Tóm tắt Luận án - Thế giới nghệ thuật của nguyên hồng thời kỳ trước năm 1945

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN ĐÀO THỊ LÝ THẾ GIỚI NGHỆ THUẬT CỦA NGUYÊN HỒNG THỜI KỲ TRƢỚC NĂM 1945 Chuyên ngành: Văn học Việt Nam Mã số: 62 22 01 21 TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM THÁI NGUYÊN - 2015 Công trình được hoàn thành tại: TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM Người hướng dẫn khoa học: 1. GS.TS. Trần Đăng Xuyền 2. PGS.TS. Trần Thị Việt Trung Phản biện 1: ......................................................... Phản biện 2: ...........

pdf27 trang | Chia sẻ: huong20 | Ngày: 17/01/2022 | Lượt xem: 369 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Tóm tắt Luận án - Thế giới nghệ thuật của nguyên hồng thời kỳ trước năm 1945, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
............................................... Phản biện 3: ......................................................... DANH MỤC BÀI BÁO, CÔNG TRÌNH LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN I. Sách xuất bản 1. Đào Thị Lý - Trần Thị Việt Trung (2009), “Đặc điểm nhân vật phụ nữ trong sáng tác của Nguyên Hồng (thời kỳ trước Cách mạng tháng Tám năm 1945)”, Hình tượng nhân vật phụ nữ trong văn xuôi Việt Nam hiện đại, NXB Đại học Thái Nguyên, tr.63-112. II. Đề tài Nghiên cứu khoa học cấp Bộ 1. Đào Thị Lý (2011), Nghiên cứu đặc điểm thế giới nghệ thuật trong sáng tác của Nguyên Hồng (giai đoạn trước năm 1945); Mã số: B2010-TN 03-02; Đã được nghiệm thu, đạt loại: Khá. III. Bài báo 1. Đào Thị Lý (2010), "Nhân vật trẻ em trong sáng tác của Nguyên Hồng trước Cách mạng tháng Tám năm 1945", Tạp chí Khoa học và Công nghệ Đại học Thái Nguyên, tập 65, số 3 năm 2010, tr.61 - 66. 2. Đào Thị Lý (2011), "Một số đặc điểm về nghệ thuật xây dựng nhân vật phụ nữ trong sáng tác của Nguyên Hồng", Tạp chí Diễn đàn văn nghệ Việt Nam, tháng 12 năm 2011, tr.17 - 21. 3. Đào Thị Lý (2013), "Nghệ thuật tạo dựng hoàn cảnh, tình huống trong sáng tác của Nguyên Hồng trước Cách mạng tháng Tám năm 1945", Tạp chí Diễn đàn Văn nghệ Việt Nam, số 277, tháng 12, năm 2013, tr.30 - 34. 4. Đào Thị Lý (2014), “Không gian nghệ thuật trong sáng tác của Nguyên Hồng thời kỳ trước năm 1945”, Tạp chí Khoa học và Công nghệ Đại học Thái Nguyên, tập 129, số 15, năm 2014, tr.51 - 58. 1 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài 1.1. Nguyên Hồng (1918 - 1982) là một trong những nhà văn xuất sắc nhất của trào lưu văn học hiện thực nói riêng, của nền văn học Việt Nam hiện đại nói chung. Ông là người đến với nghề văn khá sớm và đã thành công ngay từ tác phẩm đầu tay: Bỉ vỏ (1937). Nguyên Hồng có sức viết phi thường, viết với tất cả sự đam mê và nhiệt huyết của mình. Hơn bốn mươi năm cầm bút, ông đã để lại gần bốn mươi tác phẩm, trong đó có những sáng tác đặc sắc và có những tác phẩm được đánh giá là một trong những tác phẩm bề thế nhất của tiểu thuyết Việt Nam hiện đại. 1.2. Như đã biết, “Thế giới nghệ thuật” là chỉnh thể của hình thức văn học” (Trần Đình Sử, 1998), “Thế giới nghệ thuật là khái niệm chỉ tính chỉnh thể của sáng tác nghệ thuật (một tác phẩm, một loại hình tác phẩm, sáng tác của tác giả, một trào lưu)... Thế giới nghệ thuật có không gian riêng, thời gian riêng, có quy luật tâm lý riêng, có quan hệ xã hội riêng, quan niệm đạo đức, thang bậc giá trị riêng” (Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi, 2000)... Trong Thế giới nghệ thuật của Nguyên Hồng, ở mọi phương diện nghệ thuật như: đề tài, chủ đề, nhân vật, không gian, thời gian, ngôn ngữ nghệ thuật,... đều được thống nhất trong một chỉnh thể nghệ thuật, giúp người đọc dễ hình dung ra những nét riêng biệt những đóng góp cụ thể trong quá trình sáng tạo không ngừng của nhà văn. Với một số lượng tác phẩm khá lớn ở nhiều thể loại (tiểu thuyết, truyện