VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
-------------
NGUYỄN QUỲNH GIAO
MỞ THOẠI VÀ KẾT THOẠI
TRONG TIẾNG ANH VÀ TIẾNG VIỆT
Chuyên ngành: Ngôn ngữ học
Mã số: 62 22 02 40
TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGÔN NGỮ HỌC
HÀ NỘI – 2017
Công trình được hoàn thành tại:
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI – VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
VIỆT NAM
Người hướng dẫn khoa học: GS.TS. Nguyễn Thiện Giáp
Phản biện 1: GS.TS. Đinh Văn Đức
Phản biện 2: GS.TS. Nguyễn Văn Khang
Phản biện
27 trang |
Chia sẻ: huong20 | Ngày: 17/01/2022 | Lượt xem: 296 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Tóm tắt Luận án Mở thoại và kết thoại trong Tiếng Anh và Tiếng Việt, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
3: PGS.TS. Lê Thị Lan Anh
Luận án sẽ được bảo vệ tại Hội đồng chấm luận án cấp Học viện,
họp tại Học viện Khoa học Xã hội, 477 Nguyễn Trãi, Thanh
Xuân, Hà Nội.
Vào hồi ..giờ.ngày.tháng..năm .
Có thể tìm hiểu luận án tại:
- Thư viện Quốc gia Việt Nam
- Thư viện Học viện Khoa học Xã hội
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ
LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
1. Nguyễn Quỳnh Giao (2012), “Bước đầu tìm hiểu về mở thoại
trong tiếng Anh (liên hệ với tiếng Việt)”, Hội thảo ngôn ngữ
học 2012: Những vấn đề ngôn ngữ và nghiên cứu ngôn ngữ
học, Viện Ngôn ngữ.
2. Nguyễn Quỳnh Giao (2016), “Các hành vi ngôn ngữ trong
mở thoại tiếng Việt”, Hội thảo khoa học 2016: Giữ gìn sự
trong sáng của tiếng Việt và giáo dục ngôn ngữ trong nhà
trường. Hội Ngôn ngữ học, ĐH Quảng Bình, Viện Ngôn ngữ
(tr.733-739).
3. Nguyễn Quỳnh Giao (2016), “Mở thoại và kết thoại trong
tiếng Anh”, Tạp chí ngôn ngữ và đời sống - số 6 (248) (tr.82-
86).
4. Nguyễn Quỳnh Giao (2016), “Tiền dẫn nhập cho sự kiện lời
nói chê trong tiếng Anh”, Tạp chí nhân lực khoa học xã hội -
số 06 (37) (tr.105-111).
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
1.1. Hội thoại, với tư cách là hoạt động giao tiếp cơ bản và phổ biến
nhất, được ngữ dụng học đặc biệt quan tâm, bởi ở đó thể hiện tập
trung hoạt động lời nói của con người khi tham gia giao tiếp.
1.2. Mỗi một ngôn ngữ, mỗi một cộng đồng văn hóa đều có những
cách thức riêng khi bắt đầu hay kết thúc một cuộc thoại. Nghiên cứu
mở thoại và kết thoại của hai ngôn ngữ Anh và Việt sẽ có ý nghĩa
đáng kể trong nghiên cứu đặc trưng văn hóa - ngôn ngữ nói chung và
ngôn ngữ hội thoại nói riêng.
1.3. Trên thế giới cũng như ở Việt Nam, đã có không ít những công
trình nghiên cứu về hội thoại. Tuy nhiên, chưa một công trình nào
nghiên cứu, phân tích kĩ lưỡng những yếu tố chức năng, những biểu
thức ngôn ngữ, những hành động ngôn từ, và những nhân tố chi phối
cách thức mở thoại và kết thoại của hai ngôn ngữ Anh và Việt. Với
việc thực hiện một công trình nghiên cứu khoa học sâu về Mở thoại
và kết thoại trong tiếng Anh và tiếng Việt trên dữ liệu các tác phẩm
văn học và kịch bản phim, chúng tôi mong muốn phần nào khỏa lấp
“khoảng trống” nêu trên.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của luận án là tìm ra sự tương đồng và khác biệt trong
mở thoại và kết thoại giữa hai ngôn ngữ Anh và Việt, từ đó nêu lên
những đặc trưng văn hóa dân tộc của hai ngôn ngữ này. Việc tìm ra
những điểm khác biệt này hi vọng sẽ giúp cho việc học tập và giảng
dạy tiếng Anh và tiếng Việt như một ngoại ngữ, nhằm nâng cao khả
năng giao tiếp nói và viết cho người dạy và người học.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt mục đích trên, đề tài “Mở thoại và kết thoại trong tiếng Anh
và tiếng Việt” sẽ giải quyết các nhiệm vụ nghiên cứu cụ thể như sau:
(i) Tổng quan và hệ thống hóa những lí luận về hội thoại và các
vấn đề có liên quan đến việc nghiên cứu mở thoại và kết thoại.
(ii) Nhận diện Mở thoại và Kết thoại.
(iii) Miêu tả những yếu tố chức năng trong mở thoại và kết thoại
tiếng Anh và tiếng Việt.
(iv) Miêu tả những biểu thức ngôn ngữ và hành động ngôn từ
trong mở thoại và kết thoại tiếng Anh và tiếng Việt.
