Vai trò của Thị trường & Nhà nước trong lịch sử học thuyết kinh tế

Đề tài: "Vai trò của Thị trường và Nhà nước trong lịch sử học thuyết kinh tế" Mở bài Xã hội loài người đã đang trải qua những hình thái khác nhau. Ở mỗi giai đoạn phát triển của lịch sử loài người đều có những hiểu biết và cách giải thích các hiện tượng kinh tế xã hội nhất định. Việc giải thích các hiện tượng kinh tế xã hội ngày càng trở nên hết sức cần thiết. Đối với đời sống kinh tế xã hội loài người. Lúc đầu, việc giải thích các hiện tượng kinh tế xã hội bằng những hình thức tư tưởng kin

doc16 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 4774 | Lượt tải: 5download
Tóm tắt tài liệu Vai trò của Thị trường & Nhà nước trong lịch sử học thuyết kinh tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
h tế lẻ tẻ rời rạc , về sau mới trở thành những trường phái với những quan điểm kinh tế có tính hệ thống của những giai cấp khác nhau. Cho đến ngày nay, nhiều trường phái kinh tế học đã xuất hiện với những đại biểu đưa ra những quan điểm khác nhau để lý giải các hiện tượng kinh tế xã hội. Nhưng nhìn chung những lý giải này đều xoay quanh vai trò của nhà nước và thị trường trong nền kinh tế. Chúng ta sẽ lần lượt nghiên cứu những học thuyết kinh tế trong lịch sử để hiểu rõ thêm về vai trò của nhà nước và vai trò của thị trường trong từng giai đoạn lịch sử cũng như về nền kinh tế hỗn hợp. Và thực tiễn ở Việt Nam đang vận dụng lí thuyết kinh tế nào. 1/ Vai trò của thị trường trong các học thuyết kinh tế: Chủ nghĩa trọng nông. Chủ nghĩa trọng nông xuất hiện trong thời kì quá độ từ chế độ phong kiến sang chế độ TBCN, nhưng ở giai đoạn kinh tế trưởng thành hơn. Thời kì tích luỹ ban đầu đã chấm dứt và việc dùng thương mại để bóc lột các nước thuộc địa đã mất hết ý nghĩa đặc biệt của nó với tư cách là nguồn làm giàu cho giai cấp tư sản. Những người theo chủ nghĩa trọng nông cho rằng, xã hội loài nghười phát triển theo những quy luật tự nhiên. Theo họ nguồn gốc duy nhất của của cải là tự nhiên, là nông nghiệp vì nông nghiệp mang lại cho con người những kết quả của tự nhiên. Do đó, có thể coi nội dung giai cấp của chủ nghĩa trọng nông là giải phóng kinh tế nông dân thoát khỏi quan hệ phong kiến để phát triển nông nghiệp theo kiểu TBCN. Cơ sở lý luận chủ yếu của những người trọng nông chủ nghĩa là học thuyết về “trật tự tự nhiên”. Họ dùng học thuyết đó để đi đến những kết luận kinh tế. Theo Quesney có hai loại quy luật tự nhiên: Quy luật vật lý tác động trong lĩnh vực tự nhiên và quy luật luân lý tác động trong lĩnh vực kinh tế. Quesney tuyên bố: “trên thực tế cái quyền tự nhiên của mọi người quy lại chỉ là cái phần mà họ chỉ có thể có được là lao động”, còn cái quyền con người đối với mọi vật thì cũng hoàn toàn giống như cái quyền của con chim én đối với tất cả những con ruồi nhỏ bay trong không khí vậy thôi. Nội dung cơ bản của học thuyết “trật tự tự nhiên” của Quesney là thừa nhận vai trò của con người, coi đó là luật tự nhiên của con người không thể thiếu đuợc. Những quy luật luân lý đề cao tự do của con người, thấy rằng con người tự do về mọi mặt, nên tất yếu có tự do về kinh tế. Chủ trương có sự tự do cạnh tranh giữa những người sản xuất. Đưa khẩu hiệu tự do, buôn bán tự do hoạt động. Thừa nhận quyền bất khả xâm phạm đối với chế độ sở hữu. 1.2 Trường phái kinh tế chính trị tư sản cổ điển. Do sự phát triển của các công trường thủ công, cuối thế kỷ XVII, quá trình tích luỹ nguyên thuỷ của CNTB kết thúc, dẫn đến chuyển hướng trọng tâm lĩnh vực kinh tế sang sản xuất đòi hỏi sự nghiên cứu sâu sắc hơn về sản