Vấn đề kế thừa giá trị đạo đức truyền thống của phụ nữ tỉnh Bến Tre hiện nay

Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh Nguyễn trúc hạnh Vấn đề kế thừa giá trị đạo đức truyền thống của phụ nữ tỉnh Bến tre hiện nay Chuyên ngành : Triết học Mã số : 60 22 80 luận văn thạc sĩ Triết học Người hướng dẫn khoa học: TS. Trần Sỹ Phán Hà nội - 2005 Mục lục Trang Mở đầu 1 Chương 1: Giá trị đạo đức truyền thống của phụ nữ Bến Tre và tính tất yếu của việc kế thừa chúng trong giai đoạn hiện nay 7 1.1. Giá trị đạo đức truyền thống của phụ nữ Bến Tre 7 1.2. Tính tất yếu

doc114 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1419 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Vấn đề kế thừa giá trị đạo đức truyền thống của phụ nữ tỉnh Bến Tre hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
của việc kế thừa giá trị đạo đức truyền thống của phụ nữ Bến Tre hiện nay 34 Chương 2: kế thừa giá trị đạo đức truyền thống của phụ nữ tỉnh Bến Tre hiện nay - thực trạng và giải pháp 52 2.1. Thực trạng của việc kế thừa các giá trị đạo đức truyền thống của phụ nữ tỉnh Bến Tre hiện nay 52 2.2. Một số giải pháp cơ bản đảm bảo việc kế thừa và phát huy giá trị đạo đức truyền thống của phụ nữ tỉnh Bến Tre 83 Kết luận 105 Danh mục tài liệu tham khảo 107  các chữ viết tắt trong luận văn CNH, HĐH : Công nghiệp hóa, hiện đại hóa CNXH : Chủ nghĩa xã hội XHCN : Xã hội chủ nghĩa UBND : ủy ban nhân dân mở đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong bất cứ giai đoạn lịch sử nào, phụ nữ luôn luôn giữ một vai trò hết sức quan trọng. Họ vừa là người công dân, người lao động, vừa là người mẹ, người thầy đầu tiên của con người. Khả năng và điều kiện lao động, trình độ văn hóa, vị trí xã hội, đời sống vật chất và tinh thần của phụ nữ có ảnh hưởng sâu sắc đến sự phát triển của thế hệ tương lai, đến sự phồn vinh của quê hương, đất nước. Chiếm hơn 50% dân số của tỉnh, phụ nữ Bến Tre đã góp phần quan trọng tạo nên sự rạng rỡ của vùng đất “ba dải cù lao” anh hùng. Đặc biệt dưới sự lãnh đạo của Đảng, phụ nữ Bến Tre đã viết nên những trang sử vô cùng oanh liệt, phát huy mạnh mẽ truyền thống “anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang”. Truyền thống ấy được kế thừa và phát triển một cách sáng tạo trong suốt chiều dài lịch sử, làm hồi sinh lại cuộc sống của quê hương sau những năm tháng chiến tranh khốc liệt, làm phong phú thêm nội dung các giá trị đạo đức truyền thống của người phụ nữ Việt Nam. Đứng trước nhiệm vụ của giai đoạn cách mạng mới, đòi hỏi người phụ nữ Bến Tre phải phấn đấu vươn lên đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của cuộc sống hiện đại, với đầy đủ những phẩm chất: yêu nước, có tri thức, có sức khoẻ, năng động, sáng tạo, có lối sống văn hoá, có lòng nhân hậu, quan tâm đến lợi ích xã hội và cộng đồng; xây dựng gia đình ấm no, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc. “Người phụ nữ mới” là sản phẩm của quá trình lịch sử, được lịch sử hun đúc nên, kết hợp hài hoà yếu tố truyền thống với hiện đại. Trong những năm qua, Đảng bộ và chính quyền tỉnh luôn quan tâm động viên, bồi dưỡng lực lượng và khả năng của người phụ nữ, phát huy truyền thống của người phụ nữ Bến Tre, tạo mọi điều kiện thuận lợi vì sự tiến bộ của phụ nữ. Trong điều kiện đó, phụ nữ Bến Tre đã có những bước tiến đáng kể so với trước đây. Bến Tre là một trong những tỉnh nghèo của miền Tây Nam Bộ, lại phải gánh chịu hậu quả hết sức nặng nề của chiến tranh để lại. Chính điều đó đã ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống vật chất cũng như tinh thần của nhân dân Bến Tre nói chung, người phụ nữ Bến Tre nói riêng, nhất là việc kế thừa và phát huy những giá trị đạo đức truyền thống trong điều kiện mới. Mặt khác, trong xu thế hội nhập và giao lưu quốc tế, sự phát triển của nền kinh tế thị trường với những mặt trái của nó đã tác động mạnh mẽ đến các tầng lớp xã hội đặc biệt là phụ nữ. Vấn đề việc làm, sự đói nghèo, trình độ học vấn, sự hưởng thụ văn hoá; tệ nạn xã hội, buôn lậu, ma tuý, mại dâm, hiện tượng bạo lực đối với phụ nữ đang là những vấn đề bức bách, nhất là ở những vùng nông thôn trong đó có Bến Tre. Một bộ phận phụ nữ có đạo đức, lối sống không lành mạnh, thiếu thuỷ chung, vô trách nhiệm với gia đình, đi ngược lại giá trị đạo đức truyền thống của người phụ nữ Việt Nam. Những tồn tại trên đã và đang làm mai một dần giá trị đạo đức của phụ nữ Bến Tre nói riêng và đạo đức người phụ nữ Việt Nam nói chung. Giải quyết vấn đề này là trách nhiệm của tất cả các cấp, các ngành, trách nhiệm của mọi tầng lớp xã hội, đặc biệt là của chính các thế hệ phụ nữ Bến Tre hôm nay và mai sau. Do vậy, việc nhận thức đúng đắn “Vấn đề kế thừa giá trị đạo đức truyền thống của phụ nữ tỉnh Bến Tre hiện nay” là vấn đề cần thiết và cấp bách, có ý nghĩa lý luận và thực tiễn đối với sự nghiệp giải phóng phụ nữ, xây dựng người phụ nữ mới đáp ứng yêu cầu sự nghiệp CNH, HĐH đất nước ngay trên mảnh đất "quê hương Đồng khởi - Bến Tre". 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Cho đến nay, về giá trị đạo đức truyền thống dân tộc, giá trị đạo đức truyền thống của phụ nữ Việt Nam và việc kế thừa chúng đã có nhiều công trình nghiên cứu, tiêu biểu như sau: - "Giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc Việt Nam" của GS. Trần Văn Giàu, Nxb Khoa học xã hội, 1980. - "Đạo đức mới" GS. Vũ Khiêu chủ biên, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1974. - "Đến hiện đại từ truyền thống" của GS. Trần Đình Hượu, Nxb Văn hóa, Hà Nội, 1996. Trong các công trình trên nhà nghiên cứu đã đưa ra những giá trị truyền thống dân tộc nói chung được hình thành trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam. - "Phụ nữ Việt Nam qua các thời đại" của Lê Thị Nhâm Tuyết - ủy ban Khoa học Xã hội Việt Nam - Viện Dân tộc học, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1973. - "Truyền thống phụ nữ Việt Nam" của GS. Trần Quốc Vượng, Nxb Văn hóa - dân tộc, Hà Nội, 2000. Các công trình này đi sâu nghiên cứu vai trò, những giá trị truyền thống của phụ nữ Việt Nam qua từng thời kỳ lịch sử. - "Ba cuộc cách mạng với vấn đề giải phóng phụ nữ" - Dương Thoa, Nxb Phụ nữ, Hà Nội, 1976. - "Bác Hồ với phong trào phụ nữ Việt Nam" của Dương Thoa, Nxb Phụ nữ, 1982. - "Chính sách xã hội đối với phụ nữ nông thôn (quy trình xây dựng và thực hiện) - PTS. Lê Thị Vinh Thi chủ biên, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1998. - "Phụ nữ nông thôn và việc phát triển các ngành nghề phi nông nghiệp" - GS. Lê Thi chủ biên, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1998. - "Việc làm và đời sống phụ nữ trong chuyển đổi kinh tế ở Việt Nam" của GS. Lê Thi, Nxb Khoa học xã hội. - "Phụ nữ tham gia lãnh đạo quản lý", Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1997. Nhìn chung, các công trình này chủ yếu nghiên cứu vai trò của phụ nữ trong lĩnh vực kinh tế, chính trị và các lĩnh vực hoạt động xã hội khác nhau. Ngoài ra còn có một số bài viết liên quan đến vấn đề giá trị truyền thống dân tộc và giá trị đạo đức truyền thống của phụ nữ, như: - "Vấn đề khai thác các giá trị truyền thống vì mục tiêu phát triển" - GS. Nguyễn Trọng Chuẩn, Tạp chí Triết học, số 2/1998. - "Giá trị truyền thống - nhân lõi và sức sống bên trong của sự phát triển đất nước, dân tộc" của PGS. Nguyễn Văn Huyên, Tạp chí Triết học, số 4/1998. - "Sự biến đổi của thang giá trị đạo đức trong xã hội ta hiện nay và việc nâng cao phẩm chất đạo đức của cán bộ' của PGS.TS Nguyễn Chí Mỳ và Nguyễn Thế Kiệt, Tạp chí Cộng sản, số 15/1998. - "Làm thế nào để phụ nữ trở thành chủ thể của quá trình đổi mới đất nước hiện nay" của GS. Lê Thi, Khoa học về Phụ nữ, số 4/1996. - "Phụ nữ Việt Nam bước vào thế kỷ XXI" của GS. Lê Thi, Tạp chí Cộng sản, số 20/2000. - "Về chuẩn mực người phụ nữ mới thời hiện đại" của GS. Lê Thi, Khoa học về Phụ nữ, số 3/2004. Ngoài ra, một số đề tài, luận án tiến sĩ và luận văn thạc sĩ đã nghiên cứu vấn đề kế thừa và phát huy giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc nói chung, của phụ nữ Việt Nam nói riêng, trong đó phải kể đến: - "Các giá trị truyền thống và con người Việt Nam hiện nay", Đề tài KX.07.02. - "Kế thừa và đổi mới các giá trị đạo đức truyền thống trong quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay" của Nguyễn Văn Lý, Luận án tiến sĩ Triết học, Hà Nội, 2000. - "Kế thừa và phát huy giá trị đạo đức truyền thống của phụ nữ Việt Nam trong tình hình hiện nay" của Lê Thị Minh Hiệp, Luận văn thạc sĩ Triết học, Hà Nội, 2000. - "Phát huy giá trị đạo đức truyền thống dân tộc trong việc xây dựng đạo đức mới cho người phụ nữ Việt Nam hiện nay" của Nguyễn Thị Lan, Luận văn thạc sĩ Triết học, Hà Nội, 2001. Năm 2000, tác giả Thạch Phương đã công bố kết quả nghiên cứu về phụ nữ tỉnh Bến Tre qua cuốn sách "Phụ nữ Bến Tre". ở một mức độ khái quát, tác giả Thạch Phương bước đầu đã giới thiệu và phân tích truyền thống phụ nữ Bến Tre qua từng thời kỳ lịch sử, giúp cho người đọc có được một bức tranh về truyền thống phụ nữ Bến Tre. Tuy nhiên, cho đến nay vẫn chưa có công trình nào nghiên cứu "Vấn đề kế thừa giá trị đạo đức truyền thống của phụ nữ tỉnh Bến Tre hiện nay". Chính vì vậy, tôi lấy đó làm đề tài nghiên cứu cho bản luận văn thạc sĩ của mình. 3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu của luận văn - Mục đích của luận văn: Trên cơ sở phân tích thực trạng việc kế thừa giá trị đạo đức truyền thống của phụ nữ tỉnh Bến Tre, đưa ra một số giải pháp cơ bản để kế thừa và phát huy có hiệu quả các giá trị đạo đức truyền thống của phụ nữ Bến Tre trong giai đoạn hiện nay. - Nhiệm vụ của luận văn: Để đạt được mục đích trên, luận văn tập trung giải quyết những nhiệm vụ sau: + Nêu một cách khái quát giá trị đạo đức truyền thống của phụ nữ Bến Tre và cơ sở hình thành của chúng. + Bước đầu làm sáng tỏ nét đặc thù cũng như tính tất yếu của việc kế thừa các giá trị đạo đức truyền thống của phụ nữ tỉnh Bến Tre trong giai đoạn hiện nay. + Phân tích thực trạng của việc kế thừa các giá trị đạo đức truyền thống của phụ nữ Bến Tre, tìm ra những vấn đề còn tồn tại và nguyên nhân của nó. + Đề xuất một số giải pháp cơ bản giúp cho việc kế thừa các giá trị đạo đức truyền thống của phụ nữ Bến Tre đạt hiệu quả hơn nữa. - Phạm vi nghiên cứu của luận văn: + Vấn đề kế thừa các giá trị đạo đức truyền thống của phụ nữ ở phạm vi Phụ nữ tỉnh Bến Tre. + Chỉ kế thừa những giá trị đạo đức truyền thống nổi bật của phụ nữ Bến Tre. 4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn - Cơ sở lý luận: Thực hiện luận văn này, tác giả dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về đạo đức, về phụ nữ, nhất là về vấn đề kế thừa giá trị đạo đức truyền thống của phụ nữ Việt Nam. - Phương pháp nghiên cứu: Luận văn chủ yếu sử dụng phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, phương pháp lịch sử - lôgíc, phân tích - tổng hợp, diễn dịch - quy nạp. 5. Đóng góp mới của luận văn - Luận văn nêu lên nét đặc thù của những giá trị đạo đức truyền thống nổi bật ở người phụ nữ Bến Tre và tính tất yếu của việc kế thừa chúng trong giai đoạn hiện nay. - Góp phần làm rõ sự vận động và phát triển về nội dung của các giá trị đạo đức truyền thống phụ nữ Việt Nam thông qua việc kế thừa chúng của phụ nữ tỉnh Bến Tre. 6. ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn - Luận văn góp phần nhận thức đúng đắn tầm quan trọng của việc kế thừa và phát huy các giá trị đạo đức truyền thống của phụ nữ Bến Tre trong sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. - Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho các cấp ủy đảng, chính quyền, các ngành của tỉnh Bến Tre trong việc xây dựng chiến lược, sách lược phát huy truyền thống phụ nữ Bến Tre trong phong trào "Đồng khởi mới". 