Tóm tắt Luận án - Kỹ năng viết tiếng Anh và kỹ năng tư duy phê phán của sinh viên hệ thống trường đại học công nghệ giao thông vận tải ở batỉnh Việt Namcơ sở đề xuất các hoạt động chức năng viết

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN ĐẠI HỌC TỔNG HỢP BATANGAS Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam Cộng hòa Philippin NGUYỄN THANH TÚ KỸ NĂNG VIẾT TIẾNG ANH VÀ KỸ NĂNG TƯ DUY PHÊ PHÁN CỦA SINH VIÊN HỆ THỐNG TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHỆ GIAO THÔNG VẬN TẢI Ở BATỈNH VIỆT NAMCƠ SỞ ĐỀ XUẤT CÁC HOẠT ĐỘNG CHỨC NĂNG VIẾT Chuyên ngành: Ngôn ngữ và văn học Anh TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SỸ NGÔN NGỮ VÀ VĂN HỌC ANH THÁI NGUYÊN, 2014 Công trình được hoàn thành tại: ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN Advisor: Matilda H.Dimaa

pdf24 trang | Chia sẻ: huong20 | Ngày: 17/01/2022 | Lượt xem: 322 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Tóm tắt Luận án - Kỹ năng viết tiếng Anh và kỹ năng tư duy phê phán của sinh viên hệ thống trường đại học công nghệ giao thông vận tải ở batỉnh Việt Namcơ sở đề xuất các hoạt động chức năng viết, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
an.Ph.D. Phản biện 1: ............................................. Phản biện 2: ............................................. Phản biện 3: ............................................. Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp Đại học họp tại: Vào hồi giờ ngày tháng năm 2014 Có thể tìm hiểu luận văn tại: - Thư viện quốc gia Việt Nam; - Trung tâm học liệu, Đại học Thái Nguyên; - Thư viện Trung tâm Đào tạo và Phát triển quốc tế; - Thư viện trường Đại học Tổng hợp Batangas, Philipin. 1 Nghiên cứu về ngôn ngữ tiếng Anh đã được thực hiện trên nhiều phương diện khác nhau, dựa trên hai bình diện nền tảng lý thuyết và kỹ năng thực hành. Hiện nay các nghiên cứu cũng đã chuyển từ lý thuyết sang thực hành và ngày càng nhiều các công ty đưa ra nhiều yêu cầu tiêu chuẩn để tuyển nhân viên của họ với yêu cầu chứng minh kỹ năng sử dụng ngôn ngữ tiếng Anh Viết được coi như một hành động được mã hóa một ý tưởng, một ý nghĩ, một sự phản ánh; một quá trình đặt suy nghĩ của một người thành lời. Người viết muốn truyền đạt được suy nghĩ, quan điểm của mình đòi hỏi phải sắp xếp, chọn lọc từ ngữ phù hợp. Trong văn bản viết, đòi hỏi người viết phải có vốn từ phong phú cùng với việc nắm bắt đầy đủ về ý nghĩa thông thường và ý nghĩa đặc biệt khi sử dụng những từ đó. Người viết cũng phải biết làm thế nào để xây dựng câu trong tiếng Anh sao cho mạch lạc và gắn kết, rồi tiếp tục sử dụng tốt ngữ pháp, cú pháp, hình thái học của từ để tạo ra ngững sản phẩm ngôn ngữ chuẩn mực. Hệ thống giáo dục của chúng ta cũng đã phân cấp các mức độ khác nhau đối với từng đối tượng. Phát triển kỹ năng viết ở bậc tiểu học chỉ là yêu cầu viết chọn chủ đề đơn giản. Ở cấp độ trung học, kỹ năng viết được phát triển thông qua các bài tiểu luận. Ở cấp độ đại học, nó là một sự pha trộn của các thành phần cấp trung học cũng như các văn bản của một luận văn, văn bản cần phải được phân tích và trình bày chi tiết các ý tưởng, cung cấp các luận diểm, bằng chứng. Do đó, kỹ năng nhận thức là rất quan trọng trong từng bước trong việc phát triển kỹ năng viết. Là giảng viên giảng dạy tiếng Anh cơ bản, tác giả nhận thấy sinh viên gặp khó khăn trong việc rèn luyện kỹ năng viết. Sinh viên có xu hướng mắc lỗi khi xây dựng câu, cú pháp và các thành phần kỹ 2 thuật viết. Hơn nữa cần xác định vai trò quan trọng về mức độ của tư duy phê phán về mặt nhận thức, tình cảm cho việc học tập của sinh viên. Do đó đề tài "Kỹ năng viết tiếng anh và kỹ năng tư duy phê phán cho sinh viên hệ thống trường Đại học Công nghệ Giao thông Vận tải ở 3 tỉnh Việt Nam: Cơ sở đề xuất các hoạt động chức năng viết" được lựa chọn. Cấu chúc luận