xuất mà các học thuyết chủ nghĩa trọng nông không đáp ứng được. Kinh tế chính trị cổ điển Anh là một trong 3 lí luận quan trọng để hoàn thành học thuyết Mac. Học thuyết của trường phái này đã thừa nhận và đề cập các quy luật khách quan trong đời sống. Đặt cơ sở lý luận cho cơ chế tự điều tiết cuả nền kinh tế: họ đã đánh giá cao vai trò của thị trường, đề cao tính quy luật trong nền kinh tế, cho rằng các quy luật kinh tế của CNTB là có tính tự nhiên, tuyệt đối , vĩnh viễn hợp lý và tất yếu. Đó là kết luận mang tính phi lich sử, lẫn lộn giữa khoa học và tầm thường. Trường phái này nêu ra tư tưởng tự do kinh doanh, nhấn mạnh cơ chế thị trường tự phát. Nếu trường phái trọng nông ca ngợi “trật tự tự nhiên” trên cơ sở luật tự nhiên đối lập với luật chế định, thì tư tưởng tự do kinh tế của Adamsmith lại nhằm giải quyết mối quan hệ giữa cá nhân và nhà nước. Ông xây dựng lý thuyết bàn tay vô hình để giải thích sự vận động của nền kinh tế TBCN trong giai đoạn đầu – giai đoạn tự do cạnh tranh. Adamsmith với quy luật “ bàn tay vô hình” ông đã trở thành người có tư tưởng coi trọng yếu tố thị trường, coi trọng các quy luật kinh tế khách quan vào bậc nhất. Và hầu hết các tư tưởng thị trường tự do sau này đều tiếp thu và phát triển lý luận của ông. Điểm xuất phát phân tích của ông là con người kinh tế, những con ngưòi này họp thành xã hội. Do đó xã hội liên minh của những ngưòi trao đổi. “ Hãy đưa cho tôi cái mà tôi cần, tôi sẽ đưa cho anh cái mà anh cần” Adamsmith cho rằng đó là một thiên hướng phổ biến và tất yếu của xã hội. Nó tồn tại vĩnh viễn cùng với sự tồn tại của xã hội loài ngưòi. Khi trao đổi con người chụi sự chi phối bởi lợi ích cá nhân là động lực trực tiếp chi phối con người hoạt động trao đổi. Nhưng khi chạy theo tư lợi thì con người kinh tế còn chiụ sự tác động của bàn tay vô hình. Với sự tác động này, con người kinh tế vừ chạy theo tư lợi lại vừa đồng thời thực hiện một nhiệm vụ không nằm trong dự kiến đó là đáp ứng lợi ích chung của xã hội. Trong lý thuyết này Adamsmith khẳng định nền kinh tế bình thường là nền kinh tế phát triển trên cơ sở tự do cạnh tranh, tự do mua bán và trao đổi. Đó là nền kinh tế thị trường. Sự hoạt động của nền kinh tế thị trường chụi sự chi phối bởi “bàn tay vô hình”. “Bàn tay vô hình” là hệ thống các quy luật kinh tế khách quan tự phát hoạt động và chi phối hoạt động của con người là một trật tự tự nhiên. Để có được sự hoạt động của trật tự tự nhiên cần phải có những điều kiện nhất định. Đó là sự tồn tại và phát triển của sản xuất và trao đổi hàng hoá. Nền kinh tế phải được phát triển trên cơ sở tự do kinh tế. Cần thiết phải sự tự do sản xuất, tự do liên doanh, liên kết, tự do mậu dịch. Trên cơ sở đó hình thành mối quan hệ phụ thuộc vào nhau giữa người và người. Ông đề nghị cần phaỉ tôn trọng trật tự tự nhiên tôn trọng “ bàn tay vô hình”. Hoạt động sản xuất và lưu thông hàng hoá cần được phát triển thẻo tự điều tiết của “bàn tay vô hình”. Xã hội muốn làm giàu phải có được phát triển kinh tế trên tình thần tự do. Nhà nước không nên can thiệp vào nền kinh tế. Ông khẳng đinh quy luật kinh tế là vô địch, mặc dù chính sách kinh tế nhà nước có thẻ kìm hãm hoặc thúc đẩy sự hoạt động của quy luật kinh tế. Như vậy lý thuyết “bàn tay vô hình” của Adamsmith đã đề cập vai trò các quy luật kinh tế khách quan trong điều tiết nền kinh tế thị trưòng, tự do cạnh tranh của các chủ kinh tế. Coi thi trường tự do là lực lượng là sức mạnh tự điều tiết sản xuất và tiêu dùng xã hội. 1.3Trường phái tân cổ điển. Ra đời vào cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX ở các nước tư bản phương Tây.Giai đoạn này CNTB tự do cạnh tranh chuyển sang độc quyền. Cùng với sự phát triển của sản xuất hàng hoá thì những mâu thuẫn vốn có của CNTB bbộc lộ ra ngày càng gay gắt mà biểu hiện chủ yếu là những cuộc khủng hoảng kinh tế có tính chất chu kỳ. Trường phái này tiếp tục ủng hộ tự do kinh doanh, ủng hộ lý thuyết “bàn tay vô hình” của Adamsmith. Theo họ, cơ chế thị trường tự phát là điều kiện đảm bảo sự công bằng của nền kinh tế mà không cần sự can thiệp của nhà nước. Họ chủ trương chống lại sự can thiệp của nhà nứơc vào kinh tế và tin rằng cơ chế thị trường tự phát sẽ đảm bảo cân bằng cung cầu, đảm bảo cho nền kinh tế phát triển bình thường, tránh được khủng hoảng kinh tế. 1.4 Những kế thừa và phát triển tư tưởng tự do kinh tế của chủ nghĩa tự do mới. Chủ nghĩa tự do mới được hình thành và phát triển vào những năm 30 của thế kỷ XX trong điều kiện nhà nứơc đã can thiệp vào nền kinh tế thị trường ở một số nước tư bản. Trong lý luận họ vẫn giữ lại những đặc trưng và nguyên tắc căn bản của chủ nghĩa tự do song liều lượng ‘bàn tay hữu hình”( sự điều tiết của nhà nước) và “bàn tay vô hình” (cơ chế tự điều tiét của thị trường đối với nền kinh tế) có khác nhau. Nguyên tắc chung nhất của các nhà kinh tế thuộc trường phái này là thị trường tối đa và nhà nước tối thiểu. Song có sự thể hiện ở các trường phái khác nhau. Chủ nghiã tự do mới ở Cộng hoà liên bang Đức lấy cạnh tranh có hiệu quả làm yếu tố trung tâm của nền kinh tế thị trường, xã hội và nhà nước chỉ can thiệp vào nơi nào mà hoạt động của thị trường không có hiệu quả. Cạnh tranh giúp sử dụng tôí ưu các nguồn tài nguyên tạo ra điều kiện tối đa cho sự lựa chọn của doanh nghiệp phát huy sáng tạo ra tính linh hoạt trong điều chỉnh kinh tế của nhà nước thực hiện kiểm soát sức mạnh kinh tế và chính trị của nhà nước. Khi cần nhà nước can thiệp vào kinh tế phải tuân theo nguyên tắc hỗ trợ và tương hợp. Chủ nghĩa trọng tiền chính thống ở Mỹ mà người sáng lập là Friedman cho rằng về bản chất kinh tế TBCN là ổn định với giá cả và tiền công linh hoạt thì cơ chế thị trường tự nó có thể điều tiết nền kinh tế trở về trạng thái cân bằng. Nhà nước không nên can thiệp vào kinh tế. Thông thường do năng lực của mình và động cỏ vụ lợi về kinh tế và chínhd trị, Nhà nước can thiệp vào kinh tế thị trường làm sai lệch các quá trình và bóp méo các tín hiệu của thi trường. Khi thấy cần thiết nhà nước cần can thiệp vào kinh tế chỉ nên dùng chinh sách tiền tệ. Bởi chính sách tiền tệ có tác động hiệu quả vào các thành tố của tổng cầu, tăng sản lượng và phát triển việc làm. Việc điều tiết khối lượng tiền tệ và lãi suất sẽ tác động trực tiếp vào tăng trưởng kinh tế. Chủ nghĩa trong cung Mỹ( một nhóm mới của chủ nghĩa tự do) cho rằng thị trường là hệ thống hữu hiệu nhất để định hướng các yếu tố sản xuất vào hoạt động kinh tế tối ưu. Trong thị trường doanh nghiệp và cá nhân đều có ý chí với giá cả và tiền công linh hoạt sẽ giúp họ lựa chọn đề án kinh tế tối ưu. Nhà nước can thiệp vào nền kinh tế bằng thuế và chi tiêu công cộng để giữ công bằng xã hội có thể sẽ đạt hiệu quả, rất nhiều trường hợp đi ngược lại lợi ích của tầng lớp nghèo khổ và bóp nghẹt sự sáng tạo ra của cải của nhà kinh doanh. Do đó nhà nước nên giảm thuế và bỏ bớt những quy định cản trở sức cung. Tư tửơng cơ bản của chủ nghĩa tự do mới là cơ chế thị trường có sự điều tiết của nhà nước ở một mức độ nhất đinh. Khẩu hiệu của họ là thị trường nhiều hơn, nhà nứớc can thiệp vào ít hơn: “ kinh tế như sân bóng trong đó mọi thành phần là cầu thủ, chính phủ là