2
(v) Nêu những nhân tố chi phối cách thức mở thoại tiếng Anh và
tiếng Việt.
(vi) Rút ra những nhận xét về sự tương đồng và khác biệt về văn
hóa của hai dân tộc Anh và Việt.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là mở thoại và kết thoại trong
tiếng Anh và tiếng Việt trên cơ sở những cuộc thoại xuất hiện trong
một số tác phẩm văn học và điện ảnh tiếng Anh và tiếng Việt.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Ngữ liệu được thu thập từ 25 truyện, kịch, phim tiếng Anh và 36
truyện, kịch bản phim tiếng Việt. Những cuộc thoại được lựa chọn,
về mặt cấu trúc, đảm bảo tính chất của lí thuyết hội thoại: một cặp
trao đáp trở lên, có người khởi xướng và có người phản hồi, và khởi
thoại được tiến hành trong một khoảng thời gian nhất định với chất
liệu lời nói được sử dụng để mở đầu và kết thúc; về mặt chủ đề: đảm
bảo tính thống nhất về đề tài diễn ngôn, và cuộc thoại đi theo hướng
nhất định từ đầu cho đến khi kết thúc cuộc thoại. Phạm vi nghiên cứu
của luận án là 735 cuộc thoại (song thoại) (387 cuộc thoại tiếng Anh
và 348 cuộc thoại tiếng Việt).
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Để giải quyết các nhiệm vụ nghiên cứu, đạt được mục đích
nghiên cứu đã nêu trong luận án, chúng tôi sử dụng những phương
pháp và thủ pháp nghiên cứu chính như sau:
4.1. Phương pháp phân tích hội thoại
Phân tích hội thoại quan tâm nhiều đến sự giải thích câu trong
mối quan hệ với ngữ cảnh, đến hàm ý hội thoại, v.v. Phương pháp
này được chúng tôi áp dụng để phân tích các lời mở thoại và kết thoại
xuất hiện trong các cuộc hội thoại của một số tác phẩm văn học Anh,
Việt khác nhau, từ đó thấy được chức năng của mở thoại và kết thoại
trong từng trường hợp cụ thể.
4.2. Phương pháp miêu tả
Dựa vào hình thức của mở thoại và kết thoại, luận án tiến hành miêu
tả và thống kê số lượng các loại câu, các loại hành động ngôn từ trong mở
thoại và kết thoại tiếng Anh và tiếng Việt, từ đó tìm ra sự giống nhau và
khác nhau của mở thoại và kết thoại trong hai thứ tiếng, rút ra những kết
luận về đối tượng nghiên cứu.
3
4.3. Phương pháp so sánh-đối chiếu
Trong luận án này, chúng tôi miêu tả mở thoại và kết thoại trong
tiếng Anh và tiếng Việt, sau đó đối chiếu với nhau để tìm ra sự tương
đồng và khác biệt giữa hai ngôn ngữ, cả trên bình diện cấu trúc và
ngữ dụng.
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
- Đóng góp trong lĩnh vực ngữ dụng học, góp phần làm rõ vai trò
của mở thoại và kết thoại trong hội thoại.
- Góp phần hữu dụng trong dịch thuật và giảng dạy hai ngôn ngữ.
6. Ý nghĩa lí luận và ý nghĩa thực tiễn của luận án
6.1. Ý nghĩa lí luận
Luận án sẽ góp phần hệ thống hóa những quan điểm về lí thuyết
hội thoại nói chung, và bổ sung cho lí thuyết về mở thoại và kết thoại
nói riêng. Những miêu tả về sự tương đồng và khác biệt của mở thoại
và kết thoại giữa hai nền văn hóa cũng sẽ là đóng góp tích cực cho
lĩnh vực nghiên cứu ngữ dụng, nghiên cứu hành động ngôn từ.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
1. Cung cấp thêm những chứng cứ và góp phần đưa ra những giả
định về tính phổ quát và đặc trưng ngôn ngữ giữa hai loại hình
ngôn ngữ khác nhau này.
2. Những kết quả nghiên cứu đạt được sẽ bổ sung nguồn tham
khảo hữu ích trong giảng dạy tiếng Anh và tiếng Việt như ngoại
ngữ, đặc biệt hỗ trợ khắc phục được những lỗi thường gặp do sự
khác biệt văn hóa gây nên, từ đó nâng cao năng lực giao tiếp cho
người học tiếng Anh và tiếng Việt như một ngoại ngữ.
7. Cơ cấu của luận án
Phần chính văn của luận án gồm 150 trang (không kể phụ lục).
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, luận án được bố cục theo bốn
chương: Chương 1. Tổng quan tình hình nghiên cứu; Chương 2. Cơ
sở lí luận; Chương 3. Mở thoại trong tiếng Anh và tiếng Việt;
Chương 4. Kết thoại trong tiếng Anh và tiếng Việt.
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
1.1. Nghiên cứu chung về hội thoại
Trên thế giới, vấn đề hội thoại đã được các nhà nghiên cứu quan
tâm từ lâu. Morris (1938), đã nghiên cứu ngôn ngữ dựa trên ba bình
4
diện: kết học, nghĩa học và dụng học. Austin (1962) đã đi sâu vào
bình diện dụng học và đặc biệt chú trọng vào sự hành chức của ngôn
ngữ trong giao tiếp hàng ngày. Searle (1969) đã nghiên cứu hành
động ở lời giữa người nói và người nghe. Humer (1972) đã đề cập
đến các thành tố có mặt trong hoạt động giao tiếp. Với Grice (1978),
vấn đề hội thoại được đề cập đầy đủ. Schegloff, Sack, Sinclaire và
Coulthard đã nghiên cứu sâu về cấu trúc hội thoại. Levinson và Yule
(1983 và 1991) đã giới thiệu, phân tích những vấn đề như lịch sự,
hàm ý hội thoại, cấu trúc hội thoại, v.v.
