"Jus est ars boni et aequi -
Luật pháp là nghệ thuật của điều thiện và sự công bằng".
(Sen-xơ - Luật gia Lamã cổ đại)
Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Từ khi xã hội loài người phân chia thành giai cấp thì công bằng xã hội (CBXH) luôn là khát vọng và mục tiêu tranh đấu của con người. Ngày nay, giá trị thời đại của vấn đề này càng gia tăng cùng với tốc độ của tăng trưởng kinh tế, với sự phát triển của khoa học - công nghệ, với nhu cầu về quyền con người... và thật sự trở thành vấn đề có t
168 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1913 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Vai trò của pháp luật trong việc đảm bảo công bằng xã hội ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ính toàn cầu. Không phải ngẫu nhiên mà trong những thập kỷ gần đây, CBXH trở thành một tiêu chí, điều kiện khi tiếp cận các khái niệm "phát triển bền vững" và "tiến bộ xã hội". Với ý nghĩa đó, CBXH đang và sẽ là một thách thức lớn trên con đường phát triển của mỗi quốc gia trong thiên niên kỷ thứ ba.
ở Việt Nam hiện nay, đảm bảo CBXH trở thành một nhu cầu bức thiết, là điều kiện cho sự thành công của công cuộc đổi mới toàn diện của đất nước. Sự lựa chọn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội (CNXH) của dân tộc càng khẳng định vai trò to lớn của CBXH không chỉ với tư cách là động lực mà còn là một mục tiêu của nó - xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Quan điểm kết hợp tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và CBXH được Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII (1996) và Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX (2001) chính là cách đặt vấn đề xuất phát từ nhu cầu cấp bách nói trên.
Đảm bảo CBXH là một chính sách lớn, đòi hỏi phải có chiến lược và những bước đi phù hợp, có sự tham gia của nhiều phương tiện như kinh tế, chính trị, văn hóa, đạo đức, pháp luật với những phương thức và hiệu quả đảm bảo khác nhau. Tuy nhiên, pháp luật luôn có vai trò đặc biệt và không thể thay thế trong việc đảm bảo CBXH. Vai trò đó có được không chỉ nhờ vào những mối liên hệ mật thiết giữa pháp luật với CBXH mà còn thông qua các hình thức, phạm vi và các thuộc tính vốn có của nó. Vì vậy, trong điều kiện hiện nay, nâng cao vai trò đảm bảo CBXH của pháp luật trở thành một đòi hỏi cấp bách trong sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam.
Mặc dầu vậy, đây lại là lĩnh vực khá mới mẻ và chưa được quan tâm nhiều trong hoạt động nghiên cứu khoa học pháp lý cũng như trong hoạt động xây dựng và thực hiện pháp luật, trong ý thức pháp luật của công dân ở nước ta. Rất nhiều vấn đề cơ bản từ nó, cần được nhận thức và giải quyết thấu đáo cả trên phương diện lý luận lẫn thực tiễn. Chẳng hạn, khái niệm CBXH và những đặc trưng, điều kiện thực hiện nó? Những cơ sở để khẳng định và đánh giá vai trò của pháp luật trong việc đảm bảo CBXH? Thực trạng đảm bảo CBXH bằng pháp luật ở Việt Nam hiện nay? Các quan điểm và giải pháp nâng cao vai trò của pháp luật trong việc đảm bảo CBXH?... Mặt khác, thực trạng đảm bảo CBXH bằng pháp luật ở Việt Nam hiện nay đang bộc lộ nhiều hạn chế, bất cập cần được nhận thức đúng đắn và khắc phục có hiệu quả. Vì thế, những kết quả nghiên cứu trong lĩnh vực này không chỉ góp phần bổ sung vào lý luận về pháp luật mà trực tiếp hơn là nhằm phúc đáp những đòi hỏi của thực tiễn pháp luật trong việc đảm bảo CBXH. Đó là lý do để tác giả chọn đề tài "Vai trò của pháp luật trong việc đảm bảo công bằng xã hội ở Việt Nam hiện nay" làm luận án tiến sĩ luật học, chuyên ngành: lý luận Nhà nước và pháp quyền, mã số: 5.05.01.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
a) CBXH và đảm bảo CBXH ở Việt Nam là vấn đề được nhiều nhà khoa học xã hội hết sức quan tâm trong thời kỳ đổi mới. Đã có khá nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề này từ nhiều góc độ tiếp cận: triết học, kinh tế học, xã hội học, chính trị học... với những phạm vi và cấp độ khác nhau. Trong đó, hướng tiếp cận từ kinh tế học, xã hội học đối với CBXH chiếm tỷ lệ khá lớn, chủ yếu tập trung vào các vấn đề: tăng trưởng kinh tế và CBXH, CBXH với chính sách xã hội. Có thể nhận thấy điều đó qua các công trình nghiên cứu khoa học cấp nhà nước (KX-07.05, KX-04.02), một số luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ, các chuyên khảo, các bài viết trên các tạp chí chuyên ngành và trong một số hội thảo quốc gia và quốc tế. Trong thời gian gần đây một số tác giả nước ngoài cũng quan tâm tới các vấn đề đảm bảo CBXH ở Việt Nam và đề cập một cách gián tiếp trong các công trình nghiên cứu của họ, ví dụ: "Vấn đề nghèo ở Việt Nam" của công ty ADUKI (Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996), "Việt Nam - cải cách kinh tế theo hướng rồng bay" của Viện phát triển kinh tế ở Harvard (Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1994), "Phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam - Chiến lược cho những năm 90" của Per Ronás và Orjansjoerg (Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996)... Rất nhiều kết quả nghiên cứu trong lĩnh vực này đã đóng góp xứng đáng vào việc hoạch định chiến lược, chính sách của Đảng và Nhà nước trong thời kỳ đổi mới.
b) Trong xu thế đó, giới nghiên cứu luật học ở Việt Nam cũng đã có những đóng góp không nhỏ trong việc nhận thức và kiến giải một số vấn đề liên quan tới đảm bảo CBXH bằng pháp luật. Ngoài những kết quả đạt được trong các đề tài nhánh của một số chương trình nghiên cứu khoa học xã hội cấp nhà nước như: "Hoàn thiện hệ thống pháp luật của nhà nước nhằm tăng cường hiệu lực quản lý các vấn đề thuộc chính sách xã hội" (đề tài KX-04.16), "Luận cứ khoa học cho việc hoàn thiện và xây dựng hệ thống pháp luật và quản lý nền kinh tế bằng pháp luật" (đề tài KX-03.13)... còn phải kể đến những chương trình nghiên cứu độc lập có liên quan, chẳng hạn: "Dự án VIE/94/003 - Tăng cường năng lực pháp luật tại Việt Nam"; "Nguyên tắc công bằng trong luật hình sự Việt Nam" (Luận án PTS luật học của Võ Khánh Vinh), "Hoàn thiện pháp luật ưu đãi người có công ở Việt Nam - lý luận và thực tiễn" (Luận án PTS luật học của Nguyễn Đình Liêu)... Ngoài ra, còn có những cuốn sách có giá trị tham khảo về cùng vấn đề như: "Xã hội và pháp luật" (Viện nghiên cứu Nhà nước và pháp luật, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1994), "Nhà nước pháp luật của chúng ta trong sự nghiệp đổi mới" (Đào Trí úc, Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội, 1997), "Hiệu quả của pháp luật - những vấn đề lý luận và thực tiễn" (Nguyễn Minh Đoan, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1997)... Đó là những công trình nghiên cứu nghiêm túc, công phu và rất đáng trân trọng về kết quả. Ngoài ra, còn một khối lượng lớn các bài viết có liên quan tới vấn đề nói trên, trong các tạp chí chuyên ngành khoa học pháp lý, có giá trị khoa học không nhỏ. Tuy nhiên, nhìn chung, việc nghiên cứu vấn đề đảm bảo CBXH bằng pháp luật vẫn còn tản mạn ở những khía cạnh, nội dung nhất định mà chưa có một công trình nào nghiên cứu nó một cách trực diện và có hệ thống. Vì vậy, vẫn còn rất nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn từ nó, cần được tiếp tục nghiên cứu ở một phạm vi, cấp độ thích hợp hơn.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
a) Mục đích nghiên cứu
Xây dựng những cơ sở lý luận và điều kiện để khẳng định vai trò quan trọng của pháp luật trong việc đảm bảo CBXH. Từ đó, góp phần hoạch định những chính sách, giải pháp nhằm tăng cường việc đảm bảo CBXH bằng pháp luật.
b) Nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
Với mục đích nghiên cứu như trên, luận án phải hoàn thành những nhiệm vụ cơ bản sau đây:
- Từ việc xác định khái niệm CBXH và luận chứng ý nghĩa của nó trong sự nghiệp đổi mới, phải làm sáng tỏ khái niệm "Vai trò của pháp luật trong việc đảm bảo CBXH". Từ đó, xác định những cơ sở để khẳng định vai trò đó của pháp luật trong việc đảm bảo CBXH.
- Đánh giá thực trạng vai trò của pháp luật trong việc đảm bảo CBXH ở Việt Nam hiện nay theo những nội dung và quan điểm nhất định. Đồng thời, khái quát những nguyên nhân làm suy giảm vai trò đó.
- Trên cơ sở những tiền đề lý luận và việc đánh giá thực trạng vai trò của pháp luật trong việc đảm bảo CBXH, nêu ra những quan điểm chỉ đạo và những giải pháp chủ yếu nhằm tăng cường vai trò đó của pháp luật trong thời gian tới.
4. Phạm vi nghiên cứu của luận án
Là một đề tài thuộc chuyên ngành lý luận về nhà nước và pháp quyền, luận án không nghiên cứu vai trò của các ngành luật cụ thể để thông qua đó, luận chứng cho vai trò của pháp luật nói chung, trong việc đảm bảo CBXH. Trái lại, những vấn đề, quan điểm được nêu ra trong luận án sẽ được khái quát thông qua việc phân tích, đánh giá, tổng hợp từ các ngành luật cụ thể ở những nội dung được xác định. Mặt khác, phạm vi nghiên cứu của luận án không chỉ dừng lại ở hệ thống pháp luật thực định mà còn với các hoạt động thực hiện pháp luật, xử lý các vi phạm pháp luật và ý thức pháp luật với những đánh giá, phân tích và khái quát cần thiết. Ngoài ra, luận án còn phải xem xét mối quan hệ giữa pháp luật với đạo đức, chính trị, văn hóa trong việc đảm bảo CBXH. Như vậy, phạm vi nghiên cứu của luận án khá rộng, trên nhiều lĩnh vực nhưng chỉ dưới góc độ lý luận về pháp luật. Thực chất, đó là việc khẳng định cái chung, cái phổ biến thông qua việc đánh giá, phân tích, khái quát những cái riêng, cái đặc thù.
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
Trong bối cảnh nghiên cứu như vậy, có thể coi luận án là công trình đầu tiên nghiên cứu một cách trực tiếp có hệ thống và tương đối toàn diện về vai trò của pháp luật trong việc đảm bảo CBXH ở Việt Nam hiện nay. Điều đó được thể hiện thông qua phạm vi, mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu và kết cấu của luận án. Đặc biệt, những cơ sở, điều kiện để pháp luật thực hiện vai trò đảm bảo CBXH và thực trạng của vấn đề này ở Việt Nam được làm sáng tỏ ở một phạm vi, cấp độ rộng và có hệ thống hơn.
Do vậy, luận án có giá trị tham khảo đối với các hoạt động nghiên cứu lý luận về pháp luật cũng như với hoạt động xây dựng và áp dụng pháp luật theo hướng đảm bảo CBXH trong giai đoạn hiện nay ở nước ta.
6. Phương pháp nghiên cứu của luận án
Để hoàn thành mục đích và những nhiệm vụ được đặt ra, đề tài của luận án được xử lý trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng. Theo đó, các phương pháp nghiên cứu cụ thể sau đây được áp dụng: phương pháp lịch sử cụ thể, phương pháp phân tích, phương pháp khái quát hóa, phương pháp tổng hợp... Đặc biệt, các phương pháp nghiên cứu đặc trưng của khoa học pháp lý như: phương pháp phân tích quy phạm cụ thể, phương pháp so sánh luật, phương pháp quy nạp và diễn dịch... được sử dụng phổ biến trong luận án.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận án gồm 3 chương, 8 tiết.
Chương 1
Công bằng xã hội và vai trò của pháp luật trong việc đảm bảo công bằng xã hội
1.1. công bằng xã hội và vai trò của nó trong sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam
1.1.1. Những tư tưởng cơ bản về công bằng xã hội trên thế giới và ở Việt Nam
Có thể khẳng định rằng, những tư tưởng đầu tiên về CBXH đã từng tồn tại trong chế độ cộng sản nguyên thủy. Lúc bấy giờ, được coi là công bằng khi mọi thành viên trong từng thị tộc, bộ lạc cùng tham gia săn bắn, hái lượm và cũng được chia một phần ngang nhau trong số sản phẩm thu được. Ngoài ra, công bằng còn được thể hiện ở yêu cầu về sự tuân thủ như nhau, không có ngoại lệ đối với các nghi lễ, tập quán, qui tắc sinh hoạt giữa các thành viên trong cộng đồng. Những hành vi đi ngược lại những qui định chung đều bị coi là không công bằng và phải chịu sự tẩy chay, trừng phạt theo tập quán. Về điều này, Ph.Ăng-ghen đã nhận xét: "Với tất cả tính ngây thơ và giản dị của nó, chế độ thị tộc đó quả là một tổ chức tốt đẹp biết bao... Tất cả đều bình đẳng và tự do" [69, tr. 147-148]. Tuy nhiên, ai cũng biết rằng đó là những quan niệm công bằng hết sức tự nhiên và sơ khai trong một xã hội chưa hề biết tới bất công, giai cấp, nhà nước và pháp luật.
Nhưng kể từ khi xã hội loài người có sự phân chia thành giai cấp, CBXH trở thành khái niệm đa diện, phức tạp, bị chi phối bởi lợi ích giai cấp, phụ thuộc vào các điều kiện kinh tế - xã hội trong từng giai đoạn lịch sử, liên quan tới bản chất của nhà nước và pháp luật.