ngắn, bút ký, thơ...) qua hai giai đoạn sáng tác, trước và sau năm 1945, Nguyên Hồng đã phản ánh một cách chân thực, cảm động cuộc sống với những số phận cụ thể của những người lao động nghèo khổ và quá trình đổi đời nhờ Đảng, nhờ Cách mạng của họ. Khi viết về vấn đề này, Nguyên Hồng đã thể hiện được cái nhìn hiện thực sâu 2 sắc và tấm lòng nhân đạo thiết tha của nhà văn đối với những con người lao động. Vì vậy, khi đặt vấn đề nghiên cứu: Thế giới nghệ thuật của Nguyên Hồng thời kỳ trƣớc năm 1945 cũng có nghĩa là đã đi vào nghiên cứu về những đặc điểm nổi bật trong nội dung và nghệ thuật của các tác phẩm, khẳng định giá trị hiện thực sâu sắc và giá trị nhân đạo cao cả trong sáng tác của nhà văn hiện thực xuất sắc này trong một giai đoạn sáng tác cụ thể của ông. 1.3. Theo khảo sát của chúng tôi, cho tới nay đã có khoảng hơn 50 công trình viết về Nguyên Hồng và riêng việc nghiên cứu về Thế giới nghệ thuật của ông đã có trên 20 bài (đề cập đến nhiều khía cạnh, ví dụ như: Chủ đề, đề tài sáng tác, cảm hứng sáng tạo, chủ nghĩa nhân đạo, cảm quan tôn giáo, lời văn nghệ thuật,... trong sáng tác của nhà văn). Trong các công trình nghiên cứu này, các tác giả đã chú ý đề cập đến giai đoạn sáng tác trước Cách mạng tháng 8/1945 của Nguyên Hồng, trong đó đã có sự khảo sát, đề cập đến một số phương diện trong Thế giới nghệ thuật của ông như: đề tài, chủ đề nhân vật, không gian và thời gian, lời văn nghệ thuật... nhưng chúng tôi nhận thấy rằng, phần lớn đây là những nhận xét, nhận định mang tính khái quát; hoặc đó có thể là những khảo sát, phân tích khá cụ thể ở một số phương diện trong Thế giới nghệ thuật chứ chưa phải toàn bộ Thế giới nghệ thuật của Nguyên Hồng. Do đó, vẫn rất cần phải có một công trình chuyên biệt nghiên cứu một cách khá hệ thống và toàn diện về Thế giới nghệ thuật của nhà văn Nguyên Hồng. Thực hiện đề tài nghiên cứu này, chúng tôi muốn góp phần nhìn nhận một cách tương đối toàn diện, hệ thống về Thế giới nghệ thuật của Nguyên Hồng trong một giai đoạn sáng tác cụ thể - giai đoạn trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, để chỉ ra những đặc điểm riêng, những sáng tạo riêng trong Thế giới nghệ thuật của nhà văn; đồng thời qua đó khẳng định những đóng góp đáng trân trọng của ông đối với sự vận động và phát triển của trào lưu văn học hiện thực phê phán nói riêng, của nền văn xuôi Việt Nam hiện đại nói chung một cách cụ thể và đầy đủ hơn. 3 1.4. Hiện nay, một số tác phẩm tiêu biểu của Nguyên Hồng đã được đưa vào trong chương trình giáo dục ở bậc phổ thông và đại học. Nếu đề tài này được thực hiện thành công, đây sẽ là cuốn tài liệu tham khảo có ý nghĩa đối với học sinh, sinh viên, giáo viên các cấp và những ai quan tâm đến nhà văn hiện thực xuất sắc suốt đời nặng lòng với những người nghèo khổ này. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 2.1. Mục đích nghiên cứu: Nghiên cứu về Thế giới nghệ thuật của nhà văn Nguyên Hồng, luận án góp phần khẳng định: Trong quá trình sáng tác của mình, Nguyên Hồng đã tạo ra một Thế giới nghệ thuật riêng độc đáo và đặc sắc; và qua đó ghi nhận những đóng góp quan trọng của ông đối với quá trình phát triển của văn học hiện thực phê phán Việt Nam nói riêng và văn xuôi Việt Nam hiện đại giai đoạn đầu thế kỷ XX đến năm 1945 nói chung. 2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu: Nghiên cứu những phương diện quan trọng của Thế giới nghệ thuật trong sáng tác của Nguyên Hồng giai đoạn trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, nhằm chỉ ra những đặc điểm cơ bản trong Thế giới nghệ thuật của nhà văn (nghệ thuật xây dựng nhân vật; không gian, thời gian nghệ thuật và ngôn ngữ nghệ thuật). Qua đó khẳng định những giá trị nghệ thuật và giá trị hiện thực sâu sắc, giá trị nhân đạo cao cả trong những sáng tác của Nguyên Hồng - “nhà văn của những người khốn khổ” Việt Nam giai đoạn trước năm 1945. 