VAI TRÒ CỦA THÀNH PHẦN KINH TẾ CÓ VỐN ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA DƯỚI SỰ QUẢN LÝ CỦA NHÀ NƯỚC Ở NƯỚC TA HIỆN NAY.
LỜI MỞ ĐẦU
Việt Nam là một nước nghèo, nền kinh tế kỹ thuật lạc hậu, trình độ xã hội còn thấp, lại bị chiến tranh tàn phá nặng nề. Đi lên chủ nghĩa xã hội bằng cách nào là một câu hỏi lớn và cực kỳ hệ trọng, muốn trả lời thật không đơn giản.
Suốt một thời gian dài Việt Nam đã áp dụng mô hình kinh tế kế hoạch hoá tập trung mang tính
34 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1425 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Vai trò của thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài trong nền Kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa dưới sự quản lý của nhà nước, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
bao cấp. Khái niệm thị trường gần như không được đề cập đến. Thời gian đó, nước ta chỉ có quan hệ với những quốc gia trong phe Xã hội chủ nghĩa- thường xuyên chỉ chờ viện trợ từ Liên Xô và Đông Âu. Môi trường đầu tư đóng băng vì mỗi cá nhân, tổ chức trong và ngoài nước đều không có quyền sản xuất hay đầu tư. Kết quả đã làm nền kinh tế phát triển chậm dần, từ đầu những năm 80 của thế kỷ XX đất nước ta đã lâm vào khủng hoảng trầm trọng. Đến đầu những năm 90 của thế kỷ XX, Liên Xô và Đông Âu sụp đổ gây ra cú sốc lớn đối với nền kinh tế các quốc gia trong phe xã hội chủ nghĩa, đặc biệt là nước ta- một nền kinh tế vốn đã quen với việc được hưởng nhiều trợ cấp không hoàn lại.
Trước tình hình cấp bách đó, Đảng và Nhà nước ta đã kịp thời nhận thức và nhanh chóng có những quyết định có tính bước ngoặt, kịp thời để có thể tồn tại và vững bước tiến lên con đường xã hội chủ nghĩa mà Đảng và Bác Hồ kính yêu đã chọn. Nước ta đã nhanh chóng có quyết định chuyển từ “nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung” sang “nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa dưới sự quản lý của Nhà nước” . Vì vậy để triển khai thuận lợi và thực hiên thành công con đường này thì nước ta phải có nhiều tiền đề cần thiết, trong đó có một tiền đề vô cùng quan trọng là vốn.
Vốn có hai nguồn: nguồn vốn trong nước và nguồn ngoài nước. Tuy nhiên tiến lên từ một nền kinh tế nghèo nàn, lạc hậu làm cho việc tích luỹ vốn từ nền kinh tế hết sức khó khăn, đặc biệt là trong thời kì đầu. Để thoát ra khỏi cái vòng luẩn quẩn: vì nghèo nên tích luỹ thấp; tích luỹ thấp thì tăng trưởng kinh tế chậm và khó thoát khỏi đói nghèo; vì nghèo nên tích luỹ thấp.... cần phải tận dụng mọi khả năng để thu hút các nguồn vốn từ bên ngoài. đây là nguồn vốn có vai trò rất quan trọng, không những giúp các nước nghèo khắc phục một phần khó khăn về vốn trong thời kì đầu mà còn góp phần nâng cao trình độ quản lý và công nghệ, tạo việc làm cho người lao động... Vì thế, tranh thủ nguồn vốn bên ngoài là một nhân tố đẩy nhanh thành công của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Tuy nhiên mặt trái của của nguồn vốn nước ngoài cũng không nhỏ. Sử dụng nguồn vốn nước ngoài phải chấp nhận bị bóc lột, tài nguyên bị khai thác, nợ nước ngoài tăng lên. Do vậy không thể kì vọng quá lớn vào nguồn vốn nước ngoài. Sử dụng nguồn vốn nước ngoài là rất cần thiết nhưng rất cần cân nhắc lựa chọn.
Trong đề án này em chỉ xin phép được đề cập đến vấn đề: vai trò của thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa dưới sự quản lý của Nhà nước ở nước ta hiện nay.
I- VAI TÒ TO LỚN CỦA THÀNH PHẦN KINH TẾ CÓ VỐN ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI TRONG NỀN KINH TẾ NƯỚC TA HIỆN NAY.
1. Đĩnh nghĩa.
Thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài dựa trên hình thức sở hữu hầu như tuyệt đối là vốn của nước ngoài. Nhưng chủ sở hữu không nhất thiết là nhà tư bản. Trong những năm gần đây ở nước ta tỷ trọng của kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài tăng lên đáng kể (chiếm gần 25% vốn đầu tư từ nước ngoài) và vai trò của nó đối với tăng trưởng kinh tế cũng lớn hơn (hơn 16% GDP).