Dù ở phương Đông hay phương Tây, chế độ chiếm hữu nô lệ vẫn là xã hội bất bình đẳng về giai cấp. Vì thế, sự giàu nghèo, sang hèn cũng như địa vị của mỗi người trong xã hội đều xuất phát từ một trật tự đẳng cấp nhất định. Con người không còn cách nào khác ngoài việc tin rằng trật tự đẳng cấp ấy là hợp với lẽ tự nhiên, là CBXH. Đó cũng là dấu ấn sâu đậm trong tư tưởng CBXH trong thời kỳ này. Mặt khác, tôn giáo cũng bắt đầu tham gia tích cực trong việc hình thành các tư tưởng về CBXH bằng việc lý giải nguồn gốc của những bất công xã hội trong chế độ chiếm hữu nô lệ như một sự sắp đặt hoặc ý muốn của những lực lượng siêu nhiên. Có thể thấy điều đó qua kinh bổn của ấn Độ giáo, Phật giáo, Thiên chúa giáo hoặc Hồi giáo... Mặc dù vậy, đối mặt với cuộc sống, con người đã bắt đầu nhận thấy sở hữu tư nhân chính là nguồn gốc sâu xa của mọi bất công xã hội mà trước tiên, là bất công về địa vị kinh tế. Một số khác lại tin rằng, sự khác biệt về sở hữu và trí tuệ giữa mọi người là biểu hiện của CBXH. Cũng từ đấy, con người đã nhận thức được những liên hệ mật thiết giữa CBXH với nhà nước và vai trò của pháp luật trong việc đảm bảo CBXH. Pla-ton cho rằng trong bất kỳ một nhà nước nào cũng tồn tại hai "nhà nước" đối lập nhau: một cho người giàu và một, cho kẻ nghèo. Đó là cái nhìn rất tinh tế về tính giai cấp của nhà nước và cũng là của CBXH. Đồng thời, ông cũng khẳng định rằng một nhà nước lý tưởng phải là nhà nước có các đạo luật công bằng - những đạo luật được thiết lập trên cơ sở trí tuệ và lợi ích quốc gia chứ không phải vì lợi ích của mỗi người cầm quyền. Pi-ta-go nhấn mạnh sự công bằng được qui định trong pháp luật chính là điều kiện, tiêu chuẩn để con người xử sự với nhau hợp lý. A-ri-stốt coi các đạo luật là hiện thân của công lý và hành động công bằng là hành động theo pháp luật [46, tr. 68]. ở Trung Quốc cổ đại, Hàn Phi Tử đã nâng tư tưởng pháp trị của các bậc tiền bối thành một học thuyết khá hoàn chỉnh - thuyết pháp trị cũng không nằm ngoài ý muốn thiết lập một xã hội có kỷ cương và công bằng. Chính những tư tưởng đề cao vai trò của pháp luật trong việc đảm bảo CBXH như thế, đã góp phần đặt nền tảng tư tưởng cho sự ra đời của những bộ luật nổi tiếng trong thời kỳ cổ đại như Luật Ma-nu (ấn Độ), Luật Hăm-mu-ra-bi (Babilon), Luật XII bảng (La-mã)... Ngoài ra, tư tưởng CBXH trong chế độ chiếm hữu nô lệ còn được hóa thân vào khát vọng công bằng của con người trong các huyền thoại, truyền thuyết và những bản trường ca bất hủ như " I-li-át" và " Ô-đi-xê" của Hô-me-rơ.
Với sự phân chia thành hai giai cấp cơ bản là địa chủ và nông dân, xã hội phong kiến thực sự là chế độ đặc quyền, đặc lợi. Vì thế dù ở đâu, con người vẫn phải đối mặt với những bất công, gay gắt khi đất đai và những tư liệu sản xuất chủ yếu đều thuộc về giai cấp địa chủ, quí tộc mà đứng đầu là các ông vua, còn người nông dân thì bị cột chặt suốt đời trên mảnh đất của những chúa đất. Rõ ràng là "cơ cấu đẳng cấp của chế độ chiếm hữu ruộng đất và các đội hộ vệ vũ trang gắn liền với cơ cấu đẳng cấp đó đã đem lại cho quí tộc quyền lực với nông nô" như Ph.Ăng-ghen đã nhận xét [63, tr. 34]. Điều đó lý giải vì sao trong chế độ phong kiến lại có rất nhiều cuộc khởi nghĩa của nông dân chống lại địa chủ, lãnh chúa để đòi CBXH. Mặt khác, tôn giáo cũng trở thành một thế lực rất lớn can thiệp vào đời sống chính trị - xã hội của các quốc gia với những đặc quyền, đặc lợi của mình. ở châu Âu, Kinh thánh có hiệu lực trước tòa án còn hơn cả pháp luật. Tòa án giáo hội lấn át cả tòa án vương quyền vì trong một thời gian rất dài, luật học bị đặt dưới sự giám hộ của thần học. ở châu á, Phật giáo và Khổng giáo cũng có vị trí rất lớn trong đời sống xã hội và chi phối tư tưởng công bằng của con người. Trong bối cảnh đó, quan niệm CBXH trong thời kỳ phong kiến không có bước tiến đáng kể so với xã hội trước nó. Có thể nói, đó là một thời kỳ đầy máu và nước mắt của nhân loại trên hành trình tìm kiếm CBXH. Khát vọng CBXH của nhân dân nếu không thể hiện bằng những cuộc khởi nghĩa đơn lẻ, sớm bị dập tắt thì cũng chỉ còn biết trông đợi vào ân huệ "mưa móc" của nhà cầm quyền.
Trong thời kỳ Phục hưng, tư tưởng CBXH của con người không chỉ đơn thuần là sự phục hồi những giá trị công bằng và nhân văn của thời kỳ Hy - La cổ đại mà còn mở ra một trang mới cho sự phát triển của nó. Cốt lõi của thời đại phục hưng là xu hướng phát triển xã hội dựa vào những giá trị nhân văn nên CBXH trở thành vấn đề được quan tâm nhất. Nó được thể hiện trước hết, bằng việc khẳng định các quyền tự nhiên của con người như quyền được sống; quyền được sở hữu tài sản; quyền được chống lại những áp bức, bất công như một lẽ tự nhiên; quyền được hưởng thụ những phúc lợi xã hội một cách công bằng... Mặt khác, tư tưởng CBXH trong thời kỳ này còn thể hiện qua xu hướng phủ nhận thần quyền, phủ nhận chế độ phong kiến suy tàn và ủng hộ sự vươn tới của một xã hội dân chủ hơn, phù hợp với nhu cầu phát triển của lực lượng sản xuất mới. Tiêu biểu cho tư tưởng CBXH trong thời kỳ này là Mi-chia-ven-li, Xéc-van-tét - những chàng Đông-ki-sốt của thời đại.
Sự xuất hiện của chủ nghĩa tư bản đồng thời mở ra một trang mới trong lịch sử tư tưởng CBXH của nhân loại. Cùng với các khẩu hiệu "tự do, bình đẳng, bác ái", CBXH trở thành một ngọn cờ trong tay giai cấp tư sản nhằm tập hợp lực lượng để thủ tiêu chế độ phong kiến. Khẳng định các quyền và tự do cá nhân, quyền được sống trong một xã hội dân chủ với một mô hình nhà nước theo nguyên tắc "tam quyền phân lập" và một nền pháp luật tiến bộ, công bằng... là những nội dung cơ bản trong tư tưởng CBXH của thời kỳ này. Đại biểu cho những tư tưởng đó phải kể đến E.Căng; Hê-ghen; G.G Rút-xô; Mông-tes-ki-ơ... Ngay cả những người theo chủ nghĩa xã hội không tưởng (Xanh xi-mon; Fu-ri-ê, Ô-oen) thay vì đề cập tới CBXH trong hiện thực, đã mơ ước về một xã hội lý tưởng và công bằng hơn cho dù đó là thứ công bằng theo chủ nghĩa bình quân, khổ hạnh và không phải bằng những cải tạo xã hội tích cực của con người. Mặc dù vậy, trong giai đoạn đầu của CNTB, tư tưởng CBXH của nhân loại đã có một bước tiến dài, một sự thay đổi về chất so với các xã hội trước nó dựa trên một phương thức sản xuất hoàn toàn mới. Đó cũng chính là một lý do giúp chủ nghĩa tư bản chiến thắng chế độ phong kiến không quá chật vật.
Ngày nay, những thăng trầm về chính trị, kinh tế, xã hội đã giúp cho CNTB có được nhiều bài học về việc điều chỉnh CBXH. Khách quan mà nói, CNTB hiện đại đã đạt được một số thành công trong lĩnh vực này nhằm làm dịu bớt những xung đột xã hội vốn có của nó bằng một số cải cách dưới danh nghĩa "phúc lợi chung". Có lẽ vì thế, bất công xã hội trong CNTB ngày nay đã bớt đi những biểu hiện trần trụi, căng thẳng đến "một mất một còn ". Thực chất, đó là kết quả đấu tranh không mệt mỏi của giai cấp công nhân và những tầng lớp dân cư chịu nhiều bất công trong xã hội. Mặt khác, chính các nhà nước tư sản cũng ý thức được rằng, những áp lực ngày càng tăng về CBXH nếu không được xoa dịu, có thể làm tổn hại tới thể chế chính trị của nó, nhất là khi mà CNXH không còn là "một bóng ma ám ảnh châu Âu" như ngày nào. Tuy nhiên, với những mâu thuẫn vốn có, đó chỉ là những cố gắng tuyệt vọng của CNTB trong việc giải quyết CBXH. Chính tổng thống Mỹ Bin Clin-tơn đã phải thú nhận: "Thị trường là một thứ kỳ diệu nhưng nó không cho chúng ta những đường phố an toàn, môi trường sạch sẽ, các cơ hội được học hành công bằng, và không đảm bảo sức khỏe cho trẻ em nghèo bắt đầu cuộc sống hoặc tuổi già khỏe mạnh và an toàn" [12, tr. 33]. Vì thế, các giải pháp về CBXH trong CNTB suy cho cùng, là phương tiện chứ không phải mục đích của nó. Trong giai đoạn hiện nay, CNTB đang phải đối mặt với nhiều thách thức về CBXH ngày càng gay gắt, nhất là khi vấn đề này được xem xét trong điều kiện tốc độ tăng trưởng kinh tế cao. Nhà kinh tế học người Pháp, Olivier de Solages, đã có lý khi cho rằng: "Đông đảo quần chúng không thể hiểu được rằng một sự tăng trưởng kinh tế ngày càng gia tốc lại được thể hiện bằng một sự phân phối bất công đến thế về thu nhập quốc dân và bằng những bất bình đẳng ngày càng trầm trọng" [85, tr. 92].
Trong bối cảnh đó, đã xuất hiện nhiều trào lưu tư tưởng và lý thuyết về CBXH. Trào lưu cổ điển và tân cổ điển nhấn mạnh một chiều tự do cá nhân trong mối quan hệ với CBXH. Họ cho rằng, chính tự do cá nhân mới là động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và tiến bộ xã hội. Vì thế muốn phát triển, phải bớt CBXH đi vì không thể cùng một lúc, vừa có tăng trưởng kinh tế lại vừa có CBXH, rằng chỉ khi nào kinh tế phát triển đến một mức nhất định mới có điều kiện để thực hiện CBXH. Quan điểm này đã bị chính thực tế của xã hội tư sản bác bỏ vì nó phủ nhận vai trò của CBXH trong việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Ngược lại, thực tế đó còn chỉ ra bất công xã hội có khả năng kìm hãm tăng trưởng kinh tế và làm rối loạn xã hội như thế nào.
Max Weber, nhà xã hội học và triết học người Đức, lại giải thích nguyên nhân của bất công xã hội trong CNTB bằng khả năng không ngang nhau trong việc chiếm lĩnh thị trường của các doanh nghiệp hoặc người lao động. Ông còn cho rằng, cơ may và vận hội trong cuộc đời không thể chia đều cho mọi người và đó cũng là một lý do để tồn tại những vị thế khác nhau trong xã hội. Những điều như thế là nguyên nhân của hiện tượng bất công trong xã hội tư sản. Học thuyết của Max Weber tuy có đóng góp rất lớn cho khái niệm phân tầng xã hội song nó chưa có khả năng lý giải trọn vẹn bản chất của bất công xã hội trong CNTB.
Những người theo quan điểm xã hội dân chủ trong khi bác bỏ tính phiến diện, một chiều của trào lưu cổ điển và tân cổ điển đã cố gắng tìm kiếm sự hỗ trợ lẫn nhau giữa tự do cá nhân, CBXH với tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, phương thức để đạt được điều đó lại cho một đáp số sai lầm. Đường lối của Đảng xã hội dân chủ Thụy Điển một thời đã làm nhiều người lầm tưởng rằng dường như ở đó đã thật sự có CNXH và CBXH. Rốt cuộc, đó là thứ công bằng triệt tiêu động lực của tăng trưởng kinh tế với một hệ thống phúc lợi xã hội có lợi cho những kẻ lười biếng. Sự sụp đổ của mô hình này là tiếng chuông cáo chung cho ảo tưởng tìm kiếm CBXH đích thực trong CNTB. Thực tế đã chứng minh rằng, CNTB chưa và sẽ không bao giờ là lời giải đáp tốt nhất cho nhân loại về một xã hội công bằng và văn minh.