3. Đối tƣợng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của đề tài luận án là những sáng tác của Nguyên Hồng giai đoạn trước 1945. Tuy nhiên, trong quá trình nghiên cứu, những sáng tác sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 của ông cũng được chúng tôi quan tâm khảo sát, nhằm so sánh làm rõ hơn những đặc điểm riêng trong Thế giới nghệ thuật của Nguyên Hồng thời kỳ trước năm 1945, cũng như một số đặc điểm chung trong quá trình sáng tác của nhà văn sau cách mạng. 4 Bên cạnh đó, chúng tôi cũng tiến hành khảo sát một số tác phẩm tiêu biểu của các tác giả cùng khuynh hướng, cùng thời với ông để so sánh, đối chiếu nhằm chỉ ra những nét riêng, nét độc đáo trong Thế giới nghệ thuật của Nguyên Hồng. 4. Giới hạn, phạm vi nghiên cứu Như đã biết, Thế giới nghệ thuật bao gồm nhiều phương diện như: đề tài, chủ đề, nhân vật, nghệ thuật xây dựng nhân vật, thời gian, không gian nghệ thuật và ngôn ngữ nghệ thuật... Tuy nhiên, trong khuôn khổ luận án của mình, chúng tôi xác định phạm vi nghiên cứu cụ thể là đi sâu vào nghiên cứu một số phương diện cơ bản của Thế giới nghệ thuật như: thế giới nhân vật và nghệ thuật xây dựng nhân vật, thời gian, không gian nghệ thuật và ngôn ngữ nghệ thuật trong các sáng tác của nhà văn Nguyên Hồng giai đoạn trước Cách mạng tháng Tám năm 1945 - vì đây là giai đoạn sáng tác nhiều, tiêu biểu và thành công nhất của Nguyên Hồng. Còn một số phương diện khác như: đề tài, chủ đề, lời văn nghệ thuật, giọng điệu nghệ thuật... cũng đã được một số tác giả đề cập đến khá rõ trong các chuyên luận và bài báo của mình, nên chúng tôi không chủ trương đi sâu vào nghiên cứu. 5. Phƣơng pháp nghiên cứu Để thực hiện đề tài, chúng tôi đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau: Phương pháp phân tích, tổng hợp; Phương pháp thống kê, phân loại; Phương pháp so sánh, đối chiếu; và có vận dụng lý thuyết về thi pháp học để phục vụ trong quá trình nghiên cứu. 6. Dự kiến đóng góp mới của đề tài 6.1. Đây là công trình chuyên biệt đầu tiên nghiên cứu một cách khá toàn diện và hệ thống về Thế giới nghệ thuật trong sáng tác của Nguyên Hồng thời kỳ trước 1945. Luận án đi sâu vào khảo 5 sát, nghiên cứu các sáng tác của Nguyên Hồng nhằm chỉ ra những đặc điểm nổi bật trong Thế giới nghệ thuật của nhà văn, nhất là trong việc dựng nên một thế giới nhân vật phong phú, phức tạp, độc đáo và sinh động của những con người lao động sống dưới đáy xã hội thực dân phong kiến; Chỉ ra những đặc điểm về không gian và thời gian nghệ thuật, cũng như những nét đặc sắc riêng về ngôn ngữ nghệ thuật trong sáng tác của nhà văn. Qua đó khẳng định: Trong quá trình sáng tác của mình, Nguyên Hồng đã xây dựng được một Thế giới nghệ thuật riêng, độc đáo không lẫn với bất cứ nhà văn nào. Và qua Thế giới nghệ thuật này, nhà văn đã thể hiện được một cách sâu sắc và cảm động chủ nghĩa hiện thực và chủ nghĩa nhân đạo cao cả của mình. 6.2. Kết quả nghiên cứu trên là cơ sở để khẳng định những đóng góp quan trọng của Nguyên Hồng vào quá trình phát triển trào lưu văn học hiện thực phê phán giai đoạn 1930 - 1945 nói riêng và đối với nền văn xuôi Việt Nam hiện đại nói chung. 6.3. Nếu luận án này thành công, hy vọng đây sẽ là một tài liệu tham khảo hữu ích cho học sinh, sinh viên và những người quan tâm đến tác giả Nguyên Hồng nói riêng và văn xuôi Việt Nam thời kỳ hiện đại giai đoạn trước Cách mạng tháng Tám nói chung. 7. Kết cấu của đề tài Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, Tài liệu tham khảo, kết cấu của luận án bao gồm bốn chương. Cụ thể như sau: Chƣơng 1. Tổng quan vấn đề nghiên cứu. Chƣơng 2. Khái niệm Thế giới nghệ thuật và những cơ sở hình thành nên Thế giới nghệ thuật của Nguyên Hồng. Chƣơng 3. Thế giới nhân vật. Chƣơng 4. Thời gian, không gian và ngôn ngữ nghệ thuật. 