án gồm 5 chương 3 CHƯƠNG I GIỚI THIỆU BỐI CẢNH NGHIÊN CỨU: Viết được coi như một hành động được mã hóa một ý tưởng, một ý nghĩ, một sự phản ánh; một quá trình đặt suy nghĩ của một người thành lời. Người viết muốn truyền đạt được suy nghĩ, quan điểm của mình đòi hỏi phải sắp xếp, chọn lọc từ ngữ phù hợp. Trong văn bản viết, đòi hỏi người viết phải có vốn từ phong phú cùng với việc nắm bắt đầy đủ về ý nghĩa thông thường và ý nghĩa đặc biệt khi sử dụng những từ đó. Người viết cũng phải biết làm thế nào để xây dựng câu trong tiếng Anh sao cho mạch lạc và gắn kết, rồi tiếp tục sử dụng tốt ngữ pháp, cú pháp, hình thái học của từ để tạo ra ngững sản phẩm ngôn ngữ chuẩn mực. Hệ thống giáo dục của chúng ta cũng đã phân cấp các mức độ khác nhau đối với từng đối tượng. Phát triển kỹ năng viết ở bậc tiểu học chỉ là yêu cầu viết chọn chủ đề đơn giản. Ở cấp độ trung học, kỹ năng viết được phát triển thông qua các bài tiểu luận. Ở cấp độ đại học, nó là một sự pha trộn của các thành phần cấp trung học cũng như các văn bản của một luận văn, văn bản cần phải được phân tích và trình bày chi tiết các ý tưởng, cung cấp các luận diểm, bằng chứng. Do đó, kỹ năng nhận thức là rất quan trọng trong từng bước trong việc phát triển kỹ năng viết. VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU Nghiên cứu nhằm trả lời các câu hỏi sau: 1. Hồ sơ nhân khẩu học của sinh viên 1.1 Giới tính; 1.2 Trình độ học vấn của cha mẹ; 4 1.3 Quê quán; 1.4 Loại hình trường phổ thông đã học; 1.5 Tiếp xúc truyền thông đa phương tiện học tiếng Anh. 2. Yếu tố gì liên quan đến mức độ kỹ năng viết của sinh viên: 2.1 Thành phần luận điểm (chặt chẽ, mạch lạc) 2.2 Thành phần ngữ pháp; 2.3 Cơ chế; 2.4 Hình thái học; và 2.5 cú pháp? 3. Làm thế nào để giáo viên đánh giá kỹ năng phê phán của sinh viên? 4. Làm thế nào để so sánh mức độ kỹ năng viết của sinh viên với việc giáo viên đánh giá kỹ năng phê phán của sinh viên. 5. Hoạt động chức năng viết gì được đề xuất để phát triển kỹ năng viết và kỹ năng tư duy phê phán của sinh viên? Ý NGHĨA CỦA NGHIÊN CỨU Sinh viên có thể ứng dụng kết quả luận án này để xác định những hạn chế trong kỹ năng viết tiếng Anh và tư duy phê phán để tìm ra cách học nâng cao khả năng ngôn ngữ của mình. Các giảng viên tiếng Anh, các nhà quản lý của Trường Đại học Công nghệ Giao thông Vận tải có thể tham khảo luận án này để thiết kế các bài tập phù hợp, thiết kế chương trình học, nâng cao kỹ năng của sinh viên. PHẠM VI VÀ GIỚI HẠN NGHIÊN CỨU Nghiên cứu này tập trung vào việc xác định mức độ kỹ năng viết của sinh viên về các thành phần diễn thuyết, các thành phần ngữ pháp, cơ chế, hình thái và cú pháp cũng như mức độ kỹ năng tư duy phê phán của sinh viên. 306 sinh viên năm thứ nhất thuộc hệ thống trường Đại học Công nghệ Giao thông Vận tải thuộc ba tỉnh của Việt 5 Nam và các giáo viên tiếng Anh tương ứng sử dụng được phân tích chọn lựa dựa trên kỹ thuật phân tầng ngẫu nhiên . Các sinh viên được chọn trả lời bảng câu hỏi do giáo viên thiết kế và đã được xác nhận để đánh giá mức độ kỹ năng viết.Các giáo viên được yêu cầu trả lời một khảo sát kỹ năng nhận thức đánh giá qua bảng câu hỏi, cái mà họ dùng để đánh giá kỹ năng tư duy phê phán của sinh viên. Hai bảng câu hỏi là nguồn thu thập dữ liệu định lượng đã được phân tích thống kê. Các địa điểm nghiên cứu là các trường Đại học Công nghệ Giao thông Vận tải ở ba tỉnh (Hà Nội, Thái Nguyên, Vĩnh Yên) ở Việt Nam và nghiên cứu kéo dài sáu tháng kể từ tháng bảy đến tháng mười hai năm 2013. Thông tin nhân khẩu được thu thập từ các sinh viên và giáo viên thông qua các câu hỏi nhưng tên của họ không được tiết lộ. Những người đã được những người đang theo học một khóa học tiếng Anh. Những người trả lời là những sinh viên đang học tiếng Anh. Giáo viên trả lời khảo sát là giáo viên tham gia dạy và đánh giá sinh viên. Sinh viên