Ở Việt Nam, thực tế vấn đề hội thoại cũng thu hút được khá nhiều
sự quan tâm của các nhà nghiên cứu. Căn cứ vào đề tài và mục đích
giao tiếp lại có những kiểu hội thoại phân chia theo hoạt động xã hội
như hội thoại bác sĩ - bệnh nhân, hội thoại bạn bè, hội thoại mua bán,
hội thoại gia đình, hội thoại trên lớp học, v.v. Nghiên cứu về cấu trúc
hội thoại nói chung, có thể kế đến Nguyễn Chí Hòa (1997) Dương
Tuyết Hạnh (1999), Phạm Văn Thấu (2001), Đặng Thị Hảo Tâm
(2003) Nghiên cứu về hội thoại mua bán: Trịnh Thị Mai (2006), Mai
Thị Kiều Phượng (1996), Trương Thục Phương (1998). Hội thoại trên
lớp học cũng dành được sự quan tâm lớn của các nhà nghiên cứu,
Nguyễn Thị Hồng Ngân (2012), v.v.
1.2. Tình hình nghiên cứu về mở thoại và kết thoại
1.2.1. Tình hình nghiên cứu mở thoại và kết thoại trên thế giới
Schegloff (1968) trong “Sequencing in Conversational
Openings” (Chuỗi mở đầu của hội thoại), đã phân tích mở thoại
(MT) của 500 cuộc hội thoại tự nhiên qua điện thoại, tìm hiểu cấu
trúc MT và quy luật phân phối lượt lời của người nói-người nghe, tìm
hiểu ai là người cung cấp chủ đề của cuộc hội thoại. Bên cạnh đó tác
giả cũng tìm hiểu những yếu tố làm hạn chế cuộc hội thoại tự nhiên
qua điện thoại từ đó đưa ra các chiến lược giao tiếp hiệu quả.
House (1982), khi nghiên cứu về các khuôn mẫu mở đầu và kết
thúc cuộc thoại, đã đưa ra kết luận rằng người Anh thích sử dụng
những “bước đệm” mang tính “công thức” ngắn gọn và thường sử
dụng trong cuộc sống đời thường để mở đầu một tương tác; trong khi
đó người Đức lại thường biểu hiện bằng ngôn ngữ dài dòng để hướng
về nội dung tương tác.
Nghiên cứu về “Openings and Closings in Telephone Conversations
between Native Spanish Speakers” (Mở thoại và Kết thoại qua điện thoại
5
giữa những người nói tiếng Tây Ban Nha bản ngữ), Serafin (1998) muốn
góp phần làm rõ sự khác biệt về văn hóa cũng như về chức năng do MT
và kết thoại (KT) thực hiện. Cũng nghiên cứu về MT, Wong (2003) với
“Telephone Conversation Openings” (Những cách mở đầu cuộc thoại
qua điện thoại) đã nghiên cứu cách dạy mở thoại tiếng Anh (MTTA) cho
người học. Trong đó, Wong đặc biệt chú ý tới luyện cách nói MT trong
cuộc nói chuyện qua điện thoại, vì tác giả nhận thấy rằng trên lớp học dạy
tiếng Anh như ngôn ngữ thứ hai, dường như sinh viên không được hướng
dẫn kỹ cách nói chuyện qua điện thoại.
Griswold với “How Do You Say Good-Bye?” (Chào tạm biệt như
thế nào?) lại chú trọng tới tính liên kết của cuộc thoại tiếng Anh và đặc
biệt luyện phần KT. Marshall với “How to End a Conversation” (Cách
kết thúc cuộc thoại) cũng giới thiệu một số cách kết thúc cuộc thoại một
cách lịch sự và thân thiện. Edwards, trong “How Are You, Auntie
Elizabeth?” (Dì có khỏe không, dì Elizabeth?), Herrin trong “Hello, I
must be going!” (Xin chào, tôi phải đi ngay!), đã tập trung xây dựng
những bài luyện MT và KT tiếng Anh.
1.2.2. Tình hình nghiên cứu mở thoại và kết thoại ở Việt Nam
Ở Việt Nam, một trong những công trình quan tâm đến cách
thức bắt đầu một cuộc thoại là của Nguyễn Thị Mỹ Phương (1999)
trong “A study on gambits in English conversations” (Nghiên cứu về
chuyện phiếm trong hội thoại Anh). Đề tài quan tâm đến cấu trúc
cuộc thoại nói chung, và việc khởi đầu cuộc thoại tiếng Anh nói
riêng, trong đó có giới thiệu một số mẫu câu thường sử dụng khi mở
đầu cuộc nói chuyện. Trong luận án “Some Noteworthy English -
Vietnamese Cross-cultural differences in initiating small talk in
initial meetings” (Một số điểm khác biệt nổi bật về giao thoa văn hóa
Anh - Việt trong khởi đầu chuyện phiếm trong cuộc gặp đầu tiên)
(năm 2000), Trương Văn Dinh đã so sánh nét khác biệt trong cách
bắt đầu câu chuyện phiếm trong tiếng Anh và tiếng Việt khi gặp gỡ
lần đầu Nghiên cứu tập trung vào vấn đề đề tài trong cuộc thoại
chứ chưa quan tâm tới cách MT hay KT.