6 Chƣơng 1 TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU Tình hình nghiên cứu chung về Nguyên Hồng Gần ¾ thế kỷ trôi qua kể từ khi cuốn tiểu thuyết Bỉ vỏ của Nguyên Hồng ra đời và được nhận Giải thưởng của Tự lực văn đoàn (1937), đã có rất nhiều bài viết, những công trình nghiên cứu về cuộc đời và sự nghiệp của nhà văn. Cho đến nay, việc nghiên cứu về Nguyên Hồng cũng vẫn đang được tiếp tục và đã đạt được nhiều thành tựu đáng trân trọng. Đã có trên 50 công trình, bài viết nghiên cứu về Nguyên Hồng, có nhiều cuộc Hội thảo lớn, nhỏ về cuộc đời và sự nghiệp của nhà văn, có hàng chục luận văn, luận án nghiên cứu về tác giả. Khi ông qua đời, đã có hơn 20 bài viết về những Hồi ức và kỷ niệm về nhà văn. Tất cả những điều đó chứng tỏ: sức sống của tác phẩm Nguyên Hồng rất bền vững trong lòng người đọc nhiều thế hệ và theo thời gian những giá trị đặc biệt của nó ngày càng được phát hiện, được khẳng định một cách trân trọng. Theo khảo sát của chúng tôi, trong khoảng hơn 50 công trình, bài viết nghiên cứu chung về Nguyên Hồng, có khoảng 20 bài nghiên cứu có liên quan trực tiếp đến phương diện Thế giới nghệ thuật của nhà văn, ví dụ như: Lời văn nghệ thuật, phong cách nghệ thuật, cảm quan tôn giáo trong sáng tác của Nguyên Hồng... Tuy nhiên, cũng theo khảo sát, chúng tôi nhận thấy: những nhà nghiên cứu mới chỉ dừng lại ở những nhận định chung nhất, hoặc đi sâu vào một số phương diện như: nhân vật, ngôn ngữ nghệ thuật, phong cách nghệ thuật... mà chưa có một công trình chuyên biệt nào nghiên cứu toàn diện, hệ thống về Thế giới nghệ thuật của Nguyên Hồng trước 1945. Vì thế, việc nghiên cứu Thế giới nghệ thuật của Nguyên Hồng thời kỳ trước năm 1945 là rất cần thiết. 7 Chƣơng 2 KHÁI NIỆM THẾ GIỚI NGHỆ THUẬT VÀ NHỮNG CƠ SỞ HÌNH THÀNH NÊN THẾ GIỚI NGHỆ THUẬT CỦA NGUYÊN HỒNG 2.1. Giới thuyết chung về Thế giới nghệ thuật Đã có khá nhiều những quan niệm về Thế giới nghệ thuật, như: Thế giới nghệ thuật “Là chỉnh thể của hình thức văn học” (Trần Đình Sử, 1998),... Các tác giả của Từ điển thuật ngữ văn học quan niệm: “Thế giới nghệ thuật là khái niệm chỉ tính chỉnh thể của sáng tác nghệ thuật (một tác phẩm, một loại hình tác phẩm, sáng tác của tác giả, một trào lưu)... Thế giới nghệ thuật có không gian riêng, thời gian riêng, có quy luật tâm lý riêng, có quan hệ xã hội riêng, quan niệm đạo đức, thang bậc giá trị riêng” (Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi, 2000)... Từ những quan niệm trên, cho phép ta hiểu Thế giới nghệ thuật chính là “sự thống nhất của mọi yếu tố đa dạng trong tác phẩm” (Trần Đình Sử, 1998), đó là các yếu tố: Đề tài, chủ đề, nhân vật, thời gian và không gian, ngôn từ và giọng điệu nghệ thuật... tất cả tạo nên một Thế giới nghệ thuật trong sáng tác của nhà văn. Và cũng từ những quan niệm về Thế giới nghệ thuật như trên, chúng tôi chọn quan niệm có tính khái quát hơn cả là quan niệm của các tác giả cuốn Từ điển thuật ngữ văn học. Và đây sẽ là cơ sở lý thuyết, lý luận để chúng tôi tiến hành nghiên cứu Thế giới nghệ thuật của nhà văn Nguyên Hồng. 2.2. Những cơ sở hình thành nên Thế giới nghệ thuật của Nguyên Hồng 2.2.1. Hoàn cảnh lịch sử - xã hội Nguyên Hồng sinh ra và lớn lên trong hoàn cảnh xã hội có nhiều sự kiện đặc biệt: Đất nước bị thực dân Pháp xâm lược, nhân dân ta phải sống trong cảnh mất nước đói khổ, bần cùng. Xã hội Việt Nam có sự chuyển biến toàn diện và sâu sắc theo hướng thực dân phong kiến. Các mâu thuẫn trong xã hội ngày càng nhiều và 8 trở nên quyết liệt hơn. Phong trào cách mạng, đặc biệt từ khi Đảng cộng sản Đông Dương ra đời ngày càng phát triển mạnh mẽ. Từ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, văn hóa Việt Nam nói chung, văn học nói riêng dần dần thoát khỏi ảnh hưởng của nền văn hóa, văn học phong kiến Trung Hoa, bắt đầu tiếp xúc và ảnh hưởng của