a-/ Lời nói đầu
Sau hơn 10 năm thực hiện đường lối đổi mới toàn diện, đất nước ta đã vượt qua một giai đoạn thử thách gay go. Trong những hoàn cảnh hết sức phức tạp, khó khăn, nhân dân ta không những đứng vững mà còn vươn lên, đạt những thắng lợi nổi bật trên nhiều mặt. Để có được những kết quả đó không thể không kể đến vai trò kinh tế hết sức quan trọng của nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Thực tế đã chứng minh điều khẳng định trên là hoàn toàn đúng
35 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1445 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Vai trò quản lý kinh tế của nhà nước trong nền Kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
đắn. Nước ta đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế xã hội, tình trạng đình đốn trong sản xuất, rối ren trong lưu thông được khắc phục. Kinh tế tăng trưởng nhanh và ổn định, nhịp độ tăng tổng sản phẩm trong nước (GDP) bình quân hàng năm thời kỳ 1991-1995 đạt 8,2%, lạm phát bị đẩy lùi từ 774,7% năm 1986 xuống còn 67,1% năm 1991; 12,7% năm 1995. Lương thực không những đủ ăn mà còn xuất khẩu được mỗi năm khoảng 2 triệu tấn gạo. Đời sống vật chất và tinh thần của đại bộ phận nhân dân được cải thiện. Lòng tin của quần chúng nhân dân với Đảng được củng cố. Bên cạnh đó, chúng ta cũng còn nhiều vấn đề tồn đọng và yếu kém cần giải quyết: nền kinh tế của đát nước còn nghèo và chậm phát triển, tình hình xã hội còn nhiều tiêu cực, quản lý nhà nước còn nhiều thiếu sót, cồng kềnh.
Tuy vậy, đến nay, thế và lực của nước ta đã có sự biến đổi rõ rệt về chất. Đó là do chúng ta đã vận dụng cơ chế thị trường một cách đúng đắn, sáng tạo, phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh lịch sử cụ thể của Việt Nam. Từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung mang nặng tính hiện vật, tự cung tự cấp, vận hành theo cơ chế chỉ huy chuyển sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước, nền kinh tế nước ta phải trải qua thời kỳ quá độ - đó là thời kỳ cơ chế cũ chưa hoàn toàn mất đi, cơ chế mới chưa thực sự ra đời. Vì vậy chúng ta phải đối mặt với rất nhiều khó khăn và thử thách. Trong điều kiện đó, vai trò kinh tế của nhà nước cực kỳ quan trọng. Lý do để nhà nước can thiệp vào nền kinh tế là do có những trục trặc của thị trường. Đôi khi thị trường không phân bố các nguồn lực một cách có hiệu quả và sự can thiệp của chính phủ có thể cải thiện các hoạt động kinh tế. Chính phủ đặt ra các qui định về luật pháp và trong việc đảm bảo tài chính cho mình, thông qua đánh thuế và vay mượn, chính phủ gây một ảnh hưởng rất lớn tới giá cả, lãi xuất và sản xuất. Tuy nhiên, chính phủ cũng không thể kiểm soát nền kinh tế một cách hoàn hảo, nhưng chính phủ có thể kiểm soát phần lớn tổng chi và lượng tiền trong nền kinh tế do đó chính phủ sẽ có những quyết định đúng đắn vào những thời điểm cần thiết. Với nước ta, quản lý nhà nước vừa đảm bảo định hướng xã hội chủ nghĩa vừa thiết lập kỷ cương trong các hoạt động kinh tế, là điều kiện của ổn định và phát triển kinh tế.
b-/ giải quyết vấn đề
chương I
tính tất yếu khách quan vai trò quản lý kinh tế vi mô của Nhà nước trong nền kinh tế
I-/ Vai trò kinh tế của Nhà nước trong các giai đoạn lịch sử:
1-/ Nhà nước chủ nô:
Nhà nước chủ nô có từ rất sớm trong lịch sử xuất hiện từ thời kỳ chiếm hữu nô lệ. Nhà nước chủ nô ra đời và trực tiếp dùng quyền lợi của mình nhằm can thiệp vào việc phân phối của cải được sản xuất ra. Tuy rằng thời bấy giờ những người nô lệ làm ra sản phẩm nhưng dưới sự chỉ huy của Nhà nước thì khối lượng lớn của cải đó không phân phối cho nô lệ mà bị giai cấp chủ nô chiếm đoạt bằng bạo lực lúc này Nhà nước có vai trò được làm công cụ cho bọn chủ nô điều khiển, cưỡng bức kinh tế.
2-/ Phong kiến:
Nhà nước lúc này không chỉ can thiệp vào việc phân phối sản phẩm mà còn đứng ra hợp lực xây dựng kết cấu hạ tầng cho sản xuất nông nghiệp lúc này Nhà nước đã khuyến khích nhân dân đi tìm các vùng đất mới thích hợp để gieo trồng. ở Việt Nam đã có sự can thiệp của Nhà nước từ rất sớm thế kỷ thứ X trước công nguyên. Cơ sở kinh tế của Nhà nước phong kiến là sở hữu của địa chủ phong kiến đối với ruộng đất cũng như các loại tư liệu sản xuất khác và sở hữu cá thể của nông dân trong sự lệ thuộc vào địa chủ.