Ngoài ra, cũng đã có một số nghiên cứu bàn về hành động dẫn
nhập hay mở đầu trong một cuộc thoại. Vũ Thị Thanh Hương (1990),
trong bài “Bước đầu tìm hiểu các hành vi giao tiếp mở đầu tương tác
bác sĩ - bệnh nhân” đã đi vào phân tích hội thoại về mặt tâm lí thông
qua phương thức biểu hiện và cơ chế sản sinh các phát ngôn mở đầu
6
đoạn thoại bác sĩ - bệnh nhân. Nguyễn Thị Lý (1994) khi nghiên cứu
tham thoại trong giao tiếp mua bán ở chợ, đã mô hình hóa các dạng
tham thoại mở thoại, thân thoại và kết thoại trong cuộc thoại mua
bán. Dương Thị Tú Thanh (1994) đã đi vào nghiên cứu cặp thoại
trong giao tiếp mua bán và đưa ra mô hình hoạt động của các cặp
thoại: cặp thoại mở thoại, cặp thoại thân thoại và cặp thoại kết thoại.
Trên cơ sở tìm hiểu một số cuộc thoại mua bán ngày nay và thời bao
cấp, Nguyễn Thị Đan (1994) đã chỉ ra đặc điểm, cấu trúc và chức
năng của ba phần: đoạn mở thoại, đoạn thân thoại và đoạn kết thoại.
Theo tác giả, đoạn mở thoại thường có cấu trúc một cặp thoại làm
chức năng dẫn nhập, mở ra sự phát triển của toàn bộ cuộc thoại tiếp
theo. Đoạn kết thoại thường có cấu trúc một cặp thoại, thực hiện kết
quả cuối cùng của cuộc mua bán.
Năm 1995, Chu Thị Thanh Tâm đã nghiên cứu về Đề tài diễn
ngôn: sự cộng tác hội thoại để hình thành đề tài diễn ngôn và các
hành vi dẫn nhập đề tài diễn ngôn. Tác giả đã nghiên cứu các hành vi
được sử dụng trong cộng tác hội thoại để hình thành đề tài diễn ngôn.
Tuy nhiên, đối tượng nghiên cứu của luận án mới chỉ giới hạn trong
phạm vi hội thoại giữa bạn bè. Tác giả Hà Thị Sơn (1997) lại quan
tâm đến đoạn dẫn nhập trong hội thoại mua bán hiện nay và rút ra kết
luận rằng: đoạn dẫn nhập do người bán thực hiện có số lượng nhiều
hơn đoạn dẫn nhập do người mua thực hiện; dẫn nhập do người mua
thực hiện thường có cấu trúc ngắn gọn hơn dẫn nhập do người bán
thực hiện.
Gần đây, Chu Thị Phong Lan (2009), nghiên cứu về “Hành vi
dẫn nhập trong phần mở đầu cuộc thoại mua bán trên cứ liệu ghi âm
tại các chợ và một số trung tâm mua sắm ở Hà Nội” Từ khía cạnh
giới, Trần Thanh Vân (2010) trong bài “Người mua là nam và nữ sử
dụng hành động dẫn nhập cuộc thoại mua bán ở chợ Đồng Tháp” đã
thống kê hành động dẫn nhập của 1039 cuộc hội thoại mua bán, và
nêu lên sự khác biệt trong ứng xử ngôn ngữ của mỗi giới gắn với việc
lựa chọn các hành động ngôn ngữ dẫn nhập cuộc thoại mua bán.
Như vậy, có thể thấy, đã có khá nhiều nghiên cứu được thực
hiện xung quanh vấn đề hội thoại. Một số nghiên cứu của nước ngoài
đã giới thiệu một số phương pháp luyện cách MT và KT tiếng Anh.
Ở trong nước, vấn đề MT trong một số kiểu hội thoại tiếng Việt nhất
định cũng đã được đề cập tới, tuy nhiên mới chỉ dừng lại ở chỗ cho
7
rằng MT chỉ mang tính nghi thức. KT cũng dành được sự quan tâm
nghiên cứu MT hay dẫn nhập cuộc thoại. Nhìn chung, hiện chưa có
công trình nào trong nước dành riêng cho việc nghiên cứu MT và KT
tiếng Anh và tiếng Việt.
1.3. Tiểu kết
Chương này chúng tôi đã tổng quan tình hình nghiên cứu hội
thoại nói chung và MT, KT nói riêng ở trên thế giới cũng như ở Việt
Nam. Có thể thấy rằng, đã có khá nhiều nghiên cứu được thực hiện
xung quanh vấn đề hội thoại. Các học giả nước ngoài đã nghiên cứu
MT và KT thông qua phương pháp luyện tập cách MT và KT tiếng
Anh trên lớp học, một số khác lại tập trung nghiên cứu MT và KT
của những cuộc thoại qua điện thoại. Tình hình nghiên cứu về MT và
KT trong nước thường là những vấn đề mở đầu/dẫn nhập hay kết
thúc của những cuộc thoại mua bán, hội thoại lớp học, v.v. Điểm lại
các công trình nghiên cứu về MT và KT trong nước cũng như ngoài
nước, chúng tôi chưa thấy có một nghiên cứu nào được thực hiện từ
góc nhìn so sánh đối chiếu giữa hai ngôn ngữ. Luận án này hi vọng
sẽ là nghiên cứu lấp vào khoảng trống đó.