văn hóa, văn học phương Tây, đặc biệt là văn hóa, văn học Pháp. Những tư tưởng tiến bộ hiện đại được tiếp nhận vào Việt Nam đã làm thay đổi nhận thức của nhiều tầng lớp nhân dân, đặc biệt là lớp thanh niên trí thức. Đặc biệt, khi cuốn Đề cương về Văn hóa Việt Nam (1943) ra đời đã giúp nhiều văn nghệ sĩ tìm được con đường đi đúng đắn cho mình (trong đó có nhà văn Nguyên Hồng), giúp họ thoát ra khỏi tình trạng bế tắc về tư tưởng và hướng đi. Chính vì thế, nhiều sáng tác của Nguyên Hồng vượt qua phạm trù phản ánh của khuynh hướng văn học hiện thực phê phán, tiếp cận với cách phản ánh hiện thực của khuynh hướng văn học cách mạng. 2.2.2. Hoàn cảnh gia đình, môi trường sống và hoạt động văn học của Nguyên Hồng Nguyên Hồng tên thật là Nguyễn Nguyên Hồng, sinh 05 tháng 11 năm 1918 tại Nam Định. Sinh trưởng trong một gia đình theo đạo Thiên chúa đã có một thời khá giả, nhưng đến khi Nguyên Hồng ra đời thì cảnh nhà dần sa sút, khó khăn. Năm 12 tuổi, bé Hồng bị mồ côi cha, mẹ đi bước nữa và phải đi làm ăn xa, nên sống chủ yếu với bà nội. Vì vậy, Nguyên Hồng luôn khát khao tình thương, đặc biệt là tình mẫu tử và hơi ấm gia đình. Đến năm 16 tuổi, Nguyên Hồng theo mẹ và chú dượng ra Hải Phòng để kiếm sống trong xóm chợ nghèo, sống va chạm với đủ hạng người trong xã hội. Cả cuộc đời Nguyên Hồng gắn bó với mảnh đất Hải Phòng cần lao. Điều đó đã giúp nhà văn am hiểu một cách sâu sắc đời sống xã hội đương thời, có thêm vốn sống phong phú về những cuộc đời tối tăm, lam lũ của những người lao động sống dưới đáy xã hội, nhưng vẫn luôn có niềm tin vào bản chất tốt đẹp của những người lao động nghèo khổ. Từ hoàn cảnh riêng đặc biệt cùng với môi trường sống khắc nghiệt đã tạo nên cốt cách và bản lĩnh 9 Nguyên Hồng, đã định hướng thị hiếu thẩm mĩ của ông, đưa Nguyên Hồng đến với văn học như một sự thôi thúc tự bên trong. Nhà văn viết về những con người nghèo khổ dưới đáy xã hội, để “vạch trần ra những vết thương xã hội”, để bênh vực và xót thương những con người bé nhỏ, ít có khả năng tự vệ trong xã hội - và Nguyên Hồng cũng rất thành công khi viết về đề tài này. 2.2.3. Cá tính Nguyên Hồng Hoàn cảnh xã hội và hoàn cảnh gia đình cụ thể như trên đã tạo nên tính cách và bản lĩnh của Nguyên Hồng. Nhà văn đã từng phải sống trong một môi trường hết sức đen tối, phức tạp, va chạm với đủ mọi hạng người, sống bằng đủ mọi nghề để tồn tại, nhưng với nghị lực phi thường và niềm tin về con người, Nguyên Hồng đã vươn tới chủ nghĩa nhân đạo cao cả và trở thành một trong những nhà văn lớn của dân tộc. Bản lĩnh của Nguyên Hồng được thể hiện ở chỗ: Dù bị cuộc sống xô đẩy đến đâu, cơ cực, đắng cay đến mức nào, ông vẫn giữ được tâm hồn trong sáng của một người giàu tình cảm, luôn tha thiết yêu thương và luôn có ý thức bênh vực, bảo vệ những số phận bất hạnh. Không chỉ trong cuộc sống mà cả với văn chương, Nguyên Hồng cũng thể hiện mình là con người có cá tính sáng tạo. Ông là một nhà văn hiện thực đã tạo cho mình một Thế giới nghệ thuật riêng, độc đáo và đầy ý nghĩa. Tóm lại, hoàn cảnh xã hội, hoàn cảnh gia đình và cá tính, tài năng văn học của nhà văn cùng với những trải nghiệm khắc nghiệt của bản thân trong cuộc sống của những người lao động nghèo khổ dưới đáy xã hội - đã trở thành những yếu tố, những điều kiện quan trọng đưa Nguyên Hồng đến với văn chương, đã tạo nên một NHÀ VĂN NGUYÊN HỒNG. Đó là nhà văn của những người khốn khổ, nhà văn của lòng nhân đạo - một trong những tên tuổi lớn của trào lưu văn học hiện thực phê phán thời kỳ trước Cách mạng tháng Tám năm 1945 nói riêng, của nền văn học Việt Nam hiện đại nói chung. 