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 2 chương, 4 tiết. Chương 1 Giá trị đạo đức truyền thống của phụ nữ Bến Tre và tính tất yếu của việc kế thừa chúng trong giai đoạn hiện nay 1.1. Giá trị đạo đức truyền thống của phụ nữ Bến Tre 1.1.1. Giá trị đạo đức truyền thống của phụ nữ Việt Nam Quan niệm về giá trị và giá trị đạo đức Những hiểu biết đầu tiên về giá trị xuất hiện tương đối sớm trong lịch sử nhận thức của nhân loại và gắn liền với triết học. Đến cuối thế kỷ XIX, giá trị học mới tách ra thành một khoa học độc lập và thuật ngữ giá trị được dùng để chỉ một khái niệm của khoa học độc lập. Theo một số từ điển nước ngoài và trong nước, khái niệm "giá trị" thường tập trung vào những nhận thức sau: Từ điển Triết học của Liên Xô (cũ) định nghĩa: Giá trị - những định nghĩa về mặt xã hội của khách thể trong thế giới chung quanh, nhằm nêu bật tác dụng tích cực hoặc tiêu cực của các khách thể ấy đối với con người và xã hội (cái lợi, thiện và ác, cái đẹp, cái xấu nằm trong những hiện tượng của đời sống xã hội hoặc tự nhiên). Xét bề ngoài, các giá trị là các đặc tính của sự vật hoặc của hiện tượng, tuy nhiên, chúng không phải là cái vốn do thiên nhiên ban cho sự vật, hiện tượng, không phải đơn thuần do kết cấu bên trong của bản thân khách thể, mà do khách thể bị thu hút vào phạm vi tồn tại xã hội của con người và trở thành cái mang những quan hệ xã hội nhất định. Đối với chủ thể (con người), các giá trị là những đối tượng lợi ích của nó, còn đối với ý thức của nó thì chúng đóng vai trò những vật định hướng hằng ngày trong thực trạng vật thể và xã hội, chúng biểu thị các quan hệ thực tiễn của con người đối với các sự vật hiện tượng chung quanh [59, tr.52]. Theo Từ điển Bách khoa toàn thư Xô viết: Giá trị là sự khẳng định hoặc phủ định ý nghĩa của các đối tượng thuộc thế giới chung quanh đối với con người, giai cấp, nhóm hoặc toàn bộ xã hội nói chung. Giá trị được xác định không phải bởi bản thân các thuộc tính tự nhiên, mà là bởi tính chất cuốn hút (lôi cuốn) của các thuộc tính ấy vào phạm vi hoạt động sống của con người, phạm vi các hứng thú và nhu cầu, các mối quan hệ xã hội, các chuẩn mực và phương thức đánh giá ý nghĩa nói trên được biểu hiện trong các nguyên tắc và chuẩn mực đạo đức , trong lý tưởng, tâm thế và mục đích [59, tr.51-52]. Trong Từ điển Tiếng Việt, giá trị được định nghĩa như sau: Cái làm cho một vật có ích lợi, có ý nghĩa, là đáng quý về một mặt nào đó. Tác dụng và hiệu lực. Lao động xã hội kết tinh trong sản phẩm hàng hóa. Số đo của một đại lượng [58, tr.407]. Như vậy, giá trị được hiểu theo nhiều nghĩa và được tiếp cận dưới nhiều góc độ khoa học khác nhau. Song, quan niệm về giá trị chủ yếu vẫn được xem xét thông qua lăng kính triết học. Chủ nghĩa Mác - Lênin đã nhấn mạnh bản chất xã hội, tính lịch sử, tính nhận thức được và tính thực tiễn của giá trị, của các lý tưởng, các chuẩn mực của đời sống con người. Giá trị không phải là ý niệm về sự vật hay chuẩn mực chủ quan về sự vật lý tưởng mà là những hiện tượng xã hội có tính đặc thù, là ý nghĩa hiện thực của sự vật đối với con người. Giá trị xuất hiện từ mối quan hệ xã hội giữa chủ thể và đối tượng, nghĩa là từ thực tiễn của con người xã hội. Mọi giá trị đều có nguồn gốc từ lao động sáng tạo của quần chúng. Dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin, có thể xem giá trị là những thành tựu của con người góp vào sự phát triển đi lên của lịch sử xã hội, phục vụ cho lợi ích và hạnh phúc của con người. Giá trị vì thế được xác định bởi sự đánh giá đúng đắn của con người. Giá trị là các ý tưởng về các loại mục đích hay các loại lối sống của một cá thể, hay được chia sẻ trong một nhóm hay toàn xã hội, được cá thể, nhóm hoặc xã hội mong muốn coi là có ý nghĩa. Đó là những chất lượng cơ bản để bảo đảm con đường sống các chuẩn tối thượng chỉ đạo mọi hoàn cảnh thực tiễn. Như vậy, giá trị ở đây được coi là các giá trị bảo đảm cuộc sống, nói chung là các giá trị tích cực bảo đảm một cuộc sống tốt đẹp [17, tr.60]. Tuy nhiên, cũng có cách nhìn rộng hơn, coi bất cứ cái gì tốt hay xấu, thật hay giả,... đều là giá trị. ở góc độ này, giá trị có tính hai mặt: mặt tích cực (những trường hợp nó định hướng tích cực cho hoạt động của con người nhằm đạt tới những mục đích nhân đạo, cao đẹp của đời sống), và mặt tiêu cực (ta thường gọi là "giá trị trái dấu" hay "phản giá trị"). Thường khi nói "giá trị" người ta chỉ quan tâm đến mặt tích cực của nó mà thôi. Qua các khái niệm về giá trị , chúng ta có thể khái quát một số điểm sau: Mọi sự vật, hiện tượng đều có thể xem là có giá trị, dù là vật thể hay tư tưởng miễn nó được người ta thừa nhận, cần đến nó như một nhu cầu và góp phần vào sự phát triển xã hội. Với ý nghĩa như thế đã loại trừ những giá trị thuần túy mang tính hưởng lạc. Giá trị vừa mang tính khách quan vừa mang tính lịch sử - xã hội. Sự xuất hiện hay mất đi của giá trị không phụ thuộc vào ý thức của con người (chủ thể) mà nó do yêu cầu của thực tiễn, của từng thời đại lịch sử trong đó con người sống và hoạt động. Dù mang tính khách quan như thế nhưng giá trị không phải là cái gì có tính chất cố hữu, vốn nằm ở bản thân các hiện tượng thiên nhiên như vẻ đẹp của mây, nước, trăng, hoa, như lợi ích của núi, sông, rừng, biển... Giá trị của sự vật, hiện tượng là kết quả của mối quan hệ không tách rời của chủ thể và khách thể. Thông thường khách thể là nguồn gốc của sự hình thành và tồn tại giá trị, còn chủ thể và mối quan hệ giữa chủ thể với khách thể là điều kiện tồn tại, phát triển các giá trị của khách thể. Có thể nói, giá trị là một phạm trù mang bản chất người, nó được xác định trong mối quan hệ thực tiễn của con người, xuất phát từ thực tiễn và được thực tiễn kiểm nghiệm. Thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý về bản chất và về giá trị của khách thể. Song, trong mọi giá trị đều chứa đựng yếu tố nhận thức, yếu tố tình cảm và yếu tố hành vi của chủ thể trong mối quan hệ với sự vật, hiện tượng mang giá trị, thể hiện sự lựa chọn của chủ thể. Vì thế, thiên nhiên chỉ trở thành đẹp và có ý nghĩa giá trị khi nó được đặt trong mối quan hệ thực tiễn với con người xã hội. Như vậy, “Nói đến giá trị là muốn khẳng định mặt tích cực, mặt chính diện, nghĩa là bao hàm quan điểm coi giá trị gắn liền với cái đúng, cái tốt, cái hay, cái đẹp; là nói đến cái có khả năng thôi thúc con người hành động và nỗ lực vươn tới" [4, tr.16]. Do đó, giá trị đóng vai trò quan trọng trong cuộc sống của con người. Nó là cơ sở, chuẩn mực để con người dựa vào lựa chọn cách thức suy nghĩ, xác định mục đích và phương hướng cho hoạt động của mình phù hợp với cái chung của xã hội. Giá trị thể hiện ý kiến và hành vi của cả cộng đồng người trong việc lựa chọn, chấp nhận kế hoạch phát triển xã hội. Vì vậy, sự phát triển các giá trị con người là nhân tố cơ bản đối với sự phát triển quốc gia. Trong việc nghiên cứu giá trị, tùy theo mục đích tiếp cận mà người ta phân loại giá trị theo cách riêng của mình. Căn cứ vào sự thoả mãn nhu cầu vật chất hay nhu cầu tinh thần của con người, người ta chia thành giá trị vật chất và giá trị tinh thần. Đây là cách phân chia khá phổ biến. Giá trị vật chất thể hiện rõ nhất trong đời sống kinh tế, quyết định sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người. Song, con người không chỉ biết sống mà còn sống đẹp, vượt lên trên những nhu cầu vật chất, hướng tới những giá trị tinh thần cao đẹp. Trong giá trị tinh thần của xã hội, người ta thường đề cập đến các loại giá trị như: giá trị khoa học, giá trị thẩm mỹ, giá trị đạo đức,... đánh dấu sự phát triển về mặt chân - thiện - mỹ của đời sống xã hội. Đó là những quan hệ tốt đẹp mà xã hội đã đạt được nhằm phát triển và hoàn thiện đời sống xã hội. Giá trị khoa học gắn với quá trình con người vươn lên nắm bắt bản chất, quy luật của hiện thực khách quan để ngày càng làm chủ những điều kiện sinh hoạt tự nhiên và xã hội của mình. Giá trị thẩm mỹ gắn với nhu cầu thưởng thức, đánh giá, hưởng thụ và sáng tạo cái đẹp trong cuộc sống và trong nghệ thuật. Giá trị đạo đức gắn với nhu cầu điều chỉnh quan hệ giữa cá nhân và xã hội theo hướng tạo nên sự thống nhất hài hòa giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội. Có thể nói, “ Giá trị đạo đức là những cái được con người lựa chọn và đánh giá như việc làm có ý nghĩa tích cực đối với đời sống xã hội được lương tâm đồng tình và dư luận biểu dương” [44, tr.62]. Bản thân giá trị đạo đức, xét về mặt thời gian có thể chia thành giá trị đạo đức truyền thống và giá trị đạo đức hiện đại. Mỗi dân tộc đều có truyền thống của mình do lịch sử tạo nên. Truyền thống là sản phẩm của quá trình phát triển của mỗi dân tộc. Nó là điều kiện để duy trì và phát triển cuộc sống. Đó là những đức tính hay những thói tục kéo dài nhiều thế hệ, nhiều thời kỳ lịch sử, có nhiều tác dụng, có thể tích cực cũng có thể tiêu cực. Như vậy, truyền thống có cái tốt, cái xấu, vì thế mà C.Mác nói rằng: "Truyền thống của tất cả các thế hệ đã chết đè nặng như quả núi lên đầu óc những người đang sống" [37, tr.145]. Còn Ph.Ăngghen coi "Truyền thống (lạc hậu) còn là thế lực trong khoa học tự nhiên nữa" [39, tr.468]. Với Hồ Chí Minh, "thói quen và truyền thống lạc hậu là kẻ địch to; nó ngấm ngầm ngăn trở cách mạng tiến bộ. Chúng ta lại không thể trấn áp nó, mà phải cải tạo nó một cách rất cẩn thận, rất khó chịu, rất lâu dài" [41, tr.287]. Nhưng khi nói đến “giá trị truyền thống” người ta chỉ muốn nói đến cái tốt, bởi lẽ trong ý nghĩa đích thực của nó chỉ những cái tốt, đẹp mới được gọi là giá trị truyền thống. Song, không phải mọi cái tốt đều gọi là giá trị truyền thống mà phải là những cái tốt phổ biến, cơ bản có nhiều tác dụng tích cực cho đạo đức luân lý, có cả tác dụng hướng dẫn sự nhận định và hành động của con người chúng được lưu truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác. Quan niệm về giá trị đạo đức truyền thống Giá trị đạo đức truyền thống là một bộ phận trong hệ giá trị tinh thần của dân tộc. Nó chiếm vị trí nổi bật, là yếu tố cốt lõi của hệ giá trị tinh thần truyền thống Việt Nam, thể hiện nét đặc thù của đạo đức Việt Nam với những phẩm chất tốt đẹp đã hình thành và lưu truyền qua nhiều thế hệ. Các giá trị đạo đức truyền thống là kết quả của các mối quan hệ giữa người với người, của những điều kiện sinh hoạt vật chất nhất định. Mỗi giá trị đều góp phần vào việc tạo nên nét riêng biệt của con người Việt Nam, bản sắc Việt Nam. Trong suốt mấy nghìn năm dựng nước và giữ nước, dân tộc Việt Nam đã trải qua biết bao thử thách, hy sinh để đấu tranh cho sự tồn tại và phát triển của mình. Đất nước Việt Nam không chỉ là nơi ở, nơi sinh sống mà còn là thành quả kết tinh từ mồ hôi nước mắt, xương máu của biết bao thế hệ người Việt Nam. Nó thăng hoa trong tâm thức người Việt Nam thành Tổ quốc thiêng liêng, thành quê hương yêu dấu. Những điều kiện lịch sử - xã hội ấy là cơ sở cho sự hình thành và phát triển các giá trị đạo đức truyền thống mang bản sắc Việt Nam. Lòng yêu quê hương, đất nước của con người Việt Nam được bắt nguồn từ đó; tinh thần cố kết cộng đồng, lối sống tình nghĩa của dân tộc Việt Nam cũng bắt xuất phát từ đây... Đó là những giá trị đạo đức truyền thống bền vững, trường tồn của dân tộc Việt Nam. Nó luôn luôn được bồi đắp thêm bởi những tinh hoa văn hóa của nhân loại, nhất là khi có sự du nhập của Chủ nghĩa Mác – Lênin, sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh. Với ý nghĩa đó, từ lâu, giá trị đạo đức truyền thống Việt Nam đã thu hút sự quan tâm