trong tài” 2.Vai trò của nhà nước trong lịch sử học thuyết kinh tế 2.1.Trường phái trọng thương Chủ nghĩa trọng thương hay trường phái coi trọng thương mại là hệ thống tư tưởng kinh tế đầu tiên của giai cấp tư sản ra đời trong thời kỳ tan rã của phương thức sản xuất phong kiến, phát sinh phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa chuyển từ kinh tế hàng hoá giản đơn sang kinh tế thị trường.Nó ra đời vào khoảng những năm 1650 và sau đó bị suy đồi. Do trình độ phát triển kinh tế luc này còn thấp kém, công nghiệp chưa có. Nông nghiệp còn lạc hậu, CNTB đang ở giai đoạn tích luỹ nguyên thuỷ,còn non yếu, cần thiết phải có sự hỗ trợ, có “bà đỡ” để cho nó ra đời. Do vậy trường phái trọng thương chủ trương nhà nước phải can thiệp vào hoạt động tích trữ tiền, hoạt động thương mại, đặc biệt là ngoại thương. Một loạt các kiến nghị về chính sách được các nhà trọng thương đề xuất như cấm việc đưa vàng ra nước ngoài, tổ chức buoon bán gần những nơi kho tàng để nhà nước dễ bề kiểm soát và thu thuế, quy định tỉ lệ trao đổi tiền, khuyến khích xuất khẩu các hàng thành phẩm chứ không xuất nguyên liệu, khuyến khích thương mại trung gian, thực hiện chính sách thuế quan bảo hộ, nhằm giúp cho nền kinh tế dân tộc phát triển. Đặc điểm lí luận của chủ nghĩa trọng thương là họ chưa biết và không thừa nhận quy luật kinh tế. Họ đánh giá cao các chính sách kinh tế của nhà nước, dựa vào chính quyền nhà nước vì họ cho rằng dựa vào nhà nước mới có thể phát triển kinh tế. Tuy hạn chế về tính lí luận nhưng hệ thống quan điểm học thuyết kinh tế trọng thương về vai trò kinh tế của nhà nước đã tạo ra những tiền đề cho các lí luận kinh tế sau này phát triển. C.Mac viết: “Cái sự kiện là ... sự phát triển của chủ nghiac tư bản được đẩy nhanh… không phải là còn được gọi là tự nhiên, mà bằng những biện pháp cưỡng chế, quả thật là đặc trưng với tính tự tư tự lợi của tư nhân và của chủ xưởng thời bấy giờ và thật là phù hợp với thời kỳ phát triển TBCN mà họ (tức chủ nghĩa trọng thương) đại biểu. 2. Tư tưởng vai trò của nhà nước của kinh tế chính trị học tiẻu tư sản Cách mạng công nghiệp cuối thế kỷ XVIII- đầu thế kỷ XXdẫn đế sự thay đổi đáng kể về kinh tế- xã hội. Giai cấp tư sản và giai cấp vô sản trở thành các giai cấp cơ bản của xã hội. Ở các nước có sự phát triển của CNTB yếu và bước vào cuộc cách mạng công nghiệp với nền sản xuất nhỏ chiếm ưu thế thì những mâu thuẫn xã hội diễn ra ngày càng gay gắt hơn. Từ đó xuất hiện phê phán CNTB theo quan điểm tiẻu tư sản. Học thuyết kinh tế tiểu tư sản xuất hiện, các đại biểu của trường phái này là Sismondi và Pier Joseph Proudon. Quá trình phát triển tư tưởng của ông chia thành 2 giai đoạn: Trong giai đoạn đầu, ông ủng hộ quan điểm “ tự do kinh tế” của A. Smith không có sự can thiệp của nhà nước. Trong giai đoạn sau ông phê phán quan điểm của phái cổ điển, theo ong “đối tượng của kinh tế chính trị học là phúc lợi vật chất của con người do Nhà nước quyết định” Trước những hậu quả của cách mạng công nghiệp, các tệ nạn của chủ nghĩa tư bản như: khủng hoảng, thất nghiệp, nạn đói…Sismondi yêu cầu Nhà nước phải can thiệp vào kinh tế, nhằm bảo vệ trật tự xã hội, bảo vệ sản xuất nhỏ. Không cho phép tập trung sản xuất, tập trung sự giàu có, duy trì các phân xưởng thủ công, chế độ tư hữu ruộng đất nhỏ. Thực hiện chính sách thuế quan bảo hộ. Ông coi nhà nước tư sản biểu hiện lợi ích của tất cả các giai cấp. Ông phủ nhận tính giai cấp của Nhà nước. Theo ông, Nhà nước tư sản đối lập với sản xuất lớn. Nó có thể đạt lợi ích chung, sự hài hoà xã hội phúc lợi chung 3. Tư