Tài liệu Vai trò nhà nước trong phát triển thị trường sức lao động ở TP. Hải Phòng: MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Sau hơn 20 năm thực hiện công cuộc đổi mới và mở cửa do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo, chúng ta càng thấy rằng sự lãnh đạo của Đảng ta về đổi mới một cách toàn diện để đưa đất nước ta tiến lên, mà trọng tâm là đổi mới về kinh tế là hoàn toàn đúng đắn. Sự đúng đắn đó thể hiện bằng việc đã đưa đất nước ta ra khỏi khủng khoảng, nền kinh tế liên tục tăng ổn định với tốc độ cao, đời sống của đại đa số nhân dân không ngừng được cải thiện; vị thế v... Ebook Vai trò nhà nước trong phát triển thị trường sức lao động ở TP. Hải Phòng
118 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1532 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Vai trò nhà nước trong phát triển thị trường sức lao động ở TP. Hải Phòng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
à tiếng nói của dân tộc ta luôn được nâng cao trên trường quốc tế.
Về kinh tế, trước hết là sự lãnh đạo của Đảng trong việc phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, định hướng Xã hội chủ nghĩa. Lãnh đạo nền kinh tế theo cơ chế thị trường đồng nghĩa với việc phải luôn tuân thủ những quy luật khách quan của thị trường nói chung và của từng loại thị trường nói riêng. Trong đó, vai trò của nhà nước là hết sức quan trọng đối với việc phát huy những thế mạnh của thị trường, thúc đẩy sự ra đời và phát triển của từng loại thị trường; khai thác những mặt mạnh, những ưu thế của nó, đồng thời hạn chế những tiêu cực, những tồn tại vốn có của cơ chế thị trường, nhằm mục tiêu: Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Trong những năm qua, chúng ta đã từng bước thúc đẩy các loại thị trường ra đời và phát triển. Tuy nhiên, hầu hết các loại thị trường của nước ta đều còn rất mới mẻ, họat động còn yếu. Thị trường sức lao động không nằm ngoài những đặc trưng đó.
Thị trường sức lao động của nước ta còn yếu về mọi mặt biểu hiện ở chỗ: cung cầu về sức lao động mất cân đối trầm trọng, chất lượng lao động còn kém, các kênh giao dịch việc làm chưa phát triển, thông tin thị trường sức lao động còn sơ khai, vẫn còn một khoảng cách khá xa giữa người mua và người bán sức lao động. Điều đó biểu hiện ra bên ngoài là người cần sức lao động không biết chỗ mua và ngược lại người cần bán sức lao động không biết bán ở đâu và cuối cùng là, tỷ lệ lao động chưa có việc làm hàng năm còn cao, sức lao động xã hội không được sử dụng hết, còn rất lãng phí.
Những tồn tại, yếu kém trên của thị trường sức lao động, một phần do nước ta mới đi vào xây dựng nền kinh tế thị trường, song có thể nói vai trò của nhà nước trong việc thúc đẩy và phát triển thị trường này còn rất nhiều bất cập.
Thành phố Hải Phòng nằm ở đồng bằng châu thổ sông Hồng, với dân số 1,8 triệu người và mức gia tăng dân số bình quân hàng năm là 1,3%. Cũng như dân số Việt Nam nói chung, dân số Hải Phòng thuộc loại dân số trẻ, số người trong độ tuổi lao động chiếm 64% dân số nói chung. Hàng năm có trên 2 vạn người vào tuổi lao động. Điều này vừa là một lợi thế, một nguồn lực quan trọng cho công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá phát triển kinh tế - xã hội lại vừa là thách thức lớn trong vấn đề giải quyết việc làm.
Như vậy, nghiên cứu vai trò Nhà nước trong phát triển thị trường sức lao động ở thành phố Hải Phòng, để đưa ra phương hướng và những giải pháp nhằm phát triển thị trường sức lao động thành phố Hải Phòng trong giai đoạn công nghiệp hoá, hiện đại hoá là vấn đề rất quan trọng, cấp bách và lâu dài, phục vụ đắc lực cho việc xây dựng chiến lược phát triển kinh tế - xã hội thành phố Hải Phòng trong giai đoạn hiện nay và những năm tiếp theo.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài.
Liên quan tới thị trường sức lao động đã có một số đề tài nghiên cứu, đề cập ở những góc độ khác nhau, tuy nhiên chưa có công trình nghiên cứu trực tiếp nào về “Vai trò nhà nước trong phát triển thị trường sức lao động ở thành phố Hải Phòng”. Do đó, việc đi sâu nghiên cứu, phân tích, đánh giá thực trạng vai trò nhà nước đối với sự phát triển của thị trường sức lao động ở thành phố Hải Phòng, từ đó đưa ra phương hướng và những giải pháp tăng cường vai trò nhà nước nhằm phát triển thị trường sức lao động ở thành phố Hải Phòng là một đề tài mới, chưa được nghiên cứu.
3. Mục đích nghiên cứu của đề tài:
Luận văn nhằm đạt được những mục đích sau:
- Làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về vai trò nhà nước trong việc phát triển thị trường sức lao động. Khảng định tính tất yếu và nội dung nâng cao vai trò nhà nước trong phát triển thị trường sức lao động ở thành phố Hải Phòng trong giai đoạn hiện nay-giai đoạn công nghiệp hoá, hiện đại hoá, phát triển kinh tế thị trường và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế.
- Phân tích, đánh giá thực trạng vai trò nhà nước trong phát triển thị trường sức lao động ở thành phố Hải Phòng. Từ đó, tìm ra những ưu điểm, hạn chế và nguyên nhân hạn chế của vai trò nhà nước trong phát triển thị trường sức lao động thời gian qua ở thành phố Hải Phòng.
- Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực trạng, đề xuất những phương hướng và giải pháp nhằm tăng cường vai trò nhà nước trong phát triển thị trường sức lao động ở thành phố Hải Phòng trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn:
4.1. Đối tượng nghiên cứu:
Luận văn lấy vai trò nhà nước đối với sự hình thành và phát triển của thị trường sức lao động ở Hải Phòng làm đối tượng nghiên cứu.
4.2. Phạm vi nghiên cứu:
- Vai trò nhà nước trong phát triển thị trường sức lao động ở thành phố Hải Phòng giai đoạn từ năm 2001-2005, khi nghiên cứu thực trạng và đề xuất phương hướng, giải pháp đến năm 2010 và tầm nhìn đến năm 2020.
- Tham khảo nghiên cứu vai trò nhà nước đối với thị trường sức lao động một số địa phương của Việt Nam, có tính đến vai trò nhà nước đối với thị trường sức lao động một số nước trên thế giới.
5. Phương pháp nghiên cứu:
Luận văn lấy phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử làm phương pháp luận chung, đặc biệt trực tiếp vận dụng phương pháp trừu tượng hóa-phương pháp đặc thù của kinh tế chính trị để tiếp cận đối tượng nghiên cứu. Ngoài ra, luận văn còn vận dụng các phương pháp hệ thống, phân tích thống kê, phương pháp chuyên gia, điều tra xã hội học ...
6. Dự kiến đóng góp của luận văn:
- Làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản về vai trò nhà nước trong phát triển thị trường sức lao động.
- Đưa ra những đánh giá thực trạng vai trò nhà nước đối với thị trường sức lao động ở thành phố Hải Phòng, trên cơ sở đó đề xuất phương hướng và những giải pháp mang tính khả thi nhằm tăng cường vai trò nhà nước trong phát triển thị trường sức lao động ở thành phố Hải Phòng trong những năm tới.
- Góp phần cung cấp thêm những cơ sở khoa học cho chính quyền địa phương Hải Phòng tham khảo, hoạch định chính sách nhằm phát triển thị trường sức lao động thành phố, phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển kinh tế thị trường và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế.
7. Kết cấu của luận văn:
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục các tài liệu tham khảo, về nội dung luận văn gồm 3 chương:
- Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn về vai trò nhà nước trong phát triển thị trường sức lao động.
- Chương 2: Thực trạng vai trò nhà nước trong phát triển thị trường sức lao động ở Hải Phòng.
- Chương 3: Phương hướng và những giải pháp chủ yếu nhằm tăng cường vai trò nhà nước trong phát triển thị trường sức lao động ở Hải Phòng.
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ VAI TRÒ NHÀ NƯỚC
TRONG PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG SỨC LAO ĐỘNG
1.1. Những vấn đề chung về thị trường sức lao động.
1.1.1. Thị trường sức lao động và các yếu tố cấu thành thị trường sức lao động.
1.1.1.1. Thị trường sức lao động.
Có rất nhiều khái niệm về thị trường sức lao động, mỗi khái niệm có những đặc điểm riêng phụ thuộc vào những điều kiện, hoàn cảnh, vị trí nhất định của các tổ chức hoặc các nhà khoa học đưa ra.
Theo Tổ chức lao động quốc tế (ILO) thì: “Thị trường sức lao động là thị trường trong đó có các dịch vụ lao động được mua và bán thông qua quá trình để xác định mức độ có việc làm của lao động, cũng như mức độ tiền công”. Khái niệm này nhấn mạnh đến các dịch vụ lao động được xác định thông qua việc làm được trả công.
Các nhà khoa học Mỹ cho rằng: “ Thị trường mà đảm bảo việc làm cho người lao động và kết hợp giải quyết trong lĩnh vực việc làm thì được gọi là thị trường sức lao động”.
Các nhà khoa học kinh tế Nga thì lại cho rằng: “Thị trường sức lao động được hiểu như một hệ thống quan hệ xã hội, những định mức và thể chế xã hội (trong đó có cả pháp luật), đảm bảo cho việc tái sản xuất, trao đổi và sử dụng lao động”.
Theo một số nhà khoa học kinh tế Việt Nam thì khái niệm trên được phát biểu: “Thị trường sức lao động là toàn bộ các quan hệ lao động được xác lập trong lĩnh vực thuê mướn lao động (nó bao gồm các quan hệ lao động cơ bản nhất như thuê mướn và sa thải lao động, tiền lương và tiền công, bảo hiểm xã hội, tranh chấp lao động), ở đó diễn ra sự trao đổi, thoả thuận giữa một bên là người lao động tự do và một bên là người sử dụng lao động”.
Mặc dù có nhiều quan điểm khác nhau về thị trường sức lao động, do cách tiếp cận khác nhau, song các quan điểm trên đều thống nhất với nhau về nội dung cơ bản để tạo nên thị trường sức lao động đó là: không gian, địa điểm, người bán sức lao động, người mua sức lao động, giá cả sức lao động và những ràng buộc giữa các bên tham gia thị trường này.
Thực tế cho thấy, các quốc gia phát triển kinh tế theo mô hình kinh tế thị trường có những xuất phát điểm khác nhau; có những đặc điểm về kinh tế, chính trị, xã hội khác nhau. Do đó, khác nhau về trình độ phát triển thị trường sức lao động.
Mỗi nhà kinh tế có thể nghiên cứu thị trường sức lao động dưới những góc độ riêng, nên nhận thức về thị trường sức lao động không đồng nhất. Vì vậy, việc tồn tại những quan điểm khác nhau trong quá trình khám phá các quy luật vận động của thị trường sức lao động là điều dễ hiểu.
Tuy nhiên, để hiểu thị trường sức lao động dưới góc độ bao quát nhất, cần xuất phát từ quan điểm của Chủ nghĩa Mác. Theo C.Mác :‘‘ . . . Tư bản chỉ phát sinh ở nơi nào mà người chủ tư liệu sản xuất và tư liệu sinh hoạt tìm thấy được người lao động tù do với tư cách là bán sức lao động của mình trên thị trường’’.
‘‘Anh ta và những chủ tiền gặp nhau trên thị trường và quan hệ với nhau với tư cách là những người chủ hàng hóa bình đẳng với nhau, chỉ khác nhau ở chỗ người thì mua, còn người kia thì bán và vì thế cả hai đều là những người bình đẳng về pháp lý’’.
‘‘Lĩnh vực lưu thông hàng hóa hay trao đổi hàng hóa, trong đó việc mua và bán sức lao động được thực hiện là các địa đàng thực sự của những quyền tự nhiên của con người. Ngự trị ở đây chỉ có quyền tự do, bình đẳng, quyền sở hữu ...’’.
Như vậy, từ sự chỉ dẫn của C.Mác có thể rút ra một số luận điểm quan trọng về thị trường sức lao động như sau :
- Thị trường sức lao động là thị trường đặc biệt của thị trường hàng hóa vì hàng hóa đem ra trao đổi không phải là hàng hóa thông thường mà là hàng hóa sức lao động.
- Quan hệ trao đổi không phải là quan hệ ‘‘mua đứt bán đoạn’’ mà được thực hiện thông qua ký kết một văn bản hợp đồng.
- Nguyên tắc trao đổi và những quy luật chi phối trên thị trường sức lao động không khác gì thị trường hàng hóa thông thường, đó là: tự do, bình đẳng và ngang giá. Tự do vì người mua và người bán chỉ phục tùng ý chí của mình; bình đẳng vì họ quan hệ với nhau như ‘‘những chủ sở hữu hàng hóa và trao đổi vật ngang giá lấy vật ngang giá’’.
Từ đó có thể rút ra : Thị trường sức lao động là một thị trường hàng hoá, là nơi diễn ra việc trao đổi mua bán hàng hoá sức lao động, người sử dụng và người sở hữu sức lao động trao đổi với nhau thông qua một bản hợp đồng, trong đó xác định quyền tự do, bình đẳng của các chủ thể sở hữu và theo nguyên tắc trao đổi ngang giá. Ở đây, giá cả của hàng hoá sức lao động biểu hiện dưới hình thái tiền công và tiền công chịu sự điều tiết của các quy luật thị trường, trong đó quan hệ cung và cầu lao động là cơ chế tác động trực tiếp tới sưc thay đổi của tiền công.