tham gia trả lời câu hỏi được giới hạn là những sinh viên đang học chương trình tiếng Anh cơ bản trong giai đoạn khảo sát và giáo viên đang tham gia giản dạy trong giai đoạn khảo sát. Phương pháp nghiên cứu mô tả đã được sử dụng trong nghiên cứu để xác định mức độ kỹ năng viết và kỹ năng tư duy phê phán của sinh viên. Nghiên cứu này sử dụng bài kiểm tra cho sinh viên và bảng câu hỏi khảo sát cho hỏi giáo viên 6 CHƯƠNG II TÀI LIỆU VÀ NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN TÀI LIỆU VÀ NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN Phần này trình bày các tài liệu và nghiên cứu liên quan tới các chủ đề SƠ ĐỒ NGHIÊN CỨU Đầu vào Quá trình Sản phẩm Hình 1. Sơ đồ nghiên cứu Đề xuất hoạt động chức năng viết Đánh giá được thực hiện thông qua: Bài kiểm tra của giáo viên Bảng câu hỏi khảo sát A. Hồ sơ nhân khẩu của sinh viên: 1. giới tính 2. Trình độ học vấn của cha mẹ 3. Quê quán 4. Loại trường phổ thông đã học 5. Sinh viên tiếp xúc truền thông đa phương tiện B. Trình độ kỹ năng viết của sinh viên liên quan tới 1. chặt chẽ/mạch lạc 2. Thành phần ngữ pháp 3. Cơ chế 4. Hình thái học 5. Cú pháp D. Đánh giá của giáo viên về kỹ nằng tư duy phê phán của sinh viên liên quan: 1. Kỹ năng nhận thức 2. Tình cảm và 3. Luận điểm 7 CHƯƠNG III PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU THIẾT KẾ NGHIÊN CỨU Nghiên cứu này sử phương pháp thống kê mô tả để diễn giải các dữ liệu và đặc điểm của nghiên cứu. Theo Arriola (2006) nghiên cứu mô tả nhằm mô tả các hành vi đặc trưng của quần thể nghiên cứu cụ thể và dữ liệu được thu thập để mô tả các cá nhân, tổ chức và các hiện tượng. Nghiên cứu này được sử dụng loại bảng câu hỏi kết hợp giữa các câu hỏi khảo sát và thử nghiệm. Các đối tượng trả lời các câu hỏi sẽ được coi là dữ liệu sẽ được phân tích thống kê. Lấy mẫu có mục đích được lựa chọn trong quần thể mục tiêu nghiên cứu là những sinh viên năm thứ nhất đang học tiếng Anh cơ bản và giáo viên của những sinh viên đó để đánh giá nhận thức của sinh viên. ĐỐI TƯỢNG THAM GIA NGHIÊN CỨU Đối tượng nghiên cứu là 306 sinh viên năm thứ nhất đang học tiếng Anh cơ bản và 20 giáo viên ở ba cơ sở đào tạo thuộc hệ thống trường Đại học Công nghệ Giao thông Vận tải ở ba tỉnh của Việt Nam. CÔNG CỤ NGHIÊN CỨU Nghiên cứu được thực hiện sử dụng các công cụ thu thập dữ như: Bài kiểm tra được sử dụng để xác định mức độ thực hiện kỹ năng viết của sinh viên ở thành phần diễn thuyết như sự chặt chẽ và mạch lạc, thành phần ngữ pháp , cơ chế, hình thái và cú pháp. Bảng câu hỏi khảo sát được sử dụng để xác định nhận thức của giáo viên với mức độ tư duy phê phán của sinh viên ở kỹ năng nhận thức, tình cảm và bố cục. 8 QUY TRÌNH THU THẬP DỮ LIỆU Các bảng câu hỏi cho cả giáo viên và học sinh đều được khái niệm, thiết kế cho các mục đích nghiên cứu. Ngay sau khi bản dự thảo cuối cùng của bảng câu hỏi là một, câu hỏi của học sinh được dùng để thí nghiệm thí điểm ba mươi sinh viên năm thứ nhất, những người khôngnăm trong đối tượng được chọn làm nghiên cứu để xác định sức mạnh và điểm yếu của công cụ. Tương tự các câu hỏi giáo viên đã được trao cho hai mươi giáo viên tiếng Anh của trường Đại học bang Batangas với sự hỗ trợ của chuyên gia tư vấn cho ý kiến và góp ý để cải thiện hơn nữa các công cụ và hoặc mức độ phù hợp của các mục. Các câu hỏi đã được chỉnh lý theo ý kiến của các giáo viên tiếng Anh. Ngay sau khi được thực hiện, các lá thư yêu cầu sau đó được gửi đến các thành viên tham gia và chuyên gia về lĩnh vực này cho họ để xác nhận các nội dung của công cụ thu thập dữ liệu. Ngay sau khi các dụng cụ đã được kiểm tra bản cuối cùng của bảng câu hỏi được sản xuất. Một bức thư yêu cầu được viết và gửi cho các quản trị viên của các trường đại học cho phép triển khai các bảng câu hỏi cho cả giáo viên và học sinh. Với thư chấp thuận các yêu cầu, thử nghiệm