A. Mở đầu
Kinh tế thị trường, xột về bản chất là một nền kinh tế “mở”. Nền kinh tế nước ta là một nền kinh tế thị trường theo định hướng xó hội chủ nghĩa, nú phải mang đầy đủ cỏc đặc trưng của một nền kinh tế thị trường. Do vậy việc mở cửa hội nhập với thế giới là một tất yếu khỏch quan. Ta đó biết vai trũ quan trọng của nhà nước trong nền kinh tế thị trường. Vai trũ đú được vớ như bàn tay vụ hinh nõng đỡ nền kinh tế thị trường. Đối với quỏ trỡnh hội nhập kinh tế quốc tế, do tớnh chất đặc biệ
14 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1526 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Vai trò kinh tế của Nhà nước trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
t của nú vai trũ của nhà nước lại càng quan trọng hơn bao giờ hết. Chỉ cú nhà nước mới đảm bảo mục tiờu, phương hướng và giữ vững được những nguyờn tắc cơ bản trong hội nhập kinh tế quốc tế và cú như vậy quỏ trỡnh hội nhập mới được đẩy mạnh và cú hiệu quả. Cũng chỉ cú tăng cường vai trũ của nhà nước mới cú thể hạn chế được những rủi ro, nắm bắt được những cơ hội mà trong quỏ trỡnh hội nhập bất kỳ một nền kinh tế nào cũng cú thể gặp phải, Ngoài ra, Nhà nước còn có vai trò đảm bảo ổn định chính trị - xã hội, ổn định kinh tế vĩ mô, công bằng xã hội, bảo vệ môi trường sinh thái... Vì vậy, vấn đề quan trọng hơn đặt ra hiện nay là quản lý Nhà nước trong quỏ trỡnh hội nhập kinh tế quốc tế ở nước ta như thế nào cho đúng, phù hợp và có hiệu quả? Một vấn đề cơ bản nhưng không đơn giản chút nào.
Nhà nước có vai trò lớn lao trong việc xác định đường lối, phương hướng phát triển để tạo dựng thị trường, hình thành nền kinh tế từ đú nõng cao vị thế của mỡnh trờn trường quốc tế. Tuy nhiên, nhân vật trung tâm xây dựng ra tòa nhà kinh tế, tạo ra thị trường lại là doanh nghiệp, các cơ sở sản xuất kinh doanh và người dân. Nhà nước cầm lái mà không cầm chèo. Trong việc thực hiện các chức năng quản lý của mình, Nhà nước vẫn còn lúng túng. Nhiều hoạt động quản lý đã được xác định đúng cũng thực hiện chưa tốt, chưa hiệu quả.
Trong phạm vi đề tài “Vai trò kinh tế của Nhà nước trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế”, tôi muốn đề cập đến vai trò quản lý của Nhà nước trong quá trình này xuyên suốt trong thời kỳ đổi mới từ 1986 đến nay. Qua đó thấy được những thành tựu đạt được, những hạn chế còn tồn tại, quan điểm, phương hướng của Đảng. Từ đó, rút ra những biện pháp nâng cao vai trò kinh tế của Nhà nước trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
B. GiảI quyết vấn đề
I/ Một số vấn đề cơ bản về vai trò của Nhà nước với hội nhập kinh tế quốc tế
1/ Tính tất yếu khách quan về vai trò của Nhà nước đối với hội nhập kinh tế quốc tế.
1.1/ Sự cần thiết khách quan về vai trò của Nhà nước với hội nhập kinh tế quốc tế.
Hiện nay nước ta đang trên con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Một trong các yếu tố quan trọng quyết định thắng lợi của con đường lên xã hội chủ nghĩa chính là sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước. Trải qua lịch sử phát triển nhiều biến động, Đảng và Nhà nước ta đã chứng tỏ được vai trò to lớn của mình trong mọi lĩnh vực kinh tế - xã hội. Trong đó đặc biệt quan trọng là vai trò của Nhà nước.
Nền kinh tế nước ta hiện nay là kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vì thế nó mang đầy đủ đặc trưng của một nền kinh tế thị trường. Mà kinh tế thị trường, xét về bản chất là một nền kinh tế “mở”. Kinh tế “mở” ở đây có thể hiểu là sự mở cửa, giao lưu với kinh tế nước ngoài từ đó, nâng cao khả năng cạnh tranh cũng như tạo điều kiện để kinh tế trong nước phát triển. Do vậy, việc mở cửa hội nhập với thế giới là một tất yếu khách quan.