Nhà nước phong kiến là công cụ chuyên chính của giai cấp phong kiến là phương tiện để giai cấp phong kiến duy trì địa vị kinh tế của mình và thực hiện quyền thống trị đối với toàn xã hội.
3-/ Tư sản:
Trên thế giới vào thế kỷ XV xuất hiện các nhà tư bản quá trình tích luỹ nguyên thuỷ được thực hiện nên kinh tế thị trường dần dần hình thành. Nhằm giúp các nền kinh tế của mình phát triển nhanh, tất nhiên giai cấp tư sản phải thực hiện thúc đẩy, vai trò quan trọng của Nhà nước tư sản như là một “bà đỡ” bởi vậy ngày càng xác định rõ vai trò của giai cấp tư sản và nâng cao dần dần.
Sự quản lý Nhà nước cũng rất khác tức là hết sức nghiêm ngặt, họ quản lý chặt chẽ vốn của mình, họ tìm cách giữ chặt nguồn vốn của mình không để chạy tuột ra nước ngoài, Nhà nước của các nước tư bản giai đoạn này đã đề ra luật buộc các thương nhân nước ngoài không được mang tiền ra khỏi nước họ, chỉ mang hàng mà thôi. Nhà nước còn quy định những nơi được phép buôn bán để dễ dàng cho việc kiểm soát của mình. Các chính sách để có số nhân tiền lớn, tạo ra một lượng tiền nhỏ chạy ra ngoài lưu thông và quay vòng vốn nhanh, có hiệu quả. Trong chính sách ngoại thương họ dùng hàng rào thuế quan bảo hộ, đánh thuế nhập khẩu cao và thuế nhập khẩu các hàng sản xuất trong nước thấp chỉ xuất thành phẩm chứ không xuất nhiên liệu, cũng như các hàng xa xỉ phẩm. Mặt khác Nhà nước còn thực hiện việc hỗ trợ cho các thương nhân trong nước các phương tiện vật chất, tài chính khi họ tham gia buôn bán quốc tế. Đồng thời với nó Nhà nước quy định chặt chẽ tỷ giá hối đoái cấm trả cho người nước ngoài cao hơn mức giá đó. Nhờ vậy mà các nước tư bản đã tích luỹ được một lượng của cải, tiền tệ đáng kể. Đầu thế kỷ XVIII giai cấp tư sản tập trung phát triển mạnh lĩnh vực sản xuất nhờ áp dụng công nghệ mới, nền sản xuất của các nước tư bản phát triển rất nhanh, các nhà tư bản đua nhau mở rộng quy mô sản xuất. Tự do cạnh tranh đã trở thành đòi hỏi cấp thiết trong đời sống của nền kinh tế này.
4-/ Nhà nước Xã hội chủ nghĩa:
Nhà nước Xã hội chủ nghĩa (XHCN) là Nhà nước kiểu mới không dựa trên cơ sở tư hữu tư nhân về tư liệu sản xuất mà có nhiệm vụ bảo vệ sở hữu toàn dân và các hình thức sở hữu hợp pháp khác.
Quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa (TBCN) ở thời kỳ đầu mới xuất hiện đã tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển lực lượng sản xuất. Khi CNTB phát triển đến giai đoạn tột cùng của nó là chủ nghĩa đế quốc khi mà lực lượng sản xuất đã phát triển ở trình độ xã hội hoá tương đối cao thì quan hệ sản xuất TBCN dựa trên chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất và bóc lột giá trị thặng dư, đã trở nên mâu thuẫn không còn phù hợp với lực lượng sản xuất đã phát triển. Mâu thuẫn đó đòi hỏi một cuộc cách mạng để thay đổi quan hệ sản xuất (QHSX). Cuộc cách mạng về QHSX ấy tất yếu dẫn đến sự thay đổi Nhà nước.
Mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và QHSX biểu hiện về mặt xã hội là mâu thuẫn giữa giai cấp tư sản và giai cấp vô sản. Nền sản xuất TBCN đã tạo ra những tiền đề làm cho giai cấp vô sản phát triển mạnh mẽ về số lượng cũng như về tính tổ chức, kỷ luật. Giai cấp vô sản trở thành giai cấp tiên tiến nhất trong xã hội có sứ mạng lịch sử là lãnh đạo các tầng lớp nhân dân lao động làm cách mạng, xoá bỏ Nhà nước tư sản, xây dựng Nhà nước XHCN.
Bản chất của Nhà nước XHCN do cơ sở kinh tế và đặc điểm về quyền lực trong CNXH quyết định. Cơ sở kinh tế của Nhà nước XHCN là tổng thể các QHSX được hình thành trên nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, phát triển theo định hướng XHCN trước sự lãnh đạo của Đảng, của giai cấp công nhân. Các kiểu Nhà nước khác trong lịch sử đều dựa trên cơ sở kinh tế là chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất.
Nhà nước XHCN là Nhà nước kiểu mới có nhiệm vụ bảo vệ sở hữu toàn dân về tư liệu sản xuất, là công cụ bảo vệ và đảm bảo quyền lợi của giai cấp công nhân, nông dân, trí thức XHCN.
