mở cửa cần được quản lý một cách thận trọng. Cần nhấn mạnh là việc không mở cửa hay duy trì các rào cản thương mại chặt chẽ có thể dẫn đến những hậu quả còn nghiêm trọng hơn. Tình trạng chênh lệch thu nhập ngày càng gia tăng cũng là một vấn đề thường đi đôi với quá trình toàn cầu hoá. Hiện chưa có thể khẳng định chắc chắn về một mối liên hệ mang tính hệ thống giữa (những thay đổi về) thương mại và (những thay đổi về) phân phối thu nhập. Tuy nhiên, các nền kinh tế đang trỗi dậy có mức độ toàn cầu hoá cao thường, nhưng không phải luôn luôn, có sự phân phối thu nhập tương đối đồng đều hơn so với các nền kinh tế đang trỗi dậy có mức độ toàn cầu hoá thấp hơn. Mức độ chênh lệch về thu nhập ở một nền kinh tế có thể liên quan tới lịch sử, tăng trưởng kinh tế, các biện pháp kiểm soát giá cả và tiền lương, các chương trình phúc lợi và các chính sách giáo dục nhiều hơn là liên quan tới chỉ riêng toàn cầu hoá hay tự do hoá thương mại. Tuy nhiên, để tranh thủ được lợi ích của thương mại, người nghèo cần được tiếp cận, ứng phó với thị trường, mà điều đó đòi hỏi phải đầu tư về cơ sở hạ tầng cũng như thực hiện các biện pháp thể chế. Một điều rõ ràng là bảo hộ ít khi giúp ích cho người nghèo, đặc biệt là về lâu dài. Các chính sách vĩ mô phù hợp cùng với các biện pháp chính sách mang tính mục tiêu, có đối tượng rõ ràng được coi là có hiệu quả hơn. Toàn cầu hoá đòi hỏi phải hội nhập văn hoá ở mức độ cao hơn. Mặc dù điều này có thể ảnh hưởng tới tính đa dạng văn hoá ở một mức độ nhất định, song việc tăng cường giao lưu văn hoá mang lại những lợi ích to lớn. Có người e ngại rằng toàn cầu hoá sẽ làm phương hại đến chủ quyền quốc gia của mỗi nước. Tất nhiên, điều không thể phủ nhận là một khi đã tham gia vào quá trình hội nhập quốc tế mỗi nước đều cần tiến hành một số biện pháp cải cách nhất định, và điều đó vì thế có thể hạn chế phần nào phạm vi của các chính sách quốc gia. Để hội nhập thành công đòi hỏi nhiều yếu tố, trong đó có yêu cầu về một nền kinh tế độc lập tự chủ linh hoạt có khả năng ứng phó một cách nhanh chóng và có hiệu quả với mọi biến động nảy sinh trong quá trình toàn cầu hoá. Chủ động tích cực tham gia hội nhập không phải là sự hy sinh chủ quyền quốc gia mà phải là một biện pháp thực hiện chủ quyền quốc gia thông qua việc tăng cường năng lực đất nước để có thể quyết định tương lai của chính mình. Điều đó đòi hỏi cả Chính phủ và người dân phải có năng lực mới và tư duy mới. Thành công của hội nhập tùy thuộc vào khả năng thích ứng và xây dựng các năng lực đó. Hội nhập toàn cầu có thể mở ra con đường dẫn tới phát triển bền vững và cơ hội tiến kịp, nhưng tốc độ của cuộc hành trình còn phụ thuộc vào sức mạnh, bản lĩnh và ý chí của những con người đi trên con đường đó. Phần 2. Những thành tựu đầy ấn tượng trong thời kỳ đổi mới. Trong suốt gần hai thập kỷ qua, nước ta đã thực hiện từng bước cải cách thể chế nhằm tạo lập môi trường thuận lợi và mở rộng cơ hội lựa chọn cho người dân. Quá trình cải cách thể chế này có thể nói đã bắt đầu từ nông nghiệp bằng việc giao đất của các hợp tác xã