Như vậy, trên thị trường sẽ hình thành những quan hệ về việc làm, nó xác định nội dung đích thực của thị trường sức lao động như thị trường việc làm.
Tóm lại, có thể quan niệm một cách chung nhất về thị trường sức lao động như sau : ‘‘Thị trường sức lao động là một bộ phận của hệ thống thị trường, trong đó diễn ra quá trình trao đổi giữa một bên là người lao động tự do (người bán sức lao động) và một bên là người có nhu cầu sử dụng sức lao động (người mua sức lao động). Sự trao đổi này được thỏa thuận trên cơ sở các mối quan hệ như: tiền công, tiền lương, điều kiện làm việc, bảo hiểm xã hội, ... thông qua một hợp đồng lao động bằng văn bản hoặc bằng miệng’’.
1.1.1.2. Các yếu tố cấu thành thị trường sức lao động.
Nói đến thị trường sức lao động là nói đến mối quan hệ giữa người có sức lao động có thể tìm được việc làm để có thu nhập và người sử dụng sức lao động có thể thuê được công nhân bằng cách trả công để tiến hành sản xuất-kinh doanh. Trên thị trường sức lao động, mức cung, cầu về sức lao động ảnh hưởng tới tiền công lao động. Đối tượng tham gia thị trường sức lao động bao gồm: những người chủ sở hữu tư liệu sản xuất, có nhu cầu sử dụng sức lao động và những người có nhu cầu bán sức lao động có thể có việc làm và thu nhập.
Từ đó ta thấy: Thị trường sức lao động được cấu thành bởi 3 yếu tố cơ bản : cung, cầu và giá cả sức lao động. Ba yếu tố này có mối quan hệ tác động lẫn nhau. Nói tới sự vận động, phát triển của thị trường sức lao động tức là nói tới sự vận động, phát triển của các yếu tố cung, cầu, giá cả sức lao động và quan hệ giữa chúng cả về quy mô, trình độ, cơ cấu và tính chất hoạt động .
*. Cung sức lao động.
Cung về sức lao động chính là lực lượng lao động xã hội, là toàn bộ những người có khả năng lao động và có nhu cầu về việc làm, bao gồm cả những người trong và ngoài độ tuổi lao động.
Cung sức lao động cần phải xem xét về số lượng, chất lượng và cơ cấu.
- Về số lượng : Cung sức lao động thường được phân biệt thành 2 phạm trù :
+ Cung thực tế về sức lao động : Gồm tất cả những người từ đủ 15 tuổi trở lên đang làm việc và những người thất nghiệp. Cung thực tế sức lao động chính là lực lượng lao động xã hội hay dân số hoạt động kinh tế.
+ Cung tiềm năng sức lao động : Bao gồm tất cả những người từ đủ 15 tuổi trở lên đang làm việc và những người đang thất nghiệp, những người trong độ tuổi lao động có khả năng lao động nhưng đang đi học, đang làm công việc nội trợ trong gia đình mình hoặc không có nhu cầu lao động và tình trạng khác.
- Về chất lượng : Cung sức lao động được thể hiện ở tình trạng sức khỏe, trình độ học vấn, trình độ chuyên môn kỹ thuật, ý thức kỷ luật, phẩm chất đạo đức của người cung sức lao động trên thị trường.
- Về cơ cấu : Cung sức lao động thể hiện ở cơ cấu của người cung sức lao động trên thị trường sức lao động xét theo độ tuổi, giới tính, trình độ nghề nghiệp, khu vực, ngành, nghề, thành phần kinh tế.
- Những nhân tố ảnh hưởng đến cung sức lao động :
+ Một là : Quy mô và tốc độ tăng dân số: Quy mô dân số là lượng tuyệt đối về dân số trong phạm vi một quốc gia hay một vùng lãnh thổ. Khi quy mô dân số lớn, tốc độ tăng dân số cao thì cung sức lao động sẽ tăng và ngược lại.
+ Hai là : Tỷ lệ dân số tham gia thị trường sức lao động, tức là tỷ lệ dân số từ đủ 15 tuổi trở lên tham gia thị trường sức lao động. Khi tỷ lệ này tăng thì cung sức lao động sẽ tăng và ngược lại.
+ Ba là, sự di cư lao động, đây là yếu tố có tác động tức thì đến cung sức lao đông. Nó có thể làm tăng hoặc làm giảm đột ngột đối với cung sức lao động ở vùng nhập cư và vùng xuất cư.
*. Cầu về sức lao động:
Cầu về sức lao động là nhu cầu về sức lao động của một quốc gia, một địa phương, một ngành hay một doanh nghiệp với những mức tiền công khác nhau trong một khoảng thời gian nhất định. Nhu cầu này thể hiện qua khả năng thuê mướn lao động trên thị trường sức lao động.
Cầu về sức lao động được chia làm hai loại :
+ Cầu thực tế về sức lao động: Là nhu cầu thực tế cần sử dụng sức lao động tại một thời điểm nhất định.
+ Cầu tiềm năng về sức lao động: là nhu cầu lao động cho tổng số chỗ làm việc có thể có sau khi đã tính đến các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng tạo việc làm trong tương lai như vốn, đất đai, tư liệu sản xuất, công nghệ và các điều kiện khác.
Cầu tiềm năng về sức lao động = cầu thực tế về sức lao động + số chỗ làm việc sẽ được tạo ra trong tương lai.
Giống như cung về sức lao đông, cầu về sức lao động cũng được xem xét cả về số lượng, chất lượng và cơ cấu:
- Về số lượng: Cầu về sức lao động xã hội tỷ lệ thuận với quy mô và tốc độ phát triển sản xuất, nếu năng xuất lao động xã hội không đổi và nó tỷ lệ nghịch với năng xuất lao động xã hội, nếu quy mô sản xuất không đổi.
- Về chất lượng: Cầu về chất lượng lao động ngày một nâng cao trước sự đòi hỏi của việc nâng cao năng xuất lao động, mở rộng quy mô sản xuất, tăng khả năng cạnh tranh . . .
- Về cơ cấu: Cầu lao động cũng được xem xét theo các tiêu chí: lứa tuổi, giới tính, ngành, nghề, thành phần kinh tế . . .
- Các yếu tố ảnh hưởng đến cầu sức lao động:
+ Một là, phương thức tăng trưởng kinh tế được lựa chọn: nếu chính phủ lựa chọn phương thức tăng trưởng kinh tế nhanh, nhờ vào vốn là chủ yếu thì cầu lao động sẽ giảm và vốn khi được ưu tiên đầu tư vào ngành nào, vùng nào thì ngành đó, vùng đó sẽ thu hút nhiều lao động hơn. Nếu chính phủ lựa chọn phương thức tăng trưởng kinh tế dựa vào lao động là chủ yếu thì cầu lao động sẽ tăng lên.
+ Hai là, Mục tiêu tạo việc làm của Chính phủ: Việc làm là một vấn đề luôn được chính phủ ở hầu hết các nước quan tâm vì nó liên quan trực tiếp đến vấn đề an sinh xã hội. Việc làm luôn là một trong những mục tiêu kinh tế vĩ mô của các Chính phủ. Chính vì vậy, việc làm là vấn đề kinh tế xã hội có tính bức xúc, thu hút sự quan tâm của các cấp, các ngành, các tổ chức chính tri-xã hội và người lao động.
+ Ba là, kiểu và mức độ công nghiệp hoá lựa chọn: Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là tất yếu khách quan đối với mỗi quốc gia. Dưới góc độ việc làm, kiểu và mức độ công nghiệp hoá được lựa chọn có ảnh hưởng không nhỏ.
+ Bốn là, mục tiêu chuyển dịch lao động từ nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ: Ở các nước đang phát triển, thị trường sức lao động có đặc điểm là lao động trong khu vực nông nghiệp chiếm tỷ lệ lớn và tình trạng người nông dân thiếu việc làm là phổ biến do thất nghiệp . . . Do đó, để tăng cầu lao động ở khu vực nông thôn, Chính phủ cần đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn, chuyển dịch lao động từ nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ.
+ Năm là, cầu về hàng hoá, dịch vụ trên thị trường và khuynh hướng tiêu dùng của dân cư: Khi cầu về hàng hoá và dịch vụ tăng thì cầu về sức lao động để sản xuất ra hàng hoá, dịch vụ đó cũng tăng lên và ngược lại.
Đồng thời, nếu khuynh hướng tiêu dùng của dân cư là sử dụng sản phẩm làm từ công nghệ nhiều lao động thì cầu về sức lao động sẽ tăng và ngược lại.
Ngoài ra, cầu về sức lao động còn chịu tác động của nhiều yếu tố khác như: tình hình kinh tế, chính tri, xã hội (ảnh hưởng đến việc mở rộng hay thu hẹp sản xuất, khuyến khích hay hạn chế đầu tư ...) ; yếu tố tiền công lao động (khi tiền công lao động tăng lên cầu về sức lao động có xu hướng giảm và ngược lại), và các yếu tố tạo ra việc làm như: đất đai, vốn, trình độ tổ chức quản lý, tôn giáo, phong tục tập quán...
*. Giá cả sức lao động:
Tiền công là giá cả sức lao động, là sự biểu hiện bằng tiền của giá trị sức lao động; cũng như các loại hàng hoá khác, giá cả hàng hoá sức lao động không chỉ bị quy định bởi giá trị của nó, mà còn chịu ảnh hưởng của quan hệ cung -cầu sức lao động. Khi cung vượt quá cầu thì giá cả sức lao động sẽ thấp hơn giá trị sức lao động và ngược lại. Mối quan hệ cung-cầu trên thị trường sức lao động sẽ dẫn đến việc xác định giá cả sức lao động.
*. Mối quan hệ giữa giá cả và cung -cầu trên thị trường sức lao động.
- Sự hoạt động của thị trường sức lao động được thể hiện thông qua mối quan hệ giữa giữa giá cả và cung, cầu trên thị trường sức lao động.
Cung, cầu và giá cả sức lao động có mối quan hệ qua lại với nhau trên thị trường sức lao động. Nếu cung phù hợp với cầu và cung-cầu điều chỉnh linh hoạt theo tiền công thì thị trường sức lao động vận hành có hiệu quả, thất nghiệp không xảy ra. Nếu mức cung cao hơn mức cầu thì lao động sẽ thừa, tiền công giảm xuống và ngược lại. Mặt khác, quan hệ cung cầu về sức lao động cũng được điều tiết phù hợp với quy luật giá trị. Việc hạ giá hay tăng giá hàng hoá sức lao động cũng tác động đến cung và cầu. Giá cả của sức lao động cũng như ‘cái van’ điều chỉnh quan hệ cung, cầu sức lao động.
Cơ sở khách quan của những biến động trong mối quan hệ cung cầu và giá cả sức lao động là trình độ phát triển của nền sản xuất xã hội và giá trị hàng hoá sức lao động. Ngoài ra, chúng còn chịu sự tác động của nhà nước thông qua các chính sách kinh tế vĩ mô, như luật lao động, luật thuế thu nhập, chính sách bảo hiểm xã hội, lương tối thiểu ...
- Sự hoạt động của thị trường sức lao động tạo ra cạnh tranh mạnh mẽ trên thị trường này : Đó là sự cạnh tranh giữa người mua (người thuê mướn sức lao động) và người bán (người cung ứng sức lao động); giữa người mua với người mua ... từ đó tác động đến việc hình thành giá cả sức lao động. Vì:
Thông qua tín hiệu giá cả, cả người mua và người bán đều theo đuổi tối đa lợi ích kinh tế của mình, từ đó tác động đến giá cả, làm cho giá cả chuyển động về vị trí cân bằng.
Cạnh tranh giữa người mua và người bán sức lao động diễn ra theo biến động của cung cầu sức lao động trên thị trường. Khi cung lớn hơn cầu thì người mua trả tiền công thấp hơn cho người lao động và họ dễ dàng thuê mướn được nhân công. Ngược lại, khi cung nhỏ hơn cầu thì người bán đòi hỏi được trả mức tiền công cao hơn và điều kiện làm việc tốt hơn.
Cạnh tranh giữa người mua với người mua thường được diễn ra khi cung sức lao động nhỏ hơn cầu sức lao động hoặc chất lượng cung sức lao động thấp hơn chất lượng cầu sức lao động. Những người mua thường trả tiền công cao hơn cho người lao động để thu hút, lôi kéo lao động về phía mình, nên dễ gây ra sự biến động mạnh về di chuyển nhân công trên thị trường sức lao động.
1.1.2. Đặc điểm và vai trò của thị trường sức lao động trong nền kinh tế thị trường.
1.1.2.1. Đặc điểm của thị trường sức lao động.
Hàng hóa sức lao động có những thuộc tính chung như những hàng hóa thông thường khác, song nó cũng có những thuộc tính riêng mà chỉ hàng hóa sức lao động mới có. Xuất phát từ những thuộc tính riêng của hàng hóa này mà thị trường sức lao động có những đặc điểm cơ bản sau :
- Hàng hóa sức lao động không tách rời giữa quyền sở hữu và quyền sử dụng. Trên thị trường sức lao động, người mua chỉ có quyền sử dụng và làm chủ từng phần khả năng lao động-sức lao động của người lao động, mà hoạt động trong một khoảng thời gian nhất định.
- Giữa người bán và người mua sức lao động có trách nhiệm phối hợp hành động tương đối dài với nhau. Người lao động như một cá thể, có thể tự kiểm soát chất lượng công việc của mình với những nỗ lực khác nhau, thể hiện mức độ trung thực khác nhau với chủ sử dụng lao động đã thuê họ. Người thuê phải tính đến những yếu tố đó để quản lý sản xuất, nghĩa là phải xây dựng một cơ chế đãi ngộ, kích thích, tạo động lực đối với người lao động một cách phù hợp như: điều kiện làm việc, tiền lương, tiền thưởng và các phúc lợi xã hội khác.