được thực hiện với 306 viên và 20 giáo viên trong ba cơ sở đào tạo cụ thể là Hà Nội, Thái Nguyên và Vĩnh Yên, môi trường của nghiên cứu. Đối tượng sinh viên trả lời câu hỏi bài kiểm tra trong vòng một giờ. Khi tất cả các sinh viên thực hiện việc trả lời các bài kiểm tra,thì giáo viên cũng trả lời bảng khảo sát. Câu trả lời của học sinh được kiểm tra từng mục cùng với câu trả lời của giáo viên. Những số liệu này được thu thập sau đó được phân tích và diễn giải.. 9 SỬ LÝ SỐ LIỆU THỐNG KÊ phần mềm SSPS đã được sử dụng. Các công cụ thống kê sau đây được sử dụng trong nghiên cứu: Cronbach alpha. Công cụ này sử dụng để đo lường thống nhất các điểm số trước và sau của đối tượng nghiên cứu. Corelation. Công cụ này được thực hiện để xác định các mối quan hệ của các điểm số đánh giá của giáo viên và các kỹ năng của sinh viên. Mean. Công cụ này được sử dụng để xác định điểm số trung bình của học sinh trong các bài kiểm tra. Percentage. Tỷ lệ phần trăm được sử dụng để xác định độ lớn của tần số liên quan đến toàn bộ câu trả lời. Ranking. Xếp hạng được sử dụng để xác định tầm quan trọng về vị trí của các câu trả lời. 10 CHƯƠNG IV KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 1. Hồ sơ nhân khẩu học của sinh viên Hồ sơ nhân khẩu của 306 sinh viên về giới tính, trình độ học vấn của cha mẹ, quê quán, loại hình trường phổ thông đã học, và tiếp xúc với phương tiện truyền thông tiếng Anh được xác định thông qua bảng câu hỏi khảo sát. Về giới tính, đa số những người được hỏi là nam giới. Trong đó bao gồm 98 phần trăm hoặc 300 trên tổng dân số 306. Chỉ có sáu phái nữ hoặc 2 phần trăm. Hầu hết cha mẹ sinh viên ở trình độ khác hoặc cao hơn đại học là 48%. Tiếp theo là cấp ba với 41,5 phần trăm và cuối cùng của trung học 10,5 phần trăm. Đối với nơi xuất xứ, các sinh viên đến từ ít nhất 13 địa điểm khác nhau tại Việt Nam. 20,3 phần trăm đến từ những nơi khác nhau ở Việt Nam, tiếp đến là Hà Nội với 16 phần trăm, sau đó Nam Định với 4,6 phần trăm, sau đó bằng Vĩnh Phúc với 14,1 phần trăm, sau đó Thái Bình với 11,8 phần trăm, và phần còn lại từ 8 địa điểm khác nhau còn lại trong đó cho biết rằng ba cơ sở Đại học được nghiên cứu phục vụ cho sinh viên đến từ nhiều nơi khác nhau ở Việt Nam. Về loại trường phổ thông sinh viên đã học, phần lớn đến từ trường trung học công lập trong đó bao gồm 287 của 306 người trả lời hay 93,8 phần trăm. Chỉ có 6,2 phần trăm đến từ trường trung học tư thục. Điều này chỉ ra rằng các trường trung học công lập là tổ chức chính phục vụ cho các sinh viên. Trong tiếp xúc với phương tiện truyền thông 100 phần trăm học sinh đã tiếp xúc mà chỉ ra rằng các sinh viên không còn xa lạ đối với 11 ngôn ngữ tiếng Anh như các phương tiện truyền thông tiếng Anh hiện nay đã được phổ biến và có nhiều hình thức khác nhau và có nghĩa là sinh viên có tiếp xúc qua truyền hình, internet hoặc các bộ phim tiếng Anh nước ngoài, mà là nguồn phong phú của việc học các từ mới để mở rộng vốn từ vựng của họ và việc sử dụng những từ ngữ và cách phát âm chính xác của họ. 2. Mức độ kỹ năng viết tiếng Anh cơ bản của sinh viên. Mức độ kỹ năng viết của sinh viên được hỏi đã được xác định bằng cách sử dụng một bài kiểm tra giáo viên thực hiện dựa trên năm kỹ năng thành phần như thành luận điểm về sự chặt chẽ và mạch lạc, thành phần ngữ pháp, cơ chế, hình thái, và cú pháp. Đối với các thành phần luận điểm trung bình của mặt chính xác là 9.5 với một số điểm trung bình tương đương với 67,8% phần trăm là trên 50 phần trăm. Điều này chỉ ra rằng mức độ kỹ năng viết của sinh viên về các thành phần ngôn là trung bình cho tập hợp các số sinh viên. Trong thành phần ngữ pháp, số điểm trung bình của các mặt hàng chính xác là 6.6 với một số điểm trung bình% chính xác tương đương với 66,3 phần trăm. Giá trị này là trên 50 phần trăm cho thấy hiệu năng tốt hơn trong lĩnh