của nhiều nhà khoa học trong và ngoài nước. Giáo sư Trần Văn Giàu cho rằng: Giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc là những nguyên lý đạo đức lớn mà con người trong nước thuộc các thời đại, các giai đoạn lịch sử đều dựa vào để phân biệt phải trái, để nhận định nên chăng nhằm xây dựng độc lập, tự do và tiến bộ của dân tộc đó. Cũng là những nguyên lý đạo đức đã tàng ẩn trong tâm trí sâu xa của mỗi người dân trong nước, khiến họ tự nhiên phản ứng đúng với lẽ phải, đúng với quyền lợi và danh dự dân tộc khi phải đụng chạm một sự cố nào [16, tr.50-51]. Và giáo sư khẳng định, dù trải qua bao vật đổi sao dời, từ thời Văn Lang xa xưa cho đến thời hiện đại, hễ nói đến giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc ta là nói: yêu nước, cần cù, anh hùng, sáng tạo, lạc quan, thương người, vì nghĩa. Giáo sư Vũ Khiêu thì cho rằng, giá trị đạo đức truyền thống cao đẹp của dân tộc ta bao gồm: lòng yêu nước, truyền thống đoàn kết, lao động cần cù và sáng tạo, tinh thần nhân đạo, lòng yêu thương và quý trọng con người, trong đó yêu nước là bậc thang cao nhất trong hệ thống giá trị đạo đức của dân tộc. Theo GS. Nguyễn Hồng Phong, tính cách dân tộc gần như là tất cả nội dung của giá trị đạo đức truyền thống, bao gồm: tính tập thể - cộng đồng; trọng đạo đức; cần kiệm, giản dị, thực tiễn; tinh thần yêu nước bất khuất và lòng yêu chuộng hòa bình, nhân đạo; lạc quan [47, tr.453-454]. Ngoài ra, giá trị đạo đức truyền thống dân tộc cũng được đề cập đến trong một số văn kiện của Đảng. Nghị quyết 09 của Bộ Chính trị đã khẳng định: "Những giá trị văn hóa truyền thống vững bền của dân tộc Việt Nam là lòng yêu nước nồng nàn, ý thức cộng đồng sâu sắc, đạo lý "thương người như thể thương thân", đức tính cần cù, vượt khó, sáng tạo trong lao động" [10, tr.19]. Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa VIII) một lần nữa khẳng định: Bản sắc dân tộc bao gồm những giá trị bền vững, những tinh hoa của cộng đồng các dân tộc Việt Nam được vun đắp nên qua lịch sử hàng ngàn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước. Đó là lòng yêu nước nồng nàn, ý chí tự cường dân tộc, tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng gắn kết cá nhân - gia đình - làng xã - Tổ quốc; lòng nhân ái, khoan dung, trọng nghĩa tình đạo lý, đức tính cần cù, sáng tạo trong lao động; sự tinh tế trong ứng xử; tính giản dị trong lối sống [12, tr.56]. Từ những quan niệm của các nhà khoa học và quan điểm của Đảng ta về giá trị đạo đức truyền thống, có thể khẳng định các giá trị đạo đức truyền thống cơ bản của dân tộc ta bao gồm: yêu nước, anh hùng; lòng nhân ái, khoan dung; tinh thần đoàn kết; cần cù sáng tạo... Trong đó, yêu nước là giá trị cốt lõi, giá trị hàng đầu của bậc thang giá trị đạo đức truyền thống dân tộc Việt Nam. Nó là tiêu điểm của các tiêu điểm, là sợi chỉ đỏ xuyên qua toàn bộ lịch sử của dân tộc ta, là động lực tình cảm lớn nhất trong đời sống của mỗi con người Việt Nam. Đối với người phụ nữ Việt Nam, các giá trị đạo đức của họ không tách rời những giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc. Bởi lẽ, truyền thống và tinh hoa của phụ nữ là sự biểu hiện truyền thống và tinh hoa của dân tộc, cố Tổng Bí thư Lê Duẩn đã khẳng định: “Phụ nữ là người có tính dân tộc hơn ai hết, và cái đẹp đẽ vĩ đại của dân tộc Việt Nam, trước hết là của phụ nữ Việt Nam” [57, tr.16]. Điều đó được lý giải qua những cơ sở hình thành các giá trị đạo đức truyền thống của phụ nữ Việt Nam. Giá trị đạo đức truyền thống của phụ nữ Việt Nam Lịch sử phụ nữ Việt Nam là một bộ phận hữu cơ của lịch sử dân tộc. Vì vậy, đạo đức phụ nữ Việt Nam phải gắn liền với đạo đức dân tộc, nó được hình thành từ hoàn cảnh lịch sử của dân tộc và thông qua vai trò của người phụ nữ trong lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước. Thứ nhất, vai trò của người phụ nữ trong lao động sản xuất Trong thời kỳ nguyên thủy, sức sản xuất thấp kém, con người chỉ có thể tồn tại và phát triển được khi lao động gắn với cộng đồng. Mọi người cùng săn bắt và hái lượm nhưng người phụ nữ giữ vai trò quan trọng. Kinh tế hái lượm chủ yếu do những người phụ nữ đảm trách, còn săn bắt dần trở thành chức nghiệp chủ yếu của đàn ông. Sự phân công lao động theo giới tính phát sinh và phát triển dần lên trong lòng xã hội cộng sản nguyên thủy. Nghề săn bắt muông thú ngày càng gặp nhiều khó khăn, đôi khi người đàn ông không tìm được nguồn thức ăn nào cho cộng đồng. Khi đó, những người đàn bà hái lượm, đào tìm những hạt, cây, rễ, củ,... bắt trai, sò, ốc, hến, tôm cua,... là những sản vật không quá hiếm trong thiên nhiên nhiệt đới của nước ta trở nên có hiệu quả. Dần dần, vai trò đảm nhiệm nguồn thức ăn thường xuyên và quan trọng về số lượng cho các tập đoàn người nguyên thủy chủ yếu thuộc về phụ nữ. Ngay từ buổi đầu, vai trò này đã thể hiện tinh thần sẵn sàng gánh vác công việc chung của người phụ nữ Việt Nam. Người phụ nữ còn thể hiện vai trò quan trọng của mình đối với sự sinh tồn của cộng đồng người nguyên thủy trong việc phát hiện ra nghề đánh cá, chăn nuôi và nghề gốm. Đặc biệt, nghề gốm ra đời đã đánh dấu bước phát triển, thể hiện sự khéo léo sáng tạo của người phụ nữ Việt Nam. Đây là sự kiện có ý nghĩa quan trọng về mặt kinh tế, xã hội, nghệ thuật... trong sản xuất vật phẩm tiêu dùng ở nước ta. Trong nền kinh tế hái lượm, từ chỗ hái lượm tự nhiên, người phụ nữ nguyên thủy tiến dần đến hái lượm theo mùa. Tiến thêm một bước nữa, với những công cụ lao động bằng lưỡi rìu, cuốc đá, gậy nhọn bằng tre, gỗ, người phụ nữ đã trồng các loại cây ăn quả. Nghề nông nguyên thủy ra đời, bao gồm cả việc trồng lúa và những loại cây lương thực khác. Dưới bàn tay của người phụ nữ nguyên thủy, nhiều loại lúa hoang đã trở thành tổ tiên của các giống lúa ngày nay. Vì thế, không phải ngẫu nhiên mà ở nhiều dân tộc, thần lúa nói riêng và thần nông nghiệp nói chung đều mang hình tượng người phụ nữ. Kinh tế nông nghiệp ra đời đánh dấu bước phát triển mới của nền kinh tế nguyên thuỷ, cung cấp nguồn thức ăn thường xuyên và ổn định cho con người. Tuy nhiên, nó vẫn do phụ nữ đảm nhiệm song song với việc hái lượm của mình. Nghề nông nguyên thuỷ với quy mô nhỏ, đòi hỏi sự mềm mại, dẻo dai, cần cù, điều này phù hợp với thể chất và thiên tính của người phụ nữ. Với sự đảm nhiệm và chăm sóc của người phụ nữ nguyên thuỷ, nông nghiệp dần dần phát triển. Sự phát triển nền kinh tế nông nghiệp là kết quả của quá trình lao động phức tạp và vất vả mà người phụ nữ phải gánh vác. Hình ảnh người phụ nữ Việt Nam trước hết là hình ảnh của con người lao động chân lấm tay bùn, dãi nắng dầm sương, chịu đựng gian khổ từ đời này qua đời khác. Chính trong hoàn cảnh khó khăn của buổi đầu lịch sử đã hình thành nên những phẩm chất đạo đức đặc sắc của người phụ nữ Việt Nam: đảm đang, sáng tạo, cần cù, nhẫn nại, chịu thương chịu khó, tinh thần làm chủ, ý thức cộng đồng... Những phẩm chất, những giá trị đó được kế thừa và phát huy mãi đến ngày nay trở thành một trong những giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc Việt Nam nói chung, phụ nữ Việt Nam nói riêng. Thứ hai, vai trò của người phụ nữ trong đánh giặc giữ làng, giữ nước Trong hoàn cảnh lịch sử đặc biệt của dân tộc Việt Nam, dựng nước gắn liền với giữ nước. Chống xâm lược, bảo vệ độc lập, tự do, đó là điều kiện tiên quyết để dân tộc ta tồn tại và phát triển. Có thể khẳng định rằng, những người đầu tiên đứng lên giành độc lập cho Tổ quốc là phụ nữ. “Giặc đến nhà đàn bà cũng đánh” là truyền thống đặc biệt của phụ nữ Việt Nam từ thời đại Hùng Vương - Trưng Vương dựng nước đến thời đại Hồ Chí Minh chống Mỹ cứu nước. Lịch sử đã khắc sâu một chân lý: Phụ nữ Việt Nam không chỉ lo việc nhà mà còn lo việc nước. Bởi lẽ, ở Việt Nam, nước và nhà, làng và nước không bao giờ tách rời nhau, đó là những tiếng thân thương, quen thuộc trong tâm thức của người Việt Nam, nó biểu thị rõ rệt và cô đúc sự gắn bó của các tổ chức xã hội Việt Nam xưa. Con người ở đây ý thức được rằng: nước mất thì nhà tan. Vì thế, cứu nước không chỉ là nhiệm vụ của đàn ông mà đàn bà cũng lo cứu nước. Mặt khác, trong các cuộc chiến tranh, bọn xâm lược trực tiếp đánh vào người phụ nữ, chà đạp nhân phẩm, cướp đi quyền sống, quyền làm mẹ của họ, chúng không chỉ “Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn” mà còn “Vùi con đỏ xuố._.ng dưới hầm tai vạ”. Trước tai hoạ trực tiếp đó, người phụ nữ chỉ còn con đường quyết liệt đấu tranh, đứng lên cầm vũ khí, tham gia vào những cuộc đấu tranh chống xâm lược. Trong suốt chiều dài hơn bốn nghìn năm lịch sử, biết bao thế hệ phụ nữ đã trở thành chiến sĩ trong những lần vận nước gặp nguy nan, từ đội ngũ nữ tướng thời Bà Trưng đến “đội quân tóc dài” thời đại mới. Hai Bà Trưng và các nữ tướng của hai bà là những người mẹ, người chị, những người con gái Việt Nam đã nêu cao tấm gương “anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang”. Đấy là những con người “sinh vi tướng, tử vi thần”, những nữ anh hùng tiêu biểu cho tinh hoa dân tộc trong giai đoạn phôi thai của lịch sử. Cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng (năm 41-43) là sự phủ định hiên ngang cái thế “bình thiên hạ” của triều đại nhà Hán, đồng thời khẳng định chắc chắn sự nghiệp giành độc lập tự chủ của dân tộc và mở đường cho các thế kỷ sau đi tới thắng lợi. Sử gia Lê Văn Hươu sau này có viết: "Trưng Trắc, Trưng Nhị là đàn bà nổi lên đánh lấy được 65 thành trì, lập quốc xưng vương dễ như giở bàn tay" [29, tr.40]. Góp phần vào ngọn nguồn của truyền thống đánh giặc của phụ nữ Việt Nam xưa, 200 năm sau cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng là cuộc khởi nghĩa của “Vua bà” Triệu Thị Trinh, cuộc khởi nghĩa ấy một lần nữa khẳng định ý chí tự chủ, tinh thần độc lập dân tộc và khí phách của người phụ nữ Việt Nam với câu nói bất hủ: Tôi muốn cưỡi cơn gió mạnh, đạp luồng sóng dữ, chém cá Kình ở biển Đông, đánh đuổi quân Ngô, giành lại giang sơn, cởi ách nô lệ chứ tôi không chịu khom lưng làm tì thiếp cho người. Truyền thống đánh giặc của Bà Trưng, Bà Triệu đã được phụ nữ Việt Nam kế thừa và phát huy từ thế hệ này qua thế hệ khác. Không chỉ có một Trưng Vương, một “Vua bà” mà còn có hàng vạn Trưng Vương, hàng vạn “Vua bà” vô danh khác đã góp phần xương máu của mình làm cho dòng truyền thống đánh giặc giữ nước quý báu này phát triển mạnh mẽ và liên tục. Trong quá trình chiến đấu lâu dài, người phụ nữ xưa đã rèn luyện và bộc lộ khí phách anh hùng, tinh thần dũng cảm, ý chí bất khuất, kiên cường, tạo nên truyền thống quang vinh của phụ nữ Việt Nam. Với thứ vũ khí tinh thần không gì sánh nổi ấy, những người phụ nữ bị coi là “chân yếu tay mềm” đã trở nên mạnh mẽ hơn bao giờ hết. Đó là những con người yêu nước sâu sắc, sẵn sàng chịu đựng mọi gian khổ, hy sinh. Đó là những con người bất khuất, kiên cường không sức mạnh nào có thể khuất phục được. Tất cả những đức tính đặc sắc của người chiến sĩ - phụ nữ Việt Nam đã tạo nên hình tượng thơ bi tráng: Trên đất nước nghìn năm máu chảy Nghìn năm người con gái vẫn cầm gươm. Chính hoàn cảnh lịch sử đó đã hình thành nên những giá trị đạo đức phổ quát và bền vững ở người phụ nữ Việt Nam: Lòng yêu nước nồng nàn, khí phách anh hùng, kiên cường, bất khuất và ý chí tự cường dân tộc. Thứ ba, vai trò của người phụ nữ trong gia đình và xã hội Người phụ nữ xưa không chỉ là con người lao động đảm đang, con người chiến sĩ dũng cảm mà còn là con người nội trợ trung hậu, gánh vác mọi công việc gia đình và xã hội. Trước khi có sự phân công lao động theo giới tính, đã có sự phân công giữa đàn ông và đàn bà trong việc bảo tồn và duy trì nòi giống. Trong điều kiện sinh