10 Chƣơng 3 THẾ GIỚI NHÂN VẬT 3.1. Một thế giới nhân vật phong phú, phức tạp thuộc tầng lớp thị dân và lao động nghèo khổ dƣới đáy xã hội 3.1.1. Những người phụ nữ nghèo khổ, bất hạnh, cùng đường, nổi loạn Theo thống kê của chúng tôi thì trong hơn 60 sáng tác của nhà văn trước Cách mạng đã có tới 38 truyện viết về đề tài phụ nữ (chiếm tỷ lệ 62,2%). Những nhân vật phụ nữ này có hai đặc điểm nổi bật: Thứ nhất, họ là những con người đau khổ, bất hạnh, có một cuộc sống cơ cực, bị đánh đập, chà đạp nhưng nhẫn nhục, cam chịu và bất hạnh vì không có hạnh phúc gia đình (kiểu nhân vật này được thể hiện ở 25/38 sáng tác). Đó là những người phụ nữ vất vả, tảo tần kiếm sống (như nhân vật: Mũn (Đây, bóng tối), Vịnh (Hàng cơm đêm); là những người phụ nữ bị chà đạp - trở nên nhẫn nhục cam chịu (như các nhân vật mụ Mão (Người mẹ không con),nhân vật người vợ lão Đen (Bố con lão Đen), hay đó còn là những người phụ nữ không có hạnh phúc gia đình, không được hưởng hạnh phúc làm mẹ (như các nhân vật: bà mẹ của bé Hồng (Những ngày thơ ấu), mợ Du (Mợ Du) Thứ hai, họ là những người phụ nữ bất hạnh, nghèo khổ bị xã hội dồn đẩy vào tận chân tường, cùng đường, bế tắc nên đã có những phản ứng cực đoan, nổi loạn trở thành những kẻ giang hồ, lưu manh, tha hóa (đặc điểm này tập trung ở 9/38 sáng tác và có rải rác trong nhiều tác phẩm khác); Họ bất hạnh vì nhân phẩm và thể xác đều bị chà đạp thảm khốc, bị đẩy vào bước đường cùng, vào ranh giới giữa sự sống và cái chết (như các nhân vật: Bảy Hựu (Bảy Hựu), Chín Huyền (Chín Huyền); hay bị đẩy vào nhà chứa như các nhân vật: Tám Bính, Hai Liên (Bỉ vỏ)... Nhưng có một điểm đáng quý là: cho dù phải chịu bao nỗi bất hạnh, thì nhân vật phụ nữ của Nguyên Hồng vẫn ánh lên những nét đẹp truyền thống của người phụ nữ Việt Nam. Khi viết về nhân vật người phụ nữ, Nguyên Hồng đã vô tình chạm tới một vấn đề lớn mang tính nhân loại và thời đại - đó là vấn đề về Giới (vấn đề gia đình, vấn đề tình yêu và hôn nhân, vấn đề hạnh 11 phúc cá nhân của người phụ nữ). Từ năm 1939 trở đi, do được tiếp cận với tư tưởng Cách mạng của Đảng, Nguyên Hồng đã phản ánh, miêu tả nhân vật người phụ nữ ở một tầm nhận thức mới. Đó là tính nhân đạo gắn với ý thức chính trị. Đây cũng là sự tiến bộ trong tư tưởng và cách viết của một nhà văn luôn hướng ngòi bút của mình về những người phụ nữ Việt Nam nghèo khổ trong xã hội cũ. 3.1.2. Những đứa trẻ dưới đáy xã hội, “không có tuổi thơ” Qua khảo sát 61 sáng tác của Nguyên Hồng trước Cách mạng, chúng tôi thấy đã có 20 truyện viết về đề tài trẻ em (chiếm tỉ lệ 32,7%), đó là chưa tính đến sự xuất hiện của nhân vật trẻ em rải rác trong một số truyện khác. Đặc điểm nổi bật ở loại nhân vật này như sau: Đó là những đứa trẻ bất hạnh và không có tuổi thơ, không chỉ thiếu thốn về vật chất mà chúng còn rất thiếu thốn cả về tinh thần. Chúng thiếu ăn, thiếu mặc, thiếu sự chăm sóc của người thân và sự quan tâm của toàn xã hội (như những nhân vật: Mũn (Đây, bóng tối), Nhân (Hai nhà nghề), chú bé Hồng (Những ngày thơ ấu) Những đứa trẻ này luôn bị chà đạp về tinh thần, đặc biệt là phải sống thiếu tình mẫu tử (và hình như trong những nhân vật trẻ em này ít nhiều đều mang bóng dáng của tác giả thời thơ ấu); Đặc điểm nổi bật thứ hai: Đó là những nhân vật trẻ em bị cuộc sống nghèo đói đẩy vào con đường lưu manh hóa (ví dụ như các nhân vật: Điều, Tý Sáu (Con chó vàng), Hiếu, Minh, Sẹo (Bỉ vỏ)... Tuy nhiên, những nhân vật trẻ em này dù rơi vào hoàn cảnh bất hạnh như thế nào, thì trong sâu thẳm chúng vẫn là những đứa trẻ nhân hậu, giàu tình tương thân, tương ái, khao khát được sống trong tình mẫu tử, khao khát một cuộc sống gia đình tốt đẹp, trong một xã hội giàu tình thương. Đó cũng là điểm mạnh riêng, điểm tiến bộ của Nguyên Hồng - một nhà văn hiện thực giàu lòng yêu thương những con người cùng khổ. 3.1.3. Những người trí thức tiểu tư sản nghèo, giàu hoài bão nhưng bất lực và bế tắc trước cuộc sống Trong những sáng tác của Nguyên Hồng thời kỳ trước Cách mạng, chúng tôi nhận thấy kiểu nhân vật này xuất hiện tuy có phần ít 12 hơn so với loại