II-/ Các lý thuyết về vai trò kinh tế của Nhà nước của các nhà kinh tế học cổ điển, tân cổ điện, Keynes:
1-/ Các nhà kinh tế học cổ điển:
Mầm mống tư tưởng tự do kinh tế được tiếp tục phát triển trong lý thuyết tự nhiên của phái trọng nông ở Pháp. Song nổi bật là A. Smith (1723-1790) một nhà kinh tế học nổi tiếng người Anh, Ông đã đưa ra lý thuyết “Bàn tay vô hình” và nguyên lý “Nhà nước không can thiệp” vào tổ chức nền kinh tế hàng hoá. Theo ông phát triển kinh tế cần tuân theo nguyên tắc tự do. Sự hoạt động của toàn bộ nền kinh tế là do các quy luật khách quan tự phát chi phối sự hoạt động của thị trường, là do quan hệ cung cầu và sự biến đổi tự phát của giá cả hàng hoá trên thị trường quyết định quan hệ giữa người với người là quan hệ lợi ích kinh tế. Ông còn cho rằng mỗi người hoạt động chỉ nhằm lợi ích của bản thân, song do “Bàn tay vô hình” chi phối buộc con người phải phục tùng lợi ích chung của xã hội và điều này nằm ngoài ý định của các nhà kinh doanh. Để cho nền kinh tế phát triển lành mạnh Nhà nước không nên can thiệp vào kinh tế thị trường, vào hoạt động của các doanh nghiệp.
Mặc dù coi trọng “Bàn tay vô hình” song A. Smith cũng cho rằng đôi khi Nhà nước cũng có những nhiệm vụ kinh tế nhất định, đó là trong các trường hợp các nhiệm vụ kinh tế vượt quá khả năng của một doanh nghiệp như làm đường, xây bến cảng, đào các con kênh lớn,...
Thực tế chỉ ra là nền kinh tế muốn phát triển nhanh đòi hỏi đất nước phải có một cơ sở hạ tầng (phục vụ sản xuất và đời sống) hiện đại. Điều này đã làm cho các nhà kinh tế học thời kỳ này thấy rằng: nền kinh tế phát triển càng cao xã hội hoá càng mở rộng, thị trường càng phát triển, càng cần có sự quản lý kinh tế của Nhà nước đối với nền kinh tế. Song, họ vẫn coi tự do kinh tế là sức mạnh của nền kinh tế thị trường, quy luật kinh tế là vô địch, mặc dù chính sách kinh tế có thể làm kìm hãm hay thúc đẩy ở mức độ nhất định sự hoạt động của nó.
Nhưng vào những năm 30 của thế kỷ XX, những cuộc khủng hoảng kinh tế nổ ra thường xuyên đặc biệt là cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới (1929-1933) cho thấy “Bàn tay vô hình” không thể đảm bảo những điều kiện ổn định cho kinh tế thị trường phát triển. Thêm vào đó trình độ xã hội hoá phát triển ngày càng cao đã chỉ cho các nhà kinh tế thấy rằng: cần phải có một lực lượng nhân danh xã hội can thiệp vào quá trình hoạt động của nền kinh tế, điều tiết nền kinh tế.
2-/ Quan điểm của Keynes:
Nhà kinh tế học người Anh John Meynard Keynes (1884-1946) đã đưa ra lý thuyết nền kinh tế thị trường. Theo J.M Keynes sự tăng lên của sản xuất sẽ dẫn đến sự tăng lên của thu nhập, do đó làm tăng tiêu dùng. Song do khuynh hướng “tiêu dùng giới hạn” nên tiêu dùng tăng chậm hơn so với thu nhập. Vì vậy cầu tiêu dùng giảm tương đối, sự giảm cầu tiêu dùng sẽ kéo theo sự giảm sút của hàng hoá, từ đó làm cho tỷ suất lợi nhuận giảm xuống. Và khi tỷ suất lợi nhuận nhỏ hơn hoặc bằng lãi suất thì các chủ doanh nghiệp sẽ không có lợi trong việc vay vốn để đầu tư, họ sẽ không đầu tư vào sản xuất kinh doanh nữa. Điều này sẽ dẫn đến nền kinh tế từ chỗ trì trệ, khủng hoảng và làm cho nạn thất nghiệp ngày càng gia tăng. Để khắc phục tình trạng đó, Nhà nước phải can thiệp vào nền kinh tế và thị trường, phải huy động được các nguồn tư bản nhàn rỗi để mở mang các hoạt động sản xuất kinh doanh, giải quyết công ăn việc làm và tăng thu nhập cho dân cư, làm cho nhu cầu về cầu tăng lên, giá cả hàng hoá tăng, thu nhập tăng, tăng hiệu quả của tư bản đầu tư. Điều đó khuyến khích mở rộng đầu tư làm cho sản xuất tăng nhanh nhờ đó mà có điều kiện đẩy lùi khủng hoảng và tình trạng thất nghiệp.