hoạt cộng đồng của người nguyên thủy, người phụ nữ vừa thường xuyên lao động sản xuất, đảm nhiệm chức năng kinh tế vừa gánh vác cả chức năng sinh đẻ và nuôi dạy con cái. Đấy là chức năng thiêng liêng của người phụ nữ, đồng thời cũng là một loại lao động nặng nhọc không ai có thể thay thế. Người phụ nữ Việt Nam là những người mẹ hiền, tình cảm dành cho con như biển trời rộng lớn. Con cái khỏe mạnh, ngoan ngoãn, vui chơi, chăm chỉ học hành là nguồn hạnh phúc lớn lao của người phụ nữ. Có ai yêu con hơn những người mẹ, người đã suốt đời tảo tần khuya sớm, nhịn ăn, nhịn mặc để nuôi nấng, săn sóc dạy dỗ con cái. Người đã gửi vào con tất cả những ước mong và hạnh phúc. Trong gia đình, phụ nữ là người thường xuyên, trực tiếp nuôi dạy con cái, là người thầy, nhà giáo dục đầu tiên của con người. Cùng với việc sinh đẻ và nuôi dạy con cái, phụ nữ nguyên thủy còn gánh vác cả những công việc trong nhà. Trước hết là việc sửa sang nơi ăn chốn ở, chế biến, phân chia và dự trữ thức ăn, từ việc giữ lửa, nấu nướng thức ăn cho cả gia tộc, đến việc xây dựng hang ở, cửa nhà. Sau đó là đảm nhiệm kinh tế gia đình, cung cấp những nhu cầu vật dụng quan trọng cho xã hội nguyên thủy. Với hình ảnh của nữ Thần Lửa và nữ thần nghề mộc trong thần thoại Việt Nam, nếu lột bỏ cái vỏ thần linh đi, sẽ thấy hình ảnh của những con người nội trợ đảm đang, gánh vác công việc gia đình và xây dựng cuộc sống gia đình ấm no hạnh phúc. Vì vậy, không phải ngẫu nhiên mà người Việt Nam ta quan niệm gia đình là “tổ ấm” của mỗi con người. Tuy nhiên, vai trò của người phụ nữ trong việc đảm nhiệm, phụ trách toàn bộ thể chế và đời sống tinh thần của gia đình mới là lĩnh vực kết tinh đức tính đảm đang của người phụ nữ Việt Nam. ở đây, phụ nữ là những người vợ thủy chung son sắt với chồng, những người mẹ hy sinh trọn vẹn cho con cái, những người con gái, con dâu nết na thảo hiền đối với bậc trên. Đấy là hình ảnh của con người nội trợ trung hậu, đảm đang. Sự trung hậu ở đây thể hiện thông qua vai trò lịch sử của người phụ nữ đối với gia đình Việt Nam mà họ đã đảm nhiệm một cách tự nhiên và bình dị. Đó là cơ sở quan trọng để hình thành nên những giá trị đạo đức truyền thống: anh hùng, bất khuất, đảm đang, tần tảo, yêu chồng, thương con, thủy chung son sắt, đức hy sinh cao cả của người phụ nữ Việt Nam. Người phụ nữ xưa không chỉ lo cho cuộc sống gia đình mà còn đảm nhiệm cả những công việc xã hội, tổ chức và quản lý xã hội. Họ giữ vai trò hòa giải, phân xử những mâu thuẫn trong nội bộ thị tộc, đồng thời giao thiệp và giải quyết những “công việc đối ngoại” với thị tộc khác. Chính phụ nữ luôn là sứ giả hòa bình bởi họ mềm mại, khéo léo, dịu dàng hơn ai hết. Vai trò đó càng tô đậm thêm nét đẹp của những truyền thống quý báu: đảm đang, tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng,... ở người phụ nữ. Truyền thống ấy ngày càng được bồi đắp và phát triển phong phú, tạo nên danh hiệu cao quý cho người phụ nữ Việt Nam hiện đại “giỏi việc nước, đảm việc nhà”. Chính vai trò quan trọng của người phụ nữ trong suốt mấy ngàn năm lịch sử, đã hun đúc nên những phẩm chất đạo đức truyền thống cao đẹp ở người phụ nữ Việt Nam. Vai trò ấy là một sự thật khách quan mà cả dân tộc ta đã khẳng định. Có thể hình dung ra ba con người khác nhau mà thống nhất, tập trung ở người phụ nữ Việt Nam: con người lao động đảm đang, con người chiến sĩ dũng cảm, anh hùng, con người nội trợ trung hậu. Hình ảnh ấy được hình thành và ổn định trong suốt quá trình lịch sử lâu dài. Ngày nay, những người phụ nữ hiện đại mang trong mình truyền thống đó và ngày càng tự giác phát huy mạnh mẽ trong hoàn cảnh mới. 1.1.2. Những giá trị đạo đức truyền thống nổi bật của người phụ nữ Bến Tre Giá trị đạo đức truyền thống của người phụ nữ Bến Tre không nằm ngoài những giá trị đạo đức của người phụ nữ Việt Nam. Nổi bật vẫn là truyền thống anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang, thủy chung được phụ nữ Bến Tre kế thừa và phát huy trong điều kiện sinh hoạt vật chất xã hội của vùng đất ba dải cù lao. Có thể nói, những giá trị đạo đức truyền thống ấy là hệ quả tất yếu của lòng yêu nước nồng nàn tiềm ẩn trong mỗi con người phụ nữ Bến Tre, gắn liền với lịch sử hình thành và phát triển của quê hương. Nó thẩm thấu và đan xen nhau tạo nên nét độc đáo ở người phụ nữ: vừa dịu hiền vừa anh hùng, bất khuất. Truyền thống trung hậu, đảm đang, thủy chung ở người phụ nữ Bến Tre Bến Tre là một vùng đất mới với những cù lao lớn, đất đai màu mỡ, lại nằm ở cuối dòng Cửu Long, cận biển... hội đủ những điều kiện tốt để những lưu dân đến khai phá sớm định cư. Tuy nhiên, công cuộc khai hoang, mở đất đâu chỉ có thuận lợi, những ưu đãi của thiên nhiên, con người nơi đây còn phải đương đầu với bao khó khăn và khắc nghiệt. Với khát vọng đổi đời, ý chí vươn lên kiến tạo một cuộc sống ấm no hạnh phúc, họ đã vượt lên trên mọi hoàn cảnh. Từ một vùng đất hoang vu, xứ sở lạ lùng, sình lầy đầy thú dữ, đến nỗi “con chim kêu phải sợ, con cá vùng phải kinh”,... mảnh đất cù lao đã trở thành một vùng đất kinh tế trù phú, ruộng vườn tươi tốt. Đó là kết quả của công sức khai phá và tạo dựng của biết bao thế hệ người Việt Nam nối tiếp nhau bền bỉ và nhẫn nại, bằng sức lực, trí tuệ và lòng dũng cảm vô song, thậm chí cả bằng sinh mạng của mình. Công cuộc chinh phục vùng đất hoang vu này là cuộc chiến đấu vượt qua mọi trở lực, khắc phục mọi hiện tượng tự nhiên bất lợi khi con người chưa nắm bắt được quy luật của nó. Chỉ có những con người có ý chí, lòng dũng cảm, mưu trí, cần mẫn, sáng tạo cùng với tinh thần đoàn kết mới có thể vượt qua để tồn tại và phát triển. Chính cuộc đọ sức kiên trì và quyết liệt này là nhân tố thử thách, đào luyện nên bản sắc và tính cách con người nơi đây. Với tư cách là một lực lượng xã hội, cùng với nam giới, phụ nữ đã gánh vác một phần rất quan trọng trong công cuộc mở đất. Với thiên chức đặc thù của giới nữ, người phụ nữ đã đảm trách những công việc gia đình, chăm lo đời sống vật chất và nuôi dạy con cái. Ngoài ra, phụ nữ còn gánh vác nhiều công việc thuộc các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội. Trong điều kiện vật chất còn khó khăn, người phụ nữ phải trực tiếp tham gia trồng trọt, chăn nuôi và đánh bắt... Họ là những người tần tảo sớm hôm, buôn gánh bán bưng, chống chèo trên sông rạch. Đấy là hình ảnh của “thân cò lặn lội”, âm thầm chịu đựng gian khổ để nuôi chồng, nuôi con. Với tinh thần tự lực, tự cường, ý chí phấn đấu vươn lên, người phụ nữ nơi đây đảm nhiệm cả những nghề thủ công, đặc biệt là nghề trồng dâu, nuôi tằm, ươm tơ, dệt lụa. Dưới bàn tay khéo léo và mềm mại, đức tính kiên trì và nhẫn nại, họ đã tạo nên những sản phẩm nổi tiếng mang dáng dấp của quê hương xứ dừa. Có thể nói, hành trang chủ yếu của những người đi khai phá vùng đất mới này chỉ có những kinh nghiệm sản xuất đã được tích lũy nơi quê cũ nhưng họ đã tự lực cánh sinh vượt lên mọi hoàn cảnh. Khi cuộc sống ổn định, chính họ là những người tự tổ chức và quản lý đời sống nơi đây. Điều kiện sinh hoạt đó đã tôi luyện ở người phụ nữ, hình thành nên truyền thống đảm đang của họ. Đảm đang không chỉ là sự gánh vác, lo toan mọi việc mà nó thể hiện cả sự khéo léo, sắp xếp, tổ chức đời sống gia đình, giáo dục con cái của người phụ nữ. Họ không những dạy chữ cho con mà còn giáo dục con cái đạo làm người, trách nhiệm công dân, lòng yêu quê hương đất nước, yêu đồng bào,... hướng đến các giá trị chân- thiện- mỹ. Mẹ Lê Thị Mẫn là người phụ nữ Bến Tre yêu con hết lòng nhưng nghiêm khắc với con hết mực. Mẹ góa chồng từ lúc còn rất trẻ nhưng một mình tần tảo lo cho ba con ăn học thành tài trong điều kiện khó khăn, thiếu thốn. Người con trai làm quan gửi quà biếu mẹ nhân dịp tết, mẹ nhận quà và đốt thành tro trả lại cho con để nhắc nhở con “Là quan phải thanh liêm để không uổng công mẹ nuôi dạy”. Tấm gương sáng ngời về phẩm chất cao đẹp của mẹ đã được vua Tự Đức khen tặng bức trướng với bốn chữ “Hảo Nghĩa Khả Phong”. Đây là nét tiêu biểu cho truyền thống đảm đang, nhân hậu, mẫu mực của người phụ nữ xứ cù lao. Sự đảm đang ở đây gắn liền với đức tính dịu dàng, khéo léo, mềm mại đồng thời không tách rời sự kiên quyết và nghiêm khắc của người phụ nữ Bến Tre. Truyền thống trung hậu, đảm đang, thủy chung của người phụ nữ Bến Tre còn mang một sắc thái khác. Đó là sự đóng góp quan trọng của người vợ đối với sự nghiệp của chồng. Có thể nói, bất kỳ sự thành công nào của người đàn ông ít nhiều đều có vai trò của người phụ nữ. Lịch sử Bến Tre đã từng khắc ghi hình ảnh người vợ đảm đang, thủy chung, tận tụy của nhà thơ mù Nguyễn Đình Chiểu. Bà Lê Thị Điền, vừa là “nội tướng” trong gia đình vừa là người thư ký trung thành, kề vai, sát cánh cùng chồng trên bước đường sự nghiệp. Hơn thế nữa, với đôi mắt sáng, bà đã quan sát hiện thực xã hội đầy biến động trên quê hương để cung cấp chất liệu cho chồng sáng tác nên những câu thơ bất hủ đầy nghĩa khí của một nhà thơ yêu nước. Còn biết bao tấm gương sáng ngời của những người mẹ, người chị, tất cả đều góp phần quan trọng tạo nên truyền thống trung hậu, đảm đang của người phụ nữ Bến Tre ngay từ buổi đầu mở đất. Truyền thống ấy càng được phát huy mạnh mẽ trong thời kỳ đấu tranh bảo vệ quê hương, đất nước. Nếu trước kia, phụ nữ Bến Tre thể hiện sự đảm đang của mình một cách tự phát, vì lẽ sinh tồn thì trong thời kỳ này, họ đã ý thức rõ trách nhiệm của mình cần gánh vác để chồng, con yên tâm lên đường giết giặc. Hơn thế nữa, họ không chỉ gánh vác việc gia đình mà cần phải đảm việc nước cùng nam giới. Người phụ nữ vừa lo cho con nhỏ, chăm sóc mẹ già, vừa sản xuất để nuôi quân. Đồng thời, họ góp sức vào công việc tải lương, tải đạn, đào hào, đắp luỹ, xây dựng phòng tuyến... Phụ nữ Bến Tre không chấp nhận cái vị trí của người “chinh phụ” xưa, thụ động chờ chồng trở về, họ thoát khỏi những ràng buộc phong kiến, vừa sản xuất, vừa tham gia đánh giặc tại quê nhà. Trong mọi thời kỳ cách mạng, đặc biệt là trong những tình thế khó khăn nhất, phụ nữ Bến Tre đã nỗ lực tăng gia sản xuất, tiết kiệm, đảm bảo được cái ăn, cái mặc cho chiến sĩ cách mạng. Họ đã tận tụy, nuôi giấu, chăm sóc chiến sĩ khi còn sống cũng như lúc hy sinh bằng tấm lòng yêu thương của người mẹ. Với tấm lòng nhân hậu, vì nghĩa lớn, mẹ Việt Nam anh hùng Bùi Thị Tư ở xã An Phước, huyện Châu Thành, đã tự tay khâm liệm và chôn cất hơn 100 tử sĩ dưới bom cày đạn xới của chiến tranh, bất chấp những gian nan và nguy hiểm, bởi với mẹ “ anh em chiến sĩ như con đẻ của mình, như khúc ruột của mình nằm đó; nó làm xong bổn phận với nước non, mình phải xử sự cho đúng cái nghĩa ở đời”. Người chiến sĩ tìm thấy ở mỗi người mẹ Bến Tre một sự cưu mang ấm tình mẫu tử. Tình yêu thương ấy vừa xuất phát từ thiên chức của người phụ nữ, vừa thắm đượm tình dân nghĩa Đảng. Có thể nói, tấm lòng của những người mẹ Bến Tre là “căn cứ cách mạng”an toàn nhất cho mọi hoạt động của cán bộ, đảng viên. Các mẹ luôn là người chở che cho cán bộ, bảo vệ vững chắc cơ sở Đảng. Đây là nhiệm vụ đầy khó khăn, nguy hiểm nhưng cũng rất thiêng liêng mà hơn 90% do người phụ nữ Bến Tre đảm trách. Với truyền thống trung hậu, đảm đang, tự lực tự cường, thủy chung son sắt, các má, các chị đã nỗ lực vượt lên mọi hoàn cảnh, xứng đáng là “mặt trận lòng dân”. “Hội mẹ chiến sĩ” Bến Tre là biểu hiện đặc sắc của truyền thống ấy. Đó là sự biểu hiện tập trung và cao nhất của tình “quân dân cá nước”. Chính tình yêu nước mênh mông, đức hy sinh và lòng nhân hậu, thủy chung của các mẹ đã tạo nên một thứ chiến luỹ bền hơn sắt thép không bạo lực nào có thể phá vỡ nổi. Sự thủy chung của người phụ nữ Bến Tre không bó hẹp trong phạm vi gia đình, đối với chồng