Trong tình hình kinh tế - xã hội diễn ra phức tạp và nhiều biến động như ngày nay, đòi hỏi phải có những chính sách và bước đi đúng đắn trên mọi lĩnh vực để tạo ra sự ổn định cho phát triển kinh tế. Và Nhà nước chính là người lãnh đạo quan trọng nhất đưa ra những chính sách cần thiết trên. Với lĩnh vực hội nhập kinh tế quốc tế, do tính chất đặc biệt của nó vai trò của nhà nước lại càng quan trọng hơn bao giờ hết. Chỉ có tăng cường vai trò quản lý của Nhà nước mới có thể bảo đảm mục tiêu, phương hướng và giữ vững được những nguyên tắc cơ bản trong kinh tế đối ngoại cũng như hội nhập kinh tế quốc tế. Cũng chỉ có tăng cường vai trò của Nhà nước mới có thể hạn chế được những rủi ro, nắm bắt được những cơ hội; nhờ đó mang lại lợi ích cho các đơn vị hoạt động kinh tế đối ngoại nói riêng và hội nhập kinh tế quốc tế nói chung. Lịch sử đã chứng minh rằng, các nền kinh tế thị trường thành công nhất đều không phát triển một cách tự phát nếu thiếu sự can thiệp và hỗ trợ của Nhà nước. Tuy nhiên, dưới sự phức tạp của kinh tế quốc tế, sự can thiệp của Nhà nước cũng như vai trò của nó là một tất yếu cho sự hoạt động của kinh tế đối ngoại nói riêng, hội nhập kinh tế quốc tế nói chung. Mặc dù còn những hạn chế nhất định, nhưng không thể phủ nhận tầm quan trọng và vai trò của Nhà nước trong phát triển kinh tế. Sự quản lý, điều tiết và can thiệp của Nhà nước chính là công cụ đắc lực nhất góp phần đẩy nhanh quá trình hội nhập kinh tế quốc tế và tránh những rủi ro không đáng có.
1.2/ Một số quan điểm về vai trò của Nhà nước với hội nhập kinh tế quốc tế
Hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình tham gia vào nền kinh tế thế giới và khu vực trên cơ sở tuân thủ những nguyên tắc, luật lệ, quy định của luật chơi chung
mà đặc trưng của nó là mở cửa nền kinh tế, thực hiện tự do hoá thương mại (hàng
hoá, dịch vụ…) đầu tư giữa các nước, khuyến khích cạnh tranh công bằng và không phân biệt đối xử, gỡ bỏ mọi rào cản, tạo dòng chảy thông thoáng cho hàng hoá, dịch vụ, vốn và công nghệ giữa các quốc gia.
Nhận thức được tầm quan trọng của hội nhập kinh tế quốc tế, Đảng ta đã chủ trương đẩy mạnh hội nhập kinh tế quốc tế từ rất sớm. Ngay sau khi thành lập nước, Đảng và Nhà nước ta đã sớm có chủ trương rất rõ ràng về vấn đề này.
Sau khi nước nhà thống nhất, Đại hội IV của Đảng (6/1979) đã xác định “Đối với nước ta từ sản xuất nhỏ tiến thẳng lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, việc tăng cường phân phối hợp tác, tương trợ về kinh tế, kỹ thuậtvới các nước xã hội chủ nghĩa anh em và phát triển quan hệ kinh tế giữa các nước khác có tầm quan trọng rất lớn”. Đại hội VII (1991) chỉ rõ: “Mục tiêu của chính sách đối ngoại là hội nhập kinh tế quốc tế thuận lợi cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đi lên xã hội chủ nghĩa, bình đẳng và cùng có có lợi với tất cả các nước không phân biệt chế độ chính trị - xã hội khác nhau. Đại hội IX (4/2001) tiếp tục khẳng định chủ trương “chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo đảm độc lập tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích dân tộc, an ninh quốc gia”. Đại hội X (2006) nhấn mạnh: chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, hoạt động kinh tế đối ngoại, hội nhập sâu hơn và đầy đủ hơn với các thể chế kinh tế đa và song phương, lấy phục vụ lợi ích đất nước làm mục tiêu cao nhất.
Ngày nay, trước tình hình mới, quan điểm của Việt Nam về hội nhập kinh tế quốc tế đã ngày càng hoàn thiện hơn. Và trước những thành công vang rội đã đạt được, ta càng khẳng định vai trò to lớn của Đảng và Nhà nước. Trong đó, phải kể đến “những đường lối đúng đắn” của Nhà nước đã đưa nước ta đến thắng lợi như ngày hôm nay. Nhìn lại đường lối của Đảng và hội nhập kinh tế quốc tế mấy chục năm qua, ta có thể khẳng định: đường lối đúng, chỉ đạo đúng, hành động đúng là những nhân tố dẫn đến thành công, trong đó, đường lối đúng phải coi là mấu chốt.
2/ Nội dung vai trò của Nhà nước với hội nhập kinh tế quốc tế.
Trong hội nhập kinh tế quốc tế nói riêng và trong các nền kinh tế thị trường nói chung, Nhà nước đều có ba vai trò rõ rệt, đó là:
Can thiệp.
Quản lý.
Điều tiết.
2.1/ Vai trò can thiệp của Nhà nước với hội nhập kinh tế quốc tế.
- Nhà nước để cho kinh tế tư nhân tự do phát triển và cạnh tranh nhưng sẽ can thiệp vào khi nào cần thiết.
- Nhà nước không bỏ mặc thị trường với hội nhập kinh tế quốc tế mà phải nâng cao hiệu quả sự can thiệp của mình.