cho các hộ nông dân. Điều đó đã mở rộng rất nhiều phạm vi lựa chọn cho người dân nông thôn để họ có thể sử dụng và quản lý đất nông nghiệp một cách hiệu quả nhất. Cùng với các biện pháp cải cách kinh tế vĩ mô như tự do hoá giá cả và thống nhất tỷ giá hối đoái, đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn và phát triển vùng lãnh thổ, công cuộc cải cách thể chế như vậy đã thúc đẩy thương mại cả trong nước và quốc tế. Sản lượng lương thực tăng vọt đã đưa Việt Nam từ một nước nhập khẩu gạo trong những năm 1980 trở thành nước xuất khẩu gạo lớn thứ hai trên thế giới. Các hộ nông dân bắt đầu đa dạng hoá sản phẩm theo hướng chuyển sang trồng các loại cây có giá trị kinh tế cao hơn như cà phê, chè và cao su. Mặc dù thương mại quốc tế đã mang lại những lợi ích to lớn, song sự biến động về giá cả trên thị trường quốc tế đặc biệt là đối với các mặt hàng nông sản cà phê và gạo cũng đặt người nông dân trước những rủi ro, khó khăn to lớn. Người nông dân còn gặp rất nhiều khó khăn trong việc đương đầu với những rủi ro đó. Các nỗ lực như đa dạng hoá sản xuất ở mức cao hơn, đa dạng hoá thu nhập hay tận dụng và phát huy các biện pháp hỗ trợ, xúc tiến thương mại khác cần được đẩy mạnh hơn. Những thành tích đáng khích lệ cũng đã đạt được trong việc mở rộng cơ hội việc làm. Trong những năm 1990, số lao động mới có việc làm ở Việt Nam mỗi năm tăng thêm hơn 1,2 triệu người tức là ở mức hơn 3%/năm, cao hơn đáng kể so với những thập kỷ trước đó. Có hai bài học được rút ra từ thành công to lớn này. Thứ nhất, quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường và một nền kinh tế thông thoáng hơn đã mang lại hiệu quả to lớn trong việc giải phóng nhiều tiềm năng của nhân dân Việt Nam. Mặc dù còn có những bất cập trong môi trường kinh doanh, khu vực kinh tế dân doanh đã tỏ ra rất có tác dụng trong việc tạo ra những việc làm mới. Vì vậy, việc thúc đẩy sự phát triển của khu vực này là nội dung hết sức quan trọng. Thứ hai, cần phải thấy rằng giờ đây Nhà nước không còn là nguồn cung cấp việc làm duy nhất hay tốt nhất nữa. Thay vào đó, Nhà nước cần tập trung thực hiện vai trò gián tiếp nhiều hơn trên cơ sở thiết lập và giám sát các thể chế nhằm tạo thuận lợi cho thị trường lao động vận hành tốt. Nhà nước có trách nhiệm đảm bảo cung cấp các dịch vụ xã hội phù hợp với khả năng tiếp cận và chi trả của người dân, ví dụ như thông qua việc thực hiện có hiệu quả Chương trình quốc gia Xoá đói Giảm nghèo và Việc làm. Trước "đổi mới", tình trạng nghèo đói rất phổ biến với tỷ lệ người nghèo lên tới hơn 70%. Tình trạng nghèo đói phổ biến này có nhiều nguyên nhân. Trước hết là do người dân không có nhiều cơ hội để tạo ra và gia tăng thu nhập, đặc biệt trong điều kiện cơ chế kế hoạch hoá tập trung. Thứ hai là do đã chú trọng quá nhiều vào việc đảm bảo việc làm và mức sống bình đẳng nên không tạo ra được và phát huy tác dụng của các biện pháp khuyến khích lao động. Thứ ba, người dân không có đủ năng lực để ứng phó với rủi ro. Phần lớn dân cư Việt Nam sống ở nông thôn và cuộc sống của họ phụ thuộc vào nông