Với bản chất khoa học và cách mạng, chủ nghĩa Mác - Lênin đã mở ra một bước ngoặt trong sự phát triển tư tưởng CBXH của nhân loại. Chỉ với nhận thức luận duy vật biện chứng CBXH mới được quan niệm một cách đúng đắn cả về bản chất, vai trò cũng như điều kiện và phương thức thực hiện nó trong đời sống xã hội. Mặc dù không có những tác phẩm đề cập một cách trực diện vấn đề này song trong toàn bộ di sản lý luận và hoạt động thực tiễn của mình, Mác - Ăng-ghen và Lênin đã xây dựng nên một quan niệm khoa học về CBXH với những quan điểm rất cơ bản và có hệ thống. Trước hết, chủ nghĩa Mác - Lênin coi CBXH là một phạm trù có tính lịch sử và tính giai cấp rất sâu sắc. CBXH không phải là hình ảnh của tôn giáo của những lực lượng siêu nhiên mà chính là sản phẩm của đời sống nhân loại. Trong xã hội có giai cấp, CBXH là kết quả của sự phân chia và đấu tranh giai cấp, phản ánh ý chí, lợi ích của nhà nước và xã hội. Theo chủ nghĩa Mác - Lênin thì quan niệm CBXH thay đổi theo các hình thái kinh tế - xã hội thậm chí, theo từng giai đoạn lịch sử khác nhau trong một hình thái kinh tế - xã hội nhất định. Vì thế, không thể có quan niệm đúng đắn về CBXH nếu không gắn nó với lợi ích giai cấp, nhóm xã hội và với những điều kiện vật chất đã sinh ra nó. Đồng thời, với tính lịch sử cụ thể của nó, cũng không thể có một quan niệm chung về CBXH cho mọi thời đại, dân tộc và giai cấp như một "chân lý vĩnh cửu" (chữ của Ăng-ghen). Mặt khác, chủ nghĩa Mác - Lênin cũng chỉ ra tính "không tưởng" trong các quan niệm CBXH thoát ly khỏi bản chất nhà nước, pháp luật và với thể chế chính trị nói chung. Theo các ông, trong các nhà nước bóc lột không thể tồn tại CBXH theo đúng "nghĩa cao cả nhất của từ này". Trái lại, chúng càng đẩy bất công xã hội lên tới đỉnh điểm và dọn đường cho những cuộc cách mạng xã hội tất yếu. Vì vậy, chỉ có chủ nghĩa cộng sản, với tư cách là hình thái kinh tế - xã hội phát triển nhất của nhân loại - nơi mà " Sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của mọi người" [64, tr. 628], nơi có khả năng thực hiện nguyên tắc phân phối theo nhu cầu - mới có khả năng tạo ra CBXH đích thực. Chính vì thế, các ông đã lưu ý rằng trong CNXH - giai đoạn đầu của CNCS - chưa thể có CBXH như người ta mong muốn. Bởi lẽ, ở đó vẫn tồn tại những tiền đề kinh tế - xã hội cho bất bình đẳng như chế độ tư hữu và những yếu tố của pháp quyền tư sản trong phân phối. Đó là lý do để "phân phối theo lao động" vẫn phải là nguyên tắc phân phối chủ yếu trong CNXH và là nét đặc trưng trong quan niệm CBXH của thời kỳ này. Và đó cũng là "những thiếu sót không thể tránh khỏi trong giai đoạn đầu của CNCS, lúc nó mới lọt lòng từ xã hội TBCN ra sau những cơn đau đẻ dài" [68, tr. 35-36].
Một luận điểm khác hết sức quan trọng của chủ nghĩa Mác - Lênin là phải thiết lập những tiền đề kinh tế ngày càng cao cho việc thực hiện CBXH. Theo các ông, không thể có công bằng đích thực trong một xã hội nghèo khổ, kém phát triển. Song, các ông cũng đã cảnh báo những nguy cơ của một xã hội có của cải dư thừa nhưng không được phân phối công bằng. Tăng trưởng kinh tế là tiền đề quan trọng nhưng không phải duy nhất để xác lập CBXH. Luận điểm này không những chỉ ra sự khác biệt về chất giữa chủ nghĩa Mác - Lênin với các học thuyết phi mác-xít về CBXH mà còn lưu ý những người vô sản về nguyên tắc kết hợp hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế với thực hiện CBXH.
Cuối cùng, điểm khác biệt lớn nhất giữa chủ nghĩa Mác - Lênin với các quan niệm khác về CBXH là con đường đấu tranh với những bất công xã hội mà trong đó, bất công về địa vị kinh tế là lớn nhất. Bởi vì theo các ông, "những điều công bằng về mặt luân lý, thậm chí công bằng cả về mặt pháp luật, có thể còn xa mới công bằng về mặt xã hội" [68, tr. 365]. Theo đó, CBXH không thể là sản phẩm của tạo hóa, là quà tặng của những lực lượng siêu nhiên cho con người mà phải là thành quả đấu tranh của chính họ với những bất công xã hội và những nguồn gốc tạo ra chúng. Tuy nhiên, lịch sử cũng đã cho thấy sự thất bại của những con đường tìm kiếm CBXH nhưng lại không phải bằng cải tạo xã hội tích cực. Do đó, cách mạng vô sản là con đường duy nhất đúng để giai cấp công nhân và nhân dân lao động thiết lập CBXH. Chính cuộc đời và sự nghiệp của Mác, Ăng-ghen, Lênin là những tấm gương sáng ngời về đấu tranh cho một xã hội công bằng, văn minh - xã hội CSCN.
ở Việt Nam, lịch sử dân tộc cho thấy CBXH luôn là vấn đề có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong quá trình dựng nước và giữ nước. Trải qua gần 1000 năm Bắc thuộc và với những đặc điểm riêng trong quá trình hình thành quốc gia, quan niệm CBXH của người Việt không thể không chịu ảnh hưởng của Nho giáo. Tuy nhiên, nó chưa bao giờ là bản sao của hệ tư tưởng đó trong bất cứ hoàn cảnh nào. Cũng là cách nhìn về vị thế bất công của con người trong xã hội phong kiến song cha ông ta lại có cái nhìn hết sức công bằng và lạc quan như:
Con vua thì lại làm vua
Con sãi ở chùa thì quét lá đa
Bao giờ dân nổi can qua
Con vua thất thế lại ra ở chùa (ca dao).
Hoặc khôi hài như: "Miệng nhà quan có gang có thép. Đồ nhà khó vừa nhọ vừa thâm" (tục ngữ). Không chỉ như vậy, quan niệm CBXH của người Việt trong lịch sử còn được thể hiện qua cách nhân dân ghi nhớ, tôn vinh các anh hùng và những người có công với nước (qua truyền thuyết, đền thờ, lễ hội...); qua qui chế tuyển dụng nhân tài (thi cử và tiến cử); qua chế độ đãi ngộ quan lại; qua chế độ thưởng, phạt nghiêm minh và trong những qui định khác của pháp luật. Lẽ đương nhiên, bên cạnh những nội dung tích cực, quan niệm CBXH trong truyền thống của người Việt cũng có không ít những yếu tố không tích cực (cách nhìn bi quan, chủ nghĩa bình quân, đề cao lệ làng hơn phép nước...) mà trong quá trình tiếp thu, cần có sự "gạn đục, khơi trong".
Cách mạng tháng Tám năm 1945 là một cuộc đổi đời vĩ đại của dân tộc Việt Nam sau gần 80 năm dưới ách đô hộ của thực dân Pháp và phát xít Nhật. Khát vọng CBXH lớn nhất của nhân dân là đất nước độc lập, tự do đã được thực hiện. Cương lĩnh chính trị năm 1930 của Đảng cộng sản Việt Nam đã vạch ra con đường đúng đắn nhất cho cuộc đấu tranh vì CBXH của dân tộc là làm cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và đi lên CNXH. Trong các Đại hội của Đảng (I, II, III, IV, V), mặc dù được tiến hành trong những bối cảnh khác nhau song vấn đề CBXH bao giờ cũng trở thành một mục tiêu và nội dung lớn, xuyên suốt chính sách đối nội và đối ngoại của Đảng. Điều đó được thể hiện trong cải cách ruộng đất; cải tạo XHCN và thiết lập chế độ công hữu về tư liệu sản xuất; tăng gia sản xuất và thực hành tiết kiệm; chống tham ô, lãng phí; đặc quyền đặc lợi; trong chính sách thuế, bảo hiểm và trợ cấp xã hội; trong vấn đề giải quyết việc làm cho người lao động; phát triển miền núi và vùng căn cứ cách mạng... Các Hiến pháp năm 1946, 1959, 1980 cùng với một khối lượng văn bản pháp luật đồ sộ của nhà nước đã có nhiều thành tựu trong việc thể chế hóa chính sách CBXH của Đảng. Tuy nhiên, trong một thời gian khá dài, CBXH được chúng ta quan niệm gần như đồng nhất với chủ nghĩa bình quân, cào bằng. Lại có những giai đoạn, quan niệm và phương thức thực hiện CBXH của chúng ta in đậm dấu ấn duy ý chí và nóng vội. Phải đến Đại hội lần thứ VI (1986) quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về vấn đề này mới thật sự được đổi mới. Điều đó được thể hiện ở một loạt luận điểm như: xác định việc đảm bảo CBXH là một trong năm mục tiêu kinh tế - xã hội của đất nước trong thời kỳ đổi mới; giải quyết việc làm và thực hiện nguyên tắc phân phối theo lao động là những vấn đề trọng tâm của chính sách CBXH; thực hiện CBXH phù hợp với điều kiện cụ thể của đất nước; chống thu nhập bất hợp pháp và đặc quyền, đặc lợi...
Đại hội VII (6/1991) với "Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH", vấn đề CBXH được Đảng ta xác định không chỉ là một nội dung của chính sách xã hội mà còn là điều kiện và động lực của tăng trưởng kinh tế và tiến bộ xã hội trong thời kỳ đổi mới. Cương lĩnh còn xác định thực hiện CBXH không chỉ trong lĩnh vực kinh tế, xã hội mà cả trong các lĩnh vực chính trị, văn hóa, giáo dục; không chỉ trong mối quan hệ giữa quyền và nghĩa vụ của công dân mà còn trong việc đáp ứng những nhu cầu trước mắt với việc chăm lo những lợi ích lâu dài... Đặc biệt, luận điểm khuyến khích tăng thu nhập và làm giàu dựa trên kết quả lao động được coi là bước đột phá trong quan điểm CBXH của Đảng, phù hợp với chủ trương phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam.
Tổng kết 10 năm đổi mới, Đại hội VIII (6/1996) của Đảng tiếp tục khẳng định, phát triển và cụ thể hóa những luận điểm và chính sách CBXH của Đại hội VII. Đến đây, CBXH được Đảng ta xác định không chỉ là động lực và nội dung của sự nghiệp đổi mới mà còn là một mục tiêu của nó: "Dân giàu, nước mạnh._., xã hội công bằng và văn minh". Đáng lưu ý là những luận điểm như tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với tiến bộ và CBXH ngay trong từng bước và trong suốt quá trình phát triển; CBXH phải được thực hiện không chỉ ở khâu phân phối với nhiều hình thức mà còn tạo ra cho mọi người có cơ hội phát triển và sử dụng hợp lý năng lực của mình... được xem là những bước phát triển quan trọng trong quan niệm CBXH của Đảng ta trong giai đoạn mới. Dự thảo Báo cáo chính trị trình Đại hội IX (2001) của Đảng Cộng sản Việt Nam vẫn tiếp tục khẳng định CBXH là một mục tiêu lớn của con đường đi lên CNXH; CBXH gắn liền với độc lập dân tộc, CNXH, với dân chủ và văn minh [21, tr. 3]. Vì thế, quan điểm tăng trưởng kinh tế gắn liền với đảm bảo tiến bộ và CBXH vẫn là một chính sách quan trọng của đường lối kinh tế, của chiến lược phát triển ở Việt Nam trong những thập kỷ tới. Nhìn tổng thể, sự hình thành và phát triển các quan điểm về thực hiện CBXH của Đảng cộng sản Việt Nam tuy có những đặc điểm riêng trong mỗi giai đoạn lịch sử nhưng về cơ bản là nhất quán và là một mục tiêu lớn, xuyên suốt quá trình cách mạng Việt Nam.
Tóm lại, tiến trình hình thành và phát triển những tư tưởng CBXH trên thế giới và ở Việt Nam ngày càng đa dạng, phức tạp về tính chất. Từ những quan niệm hết sức sơ khai, đơn giản dần dần, tư tưởng CBXH của nhân loại gắn liền với lợi ích các giai cấp, với bản chất nhà nước và pháp luật, bị qui định bởi các điều kiện kinh tế - xã hội trong từng thời kỳ lịch sử nhất định và có sự giao thoa giữa tính thời đại với bản sắc văn hóa dân tộc. Cho đến nay, chỉ có chủ nghĩa Mác - Lênin mới thật sự có khả năng nhận thức và xác lập một quan niệm đúng đắn nhất về CBXH cũng như phương thức để hiện thực hóa nó trong đời sống xã hội.
1.1.2 Khái niệm công bằng xã hội và vai trò của nó trong sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam
1.1.2.1 Khái niệm CBXH và những đặc trưng cơ bản của nó
Hiện nay, CBXH là khái niệm có nhiều cách hiểu không hoàn toàn giống nhau. "Từ điển bách khoa Việt Nam" trong mục từ "công bằng", định nghĩa:
1- Khái niệm về ý thức đạo đức, ý thức pháp quyền, chỉ điều chính đáng, tương ứng với bản chất và quyền con người. Khác với khái niệm thiện và ác dùng để đánh giá những hiện tượng riêng rẽ, khái niệm công bằng nêu ra sự tương quan giữa một số hiện tượng theo quan điểm phân phối phúc và họa, lợi và hại giữa người với người. Công bằng đòi hỏi sự tương xứng giữa vai trò của những cá nhân (những giai cấp) với địa vị của họ, giữa hành vi với sự đền bù (lao động và thù lao, công và tội, thưởng và phạt), giữa quyền với nghĩa vụ. Không có sự tương xứng trong những quan hệ ấy là bất công... 2- Công bằng xã hội là phương thức đúng đắn nhất để thỏa mãn một cách hợp lý những nhu cầu của các tầng lớp xã hội, các nhóm xã hội, các cá nhân xuất phát từ khả năng hiện thực của những điều kiện kinh tế - xã hội nhất định. Về nguyên tắc, chưa có sự công bằng nào được coi là tuyệt đối trong chừng mực mà mâu thuẫn giữa nhu cầu con người và khả năng hiện thực của xã hội còn chưa được giải quyết. Bởi vậy, mỗi xã hội có sự đòi hỏi riêng về CBXH [35, tr. 580-581].
"Từ điển bách khoa triết học" của Liên Xô trước đây, xác định "công bằng" là:
Khái niệm đạo đức, pháp quyền đồng thời cũng là khái niệm chính trị - xã hội. Khái niệm công bằng bao hàm trong nó yêu cầu về sự phù hợp giữa vai trò thực tiễn của cá nhân (nhóm xã hội) với địa vị của họ trong đời sống xã hội, giữa những quyền và nghĩa vụ của họ, giữa làm và hưởng; giữa lao động và sự trả công; giữa tội phạm và sự trừng phạt, giữa công lao và sự thừa nhận của xã hội. Sự không phù hợp trong những quan hệ đó được đánh giá là bất công [125, tr. 650].
