Lời nói đầu
Mua bán hàng hoá là hoạt động chủ yếu trong giao lưu thương mại quốc tế. Xã hội càng phát triển, hoạt động giao lưu mua bán hàng hoá cũng đồng thời phát triển phong phú đa dạng và càng mạnh mẽ hơn. Trong mua bán hàng hoá, có một mảng hoạt động rất quan trọng, chiếm một tỉ trọng đáng kể, không thể thiếu được trong tiến trình thúc đẩy xã hội phát triển, nhất là trong thời đại ngày nay, đó là hoạt động mua bán hàng hoá giữa các thương nhân ở các quốc gia khác nhau. Hợp đồng mua bán hà
85 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1462 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Tổ chức thực hiện hợp đồng mua bán ngoại thương, thực trạng và giải pháp để tăng cường tính hiệu quả trong việc thực hiện hợp đồng ngoại thương ở Việt Nam lấy ví dụ ở Công ty VIMEDIMEX (84tr), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng hoá quốc tế là hình thức pháp lý thể hiện hoạt động phức tạp đó.
ở Việt Nam, từ khi có Luật Thương mại 1997, đã tạo điều kiện rất thuận lợi về cơ chế pháp lý chính thức cho hoạt động mua bán hàng hoá quốc tế. Đó là cơ sở để ký kết và thực hiện hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế giữa thương nhân Việt Nam và thương nhân nước ngoài, trong đó việc thực hiện hợp đồng ngoại thương là điều mà các bên quan tâm nhất. Vì vậy việc đi sâu nghiên cứu quy trình thực hiện hợp đồng ngoại thương và thực tế phát sinh là hết sức cấp thiết có ý nghĩa quan trọng cả trên phương diện lý luận lẫn thực tiễn. Đó là lý do tại sao em lại chọn đề tài: “Tổ chức thực hiện hợp đồng mua bán ngoại thương, thực trạng và giải pháp để tăng cường tính hiệu quả trong việc thực hiện hợp đồng ngoại thương ở Việt Nam lấy ví dụ ở công ty VIMEDIMEX”
Mục đích của khoá luận tốt nghiệp này nhằm phân tích và làm sáng tỏ quy trình thực hiện hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế và những thực tế phát sinh trong quá trình thực hiện hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế ở Việt Nam, là giúp cho các tác nhân có liên quan nắm vững vấn đề lý luận và những điểm nổi cộm trong thực tiễn của việc thực hiện hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế, từ đó có những giải pháp hữu hiệu nhằm hạn chế đến mức thấp nhất những vướng mắc, sự cố đáng tiếc, gây thiệt hại đến lợi ích hợp pháp của các chủ thể hợp đồng. Hơn nữa, khoá luận còn nhằm hoàn thiện quy trình thực hiện hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế, giữ vững uy tín kinh doanh của các doanh nghiệp Việt Nam với bạn hàng quốc tế, tạo điều kiện có thêm bạn hàng mới góp phần đưa nền kinh tế Việt Nam tiến sâu vào quá trình hội nhập kinh tế thế giới.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của khoá luận này là về quy trình thực hiện hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế ở Việt Nam và những thực tế phát sinh cần chú ý trong quá trình thực hiện. Khoá luận cũng nghiên cứu việc thực hiện hợp đồng ngoại thương ở công ty VIMEDIMEX như một ví dụ cụ thể, sinh động về thực tế thực hiện hợp đồng ngoại thương ở Việt Nam. Khoá luận có tham khảo, đối chiếu với Luật Thương mại Việt Nam 1997, Công ước Viên 1980 và một số tài liệu liên quan khác.
Khoá luận được kết cấu thành những phần sau:
Lời nói đầu
Chương 1: Khái quát chung về hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế
Chương 2: Quy trình thức hiện hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế và thực tiễn ở Việt Nam, lấy ví dụ ở công ty VIMEDIMEX
Chương 3: Một số giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế ở Việt Nam và công ty VIMEDIMEX.