vực kỹ năng thành phần này. Mức xếp hạng percentile là 35,3 phần trăm với một mô tả tương đương với "trung bình". Điều này chỉ ra rằng mức độ kỹ năng viết của học sinh về các thành phần ngữ pháp là trung bình cho tổng số sinh viên. Mặt khác điểm trung bình chính xác của người trả lời của học sinh trong thành phần cơ chế là 6,5 tương ứng với một số điểm trung bình% chính xác của 64,9 phần trăm. Điểm số này là trên 50 phần trăm và chỉ ra rằng hơn một nửa số sinh viên đã có thể đáp ứng một cách chính xác trong những mục này. 12 Trong thuật ngữ của các thành phần hình thái, sáu tiểu thành phần bao gồm hình vị, đồng âm, đồng nghĩa, trái nghĩa, từ ghép, thành phần từ và thành ngữ. Điểm số trung bình chính xác cho hình vị là 1.7 trong đó có phần trăm trung bình tương đương với 55,4 phần trăm. Đối với đồng âm, nó có thể được lưu ý rằng các điểm chính xác trung bình là 1,7% với trung bình tương đương với 58,3 phần trăm. Trong tiểu hợp phần từ cùng nghĩa, số điểm trung bình là 2.0 đúng tương ứng với trung bình % số điểm 65,5 phần trăm. Giá trị này là trên 50 phần trăm và cao so với giá trị thu được cho hình vị và đồng âm. Trong trường hợp của từ trái nghĩa , số điểm trung bình là 1.7 và có trung bình 56,4% số điểm phần trăm. Giá trị này là số lượng gần với giá trị cho hình vị và đồng âm. Điều này ngụ ý rằng hiệu suất của các sinh viên cho tiểu hợp phần này là trung bình. Đối với thành phần từ ghép, có thể được quan sát thấy rằng các điểm chính xác trung bình là 1,8% với trung bình tương đương với 60,6 phần trăm. Mô hình này cũng tương tự như hiệu suất của các học sinh trong các thành phần phụ của Từ đồng nghĩa, nơi hiệu suất của học sinh cũng là dưới mức trung bình cho tổng thể nghiên cứu. Trong thành phần thành ngữ, số điểm trung bình là 2.0 đúng tương ứng với một bình% số điểm 65,7 phần trăm. Nhìn vào hiệu suất tổng cộng của các học sinh dưới kỹ năng thành phần hình thái, số điểm trung bình là 1,8% với trung bình 60,3 điểm phần trăm. Mức xếp hạng percentile là 25,8 phần trăm tương ứng với một mô tả bằng lời nói của trung bình. Vì vậy, nói chung, hiệu suất của các sinh viên trong các kỹ năng thành phần của hình thái là trung bình cho dân số được đưa ra này. Đối với cú pháp, đúng số điểm trung bình là 5.4 với một số điểm trung bình% tương đương là 54,1 phần trăm. Mức xếp hạng phần 13 trăm tương ứng là 74,0 phần trăm và là trung bình chỉ ra rằng hiệu suất của học sinh nói chung trung bình cho tổng thể nghiên cứu. Điểm số độ lệch chuẩn là 9,7 phần trăm. 3. Giáo viên đánh giá kỹ năng phê phán của sinh viên Mười ba trong danh sách của 33 kỹ năng tư duy phê phán được phân loại như các kỹ năng nhận thức và hai mươi phân loại theo các kỹ năng tình cảm. 12 trong số 33 mục đạt được số điểm ít hơn 50 phần trăm. Năm trong số các mục này thuộc về các kỹ năng nhận thức trong khi bảy hạng mục còn lại thuộc về các kỹ năng tình cảm. Các kỹ năng phê phán mà hầu hết người được hỏi đồng ý thu hút được một số điểm là 19 hoặc 95 phần trăm thuộc về phân loại kỹ năng nhận thức. Tiếp theo là bốn kỹ năng mà xếp vị trí thứ 2 và tất cả thuộc về các kỹ năng phân loại tình cảm. Điều này phản ánh vào giá trị mà người trả lời đặt trên kỹ năng nhận thức trong việc đánh giá hiệu quả hoạt động của học sinh. Giáo viên được hỏi tin tưởng sự giúp đỡ tích cực sẽ giúp sinh viên phát triển các kỹ năng. Việc đánh giá các kỹ năng tư duy phê phán theo tần số sử dụng như cảm nhận của người trả lời giáo viên chỉ ra rằng các kỹ năng dao động trong tần số 2,20-3,95 với giá tương đương hiếm khi quá thường xuyên tương ứng. Có mười hạng mục kỹ năng thường được thực hiện bởi các sinh viên. Năm trong số đó là những kỹ năng nhận thức và năm kỹ năng là tình cảm. Điều này chỉ ra rằng cả hai loại kỹ năng tư duy phê phán được tốt như nhau luyện của sinh viên như cảm nhận của người trả lời giáo viên và có ý nghĩa hơn nữa mà hỏi giáo viên tin rằng sinh viên đã phát triển các kỹ năng trong việc đạt được sự hiểu biết đầy đủ về phát triển kỹ năng xã hội và hành vi có trách nhiệm. 