- Thị trường sức lao động tồn tại một số cấu trúc thể chế loại đặc biệt (hệ thống pháp luật phân nhánh, những chương trình kinh tế - xã hội, dịch vụ việc làm các tổ chức công đoàn, liên hiệp hội các nhà doanh nghiệp, v.v..) sinh ra đặc thù quan hệ giữa các chủ thể của thị trường sức lao động. Vì vậy, cần phải thể chế hóa thật chi tiết mọi hướng hoạt động khác nhau của họ.
- Chất lượng lao động ở từng người lao động có khác nhau theo giới tính, tuổi tác, thể lực, trí tuệ, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ công tác, động lực làm việc v.v… Vì vậy, mức độ cá thể hóa cao khi ký kết giao kèo, gắn với trình độ chuyên môn khác nhau của sức lao động, sự đa dạng của công nghệ và tổ chức lao động, nên việc đánh giá chất lượng lao động khi tuyển dụng, trả công phù hợp cho từng người gặp nhiều khó khăn và phức tạp;
- Trong trao đổi hàng hóa sức lao động có nhiều điểm khác so với trao đổi hàng hóa vật chất. Quá trình trao đổi sức lao động so với trao đổi hàng hóa vật chất được bắt đầu trong lĩnh vực lưu thông hàng hóa - quyền sử dụng khả năng lao động được chuyển sang người mua theo những gì đã được ấn định trong hợp đồng hay thoả ước lao động tập thể. Quá trình trao đổi được tiếp tục trong sản xuất dưới hình thức trao đổi sức lao động đang hoạt động, lao động thực tế thành lương danh nghĩa và kết thúc trong lĩnh vực lưu thông của cải vật chất, có nghĩa là trên thị trường hàng hóa và dịch vụ được trao đổi lương danh nghĩa thành phương tiện sống. Việc trao đổi hàng hóa vật chất được bắt đầu và kết thúc trong lĩnh vực lưu thông hàng hóa vật chất.
- Đối với người lao động, vấn đề quan trọng không chỉ là tiền công và tiền lương, mà còn là nội dung và điều kiện lao động, bảo đảm duy trì chỗ làm việc, tương lai công việc và triển vọng thăng tiến trong nghề nghiệp, bầu không khí làm việc trong tập thể và quan hệ giữa người lao động với người thuê lao động v.v….
1.1.2.2. Vai trò của thị trường sức lao động trong nền kinh tế thị trường.
- Trước hết, thị trường sức lao động đảm bảo việc làm cho dân số tích cực kinh tế, kết nối họ vào lĩnh vực sản xuất và dịch vụ, tạo khả năng cho họ nhận được những thu nhập thiết yếu để tái sản xuất sức lao động của chính bản thân mình, cũng như nuôi sống gia đình mình. Thị trường sức lao động dễ dàng chuyển đổi người lao động sang chỗ làm việc thích hợp hơn với họ, nơi mà thành quả lao động của họ có năng suất hơn và có cơ hội nhận được thu nhập cao hơn.
- Thứ hai, thông qua thị trường sức lao động sẽ cung cấp đầy đủ những thông tin cho cả người lao động và người thuê lao động về ngành nghề nào đang cần, nơi nào đang dư thừa sức lao động, những người đang đi tìm kiếm việc làm cần phải trang bị và bồi dưỡng những chuyên môn nghiệp vụ gì, phải mở rộng những kiến thức và kỹ năng theo hướng nào để có thể nhận được việc làm theo mong muốn. Từ đó cho thấy, thị trường sức lao động là nguồn thông tin rất quan trọng và nó quan hệ chặt chẽ với tất cả các thị trường. Thông tin trên thị trường sức lao động đem lại cơ sở cho cả người thuê lao động cũng như người lao động để xây dựng kế hoạch hoạt động trong tương lai của họ. Người lao động biết rõ rằng, giới chủ đòi hỏi ngày càng cao với người làm thuê trên thị trường sức lao động.
- Thứ ba, cạnh tranh giữa những người lao động sẽ thúc đẩy mở rộng vùng thợ chuyên nghiệp làm thuê, nâng cao chuyên môn và khả năng tổng hợp của họ. Sự cạnh tranh của các ông chủ trên thị trường sức lao động sẽ bắt buộc họ không chỉ duy trì mức lương đã đặt ra, mà còn tạo ra những môi trường làm việc thuận lợi, thể hiện sự quan tâm nhất định về thoả mãn những nhu cầu cần thiết và đảm bảo những quan hệ qua lại bình thường trong tập thể lao động giữa những người lao động, cũng như giữa lãnh đạo và nhân viên.
- Thứ tư, khi ký kết hợp đồng lao động bằng miệng hoặc trên văn bản giữa người thuê lao động với người lao động, vấn đề được xem xét không chỉ thoả thuận về mức lương và thời gian làm việc, mà còn cả chế độ nghỉ phép, chế độ nâng lương, chế độ khen thưởng, ốm đau và cả bảo hiểm xã hội cộng với những ưu đãi khác.
- Thứ năm, thị trường sức lao động đảm bảo việc phân chia và sắp xếp lại dân số tích cực kinh tế trong trường hợp cải cách cấu trúc nền kinh tế hiện nay ở Việt Nam. Vấn đề này đặc biệt quan trọng và khó khăn khi đất nước bước vào thời kỳ mới; các doanh nghiệp chịu sự sắp xếp lại theo chiều hướng khác nhau: sáp nhập, giải thể, liên kết, liên doanh, cổ phần hoá, cho thuê hoặc bán doanh nghiệp, đã làm cho số người mất việc làm trong các doanh nghiệp nhà nước tới hàng triệu người. Bên cạnh đó, sự cho phép hình thành và phát triển đa dạng các loại hình sở hữu, nhiều doanh nghiệp mới ra đời đã giải quyết nhiều chỗ làm việc mới cho người lao động và cả những người dôi dư từ khu vực nhà nước trong nhiều năm qua. Tỷ trọng lao động trong các thành phần kinh tế, các ngành nghề, khu vực dân cư dần dần được thay đổi theo cơ cấu ngày càng hợp lý, uyển chuyển, thích ứng và phù hợp với cấu trúc mới của nền kinh tế.
- Thứ sáu, thị trường sức lao động làm tăng tính cơ động của lao động giữa các doanh nghiệp trong một ngành, giữa các ngành và các khu vực với nhau. Trong thời kỳ đầu của cải cách kinh tế ở Việt Nam, dòng chuyển động này vẫn chưa mang tính cơ động cao vì hàng loạt những nguyên nhân như tính ỷ lại và trông chờ vào sự sắp xếp công việc của nhà nước là thói quen đã ăn sâu vào tiềm thức của cả thế hệ người lao động từ thời kinh tế bao cấp, thói quen thích ứng với nơi đã sống thường xuyên, sự gắn bó với công việc, gánh nặng gia đình cùng việc học hành của con cái, những thủ tục hành chính phức tạp như chế độ hộ khẩu, tạm trú, tạm vắng. Sau hơn 20 năm thực hiện công cuộc đổi mới, nước ta đã có nhiều thay đổi trong chính sách điều tiết kinh tế vĩ mô, cải cách từng bước các thủ tục hành chính cũng như hoàn thiện dần cơ sở hạ tầng của thị trường sức lao động thì tính cơ động của lao động cũng đang dần có nhiều chuyển biến tích cực, đặc biệt là trong đội ngũ người lao động trẻ.
Thứ bảy, cùng với việc hoạt động tương hỗ để giải quyết những vấn đề kinh tế xã hội quan trọng khác, thị trường sức lao động cũng đem đến những hậu quả tiêu cực:
- Tăng sự phân lập về lương và thu nhập của người lao động, làm giảm tỷ lệ lương trong thu nhập, tăng bất công là nguyên nhân sinh ra đói nghèo. Thị trường lao động Việt Nam đang trong giai đoạn hình thành và phát triển, vì thế nó không thể tránh khỏi bị những ảnh hưởng trực tiếp từ kết quả cải cách toàn diện nền kinh tế trong những năm qua.
- Thị trường lao động làm tổn hại tới tinh thần đoàn kết, nhất trí của người lao động. Cạnh tranh giữa những người lao động dẫn đến tách rời ý kiến, cá thể hoá quyền lợi, làm yếu đi sự đồng nhất quan điểm trong đàm phán với người thuê lao động.
1.2. Sự cần thiết và nội dung tăng cường vai trò nhà nước trong phát triển thị trường sức lao động ở Hải Phòng.
1.2.1. Sự cần thiết phải tăng cường vai trò nhà nước trong phát triển thị trường sức lao động ở Hải Phòng.
Theo các nhà kinh tế học cổ điển, J.M.Keynes, P.A.Samuenson và các nhà kinh tế học hiện đại, thì sự can thiệp của nhà nước vào thị trường sức lao động được thể hiện trên 2 khía cạnh:
- Nhà nước tạo lập môi trường, kích thích đầu tư và tiêu dùng của nhân dân nhằm kích thích cầu sản phẩm, ngăn chặn khủng hoảng, thất nghiệp, tạo việc làm đầy đủ cho lao động xã hội.
- Nhà nước đảm bảo các điều kiện để thị trường sức lao động vận hành thắng lợi, đảm bảo công bằng xã hội, khắc phục sự phân hóa giàu nghèo quá mức, bảo vệ nhóm lao động yếu thế, giảm thiểu rủi ro cho thị trường sức lao động.
Trong nền kinh tế thị trường, định hướng Xã hội chủ nghĩa, sự phát triển của thị trường._. sức lao động (một bộ phận của hệ thống thị trường) chịu sự tác động của các thể chế, chính sách cũng như các công cụ vĩ mô khác của nhà nước can thiệp vào nhằm hạn chế mặt trái của thị trường này và thúc đẩy nó phát triển theo những mục tiêu đã định. Thị trường sức lao động không thể phát triển mạnh nếu không có sự ổn định của môi trường chính trị, tách rời của quản lý nhà nước.
Hệ thống các loại thị trường nói chung (trong đó có thị trường sức lao động) ở Hải Phòng cũng như trong cả nước còn đang trong giai đoạn hình thành và phát triển. Do đó, cần thiết phải tăng cường vai trò nhà nước đối với việc phát triển các loại thị trường, đặc biệt là thị trường sức lao động. Khi thị trường sức lao động phát triển, nó có vai trò tiên phong lôi kéo các loại thị trường khác cùng phát triển.
Tăng cường vai trò nhà nước trong phát triển thị trường sức lao động ở Hải Phòng là một vấn đề cần thiết, có tính khách quan, do những nguyên nhân chủ yếu sau:
1.2.1.1. Tăng cường vai trò nhà nước trong phát triển thị trường sức lao động ở Hải Phòng do yêu cầu tạo lập đồng bộ các yếu tố của thị trường trong quá trình phát triển kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa.
Xây dựng và phát triển một hệ thống thị trường đầy đủ, đồng bộ có vai trò đặc biệt quan trọng và là một yêu cầu khách quan đối với nước ta nói chung, thành phố Hải Phòng nói riêng trong giai đoạn hiện nay. Thực tế cho thấy, hệ thống thị trường với tư cách là tổng hòa những quan hệ kinh tế khách quan. Trong một chừng mức nhất định, tự nó đang dần dần phát triển, hoàn thiện, tuân theo những quy luật, nguyên tắc, chuẩn mực của thị trường. Mặt khác, hiểu theo nghĩa đầy đủ của từ “Thị trường” thì không thể tự nó thực hiện mà phải thông qua những thể chế mang tính chủ quan do nhà nước tạo lập và triển khai. Dưới góc độ này, thị trường đang trở thành cơ chế quan trọng để huy động và sử dụng hiệu quả nguồn lực cho phát triển, đồng thời tạo cơ sở cho nhà nước điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Vì vậy, việc tăng cường vai trò nhà nước trong phát triển một hệ thống thị trường đồng bộ trong quá trình phát triển kinh tế thị trường, định hướng Xã hội chủ nghĩa luôn được Đảng và nhà nước quan tâm. Những năm qua, cùng với công cuộc đổi mới đất nước và quá trình phát triển kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa, hệ thống thị trường ở nước ta nói chung và Hải Phòng nói riêng dần dần hình thành và phát triển, nhưng nhìn chung vẫn mang tính manh mún, sơ khai, kém hiệu quả. Do đó, việc tăng cường vai trò nhà nước trong việc phát triển hệ thống thị trường một cách đồng bộ có liên quan chặt chẽ với nhau tạo nên môi trường kinh doanh mạnh mẽ, lành mạnh để phát triển và một việc làm hết sức quan trọng.
Đường lối và chiến lược phát triển kinh tế -xã hội của Đại hội IX Đảng cộng sản Việt Nam đã nêu rõ “Tiếp tục tạo lập đồng bộ các yếu tố thị trường, đổi mới và nâng cao hiệu lực quản lý kinh tế của nhà nước”, trong đó nhấn mạnh “Thúc đẩy sự hình thành, phát triển và từng bước hoàn thiện các loại thị trường theo định hướng Xã hội chủ nghĩa, đặc biệt quan tâm đến các thị trường quan trọng nhưng chưa có hoặc còn sơ khai như thị trường lao động, thị trường chứng khoán, thị trường bất động sản, thị trường khoa học và công nghệ ...”
Ngoài việc hình thành và phát triển đồng bộ các loại thị trường, việc tạo lập đồng bộ các yếu tố của thị trường còn đòi hỏi phải có sự đồng bộ từ các yếu tố của từng loại thị trường. Vai trò tạo lập sự đồng bộ thị trường nằm trong tay nhà nước mà chỉ có chủ thể có sức mạnh như nhà nước mới có khả năng can thiệp, tạo lập, định hướng và hỗ trợ sự đồng bộ này.