tưởng vai trò Nhà nước trong học thuyết Keynes Khủng hoảng kinh tế của CNTB bắt đầu từ 1825 và trở nên thường xuyên hơn vào nhưnữg năm 30 của thế kỉ XX đã cứng tỏ rằng “bàn tay vô hình”, “tự cân bằng” không thể đảm bảo cho nền kinh tees TBCN phát triển bình thường. Hơn nữa xu hướng xã hội hoá sản xuất ngày càng cao đã chỉ cho các nhà kinh tế học tư sản thấy rằng, phải có một lực lượng nhân danh xã hội can thiệp vào quá trình kinh tế, điều tiết kinh tế. Từ đó lí thuyết “chủ nghĩa tư bản được điều tiết” xuất hiện. Người sáng lập học thuyết này là John Meynảd Keynes- nhà kinh tế học, nhà hoạt động xã hội và thực tiễn trong ngành ngân hàng nước Anh. Nếu như trường phái cổ điển và cổ điển mới côi nhà nước tư bản chỉ là người canh gác bảo vệ tài sản cho CNTB, thì Keynes đánh giá vai trò của Nhà nước hoàn toàn khác. trong tác phẩm “Lí thuyết chung về việc lam, lái suất và tiền tệ” (1936) ông đưa ra kết luận quan trọng là cơ chế thị trường không thể đảm bảo cho việc sử dụng đầy đủ các nhân tố sản xuất, mọi tệ nạn của CNTB như khủng hoảng, thất nghiệp bắt đầu từ sự không can thiệp của Nhà nước vào kinh tế. Vì vậy, để đảm bảo cho CNTB hoạt động bình thường, tránh được khủng hoảng và thất nghiệp thì nhà nước tư sản phải đưa ra những chính sách điều chỉnh kinh tế, phải can thiệp vào quá trình sản xuất., mà biện pháp chủ yếu là sử dụng đầu tư nhà nước, thuế, lái suất, các chính sách kinh tế nhằm khuyến khích sản xuất và tiêu dùng trong xã hội. Khuyến nghị chính sách can thiệp của nhà nước vào kinh tế gồm những vấn đề cơ bản sau đây: Một là, nhà nước phải duy trì cầu đầu tư, mở ra các công trình đầu tư lớn. Từ đó theo “nguyên lí số nhân” mà kích thích cầu tiêu dùng của xã hội, nâng cao có hiệu quả. Hai là, nhà nước sử dụng tài chính, tín dụng, lưu thông tiền tệ làm công cụ chủ yếu để điều chỉnh kinh tế và chống chu kỳ. Thông qua nó mà củng cố lòng tin và lạc quan cho doanh nghiệp trong các cuộc đầu tư, nâng cao hiệu quả “giới hạn” của tư bản. Đồng thời, đảm bảo bù đắp những thiếu hụt của ngân sách nhà nước do tăng chi phí để kích thích đầu tư bằng cách in thêm tiền giấy, thực hiện “lạm phát có mức độ”, xây dựng hệ thống thuế khoá, công trái của nhà nước tư sản để điều tiết một phần thu nhập dành cho tiết kiệm, kích thích doanh nhân tích cức hoạt động. Ba là, khuyến khích mở rộng mọi hình thức đầu tư để tăng cầu và việc làm, kể cr đầu tư sản xuất vũ khí chiến tranh. Bốn là, khuyến khích tăng mọi tiêu dùng cá nhân của người lao động và nhà tư bản. Tóm lại, tư tưởng trung tâm của lí thuyết điều chỉnh kinh tế mà Keynes đưa ra lầ nhà nước phải có các biện pháp để tăng “cầu có hiệu quả”, kích thích tiêu dùng sản xuất và tiêu dùng cá nhân, kích thích đầu cơ tư bản, từ đó đảm bảo việc làm, tăng thu nhập, chống khủng hoảng và thất nghiệp. Trong khoảng thời gian sau đại chiến thế giới lần thứ hai, chủ nghĩa Keynes quả thật đã đạt được một só hiệu quả: ở cộng hoà Liên bang Đức nó được sử dụng làm cơ sở tư tưởng cho kiểu điều chỉnh kinh tế phát xít. Ở Pháp nó được sử dụng làm cơ sở cho lí thuyết “đơn vị chỉ huy” và “kế hoạch hoá”. Đặc biệt ở Mỹ, nó được sử dụng rộng rãi nhất. Các nhà kinh tế học Mỹ đã bổ sung cho lí thuyết Keynes nhiều điều mới. Trước hết, họ đưa ra lí thuyết “ngừng trệ”. Theo thuyết này, nguyên nhân của khủng hoảng kinh tế không phải chỉ là do tiêu dùng không đầy đủ mà còn do những tác động bên ngoài: thúc đẩy nền kinh tế bị yếu đi. Cụ thể là do dân số tăng chậm, không còn đất đai tự do, tiến bộ kỹ thuật tăng chậm. Thứ hai, những người thuộc trường phái Keynes ở Mỹ ủng hộ việc Nhà