14 Các kỹ năng tư duy phê phán tương tự đã được đánh giá bởi những người được hỏi là giáo viên theo mức độ của họ về tầm quan trọng của mà kết quả trong khoảng 2,45-4,25 với xếp hạng tương đương với ít quan trọng để vừa quan trọng tương ứng. Có 10 trong số 13 mặt hàng kỹ năng thuộc về các kỹ năng nhận thức được coi là khá quan trọng. Tương tự như vậy, có 9 trong số 20 mặt hàng kỹ năng thuộc về kỹ năng tình cảm được coi là quan trọng vừa phải. 4. Mối quan hệ liên quan tới mức độ kỹ năng viết với việc đánh giá kỹ năng tư duy phê phán của sinh viên. Đa số các p-giá trị của các kết hợp khác nhau có nghĩa là lớn hơn hoặc bằng 0,05 với 104 tổ hợp ra khỏi 165, cho thấy các phương tiện như không khác biệt đáng kể. Điều này ngụ ý rằng những kết hợp này có nghĩa là đó là mục suy nghĩ kỹ năng x bằng văn bản kỹ năng thành phần kiểm tra quan trọng là có liên quan về mặt thống kê. Ít hơn một nửa số kết hợp trung bình như 61 kết hợp ra 165 có p-giá trị dưới 0.05, cho thấy các phương tiện đang ngụ ý khác nhau đáng kể, đây là những thống kê không liên quan đến nhau. Có 22 mục kỹ năng đã được tìm thấy cho thấy mô hình này được thể hiện bằng các hộp bóng mờ. Tám trong số này thuộc về các kỹ năng nhận thức và 14 thuộc về tình cảm. Đối với kết hợp với giá trị trung bình, giá trị không khác biệt đáng kể, 25 trong số 65 kết hợp hay 38,5 phần trăm được nhận biết trong các kỹ năng nhận thức. Đối với các kỹ năng tình cảm, 36 trong số 100 kết hợp hoặc 36 phần trăm là người nhận biết. Điều này chỉ ra rằng cả về nhận thức và thành phần tình cảm của các kỹ năng tư duy phê phán thì cũng có liên quan đến trình độ trong các thành phần khác nhau của kỹ năng viết. 15 So sánh các giá trị p dưới 0,05 trong số các kỹ năng thành phần khác nhau của văn bản, nó có thể được quan sát thấy rằng thứ tự từ ít nhất là đến số lượng nhất của các mặt hàng, gồm: luận điểm, ngữ pháp, cơ chế, hình thái học và cú pháp. Như vậy, có thống kê nhiều mục liên quan giữa các kỹ năng tư duy phê phán và ba kỹ năng thành phần của văn bản, cụ thể là: luận điểm, ngữ pháp và cơ chế. 5. Các hoạt đọng chức năng dượcđề xuất để cải thiện kỹ năng tư duy phê phán của sinh viên. Các hoạt động chức năng viết được đề xuất như đầu ra của nghiên cứu là tập hợp các bài tập được thiết kế để nâng cao tư duy phê phán của học sinh đặc biệt là đối với số lượng sinh viên Việt Nam dựa trên các tiêu chí. Chúng bao gồm các thành phần văn bản kỹ năng mà học sinh thể hiện kém; cũng như có mối quan hệ có ý nghĩa thống kê với các kỹ năng tư duy phê phán. phần trăm và cuối cùng của trung học 10,5 phần trăm. 16 CHƯƠNG V TÓM TẮT, KẾT QUẢ, KẾT LUẬN VÀ ĐỀ SUẤT Tóm tắt Nghiên cứu này nhằm đánh giá các kỹ năng viết tiếng Anh và kỹ năng tư duy phê phán of sinh viên năm thứ nhất đại học tại Đại học Công nghệ Giao thông vận tải tại các tỉnh của Việt Nam với đề xuất hoạt động chức năng viết. Điều này đã tìm câu trả lời cho các câu hỏi sau: 1. Hồ sơ nhân khẩu học của sinh viên 1.1 Giới tính; 1.2 Trình độ học vấn của cha mẹ; 1.3 Quê quán; 1.4 Loại hình trường phổ thông đã học; 1.5 Tiếp xúc truyền thông đa phương tiện học tiếng Anh. 2. Yếu tố gì liên quan đến mức độ kỹ năng viết của sinh viên: 2.1 Thành phần luận điểm (chặt chẽ, mạch lạc) 2.2 Thành phần ngữ pháp; 2.3 Cơ chế; 2.4 Hình thái học; và 2.5 cú pháp? 3. Làm thế nào để giáo viên đánh giá kỹ năng phê phán của sinh viên? 4. Làm thế nào để so sánh mức độ kỹ năng viết của sinh viên với việc giáo viên đánh giá kỹ năng phê phán của sinh viên. 5. Hoạt động chức năng viết gì được đề xuất để phát triển kỹ năng viết và kỹ năng tư duy phê phán của sinh viên? The study made used of the descriptive method