Ở Hải Phòng, Thành ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân thành phố đã nhận rõ tầm quan trọng của việc “tạo lập đồng bộ các yếu tố của thị trường trong quá trình phát triển kinh tế thị trường, định hướng Xã hội chủ nghĩa”, nên luôn quan tâm chỉ đạo thực hiện việc hình thành, phát triển đồng bộ hệ thống thị trường trên địa bàn thành phố, đặc biệt quan tâm phát triển các thị trường mới còn manh nha, yếu kém như: thị trường sức lao động, thị trường vốn, thị trường khoa học và công nghệ ... thành phố luôn định hướng, hỗ trợ và tạo mọi điều kiện thuận lợi để các loại thị trường phát triển, từng bước hoàn thiện trong mối quan hệ tương hỗ và thúc đẩy nhau cùng phát triển.
1.2.1.2. Tăng cường vai trò nhà nước trong phát triển thị trường sức lao động ở Hải Phòng để đáp ứng yêu cầu của quá trình công nghịêp hóa, hiện đại hóa đất nước:
Cả lý luận và thực tiễn đều khảng định rằng: công nghiệp hóa, hiện đại hóa là con đường duy nhất, tất yếu của nước ta để thoát khỏi tình trạng nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu.
Trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa, với xu thế hội nhập kinh tế quốc tế, cùng với sự hình thành và phát triển nền kinh tế tri thức trên thế giới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta được Đại hội X của Đảng xác định: “ ...tranh thủ thời cơ thuận lợi do bối cảnh quốc tế tạo ra và tiềm năng lợi thế của nước ta để rút ngắn quá trình công nghịêp hóa-hiện đại hóa đất nước theo định hướng Xã hội chủ nghĩa gắn liền với phát triển kinh tế tri thức, coi kinh tế tri thức là yếu tố quan trọng của nền kinh tế và công nghiệp hóa, hiện đại hóa”.
Để đáp ứng yêu cầu của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và thành phố, Hải Phòng luôn chú trọng đến các nhân tố tác động đến công nghiệp hóa, hiện đại hóa, kể cả nhân tố bên trong (như vốn, khoa học công nghệ, nguồn nhân lực, cơ chế chính sách, kết cấu hạ tầng kinh tế) và các nhân tố bên ngoài (như: vốn, công nghệ tiên tiến, thị trường quốc tế ...). Trong tất cả nhân tố đó, Hải Phòng luôn khảng định: nguồn nhân lực có chất lượng cao là nhân tố có ý nghĩa quyết định đến kết quả và tính bền vững của công nghiệp hóa. Nguồn lực này bao gồm: lực lượng lao động được đào tạo và có tay nghề; đội ngũ cán bộ công chức có trình độ, năng lực và phẩm chất; đội ngũ cán bộ kinh doanh có trình độ, phẩm chất và sự năng động, sáng tạo ...
Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Hải Phòng đang đặt ra nhu cầu lớn về lực lượng lao động và chất lượng của nguồn nhân lực. Đặc biệt, một vấn đề đáng chú ý là công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Hải Phòng cũng như cả nước đang diễn ra trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế, thị trường sức lao động ở Hải Phòng đang đứng trước thách thức lớn về chất lượng nguồn nhân lực. Khi đã gia nhập Tổ chức thương mại thế giới, yếu tố cạnh tranh sức lao động là rất lớn, số lao động nước ngoài (chuyên gia) vào làm việc trên địa bàn thành phố chắc chắn sẽ gia tăng mạnh hơn trong thời gian tới, do đó đòi hỏi không chỉ bản thân người lao động phải nỗ lực mà doanh nghiệp cũng phải tạo điều kiện để người lao động được học tập, qua đó nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
Để đáp ứng nhu cầu lao động cho quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đòi hỏi Hải Phòng phải quan tâm đến chiến lược phát triển nguồn nhân lực (cả về số lượng và chất lượng, cả về đào tạo, bố trí, sử dụng lao động ...) và trong tính đồng bộ của phát triển hệ thống thị trường phải đặc biệt chú trọng phát triển thị trường sức lao động, coi đây là thị trường đầu tầu lôi kéo các thị trường khác, nhằm thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và thành phố.
1.2.1.3. Tăng cường vai trò nhà nước trong phát triển thị trường sức lao động ở Hải Phòng nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế xã hội của địa phương.
Nghị quyết số 32-NQ-TW, ngày 05/08/2003 của Bộ chính trị về việc xây dựng và phát triển thành phố Hải Phòng trong thời kỳ công nghiệp hóa đất nước đến năm 2020 nêu rõ: “Hải Phòng tập trung xây dựng và phát triển để xứng đáng là thành phố cảng, công nghiệp hiện đại; là đô thị trung tâm quốc gia; đầu mối giao thông quan trọng và cửa chính ra biển của các tỉnh phía Bắc; một cực tăng trưởng quan trọng của vùng kinh tế động lực phía Bắc; một trọng điểm phát triển kinh tế biển; một trong những trung tâm công nghiệp, thương mại lớn của cả nước và trung tâm dịch vụ, du lịch, thủy sản, giáo dục và y tế của vùng duyên hải Bắc bộ”.
Các mục tiêu cụ thể là: Giá trị sản xuất công nghiệp, xây dựng đạt mức tăng trưởng 14%/năm; lĩnh vực dịch vụ đất đạt tốc độ tăng trưởng 14,2% (giai đoạn 2006-2010); 14,4% (giai đoạn 2011-2020)lĩnh vực nông-lâm-thủy sản đạt tốc độ tăng trưởng 5,5% (giai đoạn 2006-2010); 6,4% (giai đoạn 2011-2020); tốc độ tăng trưởng GDP bình quân từ 13 -13,5% (giai đoạn 2006-2010) và 13,5-14% giai đoạn 2011-2020.
Cơ cấu kinh tế chung của Hải Phòng chuyển dịch theo hướng tăng dịch vụ, công nghịêp-xây dựng và giảm lĩnh vực nông-lâm-thủy sản cụ thể là: giai đoạn 2006-2010, tỷ trọng dịch vụ 52-53%, công nghiệp-xây dựng: 30-40%, nông-lâm-thủy sản: 7-8%. Giai đoạn 2011-2020, tỷ trọng dịch vụ chiếm 63-64%, công nghiệp-xây dựng:33-34%, nông-lâm-thủy sản:3-4%.
Kim ngạch xuất khẩu đạt 1,9-2 tỷ USD vào năm 2010 và khoảng 6 tỷ USD vào năm 2020.
Tỷ lệ hộ nghèo giảm còn dưới 5% vào năm 2010.
Trên 90% hộ nông thôn dùng nước sạch; 100% số hộ có điện sử dụng.
Cơ bản hoàn thành phổ cập giáo dục bậc trung học và nghề vào năm 2008.
Tỷ lệ qua đào tạo ở các trình độ đạt 60-65% trong tổng số lao động trong độ tuổi vào năm 2020.
Với mục tiêu phát triển kinh tế -xã hội như trên, đặt ra nhu cầu rất lớn về lực lượng lao động (cả số lượng, chất lượng, quy mô, cơ cấu ...). Do đó, để có đủ lực lượng lao động cho nhu cầu phát triển kinh tế xã hội trong kỳ quy hoạch và đáp ứng nhu cầu tăng trưởng theo mục tiêu đề ra, đòi hỏi Hải Phòng phải phát triển thị trường sức lao động, chăm lo phát triển nguồn nhân lực, quan tâm đội ngũ lao động có trình độ cao. Nguồn nhân lực được phát triển sẽ là nhân tố quan trọng, quyết định thắng lợi mục tiêu phát triển kinh tế-xã hội của thành phố.
1.2.2. Nội dung tăng cường vai trò nhà nước trong phát triển thị trường sức lao động ở Hải Phòng.
1.2.2.1. Tăng cường vai trò nhà nước trong việc nâng cao chất lượng và số lượng cung sức lao động trên thị trường sức lao động.
Đặc điểm nổi bật của cung sức lao động trên thị trường sức lao động của Hải Phòng hiện nay là: Lao động chủ yếu vẫn là lao động nông nghiệp, nông thôn, (chiếm 50%), trong đó gần 20% lực lượng lao động trong khu vực này thiếu việc làm; lực lượng lao động chưa qua đào tạo gần 60%, trình độ chuyên môn, tay nghề chưa cao, ý thức tổ chức kỷ luật, tác phong công nghiệp kém ... cơ cấu ngành nghề được đào tạo chưa đáp ứng được yêu cầu thị trường sức lao động, thiếu sức lao động có kỹ thuật cao; thể lực người lao động yếu (cả về chiều cao và cân nặng) không phù hợp với việc sử dụng máy móc, thiết bị theo tiêu chuẩn quốc tế. Do vậy, khả năng cạnh tranh yếu, nhất là ở thị trường sức lao động yêu cầu lao động có trình độ kỹ thuật cao như các khu công nghịêp, khu chế xuất và xuất khẩu lao động.
Từ đặc điểm trên đây của cung sức lao động trên thị trường sức lao động, nó đòi hỏi thành phố Hải Phòng phải tăng cường hơn nữa, chú trọng tới chất lượng cung của sức lao động trên thị trường. Thành phố cần có chiến lược sát sao hơn, thực tiễn hơn, khả thị hơn trong vấn đào đào tạo nguồn nhân lực để đáp ứng thị trường sức lao động của thành phố. Vấn đề đào tạo không chỉ chú trọng đến trình độ, tay nghề của người lao động mà còn quan tâm tới cơ cấu ngành nghề, ý thức kỷ luật, tác phong công nghiệp của người lao động. Đào tạo cho người lao động không chỉ đáp ứng theo yêu cầu trước mắt, mà còn là vấn đề lâu dài. Đào tạo nguồn nhân lực không chỉ cho thị trường trong nước mà còn phải vươn ra thị trường quốc tế, nhất là trong giai đoạn hiện nay nước ta đã gia nhập tổ chức thương mại thế giới. Công tác đào tạo nguồn nhân lực cần được đen xen với các chương trình khác để đảm bảo nâng cao thể lực cho người lao động cả về cân nặng và chiều cao.
Để đảm bảo nâng cao chất lượng và số lượng cung sức lao động trên địa bàn Hải Phòng, một yếu tố không thể không tính đến đó là việc tiếp nhận lao động từ nước ngoài vào làm việc, khi mà chất lượng lao động của Hải Phòng còn nhiều yếu kém, tình trạng thiếu lao động có trình độ quản lý, lao động có tay nghề cao để đáp ứng cho các doanh nghiệp khá phổ biến. Các cơ quan chuyên môn của Ủy ban nhân dân thành phố, đặc biệt là các sở: Sở Lao động Thương binh và Xã hội,Công an, Y tế, Tư Pháp cần phối hợp chặt chẽ trong việc xây dựng kế hoạch tiếp nhận lao động nước ngoài vào làm việc để bù đắp sự thiếu hụt lao động có tay nghề cao hiện nay. Bên cạnh đó, phải kiên quyết không để các doanh nghiệp tự do tuyển chọn lao động phổ thông là người nước ngoài vào làm việc trên địa bàn thành phố.
1.2.2.2. Tăng cường vai trò nhà nước trong việc nâng cao chất lượng, số lượng cầu của thị trường sức lao động.
Cung và cầu sức lao động trên thị trường có mối quan hệ biện chứng với nhau. Khi chất lượng cầu sức lao động đòi hỏi ở mức độ nào thì kéo theo cung sức lao động phải biến động cho phù hợp với cầu.
Số doanh nghiệp trên địa bàn Hải Phòng (cầu sức lao động) hiện nay còn ít, quy mô doanh nghiệp còn nhỏ bé, bình quân mỗi doanh nghiệp khoảng 50 lao động, phần lớn là doanh nghiệp vừa và nhỏ, họat động gia công là chủ yếu, giá trị gia tăng thấp, khả năng đầu tư phát triển sản xuất, thu hút lao động hạn chế, tiền lương thấp, điều kiện lao động khó khăn ảnh hưởng đến quan hệ lao động trong doanh nghiệp.
Như vậy, với số lượng và chất lượng trên đây của các doanh nghịêp (cầu sức lao động) có thể thấy rằng, chất lượng cầu đòi hỏi không cao. Do đó, Hải Phòng cần tăng cường đầu tư, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghịêp mở rộng sản xuất, tăng quy mô, đặc biệt là áp dụng những thành tựu khoa học kỹ thuật, công nghệ mới để nâng chất lượng cầu, từ đó kéo theo chất lượng cung trên thị trường sức lao động.
Tăng cường vai trò nhà nước trong việc nâng cao chất lượng cầu sức lao động còn đòi thành phố Hải Phòng tăng đầu tư ngân sách cho phát triển nguồn nhân lực và tạo việc làm cho lao động. Hàng năm, ngân sách thành mới dành 4 tỷ đồng cho chương trình việc làm là quá ít, chỉ đáp ứng được khoảng 20% nhu cầu về vốn bổ sung để tạo việc làm. Việc quy hoạch phát triển các khu công nghiệp, khu đô thị mới phải gắn với các giải pháp chuyển đổi nghề, tái tạo việc làm, tạo việc làm ổn định cho lao động trong khu vực chuyển đổi mục đích sử dụng đất. Quy hoạch phát triển kinh tế xã hội nói chung của Hải Phòng, nhất là phát triển các ngành, khu công nghiệp, doanh nghiệp cần đồng bộ với quy hoạch đào tạo, sử dụng nguồn lao động. Hiện nay, công tác này mới chú trọng đến đất đai, vốn và công nghệ.