nghiệp. Những người dân nông thôn này không có cơ chế đảm bảo an toàn trong những tình huống khẩn cấp như hạn hán, bão lũ và những rủi ro, thiên tai khác do trình độ kỹ thuật lạc hậu, mức độ đa dạng hoá còn thấp và năng lực tài chính hạn chế. Đổi mới không chỉ đơn thuần là những biện pháp kinh tế nhằm đối phó với tình hình khủng hoảng vào giữa những năm 1980. Đổi mới chính là cả một chương trình cải cách toàn diện nhằm khắc phục tình trạng nghèo đói và tiếp tục phát triển đất nước, trên cơ sở nhận thức được rằng cơ chế kế hoạch hoá tập trung không còn phù hợp với việc thực hiện các mục tiêu cao cả phát triển con người trong khung cảnh hoà bình và đất nước tập trung vào giải quyết những vấn đề của phát triển. Đổi mới đã đem lại những thành tựu đầy ấn tượng trong công cuộc xoá đói giảm nghèo, xét theo mọi tiêu chuẩn. Căn cứ vào chuẩn nghèo của quốc tế, tỷ lệ nghèo đã giảm từ khoảng 75% vào giữa thập kỷ 80 xuống còn 58% năm 1993 và tiếp tục giảm còn khoảng 37% năm 1998. ở các vùng thành thị, tỷ lệ nghèo giảm từ 25% năm 1993 xuống còn 9% năm 1998, trong khi đó ở các vùng nông thôn tỷ lệ nghèo giảm từ 66% xuống còn 45%. Xét về các khía cạnh khác của phát triển con người, đặc biệt là trong các lĩnh vực y tế và giáo dục, Việt Nam đạt kết quả cao hơn đáng kể so với các nước thu nhập thấp khác, có thể là do mức chênh lệch về thu nhập còn tương đối thấp và Chính phủ dành ưu tiên cao cho việc đầu tư vào các lĩnh vực xã hội. Tỷ lệ biết chữ ở người lớn đã đạt mức 94%. Tỷ lệ nhập học trong độ tuổi ở cấp tiểu học lên tới 92% và ở cấp trung học cơ sở là 74%. Trẻ em các dân tộc thiểu số đã tiến kịp về tỷ lệ nhập học, đồng thời bất bình đẳng giữa nam và nữ đã được thu hẹp. Được khuyến khích bởi mức lương cao hơn đối với những người lao động có tay nghề, giáo dục đại học đã trở nên phổ biến và số sinh viên du học ở nước ngoài đang tăng lên, đồng thời những hình thức giáo dục mới như các trường tư thục và bán công đã xuất hiện. Trong khi đó, tỷ lệ nhập học, đi học thường xuyên và tốt nghiệp vẫn chưa đạt yêu cầu, một phần có thể do chi phí của các gia đình cho con em đi học ngày càng tăng lên. Chất lượng giáo dục và đội ngũ giáo viên cũng là một vấn đề cần được hết sức quan tâm. Các phương pháp giảng dạy truyền thống vẫn chủ yếu dựa trên việc dạy chay, học gạo. Các trường tiểu học và trung học vẫn chú trọng nhiều tới việc học thuộc lòng, và học sinh thường có ít cơ hội để thể hiện sự sáng tạo và bày tỏ những tâm tư tình cảm và ý tưởng của mình. Cần thiết phải hiện đại hoá hệ thống giáo dục và đào tạo để Việt Nam vững tin đi vào kinh tế tri thức như chúng ta hằng mong muốn. Trong thời kỳ đổi mới, chính sách dân số và các chương trình kế hoạch hoá gia đình đã được tăng cường và thực hiện trên quy mô lớn. Cùng việc mức sống nói chung được nâng cao, các nỗ lực trong việc thực hiện chính sách dân sỗ và kế hoạch hoá đã làm cho tốc độ tăng dân số giảm đáng kể. Giờ đây, Chính phủ có dự định chuyển dần từ việc kiểm soát tỷ lệ sinh và kế hoạch hoá gia đình sang việc thực hiện chính sách tập trung tạo điều