2. Vai trò của thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài.
Đầu tư quốc tế là một hình thức cơ bản của quan hệ kinh tế đối ngoại. Nó là quá trình trong đó hai hay nhiều bên (có quốc tịch khác nhau) cùng góp vốn để xây dựng và triển khai một dự án đầu tư nhằm đưa lại lợi ích cho tất cả các bên tham gia. Yếu tố quốc tế của đầu tư quốc tế thể hiện ở sự khác nhau về quốc tịch giữa các bên tham gia đầu tư, nhưng mọi hoạt động đầu tư quốc tế đều nhằm mục đích sinh lợi. Đầu tư quốc tế tác động hai mặt đối với các nước nhận đầu tư.
2.1. Vai trò tích cực:
v Tăng nguồn vốn đầu tư quốc gia
Nước ta đi lên chủ nghĩa xã hội từ một xuất phát điểm rất thấp so với các quốc gia khác nên vấn đề để có thể bắt kịp với tốc độ phát triển của các quốc gia trên thế giới hiện nay là vô cùng khó khăn. Nguồn vốn không chỉ giữ vai trò quan trọng đối với các quốc gia phát triển mà còn vô cùng quan trọng với một quốc gia chậm phát triển như nước ta hiện nay.
Hội nghị lần thứ Chín Ban chấp hành trung ương Đảng (khoá IX) tháng 1 năm 2004 tiếp tục khẳng định cần “tạo chuyển biến cơ bản trong thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, thực sự coi kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài là một bộ phận hữu cơ trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của nước ta”. Còn trong chiến lược phát triển kinh tế- xã hội 10 năm (2001-2010) đặt ra nhu cầu về vốn đầu tư phát triển, trong đó riêng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài giai đoạn 2001-2005 khoảng 12 tỷ USD, vốn thực hiện khoảng 11 tỷ USD. So với thời kỳ 5 năm trước (1996-2000), thì mục tiêu này không lớn, song đây là thách thức lớn trong bối cảnh sau khủng hoảng tài chính tiền tệ 1997, đồng vốn FDI vào nước ta có xu hướng giảm sút nghiêm trọng, trong khi nhiều nước trong khu vực, nhất là Trung Quốc đang tích cực cải thiện môi trường đầu tư và trở thành điểm hút mạnh nguồn vốn FDI. Thực tế này đòi hỏi Việt Nam phải tiếp tục đổi mới một cách khẩn trương, đồng bộ cơ chế chính sách, nhất là khâu điều hành để thực hiện thắng lợi mục tiêu thu hút nhiều hơn và sử dụng hiệu quả cao nguồn vốn FDI.
Về bản chất, FDI là đầu tư của nhà tư bản nước ngoài, chủ yếu là các công ty xuyên quốc gia để chiếm lĩnh thị trường và thu nhiều lợi nhuận, hoạt động trong khuôn khổ pháp luật của nước sở tại và phù hợp với thông lệ quốc tế. Đầu tư trực tiếp nước ngoài là một nội dung quan trọng, bước phát triển cao của toàn cầu hoá và khu vực hoá, làm cho nền kinh tế các nước không chỉ quan hệ trao đổi với nhau, mà còn lồng vào nhau, tăng sự phụ thuộc, gắn bó lợi ích với nhau theo nguyên tắc lợi cùng hưởng, lỗ cùng chia.
Tại Việt Nam mức tích luỹ đầu tư xã hội có xu hướng tăng lên song vẫn ở mức thấp (năm 2001 là 33,75% GDP, trong đó FDI chiếm 18,3% tổng vốn đầu tư xã hội). Để đạt mục tiêu phát triển kinh tế bình quân7,5% trong kế hoạch 5 năm 2001-2005, trong điều kiện chỉ số ICOR ở mức cao (hiện nay trên 5 lần) đòi mức tích luỹ đầu tư phải trên 35%. Theo tính toán, khả năng huy động trong nước tối đa chỉ khoảng 60-70%, còn lại phải huy động các nguồn bên ngoài, trong đó đáng kể là FDI (hiện nay chiếm khoảng 2/3 vốn nước ngoài) để đảm bảo tích luỹ vốn cho quá trình CNH, HĐH.
v Tăng công nghệ mới, tranh thủ khai thác công nghệ sẵn có của các quốc gia đã phát triển.
Nước ta vốn là một nước có nền kinh tế nông nghiệp, trình độ sản xuất cũng như khoa học kỹ thuật rất lạc hậu. Bên cạnh đó, việc phải trải qua hai cuộc chiến tranh tàn khốc cùng với những khó khăn do lịch sử để lại như việc chuyển từ chế độ phong kiến sang thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Chính những yếu tố trên đã làm cho nền kinh tế nước ta không những lạc hậu so với thế giớ về cơ sở vật chất mà công nghệ hay trình độ nhân lực rất hạn chế.
Mở cửa thị trường kinh tế đón nhận những nguồn đầu tư từ nước ngoài là một việc làm hết sức đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta. Chính sách này giúp nền kinh tế nước ta rất nhiều trong việc rút ngắn khoảng cách với nhiều quốc gia trong khu vực và trên thế giới:
- Tiếp thu một kho tàng công nghệ của nhân loại từ đó ứng dụng vào thực tiễn nước ta, đẩy nhanh quá trình sản xuất nhằm thu được nhiều lợi nhuận cho quốc gia và các nhà đầu tư.