con mà còn đối với dân, với nước, nó phát triển thành lòng trung thành tuyệt đối với sự nghiệp cách mạng của Đảng. Trong kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, người phụ nữ Bến Tre đảm trách tất cả mọi nhiệm vụ từ nhẹ nhàng đến nặng nhọc, từ dễ dàng đến khó khăn, nguy hiểm kể cả những nhiệm vụ tưởng chừng như chỉ thuộc về nam giới. Dòng kênh mang tên “phụ nữ” và dòng “Kênh Giải phóng” ra đời không phải ngẫu nhiên, nó là sản phẩm tất yếu do bàn tay, khối óc của hàng ngàn chị em phụ nữ Bến Tre tạo nên suốt mấy tháng dưới gầm trời đầy bom đạn. Đây là những dòng kênh đánh dấu mốc son chói lọi của truyền thống trung hậu, đảm đang, chịu đựng gian khổ ở người phụ nữ Bến Tre. Nếu dòng “Kênh phụ nữ” có ý nghĩa đặc biệt trong việc mở ra con đường giao thông an toàn cho cách mạng, thì dòng “Kênh Giải phóng” cũng có ý nghĩa không kém phần quan trọng. Tuyến đê chạy dài theo dòng kênh là phòng tuyến vững chắc ngăn chặn bước tiến xe tăng địch và bảo vệ an toàn cho khu căn cứ cách mạng. Sự đóng góp to lớn đó của phụ nữ Bến Tre không phải là ở số lượng công trình mà ở sự giỏi giang, gánh vác những công việc nặng nhọc chẳng kém gì nam giới. truyền thống trung hậu, đảm đang còn là sự hy sinh thầm lặng của những người con gái, người vợ, người mẹ Bến Tre. Trong hoàn cảnh chiến tranh ác liệt và triền miên, người phụ nữ nơi đây càng phát huy cao độ đức hy sinh ấy. Họ đã bình tĩnh, trầm lặng hiến dâng những 2-3 thế hệ người thân yêu nhất của mình cho quê hương, đất nước. Có những người mẹ đã tiễn 5-7 người thân mà không một lần đón họ. Cái gì đã khiến mẹ phải hy sinh cả hạnh phúc riêng của mình như thế ? Chỉ có thể lý giải điều đó bằng tình yêu quê hương, đất nước, lòng khát khao cháy bỏng độc lập tự do ở người phụ nữ Bến Tre. Tiêu biểu cho đức hy sinh cao cả ấy là tấm gương sáng ngời của mẹ Việt Nam anh hùng Phan Thị Đầy ở xã Phước Hiệp, huyện Mỏ Cày. Mẹ đã cống hiến cho Tổ quốc 12 người thân yêu nhất của mình. Cuộc đời của mẹ nỗi đau chồng chất những nỗi đau tưởng chừng không thể nào chịu đựng nổi, nhưng mẹ đã vượt lên tất cả những nỗi đau, sống vì một lý tưởng cao đẹp nhất. Chiến tranh qua đi, hạnh phúc đến với hàng triệu con người nhưng vết thương lòng mẹ không gì hàn gắn được. Con số 2.067 Bà mẹ Việt Nam anh hùng ở vùng đất cù lao đã chứng minh cho sự hy sinh to lớn của những người phụ nữ nơi đây. Tuy nhiên, so với con số 35.000 liệt sĩ và hơn 18.000 thương binh của vùng đất này vẫn chưa phản ánh đầy đủ sự cống hiến lớn lao của hàng vạn người mẹ Bến Tre. Còn có biết bao những bà mẹ liệt sĩ, tuy không nằm trong tiêu chí qui định "lạnh lùng" về những người thân hy sinh, nhưng các mẹ vẫn là những tấm gương tuyệt vời về đức hy sinh cao cả, vì độc lập tự do của Tổ quốc. Có thể thấy rằng, sự cống hiến vô giá của người mẹ cũng chính là niềm tự hào nhưng ẩn chứa trong đó lớp lớp nỗi đau. Nếu năm tháng không làm giảm đi niềm tự hào về sự hy sinh của mỗi người mẹ Bến Tre thì cũng không thể xoá đi những nỗi đau gần như triền miên trong lòng mẹ. Và vẫn còn đó lớp lớp nữ thanh niên đã tình nguyện cống hiến tuổi thanh xuân của mình cho Tổ quốc. Họ đã góp phần làm rạng rỡ trang sử hào hùng của quê hương. Nhưng riêng những người con gái ấy đã trở nên “quá lứa lỡ thì”, sống cô đơn với khát khao mãnh liệt một cuộc sống rất đời thường: được làm vợ, làm mẹ nhưng không thể có được. Đó là một thực tế đúng với câu ca dao: “Bến Tre nhiều gái chưa chồng Không tin xuống chợ Mỹ Lồng mà xem”. Nói đến đức hy sinh của người phụ nữ, chúng ta không thể quên những tấm gương đã hy sinh trong ngậm ngùi cay đắng, trong sự khinh miệt của mọi người. Đó là những người phụ nữ không có niềm vinh dự lớn lao của người vợ, người mẹ liệt sĩ, họ bị coi là “phản bội ” chồng con, “phản bội” quê hương. Mấy ai biết rằng, đằng sau những thắng lợi vẻ vang là sự hy sinh to lớn của người phụ nữ, họ đã âm thầm gánh chịu những nỗi đau, đánh đổi cái quý giá của đời mình để giành lấy cái quí hơn tất cả: độc lập, tự do cho dân tộc. Chiến tranh nào không mất mát đau thương, nhưng mất mát lớn lao nhất bao giờ cũng thuộc về phụ nữ. Đó là một thực tế lịch sử sinh động về đức hy sinh cao cả, sự nhẫn nại, chịu đựng gian khổ của người phụ nữ Bến Tre. những đức tính ấy luôn thường trực ở mỗi con người nơi vùng đất đầy mưa bom bão đạn. Có thể nói, Bến Tre là một trong những tỉnh bị chiến tranh tàn phá khốc liệt nhất ở Nam Bộ. Nếu tính trước ngày đất nước được thống nhất thì mảnh đất này hầu như chưa có ngày nào bình yên. Chính trong hoàn cảnh lịch sử đó của quê hương, đã sản sinh ra những thế hệ phụ nữ đảm đang, nhân hậu, chịu đựng gian khổ với một sức bền kỳ diệu không phải người phụ nữ ở nơi nào cũng có. Truyền thống ấy ngày càng được phát huy mạnh mẽ, làm phong phú thêm trang sử hào hùng của vùng đất ba dải cù lao. truyền thống anh hùng, bất khuất của người phụ nữ Bến Tre Nếu trong khai hoang mở đất, cùng với nam giới, phụ nữ Bến Tre không lùi bước trước mọi khó khăn, trở ngại của tự nhiên thì trong cuộc đấu tranh bảo vệ quê hương, họ không bao giờ khuất phục trước sức mạnh phi nghĩa của kẻ thù. Có thể nói, khí phách anh hùng, bất khuất, kiên cường là đức tính phổ biến của người phụ nữ Bến Tre. Bởi lẽ, khi cuộc sống mới nơi đây vừa ổn định thì đó cũng là lúc người dân Bến Tre hết sống trong cảnh nội chiến đến chiến tranh xâm lược của kẻ thù. Người phụ nữ yêu nước không thể thụ động trước tình cảnh đó. Họ thoát khỏi “phòng the”, vượt lên trên tất cả những ràng buộc của lễ giáo phong kiến, tham gia các phong trào yêu nước chống giặc ngoại xâm, đấu tranh cho dân sinh, dân chủ và giải phóng dân tộc. ở đâu có phong trào cách mạng, thì ở đó phụ nữ tham gia với tinh thần bất khuất, kiên cường, bất chấp tù ngục súng gươm, bất chấp mọi đàn áp dã man của kẻ thù. Họ chứng tỏ rằng, khi quê hương, đất nước bị kẻ thù xâm lược thì “anh hùng đâu chỉ có mày râu”. Ngay từ buổi đầu của phong trào yêu nước đấu tranh chống đế quốc và phong kiến, phụ nữ Bến Tre đã có mặt trong hàng ngũ những người cộng sản. Chị Nguyễn Trung Nguyệt là người phụ nữ Nam Bộ đầu tiên đi dự lớp huấn luyện chính trị của “Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí hội” năm 1927 tại Quảng Đông- Trung Quốc. Chị khéo léo cải nam trang, vượt qua mọi khó khăn thử thách để đi tìm lý tưởng giải phóng đồng bào và giải phóng cho giới mình. Khi trở về, chị tiếp tục tham gia cách mạng và bị 8 năm tù đày tra khảo của kẻ thù nhưng vẫn một lòng trung thành với Đảng, với nhân dân. Đối với người phụ nữ Bến Tre, dù bị tù đày gian khổ nhưng không ai phản bội quê hương, vẫn giữ vẹn lòng trung thành tuyệt đối với cách mạng. Trong họ luôn âm ỉ một tình yêu quê hương, đất nước, một sức chịu đựng phi thường được hình thành từ những điều kiện đặc thù của vùng đất ba dải cù lao. Có những người mẹ, hơn nửa thế kỷ làm công tác giao liên cho cách mạng bằng một tấm lòng chung thủy và trung thành dù phải vào tù ra khám. Cuộc đời hoạt động của mẹ Nguyễn Thị Hạp ở xã Sơn Hòa, huyện Châu Thành là tấm gương tiêu biểu, là điểm son ngời sáng trên mặt trận giao liên trong những năm tháng chiến tranh ác liệt nhất ở Nam Bộ. Là người nữ giao liên tận tụy từ trong giai đoạn chống Pháp đến thời kỳ chống Mỹ, trong mọi hoàn cảnh, mẹ đều hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của mình với ý chí kiên cường và một trái tim đầy nhiệt huyết. Có thể thấy rằng, phụ nữ Bến Tre luôn kề vai sát cánh cùng các tầng lớp nhân dân trong mọi thời kỳ cách mạng, họ có mặt trên khắp các mặt trận, từ kinh tế, chính trị đến quân sự, văn hoá... Đặc biệt từ khi có Đảng, vai trò của phụ nữ ngày càng thay đổi về chất và trở thành một lực lượng chính trị quan trọng. Chị em tham gia đông đảo vào lực lượng vũ trang, làm y tá, cứu thương, công tác hậu cần, dân vận... Sự cống hiến to lớn của họ đã góp phần tạo những tiền đề vật chất và tinh thần cho thắng lợi vẻ vang của Cách mạng Tháng Tám năm 1945. Đến lượt nó, thắng lợi ấy đã củng cố niềm tin, tạo những điều kiện thuận lợi cho phụ nữ Bến Tre phát huy hết khả năng của mình phục vụ cho hai cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược. những người phụ nữ Bến Tre đã thống nhất lòng yêu nước, yêu chồng con, yêu chiến sĩ thành một tình yêu thương vô bờ bến. Tình yêu ấy là động lực lớn lao làm bật dậy sức lực và trí tuệ của họ. ở mỗi người phụ nữ, cái hiền dịu và cái anh hùng tưởng chừng như đối lập nhưng lại thống nhất không tách rời nhau. Đối với chồng con, đối với đồng bào, chiến sĩ, họ luôn là người dịu dàng, nhân hậu, thủy chung nhưng trước kẻ thù, những con người ấy bao giờ cũng tỏ rõ một khí phách hiên ngang, ý chí kiên cường, bất khuất. Từ những em bé đến những người mẹ già nua, trước cái chết họ không hề run sợ. Giữa những cuộc đàn áp dã man của kẻ thù, khí phách hiên ngang của phụ nữ Bến Tre càng ngời sáng. Không ai có thể quên được sự hy sinh can trường với câu trả lời đầy khí phách của mẹ Trần Thị Kế: “Chồng con tao ở trong trái tim tao. Chúng bay mổ ra mà kiếm”. Hình ảnh ấy đã tiếp thêm sức mạnh và động viên các cán bộ đảng viên giữ vững ý chí bất khuất trước bạo lực của kẻ thù. Chỉ trong 21 năm dưới chế độ thực dân mới, hàng ngàn phụ nữ Bến Tre bị giam cầm tù tội. Cứ 5 tù nhân thì có 1 người phụ nữ, họ có mặt khắp các nhà tù miền Nam, chịu đòn roi tra tấn dã man của kẻ thù. Bao nhiêu bản án khổ sai, chung thân là bấy nhiêu tấm gương kiên cường, bất khuất của người phụ nữ. Chị Dương Thị Chẩn là tấm gương tiêu biểu cho sự kiên cường đó. Chị đã trải qua 9 nhà tù và 19 lần chuyển lao bởi sự đấu tranh quyết liệt của mình. Chị kiên quyết chống đối, chống học tập tố cộng, chống chào cờ "ba que", không chịu “suy tôn Ngô tổng thống”... Đặc biệt ở nhà lao Côn Đảo, chị cùng tập thể tù nhân nữ tuyệt thực 11 ngày để phản đối chính sách khủng bố, đàn áp của kẻ thù, buộc chúng phải nhượng bộ. ý chí kiên cường, bất khuất của người phụ nữ Bến Tre cứ như những đợt sóng Hàm Luông không dứt, lớp lớp xô nhau để nhấn chìm bè lũ bán nước và cướp nước. phụ nữ tham gia ngày càng đông đảo các cuộc đấu tranh với mọi hình thức: chính trị, vũ trang, binh vận... bằng một khí thế tiến công quyết liệt. Khí thế ấy đã làm nên cuộc Đồng khởi vang dội ngày 17/01/1960. Nếu trước đây, người ta biết đến Bến Tre là quê hương của những rừng dừa bạt ngàn hay quê hương thứ hai của nhà thơ yêu nước Nguyễn Đình Chiểu, thì ở thời kỳ chống Mỹ, hai tiếng Bến Tre thu hút sự ngưỡng mộ của hàng triệu trái tim yêu chính nghĩa bằng ngọn lửa Đồng khởi bùng lên từ đất Mỏ Cày. Như con chim báo bão xuất hiện trên bầu trời vần vũ mây đen, ngọn lửa Đồng khởi là tín hiệu của những cơn rung chuyển sấm sét làm sụp đổ chế độ Mỹ ngụy. ý nghĩa và giá trị thực tiễn của cuộc Đồng khởi Bến Tre được Đại tướng Hoàng Văn Thái đánh giá: Phong trào Đồng khởi ở Bến Tre đã mở đầu cho cuộc tấn công nổi dậy lần thứ nhất của cách mạng miền Nam, mở đầu cho cuộc khủng hoảng triền miên của chính quyền Mỹ, Diệm. Rõ ràng, phong trào Đồng khởi ở Bến Tre đã đi vào lịch sử như một ngọn cờ đầu, nó đã có một vị trí xứng đáng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước ở miền Nam và xứng đáng được gọi là quê hương Đồng khởi với tất cả những nội dung và tính chất của nó [50, tr.1091]. Phong trào Đồng khởi ở Bến Tre không chỉ có nghĩa đơn giản là cuộc nổi dậy đồng loạt của nhân dân từ tay không cướp đồn địch, giành chính quyền mà là một quá trình liên tục tiến công, liên tục nổi dậy và liên tục giành thắng lợi. Đó là một hình thức đấu tranh độc đáo, là kết quả sáng tạo của tư duy quân sự đạt đến tầm cỡ nghệ thuật chiến tranh thế giới của những người lãnh đạo cách mạng trên mảnh đất Bến Tre và hàng