nhân vật người phụ nữ và trẻ em (chiếm 24,5%), nhưng sự phản ánh và sức khái quát của nó thì cũng không kém phần sâu sắc. Nhân vật người trí thức của Nguyên Hồng thường là những con người có tài, tâm huyết với nghề nghiệp nhưng họ đều phải đối mặt với cuộc sống nghèo nàn, tù túng nên thường dẫn đến những bi kịch đau lòng, đó là nhân vật Hưng (Miếng bánh), Sinh (Hơi thở tàn)... Qua ngòi bút Nguyên Hồng, chân dung của họ hiện lên chân thực và sinh động. Điểm khác biệt ở nhân vật trí thức của Nguyên Hồng (so với các nhà văn cùng khuynh hướng lãng mạn và hiện thực đương thời) là: họ đã cảm nhận được cái tất yếu phải thay đổi xã hội một cách rõ rệt và mạnh mẽ. Và những nhân vật này đã có sự chuyển biến tích cực về mặt tư tưởng: từ chỗ cảm nhận, thấm thía sự gần gũi, gắn bó của mình với nhân dân lao động nghèo khổ (Lớp học lẩn lút) đến chỗ chủ động đến với nhân dân, hòa mình vào cuộc sống của nhân dân lao động nghèo khổ (Cuộc sống, Hai dòng sữa) Họ xác định, cuộc sống cần lao của nhân dân lao khổ chính là bầu sữa mẹ nuôi dưỡng nghệ thuật, nuôi dưỡng lòng tin tưởng của họ đối với con người. Qua kiểu nhân vật này, nhà văn đã thể hiện khá rõ quan điểm nghệ thuật tiến bộ của mình. 3.1.4. Những nhân vật con người bị tha hoá Trong thế giới nhân vật phong phú, đông đảo của mình, Nguyên Hồng cũng đã khắc họa kiểu nhân vật con người bị tha hóa. Có thể nói đây là kiểu nhân vật đặc biệt của nhà văn. Đi vào tận cùng nỗi khổ của con người, Nguyên Hồng đã chú ý khai thác kiểu nhân vật bị cùng đường, bế tắc trong cuộc sống, phải làm những nghề mạt hạng trong xã hội như: cờ bạc, mại dâm, ăn cắp, cướp của, giết người,... để tồn tại. Đó là những nhân vật như: Tám Bính, Năm Sài Gòn, Ba Bay (Bỉ vỏ), Bảy Hựu (Bảy Hựu), Thiết Giản (Mối hờn) Họ đến với nghề nghiệp đặc biệt này do nhiều nguyên nhân khác nhau, nhưng nguyên nhân chính là do xã hội đương thời đầy bất công và tội lỗi đã đẩy họ vào. Nhà văn đã phản ánh được một đặc điểm ở nổi bật ở những con người tưởng như mất hết nhân tính, chai sạn, trơ trẽn, lạnh lùng, bất mãn với xã hội này - lại là những con người trọng tình nặng 13 nghĩa, họ có thể sống, chết vì nhau mà không cần so đo, tính toán... Cho dù cuộc sống của họ có bị đẩy xuống tận bùn đen, thì trong sâu thẳm tâm hồn những con người này vẫn le lói một thứ ánh sáng, đó là khát vọng được sống cuộc sống “trong sạch, lương thiện”. Nguyên Hồng đã phát hiện và luôn có ý thức nâng niu từng chút ánh sáng le lói đó trong tâm hồn họ - vì thế, giá trị hiện thực, giá trị nhân đạo, giá trị tố cáo xã hội trong các sáng tác của Nguyên Hồng càng trở nên sâu sắc hơn, cụ thể hơn. Tóm lại, thế giới nhân vật trong sáng tác của Nguyên Hồng trước Cách mạng tháng Tám năm 1945 là một thế giới nhân vật phong phú, phức tạp và sinh động - thế giới của những con người lao động thuộc tầng lớp thị dân, những con người lao động nghèo khổ dưới đáy xã hội... Tính hiện thực sâu sắc, tính nhân đạo cao cả trong tác phẩm của Nguyên Hồng luôn được toát ra từ chính hệ thống nhân vật này của ông. 3.2. Một số thủ pháp nghệ thuật tiêu biểu xây dựng nhân vật 3.2.1. Nghệ thuật tạo dựng hoàn cảnh và tình huống Để có thể có được những nhân vật chân thực, sống động với những tính cách phong phú, phức tạp, điển hình cho thế giới của những con người lao động nghèo khổ dưới đáy xã hội, nhà văn Nguyên Hồng luôn ý thức tạo dựng một hoàn cảnh, một môi trường sống với những tình huống đặc biệt. Cụ thể ở đây là hoàn cảnh sống cơ cực, lầm than của những người lao động nghèo trước năm 1945, hoàn cảnh ấy đã nảy sinh ra những kiểu nhân vật đặc biệt mang dấu ấn Nguyên Hồng. Hoàn cảnh sống tăm tối, đói khổ, cùng quẫn kéo dài đã góp phần tạo nên kiểu nhân vật chịu đựng, nhẫn nại, như nhân vật mụ Mão (Người mẹ không con), bà mẹ Thưởng (Hai mẹ con) Và cũng chính hoàn cảnh sống khốn khổ, bế tắc