- Nâng cao trình độ của công nhân và đội ngũ quản lý trong các doanh nghiệp này. Đồng thời cũng góp phần không nhỏ vào việc tăng trình độ dân trí quốc gia.
- Tăng công nghệ cũng góp phần vào việc khai thác tài nguyên quốc gia một cách hợp lý và có hiệu quả hơn.
v Tạo thêm việc làm, giải quyết vấn đề thất nghiệp.
Nước ta hiện vẫn là một quốc gia nghèo với dân số cao trên 80 triệu dân, trong khi đó nền kinh tế lại chậm phát triển. Lượng dân số trong độ tuổi lao động chiếm hơn 40%, vấn đề việc làm trở nên vô cùng nhức nhối. Việc tạo điều kiện cho các nhà đầu tư nước ngoài vào đầu tư ở nước ta cũng là một trong những biện pháp tích cực để tạo thêm việc làm cho người lao động, giảm bớt sức ép với xã hội.
v Chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại, tiếp cận kinh tế thị trường hiện đại trên thế giới.
Thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài làm biến đổi nền kinh tế nước ta một các nhanh chóng theo chiều hướng hết sức có lợi. Chính thành phần nay đã đẩy nhanh tốc độ công nghiệp hoá, hiện đại hoá của đất nước. Thêm vào đó nó đã giúp nền kinh tế thoát khỏi những lề thói cố hữu do lịch sử để lại: quan liêu, cửa quyền, tác phong nông nghiệp, ích kỷ cá nhân... Đưa nền kinh tế nước ta tiếp cận với thị trường hiện đại trên thế giới, thực hiện chủ trương “đi tắt đón đầu”, nhanh chóng bắt kịp với các nước trên thế giới.
2.2. Vai trò tiêu cực:
Đối với các nước nhận đầu tư là những nước kém phát triển như nước ta thì đầu tư quốc tế cung có không ít rủi ro.
v Có khả năng đẩy mạnh sự phân hoá giữa các giai tầng trong xã hội, giữa các vùng lãnh thổ.
Vốn do các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào Việt Nam thường chỉ vì mục tiêu lợi nhuận chứ ít liên quan đến vấn đề phúc lợi xã hội. Do đó, các nhà đầu tư thường lựa chọn đầu tư vào những lĩnh vực phát triển, những khu công nghiệp lớn, những khu đông dân cư nhằm thu được nhiều lợi nhuận cho bản thân. Phát triển ở những khu đông dân cư hay những khu công nghiệp với những ngành có độ thu hút lớn là rất quan trọng song chính điều này đã gây ra những phát triển không đồng đều giữa các vùng lãnh thổ trong nước. Dẫn đến tình trạng mất cân đối về việc phát triển giữa các vùng: thành thị và các khu trung tâm công nghiệp thì ngày một hiện đại và phát triển cao, còn những khu vực miền núi và nông thôn hẻo lánh thì chậm phát triển, ngày một thụt lùi so với các khu vực trên. Tình trạng này gây ra khó khăn cho những chính sách phát triển kinh tế của Đảng và Nhà nước ta. Bên cạnh đó, chính luồng gió của đầu tư nước ngoài dẫn đến sự phát triển của một số bộ phận dân cư. Các thành phần này ngày càng có một nguồn thu nhập cao hơn so với các thành phần làm việc trong các doanh nghiệp Nhà nước hay các ngành nghề khác, dẫn đến sự phân hoá giữa các giai tầng trong xã hội và việc “chảy máu chất xám” do những người lao động có trình độ cao do Nhà nước đào tạo hay nhận học bổng Chính phủ thường có xu hướng muốn làm việc cho những công ty có vốn đầu tư nước ngoài để nhận những ưu đãi hơn cho bản thân. Đây là nguyên nhân dẫn đến những bất đồng xã hội.
v Dẫn đến tình trạng cạn kiệt tài nguyên quốc gia, làm ô nhiễm môi trường sống.
Một nhà đầu tư khi chọn một quốc gia đầu tư đều đã cân nhắc rất kỹ những thuận lợi cũng như những khó khăn mà môi trường đầu tư mang lại, nhưng quyết định lựa chọn đó vẫn phải đem lại nguồn lợi nhuận khổng lồ cho họ. Chính mục tiêu kinh tế này đã làm các nhà đầu tư bất chấp những vấn đề xã hội như: cạn kiệt tài nguyên, huỷ hoại môi trường sống quốc gia. Nhà đầu tư mong muốn khai thác một cách triệt để nguồn tài nguyên- kể cả tài nguyên có khả năng phục hồi hay tài nguyên không có khả năng phục hồi, hay việc sử dụng những hoá chất trong sản xuất làm tổn hại dến môi trường sống không những của những loài sinh vật mà còn có khả năng nguy hiểm đến chính người dân ở những quốc gia đó và cả chính môi trường sống của họ- các nhà đầu tư.