nước sử dụng các phương tiện như đơn đặt hàng lớn của Nhà nước, hệ thống mua để” tiếp sức thêm cho kinh tế tư nhân”. Để có tiền thực hiện những khoản này phải tăng chi phí Nhà nước. Đến lượt nó, để tăng nguồn chi phí này Nhà nước cần phải tăng thuế đối với dân cư, tăng nợ Nhà nước,thực hiện lạm phát có mức độ. Thứ ba, các nhà kinh tế học Mỹ coi ngân sách Nhà nước là công cụ chủ yếu để điều chỉnh nền kinh tế Mỹ. Họ gọi đó là “công cụ ổn định bên trong” của nền kinh tế. Nó bao gồm: thuế thu nhập, bảo hiểm xã hội, trợ cấp thất nghiệp. Họ thấy rằng cần phải sử dụng “công cụ” này tuỳ theo tình hình phát triển kinh tế. Khối lượng thuế tăng lên trong thời kì hưng thịnh và giảm đi trong thời kì khủng hoảng. Còn bảo hiểm xã hội và trợ cấp thất nghiệp thì ngược lại, tăng lên trong thời kì khủng hoảng và giảm đi trong thời kì hưng thịnh. Thứ tư, bên cạnh “các công cụ ổn định bên trong” là “các biện pháp điều hoà”. Biện pháp này nhằm điều chỉnh đầu tư cơ bản của tư nhân và sử dụng linh hoạt chi phí Nhà nước. Trong thời kì hưng thịnh thì hạn chế chi phí Nhà nước. Trong thời kỳ khủng hoảng cần tăng chi phí Nhà nước để bù đắp lại cho sự giảm sút của chi phí đầu tư tư nhân. Sự tăang chi phí Nhà nước trong thời kì này không dừng lại dù cho ngân sách có bị thâm hụt lớn. Thứ năm, những người theo phái Keynes ở Mỹ còn bổ sung thêm cho nguyên lí số phận của Keynes một nguyên lí khác là “gia tốc”. Theo họ sự kết hợp chặt chẽ hai nguyên lý này khả dĩ chủ động tạo ra “suy thoái” hay “mở rộng” đáy hay đỉnh của chu kì kinh doanh từ đó chủ động điều chỉnh kinh tế, chống chu kỳ.Thứ sáu, các nhà kinh tế học Mỹcoi chi phí chiến tranh là kiểu kinh tế đặc biệt để thoát khỏi khủng hoảng và thất nghiệp. Nhờ có sản xuất vũ khí chiến tranh mà tư bản độc quyền thu được lợi nhuận độc quyền cao, kchs thích mở roọng sản xuất, ổn định thị trường, kéo dài thời gian xuất hiện khủng hoảng. J.M.Keynes và những người theo ông ở các nước tư bản phát triển hi vọng vào việc Nhà nước, thông qua việc sử dụng các công cụ điều tiêt vĩ mô sẽ chống được khủng hoảng, thất nghiệp, tạo được sự ổn định cho quá trình phát triển kinh tế. Song những chấn động lớn trong nền kinh tế TBCN vãn diễn ra. Hơn nữa, thêm vào tình trạng khủng hoảng và thất nghiệp là lạm phát ngày càng trầm trọng. Trong bối cảnh đó, đòi hỏi phải có những lí thuyết mới. Rõ ràng yêu cầu phát triển của sản xuất xã hội hoá cao đòi hỏi Nhà nước tư sản phải can thiệp vào kinh tế J.M.Keynes đã đưa ra lí thuyế đáp ứng yêu cầu này. song sự khiếm khuyết lớn nhât là ở chỗ ông bỏ qua vai trò của kinh tế thị trường, tự do hoạt động của doanh nhân theo cung cầu giá cả hàng hoá. Nhưng chính phủ các nước phương Tây trước sau không hề vứt bỏ sự điều tiết kinh tế vĩ mô. Bởi vì, nó có lợi ích cho thực hiện kinh tế ổn định tăng trưởng bền vững, có lợi cho thúc đẩy kinh tế thị trường phát triển lành mạnh. 3/ Kinh tế hỗn hợp Kinh tế hỗn hợp với đại diên tiêu biểu là Samuelson. Qúa trình xích lại giữa các xu hướng tư tưởng kinh tế được thể hiện ở đỉnh cao trong học thuyết kinh tế của trường phái chính hiện đại. Nếu các nhà kinh tế học cổ điển và cổ điển mới say sưa với “bàn tay vô hình” thì Keysnes và những người theo ông say sưa vơí “bàn tay nhà nứơc” thì Samuelson nhận thấy rằng điều chỉnh nền kinh tế hiện đại không thể thiếu được “bàn tay vô hình” của thị trừong và “bàn tay hữu hình” của chính phủ. “ Điều hành nền kinh tế không có chính phủ hoặc không có thị trường thì cũng giống như việc vỗ tay bằng một bàn tay” 3.1 Cơ chế thị trường Theo samuelson, cơ chế thị trường là một