kiện để người dân tự do lựa chọn trên cơ sở cung cấp đầy đủ thông tin thông qua việc giúp người dân tiếp cận với các dịch vụ chăm sóc sức khoẻ chất lượng cao và cung cấp thông tin phù hợp. Bước đi đó cho thấy chính sách dân số là phù hợp với quan điểm về phát triển con người. Trong lĩnh vực y tế, đổi mới tiếp tục mở rộng và cải thiện hệ thống y tế ba cấp hiện hành. Đặc biệt, các chương trình tiêm chủng đã được thực hiện rất thành công. Chính sách y tế chính thức hiện nay bao gồm ba nội dung chính: (a) thực hiện phương châm "phòng bệnh hơn chữa bệnh"; (b) kết hợp y học cổ truyền và y học hiện đại và thực hiện phương châm xã hội hoá, "nhà nước và nhân dân cùng làm". Trong thời kỳ đổi mới, bảo hiểm y tế đã được mở rộng và giờ đây đã phục vụ cho gần 12% dân số. Sự tham gia của khu vực tư nhân vào trong các hoạt động chăm sóc sức khỏe đang ngày càng gia tăng, đặc biệt là sự phát triển của mạng lưới các hiệu thuốc tư nhân. Mặc dù sự gia tăng các nguồn cung cấp các dịch vụ chăm sóc sứ khỏe về nguyên tắc đã mở rộng sự lựa chọn của người dân, song điều đó cũng dẫn đến tình trạng sử dụng thuốc bất hợp lý, gia tăng hiện tượng kháng thuốc và các khoản chi của người dân cho việc điều trị. Cuối cùng, đổi mới đã tạo ra bước ngoặt trong lĩnh vực văn hoá và thông tin. Việc cung cấp và khả năng tiếp đến các loại thông tin khác nhau đạt được bước cải thiện đáng kể; công nghệ thông tin và truyền thông hiện đại và Internet đã trở nên phổ biến (giá trị doanh thu bưu điện tăng bình quân hàng năm 11,3%). Tuy nhiên, trong lĩnh vực này vẫn còn khoảng cách khá xa giữa những gì đã đạt được với tiềm năng và kỳ vọng của Việt Nam cũng như so với trình độ của nhiều nước láng giềng trong khu vực. Thực sự cần phải có những bưỡc đột phá mạnh mẽ hơn trong lĩnh vực này. Nhìn chung, đổi mới đã mở rộng đáng kể sự lựa chọn của người dân đồng thời tiếp tục kế thừa và tăng cường những năng lực đã được tạo dựng trước thời kỳ đổi mới. Điều này được phản ánh qua mức tăng cao về Chỉ số Phát triển con người (HDI) và những tiến bộ trong việc cải thiện Chỉ số Nghèo đói của con người (HPI). Về HDI, một chỉ số tổng hợp thể hiện tiến bộ đạt được về thu nhập, y tế và giáo dục. Năm 1996, chỉ số HDI của Việt Nam là 0,540, đứng ở vị trí 121 trong tổng số 174 nước được xếp hạng. Do các hoạt động của Việt Nam trong lĩnh vực cung cấp nước sạch và giải quyết tình trạng suy dinh dưỡng ở trẻ em còn yếu kém nên vị trí xếp hạng của Việt Nam về HPI còn chưa cao mặc dù đã đạt được tiến bộ trong những năm gần đây. Tuy nhiên, còn có nhiều vấn đề cần được giải quyết. Trước hết, những thách thức về phát triển con người là to lớn vì Việt Nam vẫn là một nước nghèo theo tiêu chuẩn quốc tế và còn đang trong quá trình chuyển đổi. Thứ hai, vẫn tồn tại chênh lệch đáng kể về phát triển kinh tế xã hội giữa các vùng lãnh thổ, các dân tộc cũng như giữa phụnữ và nam giới. Thứ ba, quá trình phát triển kinh tế trong thời gian qua đã kèm theo những ảnh hưởng không thể xem thường tới môi trường sinh thái. Tình trạng suy giảm đa dạng sinh học, ô nhiễm không