1.2.2.3. Tăng cường vai trò nhà nước đối với việc phát triển hệ thống thông tin thị trường lao động.
Hiện nay, hệ thống thông tin thị trường sức lao động của cả nước nói chung, Hải Phòng nói riêng còn yếu kém về mọi mặt. Việc kết nối cung-cầu sức lao động, tạo cơ hội cho người lao động, đặc biệt là thanh niên tiếp cận với các dịch vụ tư vấn, giới thiệu việc làm, dạy nghề ... còn nhiều hạn chế. Các trung tâm giới thiệu việc làm còn ít về số lượng, chất lượng họat động còn kém hiệu quả. Việc thu thập thông tin để xây dựng cơ sở dữ liệu về thị trường sức lao động của thành phố, thông tin về thị trường sức lao động, tổ chức sàn giao dịch việc làm chưa làm được. Điều đó ảnh hưởng rất lớn đến việc phát triển thị trường sức lao động của Hải Phòng. Đây là một nội dung quan trọng mà Hải Phòng cần phải tăng cường tổ chức triển khai nhằm phát triển thị trường sức lao động ở Hải Phòng.
1.2.2.4. Tăng cường vai trò nhà nước trong việc mở rộng và nâng cao chất lượng cung sức lao động đối với thị trường sức lao động ngoài nước.
Từ nhiều năm nay, Hải Phòng vẫn coi trọng thị trường sức lao động ngoài nước là một giải pháp quan trong trong giải quyết việc làm cho lao động, thực hiện chương trình giảm nghèo của thành phố. Tuy nhiên, các doanh nghiệp có chức năng xuất khẩu lao động trên địa bàn còn ít về số lượng, chưa thực sự là những đơn vị mạnh trong công tác xuất khẩu lao động. Thị trường lao động ngoài nước rất rộng, song chưa được khai thông. Lao động của Hải Phòng vẫn chủ yếu được đưa sang làm việc có thời hạn ở các thị trường truyền thống, với yêu cầu chất lượng lao động không cao, thu nhập thấp như: Đài Loan, Malaysia, Ả Rập ... những thị trường đòi hỏi lao động có kỹ thuật cao chưa làm được. Hàng năm, các doanh nghiệp xuất khẩu lao động mới đưa được hơn 1.000 lao động của Hải Phòng đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài là quá ít. Do đó, Hải Phòng cần đầu tư, hỗ trợ mạnh cho các doanh nghiệp xuất khẩu lao động trong việc mở rộng thị trường, đặc biệt chú trọng tới việc đào tạo tay nghề, ngoại ngữ, tác phong công nghiệp, ý thức kỷ luật cho người lao động khi tham gia thị trường sức lao động ngoài nước.
1.2.2.5. Tăng cường vai trò nhà nước trong việc hoàn thiện thể chế thị trường sức lao động.
Đảm bảo đối xử bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, người sử dụng lao động và người lao động; hướng dẫn thực hiện Luật Dạy nghề, Luật Bảo hiểm xã hội, Luật người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ Luật lao động về giải quyết tranh chấp và đình công, tiền lương tối thiểu; đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao trách nhiệm của chính quyền địa phương trong quản lý nhà nước về lao động -việc làm.
1.2.2.6. Tăng cường vai trò nhà nước trong việc hình thành tổ chức bộ máy quản lý, thanh tra, kiểm tra việc chấp hành pháp luật, chính sách và cơ chế họat động liên quan đến thị trường sức lao động.
Tạo lập, thúc đẩy để phát triển các loại thị trường nói chung, thị trường sức lao động nói riêng ở thành phố Hải Phòng là một vấn đề khá phức tạp, đòi hỏi sự cố gắng, nỗ lực chung của toàn xã hội, trong đó chính quyền thành phố Hải Phòng giữ vai trò hết sức quan trọng. Tuy nhiên, một vấn đề đặt ra là để cho thị trường hoạt động thông suốt, theo đúng quy luật của nó, thúc đẩy cạnh tranh, nhưng phải là cạnh tranh lành mạnh, đảm bảo định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhiệm vụ này đói hỏi chính quyền thành phố Hải Phòng phải làm tốt công tác quản lý các hoạt động liên quan đến thị trường sức lao động.
Chính quyền thành phố Hải Phòng cần tăng cường lực lượng cán bộ (cả số lượng và chất lượng) làm công tác lao động ở các địa phương. Củng cố hệ thống quản lý từ thành phố xuống đến quận huyện, phường xã; thực hiện việc phân cấp quản lý, phân công nhiệm vụ rõ ràng cho từng cấp, thường xuyên chỉ đạo cấp cơ sở làm tốt công tác quản lý lao động. Tăng cường hơn nữa công tác thanh tra, kiểm tra việc thực hiện các luật, chính sách liên quan đến các hoạt động của thị trường sức lao động; chú trọng đến việc thực hiện Bộ Luật lao động, Luật dạy nghề, Luật đưa người Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng ...
1.3. Kinh nghiệm về vai trò nhà nước trong phát triển thị trường sức lao động ở một số địa phương và bài học rút ra cho chính quyền thành phố Hải Phòng.
1.3.1. Kinh nghiệm về vai trò nhà nước trong phát triển thị trường sức lao động ở thành phố Hồ Chí Minh.
Thành phố Hồ Chí Minh có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và tốc độ công nghiệp hoá, đô thị hoá nhanh nên có sức hút mạnh về lao động. Đến cuối năm 2006, lao động của thành phố Hồ Chí Minh khoảng 3 triệu người. Trong đó có phần đóng góp rất lớn của lao động di cư từ các tỉnh khác đến.
Những năm gần đây, thành phố đã giải quyết được từ 170.000 đến 190.000 chỗ làm việc mới cho người lao động. Tuy nhiên, do cung sức lao động lớn, nên cầu sức lao động vẫn không đáp ứng kịp. Ngoài phần gia tăng của lực lượng dân số bước vào tuổi lao động của thành phố còn có phần đóng góp rất lớn của lực lượng dân số từ các địa phương khác đến (khoảng trên 40%), nên đã gây ra sức ép lớn về việc làm và nhiều vấn đề xã hội khác (cơ sở hạ tầng, quản lý…). Ngoài ra, số lao động thất nghiệp những năm trước tồn đọng lại cộng với số lao động dôi dư hàng năm, số bộ đội xuất ngũ không được đáp ứng việc làm…dẫn đến tỷ lệ thất nghiệp ở khu vực thành thị của thành phố Hồ Chí Minh khá cao (khoảng 7%/năm).
Cung sức lao động của thành phố tương đối cao nhưng chủ yếu vẫn là lao động phổ thông (chiếm trên 60%), thiếu lao đông kỹ thuật ở một số ngành chủ đạo và lao động có trình độ kỹ thuật cao.
Trên thị trường sức lao động thành phố đang có sự chênh lệch giữa các ngành nghề được đào tạo với nhu cầu tuyển dụng lao động của các cơ sở sản xuất.
Những năm gần đây, sự phân hoá lớn về mức tiền lương, thu nhập giữa các khu vực, các ngành kinh tế đã tạo nên sự di chuyển của các luồng nhân công trên thị trường sức lao động thành phố. Đặc biệt là đang có sự dịch chuyển lao động từ khu vực kinh tế nhà nước sang khu vực kinh tế ngoài nhà nước nhất là các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài với lực lượng lao động có trình độ kỹ thuật và tay nghề cao.
Những kinh nghiệm của chính quyền thành phố Hồ Chí Minh trong phát triển thị trường sức lao động thời gian qua là:
- Từ khi có đường lối đổi mới của Đảng (năm 1986), đặc biệt, từ khi có Bộ luật Lao động, chính quyền Thành phố đã kịp thời xây dựng và bổ sung nhiều chính sách nhằm tạo môi trường thuận lợi cho việc hình thành và hoạt động của thị trường sức lao động như: chính sách giải quyết việc làm, chính sách thu hút lao động, chính sách xuất khẩu lao động, chính sách đào tạo nghề cho người lao động, chính sách tiền lương, chính sách an sinh xã hội cho người lao động nhập cư (như: bảo hiểm, nhập khẩu, y tế, giáo dục…).
- Tăng cường đầu tư, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, điều chỉnh cơ cấu kinh tế, phát triển mạnh ngành dịch vụ… để tăng cầu về sức lao động.
- Tập trung phát triển các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao để thu hút đầu tư trong và ngoài nước, mở rộng sản xuất, giải quyết việc làm.
Đặc biệt là từ năm 2002 đến nay, Thành phố đẩy mạnh việc phát triển khu công nghệ cao và xem đây là giải pháp quan trọng để thu hút lao động có trình độ cao, giảm áp lực lao động phổ thông (mà đa phần là lao động ở nông thôn về thành thị và lao động ở các tỉnh nhập cư vào thành phố).
- Khuyến khích các thành phần kinh tế, các doanh nghiệp trên địa bàn phát triển sản xuất để tạo mở việc làm. Để tạo điều kiện cho doanh nghiệp tư nhân và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài hoạt động một cách có hiệu quả, từ khi có Luật Doanh nghiệp, Thành phố đã chú ý cải cách thủ tục đăng ký kinh doanh mới theo hướng đơn giản, thuận lợi hơn, hỗ trợ doanh nghiệp về những vấn đề khó khăn như: vay vốn, giải quyết thủ tục hành chính, hỗ trợ đào tạo nguồn nhân lực… Đồng thời, đẩy mạnh việc xúc tiến đâu tư nước ngoài, cải tiến thủ tục thuê đất, đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng để mời gọi đầu tư nước ngoài vào…
- Cải cách công tác quản lý nhà nước đối với thị trường sức lao động, đồng thời chú trọng phát triển và nâng cao chất lượng hoạt động của hệ thống môi giới thị trường sức lao động như: dịch vụ việc làm, dịch vụ xuất khẩu lao động, các cơ sở dạy nghề, tổ chức hội chợ việc làm; phối hợp các tỉnh lân cận trong vùng kinh tế trọng điểm phía Nam để thực hiện có hiệu quả việc tuyển dụng, đào tạo và sử dụng nguồn lao động… nhằm thúc đẩy cung-cầu lao động gặp nhau; quan tâm giải quyết các vấn đề bức xúc (như: tranh chấp lao động, “cò lao động”, đình công…); đẩy mạnh hoạt động thông tin, thống kê thị trường sức lao động để nắm bắt được các động thái của thị trường sức lao động, làm cơ sở cho việc quản lý vĩ mô và điều chỉnh các hoạt động của thị trường sức lao động.
- Ngoài ra, Thành phố còn chú ý phát triển các khu đô thị gắn với tạo nhiều việc làm dịch vụ như: dịch vụ nhà ở cho công nhân, dịch vụ bảo vệ trị an, chăm sóc cảnh quan, vệ sinh môi trường.
1.3.2. Kinh nghiệm về vai trò nhà nước trong phát triển thị trường sức lao động ở tỉnh Bình Dương.
Đến nay, tỉnh Bình Dương có 23 khu công nghiệp đang hoạt động với 94% lực lượng lao động là lao động nhập cư. Chỉ riêng con số đó thôi cũng cho thấy đây là một thị trường sức lao động khá đặc biệt.
Đại đa số lao động nhập cư vào trong các khu công công nghiệp tỉnh Bình Dương là lao động phổ thông (chiếm 85,8% - trong đó đa phần là lao động nữ: 76%) và lao động trẻ từ 15 -35 tuổi (chiếm 97,2%), số lao động có chuyên môn kỹ thuật chỉ chiếm 14,2%. Trong đó 1,6% (đại học, cao đẳng); 4,5% (trung cấp) và 8,1% là công nhân kỹ thuật.
Phần đông lao động làm việc trong các khu công nghiệp ở Bình Dương là những người nghèo, có thu nhập thấp (thu nhập bình quân hiện nay của người lao động khoản 750.000 - 800.000 đồng đối với lao động phổ thông; 1.400.000 đến 2.500.000 đồng đối với lao động có chuyên môn kỹ thuật).
Hàng năm, tỉnh Bình Dương có khoảng 15.000 - 18.000 người vào độ tuổi lao động, nhưng tham gia vào thị trường sức lao động ở khu công nghiệp tỉnh rất thấp bởi nhiều lý do: Thứ nhất, người lao động Bình Dương chủ yếu xuất thân từ nông nghiệp, chưa quen và chưa sẵn sàng tham gia lao động công nghiệp, hơn nữa sản xuất nông nghiệp ở Bình Dương còn có nhiều điều kiện thuận. Thứ hai, do giá cả sức lao động hiện có trên thị trường sức lao động ở các khu công nghiệp tỉnh chưa có sức hấp dẫn người lao động nội tỉnh, vì họ có rất nhiều cơ hội để có thể kiếm được thu nhập cao hơn, như làm các dịch vụ phục vụ ăn, ở, đi lại… của người lao động làm việc trong các khu công nghiệp. Thứ ba, tỉnh Bình Dương nằm trong vùng Đông Nam bộ, một số lao động người Bình Dương có trình độ chuyên môn kỹ thuật, tay nghề… nhưng họ chỉ tham gia thị trường sức lao động ngoài tỉnh như Đồng Nai, thành phố Hồ Chí Minh vì ở đó họ gặp người cần lao động mua với giá cao hơn, hấp dẫn hơn.
Do vậy, việc đáp ứng cầu lao động trên thị trường sức lao động ở các khu công nghiệp tỉnh Bình Dương chỉ chủ yếu dựa vào nguồn lao động nhập cư. Điều đó dẫn đến hiện tượng thiếu lao động thời điểm thường diễn ra vào dịp sau tết nguyên đán (do một số lao động nhập cư về quê ăn tết và không quay trở lại).