J.M Keynes và trường phái của ông cho rằng Nhà nước can thiệp vào kinh tế cả tầm vi mô và vĩ mô. ở tầm vĩ mô, Nhà nước sử dụng các công cụ như lãi suất, chính sách tín dụng, điều tiết lưu thông tiền tệ, lạm phát, thuế, bảo hiểm, trợ cấp, đầu tư phát triển,... ở tầm vi mô Nhà nước trực tiếp phát triển các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh và dịch vụ công cộng.
Trường phái Keynes cho rằng sự can thiệp của Nhà nước là tuyệt đối không một cá nhân nào có thể thay thế.
3-/ Quan điểm hỗn hợp của Paul Samuelson - Sự phối hợp giữa “Bàn tay vô hình” và “Bàn tay hữu hình”:
Paul Samuelson nhà kinh tế học người Mỹ thuộc trường phái hiện đại. Ông có tư tưởng kết hợp “Bàn tay vô hình” với chức năng quản lý kinh tế Nhà nước để điều tiết nền kinh tế thị trường. Ông cho rằng điều hành một nền kinh tế không có cả Chính phủ lẫn thị trường cũng như định vỗ tay bằng một bàn tay. Cơ chế thị trường xác định giá cả trong nhiều lĩnh vực trong khi Nhà nước điều tiết thị trường bằng các chương trình thuế, chi tiêu và luật lệ. Cả thị trường có tầm quan trọng ngang nhau. Sự phối hợp đó tạo nên nền kinh tế hỗn hợp.
4-/ Trường phái “Kinh tế thị trường xã hội”:
Trường phái này cũng mang tính chất hỗn hợp “Bàn tay vô hình” của thị trường và “Bàn tay hữu hình” của Nhà nước. Tuy vậy tư tưởng can thiệp của Nhà nước cũng rất đa dạng. Các nhà tư tưởng chủ nghĩa tự do muốn phát triển kinh tế tự do, Nhà nước chỉ can thiệp mức độ nhất định. Quan điểm của họ là tự do thị trường nhiều hơn, Nhà nước can thiệp ít hơn. Trong khi đó các nhà tư tưởng Bắc Âu lại chủ trương tăng cường vai trò Nhà nước, đặc biệt trong lĩnh vực xã hội, xây dựng kiểu kinh tế thị trường xã hội.
Tư tưởng vai trò kinh tế Nhà nước được vận dụng vào các nước mang tính chất đặc thù. Như ở Mỹ ở đầu thế kỷ XX đã bắt đầu mở rộng sự can thiệp của Nhà nước liên bang đối với nền kinh tế. Vai trò của Chính phủ liên bang tạo ra môi trường tự do cạnh tranh, xây dựng các đạo luật chống độc quyền, kiểm soát các hoạt động kinh tế bằng các công cụ tài chính, tiền tệ, tổ chức ngân hàng thương mại, trong đó ngân hàng Trung ương vừa làm chức năng dự trữ, vừa làm chức năng điều tiết, kiểm soát lượng tiền tệ được cung ứng thông qua ngân hàng thương mại, xây dựng kết cấu hạ tầng của nền kinh tế, giao thông,...
ở Đức thì nền kinh tế thị trường được hình dung như một sân bóng trong đó mỗi doanh nghiệp là một cầu thủ Nhà nước đóng vai trò là trọng tài, là người thiết kế “luật chơi” và dùng “luật chơi” để điều khiển nền kinh tế sao cho nền kinh tế tránh những tai hoạ khủng hoảng, thất nghiệp, lạm phát. Nhà nước rất tôn trọng quyền tự do cạnh tranh trên thị trường của các chủ doanh nghiệp, và chỉ giữ ở mức độ tối thiểu Nhà nước coi trọng chỉ tiêu xã hội.
5-/ Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin:
Bất cứ Nhà nước nào cũng có vai trò và chức năng kinh tế. C. Mác coi quyền lực của Nhà nước như vai trò “bã đỡ” cho xã hội cũ thai nghén của xã hội mới. F. Ăngghen trong tác phẩm “Chống Đuy-ring” cũng nhấn mạnh rằng “Giai cấp vô sản chiếm lấy chính quyền Nhà nước và biến tư liệu sản xuất trước hết thành sở hữu Nhà nước” (Tuyển tập, tập V - NXB ST, HN 1983).
ở các thời kỳ khác nhau, ở các chế độ xã hội khác nhau, do tính chất Nhà nước khác nhau nên vai trò và chức năng kinh tế của Nhà nước có biểu hiện khác nhau,... Theo các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin thì sự khác nhau thể hiện ở những điểm sau đây:
Một là, các nhà nước trước CNTB, vai trò kinh tế chủ yếu là đặt ra chế độ thuế khoá - một chế độ đóng góp có tính cưỡng bước để nuôi sống Bộ máy cai trị thực hiện chức năng đối nội, điều hoà giai cấp, điều hoà sự xung đột và “Giữ cho sự xung đột đó nằm trong vòng trật tự” nhằm phục vụ lợi ích của giai cấp thống trị. Nguồn thu của thuế khoá còn nhằm thực hiện chức năng đối ngoại, bảo vệ lãnh thổ theo đó là bảo vệ lợi ích và mở rộng lợi ích của giai cấp thống trị khỏi bị xâm lược hoặc bị mất đi ở nước ngoài.