- Nhà nước đặc biệt thể hiện vai trò rõ rệt ở việc xác định “quy tắc, luật chơi
của một trò chơi. Đó là trò chơi kinh tế, trong đó mỗi quốc gia là một người chơi. Để từ đó Nhà nước can thiệp vào những khu vực phù hợp, những khu vực thể hiện nhiều khuyết tật của nền kinh tế”. Tuy nhiên, khi khẳng định sự cần thiết phải có sự can thiệp của Nhà nước thì cũng cần cân nhắc kỹ lưỡng cái được mất của sự can thiệp ấy. Nếu Nhà nước can thiệp quá sâu sẽ tạo ra sự cứng nhắc trong cơ chế. Đó chính là một rào cản, hạn chế quá trình giao lưu kinh tế, đặc biệt là giao lưu kinh tế trong nước và nước ngoài. Nếu Nhà nước can thiệp qúa ít, lỏng lẻo sẽ tạo điều kiện cho một số thành phần kinh tế có cơ hội lách luật, phát triển quá tự do và có thể đi xa với đạo đức kinh tế. Như vậy, sự can thiệp của Nhà nước đòi hỏi phải thật sự mềm mỏng, khôn khéo, để không kìm hãm quá trình hội nhập kinh tế quốc tế mà luôn là điều kiện thúc đẩy hội nhập kinh tế quốc tế.
2.2/ Vai trò quản lý của Nhà nước với hội nhập kinh tế quốc tế.
Đây là vai trò quan trọng nhất của Nhà nước không chỉ trong hội nhập kinh tế quốc tế mà trong tất cả các lĩnh vực kinh tế - xã hội. Vai trò này thể hiện ở những chức năng sau của Nhà nước:
- Bảo đảm sự ổn định chính trị, kinh tế, xã hội và thiết lập khuôn khổ pháp luật để tạo điều kiện thuận lợi cho đầu tư từ nước ngoài vào Việt Nam. Nhà nước là người tạo ra hành lang luật pháp cho mọi hoạt động kinh tế. Những quy định của luật pháp ảnh hưởng sâu sắc tới các hành vi của các chủ thể kinh tế trong nước cũng như ở nước ngoài. Sự ổn định về chính trị, kinh tế, văn hoá cũng là yếu tố quan trọng thu hút đầu tư nước ngoài, vì không một nền kinh tế phát triển nào lại muốn hợp tác và đầu tư vào một quốc gia đầy biến động.
- Bảo đảm cho nền kinh tế hoạt động có hiệu quả. Nền kinh tế ở đây bao gồm cả kinh tế có vốn đầu tư trong nước và nước ngoài. Chỉ có nền kinh tế hoạt động hiệu quả mới có thể đẩy nhanh quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
- Quản lý mọi mặt của đời sống kinh tế - xã hội bằng hệ thống pháp luật. Trong hội nhập kinh tế quốc tế, hệ thống pháp luật phảI đặc biệt phù hợp với thông lệ quốc tế tạo điều kiện dễ dàng cho sự giao lưu kinh tế giữa nước ta với thế giới.
2.3/ Vai trò điều tiết của Nhà nước với hội nhập kinh tế quốc tế.
- Nhà nước điều tiết các hoạt động kinh tế đối ngoại đảm bảo cho xuất nhập khẩu ổn định. Công cụ để Nhà nước thực hiện vai trò này là Nhà nước vạch ra các chiến lược và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, các chương trình kinh tế đối ngoại, ổn định môi trường kinh tế vĩ mô, thu hút đầu tư từ nước ngoài.
- Hạn chế, khắc phục những tiêu cực của thị trường, đảm bảo công bằng xã hội. Nhà nước góp phần hạn chế tình trạng bất bình đẳng trong xã hội.
- Nhà nước điều tiết các nguồn viện trợ và vốn đầu tư từ nước ngoài vào Việt Nam, để sao cho chúng được sử dụng hợp lý, mang lại hiệu quả lớn nhất.
3/ Kinh nghiệm của một số nước trong hội nhập kinh tế quốc tế và vai trò của Nhà nước trong quá trình hội nhập.
3.1/ Nhật Bản
Nhật Bản _ một đất nước nghèo tài nguyên thiên nhiên và chịu ảnh hưởng to lớn của chiến tranh. Tưởng như việc phát triển đi lên từ những điều kiện khắt khe như vậy là không thể nhưng sau hai mươi năm sau chiến tranh, bước qua thời kỳ khôi phục dần hậu quả chiến tranh Nhật Bản đã vượt lên phát triển với một tốc độ chóng mặt. Từ một nước đứng dậy trong đống tro tàn của chiến tranh, Nhật Bản đã trở thành cường quốc kinh tế thứ hai sau Mĩ. Đi lên cùng với tốc độ tăng trưởng kinh tế là tốc độ hội nhập kinh tế quốc tế. Nhật Bản đã nhanh chóng khẳng định vị trí của mình trên trường quốc tế, và hiện nay đang không ngừng nâng cao vị trí đó.