khí, chất thải rắn và tình trạng xuống cấp của các tài nguyên rừng, nước và biển đang và sẽ là những vấn đề rất cần được quan tâm. Quá trình công nghiệp hoá và hiện đại hoá cần đảm bảo tính bền vững về môi trường sao cho các thế hệ mai sau sẽ có những cơ hội phát triển. Phần 3. Những thách thức về phát triển con người ở Việt Nam. Tăng gấp đôi GDP, cải thiện đáng kể HDI, xoá đói, giảm nhanh tỷ lệ nghèo, tăng tuổi thọ và phổ cập giáo dục trung học cơ sở là những mục tiêu chính của Chiến lược Phát triển Kinh tế - Xã hội 10 năm 2001 - 2010 được thông qua tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX. Theo quan điểm phát triển con người, Chiến lược này nhấn mạnh tầm quan trọng của việc xây dựng và nâng cao năng lực của người dân cũng như tạo điều kiện để người dân có thể sử dụng những năng lực của mình nhằm xây dựng cơ sở cho việc thực hiện mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh". Tuy nhiên, thời kỳ xoá đói giảm nghèo một cách dễ dàng có lẽ đã đi qua, và việc thực hiện mục tiêu xoá đói giảm nghèo trong thập kỷ tới sẽ không dễ dàng, kể cả khi có thể duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế ở mức tương đối cao (ít nhất 7%/năm). Vấn đề chênh lệch về phát triển giữa các vùng lãnh thổ, tình trạng nghèo khổ của nhiều nhóm dân cư ở các vùng sâu vùng xa, những nơi và những đối tượng đặc biệt khó khăn đang cần được quan tâm nhiều hơn nữa. Tăng trưởng kinh tế trong thập kỷ 90 của thế kỷ trước đã mang lại lợi ích cho người nghèo Việt Nam, song có thể tốt hơn nữa nếu những thành quả tăng trưởng được chia sẻ một cách đồng đều hơn. Mặc dù vẫn còn ở mức khá thấp căn cứ vào tiêu chuẩn quốc tế, song sự chênh lệch về thu nhập dường như đang gia tăng một cách đáng kể trên phạm vi cả nước trong thời gian gần đây. Kết quả ước tính về chỉ số Gini, một chỉ số phản ánh mức độ bất bình đẳng giữa các tầng lớp dân cư về thu nhập, trên phạm vi cả nước tính cho năm 1999 là 40.7 có nghĩa là mức chênh lệch về thu nhập của nước ta đã rất gần với mức chênh lệch của Trung Quốc, (ở mức 40.3 năm 1997) trong khi thu nhập bình quân đầu người theo sức mua tương đương của ta (1867 USD) mới chỉ bằng khoảng một nửa của Trung quốc (3617 USD). Mức chênh lệch về thu nhập này cũng cao hơn so với đánh giá mức chênh lệch dựa trên số liệu về tiêu dùng do Ngân hàng Thế giới và Tổng cục thống kê đưa ra trước đây. Tình trạng gia tăng mức chênh lệch giàu nghèo nói trên là khá phổ biến. Nếu tính về mức phần trăm thay đổi của hệ số Gini thì có trên một nửa (31/64) tỉnh thành có hệ số Gini đã tăng lên ít nhất 10% trong thời gian 1995-1999. Chỉ có 9 trong số 64 tỉnh thành có hệ số này giảm, nhưng ngay cả trường hợp như vậy thì nhiều tỉnh trong số đó đã có mức độ bất bình đẳng cao hơn mức trung bình của cả nước. Mức độ chênh lệch không chỉ phản ánh qua số liệu về thu nhập mà còn thể hiện trong các khía cạnh khác của quá trình phát triển con người giữa các địa phương. Có thể rút ra hai bài học chung từ việc phân tích này. Thứ nhất, các chỉ số tổng hợp dường như che lấp những sự chênh lệch đáng