Chương 2
CƠ SỞ LÍ LUẬN
2.1. Lí thuyết giao tiếp
2.1.1. Vai giao tiếp và quan hệ giao tiếp
2.1.1.1. Vai giao tiếp
Trong cuộc thoại, luôn có sự phân vai giao tiếp: vai người nói
(người phát), và vai người nghe (người nhận).
2.1.1.2. Quan hệ giao tiếp
Quan hệ giao tiếp có thể xét theo trục tung (cao-thấp), còn gọi là
trục quyền uy và trục hoành (thân-sơ), còn gọi là trục khoảng cách.
Hai trục này đều có sự chi phối trong quá trình giao tiếp, cả nội dung
lẫn hình thức diễn ngôn.
2.1.2. Lịch sự trong giao tiếp
Lịch sự là vấn đề ứng xử giữa người nói và người nghe, là một
trong những nhân tố quan trọng trong giao tiếp. Theo Yule (1991),
lịch sự là phương tiện dùng để chứng tỏ sự nhận thức được thể diện
của người khác. Do đó, lịch sự có thể được thực hiện trong những tình
8
huống có khoảng cách xã hội xa hay gần. Vũ Thị Thanh Hương (2000)
cho rằng lịch sự trong tiếng Việt bao gồm: lễ phép, tế nhị, đúng mực,
khéo léo. Theo Nguyễn Thiện Giáp, lịch sự như một chuẩn mực xã hội,
là phép xã giao.
2.2. Lí thuyết hội thoại
Có nhiều quan niệm, nhận định, cách diễn giải khác nhau về hội
thoại, tuy nhiên, luận án theo quan điểm của Nguyễn Thiện Giáp về
hội thoại, ông coi “Hội thoại là hành vi giao tiếp phổ biến nhất, căn
bản nhất của con người. Đó là giao tiếp hai chiều, có sự tương tác
qua lại giữa người nói và người nghe với sự luân phiên lượt lời”.
2.2.1. Cuộc thoại
Theo Nguyễn Thiện Giáp (2010), nói tới hội thoại, trước tiên
phải nói tới cuộc thoại. Cuộc thoại được xác định “là một lần trao
đổi, nói chuyện giữa cá nhân trong hoàn cảnh xã hội nào đó”. Mỗi
cuộc thoại luôn có mở thoại, thân thoại và kết thoại. Ranh giới của
cuộc thoại được đánh dấu bằng MT và KT. Và cũng theo tác giả,
“mỗi cuộc thoại có thể bao gồm nhiều chủ đề khác nhau, mỗi chủ đề
lại chứa các vấn đề, và tập hợp những lượt nói trao đổi về một vấn đề
lại làm thành một đoạn thoại”.
2.2.2. Đoạn thoại
Đơn vị nhỏ hơn cuộc thoại là đoạn thoại. Một cuộc thoại có thể
có nhiều đoạn thoại khác nhau, mỗi đoạn thoại là những chủ đề nhỏ,
phản ánh những nội dung nhất định nhằm làm sáng tỏ chủ đề lớn. Đỗ
Hữu Châu định nghĩa: “đoạn thoại là một mảng diễn ngôn do một số
cặp trao đáp liên kết chặt chẽ với nhau về mặt ngữ nghĩa hoặc về ngữ
dụng”. Nguyễn Đức Dân định nghĩa đoạn thoại là “tập hợp các lượt
lời trao đổi về một vấn đề”.
2.2.3. Cặp thoại
Cặp thoại hay cặp trao đáp được Nguyễn Thiện Giáp gọi là cặp
kế cận. Trong hệ thống cấu trúc hội thoại, cặp kế cận là đơn vị song
thoại nhỏ nhất, “có quan hệ trực tiếp với nhau”. Đây là đơn vị lưỡng
thoại tối thiểu, tuy nhiên chưa phải là đơn vị cuối cùng. Một đoạn
thoại có thể bao gồm nhiều cặp kế cận khác nhau. Một số ví dụ của
cặp kế cận như là hỏi - trả lời, lời mời - lời chấp thuận, lời chào - lời
chào, khen - tiếp nhận lời khen, ra lệnh/yêu cầu-tuân lệnh/ đáp ứng.
9
2.2.4. Lượt nói
Nguyễn Thiện Giáp quan niệm lượt nói là “Chuỗi đơn vị ngôn
ngữ được một nhân vật hội thoại nói ra, kể từ lúc bắt đầu cho đến lúc
chấm dứt để cho nhân vật hội thoại kia nói chuỗi của mình”.
2.2.5. Bước thoại
Bước thoại “do một người nói ra có thể là một lượt nói mà cũng
có thể là một bộ phận của lượt nói”. Xét về mặt cấu trúc hội thoại,
bước thoại là đơn vị nhỏ nhất.
2.2.6. Ngữ cảnh
Có thể hiểu ngữ cảnh là bối cảnh phi ngôn ngữ trong đó ngôn
ngữ được sử dụng.