Khái niệm "công bằng, công lý" được định nghĩa trong "Từ điển triết học giản yếu" do Hữu Ngọc, Dương Phú Hiệp và Lê Hữu Tầng biên soạn, như sau:
Phạm trù đạo đức học và pháp luật, đánh giá những quan hệ và hành động xã hội với quan niệm là mỗi người đều bình đẳng. Công bằng có một vai trò quan trọng trong ý thức quần chúng. Nội dung của công bằng không có tính chất chung chung, bất di bất dịch, phi thời gian- nó thay đổi theo lịch sử, phản ánh hoàn cảnh kinh tế - xã hội nhất định và sự đánh giá về mặt đạo đức của từng giai cấp theo quyền lợi của mình... Trên cơ sở quan hệ kinh tế, xã hội và chính trị của CNXH, khái niệm công bằng mang một nội dung mới: tất cả mọi người đều có thể trong thực tế, phát triển như nhau nhân cách, tài năng, khả năng và đều có nhiệm vụ hoạt động vì lợi ích tập thể, xã hội. Nguyên tắc "mỗi người làm theo năng lực, hưởng theo lao động" được thực hiện... chỉ khi nào tới CSCN thì mới thực hiện được nguyên tắc" mỗi người làm theo khả năng, hưởng theo nhu cầu" [76, tr. 97-98].
ở Việt Nam, trong những năm gần đây, xuất hiện một số công trình khoa học nghiên cứu về CBXH dưới nhiều góc độ như triết học, kinh tế học, xã hội học, luật học... Theo đó, có tác giả coi CBXH không phải là sự ngang bằng nhau giữa người với người về mọi phương diện mà chỉ ở một phương diện nhất định: đó là quan hệ giữa nghĩa vụ và quyền lợi của con người theo nguyên tắc thực hiện nghĩa vụ (cống hiến) ngang nhau thì sẽ được hưởng quyền lợi (hưởng thụ) ngang nhau [88, tr. 33].
Có tác giả xem xét bản chất của CBXH chính là sự phù hợp giữa một loạt các khía cạnh trong mối quan hệ giữa cá nhân (hay nhóm xã hội) làm với cái mà họ được hưởng từ xã hội (cái làm và cái được hưởng có thể tốt lành hoặc ngược lại) [30, tr. 15]. Có người khẳng định CBXH là phạm trù lịch sử cụ thể, mang tính giai cấp, có thể được xem xét ở nhiều góc độ (chính trị, kinh tế, triết học, đạo đức, pháp luật). Nó chính là "sự đánh giá tương xứng" giữa giá trị thực tế của những cá nhân, giai cấp hoặc nhóm xã hội với địa vị xã hội của họ; giữa công lao với sự thừa nhận nó; giữa quyền và nghĩa vụ; giữa vi phạm pháp luật và trách nhiệm pháp lý [102, tr. 57].
Ngay trong sách báo pháp lý ở các nước XHCN trước đây (đặc biệt là ở Liên Xô) cũng không có sự thống nhất nhiều về khái niệm CBXH. Có người cho đó là một phạm trù triết học thể hiện một cách khái quát những nguyên tắc của mối quan hệ tương tác giữa nhà nước và cá nhân, giữa các giai cấp và nhóm xã hội, thể hiện sự bình đẳng giữa người với người. Có khi CBXH lại được xem xét như một thuộc tính khách quan của CBXH, của lối sống, của chính trị, đạo đức và pháp luật XHCN. Có tác giả lại xác định CBXH là phạm trù đạo đức dùng để đánh giá quan hệ giữa con người với nhau, giữa cá nhân với nhà nước và xã hội [102, tr. 57].
Từ những quan điểm nói trên và để phù hợp với hoàn cảnh Việt Nam hiện nay, CBXH được hiểu là khái niệm chỉ sự tương xứng giữa vai trò và vị thế của các thành viên xã hội (cá nhân, giai cấp, nhóm xã hội), giữa cái mà họ tạo ra được cho xã hội với cái mà họ được nhận lại từ xã hội (cái tạo ra và cái được nhận lại có thể là điều tốt lành hoặc ngược lại) như cống hiến và hưởng thụ, lao động và sự trả công, quyền và nghĩa vụ, vi phạm pháp luật và trách nhiệm pháp lý... Không có sự tương xứng nói trên là bất công xã hội.
Với quan niệm như vậy, CBXH có một số đặc trưng cơ bản sau đây:
a) Là một giá trị lớn lao, CBXH có thể được nhận thức và thực hiện từ nhiều góc độ khác nhau như, chính trị, kinh tế, triết học, đạo đức, pháp luật... với những nội dung yêu cầu không hoàn toàn giống nhau. Điều đó tạo ra tính đa diện và phức hợp của khái niệm CBXH trong thực tế. Do vậy, sự tồn tại của nhiều khái niệm CBXH không giống nhau thậm chí, đối lập nhau là điều có thể lý giải được. Điều đó càng trở nên phức tạp hơn khi CBXH được nhận thức thông qua tính giai cấp, tính lịch sử cụ thể và bản sắc dân tộc của nó. Vì thế, không thể coi một hướng tiếp cận nào đó là hoàn toàn ưu thế và hợp lý đối với khái niệm này nếu không đặt nó vào một phạm vi, yêu cầu nghiên cứu cụ thể. Tuy vậy, tính đa diện và phức hợp của CBXH không thể là lý do để phủ định sự tồn tại của một khái niệm CBXH được nhiều người chấp nhận và ủng hộ. Nhưng cũng sai lầm nếu chỉ nhấn mạnh một hướng hay một phạm vi tiếp cận khái niệm CBXH mà không nhận thấy tính phức tạp, đan xen với các góc độ tiếp cận khác của nó. Chẳng hạn, luận án này tiếp cận khái niệm CBXH dưới góc độ luật học nhưng vẫn không thể bỏ qua các khía cạnh chính trị, kinh tế, đạo đức và văn hóa của nó ở những mức độ có liên quan. Điều đó càng khẳng định rằng mặc dù có vai trò đặc biệt và không thể thay thế nhưng pháp luật không thể là phương tiện duy nhất để thực hiện CBXH. Vai trò đó của pháp luật chỉ có thể đạt hiệu quả cao khi nó được hỗ trợ đắc lực của nhiều phương tiện khác.
b) Trong xã hội có giai cấp, CBXH là khái niệm vừa có tính giai cấp lại vừa có tính xã hội. Thật vậy, công bằng là khái niệm luôn bị "nhiễm" ý chí và lợi ích của từng giai cấp, nhóm xã hội. Điều đó giải thích vì sao mỗi giai cấp, nhóm xã hội lại có quan niệm không giống nhau về các chuẩn mực công bằng và cách thức thực hiện nó. Bởi lẽ, suy cho cùng, địa vị của từng giai cấp, nhóm xã hội trong sản xuất, trao đổi và phân phối sẽ là nhân tố quyết định nhu cầu và lợi ích của họ và từ đó, chi phối quan niệm công bằng của chính họ. Nói khác đi, nhu cầu và lợi ích trong một giai đoạn lịch sử nhất định sẽ là cơ sở, tiêu chí để hình thành và đánh giá quan niệm công bằng của mỗi giai cấp, nhóm xã hội. Tuy nhiên, quan niệm công bằng của giai cấp thống trị sẽ chi phối quan niệm công bằng chung của toàn xã hội. Theo Lênin, với giai cấp vô sản thì "công bằng phải phục tùng lợi ích của công cuộc lật đổ tư bản" [50, tr. 437] và đó là một nội dung cơ bản của CBXH trong CNXH.
Mặt khác, cũng không thể có một khái niệm CBXH chỉ có lợi cho một giai cấp duy nhất mà lại được xã hội chấp nhận. Vì rằng, tính giai cấp của CBXH chỉ có thể tồn tại trong tổng thể và dung hòa với ý chí, lợi ích chung của toàn xã hội. Công bằng của từng cá nhân, giai cấp và nhóm người vì thế, chưa phải là CBXH. Do vậy, CBXH còn có tính xã hội, tức là trở thành chuẩn mực công bằng chung, phổ biến của toàn xã hội. Đó là nền tảng, là môi trường để tính giai cấp của khái niệm này tồn tại và phát triển trong những đặc tính của nó.
c) Trong bất kỳ thời đại nào, CBXH cũng là khái niệm hàm chứa sự dung hợp giữa bản sắc dân tộc của nó với những giá trị công bằng chung của nhân loại. Nếu như nền văn hóa của một dân tộc mang đậm dấu ấn tính cách của dân tộc đó thì quan niệm công bằng với tư cách là một bộ phận cấu thành của nó, không thể không chịu sự chi phối của bản sắc dân tộc. Nhưng "không một nền văn hóa nào đứng một mình cả; bao giờ nó cũng liên kết với những nền văn hóa khác, và điều đó cho phép nó dựng nên một chuỗi tích lũy" [87, tr. 84]. Đó là lý do để các chuẩn mực công bằng của một dân tộc luôn có xu hướng hội nhập và phản ánh những giá trị công bằng chung của nhân loại qua bao thế hệ. Trong thời đại ngày nay, nó còn là đòi hỏi khách quan của việc nhận thức và thực hiện CBXH trong tiến trình phát triển của mỗi quốc gia, dân tộc. Việt Nam không thể đứng ngoài qui luật và đòi hỏi chung đó trong xu thế toàn cầu hóa các quan hệ kinh tế, văn hóa, khoa học, công nghệ... cùng với nhiều thách thức về đảm bảo bình đẳng, công bằng cho con người.
d) Là sản phẩm của những điều kiện kinh tế - xã hội trong từng giai đoạn lịch sử nhất định, CBXH là khái niệm có tính lịch sử cụ thể. Vì thế, không thể có một quan niệm công bằng chung cho mọi thời đại, mọi quốc gia như một chuẩn mực "bất di bất dịch". Tiến trình lịch sử của nhân loại cho thấy với mỗi hình thái kinh tế - xã hội, đều có những quan niệm công bằng riêng. Theo F.Ăng-ghen thì:
Công lý của người Hy Lạp và La Mã cho rằng chế độ nô lệ là công bằng; công lý của những nhà tư sản năm 1789 đòi hỏi thủ tiêu chế độ phong kiến, vì chế độ ấy không công bằng... Do đó, khái niệm về công lý vĩnh cửu biến đổi, chẳng những cùng với thời gian và không gian, mà cả cùng với bản thân con người nữa [67, tr. 379].
Như vậy, CBXH là quan niệm, chuẩn mực công bằng phổ biến của một xã hội trong một giai đoạn lịch sử với những điều kiện chính trị - kinh tế - xã hội đã qui định nó. Vì thế, dùng một thước đo công bằng chung cho mọi thời đại, mọi dân tộc, mọi xã hội cũng sai lầm không kém việc áp đặt những chuẩn mực công bằng khi những điều kiện vật chất chưa phù hợp với nó.
e) Về bản chất, CBXH được hiểu là "sự tương xứng" (chứ không phải là ngang bằng nhau) giữa vai trò và vị thế, giữa cái mà thành viên xã hội tạo ra cho xã hội với cái họ được xã hội phúc đáp. Không có sự tương xứng nói trên là bất công xã hội (mặt đối lập của CBXH) và sự mất tương xứng đó càng lớn thì bất công xã hội càng nghiêm trọng. Cơ sở để đánh giá sự tương xứng đó chính là những tiêu chí nhất định mà xã hội lựa chọn và chấp nhận. Nếu tiêu chí thay đổi thì quan niệm về "sự tương xứng" cũng thay đổi theo. Như vậy, CBXH là khái niệm không chỉ được định tính mà còn phải được định lượng khá cụ thể. Vấn đề là ở chỗ việc định lượng "sự tương xứng" nói trên trong thực tế, không phải bao giờ cũng chứng minh rõ ràng được (chẳng hạn sự đền đáp công lao, xương máu...). Tuy nhiên, cần lưu ý rằng: nếu chỉ định tính thôi thì CBXH có nguy cơ trở thành khẩu hiệu trong thực tế. Nhưng tuyệt đối hóa mặt định lượng của nó là "tự trói tay" mình trong việc thực hiện CBXH, nhất là trong điều kiện kinh tế xã hội còn thấp như ở Việt Nam hiện nay. Vì thế, quan điểm thực hiện CBXH trong từng bước và trong suốt quá trình phát triển; không chờ kinh tế tăng trưởng thật cao mới thực hiện CBXH của Đảng cộng sản Việt Nam, chính là xuất phát từ lý do nói trên.
g) CBXH luôn có mối liên hệ mật thiết với dân chủ, chân lý và pháp chế. Thật vậy, không thể hình dung về một xã hội dân chủ mà lại thiếu công bằng. Chỉ trong một xã hội dân chủ chân chính mới có những tiền đề, khả năng cho sự tồn tại những chuẩn mực công bằng đích thực. Nếu như nhân loại đã nhận ra bản chất của quan niệm công bằng trong các xã hội bóc lột thì điều đó càng cho phép họ tin rằng xã hội cộng sản chủ nghĩa – một xã hội "dân chủ gấp triệu lần" xã hội tư sản - sẽ là nơi ngự trị của công bằng với ý nghĩa cao cả nhất của từ này. Vì thế mà ngày nay, không thể nói về CBXH một cách đúng đắn nếu không gắn nó với những đòi hỏi về dân chủ chân chính trong đời sống xã hội.
Chân lý là "sự phản ánh đúng đắn khách thể bởi chủ thể đang nhận thức, sự phản ánh ấy tái hiện khách thể như nó vốn tồn tại ở bên ngoài, độc lập với con người và ý thức con người" [76, tr. 73]. Vì thế, chân lý sẽ là cơ sở, tiêu chí để nhận thức cái công bằng và không công bằng. Nói cách khác, đánh giá một sự việc, hành động nào đó có công bằng hay không phải dựa vào những chuẩn mực được coi là chân lý trong cuộc sống. Với quan niệm đó, đạt tới chân lý cũng là đạt tới sự công bằng.