Bên cạnh đó, việc tuyển dụng lao động trên thị trường sức lao động tỉnh Bình Dương chủ yếu thông qua các trung tâm tư vấn và giới thiệu việc làm. Sự ra đời và phát triển của các trung tâm giới thiệu việc làm đã định hướng cho nguồn cung lao động tham gia thị trường được dễ dàng và thuận lợi. Nhưng trong thực tế mới chỉ có 02 trung tâm giới thiệu việc làm của tỉnh hoạt động, cung cấp trên 1.500 lao động, còn lại đa số là doanh nghiệp tự tuyển dụng qua các hình thức: thi và thi tuyển, hợp đồng lao động (chủ yếu là hợp đồng ngắn hạn). Hay do người lao động tự tìm việc (thông qua người thân)… Do đó, chưa tạo được tâm lý thật sự an tâm cho người lao động.
Thời gian qua, chính quyền tỉnh Bình Dương đã có những kinh nghiệm giải quyết vấn đề thị trường sức lao động như sau:
- Ngay từ những ngày đầu tái lập tỉnh (01/01/1997), chính quyền tỉnh Bình Dương đã nhanh chóng xác định đúng lợi thế của mình trong vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, trong hoàn cảnh đổi mới của đất nước và trong xu thế hội nhập. Tỉnh Bình Dương đã chủ trương phát triển các khu công nghiệp làm khâu then chốt, đột phá nhằm tạo đà tăng trưởng kinh tế, phát triển công nghiệp, dịch vụ, tăng nguồn hàng xuất khẩu, tạo ra nhiều việc làm mới… cho quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở địa phương. Chính sự phát triển của các khu công nghiệp trên địa bàn tỉnh đã thúc đẩy thị trường sức lao động ở tỉnh phát triển sôi động, góp phần giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho người lao động trong và ngoài tỉnh.
- Chính quyền tỉnh đã tăng cường đầu tư phát triển kinh tế xã hội, xây dựng kết cấu hạ tầng thuận lợi để thu hút đầu tư trong và ngoài nước đầu tư phát triển sản xuất, tạo mở việc làm, giải quyết vấn đề lao động dôi dư. Tạo môi trờng và điều kiện thông thoáng để mời gọi đầu tư và thu hút lao động trong và ngoài tỉnh vào làm việc tại các khu công nghiệp tỉnh.
- Luôn quan tâm giải quyết các vấn đề bức xúc trên thị trường sức lao động trong các khu công nghiệp của tỉnh như vấn đề tranh chấp lao động, vấn đề nhà ở và các điều kiện sinh hoạt khác cho công nhân; vấn đề cải cách tiền lương, thu nhập, vấn đề đào tạo nghề cho người lao động… chú ý nâng cao chất lượng hoạt động của hệ thống dịch vụ thị trường sức lao động như dịch vụ giới thiệu việc làm (kể cả nhà nước và tư nhân), thông tin thị trường sức lao động, các cơ sở đào tạo nghề, hội chợ việc làm… nhằm hạn chế những tiêu cực trong tuyển dụng và sử dụng lao động; nâng cao vai trò của các tổ chức đại diện cho người lao động (công đoàn, các tổ chức chính trị xã hội) để bảo vệ lợi ích cho người lao động.
- Ngoài ra, tỉnh đã chú ý xây dựng và bổ sung những chính sách cho người lao động nhập cư như: nhập khẩu, đất đai, nhà ở, giáo dục, y tế, hôn nhân…
1.3.3. Những bài học kinh nghiệm rút ra cho chính quyền thành phố Hải Phòng về vai trò nhà nước trong phát triển thị trường sức lao động.
Qua nghiên cứu kinh nghiệm về vai trò nhà nước trong phát triển thị trường sức lao động ở thành phố Hồ Chí Minh và tỉnh Bình Dương, có thể rút ra những bài học kinh nghiệm cho chính quyền thành phố Hải Phòng trong phát triển thị trường sức lao động như sau:
Một là, chính quyền thành phố Hải Phòng phải không ngừng phát triển và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trên cơ sở nhu cầu lao động của xã hội, coi đây là một giải pháp quan trọng nhất, năng động nhất quyết định đến sự phát triển của thị trường sức lao động.
Hai là, thực hiện cải cách chế độ tiền lương, thu nhập cho người lao động: bởi vì giá cả sức lao động (tiền lương, thu nhập) là nhân tố rất quan trọng, ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng của cung - cầu lao động và sự dịch chuyển lao động trên thị trường sức lao động. Việc cải cách cần tính toán đến mức độ đóng góp của người lao động, kết hợp chặt chẽ lợi ích cá nhân của người lao động với lợi ích của doanh nghiệp, tổ chức, đồng thời chú ý thang bậc lương cho người lao động trong các ngành nghề, các khu vực kinh tế khác nhau.
Ba là, Chính quyền thành phố thực sự quan tâm đến đời sống an sinh xã hội của người lao động di cư như: các vấn đề nhà ở, vấn đề giáo dục, y tế, bảo hiểm xã hội, bảo trợ xã hội, an ninh trật tự…để cho người lao động nhập cư có đủ điều kiện "an cư lạc nghiệp".
Bốn là, thành phố nâng cao tính hiệu quả trong hoạt động của hệ thống dịch vụ việc làm và thông tin thị trường sức lao động. Dịch vụ việc làm là một loại hình dịch vụ nhạy cảm, phát sinh do nhu cầu thị trường. Do đó, cần có sự quản lý, hỗ trợ để nó hoạt động có hiệu quả. Cần phải xây dựng mạng lưới thông tin thị trường sức lao động một cách rộng rãi đến tận cơ sở để tuyên truyền phổ biến sâu rộng những chủ trương, chính sách, pháp luật của N._.khai về giải phóng mặt bằng … tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động đầu tư nước ngoài.
- Khai thác và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn tạo việc làm, có cơ chế chính sách tạo việc làm phù hợp từ nguồn vốn: ngân sách nhà nước, vốn vay từ nước ngoài, vốn tài trợ của các tổ chức quốc tế, tổ chức từ thiện, nguồn vốn trong dân. Đặc biệt quan tâm cho vay đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các doanh nghiệp thu hút, sử dụng nhiều lao động, các làng nghề, các hộ sản xuất hàng xuất khẩu; tập trung nguồn vốn nhiều hơn cho các khu vực có đất nông nghiệp chuyển đổi mục đích sử dụng.
- Phối hợp với các bộ, ngành trung ương, các tỉnh, thành phố để phát triển mạnh kinh tế vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, từng bước thu hút lao động từ các địa phương lân cận.
3.2.2. Giải pháp điều tiết quan hệ cung -cầu sức lao động, nâng cao chất lượng cung sức lao động.
3.2.2.1 Thực hiện giải pháp điều tiết quan hệ cung-cầu sức lao động.
- Tiếp tục thực hiện chủ trương di chuyển các doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động trong nội thành ra khu vực ngoại thành nhằm giảm sức ép việc làm ở nội thành và tạo điều kiện thu hút lao động ngoại thành, ngoại tỉnh vào làm việc. Ban hành chính sách ưu đãi, hỗ trợ các doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động nữ, người tàn tật, người sau cai nghiện…; có cơ chế phân luồng học sinh nhằm phân bố, sử dụng hợp lý lao động.
Trong những năm gần đây, Hải Phòng đã thực hiện việc di chuyển các doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động từ khu vực nội thành ra khu vực ngoại thành. Việc di chuyển doanh nghiệp được thực hiện cả những doanh nghiệp sẵn có trong nội thành và những doanh nghiệp mới được thành lập. Chủ trương di dời các doanh nghiệp từ khu vực nội thành ra ngoại thành sẽ còn tiếp tục thực hiện trong nhiều năm tới. Đây là một chủ trương đúng đắn về mặt kinh tế xã hội đồng thời là một giải pháp quan trọng để điều tiết quan hệ cung-cầu sức lao động trên thị trường sức lao động của Hải Phòng.
Việc ban hành các chính sách ưu đãi đối với các doanh nghiệp nhận nhiều lao động nữ, lao động là người tàn tật, người sau cai là hết sức cần thiết, vừa tăng vai trò xã hội của các doanh nghiệp, đồng thời thực hiện điều tiết quan hệ cung cầu sức lao động.
- Tiếp tục kiểm soát, hạn chế tốc độ gia tăng dân số tự nhiên; áp dụng công nghệ tin học vào quản lý dân cư, lao động.
Mục tiêu điều tiết cung lao động trên thị trường sức lao động của Hải Phòng là làm giảm sức ép của cung lao động lên cầu lao động, từ đó giảm sức ép về việc làm và nâng cao mức độ linh hoạt của cung lao động trên thị trường. Để đạt được mục tiêu đó cần thực hiện có hiệu quả chính sách dân số, kế hoạch hóa gia đình, vì: Cung lao động là một bộ phận cấu thành của dân số, một dân số đông và tăng nhanh sẽ tạo nên một cung lao động lớn. Đến lượt mình, dân số lại ảnh hưởng của quá trình sinh, chết, di dân và một số yếu tố kinh tế xã hội khác. Do đó, để giảm sức ép về cung lao động trên thị trường sức lao động Hải Phòng, trước hết, các cấp ủy Đảng, chính quyền, đoàn thể cần thường xuyên chỉ đạo, kiểm tra nhằm thực hiện tốt, có hiệu quả chính sách dân số-kế hoạch hóa gia đình.
- Ban hành chính sách quản lý và sử dụng lao động ngoại tỉnh:
Di chuyển lao động trên thị trường sức lao động trong mỗi địa phương cũng như cả nước là hiện tượng hết sức bình thường trong nền kinh tế thị trường. Tuy nhiên, để có chính sách tốt trong việc quản lý nguồn nhân lực, ngoài việc nắm chắc nguồn nhân lực của Hải Phòng thì việc nắm di biến động lao động đối với lao động của Hải Phòng đi làm việc ở các địa phương khác và từ địa phương khác đến Hải Phòng là một việc làm hết sức cần thiết, đặc biệt đối với lao động nhập cư vào thành phố. Muốn vậy, Hải Phòng cần phải:
+ Xây dựng quy chế về nghĩa vụ và quyền lợi của người lao động ngoại tỉnh vào thành phố.
+ Xây dựng Quy định về trách nhiệm của đơn vị, cá nhân trong việc sử dụng lao động ngoại tỉnh, bao gồm quy định về khai báo di biến động lao động, giải quyết nơi ăn, chỗ ở và đảm bảo về điều kiện làm việc cho lao động ngoại tỉnh.
+ Thành phố dành đất ưu tiên cho các đơn vị sử dụng nhiều lao động ngoại thành, ngoại tỉnh thuê để xây dựng nhà ở cho lao động, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp kinh doanh nhà ở xây dựng một số khu nhà ở với giá rẻ cho lao động ngoại thành, ngoại tỉnh thuê.
+ Đổi mới quy định và cải tiến thủ tục đăng ký hộ khẩu đối với lao động nhập cư.
3.2.2.2. Nâng cao chất lượng cung sức lao động cho thị trường.
Muốn nâng cao chất lượng cung sức lao động thì giải pháp cơ bản nhất, quan trọng nhất là thực hiện tốt chính sách về giáo dục, đào tạo. Trong đó, công tác dạy nghề cho người lao động phải được hết sức ưu tiên.
*. Thúc đẩy phong trào học tập, nâng cao trình độ học vấn của lực lượng lao động, đặc biệt là lực lượng lao động trẻ. Phấn đấu hết năm 2008, thành phố cơ bản hoàn thành chương trình phổ cập bậc trung học và nghề. Tiến hành phân luồng học sinh tốt nghiệp trung học cơ sở vào học lớp 10, đảm bảo một tỷ lệ thích hợp học sinh vào học nghề và các loại hình học tập khác. Việc phân luồng học sinh phải đảm bảo theo hướng tăng dần số học sinh học nghề.
*. Xây dựng và phát triển mạnh hệ thống đào tạo, dạy nghề:
- Phát triển mạnh hệ thống các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp, dạy nghề trên địa bàn theo hướng đồng bộ về cơ cấu, ngành nghề, chú trọng các ngành nghề hiện đang thiếu trên thị trường sức lao động, đáp ứng sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Cụ thể:
+ Chú trọng đầu tư các trường thuộc ngành công nghiệp chủ lực, dịch vụ trình độ cao, chất lượng cao, công nghệ hiện đại…
+ Tập trung đầu tư xây dựng cụm trường nghề ở khu vực ven đô và một số khu đô thị mới.
+ Nâng cấp một số trường dạy nghề hiện tại thành trường Cao đẳng nghề để đáp ứng đào tạo liên thông theo 3 cấp trình độ: sơ cấp nghề, trung cấp nghề, cao đẳng nghề. Hình thành hệ thống đào tạo kỹ thuật công nghệ thực hành.
+ Thực hiện xã hội hoá đối với một số trường trung học chuyên nghiệp, dạy nghề thuộc Thành phố quản lý; xem xét áp dụng phương pháp đào tạo nghề từ xa.
+ Hình thành, xây dựng các vườn ươm công nghệ, vườn ươm doanh nghiệp góp phần đào tạo cán bộ quản lý doanh nghiệp và lao động chất lượng cao.
+ Đổi mới chương trình, giáo trình các trường đào tạo nghề. Đa dạng hoá các hình thành đào tạo nghề, chú trọng đào tạo gắn với sử dụng, gắn với nhu cầu của sản xuất; tăng cường đào tạo tại doanh nghiệp, cơ sở sản xuất.
- Xây dựng và thực hiện các chính sách thu hút giáo viên cho các cơ sở dạy nghề, tạo điều kiện nâng cao chất lượng đào tạo:
+ Xây dựng, hoàn thiện chính sách ưu đãi, thu hút nhân tài.
+ Xây dựng chính sách thu hút tuyển dụng, đào tạo, đãi ngộ giáo viên, trong đó quan tâm đến chính sách đặc thù để thu hút cán bộ, giáo viên, công chức nhà nước tham gia giảng dạy trong các trường cao đẳng nghề, trung học chuyên nghiệp, dạy nghề của thành phố.
+ Hỗ trợ ngân sách về đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ giáo viên ở trong nước và nước ngoài đối với các trường đào tạo nghề.