Mỗi quốc gia nhận vốn đầu tư của nước ngoài cần phải xem xét một cách cẩn thận dự án nhằm phát hiện ra những tiêu cực đằng sau những lợi nhuận khổng lồ mà nó đem lại. Nền kinh tế Việt Nam thật sự cần rất nhiều vốn để phát triển kinh tế nhưng không phải vì thế mà có thể chấp nhận đánh đổi cuộc sống của chính mình và xã hội tương lai. Nước ta thật sự cần những nhà đầu tư có trách nhiệm với cộng đồng, nói cách khác là một nhà đầu tư thật sự có tâm với xã hội và những chuyên gia trong nước có khả năng, có kiến thức kiểm định những dự án đầu tư nhằm mang lại cho xã hội những điều phát triển ngày một tốt đẹp.
v Tăng tính lệ thuộc của quốc gia với bên ngoài.
Các nhà đầu tư thường có những mục đích riêng của bản thân họ. Bên cạnh mục tiêu lợi nhuận thì còn có một mục tiêu khác cũng vô cùng quan trọng là chính trị. Chính yếu tố chính trị này thường đánh lừa các quốc gia nhận đầu tư là những nước kém phát triển bởi những lợi ích hào nhoáng bề nổi mà nó mang lại cho quốc gia đó. Các thế lực đó thường khôn khéo dùng những lợi ích kinh tế để mua chuộc nhằm bắt quốc gia nhận đầu tư dần lệ thuộc về kinh tế dẫn đến lệ thuộc về chính trị. Các dự án đầu tư này thường do một vài thế lực chống đối những quốc gia đó thực hiện nhằm biến đổi thể chế chính trị của nước đó theo ý muốn của một vài cá nhân có dã tâm. Đặc biệt, Việt Nam đã lựa chọn con đường tiến lên Chủ nghĩa xã hội cũng là đồng thời tỏ thái độ chống lại các thế lực Tư bản chủ nghĩa. Do đó, với bất kỳ một dự án nào Chính phủ cũng phải cân nhắc rất kỹ những lợi ích cũng như những âm mưu sau đó, tránh bị những thế lực đen tối lợi dụng việc đầu tư để lôi kéo một bộ phận dân cư phản động chống lại Nhà nước và tránh bị lệ thuộc về kinh tế để dẫn đến lệ thuộc về chính trị. Giữ vững con đường tiến lên Chủ nghĩa xã hội mà Đảng và Bác Hồ kính yêu đã lựa chọn và mất công gây dựng trong nhiều năm qua.
3. Hai loại hình đầu tư quốc tế: đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp.
3.1. Đầu tư trực tiếp là hình thức đầu tư mà quyền sở hữu và quyền sử dụng quản lý vốn của người đầu tư thống nhất với nhau, tức là người có vốn đầu tư trực tiếp tham gia vào việc tổ chức, quản lý và điều hành dự án đầu tư, chịu trách nhiệm về kết quả, rủi ro trong kinh doanh và thu lợi nhuận.
Ngày nay trong nền kinh tế thế giới, hình thức đầu tư trực tiếp vốn là hình thức chủ yếu của các nước tư bản phương Tây có xu hướng ngày càng tăng, diễn ra ở cả các nước phát triển và cácc nước đang phát triển. Có nhiều hình thức đầu tư trực tiếp như: người đầu tư tự lập xí nghiệp mới, mua hoặc liên kết với xí nghiệp ở nước đầu tư, mua cổ phiếu...
Nguồn vốn đầu tư trực tiếp chủ yếu là của doanh nghiệp và cá nhân. Số vốn được coi là đầu tư trực tiếp không giống nhau ở mỗi nước. Có nước qui định 10% cổ phần đã là đầu tư trực tiếp. Có nước qui định 25%. Vốn đầu tư trực tiếp thường đem lại hiệu quả cao, nhưng phía chủ nhà cũng dễ bị thua thiệt nếu trình độ quản lý non kém. Qui mô của vốn và số lượng dự án đầu tư trực tiếp phụ thuộc vào môi trường đầu tư và phụ thuộc vào ý đồ đầu tư của các chủ đầu tư nước ngoài.
Đầu tư quốc tế trực tiếp được thực hiện dưới các hình thức:
¯ Hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng. Hình thức này không cần thành lập một pháp nhân mới.
¯ Xí nghiệp liên doanh mà vốn do hai bên cùng góp theo tỷ lệ nhất định để hình thành xí nghiệp mới có hội đồng quản trị và ban điều hành chung.
¯ Xí nghiệp 100% vốn nước ngoài.
¯ Hợp đồng xây dựng- kinh doanh- chuyển giao. Hình thức này đòi hỏi cần có nguồn vốn lớn của bên ngoài và thường đầu tư cho các công trình kết cấu hạ tầng.
Thông qua các hình thức trên mà các khu chế xuất, khu công nghiệp mới, khu công nghệ cao... sớm hình thành và phát triển.
3.2. Đầu tư gián tiếp là loại hình đầu tư mà quyền sở hữu tách rời quyền sử dụng vốn đầu tư, tức là người có vốn không trực tiếp tham gia vào việc tổ chức, điều hành dự án mà thu lợi dưới hình thức lợi tức cho vay (nếu là vốn cho vay) hoặc lợi tức cổ phần (nếu là cổ phần), hoặc có thể không thu lợi trực tiếp (nếu cho vay ưu đãi). Sự khác nhau rõ nhất giữa đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp là người đầu tư trực tiếp có quyền khống chế xí nghiệp đầu tư, còn người đầu tư gián tiếp không có quyền khống chế xí nghiệp đầu tư mà chỉ có thể thu lợi tức trái phiếu, cổ phiếu và tiền lãi.