Pháp chế với những nội dung và yêu cầu của nó thông qua hoạt động xây dựng pháp luật, thực hiện pháp luật và xử lý vi phạm pháp luật là phương tiện có hiệu quả nhất để thể hiện và thực hiện CBXH. Không có sự hỗ trợ của pháp chế, CBXH sẽ trở thành khái niệm ảo tưởng, thậm chí, phản tác dụng. Do vậy, vai trò của nhà nước và pháp luật trong việc đảm bảo CBXH là không thể thay thế và cực kỳ quan trọng. Nó vừa là phương tiện thể chế hóa quan điểm, chính sách CBXH của Nhà nước thành những chuẩn mực xử sự chung cho mọi người, vừa đảm bảo có hiệu quả cho các chuẩn mực đó được tôn trọng và thực hiện, bảo vệ chúng trước những vi phạm pháp luật.
h) Cuối cùng, tuy có những điểm tương đồng song CBXH không phải là khái niệm đồng nghĩa với bình đẳng xã hội. Bình đẳng xã hội (Social Equality) được hiểu là sự ngang bằng nhau giữa các thành viên xã hội về một hoặc một số phương diện (chính trị, kinh tế, pháp luật...). Trong số những quan hệ bình đẳng xã hội thì sự bình đẳng giữa cái mà thành viên xã hội tạo ra cho xã hội với cái mà họ được xã hội phúc đáp, là quan trọng nhất và đó chính là CBXH. Nói cách khác, nếu quan niệm bình đẳng xã hội là CBXH theo chiều ngang, không có sự phân biệt thì CBXH chính là bình đẳng xã hội theo chiều dọc, có sự phân biệt. Như vậy, bình đẳng xã hội có phạm vi rộng hơn và bao quát cả CBXH. Thực hiện CBXH là thực hiện bình đẳng xã hội từng phần để hướng tới bình đẳng xã hội ngày càng cao hơn và là tiền đề, điều kiện để thực hiện CBXH. Câu châm ngôn của Luật công bằng: "Equality is equity" (bình đẳng là công bằng) được hiểu với ý nghĩa đó. Tuy nhiên, không thể vì thế để đồng nhất bình đẳng xã hội với CBXH. Giá trị thực tiễn của sự phân biệt hai khái niệm này là ở chỗ: vẫn có thể thực hiện CBXH trong điều kiện bình đẳng xã hội chưa thật cao và toàn diện. Không thể (và cũng không cần thiết) phải đợi tới lúc có bình đẳng xã hội hoàn toàn mới thực hiện CBXH. Phân biệt hai khái niệm này không phải để nhằm đối lập chúng mà trái lại, càng khẳng định bình đẳng xã hội luôn là cơ sở, điều kiện của CBXH. Trong mối liên hệ với pháp luật thì bình đẳng xã hội là biểu hiện tính khái quát của pháp luật, còn CBXH chính là biểu hiện tính cụ thể của pháp luật. Chẳng hạn, "mọi công dân đều có quyền bình đẳng trước pháp luật" nhưng trong từng vụ việc cụ thể, nếu việc xét xử "thấu tình, đạt lý" thì đó là công bằng... Hiện nay, một luận điểm mấu chốt trong quan niệm về CBXH được nhiều người đồng tình chính là tạo ra sự bình đẳng về cơ hội và những điều kiện tiếp nhận, sử dụng cơ hội cho mọi người. Với quan niệm như vậy, mối quan hệ giữa CBXH và bình đẳng xã hội chẳng những được giải thích đúng đắn mà còn vạch ra được một nguyên tắc cơ bản của việc thực hiện CBXH trong nền kinh tế thị trường hiện nay.
Tóm lại, những đặc trưng trên đây cho thấy CBXH là một khái niệm đa diện, phức tạp không chỉ trong lý luận mà còn cả trong hoạt động thực tiễn. Vì thế, việc nhận thức đúng đắn bản chất và các đặc trưng của khái niệm này có ý nghĩa rất lớn đối với các hoạt động nhằm nâng cao vai trò của pháp luật trong việc đảm bảo CBXH. Điều đó phải được thể hiện không chỉ trong hoạt động xây dựng pháp luật mà cả với các hoạt động tổ chức thực hiện pháp luật, bảo vệ pháp luật cũng như nâng cao ý thức pháp luật cho mọi công dân theo hướng đảm bảo CBXH ở Việt Nam hiện nay.
1.1.2.2. Vai trò của CBXH trong sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam
CBXH có tác động rất tích cực tới nhiều mặt của đời sống xã hội. ở đây, chỉ xem xét vai trò của CBXH đối với tăng trưởng kinh tế, với ổn định chính trị và với việc thực hiện chính sách xã hội ở Việt Nam trong thời kỳ đổi mới.
a) Với tăng trưởng kinh tế
Tăng trưởng kinh tế là sự phát triển về lượng của một nền kinh tế, được thể hiện một cách tổng quát bằng sự tăng sản lượng của nền kinh tế đó trong một thời gian nhất định và thường được đo bằng tổng sản phẩm quốc nội (GDP) hoặc bằng thu nhập theo đầu người trong một năm. Với ý nghĩa đó, tăng trưởng kinh tế luôn là mục tiêu của mọi nền kinh tế, đặc biệt là kinh tế thị trường và là điều kiện tiên quyết để ổn định chính trị, phát triển văn hóa, xã hội của một quốc gia. Tăng trưởng kinh tế phụ thuộc vào rất nhiều điều kiện nhưng trong đó, sự đồng thuận xã hội - cái được thiết lập nhờ CBXH - có vai trò tác động rất quan trọng. Trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam hiện nay, nhu cầu đảm bảo CBXH càng cấp bách hơn trên các lĩnh vực: phân phối; chính sách đối với các thành phần kinh tế; điều tiết thu nhập hợp lý; chống buôn lậu; chống độc quyền không được kiểm soát và chống cạnh tranh không lành mạnh; khuyến khích làm giàu hợp pháp và chống thu nhập do vi phạm pháp luật; tạo ra cơ hội và điều kiện tiếp cận cơ hội cho con người một cách bình đẳng trong nền kinh tế... Giải quyết thỏa đáng những vấn đề nói trên chính là thực hiện CBXH như một tiền đề và động lực tối quan trọng cho tăng trưởng kinh tế. Tốc độ tăng trưởng kinh tế khá cao trong quá trình đổi mới vừa qua đã chứng minh điều đó. Sắp tới, nếu Việt Nam muốn đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế ít nhất là 7%/năm [21, tr. 3] thì việc đảm bảo CBXH lại càng không có lý do để chững lại. Richard Bergeron, trong cuốn sách "Phản phát triển - cái giá của chủ nghĩa tự do", đã rất có lý khi cho rằng: "Từ nay, thêm vào tất cả những nội dung đã có, khái niệm tăng trưởng bao gồm hoàn toàn đầy đủ mọi cái thuộc về phân phối, kể cả những khái niệm công bằng và công bằng xã hội cũng như vai trò của nhà nước trên các phương diện này" [4, tr. 63]. Và tất cả những điều nói trên là lý do để Đảng cộng sản Việt Nam khẳng định: "Tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và trong suốt quá trình phát triển" [18, tr. 110]. Vì thế, vai trò đảm bảo CBXH của pháp luật trong nền kinh tế thị trường sẽ là một nhân tố quan trọng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế theo những định hướng nói trên.
b) Với ổn định chính trị
Thực tiễn thế giới trong những năm gần đây cho thấy rõ hơn vai trò của ổn định chính trị đối với sự phát triển của một quốc gia. Với những nước đang tiến hành cải cách, đổi mới thì ổn định chính trị là điều kiện hàng đầu, quyết định sự thành công của nó. ở Việt Nam hiện nay, thực chất của ổn định chính trị là vai trò lãnh đạo của Đảng được tăng cường, nhà nước quản lý xã hội có hiệu lực, quyền làm chủ của nhân dân được phát huy và tiếp tục đổi mới để đi lên CNXH.
Như đã biết, bất công xã hội là nguy cơ dẫn đến bất ổn chính trị, rối ren xã hội và kìm hãm tăng trưởng kinh tế. Tất cả những điều đó là cội nguồn của khủng hoảng chính trị và đảo lộn xã hội nếu những bất công đó ngày càng gia tăng. Bởi vậy, một nền chính trị lành mạnh, ổn định phải có khả năng loại trừ ngày càng nhiều hơn những bất công xã hội, nhất là khi chúng phát sinh từ cơ chế lãnh đạo, quản lý và từ hệ thống pháp luật. Từ thời cổ đại, A-ri-stốt đã nhìn thấy nguyên nhân sâu xa của bất bình đẳng xã hội là sự thiếu công bằng, nhất là những bất công về chính trị. Những người mác-xít lại càng hiểu rõ hơn ai hết những bất công xã hội trong CNTB đã làm bùng nổ cuộc cách mạng vô sản như thế nào. Cách đây không lâu, sự sụp đổ nhanh chóng của Liên Xô và các nước XHCN Đông Âu càng cho thấy rõ hơn vai trò của CBXH với ổn định chính trị. Những đòi hỏi về CBXH của con người trong tương lai không chỉ đơn thuần là lợi ích kinh tế mà hơn thế, là công bằng về chính trị - xã hội trong các vấn đề về quyền con người và quyền công dân; về vai trò, vị thế của các giai cấp và nhóm xã hội trong mỗi quốc gia; quan hệ giữa công dân với nhà nước; về bình đẳng chủng tộc, sắc tộc... Muốn hay không, Việt Nam không thể đứng ngoài những thách thức như thế. Rõ ràng, những nỗ lực trong việc đảm bảo CBXH sẽ là vấn đề chính trị lớn nhất của mỗi quốc gia trong tương lai. ở Việt Nam hiện nay, đảm bảo CBXH còn là một đòi hỏi cấp bách của tiến trình xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân. Nó phải trở thành định hướng cơ bản của tổ chức quyền lực Nhà nước trên ba lĩnh vực lập pháp, hành pháp và tư pháp trên cơ sở phân công và phối hợp lẫn nhau. Đồng thời, nó còn là nguyên tắc và đòi hỏi tối quan trọng của việc tôn trọng và đảm bảo các quyền tự do cơ bản của công dân, trong việc xác lập mối quan hệ hữu cơ giữa công dân với Nhà nước và đảm bảo quyền làm chủ thật sự của nhân dân trong đời sống chính trị - xã hội. Mặt khác, đảm bảo CBXH sẽ phải là mục tiêu, phương châm của hoạt động bảo vệ pháp luật, tăng cường pháp chế XHCN và đảm bảo việc tuân thủ nguyên tắc quản lý xã hội bằng pháp luật. Có như vậy, công bằng, dân chủ, nhân đạo và pháp chế mới thật sự trở thành những giá trị to lớn của một nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam mà chúng ta đang xây dựng.
c) Với chính sách xã hội
Chính sách xã hội là:
Bộ phận cấu thành chính sách chung của một chính đảng hay chính quyền nhà nước trong việc giải quyết và quản lý các vấn đề xã hội. Chính sách xã hội bao trùm mọi mặt của cuộc sống con người, điều kiện lao động và sinh hoạt, giáo dục và văn hóa, quan hệ gia đình, quan hệ giai cấp và quan hệ xã hội [35, tr. 478].
Với quan niệm như vậy, CBXH trở thành "xương sống" của một chính sách xã hội đúng đắn. Điều đó có nghĩa là mọi vấn đề thuộc chính sách xã hội cần được giải quyết theo hướng đảm bảo CBXH không chỉ ở việc phân phối hợp lý tư liệu sản xuất và kết quả sản xuất mà còn phải tạo điều kiện cho mọi người đều có cơ hội phát triển và sử dụng tốt năng lực của mình. Ngược lại, nếu không lấy CBXH làm nguyên tắc, mục tiêu cơ bản của mình thì chính sách xã hội sẽ trở thành lực cản của tăng trưởng kinh tế, tạo ra những bất ổn chính trị - xã hội tất yếu. Thành công của sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam hiện nay phụ thuộc rất nhiều vào tính năng động xã hội của mỗi cá nhân, giai cấp, tầng lớp. Nhưng điều đó chỉ có thể có được khi nó là kết quả của một chính sách xã hội hợp lý, công bằng. Điều tra xã hội học trong đề tài KX-07-12 cho thấy: trên 80% (trong tổng số 3.000 người thuộc các tầng lớp, giai cấp như học sinh phổ thông, sinh viên, nông dân, công chức, doanh nhân... được hỏi) đã lựa chọn 10 giá trị xã hội, trong đó, CBXH được coi là một giá trị xã hội cơ bản. Những thành tựu đạt được sau 15 năm đổi mới đã cho thấy chúng không thể tách rời từng bước thực hiện CBXH như là một động lực quan trọng của sự phát triển kinh tế - xã hội và ổn định chính trị ở Việt Nam. Đó cũng là lý do để Đảng cộng sản Việt Nam vẫn tiếp tục khẳng định một chính sách xã hội trong nhiều năm tới: thực hiện CBXH trên các lĩnh vực phân phối; giải quyết việc làm cho người lao động; thực hiện chính sách xóa đói giảm nghèo; khuyến khích làm giàu hợp lý; đảm bảo sự bình đẳng trong các quan hệ xã hội giữa các giai cấp, tầng lớp xã hội; giữa các giới đồng bào, giữa các vùng, miền của đất nước và cả trong chính sách đối ngoại của Nhà nước ta... Một chính sách xã hội công bằng sẽ hạn chế tới mức thấp nhất cái giá mà chúng ta phải trả khi phát triển nền kinh tế thị trường. Đó sẽ là cơ hội để pháp luật phát huy vai trò và tiềm năng to lớn của mình trong việc thể chế hóa và đảm bảo thực hiện một chính sách xã hội đúng đắn, công bằng.