Sự phát triển trong mọi mặt trong đó có hội nhập kinh tế quốc tế của Nhật Bản không thể không kể đến một nguyên nhân quan trọng đó là vai trò của Nhà nước. Nhật Bản rất chú trọng vai trò điều tiết kinh tế của Nhà nước. Vai trò đó được thể hiện qua các chính sách sau của Nhà nước trong quá trình hội nhập:
- Cải cách hệ thống thuế để thúc đẩy tích luỹ vốn, thúc đẩy nhập khẩu kỹ thuật mới và khuyến khích xuất khẩu.
- Nhà nước hướng dẫn và kiểm tra mọi hoạt động đầu tư trong nước cũng như ở nước ngoài.
- Nhà nước mở rộng thị trường cạnh tranh, đặc biệt là thị trường nước ngoài. Với Nhật Bản, thị trường nước ngoài chính là nơi cung cấp vật tư, nguyên liệu, năng lượng và thị trường tiêu thụ hàng hoá. Vậy thị trường nước ngoài là điều kiện sống còn của kinh tế Nhật Bản.
Sự can thiệp và tham gia trực tiếp của Nhà nước Nhật Bản vào các hoạt động kinh tế đối ngoại có tác dụng chống đỡ khủng hoảng, tạo điều kiện để hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng ổn định và được nâng cao.
3.2/ Mỹ
Trước những năm 80, kinh tế Mỹ đã lâm vào một tình trạng khủng hoảng nặng nề. Sau những năm 80, để thoát khỏi tình trạng trì trệ kéo dài đó, Mỹ đã có một số những chính sách, biện pháp điều chỉnh kinh tế rất hiệu quả. Trong các biện pháp đó, đặc biệt phải kể đến sự điều chỉnh vai trò điều tiết kinh tế của Nhà nước.
- Nhà nước thực hiện nhiều biện pháp để ổn định xã hội, giảm bớt sự căng thẳng về chính trị. Từ đó, tạo điều kiện ổn định về kinh tế, tạo môi trường thuận lợi cho các nhà đầu tư đặc biệt các nhà đầu tư từ nước ngoài vào Mỹ.
- Nhà nước tuy có can thiệp nhưng can thiệp rất ít vào quá trình sản xuất, cạnh tranh tự do luôn được khuyến khích. Khu vực kinh tế tư nhân với các công ty xuyên quốc gia khổng lồ là biểu hiện sức mạnh của nền kinh tế Mỹ . Vị thế của Mỹ trong nền kinh tế thế giới luôn luôn là số một, Mỹ đã thực sự không chỉ hội nhập mà đã vươn lên đứng đầu nền kinh tế thế giới.
- Nhà nước luôn là tác nhân trọng yếu trong việc mở đường cho các công ty tư nhân tìm kiếm thị trường đẩy mạnh xuất khẩu, mở rộng đầu tư ra nước ngoài.
* Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu to lớn trong hội nhập kinh tế quốc tế của Mỹ dưới sự lãnh đạo của Nhà nước, kinh tế Mỹ còn có một số hạn chế sau:
- Nợ của Chính phủ liên bang còn cao.
1993: Chính phủ nợ so với GDP là 67,2%.
1999: Chính phủ nợ so với GDP là 62,6%.
Nhà nước Mỹ còn dùng cả áp lực quân sự để thực hiện những mục tiêu kinh tế quan trọng trong kinh tế đối ngoại. Từ đó, dẫn đến việc: sự giàu có của Mỹ đi kèm theo sự nghèo nàn của nhiều nước đang phát triển và sự bất ổn định của kinh tế - chính trị quốc tế.
II/ Thực trạng và giải pháp tăng cường vai trò của Nhà nước trong hội nhập kinh tế quốc tế.
1/ Thực trạng về vai trò của Nhà nước trong hội nhập kinh tế quốc tế.
1.1/ Thực trạng về hoi nhập kinh tế quốc tế nước ta hiện nay.
* Trước thời kỳ đổi mới (1986): Do hậu quả to lớn của chiến tranh để lại và cơ chế lãnh đạo bảo thủ, quan liêu bao cấp của Đảng và Nhà nước, kinh tế Việt Nam trong thời kỳ này chỉ mới bước đầu chuyển biến. Nhưng sự chuyển biến đó còn hết sức chậm chạp, còn nhiều khó khăn yếu kém. Trong kinh tế đối ngoại, cán cân thương mại luôn luôn bị thâm hụt, ngoại thương nhập siêu trầm trọng, xuất khẩu không bù được nhập khẩu. Sự phát triển yếu kém đó dẫn đến vị trí của Việt Nam trên trường quốc tế rất thấp kém. Sự hội nhập kinh tế quốc tế trong thời kỳ này có thể nói là chưa hề đáng kể.
* Từ khi đổi mới (1986) đến nay: Với những đổi mới kịp thời, chính xác mà Đảng và Nhà nước ta đã đề ra, Việt Nam đang từng bước đi lên trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.Cụ thể, Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn sau đây:
- 28/7/1995: Việt Nam gia nhập ASEAN – tổ chức kinh tế lớn của khu vực.