Nguồn vốn đầu tư gián tiếp rất đa dạng về chủ thể và hình thức. Trong đầu tư gián tiếp, chủ đầu tư về thực chất là tìm đường thoát cho tư bản dư thừa, phân tán đầu tư nhằm giảm bớt rủi ro. Đối với nước được đầu tư, thực chất là lợi dụng vốn của thế giới để thúc đẩy phát triển kinh tế của nước mình. Chủ thể đầu tư gián tiếp có thể là chính phủ, các tổ chức quốc tế, các tổ chức phi chính phủ... với các hình thức viện trợ như: viện trợ có hoàn lại (cho vay), viện trợ không hoàn lại, cho vay ưu đãi hoặc không ưu đãi; là tư nhân mua cổ phiếu và các chứng khoán theo mức qui định của từng nước. So với nguồn vốn đầu tư trực tiếp thì nguồn vốn đầu tư gián tiếp không lớn. Trong các nguồn vốn đầu tư gián tiếp, một bộ phận quan trọng là viện trợ phát triển chính thức (ODA) của chính phủ một số nước có nền kinh tế phát triển. Bộ phận này có tỷ trọng lớn và thường đi kèm với các điều kiện ưu đãi. ODA bao gồm các khoản hỗ trợ không hoàn lại và các khoản tín dụng ưu đãi khác do các tổ chức trong hệ thống Liên hợp quốc, các chính phủ, các tổ chức kinh tế quốc tế dành cho các nước chậm phát triển. Các hình thức viện trợ chủ yếu của ODA là tiền mặt, hàng hoá, tín dụng thương mại ưu đãi, hỗ trợ chương trình, hỗ trợ dự án. Nguồn vốn hỗ trợ này nhằm vào các mục đích y tế, dân số và kế hoạch hoá gia đình, giáo dục và đào tạo, các vấn đề xã hội, nghiên cứu các chương trình, dự án bảo vệ môi trường sinh thái, hỗ trợ ngân sách và hỗ trợ nghiên cứu khoa học- công nghệ.
4. Bài học kinh nghiệm của các quốc gia đi trước.
Trung Quốc và Việt Nam là 2 quốc gia láng giềng với núi liền núi, sông liền sông. Không chỉ gắn bó với nhau do những điều kiện tự nhiên mà hai dân tộc dường như có rất nhiều điểm chung, đặc biệt là ở con đường phát triển đi lên chủ nghĩa xã hội mà Đảng Cộng sản hai nước đã chọn. Trung Quốc do giành độc lập trước ta nên bằng những cải cách đúng đắn họ đã xây dựng nền kinh tế- cơ sở hạ tầng khá vững chắc và ổn định để tự tin đi tiếp con đường đã chọn bất chấp các thế lực chống phá. Việt Nam tuy là quốc gia mới giành đợc độc lập gần 30 năm nay nhưng do Đảng và Nhà nớc ta biết tiếp thu có chọn lọc các bài học từ những quốc gia có cùng đường lối phát triển đi trước như Liên Xô, Trung Quốc ...và kế thừa một cách có chọn lọc nên nền kinh tế ngày một phát triển mạnh.
Giành độc lập từ 1/10/1949 kinh tế Trung Quốc đã có nhiều giai đoạn phát triển khác nhau qua nhiều thời kì. Sau thời kì 1949-1957 kinh tế Trung Quốc đã khôi phục nhưng đến giai đoạn 1958-1978 do những chính sách kinh tế tả khuynh duy ý chí đã đưa nền kinh tế Trung Quốc rơi vào tình trạng khủng hoảng, mất cân đối nghiêm trọng.Tuy nhiên sau thời kì cải cách và mở cửa từ năm 1978 kinh tế Trung Quốc đã có nhiều sự thay đổi và phát triển vựơt bậc, có nhiều thành tựu trong các lĩnh vực về khoa học kĩ thuật. Hội nghị thứ 3 (khoá XI) của Đảng Cộng sản Trung Quốc vào tháng 12/1978 đã ghi nhận sự kiện lịch sử quan trọng của đất nớc “Hội nghị là bước ngoặt vĩ đại có ý nghĩa sâu xa trong lịch sử đất nước ....Con đường mới xây dựng chủ nghĩa xã hội mang đặc sắc Trung Quốc, được mở ra từ thời kì này”.Từ năm 1978 đến nay,qua các kỳ đại hội Đảng Trung Quốc không ngừng phát triển tư duy lý luận làm phong phú nhận thức về con đường cũng như nội dung cải cách và mở cửa .Từ nhận thức lý luận và đánh giá thực tiễn là cơ sở cho việc khởi thảo đường lối cải cách và mở cửa của Trung Quốc.