1.2. VAI Trò Của Pháp Luật TRONG Việc Đảm Bảo CÔNG Bằng Xã Hội
1.2.1. Quan hệ giữa pháp luật với công bằng xã hội
Về phương diện lịch sử, CBXH xuất hiện trước pháp luật. Trong tác phẩm "Tinh thần pháp luật" S. Mon-tes-xki- ơ đã nhận xét: "Trước khi người ta làm ra luật thì đã có những quan hệ về sự công bằng tất yếu rồi" [70, tr. 40]. Tuy nhiên, ai cũng biết rằng, đó là sự công bằng tự nhiên, sơ khai, tựa như "các định luật điều hòa sự di chuyển của các tinh tú trên bầu trời" (Pla-ton). Đến khi xã hội loài người có sự phân chia giai cấp, có nhà nước và pháp luật thì lẽ công bằng tự nhiên hóa thân vào pháp luật với những hình thức, phạm vi không giống nhau và nói tới pháp luật cũng là nói tới công bằng. Ngay từ thời cổ đại, ở châu Âu, biểu tượng của công bằng, công lý là một nữ thần, một tay cầm thanh kiếm (biểu tượng cho quyền uy, sức mạnh) còn tay kia cầm chiếc cân tượng trưng cho pháp luật, sự công bằng. ở Ai Cập cổ đại, nữ thần Maat là biểu tượng của công bằng, chân lý và tòa án. Theo qui ước lúc đó, những quyền uy dưới trần thế (như các Pha-ra-on, những kẻ tư tế, pháp luật) đều không được trái với Maat - nghĩa là phải phục tùng công bằng, chân lý. Mối quan hệ giữa pháp luật với CBXH còn được con người giải thích trong các định nghĩa của họ về công bằng hoặc pháp luật. Unpian, một luật gia Lamã cổ đại, cho rằng: nguồn gốc của từ "luật" (jus) được sinh ra bởi từ "Sự thật, công bằng" (justitia). Bởi vậy, theo ông: "khoa học pháp luật" (Jurisprudentia) là sự nhận thức những việc thần thánh và nhân gian, là sự hiểu biết cái công bằng và không công bằng" [92, tr. 58]. Không biết có phải vì thế không mà trong tiếng Anh, ngoài từ "Equity" chỉ sự công bằng, còn có từ "justice" cũng chỉ sự công bằng, công lý, sự thật? Sen-xơ, một luật gia Lamã khác, lại định nghĩa một cách lịch lãm: "Jus est ars boni et aequi - luật pháp, đó là nghệ thuật của điều thiện và sự công bằng" [92, tr. 59]. Ngoài ra, nhiều triết gia khác thời cổ đại cũng quan tâm xem xét mối quan hệ giữa công bằng với nhà nước và pháp luật. Pla-ton đánh giá một nhà nước lý tưởng là nhà nước có các đạo luật công bằng [44, tr. 63]. A-ri-stốt đồng nhất pháp luật với công bằng và theo ông, hành động công bằng là hành động theo pháp luật. Hàn Phi Tử khi chủ trương pháp trị, cũng cho rằng, nếu luật pháp nghiêm minh, công bằng sẽ loại trừ được tư lợi (minh pháp khứ tư) [33, tr. 94].
Đến thời kỳ cận đại, quan hệ giữa pháp luật và công bằng càng được con người nhận thức đầy đủ hơn. Công bằng là tiêu chí, là đòi hỏi của pháp luật và ngược lại, pháp luật sinh ra là để thực hiện sự công bằng. Những người theo thuyết "pháp luật tự nhiên" (như H. Grô-ti-us và T. Hốp-bơ) đòi hỏi pháp luật do các nhà nước ban hành (luật thực định) phải phù hợp với lẽ công bằng tự nhiên. Pháp luật phải xuất phát từ sự công bằng và chỉ xác định những gì không mâu thuẫn với công bằng (H.Grô-ti-us) [46, tr. 210]; công bằng chính là sự phục tùng các đạo luật, còn bất công là cái mâu thuẫn với pháp luật (T. Hốp-bơ) [46, tr. 220]. Những nhà "khai sáng" ở Pháp đã mở rộng phạm vi xem xét mối quan hệ giữa pháp luật với CBXH. Đi-đơ-rô cho rằng: pháp luật đúng đắn hay không là ở sự công bằng, công tâm của con người và hoạt động xét xử không phải là cái gì khác ngoài việc thể hiện sự công bằng. Mon-te-ski-ơ đặc biệt quan tâm tới sự công bằng trong hoạt động lập pháp và tổ chức quyền lực nhà nước nói chung, cái mà nhờ đó, tạo ra được các đạo luật công bằng. Theo ông, công bằng chính là "tinh thần của pháp luật". G.G Rút-xô đánh giá rất cao vai trò của pháp luật trong việc đảm bảo công bằng bởi lẽ, "nếu ta biết tiếp nhận công lý từ trời thì ta chẳng cần đến chính phủ và luật pháp nữa" [82, tr. 67]...
Tuy nhiên, mặc dù có những nhận định rất xác đáng về quan hệ giữa pháp luật với CBXH song các quan điểm, học thuyết nói trên vẫn bộc lộ những hạn chế mà chính những người đề xướng nó không thể vượt qua được trong thời đại của mình: hoặc coi sự công bằng trong pháp luật như là sự mô phỏng lẽ công bằng tự nhiên; hoặc từ pháp luật để nhận thức về công bằng và ngược lại; hoặc chưa thật sự xem xét mối quan hệ giữa pháp luật với công bằng gắn liền với các điều kiện kinh tế, xã hội với lợi ích giai cấp nhất định... Vì thế, chỉ đến khi chủ nghĩa Mác - Lênin ra đời, mối quan hệ giữa pháp luật với CBXH mới được luận giải một cách biện chứng, dựa trên các luận điểm chủ yếu sau đây:
- Pháp luật và CBXH đều là sản phẩm của một hình thái kinh tế - xã hội trong một giai đoạn lịch sử nhất định. Chúng đều là những hiện tượng thuộc phạm trù ý thức xã hội và bị qui định bởi tồn t._. nền kinh tế thị trường.
- Sự hỗ trợ của đạo đức đối với pháp luật trong việc đảm bảo CBXH còn đòi hỏi ở chúng có sự tương hợp với những biến đổi của những chuẩn mực CBXH. Từ cơ chế tập trung, quan liêu chuyển sang cơ chế thị trường, quan niệm và nhiều chuẩn mực CBXH truyền thống cũng có sự thay đổi thậm chí, có những thay đổi cơ bản so với quan niệm "chia đều", "cào bằng" trước đây trong mọi mặt của đời sống xã hội. Đặc biệt, điều đó thể hiện rất rõ trong các lĩnh vực phân phối tư liệu sản xuất và sản phẩm lao động, trong việc tạo cơ hội và điều kiện để tiếp nhận cơ hội; trong sự đánh giá tương xứng vai trò và vị thế xã hội của mỗi cá nhân, giai cấp, trong quan hệ giao lưu và hợp tác quốc tế... Trong sự biến đổi ấy, nếu đạo đức hoặc pháp luật tiếp cận chậm hơn với thực tiễn, sẽ gây ra không ít những trục trặc trong việc điều chỉnh các quan hệ xã hội về công bằng. Thường thì đạo đức thay đổi nhanh và khách quan hơn so với pháp luật trong điều kiện đó. Sự thay đổi này là tiền đề thuận lợi cho pháp luật thể chế hóa những chuẩn mực, nội dung CBXH mới có tính phổ biến chung cho toàn xã hội. Tuy nhiên, khi đạo đức đã có những chuyển đổi trong tình hình mới nhưng pháp luật không bắt kịp với điều đó thì nó sẽ trở thành công cụ cản trở không chỉ với việc tôn trọng và xử sự theo các giá trị đạo đức mới mà còn với cả sự phát triển bình thường của xã hội. Ngược lại, nếu pháp luật điều chỉnh các quan hệ CBXH không xuất phát và được đảm bảo bởi những tiền đề đạo đức thì nó sẽ không được tôn trọng và tự giác chấp hành từ phía các chủ thể. Trong mối liên hệ với nhau, đạo đức chỉ có sự hỗ trợ đắc lực, hiệu quả cho pháp luật nếu như pháp luật có khả năng qui phạm hóa và là công cụ bảo vệ cho những chuẩn mực đạo đức về công bằng trong xã hội.
b) Văn hóa là "nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội" [18, tr. 110] đang ngày càng khẳng định vai trò tích cực và lớn lao của nó trong sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam. Là thành quả đấu tranh để phát triển của nhân loại, CBXH là một giá trị văn hóa rất lớn với ý nghĩa là "biểu hiện của phương thức tồn tại người, là tổng thể mọi giá trị người" [89, tr. 170]. Mọi nền văn hóa đều hướng tới công bằng nên một xã hội công bằng là xã hội có văn hóa và tiến bộ. Điều đó càng khẳng định những khả năng tiềm tàng của văn hóa như một phương tiện hỗ trợ cho pháp luật trong việc đảm bảo CBXH. Sự tác động của văn hóa đối với CBXH có phạm vi rất rộng và theo những phương thức khác nhau trong đó, những giá trị công bằng tồn tại trong những dạng thức của văn hóa phi vật thể là vô cùng to lớn mà không dễ gì đã được con người khai thác hết. Những giá trị đó tiềm ẩn trong nhiều phong tục, tập quán, lối sống, quan niệm thẩm mỹ và trong các qui phạm xã hội gần gũi với pháp luật như hương ước, luật tục của các dân tộc. Kế thừa và phát huy các giá trị văn hóa pháp lý truyền thống (trong đó có công bằng) là một đặc trưng của pháp luật Việt Nam trong lịch sử. Và ngày nay, đó là một điều kiện để văn hóa trở thành một phương tiện hỗ trợ đắc lực cho pháp luật trong việc đảm bảo CBXH. Đường lối của Đảng cộng sản Việt Nam về "xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc" được thể hiện trong Nghị quyết của Hội nghị lần thứ 5 Ban chấp hành Trung ương (khóa VIII) là những định hướng nền tảng, cơ bản cho mục tiêu đó. Đảm bảo vai trò hỗ trợ của văn hóa (theo đúng nghĩa của khái niệm này) đối với pháp luật trong việc đảm bảo CBXH là một phạm trù rộng, đa dạng về nội dung và yêu cầu. Vì thế, luận án chỉ đặt ra một số vấn đề được coi là cấp bách:
- Con người là chủ thể của pháp luật và những quan hệ CBXH. Vì thế, tăng cường vai trò của văn hóa nhằm hỗ trợ đắc lực cho pháp luật trong việc đảm bảo CBXH không thể tách rời nhu cầu xây dựng con người Việt Nam trong giai đoạn cách mạng mới. Ngoài những phẩm chất, đức tính cần có để phù hợp với đòi hỏi của sự nghiệp đổi mới, họ phải là những con người nhận thức đúng đắn các giá trị công bằng trong xã hội, tôn trọng và xử sự theo pháp luật để bảo vệ và thực hiện các giá trị công bằng đó. Muốn vậy, ngoài các biện pháp giáo dục đạo đức, tư tưởng, tổ chức thì chính văn hóa và pháp luật phải trở thành những biện pháp tham gia tích cực vào thực hiện mục tiêu trên bằng việc xây dựng lối sống công bằng trong một môi trường văn hóa lành mạnh, giáo dục ý thức pháp luật và hành vi công bằng theo pháp luật cho mọi công dân. Con người có văn hóa cũng là con người biết quí trọng lẽ công bằng, biết sử dụng pháp luật để thực hiện hành vi công bằng cho bản thân và cho xã hội. Làm được điều đó chính là chăm lo tới nhân tố con người với tất cả tính tích cực và tính tự giác của họ trong quá trình tăng cường vai trò đảm bảo CBXH của pháp luật.
- Các giá trị văn hóa pháp lý truyền thống là một bộ phận không thể tách rời của di sản văn hóa dân tộc. Đó là tài sản vô giá, gắn kết cộng đồng, là cốt lõi của bản sắc dân tộc, cơ sở để sáng tạo những giá trị mới và giao lưu văn hóa. Vì thế "hết sức coi trọng bảo tồn, kế thừa, phát huy những giá trị văn hóa truyền thống" [20, tr. 63] nói chung và văn hóa pháp luật nói riêng, sẽ là một tiền đề hết sức quan trọng để tăng cường vai trò của pháp luật trong việc đảm bảo CBXH. Trước hết, đó là việc kế thừa kinh nghiệm của cha ông về xây dựng pháp luật thông qua những di sản lập pháp trong lịch sử. Những bộ luật còn được giữ nguyên vẹn cho đến nay như "Quốc triều hình luật" (Luật Hồng Đức –1483), "Hoàng Việt luật lệ" (Luật Gia Long - 1812) cho chúng ta những bài học quí giá về việc áp dụng có sáng tạo pháp luật nước ngoài (mà chủ yếu là của Trung Hoa) để phù hợp với hoàn cảnh Việt Nam; về việc "xen cài những yếu tố từ luật tục vào trong pháp luật hướng Nho" [121, tr. 16]; về những qui định đảm bảo tính nhân đạo, công bằng trong xử lý hành vi phạm tội; về việc áp dụng luật kết hợp với các lệ, chiếu chỉ, sắc dụ của người đứng đầu Nhà nước... Đó không chỉ là một phương cách chống lại xu thế hướng ngoại của pháp luật phong kiến trước đây mà còn làm gia tăng tính công bằng và hiệu quả thực tế của pháp luật trong thiết chế làng - xã cổ truyền ở Việt Nam. Mặt khác, những yếu tố văn hóa pháp lý truyền thống còn được thể hiện trong việc kế thừa, vận dụng những nhân tố hợp lý, tích cực của hương ước, luật tục, tập quán, lối sống để hỗ trợ cho pháp luật trong việc đảm bảo CBXH. Việt Nam là quốc gia đa dân tộc và phong phú về bản sắc văn hóa. Người Việt Nam vốn giàu lòng nhân ái, công bằng, tương trợ lẫn nhau trong cuộc sống và tôn trọng những qui tắc xử sự chung của cộng đồng. Những phẩm chất quí giá đó sẽ là một bộ phận căn bản hình thành văn hóa pháp lý của họ và được thể hiện đa dạng về bản sắc trong những qui phạm xã hội (tập quán, hương ước, luật tục) của từng dân tộc. Kế thừa và phát huy các giá trị đó và làm cho pháp luật phù hợp hơn với những chuẩn mực công bằng với tập quán và lối sống của các dân tộc sẽ tạo ra những tiền đề thuận lợi cho pháp luật nâng cao vai trò của nó trong việc đảm bảo CBXH. Điều đó đòi hỏi cần phải có những chương trình nghiên cứu cấp nhà nước về sưu tầm, bảo tồn, xuất bản và vận dụng có hiệu quả đối với các hình thức qui phạm xã hội nói trên trong thời gian tới.