- 7/2000: Việt Nam đã ký Hiệp định thương mại với 61 nước, trong đó có Mỹ đưa tổng số nước có quan hệ thương mại với Việt Nam từ 80 nước (1990) lên 150 nước (2000).
- Nguồn vốn FDI vào Việt Nam liên tục tăng lên, chiếm khoảng 20% tổng số vốn đầu tư phát triển toàn xã hội.
- Vào cuối 2006, Việt Nam đã tiến một bước tiến quan trọng trong quá trình hội nhập với bốn sự kiện nổi bật nhất, đó là:
+ Việt Nam gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO. Sau 11 năm đàm phán, đến cuối năm 2006, Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ 150 của tổ chức thương mại thế giới WTO. Việc tham gia vào WTO đã thực sự đưa Việt Nam hội nhập sâu hơn và đầy đủ hơn vào nền kinh tế thế giới, không những được tiếp cận và ngày càng mở rộng thị trường hàng hoá, dịch vụ ở tất cả các nước thành viên, mà còn có vị thế bình đẳng với các thành viên khác trong việc hoạch định chính sách thương mại toàn cầu, có cơ hội để thiết lập một trật tự kinh tế mới công bằng, hợp lý hơn; đồng thời có điều kiện về bảo vệ đất nước của doanh nghiệp nước ta.
+ Tổ chức và chủ trì thành công hôị nghị APEC 2006, Việt Nam vừa khẳng định được vị trí của mình trong một diễn đàn hợp tác khu vực rộng lớn bao gồm nhiều cường quốc kinh tế thế giới, vừa đề cao vai trò nước chủ nhà (trong việc đề ra các sáng kiến về tổ chức và quảng bá hình ảnh) của Việt Nam - một quốc gia có nền kinh tế năng động đổi mới ngày một thành công, một dân tộc văn hiến, giàu truyền thống yêu nước có sự thân thiện, lòng mến khách, cởi mở trong hợp tác giao lưu với các dân tộc khác.
+ Được Mỹ thông qua quy chế bình thường vĩnh viễn (PNTR) với Việt Nam và rút Việt Nam ra khỏi danh sách các nước được quan tâm về tôn giáo. Với sự kiện này, Việt Nam chẳng những buộc Mỹ phải trả lại quyền chính đáng mà Việt Nam lẽ ra phải được huỷ bỏ những sự áp đặt đơn phương bất bình đẳng; mà còn bình thường hoá hoàn toàn quan hệ Việt - Mỹ, mở ra trang mới cho sự hợp tác trên nhiều lĩnh vực.
+ Việt Nam được các nước Châu á nhất trí giới thiệu vào ghế không thường trực Hội đồng bảo an Liên Hợp Quốc nhiệm kỳ 2008 -2009. Điều này đã chứng tỏ sự tín nhiệm của các nước Châu á với Việt Nam. Họ thừa nhận vị trí xứng đáng của Việt Nam là một thành viên đáng tin cậy của cộng đồng quốc tế, sẵn sàng tham gia tích cực vào các hợp tác quốc tế và khu vực.
Kinh tế đối ngoại được phát triển nhanh, mở rộng vể quy mô, đa dạng hoá hình thức và đa dạng hóa thị trường.
Ngoại thương và hội nhập kinh tế quốc tế: Chính sách đổi mới, mở cửa và công nghiệp hóa đã mở ra cho Việt Nam những cơ hội mới để phát huy những lợi thế so sánh vốn có về tài nguyên thiên nhiên và nguồn lao động dồi dào, giá rẻ, sử dụng những lợi thế đó vào việc phát triển các nguồn hàng xuất khẩu ngày càng lớn, tiêu thụ tại thị trường các nước, mang lại một nguồn thu ngoại tệ ngày càng cao phục vụ cho tăng trưởng kinh tế và công nghiệp hóa. Trong thời kì đổi mới, kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam mỗi năm tăng khoảng 20%, nhờ đó đã đưa tổng gía trị xuất khẩu của Việt Nam từ mức khoảng nửa tỷ USD/năm trong những năm trước đổi mới lên 26 tỷ USD năm 2004 và 32,23 tỉ USD năm 2005.
Cơ cấu mặt hàng xuất khẩu có sự chuyển dịch tiến bộ. Trong giai đoạn 1991-1995, hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam gồm dầu thô, thủy sản, gạo, dệt may, cà phê, lâm sản, cao su, lạc, hạt điều. Đến năm 2005, các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu là dầu thô, dệt may, giày dép, thủy sản, sản phẩm gỗ, điện tử và gạo. Cơ cấu này phản ánh xu hướng gia tăng các chủng loại mặt hàng chế biến, chế tạo, và sự giảm đi về tỷ trọng của các mặt hàng xuất khẩu thô, chủ yếu là các mặt hàng nông, lâm, hải sản và khoáng sản.