- Xây dựng và thực hiện các chính sách khuyến khích các cơ sở dạy nghề:
+ Thực hiện cơ chế chính sách ưu đãi về tín dụng, đất đai, thủ tục đầu tư để khuyến khích mọi tổ chức, cá nhân thuộc các thành phần kinh tế trong và ngoài nước tham gia đào tạo nghề.
+ Khuyến khích các doanh nghiệp tự đào tạo nghề cho người lao động thông qua chính sách hỗ trợ của thành phố cho doanh nghiệp trong đào tạo nghề cho người lao động.
+ Thành lập Quỹ đào tạo nghề từ các nguồn: ngân sách thành phố, đóng góp của người sử dụng lao động, người lao động, hợp tác quốc tế…
+ Ban hành quy chế về mối quan hệ giữa đào tạo, dạy nghề với cơ sở sử dụng lao động nhằm thu hút sự tham gia của các doanh nghiệp, các tổ chức vào công tác đào tạo nghề.
+ Xây dựng kế hoạch đào tạo nghề theo đơn đặt hàng.
- Thực hiện đổi mới cơ chế sử dụng ngân sách trong đào tạo nghề:
+ Tổ chức đấu thầu chỉ tiêu đào tạo nghề do Thành phố đặt hàng đào tạo trên cơ sở đảm bảo chất lượng đào tạo theo quy định của Thành phố.
+ Chuyển đổi việc cấp phát kinh phí đào tạo cho lao động trong vùng chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp (từ hình thức trực tiếp trả cho hộ dân sang cơ quan quản lý lao động để thực hiện chuyển trả cho cơ sở đào tạo nghề cho người lao động).
+ Vấn đề học bổng, học phí cho học sinh học nghề: Đổi mới chế độ học bổng hoặc trợ cấp học phí cho học sinh học những ngành, nghề mũi nhọn hoặc những ngành, nghề cần thiết phục vụ nền kinh tế quốc dân mà không thu hút được học sinh, những học sinh thuộc diện chính sách, người tàn tật, người thuộc diện hộ nghèo ở cả cơ sở công lập và ngoài công lập.
3.2.3. Hoàn thiện các giao dịch chính thức, phát triển hệ thống thông tin thị trường sức lao động.
3.2.3.1. Phát triển hệ thống giao dịch của thị trường sức lao động.
Phát triển hệ thống giao dịch của thị trường sức lao động là điều kiện quan trọng để thị trường sức lao động hoạt động bình thường, khách quan, thực hiện các chức năng, nhiệm vụ cầu nối giữa cung – cầu lao động. Các giải pháp chủ yếu mà thành phố Hải Phòng cần tập trung là:
- Đầu tư hiện đại hoá một trung tâm giao dịch lao động đạt tiêu chuẩn các nước trong khu vực. Trung tâm có thiết bị hiện đại, sử dụng công nghệ thông tin tiên tiến (Internet, Website…) để thực hiện giao dịch mua bán lành mạnh, có hiệu quả, mang tính chuyên nghiệp.
- Phát triển đa dạng các kênh giao dịch trên thị trường sức lao động (thông tin, quảng cáo, trang tìm việc làm, trang dạy nghề trên các phương tiện thông tin đại chúng như: đài phát thanh, truyền hình, báo, tổ chức các hội chợ việc làm, sàn giao dịch việc làm…) nhằm đa dạng, phong phú, linh hoạt các giao dịch giữa người mua và người bán trên thị trường.
- Củng cố, sắp xếp hệ thống giới thiệu việc làm để hoạt động có hiệu quả, làm tốt vai trò cầu nối gữa cung-cầu lao động trên thị trường. Cụ thể:
+ Quy hoạch lại mạng lưới giới thiệu việc làm phù hợp với thị trường sức lao động của thành phố.
+ Đào tạo, tập huấn trao đổi kỹ năng nghiệp vụ cho độ ngũ thực hiện chức năng tư vấn, cung cấp dịch vụ việc làm tại các trung tâm nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển của thị trường sức lao động.
+ Tạo hành lang pháp lý cho các đơn vị có chức năng giới thiệu việc làm của mọi thành phần kinh tế hoạt động bình đẳng, cạnh tranh lành mạnh, hoạt động đúng quy định của pháp luật, bám sát thực tiễn phát triển kinh tế – xã hội và khoa học công nghệ trong nước và quốc tế.
+ Củng cố, chấn chỉnh hoạt động của các đơn vị, doanh nghiệp có chức năng giới thiệu việc làm. Tổ chức thẩm định, cấp phép hoạt động giới thiệu việc làm đối với các doanh nghiệp hoạt động theo Luật Doanh nghiệp. Xem xét đề nghị các bộ, ngành, đoàn thể củng cố các trung tâm giới thiệu việc làm hiện có trên địa bàn thành phố.
- Tăng cường quản lý Nhà nước, củng cố và nâng cao chất lượng hoạt động của các đơn vị xuất khẩu lao động:
+ Kiện toàn, sắp xếp lại hệ thống các đơn vị xuất khẩu lao động thuộc thành phố quản lý, hỗ trợ gián tiếp các doanh nghiệp để nâng cao năng lực cạnh tranh trên thị trường.
+ Ban hành một số quy định cụ thể trong xuất khẩu lao động: chính sách ưu đãi cho người lao động vay đi xuất khẩu lao động, ưu tiên các đối tượng gia đình chính sách, hộ nghèo; bố trí kinh phí hàng năm tổ chức các đoàn xúc tiến xuất khẩu lao động, mở thị trường xuất khẩu lao động mới ở các nước trong khu vực và trên thế giới.
3.2.3.2. Phát triển hệ thống thông tin, thống kê thị trường sức lao động.
Việc điểu chỉnh hoạt động của thị trường sức lao động đòi hỏi phải có một hệ thống cơ sở dữ liệu và thông tin đầy đủ, cập nhật, có độ tin cậy cao. Đó là các thông tin về cung-cầu lao động, về cơ cấu việc làm, về đào tạo nghề, di chuyển lao động, tiền lương, tiền công, chỗ việc làm mới, chỗ việc làm trống … Thông qua các số liệu về dân số, hoạt động kinh tế, thông tin thị trường sức lao động cung cấp cơ sở dữ liệu để xác định cung lao động, là nền tảng để hình thành các chính sách về phát triển nguồn nhân lực. Để làm tốt việc này, Hải Phòng phải:
- Thiết lập hệ thống thông tin, thống kê thị trường sức lao động thống nhất từ thành phố đến quận, huyện, xã, phường; bao gồm 3 hệ thống sau:
+ Hệ thống thông tin hướng nghiệp, dạy nghề: Cung cấp các thông tin về cơ hội đào tạo, các chương trình giáo dục, đào tạo, hướng dẫn lựa chọn nghề nghiệp, trình độ tay nghề và nhu cầu học nghề, cơ cấu trình độ đào tạo.
+ Hệ thống thông tin giới thiệu việc làm: Cung cấp các thông tin về cơ hội việc làm, nhu cầu tuyển lao động trong các doanh nghiệp, nhu cầu của người tìm việc, khả năng làm việc trên thị trường.
+ Hệ thống thông tin thống kê thị trường sức lao động: Cung cấp các thông tin về cung, cầu lao động, phân bố dân số hoạt động kinh tế, nguồn lao động, điều kiện làm việc, an toàn lao động, quan hệ lao động, giá trị sức lao động và năng suất lao động…
- Tổ chức cập nhật các thông tin về cung, cầu lao động trên thị trường sức lao động. Tiến hành điều tra, khảo sát, tổng hợp, đánh giá, lưu trữ các thông tin về số lượng, chất lượng nguồn lao động, về thị trường sức lao động.
- Thực hiện công tác thông tin thị trường sức lao động, tổ chức thực hiện tốt các quy định về chế độ, hệ thống báo cáo thông tin về quản lý nguồn lao động từ thành phố đến quận, huyện, xã, phường.
- Đổi mới, nâng cao chất lượng về tổ chức chợ việc làm. Khuyến khích các đơn vị tự tổ chức các “phiên chợ” lao động việc làm.
3.2.4. Giải pháp nhằm tăng cường quản lý nhà nước đối với hoạt động của thị trường sức lao động.
Thị trường sức lao động là một thị trường mới được thừa nhận, nó là một thị trường hàng hóa đặc biệt - hàng hóa sức lao động, gắn với con người. Đó là một thị trường hết sức năng động, nhạy cảm. Vì vậy, tăng cường công tác quản lý đối với các hoạt động của thị trường này là một nội dung hết sức quan trọng, nó quyết định đến việc làm hạn chế các mặt tiêu cực vốn có xuất phát từ bản chất thị trường nói chung, hướng thị trường sức lao đông theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Để quản lý tốt hoạt động thị trường sức lao động về phía chính quyền thành phố Hải Phòng cần phải thực hiện tốt các nội dung sau:
- Thường xuyên tổ chức điều tra, khảo sát để nắm vững cung-cầu lao động cả số lượng, chất lượng, cơ cấu, nắm vững sự biến động của cung-cầu lao động trong từng thời điểm cũng như dự báo sự biến động này trong tương lai để có cơ sở khoa học trong quy hoạch, phát triển, phân bố và sử dụng nguồn nhân lực.
Đây là một nội dung quan trọng trong quản lý các hoạt động của thị trường sức lao động. Song công tác này từ trước đến nay Hải Phòng chưa thực sự quan tâm. Chưa có năm nào thành phố đầu tư để khảo sát toàn bộ nguồn lao động của thành phố cũng như nhu cầu sử dụng lao động trong các doanh nghiệp làm cơ sở dữ liệu cho việc hoạch định chính sách phát triển thị trường sức lao động. Các cuộc điều tra hàng năm chủ yếu là điều tra mẫu theo từng nội dung của thị trường lao động nhằm phục vụ cho từng chuyên đề cụ thể. Do đó, không có được những số liệu tin cậy trong hoạch định các chính sách phát triển chung của thị trường sức lao động của thành phố.
- Tăng cường công tác giáo dục pháp luật lao động, phổ biến quán triệt các văn bản pháp quy có liên quan đến lao động, thể chế thị trường sức lao động để nâng cao trình độ hiểu biết cho người lao động và người sử dụng lao động nhằm nâng cao khả năng thực thi các văn bản đó. Đồng thời tăng cường công tác thanh, kiểm tra việc thực thi pháp luật lao động, xử lý nghiêm minh, kịp thời các hành vi vi phạm pháp luật lao động.
- Tăng cường quản lý nhà nước về tiền lương, tiền công, giá cả sức lao động trên thị trường sức lao động:
+ Trên cơ sở các văn bản quy định của nhà nước, thực hiện điều tiết và giám sát tiền lương, tiền công, trong đó có tiền lương tối thiểu trên thị trường sức lao động. Kiên quyết xử lý các trường hợp trả lương trái với các văn bản pháp quy như trả lương dưới mức lương tối thiểu, áp dụng lương tối thiểu không đúng theo quy định…
+ Tổ chức khảo sát, điều tra, cập nhật thông tin giá cả thị trường sức lao động đối với các loại hình lao động phổ biến hiện nay ở Hải Phòng, thực hiện việc báo giá các loại lao động theo định kỳ trên các phương tiện thông tin đại chúng.
+ Hướng dẫn các tổ chức, doanh nghiệp trả lương cho người lao động tuân thủ các chính sách, chế độ quy định về tiền lương của nhà nước, đồng thời tiếp cận với thị trường sức lao động để điều chỉnh các quan hệ lao động, quan hệ tiền lương, tiền công phù hợp.
+ Tổ chức rà soát, đánh giá các văn bản của nhà nước, của thành phố trong lĩnh vực tiền lương, tiền công để loại bỏ các văn bản không phù hợp, chồng chéo; xây dựng và bổ sung các văn bản mới, nhất là các văn bản liên quan đến chính sách thu hút, trọng dụng lao động có trình độ cao.
- Quản lý có hiệu lực và hiệu quả các công cụ của thị trường sức lao động như quản lý các trung tâm giới thiệu việc làm, các doanh nghiệp xuất khẩu lao động, hệ thống thông tin thị trường sức lao động của thành phố.
- Nâng cao trình độ chuyên môn và năng lực quản lý nhà nước của các cơ quan quản lý lao động các cấp. Tăng cường đội ngũ cán bộ làm công tác lao động. Thực hiện tốt việc phân cấp quản lý lao động cho các cấp.
- Tăng cường vai trò của các tổ chức đoàn thể trong việc điều tiết thị trường sức lao động và bảo vệ quyền lợi của các bên có liên quan. Thường xuyên giáo dục tác phong công nghiệp cho đội ngũ công nhân đồng thời có biện pháp bảo vệ quyền lợi chính đáng của người lao động qua tổ chức Đảng, công đoàn, đoàn thanh niên, nhất là đối với lao động làm việc ở khu vực dân doanh, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài.
KẾT LUẬN
Phát triển thị trường sức lao động cũng như việc tăng cường vai trò nhà nước để phát triển thị trường này là một tất yếu khách quan. Vấn đề này đã được khảng định cả về lý luận và thực tiễn. Tuy nhiên, phát triển thị trường sức lao động trong điều kiện nền kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay là một vấn đề vô cùng khó khăn, phức tạp và mới mẻ. Điều đó càng thấy rõ tầm quan trọng của nhà nước đối với việc phát triển loại thị trường này ở nước ta nói chung thành phố Hải Phòng nói riêng. Nhà nước tăng cường vai trò của mình để phát triển thị trường sức lao động với mục tiêu thông qua thị trường sức lao động để sử dụng một cách hiệu quả nhất nguồn nhân lực của đất nước-một yếu quan trọng nhất, năng động nhất của quá trình sản xuất xã hội.