of research to determine the English writing skills and critical thinking skills of 17 Freshman college studentsin the University of Transport Technology in the three provinces of Vietnam. There were 306 students and 20 teachers who were the respondents of the study. The statistical tools used were: T-test. Các khái niệm được đưa vào trong các khung khái niệm như sau: Kỹ năng ngôn ngữ tiếng Anh Kỹ năng viết Kỹ năng tư duy phê phán Hoạt động chức năng viết tiếng Anh Nghiên cứu này sử dụng phương pháp thống kê mô tả để xác định kỹ năng viết kỹ năng viết tiếng Anh và kỹ năng tư duy phê phán của sinh viên năm thứ nhất đại học Đại học Công nghệ Giao thông vận tải tại các tỉnh của Việt Nam. Có 306 học sinh và 20 giáo viên là những người được hỏi trong nghiên cứu. Công cụ thống kê được sử dụng là: T-test. PHÁT HIỆN Dựa trên mục tiêu luận án, luận án phát hiện được những nọi dung sau: 1. Hồ sơ nhân khẩu học của sinh viên Về giới tính, đa số những người được hỏi là nam giới trong đó bao gồm 98 phần trăm hoặc 300 trên tổng dân số 306. Chỉ có sáu phái nữ hoặc 2 phần trăm. Về trình độ cha mẹ sinh viên, cha mẹ sinh viên có trình độ học vấn ở mức độ "khác" hay cao hơn đại học là 48,0 phần trăm. Tiếp theo là cấp ba là 41,5 phần trăm và cuối cùng của trung học là10,5 phần trăm. Không có phụ huynh ở trình độ tiểu học. 18 Đối với nơi xuất xứ, các sinh viên đến từ ít nhất 13 địa điểm khác nhau tại Việt Nam với đa số hoặc 20,3 phần trăm đến từ "khác" hay những nơi khác nhau ở Việt Nam, tiếp đến là Hà Nội với 16 phần trăm, sau đó Nam Định với 4,6 phần trăm, sau đó bằng Vĩnh Phúc với 14,1 phần trăm, sau đó bởi Thái Bình với 11,8 phần trăm, và phần còn lại từ 8 địa điểm khác. Loại trường phổ thông đã học, phần lớn sinh viên đến từ trường trung học công lập trong đó bao gồm 287 trong số 306 người trả lời hay 93,8 phần trăm. Chỉ có 6,2 phần trăm đến từ trường trung học tư thục. Trong tiếp xúc với phương tiện truyền thông 100 phần trăm sinh viên đã tiếp xúc 2. Mức độ kỹ năng viết của sinh viên trong tiếng Anh cơ bản Mức độ kỹ năng viết của sinh viên được hỏi đã được xác định bằng cách sử dụng một bài kiểm tra giáo viên thực hiện dựa trên năm kỹ năng thành phần như thành luận điểm về sự chặt chẽ và mạch lạc, thành phần ngữ pháp, cơ chế, hình thái, và cú pháp. Đối với các thành phần luận điểm, trung bình câu trả lời đúng là 9.5 với số điểm trung bình tương đương với 67,8% phần trăm là trên 50 phần trăm. Điều này chỉ ra rằng mức độ kỹ năng viết của sinh viên về các thành phần ngôn là trung bình. Trong thành phần ngữ pháp, trung bình của cáccâu trả lời đúng là 6.6 với trung bình phần trăm các câu đúng là 66,3 phần trăm. Giá trị này là trên 50 phần trăm cho thấy hiệu năng tốt hơn trong lĩnh vực kỹ năng thành phần này. Mặt khác, trong thành phần cơ chế trung bình sinh viên trả lời đúng là 6,5 tương ứng với một số điểm trung bình% chính xác của 64,9 phần trăm. Điểm số này là trên 50 phần trăm và chỉ ra rằng hơn 19 một nửa số sinh viên đã có thể đáp ứng một cách chính xác trong những mục này. Trong thuật ngữ của các thành phần hình thái, sáu tiểu thành phần bao gồm hình vị, đồng âm, đồng nghĩa, trái nghĩa, từ ghép, thành phần từ và thành ngữ. Nhìn vào hiệu suất tổng cộng của các sinh viên dưới kỹ năng thành phần hình thái, số điểm trung bình là 1,8% với trung bình 60,3 điểm phần trăm. Mức xếp hạng percentile là 25,8 phần trăm tương ứng với một mô tả bằng lời nói của trung bình. Vì vậy, nói chung, hiệu suất của các sinh viên trong các kỹ năng thành phần của hình thái là trung bình so với tổng thể nghiên cứu. Đối với cú pháp, đúng số điểm trung bình là 5.4 với một số điểm trung bình% tương đương là 54,1 phần trăm. Mức xếp hạng phần trăm tương ứng là 74,0 phần trăm và là trung bình chỉ ra rằng hiệu suất của sinh viên nói chung trung bình cho tổng thể nghiên cứu. Điểm