Chính sách “đa dạng hóa, đa phương hoá” quan hệ quốc tế đó giúp Việt Nam
hội nhập ngày càng sâu rộng hơn với nền kinh tế thế giới và khu vực. Nếu như trước năm 1990, Việt Nam mới có quan hệ thương mại với 40 nước, thì ngày nay nhờ thực hiện chính sách đối ngoại rộng mở, làm bạn, hợp tác với tất cả các nước trên thế giới trên cơ sở bình đẳng, cùng có lợi, Việt Nam đã có quan hệ ngoại giao với 169 nước trên thế giới, ký kết các hiệp định thương mại đa phương và song phương với trên 80 quốc gia, thực hiện chế độ tối huệ quốc với trên 70 quốc gia và vùng lãnh thổ, trong đó có những nước và khu vực có nguồn vốn lớn, công nghệ cao và thị trường lớn như Mỹ, Nhật Bản, EU và các nền kinh tế mới công nghiệp hóa ở Đông Á.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài: Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam được ban hành tháng 12 năm 1987 đã tạo ra khuôn khổ pháp lý cơ bản cho các hoạt động đầu tư nước ngoài trực tiếp tại Việt Nam. Trước đòi hỏi của thực tế và sự góp ý của các nhà đầu tư nước ngoài, Luật đã có một số lần được sửa đổi, bổ sung, nổi bật là các lần sửa đổi vào những năm 1996 và năm 2002 nhằm tạo ra một môi trường đầu tư thông thoáng, hấp dẫn hơn để khuyến khích các nhà đầu tư nuớc ngoài đầu tư vào những mục tiêu trọng điểm và những lĩnh vực ưu tiên, nhất là trong ngành công nghiệp chế biến, chế tạo hướng vào xuất khẩu và các vùng kinh tế trọng điểm của đất nước.
Việt Nam đó thu hút được một lượng FDI ngày càng lớn: hầu như từ con số không vào năm 1986, đã tăng lên tới 3,2 tỷ USD năm 1997, sau đó do bị ảnh hưởng tiêu cực bởi cuộc khủng hoảng tài chính châu Á năm 1997 đã giảm xuống trong các năm 1998 - 2000 (có năm chỉ thu hút được 1,58 tỷ USD như năm 1999). Những năm gần đây, FDI vào Việt Nam đã được phục hồi và có xu hướng tăng trở lại, từ 2,6 tỷ USD năm 2001 đã tăng lên 5,8 tỷ USD năm 2005. FDI tăng lên không chỉ hứa hẹn mang lại lợi nhuận cao cho các nhà đầu tư nước ngoài, mà còn đóng vai trò quan trọng trong việc bổ sung nguồn vốn, chuyển giao công nghệ và phương thức kinh doanh hiện đại, khai thác các tiềm năng của đất nước, đào tạo tay nghề và giải quyết việc làm cho hàng chục vạn lao động Việt Nam.
Với những kết quả đạt được qua bốn sự kiện nói trên, Việt Nam đã thực sự khẳng định được mình trên trường quốc tế. Từ đó có thể khẳng định rằng: ta đang thắng lớn trên con đường hội nhập kinh tế quốc tế. Trước sự thắng lợi đó, ta không thể không kể đến công lao to lớn của Đảng và Nhà nước, cụ thể đó là sự lãnh đạo vô cùng khôn khéo của Đảng và sự can thiệp quản lý hợp lý, kịp thời của Nhà nước.
1.2/ Thực trạng vai trò của Nhà nước trong hội nhập kinh tế quốc tế.
Chức năng quản lý kinh tế của Nhà nước trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế cũng thay đổi theo hướng sau:
- Tạo môi trường cho kinh tế thị trường phát triển hữu hiệu. ở đây công cụ pháp luật đóng vai trò đặc biệt quan trọng, nó đảm bảo những cơ sở chủ yếu cho sự vận hành của nền kinh tế thị trường, trong đó các vấn đề trọng tâm:
+ Đảm bảo quyền sở hữu cho chủ thể sản xuất kinh doanh hàng hoá.
+ Đảm bảo sự cạnh tranh công bằng, hiệu quả.
+ Đảm bảo sự cung cấp thông tin rõ ràng và chính xác.
- Hướng dẫn, hỗ trợ cho nền kinh tế phát triển bằng cách:
+ Trước hết, Nhà nước là người vạch chiến lược và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội để từ đó tạo điều kiện cho khu vực sản xuất kinh doanh xây dựng và điều chỉnh chiến lược kinh doanh của mình.
+ Nhà nước đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội.
+ Nhà nước thiết lập các thể chế độc lập hỗ trợ cho sản xuất kinh doanh (hỗ trợ chính, cung cấp tín dụng).
+ Nhà nước tạo môI trường thông thoáng công bằng cho mọi thành phần kinh
tế phát triển.
- Điều tiết khéo léo thị trường để kiểm soát, chế ngự và giảm thiểu những nhân tố bất định (nạn lạm phát, giá cả gia tăng, suy thoái) của bản thân nền kinh tế thị trường đảm bảo thị trường phát triển ổn định, hạn chế những mặt tiêu cực của thị trường đối với xã hội, con người (phân hoá giàu nghèo, huỷ hoại môi trường, không có tính nhân văn đầy đủ).