2.3. Lí thuyết hành động ngôn từ
2.3.1. Định nghĩa
Luận án áp dụng cách phân loại của Searle. để tiến hành phân
loại các hành động ngôn từ (HĐNT) trong MT và KT, theo đó
HĐNT được chia thành 5 nhóm lớn: (i) Tuyên bố (Declarations),
(ii) Tái hiện/ biểu kiến (Representatives), (iii) Bộc lộ/ biểu cảm
(Expressives), (iv) Điều khiển (Directives) và (v) Cam kết/ Ước
kết (Commissives).
2.3.2. Hành động ngôn từ trực tiếp và hành động ngôn từ gián tiếp
2.3.2.1. Hành động ngôn từ trực tiếp
Hành động ngôn từ trực tiếp (direct speech act) là hành động mà
người nghe có thể nhận diện ra đích tại lời nhờ vào các câu chữ biểu
thị chúng mà không cần phải suy ý, không cần dựa vào ngữ cảnh.
2.3.2.2. Hành động ngôn từ gián tiếp
Hành động ngôn từ gián tiếp (indirect speech act) là hành vi tại
lời được thực hiện bằng cách sử dụng các phương tiện biểu đạt của
HĐNT này để đạt tới hiệu lực tại lời của một HĐNT khác.
2.4. Lí thuyết dụng học tương phản
Vượt qua phạm vi nghiên cứu của ngôn ngữ học tương phản
truyền thống khi so sánh đối chiếu về ngữ âm học và cú pháp học,
ngữ dụng học đã mở rộng phạm vi nghiên cứu sang dụng học xuyên
văn hóa (Cross-cultural Pragmatics). Những nghiên cứu mang tính
chất xuyên văn hóa luôn liên đới tới hai ngôn ngữ, đồng thời hai nền
văn hóa. Ngôn ngữ có thể tồn tại ở dạng tĩnh (hệ thống cấu trúc) hay
dạng động (HĐNT trong hành chức, trong hoạt động) sẽ bị chế định
bởi thuộc tính của ngôn ngữ và văn hóa.
10
2.5. Tiểu kết
Chương 2 chúng tôi đã hệ thống hóa lại các cơ sở lí thuyết hội
thoại và lí thuyết dụng học, đặc biệt là lí thuyết hành động ngôn từ
và lí thuyết dụng học tương phản. Luận án dựa trên cách phân loại
về hành động ngôn từ của Searle (1969) để làm cơ sở cho việc phân
nhóm các HĐNT của MT và KT. Ngoài ra, hệ thống các khái niệm
công cụ được sử dụng trong luận án là theo quan điểm của Nguyễn
Thiện Giáp, chẳng hạn: khái niệm cuộc thoại, khái niệm hành động
ngôn tác, hành động ngôn tạo, hành động ngôn trung, lượt nói,
bước thoại, v.v. Nhìn chung, các khái niệm cơ bản và những lí
thuyết có liên quan đến hội thoại được đưa ra để dẫn dắt luận án giải
quyết các vấn đề về MT và KT ở các chương sau.
Để làm rõ những điểm giống và khác nhau trong MT và KT
tiếng Anh và tiếng Việt, đề tài lấy đối tượng nghiên cứu là MT và KT
của những cuộc thoại xuất hiện trong một số tác phẩm văn học và điện
ảnh tiếng Anh và tiếng Việt. Việc áp dụng lí thuyết phân tích hội thoại
để tìm ra những đặc trưng của MT và KT tiếng Anh và tiếng Việt hi
vọng sẽ soi sáng thêm cho lí thuyết hội thoại.
Chương 3
MỞ THOẠI TRONG TIẾNG ANH VÀ TIẾNG VIỆT
3.1. Tiêu chí nhận diện mở thoại
Luận án dựa trên nền tảng lí thuyết về 4 loại cặp kế cận nghi
thức liên quan đến bắt đầu cuộc thoại của Schegloff (1979) để triển
khai, theo đó những yếu tố chức năng có trong MT gồm những yếu tố
sau đây: 1. Hô gọi/ hồi đáp (Summon/ Response); 2. Nhận diện/ xác
nhận (Identification/ Recognition; 3. Chào (Greeting); 4. Hỏi thăm
(Inquiry); 5. Đề cập trực tiếp vấn đề cuộc thoại (Direct mention of
conversation issue).
3.2. Những yếu tố chức năng trong mở thoại tiếng Anh và tiếng Việt
3.2.1. Những yếu tố chức năng trong mở thoại tiếng Anh
Khảo sát 387 cuộc thoại tiếng Anh, thấy xuất hiện cả 5 cách
mở đầu hội thoại, trong đó yếu tố Đề cập trực tiếp vấn đề cuộc thoại
và Chào có tỉ lệ sử dụng cao nhất (55% và 54,5%), tiếp theo đến yếu
tố Hô gọi/ hồi đáp và Nhận diện/ xác nhận (50% và 37%), và Hỏi
11
thăm có tỉ lệ thấp nhất, 32,8%. Năm yếu tố chức năng ở MT có thể
xuất hiện trong những kiểu kết hợp như: Hô gọi/ hồi đáp + đề cập
trực tiếp vấn đề cuộc thoại, Hô gọi/hồi đáp + nhận diện/ xác nhận +
đề cập trực tiếp vấn đề cuộc thoại, Chào + đề cập trực tiếp vấn đề
cuộc thoại, Chào + hỏi thăm; v.v. Ví dụ mở thoại tiếng Anh (MTTA)
có chuỗi Hô gọi + đề cập trực tiếp vấn đề cuộc thoại:
“Wood! I've found you a Seeker.” (Wood, cô đã phát hiện ra
một Tầm thủ.)