tổ chức kinh tế trong đó cá nhân người tiêu dùng và các nhà kinh doanh tác động lẫn nhau qua thị trường để xác định sự vân động trung tâm của tổ chức kinh tế là: Sản xuất cái gì? Như thế nào? Cho ai? Cơ chế thị trường không phải là một hỗn hơp mà là một trật tự kinh tế. Samuelson nền kinh tế thị trường chụi sự tác động của hai ông vua là người tiêu dùng và. Người tiêu dùng thống trị thị trường vì họ tiêu dùng các hàng hoá mà doanh nghiệp sản xuất ra, họ bỏ phiếu bằng đô la. Đông thời người tiêu dùng chụi sự hạn chế của. Theo ông trong nền kinh tế thị trường lợi nhuận đóng vai trò là động lực chi phối hoạt động của người kinh doanh. Môi trường cạnh tranh là môi trường chủ yếu của nền kinh tế thị trường. 3.2 Vai trò của nhà nước. Cơ chế thị trường cũng không tránh khỏi những thất bại thị trường, “bàn tay vô hình” đôi khi có thể dẫn nền kinh tế đi lầm đường lạc lối. Những tệ nạn như khủng hoảng lạm phát, thất nghiệp, bất bình đẳng trong phân phối thu nhập và tài sản, tàn phá tự nhiên và môi trường là những vấn đề mà cơ chế thị trường không thể giái quyết nổi. Để đối phó với những khuyết tật đó, các nền kinh tế các nền kinh tế hiện đại với sự hỗn hợp giữa thị trường và bàn tay vô hình của chính phủ sẽ đảm bảo cho sự phat triển kinh tế một cách hiệu quả cân bằng và ổn định. Vậy sự can thiệp của chính phủ vào nền kinh tế thông qua những công cụ chính sách nào? Thứ nhất, thiết lập khuôn khổ pháp luật phát luật. Ở đó chính phủ đểa các quy tắc mà moi người kể cả chính phủ cũng phải tuân theo.Nó bao gồm các quy định về tài sản, các quy tắc về hợp đồng, các điều luật để xác định môi trường kinh tế. Thứ hai, chính phủ sửa chữa những thất bại của thị trường để thị trường họat động có hiệu quả. Ở đây chính phủ can thiệp đẻ hạn chế độc quyền dể đảm bảo cho cạnh tranh có hiệu quả. Thứ ba, chính phủ đảm bảo sự công bằng, nền kinh tế thị trường tất yếu dẫn đến phân hoá và bất bình đẳng. Vì vậy phải có chính sách phân phối thu nhập của chính phủ mà công cụ chủ yếu là thuế thu nhập luỹ tiến đẻ đánh vào người có thu nhập cao lớn hơn người có thu nhập thấp. Đông thời có chính sách hỗ trợ thu nhập để giúp cho người già, tàn tật thất nghiệp. Thứ tư, chính phủ thực hiện điều tiết nền kinh tế đảm bảo sự ổn định kinh tế vĩ mô. Chính phủ sử dụng các chính sách tiền tệ, tài chính tác động đến chu kì kinh doanh, giải quyết thất nghiệp, chống trì trệ, suy thoái, lạm phát. Để thực hiện các chức năng trên, chính phủ sử dụng các công cụ là thuế các khoản chi tiêu của ngân sách và các quy định hay kiểm soát của chính phủ. Khi thực hiện các chức năng của kinh tế, chính phủ phải đưa ra các phương án để lựa chọn, đôi khi sự lựa chọn của chính phủ là không đúng nên bàn tay hữu hình cũng có khuyết tật. Do đó phaỉ kết hợp cơ chế thị trường và vai trò điều tiết của chính phủ thành nền kinh tế hỗn hợp. Nước ta hiện nay đã chuyển sang vận hành nền kinh tế theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước, phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa, nhưng còn nhiều yếu tố sơ khai. Việc nghiên cứu lý thuyết bàn tay vô hình của Adamsmith có ý nghĩa cung cấp một tri thức quan trọng về vai trò của cơ chế thị trường và có giải pháp để phát huy vai trò đó trong vận hành nền kinh tế nước ta hiện nay. Lý thuyết “bàn tay vô hình” của Adamsmith mới chỉ quan tâm đến mặt tích cực của thị trường, mà không thấy tác động tiêu cực hay thất bại mà tự nó không thể khắc phục đựơc vì thế ông đã tuyệt đôí hoá vai trò của thị trường, phủ nhận vai trò kinh tế của nhà nước.Việc nghiên cứu lý thuyết này còn có ý