Những chính sách tài chính - tiền tệ đóng vai trò quan trọng để ổn định nền kinh tế, trong đó chú trọng ba lĩnh vực chính là cân đối thu chi ngân sách Nhà nước, cân đối cán cân thanh toán và cân đối giữa tích luỹ và tiêu dùng.
- Bảo đảm an ninh và công bằng xã hội. Tuy không phải là chức năng quản lý trực tiếp của Nhà nước nhưng nó đặc biệt quan trọng, góp phần ổn định xã hội và kinh tế. Hệ thống các mục tiêu xã hội có thể có những mục tiêu bao trùm mọi đối tượng hoặc gắn chặt từng giai đoạn cụ thể có mục tiêu dài hạn, có mục tiêu trước mắt phải đạt ngay khi quá trình phát triển bắt đầu. Với các mục tiêu xã hội thì vai trò chủ thể của Nhà nước quyết định.
* Tóm lại, trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hội nhập kinh tế quốc tế có nhiều khía cạnh lý luận kinh tế chính trị sẽ biến đổi theo sự phát triển của lịch sử như: các kiểu hội nhập, các bước phát triển, các quan hệ sở hữu ngày càng đa dạng phong phú, trong đó không phủ định và gạt bỏ các hình thức tiến bộ, tích cực rất lâu dài trước đây cũng như trong tương lai của chế độ sở hữu tư nhân. Nếu hai hình thức sở hữu này liên kết, dung nạp những nhân tố tích cực của chúng trên cơ sở lấy dân làm gốc, dưới sự điều tiết và hướng dẫn của Nhà nước xã hội chủ nghĩa thì sẽ có sức sống dồi dao, nền kinh tế Việt Nam sẽ phát triển bền vững, làm thay đổi sở hữu kéo theo thay đổi về cơ cấu lợi ích kinh tế, thay đổi về vai trò nội dung quản lý Nhà nước.
1.3/ Những ưu nhược điểm trong quản lý của nhà nước với hội nhập kinh tế quốc tế.
1.3.1/ Ưu điểm.
- Nhà nước đã góp phần tăng cường đầu tư nước ngoài và giải quyết tốt vấn đề nợ quốc tế.
- Nhà nước đã thực hi tốt chức năng ngoại giao; tích cực, khẩn trương trong việc ký kết, tham gia các định chế và các tổ chức kinh tế quốc tế.
- Nhà nước góp phần làm cho nền kinh tế tăng trưởng ở mức khá cao và ổn định, thu hẹp khoảng cách về phát triển với các nước trong khu vực và trên thế giới.
- Tăng cường thực lực, đảm bảo ổn định xã hội, an ninh quốc phòng nâng cao vị thế của đất nước.
- Kiện toàn tổ chức bộ máy Nhà nước.
- Nhà nước đã giảm bớt được sự chồng chéo phức tạp trong quản lý, nâng cao hiệu quả quản lý của mình.
1.3.2/ Nhược điểm:
- Thiếu lộ trình thật chủ động trong hội nhập kinh tế quốc tế.
- Chưa gắn chặt chẽ tiến trình hội nhập với việc hoàn thiện pháp luật, thể chế, chính sách và cải cách cơ cấu kinh tế; việc nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá, của doanh nghiệp và của nền kinh tế chưa theo kịp với yêu cầu của hội nhập.
- Chưa tạo được môi trường đầu tư thực sự hấp dẫn.
- Cơ chế quản lý của Nhà nước còn nhiều bất cập, chưa khoa học thậm chí có thể nói là phức tạp gây khó khăn cho sự giao lưu kinh tế.
- Việc giải ngân vốn ODA của Nhà nước còn chậm, chiến lược trả nợ nước ngoài chưa được chuẩn bị tốt.
- Tỉ lệ hàng xuất khẩu qua chế biến, chế tác sâu còn thấp. Quy mô xuất khẩu còn nhỏ. Nhập siêu còn lớn.
- Môi trường đầu tư kém hấp dẫn so với một số nước xung quanh. Chưa thu hút được nhiều vốn đầu tư và công nghệ tiên tiến của các tập đoàn kinh tế lớn; chưa chủ động khai thác vốn đầu tư gián tiếp quốc tế.
2/Các giải pháp nhằm nâng cao vai trò của Nhà nước trong hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay.
- Có lộ trình hội nhập phù hợp, với những bước đi tích cực vững chắc, không nóng vội nhưng cũng không chần chừ do dự.
- Phải phát triển bền vững, bảo đảm sự ổn định, tăng khả năng độc lập tự chủ của đất nước, nhất thiết phải tăng cường tièm lực và bảo đảm an ninh kinh tế, đi đôi với củng cố quốc phòng.
- Các chính sách của Nhà nước cần bảo đảm tính cạnh tranh của các nhà sản xuất và giảm thiểu các hạn chế đối với những đối tượng có thể bị thiệt hại từ quá trình hội nhập.
- Cần tuân thủ các điều khoản liên quan đến đối xử quốc gia của các doanh nghiệp thương mại nhà nước và sự tiếp cận thị trường hiện chỉ dành cho doanh nghiệp nhà nước.