Rút kinh nghiệm từ chính sách cải cách và mở cửa ở Trung Quốc, Đảng và Nhà nước ta đã thực hiện phát triển kinh tế và đã đạt được một số thành tựu to lớn trong thời gian qua.
ª Chủ trương thực hiện chính sách mở cửa của Trung Quốc: Hội nghị lần thứ 12 của Đảng Cộng sản Trung Quốc (tháng 9/ 1982) đã khẳng định: “Chính sách mở cửa là đường lối chiến lược không thay đổi, là một điều kiện cơ bản để hiện đại hoá”. Đặc biệt từ năm 1992, Trung Quốc chủ trơng đẩy nhanh nhịp độ mở cửa nhằm thu hút vốn và tranh thủ khoa học- kĩ thuật của nước ngoài.
ª Một số thành tựu đạt được
Ø Đánh giá chung.
Từ khi thực hiện cải cách và mở cửa đến nay, kinh tế Trung Quốc phát triển với nhịp độ tương đối cao và ổn định, góp phần nâng cao vị trí của Trung Quốc trên trường Quốc tế.
+ 1979- 1997: bình quân tăng trưởng GDP: 9,8%
+ 1998-2002 : bình quân tăng trưởng GDP: 7,7%
+ 2003 : bình quân tăng trưởng GDP: 8,5%
Ø Kết quả một số ngành kinh tế chủ yếu.
*Nông nghiệp:
-Cùng với chính sách khoán và những biện pháp hỗ trợ của nhà nước, nhìn chung nông nghiệp Trung Quốc đã có một số thành công nhất định:
+Tốc độ tăng trưởng tương đối cao và ổn định
1979-1997: bình quân tăng trưởng nông nghiệp: 6,6%
1998-nay : bình quân tăng trưởng nông nghiệp: 3,5%- 5%
+Sản lượng lương thực tăng lên qua các năm
1978: 304 triệu tấn 1987: 402 triệu tấn
1998: 492,5 triệu tấn 2000: 508 triệu tấn
Ä ý nghĩa: Trung Quốc cơ bản giải quyết vấn đề lương thực của đất nước cho hơn một tỷ dân, giảm hẳn nhập khẩu lương thực đồng thời có điều kiện phát triển nông nghiệp đa dạng, cùng với trồng trọt, chăn nuôi, các ngành nghề dịch vụ phát triển.
+ Trung Quốc xuất khẩu nhiều sản phẩm hàng hoá từ nông nghiệp, thu nhập người dân tăng lên, đời sống được cải thiện hơn so với trớc kia.
1978: Thu nhập quốc dân bình quân đầu người là 134 nhân dân tệ
2000: thu nhập quốc dân bình quân đầu người là 2253 nhân dân tệ
- Tuy nhiên vẫn còn những hạn chế
+ Xu hướng tập trung ruộng đất qui mô còn nhỏ
+ Nhiều chính sách của Nhà nước với nông dân đặc biệt là nông dân trồng lương thực chưa có tác dụng kích thích.
+ Phân hoá giai cấp trong nông thôn diễn rất nhanh, vấn đề việc làm và đời sống của nhiều vùng nông thôn còn nhiều khó khăn, đặc biệt là miền Tây và miền Trung của Trung Quốc.
* Công nghiệp:
- Với chơng trình phát triển kinh tế nhiều thành phần, công nghiệp có sự phát triển đa dạng và sản phẩm phong phú hơn.
- Tốc độ tăng trởng công nghiệp tương đối cao
1979- 1997: bình quân tăng trưởng công nghiệp: 14,9%
1998- nay: bình quân tăng trưởng công nghiệp: > 10%
- Hợp tác đầu với nước ngoài : Trung Quốc đã hình thành nhiều xí nghiệp có sử dụng vốn đầu tư nước ngoài
- Một số sản phẩm công nghiệp của Trung Quốc về mặt chất lượng đã được đánh giá đứng đầu thế giới: vật liệu xây dựng, xe máy, công nghệ thông tin...
Tuy nhiên, Trung Quốc đã cố gắng nâng cao chất lượng, đã tự túc được nhiều sản phẩm công nghiệp kể cả kĩ thuật và công nghệ, ngoài ra còn xuất khẩu ra thị trờng thế giới và cạnh tranh vào thị trường Âu Mĩ.
- Những hạn chế:
+ Nhiều doanh nghiệp quốc hữu làm ăn chưa có hiệu quả
+ Hợp tác đầu tư với nước ngoài chưa đạt được như mong muốn
+ Chất lượng sản phẩm công nghiệp nhìn chung chưa đáp ứng được yêu cầu thị trường.
* Kinh tế đối ngoại :
Cùng với thành công nhất định trong cải cách mở cửa, hoạt động kinh tế đối ngoại của Trung Quốc được mở rộng góp phần nâng cao vị trí của Trung Quốc trên thế giới
- Hợp tác về trao đổi hàng hoá : tính đến nay, Trung Quốc có quan hệ trao đổi buôn bán với 228 quốc gia và khu vực trên thế giới, kim ngạch xuất nhập khẩu .