Wood’s expression changed from puzzlement to delight. (Vẻ
mặt đang bối rối của Wood bỗng trở nên rạng rỡ.)
“Are you serious, Professor?” (Thiệt hả cô?)
(Harry Potter and the Sorcerer's Stone, tr.73)
3.2.2. Những yếu tố chức năng trong mở thoại tiếng Việt
Trong 348 cuộc thoại tiếng Việt được khảo sát, cũng có sự tham
gia của cả 5 cách mở đầu hội thoại. Nhận diện/ xác nhận và Chào là
hai yếu tố xuất hiện nhiều hơn cả (51,1% và 50,5%), tiếp đến là yếu
tố Hô gọi/ hồi đáp (48,8%), và cuối cùng là Hỏi thăm và Đề cập trực
tiếp vấn đề cuộc thoại, (34,2% và 29,9%). Các yếu tố chức năng kết
hợp với nhau tạo thành chuỗi MT: Hô gọi/ hồi đáp + nhận diện + hỏi
thăm; Hô gọi/ hồi đáp + chào + hỏi thăm; Hô gọi/ hồi đáp + đề cập
trực tiếp; Chào + đề cập trực tiếp; Chào + nhận diện + hỏi thăm;
Nhận diện + hỏi thăm + đề cập trực tiếp; Chào + hỏi thăm. Ví dụ
mở thoại tiếng Việt (MTTV) có chuỗi Hô gọi/ hồi đáp + nhận diện/
xác nhận:
Cán bộ (luýnh quýnh): Chị ơi, đây phải nhà anh Nên không chị?
Chị Năm: Dạ phải, có chuyện chi không anh?
(Lòng dân, tr.47-48)
3.3. Những biểu thức ngôn ngữ và hành động ngôn từ ở mở thoại
tiếng Anh và tiếng Việt
3.3.1. Những biểu thức ngôn ngữ ở mở thoại tiếng Anh và tiếng Việt
3.3.1.1. Những biểu thức ngôn ngữ ở mở thoại tiếng Anh
Với 387 cuộc thoại tiếng Anh, chúng tôi thống kê được 1646
lượt nói ở MT. Câu đơn được sử dụng chủ yếu (787 lần, chiếm
47,8%), tiếp đến câu đặc biệt (209 lần, 12,7%), câu phức và câu ghép
được sử dụng không đáng kể (153 lần, 9,3% và 102 lần, 6,2%). Số
lượng MTTA có lượt nói gồm 1 câu xuất hiện tới 1251/1646 lần
(chiếm 76%); số lượng MTTA có lượt nói là một chuỗi câu xuất hiện
12
395/1646 lần (chiếm 24%), trong đó số lượt nói có 2 câu: 280/1646
lần (chiếm 17%); 3 câu: 82/1646 lần (chiếm 5%), 4 câu: 33/1646
(chiếm 2%).
3.3.1.2. Những biểu thức ngôn ngữ ở mở thoại tiếng Việt
Với 348 cuộc thoại tiếng Việt, chúng tôi thống kê được 1182
lượt nói ở MT. Cũng như trong tiếng Anh, câu đơn xuất hiện nhiều
nhất, 531 lần (chiếm 44.9%), tiếp đến là câu ghép,106 lần (chiếm
9%). Câu phức xuất hiện rất ít, 19 lần (chiếm 1,6%). Số lượng
MTTV có lượt nói gồm 1 câu chiếm số lượng nhiều nhất, 745 lượt
(chiếm 63%); tiếp đến là lượt nói gồm 2 câu, 302 lượt (chiếm
25,5%); sau đó là 82 lượt nói gồm 3 câu (chiếm 6,9%), 42 lượt nói
gồm 4 câu (chiếm 3,6%), và cuối cùng là 11 lượt nói gồm 5 câu
(chiếm 1%).
Xét về số lượng lượt nói trong MT của cả hai ngôn ngữ Anh
và Việt, cho thấy MTTA diễn ra dài hơn MTTV nhưng không
đáng kể, trung bình mỗi MTTA có 4,3 lượt nói (1646 lượt nói/387
cuộc thoại) và mỗi MTTV có 3,4 lượt nói (1182/348 cuộc thoại).
3.3.2. Những hành động ngôn từ ở mở thoại tiếng Anh và tiếng Việt
3.3.2.1. Những hành động ngôn từ ở mở thoại tiếng Anh
Trong 387 MTTA, có 1251 lượt nói chỉ gồm 1 HĐNT, và 395
lượt nói có từ 2 đến 4 HĐNT. Tổng số các HĐNT được lặp lại trong
MTTA là 2189 lần (trong đó có 1251 lần của những lượt nói chỉ gồm
một HĐNT và 938 lần của những lượt nói có từ 2 HĐNT trở lên),
chia thành 3 nhóm: nhóm điều khiển xuất hiện 1477/2189 lần; nhóm
biểu kiến xuất hiện 477/2189 lần; nhóm biểu cảm xuất hiện
235/2189 lần.