vạn những tấm gương anh dũng hy sinh, kiên cường, bất khuất trên mảnh đất này. Hai tiếng Bến Tre còn gắn liền với sự ra đời của “đội quân tóc dài”, một sáng tạo lịch sử của chiến tranh nhân dân ở miền Nam, một đội quân đặc biệt có thể nói là độc nhất vô nhị trên thế giới. Về mặt số lượng, đó là một đội quân hùng hậu càng tăng lên qua mỗi cuộc chiến tranh vệ quốc. Về chất lượng, đây là một lực lượng nữ có bước trưởng thành đáng kể, có tổ chức chặt chẽ, có tuyển lựa, có huấn luyện, có chỉ huy, có hợp đồng chiến đấu, biết hợp tan khi cần thiết. Lúc bình thường, những người phụ nữ ấy gắn bó với thôn xóm, ruộng đồng, thay chồng nuôi con, phụng dưỡng cha mẹ già và nuôi giấu cán bộ. Họ có mặt ở hầu hết các phong trào cách mạng ở hậu phương, xây dựng xã ấp chiến đấu, tham gia du kích, bảo vệ làng mạc... Lúc có giặc càn vào thôn xóm, họ là lực lượng đứng ra đấu tranh ngăn chặn bước tiến của quân thù, bảo vệ tính mạng, tài sản của nhân dân. Vũ khí đấu tranh chủ yếu của họ không phải là súng đạn mà là chính nghĩa, là lòng yêu nước, khí phách anh hùng, kiên cường, bất khuất không lùi bước trước những cuộc khủng bố, đàn áp của kẻ địch. Họ vận dụng lý lẽ một cách thông minh, khôn khéo để đấu tranh trực diện với đối phương. Vận dụng “3 mũi giáp công” đánh vào chỗ yếu làm phân hoá hàng ngũ, ngăn chặn và phá vỡ âm mưu thâm độc của Mỹ, ngụy. Không hiếm những tấm gương anh hùng, bất khuất, với tay không nhưng đầy mưu trí, sáng tạo đã hạ được đồn bót giặc, vô hiệu hoá từng đơn vị chiến đấu của địch. Chính những người phụ nữ dịu hiền lại là những người chiến sĩ anh hùng diệt ác ôn ngay trên đường phố. Trong những năm 1960, cả miền Nam không ai không biết đến cái tên Bảy Tranh- người nữ chiến sĩ xung kích tiêu biểu, người nữ chỉ huy xuất sắc của “đội quân tóc dài” với hơn 300 trận đấu tranh trực diện với kẻ thù, là ngọn cờ tập hợp quần chúng ở Bến Tre. Hay thành tích “Tay không hạ bót, cắm cờ” của tổ du kích mật xã An Thạnh- Mỏ Cày gắn liền với tên tuổi Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân Tạ Thị Kiều đã đi vào thơ ca một cách hào hùng: Xa cô du kích Mỏ Cày, Còn mê câu chuyện ban ngày đánh “tua”. Tay không hạ bót, cắm cờ Bến Tre ơi, một bài thơ tuyệt vời. Nhìn chung, vai trò to lớn của phụ nữ Bến Tre không chỉ trong đấu tranh chính trị mà xuất sắc cả trên 3 mũi giáp công: chính trị, quân sự và binh vận. Tham gia chiến đấu ở mũi quân sự, ngoài hàng ngàn nữ du kích địa phương làm nhiệm vụ đánh giặc giữ làng, Bến Tre còn có “tiểu đoàn nữ thanh niên xung phong”, những đơn vị bộ đội nữ gắn liền với tên tuổi người nữ chỉ huy “Bộ đội Thu Hà”, đơn vị “đặc công nữ” và đơn vị “pháo binh nữ”. Đó là những tổ chức bán quân sự chiến đấu bên cạnh lực lượng vũ trang trong nửa phần cuối của cuộc chiến tranh chống Mỹ. Những người phụ nữ Bến Tre đã đảm nhiệm đầy đủ vai trò của người lính trợ chiến, một nhiệm vụ khá nặng nề tưởng chừng như không thể đảm đương nổi. Nhưng sức mạnh tinh thần đã giúp họ mạnh mẽ hơn bao giờ hết, họ khiêng vác nòng pháo, mâm pháo, đạn pháo... vượt qua sông rạch, đầm lầy, cầu khỉ,... trong các cuộc hành quân tạo nên những thành tích đáng tự hào. Trong điều kiện khó khăn của một chiến trường bốn bề sông nước, kênh rạch chằng chịt, phải chống lại “Chiến thuật hạm đội nhỏ trên sông” của Mỹ, một sáng tạo độc đáo của “đội quân tóc dài” đã ra đời. Đó là “đội nữ đặc công thủy”, một đại đội hoàn toàn do chị em điều khiển, từ đại đội trưởng, đến chính trị viên và tổ trưởng... Khi thì độc lập tác chiến, lúc thì phối hợp hoạt động với các tổ nam đặc công, họ đã vật lộn với sóng gió bao la, hoạt động trên khắp sông nước Bến Tre một cách thầm lặng nhưng tạo nên những chiến công vang dội. Đó là hình ảnh nổi bật của những nữ chiến sĩ đặc công thủy anh dũng, thông minh đã “cưỡi sóng Hàm Luông, nhận chìm hạm Mỹ”, góp phần cống hiến to lớn cho sự nghiệp giải phóng quê hương, đất nước. Từ đó, “đội quân tóc dài” của Bến Tre đã lan ra khắp miền Nam, bao gồm những phần tử trung kiên, ưu tú, dũng cảm và m._., phụ nữ sẽ phải cố gắng rất nhiều. Tuy nhiên, ở khu vực hành chính sự nghiệp lại nảy sinh vấn đề phụ nữ chưa kịp cống hiến hết khả năng của mình cho công việc thì đã tới điểm dừng. Đó là vấn đề tuổi hưu của lao động nữ. Từ trước đến nay Nhà nước áp dụng tuổi hưu nữ 55, nam 60, thực tế hiện nay cần có sự nghiên cứu, điều chỉnh ở một số ngành nghề. Trong lĩnh vực lãnh đạo, quản lý , người phụ nữ phải ngoài tuổi 40 mới tạm thời được giải phóng khỏi các công việc gia đình, con cái lớn, bản thân có thêm kinh nghiệm được tích luỹ, công việc và kinh tế gia đình tương đối ổn định. Lúc này, người phụ nữ mới có đủ điều kiện về thời gian và vật chất để tham gia vào công tác lãnh đạo cũng như các hoạt động xã hội khác. Để đạt được vị trí nhất định trong giai đoạn này, phụ nữ phải phấn đấu tích cực hơn nam giới để bù đắp giai đoạn trước kia phải thực hiện chức năng sinh đẻ và nuôi con. Vì vậy mà khi có được vị trí nhất định, phụ nữ phải nghỉ hưu trước nam giới 5 năm. Đó là một trong những nguyên nhân làm cho tỉ lệ nữ tham gia lãnh đạo, quản lý luôn thấp hơn nam giới. Đối với khu vực hành chính sự nghiệp, nhất là trong lĩnh vực lãnh đạo, quản lý nên điều chỉnh tuổi hưu của phụ nữ như nam giới là 60 tuổi. Đồng thời để phụ nữ tự nguyện nghỉ hưu từ 55 tuổi mà không trừ vào các chế độ bảo hiểm. Về chính sách tuổi đề bạt, cần áp dụng chính sách “mềm” linh hoạt đối với cán bộ nữ, khuyến khích thêm phụ nữ trong công tác lãnh đạo, quản lý để họ yên tâm học tập và cống hiến, tránh được tư tưởng chán nản và hụt hẫng trong những năm sắp đến tuổi 55 của những người vẫn làm việc tốt và tha thiết với công việc. Đồng thời khuyến khích phụ nữ phấn đấu thêm, tránh tư tưởng an phận ở vị trí hiện tại. Vì vậy, áp dụng chính sách tuổi hưu và tuổi đề bạt linh hoạt sẽ phát huy có hiệu quả năng lực cống hiến của người phụ nữ giúp họ thực hiện tốt chức năng gia đình và xã hội. Ngoài ra, cần phải có chính sách giảm nhẹ gánh nặng công việc gia đình cho phụ nữ, Nhà nước phát triển các ngành dịch vụ cho gia đình hoặc hỗ trợ cho tư nhân mở dịch vụ. Ngày nay, vấn đề được phụ nữ quan tâm hàng đầu là vấn đề giáo dục con cái. Đặc biệt, đối với những bà mẹ làm công tác lãnh đạo, quản lý thì vấn đề này lại càng quan trọng hơn. Mặc dù, Nhà nước đã tăng cường đầu tư để cải tạo hệ thống nhà trẻ, mẫu giáo ở nhiều nơi, song việc đầu tư vẫn chưa thoả đáng, tình trạng trẻ em thiếu sân chơi, đồ chơi, đồ dụng học tập ngày càng tăng, nhất là ở địa bàn huyện. Hiện nay, gửi trẻ là nhu cầu bức thiết của mỗi gia đình, đòi hỏi phải mở rộng, xây mới trường lớp để đáp ứng nhu cầu đó. Trẻ em được vui chơi, học tập trong môi trường thuận lợi sẽ làm cho hiệu quả công việc của bố mẹ tăng lên, đặc biệt là đối với người mẹ, tạo điều kiện cho phụ nữ tập trung học tập và làm việc. Song, thiết thực nhất vẫn là cải tiến giờ giấc phục vụ của hệ thống nhà trẻ, mẫu giáo. Giờ trả trẻ trùng với giờ tan tầm như trước đây là không hợp lý, phụ nữ sẽ phải vi phạm kỉ luật lao động để về sớm đón con. Do đó, cần phải mở rộng thêm hình thức trông trẻ như trông ngoài giờ, trọn tuần, trọn tháng... đáp ứng nhu cầu của phụ nữ khi cần thiết (hội họp, học tập...). ở bậc tiểu học, cũng cần mở rộng hình thức bán trú và học lưu buổi, giúp phụ nữ khỏi lúng túng khi đón con về giữa buổi. Để phụ nữ có thể tham gia được nhiều hơn nữa vào các hoạt động sản xuất và xã hội, Nhà nước cần mở rộng các hình thức dịch vụ xã hội để giảm nhẹ tối đa việc nhà cho phụ nữ, bởi truyền thống văn hoá và điều kiện thực tế hiện nay ở nước ta, phụ nữ phải dành nhiều thời gian và tâm trí cho công việc gia đình hơn nam giới, ít có thời gian để học tập, đọc sách báo. Giải phóng phụ nữ khỏi gánh nặng đó sẽ tạo cho họ thêm thời gian học tập và nghỉ ngơi. điều này góp phần tạo điều kiện cho phụ nữ vươn lên, phát huy hết tiềm năng của mình đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của quê hương, đất nước. phụ nữ Bến Tre chiếm 52% dân số của tỉnh, phát triển phụ nữ cũng là phát triển hơn một nửa tỉnh nhà. Điều này C.Mác đã chỉ rõ: "Trình độ giải phóng của phụ nữ là cái thước đo tự nhiên dùng để đo sự giải phóng chung" [38, tr.286] và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng khẳng định: "Nói phụ nữ là nói phần nửa xã hội. Nếu không giải phóng phụ nữ thì không giải phóng một nửa loài người. Nếu không giải phóng phụ nữ là xây dựng chủ nghĩa xã hội chỉ một nửa" [42, tr.523]. Vì thế, nếu Bến Tre không có những chính sách quan tâm thỏa đáng đối với phụ nữ đó không chỉ thiệt thòi riêng cho bản thân từng phụ nữ mà là thiệt thòi chung cho cả tỉnh. Sự thấp kém về trình độ học vấn, chuyên môn nghề nghiệp của phụ nữ ảnh hưởng lớn đến việc phát huy truyền thống đạo đức của chính người phụ nữ, của địa phương, làm chậm đi bước phát triển của tỉnh nhà. Thứ hai, phát huy quyền làm chủ của phụ nữ trong gia đình và xã hội Hiến pháp Việt Nam năm 1946, 1959, 1980 và 1992 đều khẳng định quyền bình đẳng nam - nữ. Điều 63 Hiến pháp 1992 ghi rõ "công dân nữ và nam có quyền ngang nhau về mọi mặt chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và gia đình". Quy định này đã chống lại những tàn dư tư tưởng hạ thấp địa vị người phụ nữ, đồng thời đã xóa bỏ sự ràng buộc người phụ nữ trong quan hệ gia đình và xã hội phong kiến. Như vậy, muốn phát huy quyền làm chủ của người phụ nữ trong xã hội, trước hết phải thực hiện quyền bình đẳng nam - nữ ở phạm vi gia đình. Trên thực tế, công cuộc đổi mới đang tạo ra những biến đổi về vai trò người phụ nữ cả trong gia đình và xã hội, tạo ra nhiều cơ hội, điều kiện nâng cao vai trò, phát huy quyền làm chủ của phụ nữ trong gia đình. những năm gần đây, phụ nữ tham gia ngày càng nhiều các hoạt động lao động sản xuất để tạo thu nhập kinh tế cho gia đình. đây chính là tiền đề kinh tế- xã hội cho giải phóng phụ nữ, bắt đầu từ gia đình. Có những hộ do phụ nữ làm chủ thu nhập cao hơn những hộ do nam giới làm chủ. Chính sự chủ động tham gia các hoạt động kinh tế của phụ nữ đã làm giảm sự lệ thuộc của họ vào nam giới và gia đình, là cơ sở để nâng cao địa vị của họ. Vì vậy, cần phát huy mạnh mẽ quyền làm chủ của phụ nữ trong gia đình, thể hiện ở một số vấn đề quan trọng sau: Một là, quyền quyết định trong sản xuất- kinh doanh Công việc sản xuất- kinh doanh là công việc quan trọng mà người phụ nữ trong các gia đình hiện nay đóng vai trò chủ đạo. Song, người quyết định chính những công việc này vẫn là người chồng. Đó là quyết định về thay đổi cơ cấu vật nuôi cây trồng, công cụ sản xuất, hướng sản xuất - kinh doanh, cơ cấu đầu tư, phân công lao động, mua vật tư, cộng cụ sản xuất - kinh doanh và bán sản phẩm... Người vợ quyết định công việc sản xuất - kinh doanh chiếm 29,5% còn người chồng quyết định chiếm 67,7%. Rõ ràng, quyết định công việc sản xuất - kinh doanh trong các gia đình hiện nay, người vợ nói riêng, phụ nữ nói chung chiếm một tỉ lệ chưa đến một nửa so với người chồng. Như vậy, phụ nữ đóng vai trò hết sức quan trọng trong sản xuất - kinh doanh, xây dựng kinh tế gia đình nhưng quyền quyết định quan trọng liên quan đến lĩnh vực này chưa thuộc về phụ nữ. Do đó, phải tạo điều kiện hơn nữa trao quyền quyết định cho phụ nữ trong lĩnh vực này. Hai là, quyền quyết định các khoản chi tiêu lớn trong gia đình Trong gia đình có rất nhiều khoản chi tiêu khác nhau. Những chi tiêu nhỏ hàng ngày cho sinh hoạt ăn uống thường do phụ nữ chủ động thực hiện, còn những khoản chi tiêu lớn có ảnh hưởng đáng kể đối với đời sống kinh tế của gia đình như: mua sắm tài sản đắt tiền, xây dựng nhà cửa... phần lớn thuộc về quyền quyết định của đàn ông. Tuy nhiên, tỉ lệ cao