Năm 2000: 474 tỉ USD ; 2002: 670,8 tỉ USD; 2003: > 10 tỉ USD
- Hợp tác đầu tư nước ngoài
Đầu tư nước ngoài có sự tác động tích cực đến sự phát triển kinh tế xã hội( đóng góp 13% tổng vốn đầu tư, 14% giá trị sản xuất công nghiệp, 47% kim ngạch xuất khẩu và trực tiếp giải quyết việc làm trên 18 triệu lao động) . Ngoài ra đầu tư nước ngoài còn trực tiếp tác động đến các khu vực kinh tế khác.
ª Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
* Tiếp tục đổi mới, cải thiện môi trường kinh doanh
- Xem xét bổ xung một số pháp luật chuyên ngành
- Tiếp tục triển khai thực hiện đầy đủ nội dung của luật doanh nghiệp và các văn bản hướng dẫn thi hành.
- Về lâu dài cần tạo một sân chơi bình đẳng cho tất cả các loại hình doanh nghiệp.
*Bài học từ quá trình phát triển đầu tư nước ngoài ở Trung Quốc và những kiến nghị chính sách cho Việt Nam.
- Nhất quán quan điểm phát triển dựa cả nguồn lực bên trong và bên ngoài. Một trong những kinh nghiệm quí giá nhất của Trung Quốc là đã kiên trì theo đuổi cải cách và mở cửa, giữ vững nguyên tắc sử dụng vốn đầu tư nước ngoài một cách chủ động, hợp lí và hiệu quả. Việt Nam cần những chính sách nhất quán và bình đẳng trong đối xử với các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài.
- Mở cửa từng bước hợp lý và vững chắc .Trong kế hoạch 5 năm, Trung Quốc đã khuyến khích nhà đầu tư nước ngoài, đặc biệt là các công ty xuyên quốc gia đầu tư vào các ngành công nghệ cao và các cơ sở hạ tầng, và khuyến khích các công ty này hình thành các trung tâm nghiên cứu và tham gia vào việc tái cơ cấu và đổi mới doanh nghiệp Nhà nước.
- Thống nhất môi trường đầu tư trong nước và nước ngoài.Xoá bỏ dần những hạn chế về tiếp cận thị trường với nhà đầu tư nước ngoài.
+ Đa dạng hoá các hình thức đầu tư, điều chỉnh lại qui định về tổ chức doanh nghiệp liên doanh phù hợp với thông lệ quốc tế Triển khai thí điểm cổ phần hoá một số doanh nghiệp vốn đầu tư nước ngoài.Cho phép chuyển đổi hình thức đầu tư.
...
+ Xoá bỏ dần những hạn chế về vốn góp và huy động vốn của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
+ Từng bước thống nhất các qui định về ưu đãi đầu tư và chi phí hoat động giữa đầu tư trong nước và nước ngoài.
+ Cải tiến thủ tục đầu tư nâng cao hiệu lực quản lí nhà nước về đầu tư nước ngoài.
- Thực hiện những chính sách và biện pháp hiệu quả trong thu hút đầu tư nước ngoài
- Loại bỏ chính sách bảo hộ thiếu cân nhắc
Kinh nghiệm của Trung Quốc cho thấy, khả năng cạnh tranh cả ngành công nghiệp ô tô sau 10 năm phát triển không được nâng cao đáng kể do bảo hộ quá mức. Những chính sách phát triển kinh tế của Trung Quốc cũng như các nước phát triển khác tuy là bài học kinh nghiệm quí báu cho Đảng và Nhà nước ta, nhưng không phải vì thế mà chúng ta áp dụng một cách dập khuôn, máy móc mà chúng ta phải biết kế thừa có chọn lọc và phát huy ưu thế của dân tộc mình. Một dân tộc có thể tồn tại là nhờ chính những đường lối chính sách phù hợp với dân tộc mình, cũng như một con người muốn tồn tại thì trước hết hãy là chính mình , bên cạnh đó phải biết phù hợp với môi trường xung quanh. Chính vì thế việc học hỏi từ Trung Quốc cũng như Liên Xô là vô cùng bổ ích và có thể giúp nước ta phát triển nhanh chóng cùng với xu thế phát triển của thế giới, nhanh chóng đi lên Chủ nghĩa xã hội.
II- THỰC TRẠNG CÁC DOANH NGHIỆP THUỘC THÀNH PHẦN KINH TẾ CÓ VỐN ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI TRONG NỀN KINH TẾ NƯỚC TA HIỆN NAY.
Theo báo cáo của Bộ kế hoạch và đầu tư (KH & ĐT), đến hết năm 2003, cả nước đã có 5.424 dự án được cấp phép với tổng số vốn đăng ký là 54,8 tỷ USD, trong đó có 4.376 dự án còn hiệu lực với tổng vốn đầu tư đăng ký là 41 tỷ USD. Các địa phương thu hút được nhiều vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) là thành phố Hồ Chí Minh (26% tổng vốn đăng ký), Hà Nội (11,1%), tiếp theo là Đông Nai, Bình Dương, Bà Rịa- Vũng Tàu và các tỉnh thuộc vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc. Lĩnh vực mà các nhà đầu tư quan tâm là công nghiệp và xây dựng 57,2% vốn đăng ký, dịch vụ 35,8% nông, lâm, ngư nghiệp 7%.