Hai là, đến Nhà nước tư sản vai trò kinh tế của Nhà nước không dừng lại ở thuế khoá, không chỉ đơn thuần là cơ quan cai trị ở bên ngoài. Bên trên quá trình sản xuất như F. Ăngghen đã nhận xét: “Nền văn mình mà tiến lên thì bản thân thuế má là không đủ nữa, Nhà nước phát hành hối phiếu, vay nợ tức là phát hành công trái” (C. Mác - Ăngghen tuyển tập, tập V).
Và sự xuất hiện sở hữu Nhà nước đã làm cho Nhà nước bắt đầu ở bên trong quá trình sản xuất. Nhà nước là: “Nhà tư bản tập thể lý tưởng. Nhà nước ấy càng chuyển nhiều lực lượng sản xuất thành tài sản của nó bao nhiêu thì nó lại càng biến thành tư bản tập thể thực sự bấy nhiêu và càng bóc lột công nhân bấy nhiêu”. (“Chống Đuy-ring” - C. Mác - Ăngghen, tập V - NXB Sự thật, 1982).
chương II
những đặc trưng cơ bản của nền kinh tế thị trường
I-/ Ưu, nhược điểm của nền kinh tế thị trường:
1-/ Ưu điểm:
Khi chúng ta nói được nhược điểm của nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp tức là ta đã chứng minh được rằng kinh tế thị trường có tiến bộ hơn, như vậy thì tiến bộ hơn ở chỗ nào? phải chăng đơn thuần chỉ là nền kinh tế tập trung được cải thiện hoá mà thôi.
Thứ nhất, kinh tế thị trường là nơi để diễn ra sự cạnh tranh, sự đào thải của cái cũ để dẫn đến đưa mọi sự vật phát triển cao hơn. Nói đến kinh tế thị trường là nói đến sự cạnh tranh kinh tế giữa các chủ thể tham gia kinh tế thị trường. Cạnh tranh là sự ganh đua giữa các chủ thể kinh tế trên thị trường, để giành sản xuất, tiêu dùng hàng hoá có lợi cho mình nhằm thu lợi nhuận cao nhất, là cạnh tranh đối với tất cả các ngành giữa người bán, người mua,...
Do vậy nền kinh tế thị trường kích thích việc áp dụng tiến bộ kỹ thuật để nâng cao năng suất lao động, để nâng cao trình độ xã hội hoá sản xuất giá thành rẻ, chất lượng cao, chỉ còn cách là nâng cao kỹ thuật công nghệ để cạnh tranh với các hãng khác nhằm tối đa hoá lợi nhuận. C.Mác cũng đánh giá vai trò lợi nhuận đối với các nhà tư bản với tư cách là chủ thể của nền kinh tế thị trường. Theo Mác, những nhà kinh doanh ghét cay ghét đắng tình trạng không có lợi nhuận hay lợi nhuận quá ít chẳng khác gì giới tự nhiện ghê sợ chân không. Vậy mà cuộc sống lại đi lên hàng ngày vấn đề phải thường xuyên áp dụng kỹ thuật mới, hợp lý hoá sản xuất làm cho năng suất lao động cá biệt và năng suất xã hội tăng lên. Nhờ đó mà nền kinh tế thị trường tuy mới ra đời mấy năm lại đây nhưng bề thế đã tạo cho mình khá dầy dặn là một khối lượng, lực lượng sản xuất xã hội cao chưa từng thấy trong lịch sử xã hội loài người.
Thứ hai, kinh tế thị trường có tính năng động và khả năng thích nghi nhanh chóng khi sản xuất một mặt hàng nào đó cái cần thiết là phải biết được thị hiếu của dân chúng, hãng nào sản xuất các mặt hàng lạ, đẹp mắt và hợp thời trang sẽ đạt nhiều lợi nhuận hơn. Muốn vậy có nhiều hình thức như quảng cáo, tiếp thị, thu nhập thông tin khi thấy mặt hàng của mình ít ưu chuộng hoặc là ưu chuộng giảm tức là cầu đang giảm dần thì người sản xuất phải ngừng ngay sản xuất lại. Chính điều đó dẫn tới sự tiết kiệm hao phí lao động xã hội vì vậy trong nền kinh tế thị trường luôn luôn diễn ra sự đổi mới. Nhiều sản phẩm trước đây vẫn bán nay mất đi vì không có nhu cầu, nhiều sản phẩm mới với chất lượng, quy cách ngày càng được hoàn thiện hơn.
Thứ ba, không kể tới nền kinh tế thị trường là một nền kinh tế có nhiều hàng hoá và dịch vụ. Đó là một nền kinh tế dư thừa chứ không phải thiếu hụt. Do nền kinh tế thị trường tạo điều kiện vật chất để thoả mãn ngày càng tốt hơn nhu cầu vật chất, văn hoá và sự phát triển toàn diện của con người.
Thứ tư, đó là nơi thúc đẩy xã hội hoá và tập trung dân chủ cao, phân phối thu nhập hợp lý. Đúng theo nguyên tắc làm nhiều hưởng nhiều, làm ít hưởng ít, không làm không hưởng.