- Chính phủ cần đảm bảo cho mọi người đều bình đẳng trong quá trình phát triển. Có các chính sách trợ giúp người nghèo và các loại chi tiêu liên quan đến lĩnh vực này.
- Khuyến khích đầu tư nước ngoài. Nhận thức rõ các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài là một bộ phận quan trọng của nền kinh tế Việt Nam, được đối xử bình đẳng như doanh nghiệp Việt Nam trong kinh doanh. Để thu hút mạnh nguồn lực của các nhà đầu tư nước ngoài trong cả đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp đặc biệt là các ngành đòi hỏi công nghệ cao, công nghệ nguồn, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội nhà nước phải đẩy mạnh đa dạng hóa hình thức sở hữu và cơ chế đầu tư. Mặt khác cần đảm bảo tính thống nhất, ổn định, minh bạch và ngày càng hấp dẫn trong chính sách đầu tư nước ngoài. Đổi mới phương thức quản lý nhà nước và cải tiến mạnh mẽ thủ tục đầu tư thực hiện đúng các thủ tục của Luật đầu tư và phù hợp với lộ trình thực hiện các cam kết quốc tế của Việt Nam.
- Đối với một số ngành, một số sản phẩm quan trọng thiết yếu, một số mục tiêu, một số địa bàn, doanh nghiệp nhỏ và vừa, Nhà nước cần thực hiện chính sách ưu đãi hoặc hỗ trợ có điều kiện, có thời hạn phù hợp với các cam kết quốc tế của nước ta.
- Đổi mới chính sách đầu tư:
+ Trước hết cần xóa bỏ các hình thức phân biệt đối xử trong tiếp cận các cơ hội đầu tư nhằm khai thác và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn từ các thành phần kinh tế trong nước cũng như vốn đầu tư trực tiếp và gián tiếp từ nước ngoài.
+ Trong việc đầu tư của các doanh nghiệp nhà nước cần hướng vào nâng cao năng lực sản xuất , hiện đại hóa công nghệ, đổi mới trang thiết bị, nâng cao chất lượng sản phẩm. Đối với nguồn vốn từ khu vực dân doanh được nhà nước khuyến khích đầu tư vào các lĩnh vực tạo nhiều sản phẩm xuất khẩu và việc làm. Thực hiện chính sách khuyến khích người Việt Nam định cư ở nước ngoài chuyển vốn và công nghệ về nước tham gia đầu tư.
+ Tranh thủ nguồn vốn ODA ; xây dựng chiến lược thu hút và sử dụng nguồn vốn ODA có hiệu quả trong thời kì mới. Đẩy nhanh tiến độ giải ngân vốn cho các công trình, các dự án đã được kí kết. Tập trung đầu tư vào lĩnh vực kết cấu hạ tầng kĩ thuật ở các trung tâm kinh tế và những vùng điều kiện kinh tế - xã hội còn khó khăn.
+ Tiếp tục tiến hành nhiều biện pháp để cải thiện môi trường đầu tư trực tiếp của nước ngoài, tạo ra được lợi thế so sánh để thu hút nhiều doanh nghiệp lớn, các tập đoàn kinh tế hàng đầu trên thế giới đầu tư vào Việt Nam đặc biệt là những ngành đòi hỏi công nghệ cao. Tạo chuyển biến tích cực về chất lượng, số lượng và hiệu quả đầu tư nước ngoài.
Thủ tục cấp giấy phép đầu tư nước ngoài cần đơn giản hóa hơn. Thu hẹp các lĩnh vực không được phép đầu tư và những lĩnh vực đầu tư có điều kiện; mở
rộng lĩnh vực đăng ký đầu tư. Tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư nước ngoài phát triển các lĩnh vực dịch vụ theo cam kết quốc tế của Việt Nam.
C Kết luận
Hội nhập hinh tế quốc tế trong thời kì quá độ lên xã hội chủ nghĩa không chỉ là một trong những đại vấn đề, là điểm then chốt trong lý luận về chủ nghĩa xã hội mà còn có ý nghĩa thực tiễn rất quan trọng đối với sự nghiệp xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa. Trong đó vai trò quản lý của Nhà nước đối với nền kinh tế là tất yếu. Sau 20 năm đổi mới, nhất là 5 năm gần đây quá trình hội nhập kinh tế quốc tế đã đạt được những thành tựu vô cùng to lớn. Sau gần 12 năm kiên trì đàm phán tháng 11 năm 2006 Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên thứ 150 của tổ chức thương mại thế giới WTO. Đây là bước tiến quan trọng trong quá trình hội nhập với thế giới của nước ta.
Đối với nước ta, trong quá trình hội nhập kinh tế thế giới, hoàn toàn có thể học hỏi các quốc gia đi trước. Song do Việt Nam phát triển nền kinh tế định hướng xã hội chủ nghĩa gắn chặt với hội nhập kinh tế quốc tế, nên nó bao giờ cũng để lại tính 2 mặt: tích cực và tiêu cực, cơ hội và thách thức. Để phát triển nền kinh tế trong hội nhập quốc tế, mà vẫn ._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- U0283.doc