- Việt Nam là quốc gia đa tôn giáo. Vì thế, chính sách văn hóa đối với các tôn giáo là một bộ phận của chính sách đại đoàn kết dân tộc, là một nội dung của quản lý nhà nước về văn hóa nói chung. Trong bối cảnh trong nước và quốc tế hiện nay, chính sách đó một mặt, phải đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng và không tín ngưỡng, mọi tôn giáo đều bình đẳng trước pháp luật, chống lợi dụng tôn giáo vì những ý đồ xấu nhưng mặt khác, phải tôn trọng và khuyến khích những nhân tố tích cực của tôn giáo trong đời sống xã hội. Những ý tưởng về công bằng, bác ái, hướng thiện... trong mỗi tôn giáo tuy có sắc thái, mức độ khác nhau song cần được tôn trọng, khuyến khích vì chúng phù hợp với đạo lý và pháp luật của chúng ta. Những ý tưởng đó thể hiện tập trung nhất trong ý thức tôn giáo (bao gồm hệ tư tưởng tôn giáo và tâm lý tôn giáo) được phản ánh trong giáo lý và giáo luật - những bộ phận cấu thành của một tôn giáo. Đặc biệt, chức năng điều chỉnh của các tôn giáo thông qua một hệ thống các nguyên tắc, chuẩn mực, cách xử sự (cho phép và cấm đoán) về những giá trị trên không phải là không có lợi cho việc quản lý xã hội bằng pháp luật nói chung và nâng cao vai trò của pháp luật trong việc đảm bảo CBXH nói riêng. Khi mà vẫn còn những nguyên nhân để tôn giáo tồn tại thì quan điểm vô thần khoa học mác-xít đòi hỏi không chỉ giải thích và phê phán một cách khoa học mà còn bằng cả việc cải tạo chúng theo hướng có lợi cho con người vì những mục đích chân chính. Theo đó, nếu có giải pháp hợp lý, đồng bộ thì những yếu tố tích cực của văn hóa tôn giáo cũng sẽ hữu ích cho việc đảm bảo CBXH bằng pháp luật ở Việt Nam hiện nay.
Kết luận chương 3
Tăng cường vai trò của pháp luật trong việc đảm bảo CBXH ở Việt Nam hiện nay đòi hỏi phải xuất phát từ một hệ quan điểm chỉ đạo đúng đắn, trên cơ sở đó mà hình thành một số giải pháp cụ thể và có tính khả thi. Đó chính là yêu cầu và nhiệm vụ được đặt ra đối với chương 3 của luận án.
Xuất phát từ quan điểm kết hợp tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và CBXH, đảm bảo CBXH bằng pháp luật hiện nay ở Việt Nam còn đòi hỏi sự thống nhất, đồng bộ trong hệ thống pháp luật; hoàn thiện pháp luật về quyền con người, quyền công dân và chính sách xã hội; phù hợp với truyền thống dân tộc, với pháp luật và tập quán quốc tế; đảm bảo sự đồng bộ trên các phương diện: xây dựng pháp luật, thực hiện và bảo vệ pháp luật.
Từ đó, các giải pháp chủ yếu đặt trọng tâm vào việc xử lý các vấn đề: củng cố và hoàn thiện cơ chế xây dựng pháp luật theo hướng đảm bảo tính dân chủ, công bằng trong việc phản ánh ý chí, lợi ích của mọi tầng lớp dân cư; cải cách nền hành chính để tăng cường hiệu quả hoạt động tổ chức thực hiện pháp luật; cải cách bộ máy tư pháp theo hướng nâng cao chất lượng các hoạt động phát hiện và xử lý vi phạm pháp luật kịp thời, nghiêm minh; tăng cường hiệu quả các hoạt động thông tin, giáo dục pháp luật với mục đích nâng cao ý thức pháp luật của mọi công dân như một điều kiện quan trọng để định hướng hành vi công bằng của họ. Đồng thời cần tăng cường sự hỗ trợ của đạo đức, văn hóa đối với pháp luật trong việc đảm bảo CBXH. Trong mỗi giải pháp đều có những kiến nghị cụ thể phù hợp với nội dung và cách đặt vấn đề của chúng. Trong tổng thể, mỗi giải pháp đều có vai trò và ý nghĩa riêng mà thứ tự trình bày chúng không hoàn toàn phản ánh thái độ đánh giá của tác giả luận án về điều đó.
Kết luận
Đảm bảo CBXH là điều có ý nghĩa quan trọng sống còn đối với sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam hiện nay. Nó không chỉ là nhân tố quyết định tăng trưởng kinh tế, ổn định chính trị, đồng thuận xã hội mà còn với việc mở rộng giao lưu và hội nhập quốc tế. Vì thế, đảm bảo CBXH trở thành một nội dung, động lực và mục tiêu cho cách mạng Việt Nam trên hành trình đến CNXH. Đây là vấn đề lớn, không thể giải quyết trong " ngày một, ngày hai" nhưng lại là đòi hỏi cấp bách từ mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Bởi vậy, đảm bảo CBXH cần tới sự hỗ trợ của một hệ thống đồng bộ các phương tiện chính trị, kinh tế, văn hóa, đạo đức, pháp luật và bằng cả sự kết hợp của từng phương tiện nói trên. Mặc dù vậy, pháp luật luôn được coi là phương tiện có vai trò rất quan trọng và không thể thay thế nhờ vào các hình thức, phạm vi, các thuộc tính của nó và những mối liên hệ mật thiết giữa nó với CBXH. Vai trò của pháp luật trong việc đảm bảo CBXH trước tiên, được thể hiện trong hoạt động xây dựng pháp luật bằng việc xác lập được một hệ thống quy phạm pháp luật hoàn thiện và công bằng. Trên cơ sở đó, đảm bảo CBXH còn được thể hiện thông qua các hoạt động tổ chức thực hiện pháp luật, bảo vệ và nâng cao ý thức pháp luật cho công dân.
Thực trạng vai trò của pháp luật trong việc đảm bảo CBXH ở Việt Nam hiện nay cho thấy: bên cạnh những khởi sắc và thành tựu không thể phủ nhận, còn không ít những khiếm khuyết, bất cập. Điều đó được bộc lộ cả trong hệ thống pháp luật thực định thông qua một số quy phạm pháp luật, chế định pháp luật của hầu hết các ngành luật cho tới những biểu hiện thiếu nghiêm minh, công bằng trong các hoạt động thực hiện pháp luật, bảo vệ pháp luật cũng như trong những hạn chế, bất cập về ý thức pháp luật của công dân. Thực trạng đó bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân nhưng chủ yếu là do ảnh hưởng từ những tàn tích trong cơ chế cũ vào đời sống pháp luật, do những hạn chế trong hoạt động của các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp trước những biến đổi nhanh chóng của các quan hệ xã hội trong nền kinh tế thị trường, do những hạn chế nhất định trong việc kết hợp tăng trưởng kinh tế và CBXH và do những bất cập trong hoạt động nghiên cứu khoa học pháp lý trước những đòi hỏi cấp bách của vấn đề đảm bảo CBXH bằng pháp luật.
Trên cơ sở những tiền đề lý luận được xác lập và những nguyên nhân được rút ra từ việc đánh giá thực trạng vai trò của pháp luật trong việc đảm bảo CBXH ở Việt Nam hiện nay, luận án đề xuất các quan điểm chỉ đạo và một số giải pháp chủ yếu nhằm tăng cường vai trò nói trên của pháp luật trong thời gian tới. Các quan điểm chỉ đạo tập trung vào vấn đề: kết hợp tăng trưởng kinh tế với đảm bảo công bằng và tiến bộ xã hội; đảm bảo tính thống nhất, cân đối trong toàn bộ hệ thống pháp luật; hoàn thiện pháp luật đảm bảo quyền con người, quyền công dân và chính sách xã hội; phù hợp với truyền thống dân tộc, với pháp luật và thông lệ quốc tế; tạo ra sự đồng bộ giữa các hoạt động xây dựng pháp luật, thực hiện và bảo vệ pháp luật. Từ đó, các giải pháp chủ yếu tăng cường vai trò của pháp luật trong việc đảm bảo CBXH đặt trọng tâm vào các vấn đề: củng cố và hoàn thiện cơ chế xây dựng pháp luật theo hướng dân chủ, công bằng; hoàn thiện pháp luật kinh tế nhằm kết hợp hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế với CBXH; đẩy mạnh tiến độ và hiệu quả cải cách nền hành chính và bộ máy tư pháp như những điều kiện quan trọng nhằm tăng cường tính nghiêm minh, công bằng trong các hoạt động thực hiện pháp luật và xử lý vi phạm pháp luật. Tăng cường sự hỗ trợ của đạo đức và văn hóa đối với pháp luật trong việc đảm bảo CBXH và nâng cao hiệu quả các hoạt động thông tin, giáo dục pháp luật cho mọi công dân.
Với những gì đã có, luận án hy vọng được đóng góp một phần nhỏ vào việc phúc đáp những đòi hỏi cấp thiết về lý luận và thực tiễn nhằm tăng cường vai trò của pháp luật trong việc đảm bảo CBXH ở Việt Nam hiện nay. Chắc chắn, vẫn còn không ít những nội dung của luận án cần được tiếp tục nghiên cứu và hoàn thiện mới thật sự tương xứng với ý nghĩa của đề tài.
Những công trình của tác giả đã công bố có liên quan đến luận án
Vũ Anh Tuấn (1996), "Luật dân sự Việt Nam - một số đặc điểm trong quá trình phát triển", Sinh hoạt lý luận, (6), tr. 31-33.
Vũ Anh Tuấn (1997), "Một số nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về công bằng xã hội", Nghiên cứu lý luận, (7), tr. 6-7; 14.
Vũ Anh Tuấn (1998), "Một số vấn đề về hoàn thiện hệ thống pháp luật nước ta hiện nay", trong cuốn sách Những vấn đề lý luận và thực tiễn trong quá trình đổi mới, (Nhiều tác giả), Nxb Đà Nẵng, tr. 180-185.
Vũ Anh Tuấn (1998), "Pháp luật với mặt trái của kinh tế thị trường", Nghiên cứu lý luận, (1), tr. 26-27.
Vũ Anh Tuấn (1998), "Một số vấn đề về qui chế thực hiện dân chủ ở xã", Quản lý nhà nước, (9), tr. 54-56.
Vũ Anh Tuấn (1998), "Lênin với pháp chế xã hội chủ nghĩa trong những năm đầu của chính quyền Xô viết", Sinh hoạt lý luận, (3), tr. 31-23.
Vũ Anh Tuấn (1999), "Pháp luật với tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội", Nghiên cứu kinh tế, (257), tr. 38-43.
Vũ Anh Tuấn (1999), "Cạnh tranh, độc quyền và công bằng xã hội - Từ góc nhìn pháp lý", Sinh hoạt lý luận, (1), tr. 51-53.
Vũ Anh Tuấn (2000), "Công bằng và pháp luật - Từ lịch sử đến hiện tại", Sinh hoạt lý luận, (5), tr. 41-44.
Vũ Anh Tuấn (2000), "Hồ Chí Minh với hoạt động lập hiến ở Việt Nam", trong cuốn sách Tư tưởng Hồ Chí Minh và thắng lợi của cách mạng Việt Nam, Nxb Đà Nẵng, tr. 129-134.
danh mục Tài Liệu THAM Khảo
* Tiếng Việt
X.X. A-lếch-xây-ép (1986), Pháp luật trong cuộc sống của chúng ta, Nxb Pháp lý, Hà Nội.
Christian Atias (1993), Luật dân sự, Nxb Thế giới, Hà Nội
Ban Tổ chức cán bộ Chính phủ (1998), Báo cáo tình hình điều tra lương công chức, Kỷ yếu hội thảo ngày 27/3/1998.
Richard Bergeron (1995), Phản phát triển - cái giá của chủ nghĩa tự do, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Bộ Kế hoạch và đầu tư (1996), Thông tin chuyên đề: Chính sách thuế trong kế hoạch 5 năm 1996-2000, Trung tâm thông tin, Hà Nội.
Bộ Luật hình sự của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1997), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Bộ luật tố tụng hình sự của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1993), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Bộ luật dân sự Việt Nam (1997), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Bộ luật lao động của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1994), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Bộ tư pháp, Báo Pháp luật, số 25, ngày 01/3/2000
Vũ Hoàng Công (1989), "Đạo đức xã hội và vai trò của pháp luật", Nghiên cứu lý luận, (3), tr. 36-38
Bin Clin tơn (1997), Giữa hy vọng và lịch sử, Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội.
Công ty ADUKI(1996), Vấn đề nghèo ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Đảng Cộng sản Việt Nam (1986), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb Sự thật, Hà Nội.
Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb Sự thật, Hà Nội.
Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH, Nxb Sự thật, Hà Nội.
Đảng Cộng sản Việt Nam (1995), Văn kiện Hội nghị lần thứ 8 Ban chấp hành trung ương khóa VII, Lưu hành nội bộ, Hà Nội.
Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Đảng Cộng sản Việt Nam (1997), Văn kiện Hội nghị lần thứ ba Ban chấp hành trung ương khóa VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban chấp hành trung ương khóa VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Dự thảo Báo cáo chính trị trình Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Báo Nhân Dân, ngày 3-2.
PGS.TS Trần Ngọc Đường (1998), Lý luận chung về nhà nước và pháp luật, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Trần Ngọc Đường, Dương Thị Thanh Mai (1995), Bàn về giáo dục pháp luật, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Trần Ngọc Đường (1992), "Pháp luật trong cơ chế kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước", Nghiên cứu lý luận, (4), tr. 21-24.
Nguyễn Minh Đoan (1997), Hiệu quả pháp luật - những vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Dự án VIE/94/003 (1998), Báo cáo kiến nghị về xây dựng và hoàn thiện khung pháp luật kinh tế tại Việt Nam, Hà Nội.