nghĩa cần có cái nhìn khách quan, khoa học về cơ chế thị trường. Không nên coi thi trường là sự hoàn hảo trong điều tiết nền kinh tế. Sự điều tiêt của nhà nứơc đối với nền kinh tế thi trường là cần thiết để ngăn ngừa, khắc phục những thất bại của thị trường để thị trường hoạt động có hiệu quả. Tuy nhà nước không làm thay được thị trường nhưng nó có thể làm tăng hiệu quả của thị trường. Đối với chúng ta, trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, cuộc đấu tranh để bảo vệ độc lập tự chủ về kinh tế, nhìn rộng hơn là bảo vệ sự lựa chọn con đường phát triển của mình, nhất thiết Việt Nam không thể coi nhẹ, càng không thể thiếu vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước. đó là vấn đề sinh tử, mang tính quy luật của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Thực tế cho thấy, nếu Việt Nam không có khu vực kinh tế nhà nước đủ mạnh, sẽ không có những thành tựu về hội nhập kinh tế quốc tế khả quan như đã thấy; đồng thời, vẫn giữ vững sự ổn định và phát triển về kinh tế, chính trị, xã hội qua mỗi chặng đường phức tạp và đầy cam go của công cuộc đổi mới hơn 20 năm vừa qua. Kinh tế nhà nước xứng đáng là chỗ dựa cho Nhà nước của dân, do dân, vì dân trong việc điều tiết, phát triển nền kinh tế quốc dân, ngày càng chủ động trong lộ trình hội nhập kinh tế quốc tế, vì lợi ích của toàn dân, nỗ lực bảo đảm sự hài hòa, thống nhất giữa phát triển kinh tế với thực hiện công bằng xã hội - một tiêu chí then chốt của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa mà chúng ta đã, đang và sẽ tiếp tục hoàn thiện không ngừng. Và, trên thực tế, từ những thành công rất quan trọng, không ai có thể chối bỏ, phủ nhận điều chúng ta khẳng định: Kinh tế nhà nước có vai trò quyết định trong việc giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa, ổn định và phát triển kinh tế, chính trị, xã hội của đất nước. Kết luận: Cho đến nay vấn đề chú trọng vai trò của nhà nước hay vai trò cuả thị trường để phát triển nền kinh tế vẫn gây nhiều tranh cãi giữa các học thuyết kinh tế, và giữa các quốc gia. Lựa chọn đường nối đúng đắn để xây dựng nền kinh tế phát triển vưng chắc là vấn dề hết sức quan trọng. Trong những năm đổi mới Việt Nam đã áp dụng nên kinh tế nhiều thành phần có sự điều tiết vĩ mô của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, và bước đầu đã cho thấy những bước tiến vững chắc đưa Việt Nam cơ bản trở thành một nước công nghiệp. Câu hỏi trắc nghiệm: Câu1: Tư tưỏng cơ bản của chủ nghĩa tự do mới là Cơ chế nền kinh tế hỗn hợp. Cơ chế thị trường. Cơ chế thị trường có sự điều tiết của nhà nướcở một mức độ nhất định. Sự điều tiết của nhà nước. Câu2: Nguyên tắc cơ bản của nên kinh tế thi trường xã hội ở CHLB Đức là: a. Phát triển nền kinh tế thị trương hay nền kinh tế mở. b. Đặc biệt coi trọng vi trò của nền kinh tế thị trường. c. kết hợp nguyên tắc tự do với nguyên tắc công bằng xã hội trong phát triển nền kinh tế thị trường. d. Coi trong nguyên tắc công bằng. Câu3: Nền kinh tế thị trường xã hội ở Đức có các tiêu chuẩn: a. Đảm bảo tự do cá nhân và đảm bảo công bằng xã hội. b. Có chính sách kinh doanh thao chu kỳ và chính sách tăng trưởng kinh tế. Câu4: Theo Keynes, để giải quyết tình trạng trì trệ, khủng hoảng và thất nghiệp của nền kinh tế. a. Nhà nước phải có trương trình đầu tư quy mô lớn. b. Nhà nước phải khuyến khích dân chúng tiết kiệm hạn chế tiêu dùng. c. Phaỉ tôn trọng vai trò của thị trường. d. Phải kết hợp giữa thị trường và nhà nước trong điều tiết kinh tế. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docU0277.doc
Tài liệu liên quan