Thị trường sức lao động ở nước ta là thị trường sức lao động định hướng xã hội chủ nghĩa, được hình thành và phát triển trên cơ sở đường lối đổi mới của Đảng và nhà nước về phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Mục đích của thị trường sức lao động định hướng xã hội chủ nghĩa là xây dựng quan hệ lao động mới phù hợp trên cả 3 mặt: sở hữu, quản lý và phân phối. Trong quá trình hình thành và phát triển thị trường sức lao động đã thể hiện rõ nét vai trò, sự nỗ lực của nhà nước để thúc đẩy thị trường này. Nhà nước đã phát huy ưu thế của thị trường, đồng thời hạn chế được sự tự phát và những hậu quả tiêu cực nhằm đảm bảo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Trong quá trình đổi mới, Chính quyền và các cơ quan chuyên môn của Hải Phòng đã hết sức cố gắng để tác động, hỗ trợ, thúc đẩy thị trường sức lao động hình thành và phát triển. Sự cố gắng đó bước đầu đã đem lại những kết quả rất đáng phấn khởi; góp phần giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho người lao động, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế - xã hội … Song, bên cạnh đó vẫn còn nhiều bất cập và hạn chế của thị trường sức lao động nói chung, vai trò nhà nước ở Hải Phòng đối với thị trường này nói riêng cần phải khắc phục. Thành phố Hải Phòng chưa thực sự quan tâm tới đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao. Công tác quản lý nhà nước đối với các kênh giao dịch trên thị trường sức lao động còn nhiều hạn chế. Vẫn còn trung tâm giới thiệu việc làm “ma”; tình trạng người lao động bị lừa đảo trong quá trình tìm kiếm việc làm hoặc đi xuất khẩu lao động vẫn còn xảy ra; thành phố vẫn chưa đẩy mạnh việc thành lập để đưa sàn giao dịch việc làm vào hoạt động …Nhìn chung, vai trò của nhà nước ở Hải Phòng vẫn chưa theo kịp yêu cầu của thực tiễn trong việc phát triển thị trường sức lao động.
Trên cơ sở phân tích thực trạng thị trường sức lao động, thực trạng vai trò nhà nước trong phát triển thị trường sức lao động ở thành phố Hải Phòng luận văn đã đưa ra một số phương hướng, giải pháp nhằm tăng cường vai trò nhà nước trong phát triển thị trường sức lao động ở thành phố Hải Phòng. Trong đó, luận văn tập trung nghiên cứu những vấn đề sau:
- Phân tích khái niệm, vị trí và vai trò của thị trường sức lao động.
- Phân tích sự cần thiết phải có can thiệp của nhà nước đối với phát triển thị trường sức lao động và nội dung vai trò nhà nước trong phát triển thị trường sức lao động.
- Nghiên cứu các kinh nghiệm phát triển thị trường sức lao động của thành phố Hồ Chí Minh, của tỉnh Bình Dương và rút ra các bài học cho phát triển thị trường sức lao động ở thành phố Hải Phòng.
- Phân tích, đánh giá thực trạng thị trường sức lao động, đặc biệt là thực trạng vai trò nhà nước trong phát triển thị trường sức lao động ở thành phố Hải Phòng. Từ đó, đi đến những nhận định các vấn đề còn tồn tại trong thị trường sức lao động ở thành phố Hải Phòng, nhất là những hạn chế của vai trò nhà nước trong phát triển thị trường sức lao động ở thành phố.
- Cuối cùng, luận văn đã đưa ra những phương hướng, giải pháp nhằm tăng cường vai trò nhà nước để phát triển thị trường sức lao động ở Hải Phòng trong thời gian tới./.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (2003), Những điều cần biết về Bộ luật Lao động sau khi đã sửa đổi bổ sung, Nhà xuất bản Lao động – Xã hội, Hà Nội.
Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (2001), Thực trạng lao động việc làm ở Việt Nam năm 2001, Nhà xuất bản Thống kê, Hà Nội.
Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (2002), Thực trạng lao động việc làm ở Việt Nam năm 2002, Nhà xuất bản Thống kê, Hà Nội.
Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (2003), Thực trạng lao động việc làm ở Việt Nam năm 2003, Nhà xuất bản Thống kê, Hà Nội.
Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (2004), Thực trạng lao động việc làm ở Việt Nam năm 2004, Nhà xuất bản Thống kê, Hà Nội.
Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (1994), Thị trường lao động và giải quyết việc làm.
Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (1999), Sổ tay thống kê thông tin thị trường lao động ở Việt Nam, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Chiến lược đào tạo nghề 2001 - 2010.
Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (2003), Hướng dẫn nghiệp vụ giải quyết việc làm, Nhà xuất bản Lao động – Xã hội, Hà Nội.
Bộ Giáo dục và Đào tạo (1997), Kinh tế chính trị học Mác – Lênin (tài liệu dùng trong lớp bồi dưỡng giáo viên Mác – Lênin), Hà Nội.
Bùi Đức Kháng (2005), Vai trò của nhà nước trong nền kinh tế thị trường, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 4/2005.
Bộ Giáo dục và Đào tạo (2003), Kinh tế chính trị học Mác – Lênin, Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội.
C.mac-Ph.Anghen (1993), tuyển tập, tập 23, Nhà xuất bản chính trị quốc gia, Hà Nội.
Cục Thống kê thành phố Hải Phòng (2006), Niên giám thống kế thành phố Hải Phòng 2005, Nhà xuất bản Thống kê, Hà Nội.
Đảng cộng sản Việt Nam (1987), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội.
Đảng cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Đảng cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Đảng cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Đảng cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Đại học Kinh tế quốc dân Hà Nội (2001), Giáo trình Kinh tế học vi mô, Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội.
Đại học Kinh tế quốc dân Hà Nội (1998), Giáo trình Kinh tế lao động, Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội.
Hoàng Văn Hoa (2006), Xây dựng và hoàn thiện hệ thống thị trường trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam, Tạp chí Nghiên cứu kinh tế số 3/2006.
Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng (2007), Nhà xuất bản Lao động - Xã hội, Hà Nội.
Luật Bảo hiểm xã hội (2006), Nhà xuất bản Lao động -Xã hội, Hà Nội.
Luật Dạy nghề (2007), Nhà xuất bản Lao động - Xã hội, Hà Nội.
Lao động - Thương binh và Xã hội, Chuyên đề thông tin thị trường lao động từ năm 2000 đến năm 2005.
Nguyễn Lương Trào, (2003), Báo cáo kết quả nghiên cứu đề tài: Xây dựng nội dung chương trình bồi dưỡng nghiệp vụ cho cán bộ doanh nghiệp xuất khẩu lao động.
Nguyễn Đại Đồng, Định hướng phát triển thị trường lao động Việt Nam, Website Người tìm việc – việc tìm người của Sở Lao động - Thương binh và Xã hội tỉnh Bà rịa – Vũng Tàu.
Nguyễn Quang Hiển (1995), Thị trường lao động thực trạng và giải pháp, Nhà xuất bản Thống kê, Hà Nội.
Nguyễn Hữu Dũng, Trần Hữu Trung (1997), Về chính sách giải quyết việc làm ở Việt Nam, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, Tổ chức lao động quốc tế (2004), Tạo môi trường thuận lợi để phát triển doanh nghiệp nhỏ nhằm góp phần tăng trưởng kinh tế và xoá đói giảm nghèo, Hà Nội.
Phạm Đức Chính (2004), Thị trường lao động: Vấn đề lý thuyết và thực trạng hình thành, phát triển ở Việt Nam, Tạp chí Nghiên cứu kinh tế số 1/2004.
Thành uỷ Hải Phòng (2002), Văn kiện Đại hội lần thứ XII Đảng bộ thành phố nhiệm kỳ 2001-2005.
Thành uỷ Hải Phòng (2006), Văn kiện Đại hội lần thứ XIII Đảng bộ thành phố nhiệm kỳ 2005-2010.
Sở Lao động - Thương binh và Xã hội thành phố Hải Phòng (2001), Báo cáo công tác lao động – thương binh và xã hội năm 2001.
Sở Lao động - Thương binh và Xã hội thành phố Hải Phòng (2002), Báo cáo công tác lao động – thương binh và xã hội năm 2002.
Sở Lao động - Thương binh và Xã hội thành phố Hải Phòng (2003), Báo cáo công tác lao động – thương binh và xã hội năm 2003.
Sở Lao động - Thương binh và Xã hội thành phố Hải Phòng (2004), Báo cáo công tác lao động – thương binh và xã hội năm 2004.
Sở Lao động - Thương binh và Xã hội thành phố Hải Phòng (2005), Báo cáo công tác lao động – thương binh và xã hội năm 2005.
Sở Lao động - Thương binh và Xã hội thành phố Hải Phòng (2006), Báo cáo công tác lao động – thương binh và xã hội năm 2006.
Uỷ ban nhân dân thành phố Hải Phòng (2005), Thực trạng lao động việc làm thành phố Hải Phòng 2005.
Uỷ ban nhân dân thành phố Hải Phòng (2006), Chương trình phát triển bền vững (chương trình nghị sự 21 cấp địa phương) thành phố Hải Phòng.
Uỷ ban nhân dân thành phố Hải Phòng (2000), Báo cáo chuyên đề rà soát, điều chỉnh quy hoạch tổng thể nguồn nhân lực và các vấn đề xã hội thành phố Hải Phòng đến năm 2010.
Uỷ ban nhân dân thành phố Hải Phòng (2000), Báo cáo tình hình phát triển kinh tế - xã hội thành phố Hải Phòng từ năm 2001 đến năm 2006.
MỤC LỤC
Trang
DANH MỤC BẢNG BIỂU.
TÓM TẮT LUẬN VĂN
MỞ ĐẦU
Chương 1:
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ VAI TRÒ NHÀ NƯỚC TRONG PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG SỨC LAO ĐỘNG
Những vấn đề chung về thị trường sức lao động.
Thị trường sức lao động và các yếu tố cấu thành.
Đặc điểm và vai trò của thị trường sức lao động trong nền kinh tế thị trường.
1.2. Sự cần thiết và nội dung tăng cường vai trò nhà nước trong phát triển thị trường sức lao động ở Hải Phòng.
1.2.1. Sự cần thiết phải tăng cường vai trò nhà nước trong phát triển thị trường sức lao động ở Hải Phòng.
1.2.2. Nội dung tăng cường vai trò nhà nước trong phát triển thị trường sức lao động ở Hải Phòng.
1.3. Kinh nghiệm về vai trò nhà nước trong phát triển thị trường sức lao động ở một số địa phương và bài học rút ra cho chính quyền thành phố Hải Phòng.
1.3.1. Kinh nghiệm về vai trò nhà nước trong phát triển thị trường sức lao động ở thành phố Hồ Chí Minh.
1.3.2. Kinh nghiệm về vai trò nhà nước trong phát triển thị trường sức lao động ở tỉnh Bình Dương
1.3.3. Những bài học kinh nghiệm rút ra cho chính quyền thành phố Hải Phòng trong phát triển thị trường sức lao động.
Chương 2:
THỰC TRẠNG VAI TRÒ NHÀ NƯỚC TRONG PHÁT TRIỂNTHỊ TRƯỜNG SỨC LAO ĐỘNG Ở HẢI PHÒNG
2.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của Hải Phòng tác động đến vai trò nhà nước trong phát triển thị trường sức lao động.
2.1.1. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội của Hải Phòng.
2.1.2. Tình hình thị trường sức lao động ở Hải Phòng những năm gần đây.
2.2. Tình hình thực hiện vai trò nhà nước trong phát triển thị trường sức lao động ở thành phố Hải Phòng:
2.2.1. Những thành tựu đạt được và nguyên nhân.
2.2.2. Những hạn chế và nguyên nhân.
Chương 3:
PHƯƠNG HƯỚNG VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM TĂNG CƯỜNG VAI TRÒ NHÀ NƯỚC TRONG PHÁT TRIỂNTHỊ TRƯỜNG SỨC LAO ĐỘNG Ở HẢI PHÒNG
3.1. Phương hướng phát triển thị trường sức lao động ở Hải Phòng.
3.1.1. Những căn cứ xác định phương hướng phát triển thị trường sức lao động ở Hải Phòng.
3.1.2. Phương hướng phát triển thị trường sức lao động ở Hải Phòng trong thời gian tới.
3.2. Những giải pháp chủ yếu nhằm tăng cường vai trò nhà nước trong phát triển thị trường sức lao động ở Hải Phòng trong thời gian tới.
3.2.1. Giải pháp kích cầu sức lao động
3.2.2. Giải pháp điều tiết quan hệ cung-cầu sức lao động, nâng cao chất lượng cung sức lao động.
3.2.3. Hoàn thiện các giao dịch chính thức, phát triển hệ thống thông tin thị trường sức lao động.
3.2.4. Giải pháp nhằm tăng cường quản lý nhà nước đối với hoạt động của thị trường sức lao động.
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
DANH MỤC BẢNG, BIỂU
Biểu 2.1: Dân số, lực lượng lao động của Hải Phòng giai đoạn 2001-2005.
Biểu 2.2. Trình độ văn hóa phổ thông
Biểu 2.3. Trình độ chuyên môn kỹ thuật
Biểu 2.4. Lao động trong các loại hình kinh tế.
Biểu 2.5. Cơ cấu lao động theo ngành kinh tế.
Biểu 2.6. Thu nhập theo nhóm tuổi.
Biểu 2.7. Thu nhập theo trình độ chuyên môn kỹ thuật.
Biểu 2.8. Thu nhập theo ngành kinh tế.
Biểu 2.9. Thu nhập theo loại hình kinh tế.
1
5
5
5
13
17
17
23
27
27
30
32
34
34
34
38
57
57
60
71
71
71
76
93
94
99
104
106
109
112
Trang
40
41
43
45
47
50
52
54
55
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 10496.doc