Hiệu quả của đầu tư nước ngoài (ĐTNN) tại Việt Nam là khá khả quan. Đến hết năm 2003, các dự án FDI đạt tổng doanh thu xấp xỉ 70 tỷ USD (không kể dầu khí), giai đoạn 2001- 2003 đạt khỏng 38,8 tỷ USD (bằng 55,4% tổng doanh thu toàn thời kỳ). Ba năm 2001- 2003 đạt 24,7 tỷ USD, trung bình tăng 20%/năm.
Tỷ trọng của khu vực FDI trong tổng giá trị XK của cả nước từ 2001 là 24,4%; đến 2003 là 31,4% (không kể dầu khí). Cho đến nay hoạt động của ĐTNN đã tạo việc làm cho 665 nghìn lao động trực tiếp và hơn một triệu lao động liên quan.
Cũng theo số liệu của Bộ KH&ĐT trong bốn tháng đầu năm 2004 đã có 139 dự án FDI được cấp phép với khoảng 470 triệu USD và 57 lượt dự án xin tăng vốn (trên 402 triệu USD) đưa tổng số vốn tăng lên 870 triệu USD. Số vốn FDI thực hiện là 800 triệu USD tăng 6,7% so với cùng kỳ năm 2003. Doanh thu của DN FDI đạt 5,4 tỷ USD, tăng 22,7%. Theo đánh giá của Bộ thương mại, môi trường đầu tư kinh doanh tại Việt Nam ngày càng thuận lợi, với tốc độ tăng như hiện nay, dự kiến năm 2004 sẽ đạt đỉnh điểm thu hút vốn FDI kể từ năm 1997 (vượt mức 3,1 tỷ USD năm 2003).
Năm 2004 đã kết thúc với một sắc diện nhiều hứa hẹn cho vốn đầu tư nước ngoài. Việc đạt được cam kết mới về nguồn 3,4 tỷ USD vốn ODA từ các nhà tài trợ, tổng vốn đầu tư vào Việt Nam năm nay đạt tới ngưỡng 4 tỷ USD, tăng 900 triệu USDso với năm 2003 và là năm tăng cao nhất trong vòng 7 năm qua.
Trong số này, đáng chú ý vốn các dự án tăng vốn chiếm 505 trong tổng các dự án đăng ký. Điều này giải thích tại sao thu hút đầu tư năm nay cũng đạt tới kết quả đáng mừng khác so với các năm trước. Nguồn vốn thực hiện các dự án cũng tăng, dự kiến đạt khoảng 2,85- 2,9 tỷ USD (thực tế đạt 2,6 tỷ USD). So sánh theo cơ cấu ngành thì công nghiệp vẫn luôn chiếm tỷ trọng lớn trong thu hút vốn FDI (chiếm 67% trong tổng số dự án). Còn theo lãnh thổ, thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội giữ được vị trí của mình với tư các là địa phương thu hút vón FDI cao nhất.
Năm 2004, cũng đánh dấu một điểm mới trong hoạt động của nhà đầu tư nước ngoài, lần đầu tiên Nhà nước chủ trương cho các doanh nghiệp FDI thực hiện cổ phần hoá, và cũng là lần đầu tiên Nhà nước xem xét tới một phương án Luật doanh nghiệp và Luật đầu tư . Trong các phương án Luật này thì Nhà nước đề cập đến vấn đề bình đẳng cho tất cả cộng đồng doanh nghiệp, các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Nhưng quan trọng nhất, nhìn lại một cách hệ thống cả năm, việc tăng vốn FDI xuất phát từ chủ trương mở rộng môi trường đầu tư ở các địa phương đã được cải cách theo chiều hướng tốt. Cải cách tiền lương, thuế các laọi phí đều đang tiến tới xoá bỏ chế độ phân biệt đối xử với các doanh nghiệp do nước ngoài đâu tư, hệ thống giao thông công cộng được cải thiện nhanh chóng, dịch vụ viễn thông giảm cước 10-40% đối với cuộc gọi trong nước và 30% cho cuộc gọi quốc tế, và có một số chương trình đào tạo doanh nghiệp quy mô và đổi mới.
( Theo tài liệu của Tạp chí Thương Mại- số 22/2004 và tin tức: Nhìn lại hoạt động thu hút đầu tư nước ngoài năm nay -của Sở KH&ĐT- Uỷ Ban Nhân Dân thành phố Hà Nội đưa ngày 25/01/2005)
1. Những thuận lợi cho các nhà đầu tư.
1.1. Nguồn lao động dồi dào.
Việt Nam với dân số trên 80 triệu người, là một quốc gia có dân số đông với lực lượng dân số trẻ- hơn 40% số dân đang trong độ tuổi lao động. Đây chính là một nguồn lực về lao động vô cùng dồi dào, và giá nhân công rẻ mạt. Chính nó tạo nên ưu thế của nước ta trong việc thu hút những nhà đầu tư quốc tế so với các nước khác. Bên cạnh đó, Việt Nam vốn xuất phát từ một nền kinh tế nông nghiệp. Lịch sử dân tộc ta đ._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- U0212.doc