nhất thuộc về cả hai vợ chồng cùng trao đổi, bàn bạc, thống nhất và ra quyết định. Đây không chỉ là bước nhảy vọt của phong trào phụ nữ tiến tới bình đẳng giới mà còn nói lên quan hệ dân chủ đang từng bước được tạo lập trong các gia đình. Ba là, quyền quyết định số con trong gia đình Nhìn chung, đời sống xã hội càng phát triển thì số con của mỗi gia đình do cả hai vợ chồng quyết định, có thể nói chiếm đến 90%. Quyền quyết định này bị ảnh hưởng rất lớn bởi trình độ học vấn của các cặp vợ chồng. Càng có trình độ học vấn cao, càng có sự hiểu biết sâu rộng thì cuộc vận động dân số – kế hoạch hoá gia đình càng tác động một cách tích cực làm thay đổi nhận thức, thái độ và hành vi của họ. Đây là bước tiến bộ lớn của sự bình đẳng nam nữ, thể hiện tính dân chủ ngày càng cao trong gia đình. Tóm lại, chỉ khi quyền làm chủ của người phụ nữ trong gia đình được phát huy, họ mới có thể nâng cao vị thế của mình trong xã hội. Đồng thời có nhiều cơ hội thuận lợi để phát huy hết năng lực, trí tuệ, hình thành nên những phẩm chất đạo đức mới, bổ sung và phát triển những giá trị đạo đức truyền thống đã được hình thành trong lịch sử. Thứ ba, phát huy vai trò của Hội liên hiệp phụ nữ các cấp trongviệc thực hiện chiến lược quốc gia “Vì sự tiến bộ của phụ nữ” Sự phát triển của phụ nữ là thước đo sự phát triển toàn diện của xã hội, nó đòi hỏi sự phối hợp đồng bộ của các cấp, các ngành, các tổ chức xã hội..., trực tiếp và đặc biệt quan trọng là vai trò của Hội liên hiệp phụ nữ các cấp. Đây là tổ chức quần chúng rộng rãi, là nơi tập hợp đông đảo các tầng lớp phụ nữ. Đồng thời là nơi xây dựng và tổ chức thực hiện các chương trình, các phong trào vì sự tiến bộ của phụ nữ. Để phát huy tốt vai trò của Hội phụ nữ các cấp trong việc thực hiện chiến lược quốc gia “Vì sự tiến bộ của phụ nữ” nhằm “nâng cao chất lượng đời sống vật chất và tinh thần của phụ nữ, tạo mọi điều kiện để thực hiện có hiệu quả các quyền cơ bản và phát huy vai trò của phụ nữ trong mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội”, cần đảm bảo hai yếu tố cơ bản sau: Về khách quan: Các cấp uỷ Đảng và chính quyền trong tỉnh phải quan tâm đầu tư đào tạo đội ngũ cán bộ Hội viên toàn diện về mọi mặt, có đủ trình độ chuyên môn, nghiệp vụ phục vụ tốt công tác của ngành. Đồng thời phải đảm bảo điều kiện vật chất, trang thiết bị cần thiết cho hoạt động giáo dục tuyên truyền của Hội đối với phụ nữ. Về chủ quan: Cán bộ Hội viên các cấp trong tỉnh phải nỗ lực phấn đấu vươn lên trong công tác và học tập để có đủ trình độ năng lực, kinh nghiệm, hoạt động có hiệu quả công việc của ngành, phát huy tính năng động, sáng tạo của Hội trong việc xây dựng, tổ chức thực hiện các chương trình vì sự tiến bộ của phụ nữ. Một là, chương trình giáo dục phẩm chất đạo đức, nâng cao năng lực trình độ mọi mặt của phụ nữ. Hai là, chương trình hỗ trợ phụ nữ phát triển kinh tế. Ba là, chương trình xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc. Bốn là, chương trình xây dựng và phát triển tổ chức Hội vững mạnh. Năm là, chương trình tham gia xây dựng và giám sát thực hiện luật pháp, chính sách bình đẳng nam nữ. Sáu là, hoạt động đối ngoại nhân dân. Thực hiện tốt các chương trình trên sẽ tạo nên tiền đề vật chất và tinh thần phát huy vai trò to lớn, những giá trị đạo đức truyền thống của người phụ nữ đáp ứng yêu cầu sự nghiệp cách mạng hiện nay. Tuy nhiên, quá trình kế thừa và phát huy các giá trị đạo đức truyền thống của người phụ nữ không chỉ chịu sự quy định của điều kiện kinh tế, sự tác động của ý thức chính trị mà cần phải có vai trò của văn hóa - giáo dục, nhất là quá trình tự giáo dục của chính bản thân người phụ nữ. 2.2.3. Nhóm giải pháp văn hoá - giáo dục Thứ nhất, coi trọng giáo dục và tự giáo dục giá trị đạo đức truyền thống đối với phụ nữ Bến Tre là tỉnh vốn có truyền thống lịch sử văn hoá đáng tự hào. Đó là điều kiện thuận lợi để các tầng lớp phụ nữ Bến Tre hôm nay vượt qua mọi khó khăn, phát huy mạnh mẽ những giá trị đạo đức truyền thống của giới mình. Tuy nhiên, để quá trình kế thừa và phát huy truyền thống ấy đạt hiệu quả cao, cùng với việc đẩy mạnh phát triển kinh tế tỉnh nhà, nâng cao đời sống vật chất của người phụ nữ, một yêu cầu cấp thiết hiện nay là đẩy mạnh công tác giáo dục và tự giáo dục truyền thống quê hương, truyền thống của người phụ nữ Bến Tre cho mọi tầng lớp nhân dân, nhất là người phụ nữ. từ đó giúp họ hiểu biết, tôn trọng và có ý thức giữ gìn, bồi đắp làm phong phú thêm các giá trị đạo đức truyền thống. Quá trình giáo dục và tự giáo dục đạo đức truyền thống phải được thực hiện và có sự kết hợp hài hoà giữa môi trường gia đình - nhà trường - xã hội. Tác động của môi trường có tầm quan trọng đặc biệt đến việc hình thành phẩm chất đạo đức của những thế hệ phụ nữ trẻ. trong môi trường gia đình, cần nhấn mạnh việc giáo dục lối sống tình nghĩa, tinh thần tương trợ giúp đỡ lẫn nhau, lòng kính trọng ông bà, cha mẹ, biết kính trên nhường dưới, thái độ chăm chỉ học tập và yêu lao động, trân trọng và biết ơn sự cống hiến của các thế hệ cha, anh... Đặc biệt giáo dục gia đình nên chú trọng phương pháp nêu gương. Ông bà, cha mẹ phải là những tấm gương sáng ngời soi rọi trực tiếp cho sự phát triển tâm hồn của trẻ em gái. Đó là truyền thống được các gia đình Việt Nam nâng niu, gìn giữ từ đời này qua đời khác. Kết hợp với giáo dục trong gia đình, giáo dục trong môi trường xã hội sẽ góp phần tạo cho đất nước những thế hệ phụ nữ có bản lĩnh chính trị vững vàng, có phẩm chất đạo đức tốt, lối sống trong sạch, lành mạnh, có trình độ năng lực đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp phát triển đất nước hiện nay. Bên cạnh đó, cần đẩy mạnh giáo dục đạo đức, văn hóa nhất là truyền thống lịch sử - văn hoá của quê hương, truyền thống hào hùng của phụ nữ Bến Tre trong các trường phổ thông và cao đẳng. Từ đó nâng cao lòng tự hào và ý thức trách nhiệm của nữ sinh với bản thân, gia đình và quê hương trong việc giữ gìn, kế thừa và phát huy những giá trị đạo đức truyền thống. Giáo dục đạo đức truyền thống trong môi trường xã hội thông qua các lễ hội truyền thống, các ngày lễ lớn hằng năm và các phong trào quần chúng rộng rãi. Ngoài những ngày lễ và kỷ niệm trong năm như ngày thành lập Đảng, Cách mạng tháng Tám và Quốc Khánh 2/9, ngày Quốc tế phụ nữ 8/3, ngày thành lập Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam 20/10... Bến Tre còn tổ chức ngày Truyền thống văn hoá Bến Tre (1/7), ngày Bến Tre Đồng khởi (17/1), tổ chức các cuộc họp mặt, liên hoan, giao lưu như: Họp mặt truyền thống "đội quân tóc dài", phụ nữ khu 8, người con hiếu thảo... Đây là những dịp để giáo dục một cách thiết thực truyền thống của quê hương, để những người phụ nữ ôn lại truyền thống đầy tự hào của mình và tiếp tục phát huy trong điều kiện mới. Nhân những dịp kỷ niệm như thế, các cấp Hội phụ nữ tổ chức các phong trào “Về nguồn”, thể hiện tinh thần đền ơn đáp nghĩa, truyền thống "Uống nước nhớ nguồn”của quê hương. Đặc biệt phải tổ chức tuyên truyền “Ngày gia đình” 28/6, tuyên truyền về chuẩn mực người phụ nữ Việt Nam trong thời kỳ CNH, HĐH để phụ nữ phấn đấu vươn lên trở thành người phụ nữ mới xây dựng gia đình “no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc”. Giáo dục truyền thống trong môi trường gia đình-nhà trường-xã hội có tác dụng to lớn trong phát triển đạo đức của người phụ nữ. Song, quá trình đó chỉ đạt được hiệu quả tốt nếu người phụ nữ biến nó thành quá trình tự giáo dục cho mình. Tự giáo dục đạo đức truyền thống ở người phụ nữ được thể hiện thông qua sự nhận thức, tình cảm, tâm lý, lối sống của họ. Từ nhận thức đúng đắn về giá trị đạo đức truyền thống, mỗi người phụ nữ biến nó thành tình cảm và thể hiện qua hành vi, lối sống, tham gia sôi nổi vào các phong trào thi đua yêu nước hoà cùng khí thế của phong trào “Đồng khởi mới”. Phụ nữ phải tự khẳng định vị trí, vai trò của mình bằng chính năng lực và trình độ của bản thân, kế thừa có chọn lọc những truyền thống quý báu và nâng cao ý nghĩa của chúng trong cuộc sống hiện tại. Có thể nói, việc coi trọng giáo dục và tự giáo dục đạo đức truyền thống đối với phụ nữ là giải pháp hữu hiệu để người phụ nữ Bến Tre phát huy hơn nữa những giá trị đạo đức truyền thống của mình và của quê hương, bởi lẽ chính người phụ nữ là chủ thể trực tiếp của quá trình đó. Thứ hai, không ngừng nâng cao trình độ nhận thức về mọi mặt cho người phụ nữ. Đó là điều kiện đảm bảo để phụ nữ Bến Tre kế thừa và phát huy các giá trị đạo đức truyền thống của mình trong giai đoạn hiện nay. Để nâng cao trình độ nhận thức về mọi mặt cho phụ nữ, trước hết phải tăng cường giáo dục - đào tạo cho phụ nữ nhằm nâng cao trình độ học vấn của họ. Hiện nay, trình độ học vấn của phụ nữ Bến Tre nhìn chung rất thấp gây nên khó khăn nhất định trong việc nhận thức. Do đó, phải chú trọng đến việc phổ cập giáo dục tiểu học cho trẻ em gái, đặc biệt là ở nông thôn. Bến Tre đã hoàn thành sớm chương trình xoá mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học, đang thực hiện chương trình phổ cập giáo dục trung học cơ sở. Tuy nhiên, số phụ nữ và trẻ em gái tái mù chữ vẫn còn. Vì vậy, các cấp Hội phải phối hợp thường xuyên và chặt chẽ với ngành giáo dục, Bộ đội Biên phòng, các đoàn thể,... tổ chức các lớp học tình thương, lớp xoá mù chữ, lớp phổ cập giáo dục tiểu học, động viên phụ nữ và trẻ em gái tham gia. Đồng thời thường xuyên phát động phong trào học bổng Nguyễn Thị Định để giúp đỡ những học sinh nghèo vượt khó, học giỏi nhất là các em có nguy cơ bỏ học, tạo điều kiện khuyến khích cho trẻ em gái học hết phổ thông trung học và đào tạo nghề chuyên môn. Ngoài ra, trong kế hoạch giáo dục - đào tạo phải nâng tỉ lệ học sinh nữ ở trung học cơ sở và phổ thông trung học, nâng dần tỉ lệ nữ sinh viên và tỉ lệ lao động nữ qua đào tạo. Đặc biệt, phải coi trọng phát hiện và bồi dưỡng năng khiếu cá nhân phụ nữ để đào tạo nhân tài cho quê hương, đất nước. Vấn đề giáo dục có tác dụng to lớn đối với sự phát triển đạo đức của người phụ nữ, bởi lẽ, sự hiểu biết luôn là ngọn nguồn của tính tự giác. Khi trình độ học vấn được nâng cao giúp phụ nữ có được sự nhận thức đúng đắn, hiểu biết về những quy tắc, chuẩn mực đạo đức. Từ đó họ biết đánh giá, lựa chọn những giá trị đạo đức và điều chỉnh thái độ, hành vi theo những giá trị ấy. Song, sự hiểu biết về đạo đức đòi hỏi phải gắn liền với tình cảm và niềm tin đạo đức. Có như thế mới giúp người phụ nữ chiến thắng những cám dỗ, vượt qua những khó khăn, thử thách trong cuộc sống, tự nguyện giữ gìn và phát huy những giá trị đạo đức của mình. Cùng với việc tăng cường giáo dục - đào tạo nâng cao trình độ học vấn cho phụ nữ, phải chú trọng công tác tuyên truyền, phổ biến đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, học tập tư tưởng Hồ Chí Minh đến với phụ nữ, nhất là phụ nữ nông thôn. Tuyên truyền Nghị quyết Đại hội phụ nữ các cấp, kiến thức về giới, công ước cedaw, chiến lược quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ... Thường xuyên tổ chức truyền thông rộng rãi trao đổi, toạ đàm về chuẩn mực người phụ nữ trong thời kỳ mới, về phòng, chống bạo hành trong gia đình; về vai trò phụ nữ trong phòng, chống tệ nạn xã hội từ gia đình, phòng chống xâm hại tình dục trẻ em. Phải thường xuyên phổ biến giáo dục pháp luật cho phụ nữ, tổ chức cho phụ nữ học tập những điểm chính về Luật Hôn nhân và gia đình, Luật Đất đai, luật Dân sự, Pháp lệnh dân số,... nhằm nâng cao ý thức pháp luật ở người phụ nữ, giúp họ không đi vào con đường tệ nạn, phạm pháp. Để công tác giáo dục, tuyên truyền nhằm nâng cao trình độ nhận thức của người phụ nữ đạt hiệu quả, phải tổ chức thông qua những cuộc thi