Nhưng những mặt tốt của nó lại đi kèm những nhược điểm mà nó được gọi là những mặt trái của nền kinh tế thị trường.
2-/ Mặt trái của nền kinh tế thị trường:
Thứ nhất, nếu nói rằng thị trường là nơi mà các thông tin phải rất nhạy bén và chính xác thì chỉ cần một thông tin lệch lạc hay sự “lỡ” sản xuất dẫn đến sản xuất mù quáng gây ra các cuộc khủng hoảng thừa và thiếu nghiêm trọng, có những lúc thị trường khan hiếm, nhưng có nhiều lúc lại quá thừa dẫn đến tình trạng đổ đi một cách quá lãng phí.
Thứ hai, chính thị trường cạnh tranh đó làm cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ không theo kịp và tất nhiên sẽ có quá nhiều doanh nghiệp phải đi đến phá sản, phải đào thải công nhân, thất nghiệp tràn lan, dẫn đến các tệ nạn xã hội tăng lên đáng kể như: nghiện hút, cơ bạc,...
Thứ ba, cũng chỉ vì theo đuổi mục đích tối đa lợi nhuận mà các hãng kinh doanh sẽ chỉ đầu tư vào những ngành có lợi nhuận cao mà không quan tâm đến sự phát triển kinh tế như thế nào dẫn đến nền kinh tế có sự không cân đối giữa các ngành dịch vụ gây ra sự mất cân bằng.
Thứ tư, khi gắng gia tăng sản lượng cao nhất vô tình con người đã thải ra môi trường một lượng chất thải vượt xa với lượng chất thải mà môi trường có thể tự phân huỷ, bởi vậy ô nhiễm môi trường một cách nặng nền hơn thế có thể làm ảnh hưởng tới cuộc sống hay sức khoẻ con người sự tàn phá thiên nhiên một cách tàn nhẫn.
Thứ năm, ta không thể không nói đến vấn đề “độc quyền” trong nền kinh tế thị trường, chính sự độc quyền này làm gây ra rất nhiều những bức xúc và dẫn đến có thể làm đảo lộn nền kinh tế khi một công ty tung tiền ra với một lượng quá lớn sẽ gây ra lạm phát cao và gây ra sự mất hiệu quả của nền kinh tế, không có sự canh tranh giữa các doanh nghiệp với nhau mà chỉ có một mức giá cố định.
II-/ Những đặc trưng cơ bản của nền kinh tế thị trường:
Đây là những đặc trưng nội cộm nhất, tiêu biểu nhất của một nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường.
Có năm đặc trưng lớn:
Thứ nhất, đó là thể chế của những chủ thể tự chủ, tự do kinh doanh theo pháp luật, các thành phần kinh tế vừa cạnh tranh, vừa liên kết, hợp tác và phát triển xã hội hoá cao.
Thứ hai, khi ở nền kinh tế thị trường thông tin là một điều tối quan trọng và ngày càng đóng vai trò trực tiếp hướng dẫn sản xuất các hãng kinh doanh lựa chọn phương án sản xuất cho mình để ngày càng mở rộng quy mô sản xuất, lợi nhuận nhiều hơn hay có hiệu quả trong việc sử dụng các tài nguyên thiên nhiên, lựa chọn các phương án sản xuất bao gồm thời gian tiến hành, nơi tiến hành, thiết bị, lực lượng lao động,... tất cả những điều này là thể chế của những chủ thể tự chủ. Các hãng tự quyết định lấy hành vi của mình nhưng phải theo một khuôn khổ với sự quản lý vĩ mô của Nhà nước và tuân theo pháp luật. Do lợi nhuận các hãng luôn thay đổi các thiết bị, mẫu mã để cạnh tranh với các hãng khác, giành giật hợp đồng cũng như khách hàng. Nhưng trong nền kinh tế thị trường vẫn phải có khuôn phép, có luật bảo vệ. Ngoài ra, ở nền kinh tế thị trường không nên dàn đều các mặt quan trọng như một tổ chức ta sẽ phân công cho phát triển các vị trí then chốt, vị trí không thể thiếu được của cuộc sống, để tạo ra thế vững chắc, đồng đều và cân bằng.
Trong nền kinh tế thị trường điều thiết yếu là sở hữu cá nhân và tư nhân (về lao động, vốn, tài sản,...) được tôn trọng, đồng thời phải phát triển các hình thức sở hữu, hỗn hợp, đan xen trong các tổ chức kinh doanh. Đối với các tổ chức kinh tế quốc doanh ta nên tách quyền sở hữu tài sản của Nhà nước với quyền kinh doanh tài sản của doanh nghiệp. Riêng kinh tế hợp tác tự nguyện được khuyến khích và hỗ trợ. Làm sao cho các thành phần kinh tế phải được công bằng trước pháp luật.
Thứ ba, giá tự do tức giá thị trường, tự do hoá thương mại (ban đầu ở trong nước dần dần mở rộng ra thị trường ngoài nước) và cạnh tranh tạo mọi khả năng cho thị trường phát huy vai trò tự điều chỉnh sản xuất kinh doanh và cung cầu hàng hoá.