TS. Lê Sĩ Dược (2000), Cải cách bộ máy hành chính cấp trung ương trong công cuộc đổi mới hiện nay ở nước ta, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
GS.PTS Hoàng Văn Hảo, PTS Chu Hồng Thanh (chủ biên) (1997), Một số vấn đề về quyền dân sự và chính trị, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
GS.PTS Hoàng Văn Hảo, PTS Chu Hồng Thanh (chủ biên) (1996), Một số vấn đề về quyền kinh tế - xã hội, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Nguyễn Tấn Hùng (1996), "Vấn đề công bằng và bình đẳng xã hội", Nghiên cứu lý luận, (7), tr. 15.
Trần Quang Hùng, Mạc Văn Chung (1998), Đổi mới chính sách bảo hiểm xã hội đối với người lao động, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Học viện Hành chính Quốc gia (1996), Giáo trình quản lý hành chính nhà nước, tập 1, Hà Nội.
Hàn Phi Tử (1995), Tập đại thành - Sự phát triển của tư tưởng pháp gia, Nxb Đồng Nai.
Hiến pháp Việt Nam (1946, 1959, 1980, 1992) (1995), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Hội đồng quốc gia chỉ đạo biên soạn Từ điển bách khoa Việt Nam (1995), Từ điển bách khoa Việt Nam, Trung tâm biên soạn từ điển Bách khoa Việt Nam, Hà Nội.
Nguyễn Khắc Hiền (1994), "Kinh tế thị trường và công bằng xã hội", Tạp chí Cộng sản, (2), tr. 34-38.
Bùi Hiền (1988), "Công bằng xã hội và sự phát triển cân đối giữa giáo dục với kinh tế", Tạp chí Cộng sản, (1) tr. 40-43.
Lê Hồng Hạnh (1991), "Kinh tế thị trường và sự cần thiết phải hoàn thiện pháp luật kinh tế", Nhà nước và pháp luật, (4), tr. 9-11.
Đinh Diệp Hoa (1994), "Lệ làng và ảnh hưởng của nó đối với pháp luật hiện đại", Nghiên cứu lịch sử, (1), tr. 1-11.
Hội thảo khoa học quốc tế tại thành phố Buôn Mê Thuột (Đắk Lắk) từ ngày 23-25 tháng 11/1999, Luật tục và phát triển nông thôn Việt Nam hiện nay, (Kỷ yếu hội thảo).
PGS Phạm Khiêm ích (chủ biên) (1998), Quyền con người - các văn kiện quan trọng, Viện thông tin khoa học xã hội.
TSUNEO INAKO (1993), Tìm hiểu pháp luật Nhật Bản, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
Vũ Khiêu - Thành Duy (2000), Đạo đức và pháp luật trong triết lý phát triển ở Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
Khoa luật, Trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội (1993), Giáo trình Lịch sử các học thuyết chính trị, Hà Nội.
Khoa luật, Trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội (1997), Giáo trình lý luận chung về nhà nước và pháp luật, Nxb Đại học quốc gia, Hà Nội.
Khoa Luật, Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội (1993), Lịch sử các học thuyết chính trị trên thế giới, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Tương Lai (1997), Xã hội học và những vấn đề của sự biến đổi xã hội, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
V.I. Lênin (1981), Toàn tập, tập 30, Nxb Tiến bộ, Matxcơva.
V.I. Lênin (1976), Toàn tập, tập 33, Nxb Tiến bộ, Matxcơva.
V.I. Lênin (1977), Toàn tập, tập 38, Nxb Tiến bộ, Matxcơva.
V.I. Lênin (1977), Toàn tập, tập 39, Nxb Tiến bộ, Matxcơva.
Luật tục Êđê (1996), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Luật tổ chức Chính phủ (1992), Nxb Pháp lý, Hà Nội.
Luật tổ chức Quốc hội (1992), Nxb Pháp lý, Hà Nội.
Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân (1994), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Luật tổ chức Tòa án nhân dân (1995), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân (1995), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Luật thương mại (1997), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật và văn bản hướng dẫn thi hành (1998), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Luật doanh nghiệp (1999), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Bộ luật tố tụng hình sự (2000), Báo Nhân Dân, ngày 03/7/2000, tr. 3.
Nguyễn Đình Liêu (1996), Hoàn thiện pháp luật ưu đãi người có công ở Việt Nam - Lý luận và thực tiễn, Luận án PTS Luật học, Trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn, Đại học quốc gia Hà Nội.
Mác - Ăng-ghen (1995), Toàn tập, tập 3, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
Mác - Ăng-ghen (1995), Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
Mác - Ăng-ghen (1995), Toàn tập, tập 5, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
Mác - Ăng-ghen (1995), Toàn tập, tập 13, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
Mác - Ăng-ghen(1995), Toàn tập, tập 18, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
Mác - Ăng-ghen (1995), Toàn tập, tập 19, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
Mác - Ăng-ghen (1995), Toàn tập, tập 21, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
Montesquieu (1996), Tinh thần pháp luật, Nxb Giáo dục và Khoa luật Trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn, Hà Nội.
Dương Thị Thanh Mai (1995), Giáo dục pháp luật qua hoạt động tư pháp ở Việt Nam (bằng thực tiễn của Tòa án và Luật sư, Luận án PTS Luật học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh.
Nguyễn Văn Mạnh (1995), Xây dựng và hoàn thiện đảm bảo pháp luật thực hiện quyền con người trong điều kiện đổi mới ở nước ta hiện nay, Luận án PTS Luật học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh.
Vũ Văn Mẫu (1975), Cổ luật Việt Nam và tư pháp sử diễn giảng, tập 1, Sài Gòn.
Nguyễn Hồng Minh (1998), "Sự cần thiết và cách xây dựng tiền lương tối thiểu", Lao động và xã hội, (138/5) tr. 28-29.
Jacques Mougon (1995), Quyền con người, chương trình khoa học công nghệ cấp Nhà nước KX-07 (đề tài KX-07-16), Hà Nội.
Hữu Ngọc, Dương Phú Hiệp, Lê Hữu Tầng (1987), Từ điển triết học giản yếu, Nxb Đại học và trung học chuyên nghiệp, Hà Nội.
Nghị định số 29/1998/NĐ-CP ngày 11/5/1998 của Chính phủ ban hành Quy chế thực hiện dân chủ ở xã.
Nghị định số 02/2000/NĐ-CP ngày 3/2/2000 của Chính phủ về Đăng ký kinh doanh.
Nghị định số 03/2000/NĐ-CP ngày 3/2/2000 của Chính phủ Hướng dẫn thi hành một số điều của Luật doanh nghiệp.
Nghị định số 77/2000/NĐ-CP ngày 15/12/2000 của Chính phủ về việc điều chỉnh mức tiền lương tối thiểu, mức trợ cấp tối và sinh hoạt phí...
Đỗ Nguyên Phương (1994), "Phân tầng xã hội, phân hóa giàu nghèo và công bằng xã hội ở nước ta hiện nay", Nghiên cứu lý luận, (5), tr. 12-18.
J.J Rousseau (1992), Bàn về khế ước xã hội, Nxb thành phố Hồ Chí Minh.
Rokijanski JA,G (1992), "Mác - Ăng-ghen bàn về công bằng xã hội", Thông tin khoa học xã hội, tr. 13-16.
Per Ronás & Orjansjoerg (1996), Phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam - Chiến lược cho những năm 90, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Olivier de Solages (1996), Những thành công và thất vọng về phát triển trong thế giới thứ ba, Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương, Hà Nội.
Lương Sơn (1991), "Công bằng xã hội trong nền kinh tế thị trường", Tạp chí Cộng sản, (11), tr. 16-19.
Claude-Levís-Strauss (1996), Chủng tộc và lịch sử, Hội khoa học lịch sử Việt Nam, Hà Nội.
Lê Hữu Tầng (1996) "Về công bằng xã hội", Tạp chí Cộng sản, (19), Hà Nội.
GS.PTS Lê Hữu Tầng (chủ biên) (1997), Về động lực của sự phát triển kinh tế xã hội, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
Nguyễn Viết Thảo, Nguyễn Thị Thanh (1995), Tổng luận phân tích: Kết hợp tăng trưởng kinh tế với phát triển các quan hệ xã hội lành mạnh ở nước ta: Thực trạng và giải pháp, Trung tâm thông tin - tư liệu khoa học và công nghệ quốc gia, Hà Nội.
Nguyễn Văn Thành, Vũ Trinh, Trần Hựu (1994), Hoàng Việt Luật lệ (Luật Gia Long), Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.
Tập thể tác giả (1998), Sự sai lệch chuẩn mực xã hội, Nxb Thông tin lý luận, Hà Nội.
Tập thể tác giả (1985), Chủ nghĩa vô thần khoa học, Nxb Sách giáo khoa Mác - Lênin, Hà Nội.
Tập thể tác giả (1994), Từ điển luật học, Nxb Từ điển bách khoa, Hà Nội.
Trường Đại học Luật Hà Nội(1994), Lý luận chung về nhà nước và pháp luật, Hà Nội.
Trung ương Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Báo Tiền phong, ngày 19/6/1999.
Tòa án nhân dân tối cao, Báo cáo tổng kết công tác ngành Tòa án năm 1999 và phương hướng, nhiệm vụ công tác năm 2000, Hà Nội.
TS. Đào Trí úc (1993), Những vấn đề cơ bản về pháp luật, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
TS. Đào Trí úc (1993), "Thị trường và pháp luật", Nhà nước và pháp luật, (1), tr. 3-7.
TS. Đào Trí úc (1997), Nhà nước và pháp luật của chúng ta trong sự nghiệp đổi mới, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
Văn phòng Cao ủy Liên hiệp quốc về nhân quyền (1999), Quyền trẻ em - Tạo lập một nền văn hóa nhân quyền, Viện thông tin khoa học và Trung tâm nghiên cứu quyền con người, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
Võ Khánh Vinh (1991), "Nguyên tắc công bằng và các hình thức thể hiện của nó trong pháp luật", Nhà nước và pháp luật, (2), tr. 56-59.
Võ KhánhVinh (1994), Nguyên tắc công bằng trong luật hình sự Việt Nam, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
Viện Nghiên cứu Nhà nước và pháp luật (1995), Những vấn đề lý luận cơ bản về nhà nước và pháp luật, Nxb chính trị quốc gia, Hà Nội.
Viện Nghiên cứu khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp (1998), "Chuyên đề về: Một số vấn đề lý luận, thực tiễn phục vụ xây dựng Bộ Luật hình sự (sửa đổi)", Thông tin khoa học Pháp lý, (6), Hà Nội.
Viện Nghiên cứu khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp (1998), "Chuyên đề về: Luật so sánh", Thông tin khoa học Pháp lý, (7), Hà Nội.
Viện Nghiên cứu khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp (1998), "Chuyên đề về: Chống các giao kết trục lợi trong kinh doanh", Thông tin khoa học Pháp lý, (11), Hà Nội.
Viện Nghiên cứu khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp (1996), Chuyên đề về: Cạnh tranh, chống cạnh tranh bất hợp pháp và kiểm soát độc quyền, Hà Nội.
Viện Nghiên cứu khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp (1998), Tổng luận: Hương ước và những vấn đề đặt ra về quản lý nhà nước đối với hương ước trong điều kiện hiện nay, Hà Nội.
Viện Nghiên cứu khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp (1994), Báo cáo tóm tắt kết quả nghiên cứu đề tài KX03-13: Luận cứ khoa học cho việc hoàn thiện và xây dựng hệ thống pháp luật và quản lý kinh tế bằng pháp luật, Hà Nội.
Viện Nghiên cứu Nhà nước - pháp luật, Trung tâm Khoa học xã hội và nhân văn quốc gia (1995), Tìm hiểu Luật so sánh, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Viện Nghiên cứu Nhà nước - pháp luật, Trung tâm Khoa học xã hội và nhân văn quốc gia (1995), Đề tài KX04-16, Hoàn thiện hệ thống pháp luật của Nhà nước nhằm tăng cường hiệu lực quản lý các vấn đề thuộc chính sách xã hội, Hà Nội.
Viện Khoa học Tài chính - Bộ Tài chính (1995), Thông tin chuyên đề: Thuế thu nhập ở một số nước và ở Việt Nam, Hà Nội.
Viện Kinh tế học - Trung tâm Khoa học xã hội và nhân văn quốc gia (1995), Tổng luận: Phát triển kinh tế và công bằng xã hội, Hà Nội.
Viện Nghiên Kinh tế thế giới - Trung tâm Khoa học xã hội và nhân văn quốc gia (1998), Tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội ở một số nước châu á và Việt Nam, Hà Nội.
Viện Nghiên Thông tin khoa học xã hội - Trung tâm khoa học xã hội và nhân văn quốc gia (1997), Kinh tế thị trường và những vấn đề xã hội, Hà Nội.
Viện Sử học Việt Nam (1991), Quốc triều hình luật (luật hình triều Lê), Nxb Pháp lý, Hà Nội.
Viện Phát triển quốc tế Harvard (1994), Việt Nam - Cải cách kinh tế theo hướng rồng bay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Vụ phổ biến, giáo dục pháp luật, Bộ Tư Pháp (1997) Một số vấn đề về phổ biến, giáo dục pháp luật, Nxb Thanh niên, Hà Nội.
Nguyễn Như ý (chủ biên) (1998), Đại từ điển tiếng Việt, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.
Insun Yu (1994), Luật và xã hội Việt Nam thế kỷ XVII- XVIII, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
T.Za-xlap-xkai-a (1987), "Nhân tố con người của sự phát triển kinh tế và công bằng xã hội", Tạp chí Cộng sản, (8) tr. 80-86.
* TIếNG NGA
123. Ai`dekh~ M`ri QQQP - Ilpqhqrq Dmprd`opqb` h Oo`b` (1974), Grol`j "Qmbeqpime Dmprd`opqbm h Oo`bm", (5).
124. ^.A. Rhtmkhomb (1982), Remoh~ g`iml`, Igd`qej{pqbm "M`ri`", Lmpib`.
125. (1983), Thjmpmshvepihé ]luhijmnedhvepihé Qjmb`o{, Lmpib`.
126. (1987), ^ohdhvepihé ]luhijmnedhvepihé Qjmb`o{, "Qmbeqpi`~ ]luhijmnedh~", Lmpib`.
._.