với nội dung phong phú và sinh động, thu hút đông đảo phụ nữ tham gia như: Hội thi tuyên truyền viên; cán bộ Hội giỏi; phụ nữ với kiến thức pháp luật; thi tìm hiểu về Giới và bình đẳng giới... Như thế, phụ nữ mới có thể tiếp cận được các hoạt động tuyên truyền, giáo dục, bồi dưỡng để nâng cao trình độ về mọi mặt, đảm bảo cho quá trình kế thừa và phát huy những giá trị đạo đức truyền thống của giới mình. Kết luận Giá trị đạo đức truyền thống của phụ nữ Bến Tre không nằm ngoài những giá trị đạo đức truyền thống của phụ nữ Việt Nam. Song, nó được hình thành và biểu hiện với những sắc thái riêng bởi điều kiện lịch sử, điều kiện sinh hoạt vật chất của vùng đất ba dải cù lao. Truyền thống ấy gắn liền với lịch sử hình thành và phát triển của quê hương, từ buổi đầu khai hoang mở đất cho đến các thời kỳ đấu tranh cách mạng, nhất là trong cuộc đấu tranh chống Mỹ cứu nước của nhân dân. Khi đất nước thống nhất, chính những truyền thống quý báu ấy đã giúp người phụ nữ Bến Tre vượt qua mọi khó khăn thử thách để hàn gắn vết thương chiến tranh và xây dựng lại quê hương. Ngày nay, trước yêu cầu của sự nghiệp CNH, HĐH, đòi hỏi phải kế thừa và phát huy hơn nữa những giá trị đạo đức truyền thống của người phụ nữ Bến Tre. Đó là một trong những yếu tố quan trọng của sự nghiệp xây dựng người phụ nữ mới với đầy đủ những phẩm chất: yêu nước, có tri thức, năng động, sáng tạo, có sức khoẻ, có lối sống văn hoá, có lòng nhân hậu, vì lợi ích cộng đồng và xã hội. Đồng thời, nó còn là nhân tố góp phần to lớn để Bến Tre phát huy nội lực của tỉnh nhà thực hiện thắng lợi phong trào “Đồng khởi mới”. Dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ và chính quyền các cấp, phụ nữ Bến Tre đã phát huy mạnh mẽ truyền thống “Đồng khởi” của quê hương, truyền thống "anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang" của "đội quân tóc dài", phấn đấu vươn lên trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, góp phần quan trọng vào sự nghiệp phát triển của quê hương, đất nước. Tuy nhiên, trong quá trình đó, người phụ nữ chịu sự tác động mạnh mẽ của điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan, của những yếu tố bên ngoài và của chính địa phương, làm ảnh hưởng đến các giá trị đạo đức truyền thống và quá trình kế thừa, phát huy chúng trong giai đoạn hiện nay. Đồng thời làm nảy sinh những mâu thuẫn của chính quá trình đó. Thứ nhất, mâu thuẫn giữa sự phát triển kinh tế của tỉnh nhà với vấn đề việc làm, thu nhập của người phụ nữ. Thứ hai, mâu thuẫn giữa sự tồn tại trên thực tế những tệ nạn trong gia đình và xã hội với yêu cầu phát triển đạo đức của người phụ nữ Bến Tre. Thứ ba, mâu thuẫn giữa sự nghiệp phát triển và giải phóng phụ nữ với gánh nặng gia đình và xã hội ngày càng tăng đối với phụ nữ. Thứ tư, mâu thuẫn giữa sự hạn chế trình độ nhận thức của người phụ nữ với quá trình giữ gìn, kế thừa và phát huy những giá trị đạo đức truyền thống của giới mình. Để giải quyết những mâu thuẫn trên một cách có hiệu quả, phải thực hiện đồng bộ các nhóm giải pháp: kinh tế-xã hội, chính trị và nhóm giải pháp văn hoá giáo dục. Từ đó tạo nên tiền đề vật chất và tinh thần phát huy mạnh mẽ những giá trị đạo đức truyền thống của người phụ nữ Bến Tre. Những giá trị ấy luôn là cội nguồn, là sức mạnh để người phụ nữ vượt qua những khó khăn, thử thách, ngăn ngừa, khắc phục những phản giá trị đạo đức, góp phần hoàn thiện nhân cách người phụ nữ Bến Tre hôm nay. Với vai trò to lớn và truyền thống đáng tự hào của phụ nữ Bến Tre, tác giả luận văn xin kiến nghị: - Bến Tre cần có những công trình nghiên cứu sâu hơn về vai trò và nét đặc thù của người phụ nữ Bến Tre. Đó sẽ là nguồn tài liệu quý báu để những thế hệ phụ nữ mai sau hiểu rõ hơn về truyền thống của giới mình. - Cần đẩy mạnh công tác giáo dục truyền thống quê hương, truyền thống phụ nữ Bến Tre cho các tầng lớp phụ nữ. - Các cấp lãnh đạo cần quan tâm hơn nữa việc kế thừa và phát huy giá trị đạo đức truyền thống của người phụ nữ Bến Tre. Danh mục tài liệu tham khảo Bách khoa thư Triết học (1967), tập 4, Nxb Bách khoa thư Xô viết, Mátxcơva. Báo Đồng khởi (2005), Số đặc biệt kỷ niệm 30 năm ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng. Huỳnh Văn Be (2005), "Phát huy tinh thần Đồng khởi, Bến Tre đổi mới công tác xây dựng Đảng để thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển", Tạp chí Cộng sản, (7), tr.7. Nguyễn Trọng Chuẩn (1998), "Vấn đề khai thác các giá trị truyền thống vì mục tiêu phát triển", Tạp chí Triết học, (2), tr.16-19. Nguyễn Trọng Chuẩn (2002), Giá trị truyền thống trước những thách thức của toàn cầu hóa, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Nguyễn Trọng Chuẩn - Nguyễn Văn Phúc (2003), Mấy vấn đề đạo đức trong điều kiện kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Đại Bách khoa toàn thư Liên Xô (1975), tập 20, Nxb Bách khoa thư Xô viết, Mátxcơva. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Nxb Sự thật, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (1995), Nghị quyết 09 Bộ Chính trị về một số định hướng lớn trong công tác tư tưởng hiện nay. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương (khóa VIII), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam, Tỉnh ủy Bến Tre (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Bến Tre lần thứ VI. Đảng Cộng sản Việt Nam, Tỉnh ủy Bến Tre (2000), Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Bến Tre lần thứ VII. Trần Văn Giàu (1980), Giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. Phạm Minh Hạc (1994), Vấn đề con người trong công cuộc đổi mới, Chương trình khoa học - công nghệ KX.07, Hà Nội. Lê Thị Minh Hiệp (2000), Kế thừa và phát huy giá trị đạo đức truyền thống của phụ nữ Việt Nam trong tình hình hiện nay, Luận văn thạc sĩ Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. Hồ Chủ tịch với vấn đề giải phóng phụ nữ (1970), Nxb Phụ nữ, Hà Nội. Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam (2002), Văn kiện Đại hội đại biểu phụ nữ toàn quốc lần thứ IX, Nxb Phụ nữ, Hà Nội. Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam tỉnh Bến Tre (2001), Văn kiện Đại hội phụ nữ tỉnh Bến Tre lần thứ VI, nhiệm kỳ (2001-2006). Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam tỉnh Bến Tre (2004), Báo cáo đánh giá giữa nhiệm kỳ kết quả thực hiện Nghị quyết Đại hội phụ nữ toàn quốc lần thứ IX (02/2002 - 06/2004). Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam tỉnh Bến Tre (2004), Báo cáo thành tích cán bộ, hội viên và phong trào phụ nữ tỉnh Bến Tre (2000-2004). Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam tỉnh Bến Tre (2004), Báo cáo tổng kết công tác hội và phong trào phụ nữ năm 2004. Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam tỉnh Bến Tre (2005), Báo cáo sơ kết công tác hội và phong trào phụ nữ quý I, Chương trình công tác quý II năm 2005. Vũ Khiêu (1993), Mấy vấn đề văn hóa và phát triển ở Việt Nam hiện nay, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. Nguyễn Thế Kiệt (2001), ảnh hưởng của đạo đức phong kiến trong cán bộ lãnh đạo quản lý của Việt Nam hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Nguyễn Thế Kiệt (2003), Đạo đức người cán bộ lãnh đạo chính trị trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay - Thực trạng và xu hướng biến động, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ. Trần Trọng Kim (2003), Việt Nam sử lược, Nxb Đà Nẵng. Nguyễn Thị Lan (2001), Phát huy giá trị đạo đức truyền thống dân tộc trong việc xây dựng đạo đức mới cho người phụ nữ Việt Nam hiện nay, Luận văn thạc sĩ Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. V.I.Lênin (1981), Toàn tập, tập 29, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva. V.I.Lênin (1977), Toàn tập, tập 41, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva. Liên đoàn Lao động tỉnh Bến Tre (2005), Báo cáo tổng kết 5 năm phong trào "Giỏi việc nước, đảm việc nhà" trong công nhân viên chức - lao động tỉnh Bến Tre (2001 - 2005). Nguyễn Ngọc Long (1990), "Tinh thần cách mạng và đạo đức Bác Hồ - ánh sáng soi đường cho sự nghiệp đổi mới", Nghiên cứu lý luận, (3), tr.5-10. Nguyễn Văn Lý (2000), Kế thừa và đổi mới các giá trị đạo đức truyền thống trong quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay, Luận án tiến sĩ Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. C.Mác - Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. C.Mác - Ph.Ăngghen (19953, Toàn tập, tập 8, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. C.Mác - Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 19, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. C.Mác - Ph.Ăngghen (1994), Toàn tập, tập 20, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. C.Mác - Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 21, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 9, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 10, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Nguyễn Chí Mỳ (1999), Sự biến đổi của thang giá trị đạo đức trong nền kinh tế thị trường với việc xây dựng đạo đức mới cho cán bộ quản lý ở nước ta hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Trần Sỹ Phán (2000), "Một số vấn đề về đạo đức trong "Chống Đuy Rinh" của Ph.Ăngghen", Nghiên cứu lý luận, (11), tr.10. Trần Sỹ Phán (2004), "Tư tưởng Hồ Chí Minh về những yêu cầu đạo đức đối với người cán bộ lãnh đạo quản lý", Giáo dục lý luận, (6), tr.10. Nguyễn Hồng Phong (1963), Tìm hiểu tính cách dân tộc, Nxb Khoa học, Hà Nội. Thạch Phương (biên soạn) (1993), Nhớ chị Ba Định, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. Thạch Phương (biên soạn) (2000), Phụ nữ Bến Tre, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh. Thạch Phương - Đoàn Tứ (chủ biên) (2001), Địa chí Bến Tre, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. Lê Thi - Đỗ Thị Bình (1997), Mười năm bước tiến bộ của phụ nữ Việt Nam (1985-1995), Nxb Phụ nữ, Hà Nội. Lê Thi (2000), "Phụ nữ Việt Nam bước vào thế kỷ XXI", Tạp chí Cộng sản, (20), tr.38-41. Lê Thi (2004), "Về chuẩn mực người phụ nữ mới thời hiện đại", Khoa học về phụ nữ, (3), tr.41-46. Lê Thị Vinh Thi (chủ biên) (1998), Chính sách xã hội đối với phụ nữ nông thôn (Quy trình xây dựng và thực hiện), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. Dương Thoa (1982), Bác Hồ với phong trào phụ nữ Việt Nam, Nxb Phụ nữ, Hà Nội. Tỉnh ủy Bến Tre (2004), Báo cáo tổng kết 10 năm thực hiện Chỉ thị 37-CT/TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng khóa VII "về một số vấn đề công tác cán bộ nữ trong tình hình mới". Lê Thị Nhâm Tuyết (1973), Phụ nữ Việt Nam qua các thời đại, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. Từ điển Tiếng Việt (1988), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. Nguyễn Quang Uẩn (1994), Giá trị - định hướng giá trị nhân cách và giáo dục giá trị, Đề tài KX.07.04. ủy ban nhân dân tỉnh Bến Tre, Ban Chỉ đạo điều tra lao động, việc làm (2002), Thực trạng lao động, việc làm Bến Tre. ủy ban nhân dân tỉnh Bến Tre (2004), Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội 2004 và phương hướng, nhiệm vụ 2005. ủy ban quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam (2002), Chiến lược quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam đến năm 2010, Nxb Phụ nữ, Hà Nội. ủy ban quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam (2002), Kế hoạch hành động vì sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam đến năm 2005. Trần Quốc Vượng (2000), Truyền thống phụ nữ Việt Nam, Nxb Văn hóa - dân tộc, Hà Nội. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLA2437.doc
Tài liệu liên quan