Sự sai lầm của chúng ta trong cơ chế cũ là Nhà nước quy định giá cho các mặt hàng, giá cả cứng nhắc, tiền lương thực tế không thay đổi khi gia tăng làm ảnh hưởng rõ rệt đến nền kinh tế là lạm phát quá cao gây lộn xộn mất ổn định của nền kinh tế. Và bây giờ khi chuyển sang một nền kinh tế mới, hơn hết chúng ta hãy để thị trường, doanh nghiệp tự quyết định hành vi của mình mà cho giá cả phù hợp cũng như tuỳ thuộc vào lượng cung cầu mà sản xuất kinh doanh. Thấy rõ khi cung lớn cầu ta phải ngừng sản xuất ngay để tiêu thụ hết tất cả các sản phẩm tồn kho, để tránh khủng hoảng thừa hay để lợi ích cận biên giảm. Khi cầu lớn hơn cung giá cả sẽ tăng và các hãng doanh nghiệp rất muốn mở rộng quy mô sản xuất.
Tuy rằng xã hội luôn mong muốn cầu và cung ở trạng thái cân bằng để tránh gây suy thoái hay gây lạm phát bằng các chính sách, các hình thức kinh tế, các hoạt động kinh tế, luật pháp, chế độ phân phối mà điều tiết cũng như hạn chế sao cho phù hợp. Các hình thức trợ giá hay phát hành cổ phiếu,... để hạn chế mặt trái của thị trường.
Thứ tư, trong khi điều hành nền kinh tế đừng đưa những quy định cứng nhắc, bảo thủ, cần hạn chế tối đa các mệnh lệnh hành chính để làm sao đưa nền kinh tế thị trường đúng như quy luật của thị trường tức là diễn ra theo các quy luật: quy luật cung cầu, quy luật giá trị, quy luật cạnh tranh nhằm diễn ra theo nguyên tắc vận hành chủ yếu. Nhưng không vì vậy mà ta bỏ mặc nền kinh tế thích ra sao thì ra mà vẫn phải có sự quản lý của Nhà nước để chỉnh hướng đi theo nền kinh tế có kế hoạch, có mục tiêu kinh tế xã hội. Bởi vậy ta không nên cô lập thị trường mà nên kết hợp nền kinh tế kế hoạch và nền kinh tế thị trường để đảm bảo chính sách kinh tế của nước nhà, suy cho cùng nền kinh tế thị trường không phải là vạn năng, có nhiều cái nó không thể làm được. Tầm quan trọng của kế hoạch ở năng lực điều chỉnh hành vi của nó, đó là khi ta dự đoán chính xác đưa ra các chính sách phương án và phương hướng phát triển nền kinh tế đưa cái nào là mũi nhọn như phát triển công nghiệp, sự nghiệp công ích mà thị trường không đoái hoài đến. Đồng thời là sự uốn nắn những sai lầm của thị trường loại bớt, giảm và hạn chế tối đa.
Thứ năm, mọi yếu tố sản xuất phải đi vào thị trường bởi nó tạo điều kiện cho nền kinh tế hoạt động bình thường phải đưa tất cả vào đừng vì bất cứ cái gì mà chần chừ. Tiếp tục đẩy mạnh cơ chế lưu thông hàng hoá xây dựng hệ thống thị trường thông suốt và thống nhất ở các thị trường hàng hoá dịch vụ, vốn, kỹ thuật, chứng khoán, bất động sản.
Đặc trưng xã hội cũng như vai trò xã hội to lớn của Nhà nước XHCN trở thành đặc trưng nổi bật của thể chế nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa mô hình kinh tế mà con người là nhân vật trung tâm.
Một nền kinh tế thị trường thành công không phải dừng lại đơn thuần là sự tăng trưởng kinh tế mà đi kèm với nó là không ngừng nâng cao chất lượng cuộc sống như lương và thu nhập thực tế tăng trưởng mạnh, y tế tăng, phân hoá giầu nghèo không còn rõ nét, không làm phương hại lớn đến chúng, mặt khác phải giữ vững vai trò cũng như bảo tồn nền văn hoá truyền thống của xã hội.
Muốn vậy khi quyết định ta phải nêu ra các chi tiêu cần phải đạt được về mặt giáo dục, y tế, việc làm, xoá đói giảm nghèo, lĩnh vực văn hoá xã hội, đảm bảo môi sinh môi trường, đồng thời nâng cao vai trò xã hội của Nhà nước XHCN theo chế độ bảo hiểm xã hội, theo nguyên tắc công bằng, bình đẳng, tuy vậy ta phải quan tâm chú ý săn sóc đến các thành viên có công với cách mạng, các bà mẹ anh hùng, liệt sỹ, thương binh, người già, trẻ em mồ côi.
Chương III
Mục tiêu, chức năng, vai trò quản lý kinh tế vĩ mô của nhà nước
I-/ Mục tiêu quản lý vĩ mô của Nhà nước:
Mỗi vấn đề đặt ra đều có những mục tiêu riêng của nó. Vậy thì khi ta nghiên cứu sự quản lý vĩ mô của Nhà nước ta sẽ có những mục tiêu nào để từ đó đưa ra các chính sách cũng như các biện pháp quản lý hợp lý và đúng đắn nhất.