kể về mức độ phát triển con người trong phạm vi quốc gia. Vùng Đông Nam bộ và vùng Đồng bằng sông Hồng có kinh tế tương đối khá hơn so với các khu vực khác, đặc biệt là vùng Đông Bắc, Tây Bắc và Tây Nguyên. Xét về chỉ số HDI, các khu vực trên có thể sánh với các nước như Hungary và Es-tô-nia. Những tỉnh có chỉ số HDI thấp cũng gần như các nước Lào, Nê-pan và Bu-tan. Thứ hai, kết quả phân tích riêng về sự chênh lệch thu nhập có thể dẫn đến những kết luận chính sách khác so với trường hợp dựa trên kết quả phân tích chênh lệch về mức độ phát triển con người. Có thể rút ra kết luận tương tự từ tình hình chênh lệch hiện nay giữa nam và nữ trong toàn quốc. Như vậy, khi xây dựng chính sách mới để cải thiện cuộc sống của người dân, cần phải nghiên cứu rộng hơn (không chỉ xem xét khía cạnh thu nhập) cũng như sâu hơn (không chỉ dựa trên những số liệu trung bình quốc gia). Vì vậy, rất có thể các chỉ số HDI và HPI của các tỉnh cần được tham khảo khi hoạch định các chính sách kinh tế-xã hội và phân bổ nguồn lực trong toàn quốc. Những thách thức chủ yếu trong việc thực hiện các mục tiêu phát triển to lớn trong thời kỳ mới: Thứ nhất là những thách thức trong việc chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, thực hiện các cam kết trong các hiệp định thương mại song phương và đa phương, chuẩn bị điều kiện gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới ( WTO). Mức tăng trưởng cao trong thời gian qua khó có thể duy trì được nếu như các mối quan hệ thương mại và đầu tư không được đẩy mạnh và làm sâu sắc thêm. Việc ban hành Luật Doanh nghiệp mới, sửa đổi Luật Đầu tư nước ngoài và thực hiện Chương trình Hành động hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ gần đây đã cải thiện môi trường đầu tư và kinh doanh, song vẫn cần phải có những nỗ lực lớn hơn nữa. Sức cạnh tranh của nền kinh tế vẫn còn yếu, khả năng tiếp thu công nghệ hiện đại vẫn còn hạn chế. Trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, việc bảo hộ và bao cấp ở mức độ cao cho các doanh nghiệp Nhà nước như trước đây sẽ không thể thực hiện được và không còn bền vững nữa. Tạo việc làm vẫn là một trong những thách thức lớn nhất trong thập kỷ này. Mỗi năm, có thêm 1,4 triệu người tham gia vào thị trường lao động. Sẽ có thêm những lao động dôi dư trong quá trình cải cách doanh nghiệp. Tỷ lệ thiếu việc làm vẫn còn cao, đặc biệt là ở các vùng nông thôn. Trong bối cảnh như vậy, việc tạo điều kiện trực tiếp hay gián tiếp cho sự phát triển của những ngành công nghiệp sử dụng nhiều vốn thay vì cho những ngành công nghiệp sử dụng nhiều lao động sẽ là một điều đáng lo ngại một phần vì điều đó cản trở nghiêm trọng cho quá trình tăng trưởng tạo ra nhiều việc làm. Thực tế những năm gần đây cho thấy khu vực dân doanh có những đóng góp quan trọng trong việc tạo ra những việc làm mới, kể cả ở các vùng nông thôn. Luật Doanh nghiệp mới, bắt đầu triển khai thực hiện tháng 1 năm 2000, đã thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ của khu vực dân doanh. Bộ luật mới này đã giảm khá nhiều chi phí và gánh