3.3.2.2. Những hành động ngôn từ ở mở thoại tiếng Việt
Trong 348 MTTV, có 745 lượt gồm 1 HĐNT, 437 lượt có từ 2
đến 5 HĐNT. Tổng số các HĐNT được lặp lại trong MTTV là 1818
lần (trong đó có 745 lần của những lượt nói chỉ gồm 1 HĐNT và
1073 lần của những lượt nói có từ 2 HĐNT trở lên), chia thành 3
nhóm: nhóm điều khiển xuất hiện 1487/1818 lần; nhóm biểu kiến
xuất hiện 1444/1818 lần; nhóm biểu cảm xuất hiện 187/1818 lần.
3.3.2.3. Hành động ngôn từ trực tiếp và gián tiếp trong mở thoại
tiếng Anh và tiếng Việt
Trong MTTA số lượng HĐNT trực tiếp xuất hiện 1784/2189 lần
(chiếm 81,5%); và số lượng HĐNT là gián tiếp xuất hiện 405/2189
13
lần (chiếm 18,5%). Các HĐNT gián tiếp dùng câu nghi vấn để chào
và dùng câu trần thuật để yêu cầu, ra lệnh cùng xuất hiện 93/405 lần
(chiếm 23%). HĐNT gián tiếp dùng câu nghi vấn để điều khiển (ra
lệnh, đề nghị) xuất hiện ít hơn, 63/405 lần (chiếm 15,5%). Các
HĐNT gián tiếp dùng câu cầu khiến để đánh giá, dùng câu cầu khiến
để thông báo và dùng câu cảm thán để chào nằm trong nhóm chiếm
tỉ lệ thấp nhất, tương ứng với 1,8% và 1,5%.
Trong MTTV số lượng HĐNT trực tiếp xuất hiện 1334/1818 lần
(chiếm 73,4%); và số lượng HĐNT là gián tiếp xuất hiện 484/1818
lần (chiếm 26,6%). HĐNT gián tiếp chủ yếu được sử dụng là: dùng
câu trần thuật để cầu khiến, chiếm 27,7% (134/484), dùng câu nghi
vấn để chào, chiếm 20,9% (101/484) và dùng câu trần thuật để hỏi.
Trong đó, HĐNT gián tiếp dùng câu trần thuật để cầu khiến có tỉ lệ
cao hơn cả, chiếm 27,7% (134/484), gần bằng số lượng đó là HĐNT
gián tiếp dùng câu nghi vấn để chào, chiếm 20,9% (101/484). Các
HĐNT dùng câu nghi vấn để đe dọa và dùng câu cảm thán để đe dọa
xuất hiện ít nhất, 2/484 lần (chiếm 0,4% tổng số HĐNT gián tiếp).
Như vậy, cả MTTA và MTTV đều sử dụng HĐNT trực tiếp
nhiều hơn HĐNT gián tiếp. Có một điểm khác biệt nhỏ giữa HĐNT
gián tiếp được sử dụng trong kết thoại tiếng Việt (KTTV) và (kết
thoại tiếng Anh) KTTA là tỉ lệ HĐNT gián tiếp trong tiếng Việt cao
hơn so với tiếng Anh (26,6% so với 18,5%).
3.4. Những nhân tố chi phối cách mở thoại tiếng Anh và tiếng Việt
Tổ chức của MT sẽ bị chi phối bởi những nhân tố như chủ đề
cuộc thoại, vai giao tiếp và ngữ cảnh giao tiếp.
3.4.1. Chủ đề cuộc thoại với mở thoại
Những chủ đề trong giao tiếp hàng ngày ít nhiều ảnh hưởng đến
cách thức mở thoại.
3.4.1.1. Các yếu tố chức năng được chọn trong mở thoại
Sự khác biệt về cách lựa chọn chuỗi MT cho thấy trong tiếng
Anh khi bắt đầu câu chuyện thường trực tiếp đi vào vấn đề, còn trong
tiếng Việt những câu chào xuất hiện ở đầu MT nhiều hơn. Kết quả
này cũng giống với những kết luận của những nghiên cứu đi trước
rằng người Việt hay nói vòng vo, còn người Anh thường đi thẳng vào
chủ đề chính cần nói.
14
3.4.1.2. Các kiểu biểu thức ngôn ngữ được chọn trong mở thoại
Những MTTA và MTTV có số lượt nói là 1 câu khi người tham
gia muốn vào đề đơn giản, ngắn gọn. Trong trường hợp khẩn thiết,
thì MT thường ngắn, và đi luôn vào mục đích cuộc thoại. Những MT
gồm nhiều câu thường là được dùng để diễn giải hoặc bày tỏ một sự
tình nào đó.
3.4.1.3. Các hành động ngôn từ được chọn trong mở thoại
Có một điểm chung trong MT tiếng Anh và tiếng Việt, đó là
hành động hỏi, hành động cầu khiến và hành động chào được sử
dụng với tần số cao. HĐNT trực tiếp luôn được sử dụng nhiều hơn
HĐNT gián tiếp ở cả hai ngôn ngữ Anh
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tom_tat_luan_an_mo_thoai_va_ket_thoai_trong_tieng_anh_va_tie.pdf
- Tomtat_Eng_NguyenQuynhQiao.pdf