1-/ Mục tiêu phân bố nguồn lực có hiệu quả:
Để phân bố có hiệu quả Nhà nước phải dựa vào những công cụ kế hoạch định sự phát triển toàn diện nền kinh tế, thông qua các công cụ này Nhà nước có thể nắm bắt được tất cả các yếu tố cung cũng như cầu, trạng thái nền kinh tế, đặc điểm từng vùng để hướng tới sự phân bố, định hướng về quy mô và sản lượng từng vùng để xử lý nguồn lực đang có một cách tốt hơn. Xác định quy mô từng vùng để có khả năng phát triển tốt nhất các mặt mạnh của vùng đó, đặc trưng và tài nguyên. Bởi vậy hiện nay cũng có rất nhiều vùng khác nhau có mũi nhọn như: than, lúa, sắt,... từ đó Nhà nước có thể cung cấp vốn, kỹ nghệ, sức lao động để sử dụng có hiệu quả nhất. Và đây cũng chính là công cụ để Nhà nước có thể khẳng định được ý đồ cũng như mục đích của mình trong tất cả các lĩnh vực, công cộng, khoa học, kỹ thuật, kinh tế, giảm bớt rủi ro với các thành phần kinh tế đảm bảo các hoạt động đi vào guồng máy hơn, tạo sự hài hoà thống nhất các khu vực với nhau.
2-/ Mục tiêu phân bố công bằng sản phẩm làm ra và giải quyết tốt vấn đề xã hội:
a-/ Phương pháp cân bằng:
Để đảm bảo phân bố công bằng và giải quyết tốt các vấn đề xã hội Nhà nước có chức năng phân phối thông qua sự điều tiết kinh tế. Phân phối theo chủ sở hữu, phân phối theo lợi nhuận, phân phối theo lao động một cách công bằng nhất, ai làm người đó hưởng, làm nhiều hưởng nhiều, làm ít hưởng ít. Nhà nước phải đại diện cho quyền lợi nhân dân lao động. Tuy nhiên Nhà nước vẫn phải trợ cấp cho các người già, thương binh, bảo hiểm, công nghệ bằng các chính sách tiền tệ nhằm hạn chế tối đa sự bất bình đẳng, bất công bằng trong xã hội. Ngoài ra Nhà nước còn áp dụng các chính sách kinh tế khác như: chính sách thuế, chính sách phân phối lợi nhuận, chính sách lãi suất.
b-/ Giáo dục:
Cùng với sự phân phối cân bằng thì giải quyết các vấn đề xã hội cũng là mục tiêu lớn. Đó là mục tiêu nâng cao mặt bằng văn hoá dân tộc, đẩy lùi nạn mù chữ, đồng thời tạo điều kiện giảng dạy cho thật tốt, có hiệu quả,... Khi ta có trí thức ta sẽ dễ dàng nhận thức được nhiệm vụ cũng như hành động của mình.
3-/ Mục tiêu ổn định và tăng trưởng kinh tế:
Đây là mục tiêu cần thiết và quan trọng nhất. Tăng trưởng không có nghĩa là chỉ tăng về số lượng mà tăng cả về chất lượng đồng thời với nó là nền kinh tế đã đi vào nhịp thở như nhịp thở của trái tim vậy, hoà quyện với nhau để cùng tồn tại và phát triển.
Nhà nước có vai trò tối quan trọng ở đây đó là tạo môi trường lành mạnh để các doanh nghiệp có thể tự do cạnh tranh, kết hợp theo cấu trúc và theo quy định của pháp luật, làm sao để phát huy đẩy mạnh các mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực, nhằm cho các doanh nghiệp thuận lợi để sản xuất tối đa sức sản xuất của mình.
Nhà nước phải xác định rõ quyền sở hữu tài sản để đảm bảo nguồn lực tham gia vào kinh tế vốn, kỹ nghệ, các dự án đầu tư, đồng thời khuyến khích nhằm nâng cao sức sản xuất cũng như sự cạnh tranh lành mạnh, chống độc quyền và phát triển toàn diện các yếu tố lao động vốn, kỹ thuật, đất đai theo không gian và thời gian.
Ngoài ra Nhà nước còn có một nhiệm vụ đó là nguồn tài trợ cuối cùng đối với các doanh nghiệp chủ chốt để phát huy không làm cho nền kinh tế chệch hướng xã hội chủ nghĩa.
4-/ Củng cố và xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội:
Kết cấu hạ tầng và kiến trúc thượng tầng là mục tiêu không thể thiếu được khi xây dựng một nền kinh tế mở và toàn diện. Muốn vậy ta phải phát triển giáo dục cũng như tạo điều kiện để thu hút vốn đầu tư nước ngoài tạo sự tiến bộ mới cho nền kinh tế đồng thời tạo nền kinh tế thị trường có sức cạnh tranh, đổi mới công nghệ.
5-/ Mục tiêu củng cố quốc phòng, an ninh trật tự:
Bảo vệ và phát triển luôn đi kèm với nhau. Yêu cầu cao nhất của xã hội đó là phát triển bền vững và._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- U0100.doc