nặng về hành chính khi thành lập một doanh nghiệp tư nhân do việc đơn giản hoá các thủ tục và xoá bỏ hơn 100 loại giấy phép và lệ phí. Trong năm 2000, có 14.400 doanh nghiệp quy mô vừa và nhỏ mới và 140.000 doanh nghiệp hộ gia đình đã đăng ký hoạt động, tạo ra 500.000 việc làm mới. Ngoài yếu tố số lượng doanh nghiệp, một yêu cầu cấp bách đặt ra là tăng cường tri thức, kỹ năng và năng suất của những người lao động cả cũ và mới thông qua việc dạy nghề và đào tạo tại chỗ qua công việc. Trong tình hình như vậy, hệ thống giáo dục đào tạo và nghiên cứu khoa học cần phải có sự đổi mới đáng kể. Chương trình giảng dạy cần được hiện đại hóa nhằm đảm bảo học đi đôi với hành. Ngoài việc tăng số lượng, cũng cần phải nâng cao chất lượng của đội ngũ giáo viên, và cơ chế khuyến khích trong ngành giáo dục cần phải được xem xét lại. Việc xây dựng trường lớp và cung cấp trang thiết bị hiện đại cần được đầu tư phù hợp. nhất là ở các vùng nông thôn, vùng sâu vùng xa, do tình trạng chênh lệch đáng kể về giáo dục giữa các vùng trong cả nước. Khoa học, công nghệ có bước tiến bộ, song chất lượng vẫn thấp cả về đội ngũ cán bộ và trang thiết bị và hầu như chưa gắn với các hoạt động sản xuất kinh doanh. Chính phủ đã có những nỗ lực đầu tiên nhằm đẩy nhanh tốc độ phát triển công nghệ thông qua việc thiết lập một số trung tâm công nghệ cao. Tuy nhiên khả năng tiếp cận với dịch vụ Internet vẫn còn tương đối hạn chế do chi phí, lệ phí cao và các quy định kiểm soát chặt chẽ. Nhà nước cũng có thể trực tiếp góp phần vào công cuộc xoá đói giảm nghèo thông qua việc phân bổ chi tiêu công cộng, tài trợ cho các công trình hạ tầng công cộng, cung cấp các dịch vụ công và thực hiện các chương trình xoá đói giảm nghèo. Cuối cùng, Nhà nước có một trách nhiệm đặc biệt trong lĩnh vực bảo vệ môi trường. Nhận thức của dân chúng về các vấn đề môi trường cần được nâng cao, các mối quan tâm về môi trường cần được lồng ghép trong quá trình ra quyết định phát triển kinh tế xã hội. Ngoài ra, cũng cần phải thực hiện nghiêm chỉnh Luật Môi trường cũng như tăng cường năng lực quản lý môi trường bền vững cho cán bộ Chính phủ. Cần tăng cường phân bổ ngân sách Nhà nước cho các hoạt động về môi trường, có thể kết hợp với việc thu phí dịch vụ, đồng thời Chính phủ cùng với các tổ chức quốc tế cần nỗ lực hơn nữa để tranh thủ được các nguồn tài trợ quốc tế về môi trường, như Quỹ Môi trường toàn cầu và Nghị định thư Mônrêan. Phần 4. Các biện pháp tăng cường phát triển con người ở Việt Nam. Năm nội dung chính của chiến lược toàn diện nhằm tăng cường phát triển con người ở Việt Nam, cụ thể là: (1) cải cách thể chế; (2) tiếp tục chuyển đổi cơ cấu kinh tế; (3) tăng cường phát triển nông thôn; (4) cải cách giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ; và (5) mở rộng và cải thiện các dịch vụ công. Cải cách thể chế đòi hỏi phải tiếp tục cải thiện khuôn khổ pháp lý trong một nền kinh tế thị trường, xây dựng đồng bộ các thị trường như thị trường lao động._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docTH1806.DOC
Tài liệu liên quan