đã góp phần tạo nên kiểu nhân vật tha hóa, lưu manh, trộm cướp như các nhân vật: Thiết Giản (Mối hờn), Năm Sài Gòn, Tám Bính (Bỉ vỏ) Các nhân vật của nhà văn luôn được đặt vào tình huống cực độ, khó khăn chồng chất khó khăn, bất hạnh chồng chất bất hạnh với những thử thách nghiệt ngã. Qua những tình huống, những thử thách ấy, nhà văn muốn khẳng 14 định và ca ngợi bản chất tốt đẹp của người lao động: càng trong hoàn cảnh ngặt nghèo, càng gặp những thử thách éo le thì tâm hồn họ càng ngời sáng, thánh thiện và đặc biệt là ở họ luôn có một niềm tin về tương lai tốt đẹp hơn. 3.2.2. Nghệ thuật miêu tả ngoại hình để khắc họa tâm trạng và tính cách nhân vật Khi miêu tả ngoại hình, Nguyên Hồng chú ý miêu tả những cử chỉ và hành động để biểu lộ thế giới nội tâm của nhân vật, nhất là nhân vật người phụ nữ bất hạnh. Ngòi bút của nhà văn thường phân tích tỉ mỉ, tường tận những cảm xúc mơ hồ, những diễn biến tâm lý tinh vi của nhân vật qua những nét miêu tả ngoại hình sắc sảo. Chẳng hạn như: khi miêu tả ngoại hình nhân vật bà mẹ bé Hồng (Những ngày thơ ấu), tác giả tập trung khắc họa hình ảnh “đôi mắt sáng”, “đôi má ửng hồng”, vẻ “thùy mỵ kính cẩn” của một người phụ nữ có đời sống nội tâm phong phú; hay khi nhấn mạnh bản chất lưu manh, mất hết tính người của tay trùm lưu manh trong xã hội, tác giả chú ý miêu tả vẻ mặt dữ dằn, bặm trợn “cằm bạnh, xạm râu, hai mắt xếch sẹo chằng chịt như những vết rạn của chiếc vại sành” của nhân vật Năm Sài Gòn (Bỉ vỏ) Tóm lại, với nhiều chi tiết chọn lọc đắt giá về ngoại hình, Nguyên Hồng đã rất thành công khi thể hiện tâm trạng nhân vật hay khắc họa tính cách, bản chất của từng kiểu nhân vật trong tác phẩm của mình. 3.2.3. Nghệ thuật miêu tả tâm lý nhân vật qua độc thoại nội tâm Khảo sát các tác phẩm của Nguyên Hồng, chúng tôi thấy: nhà văn hay sử dụng biện pháp độc thoại nội tâm như một thủ pháp nghệ thuật chủ yếu để miêu tả thế giới nội tâm nhân vật. Khi dùng biện pháp độc thoại nội tâm nhà văn sử dụng nhiều từ ngữ như: tự hỏi, lòng nhủ thầm, kêu thầm lên, bụng bảo dạ, thấy rằng, hồi tưởng lại... Độc thoại nội tâm thường xuất hiện trong trạng thái xúc động mạnh, hoặc trong trạng thái tâm lý căng thẳng, hoặc thể hiện qua dòng hồi tưởng, tâm tưởng, suy nghĩ của nhân vật, qua đó nhân vật tự bộc lộ, 15 tự giãi bày những cảm xúc, tình cảm trong lòng mình một cách thành thật nhất. Độc thoại nội tâm trong sáng tác của Nguyên Hồng còn được thể hiện dưới nhiều hình thức khác nhau như: nhật ký, ghi chép sổ tay (Những ngày thơ ấu, Cuộc sống, Hơi thở tàn, Bỉ vỏ...) hoặc ở những dạng nhân vật tự đối thoại ngầm (Miếng bánh, Bỉ vỏ, Những ngày thơ ấu...), hoặc ở lời nửa trực tiếp, nghĩa là về thực chất là tiếng nói của người kể chuyện, nhưng thể hiện suy nghĩ của nhân vật.Trong nhiều tác phẩm của mình, Nguyên Hồng đã miêu tả thiên nhiên như một phương tiện hữu hiệu để thể hiện nội tâm nhân vật. Bức tranh thiên nhiên qua ngòi bút của nhà văn đã trở thành bức tranh tâm trạng, giữa thiên nhiên và con người luôn có sự đồng điệu về tâm trạng, cảm xúc. Tóm lại, bằng nhiều thủ pháp và bút pháp nghệ thuật, Nguyên Hồng đã khám phá ra thế giới nội tâm phong phú của con người. Chính vì vậy, ông đã tạo dựng nên được cả một hệ thống các nhân vật là những người lao động nghèo khổ, nhưng mỗi nhân vật có một bộ mặt riêng, một tính cách riêng và để lại ấn tượng riêng cho người đọc. Đó chính là bằng chứng cho sự thành công của Nguyên Hồng về nghệ thuật xây dựng nhân vật trong các tác phẩm của mình. Chƣơng 4 THỜI GIAN, KHÔNG GIAN VÀ NGÔN NGỮ NGHỆ THUẬT 4.1. Thời gian nghệ thuật 4.1.1. Thời gian gắn liền với những sự kiện và biến cố dữ dội của cuộc đời nhân vật Thời gian nghệ thuật trong sáng tác của Nguyên

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdftom_tat_luan_an_the_gioi_nghe_thuat_cua_nguyen_hong_thoi_ky.pdf