số độ lệch chuẩn là 9,7 phần trăm. 3. Giáo viên đánh giá kỹ năng phê phán của sinh viên Mười ba trong danh sách của 33 kỹ năng tư duy phê phán được phân loại như các kỹ năng nhận thức và hai mươi phân loại theo các kỹ năng tình cảm. 12 trong số 33 mục đạt được số điểm ít hơn 50 phần trăm. Năm trong số các mục này thuộc về các kỹ năng nhận thức trong khi bảy hạng mục còn lại thuộc về các kỹ năng tình cảm. Các kỹ năng phê phán mà hầu hết người được hỏi đồng ý thu hút được một số điểm là 19 hoặc 95 phần trăm thuộc về phân loại kỹ năng nhận thức. Tiếp theo là bốn kỹ năng mà xếp vị trí thứ 2 và tất cả thuộc về các kỹ năng phân loại tình cảm. Điều này phản ánh vào giá trị mà người trả lời đặt trên kỹ năng nhận thức trong việc đánh giá hiệu quả hoạt động của học sinh. Giáo viên được hỏi tin tưởng sự giúp đỡ tích cực sẽ giúp sinh viên phát triển các kỹ năng. 20 Việc đánh giá các kỹ năng tư duy phê phán theo tần số sử dụng như cảm nhận của người trả lời giáo viên chỉ ra rằng các kỹ năng dao động trong tần số 2,20-3,95 với giá tương đương hiếm khi quá thường xuyên tương ứng. Có mười hạng mục kỹ năng thường được thực hiện bởi các sinh viên. Năm trong số đó là những kỹ năng nhận thức và năm kỹ năng là tình cảm. Điều này chỉ ra rằng cả hai loại kỹ năng tư duy phê phán được tốt như nhau luyện của sinh viên như cảm nhận của người trả lời giáo viên và có ý nghĩa hơn nữa mà hỏi giáo viên tin rằng sinh viên đã phát triển các kỹ năng trong việc đạt được sự hiểu biết đầy đủ về phát triển kỹ năng xã hội và hành vi có trách nhiệm. Các kỹ năng tư duy phê phán tương tự đã được đánh giá bởi những người được hỏi là giáo viên theo mức độ của họ về tầm quan trọng của mà kết quả trong khoảng 2,45-4,25 với xếp hạng tương đương với ít quan trọng để vừa quan trọng tương ứng. Có 10 trong số 13 mặt hàng kỹ năng thuộc về các kỹ năng nhận thức được coi là khá quan trọng. Tương tự như vậy, có 9 trong số 20 mặt hàng kỹ năng thuộc về kỹ năng tình cảm được coi là quan trọng vừa phải. 4. Mối quan hệ liên quan tới mức độ kỹ năng viết với việc đánh giá kỹ năng tư duy phê phán của sinh viên. Đa số các p-giá trị của các kết hợp khác nhau có nghĩa là lớn hơn hoặc bằng 0,05 với 104 tổ hợp ra khỏi 165, cho thấy các phương tiện như không khác biệt đáng kể. Điều này ngụ ý rằng những kết hợp này có nghĩa là đó là mục suy nghĩ kỹ năng x bằng văn bản kỹ năng thành phần kiểm tra quan trọng là có liên quan về mặt thống kê. Ít hơn một nửa số kết hợp trung bình như 61 kết hợp ra 165 có p-giá trị dưới 0.05, cho thấy các phương tiện đang ngụ ý khác nhau đáng kể, đây là những thống kê không liên quan đến nhau. Có 22 mục kỹ năng đã được tìm thấy cho thấy mô hình này được thể hiện bằng các 21 hộp bóng mờ. Tám trong số này thuộc về các kỹ năng nhận thức và 14 thuộc về tình cảm. Đối với kết hợp với giá trị trung bình, giá trị không khác biệt đáng kể, 25 trong số 65 kết hợp hay 38,5 phần trăm được nhận biết trong các kỹ năng nhận thức. Đối với các kỹ năng tình cảm, 36 trong số 100 kết hợp hoặc 36 phần trăm là người nhận biết. Điều này chỉ ra rằng cả về nhận thức và thành phần tình cảm của các kỹ năng tư duy phê phán thì cũng có liên quan đến trình độ trong các thành phần khác nhau của kỹ năng viết. So sánh các giá trị p dưới 0,05 trong số các kỹ năng thành phần khác nhau của văn bản, nó có thể được quan sát thấy rằng thứ tự từ ít nhất là đến số lượng nhất của các mặt hàng, gồm: luận điểm, ngữ pháp, cơ chế, hình thái học và cú pháp. Như vậy, có thống kê nhiều mục liên quan giữa các kỹ năng tư duy phê phán và ba kỹ năng thành phần của văn bản, cụ thể là: luận điểm, ngữ pháp và cơ chế. 5. Các hoạt động chức năng được đề xuất để cải thiện kỹ năng tư duy ph

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdftom_tat_luan_an_ky_nang_viet_tieng_anh_va_ky_nang_tu_duy_phe.pdf
Tài liệu liên quan