Kết luậnCHƯƠNG 1:Khái Quát Chung Về Hợp Đồng MUA BáN hàng hoá quốc tế
I- Khái niệm và đặc điểm của hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế
1-Khái niệm hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế
Hợp đồng thương mại quốc tế (hay còn gọi là hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế; hợp đồng ngoại thương; hợp đồ
ng xuất nhập khẩu) trước hết là hợp đồng mua bán, nghĩa là “sự thoả thuận” giữa ít nhất hai bên trong đó một bên là người bán) có nghĩa vụ chuyển vào quyền sở hữu của bên kia (là người mua) một tài sản nhất định gọi là hàng hoá, còn bên kia có nghĩa vụ nhận hàng hoá và trả cho người bán một số tiền ngang bằng giá trị của hàng hoá đã nhận. Sự thoả thuận này có thể bằng miệng, có thể bằng văn bản tuỳ theo pháp luật của từng nước qui định. Tuy nhiên pháp luật Việt Nam không thừa nhận thoả thuận bằng miệng là hợp pháp.
Giống như các hợp đồng mua bán hàng hoá thông thường khác, hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế cũng là sự thoả thuận giữa ít nhất hai bên về việc chuyển giao quyền sở hữu hàng hoá từ người bán sang người mua và việc thanh toán tiền hàng từ người mua sang người bán. Tuy nhiên, hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế khác hợp đồng mua bán hàng hoá thông thường ở chỗ nó có mang tính chất quốc tế (hay còn gọi là yếu tố nước ngoài). Tính chất quốc tế này được hiểu không giống nhau tuỳ theo luật của từng nguồn luật.
Điều 1 của Công ước Lahaye năm 1964 về hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế những động sản hữu hình qui định rằng hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế là tất cả những hợp đồng mua bán trong đó các bên kí kết có trụ sở thương mại đặt ở các nước khác nhau và hàng hoá được chuyển từ nước này sang nước khác hoặc là việc kí hợp đồng giữa các bên được thực hiện ở những nước khác nhau. Như vậy, theo qui định của Công ước này thì tính chất quốc tế của hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế bao gồm:
Chủ thể kí kết hợp đồng là các bên có trụ sở thương mại đặt ở các nước khác nhau.
Hàng hoá là đối tượng của hợp đồng đươc di chuyển từ nước này sang nước khác.
Chào hàng và chấp nhận chào hàng được lập ở các nước khác nhau. Nếu các bên kí kết không có trụ sở thương mại thì sẽ căn cứ vào nơi cư trú của họ. Vấn đề quốc tịch của các bên không có ý nghĩa trong việc xác định yếu tố nước ngoài trong hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế.
Theo Công ước Viên năm 1980 của Liên hợp quốc về hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế, tiêu chuẩn duy nhất để khẳng định tính chất quốc tế của hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế là các bên kí kết hợp đồng có trụ sở thương mại ở các nước khác nhau (Điều 1 CƯ Viên 1980).
Như vậy, ở Công ước Viên 1980, vấn đề quốc tịch của chủ thể kí kết hợp đồng với vấn đề hàng hoá là đối tượng hợp đồng phải chuyển từ nước này sang nước khác không được quan tâm đến khi xác định yếu tố nước ngoài của hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế.
Theo Luật Thương mại Pháp, khi xác định yếu tố nước ngoài của hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế phải căn cứ vào tiêu chuẩn kinh tế và tiêu chuẩn pháp lý. Theo tiêu chuẩn kinh tế, một hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế là hợp đồng tạo ra sự di chuyển qua lại biên giới các giá trị trao đổi tương ứng giữa hai nước. Theo tiêu chuẩn pháp lý, một hợp đồng được coi là có tính chất quốc tế nếu nó bị chi phối bởi các tiêu chuẩn pháp lý của nhiều quốc gia khác nhau như quốc tịch của các bên, nơi cư trú của các bên, nơi thực hiện nghĩa vụ hợp đồng, nguồn vốn thanh toán...
ở Việt Nam, trước khi có Luật Thương mại năm 1997, khái niệm hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế được thể hiện trong qui chế tạm thời số 4974/TN-XNK, ngày 31/7/1991 của Bộ thương nghiệp (nay là Bộ Thương mại). Qui chế đó đưa ra ba tiêu chuẩn để một hợp đồng mua bán hàng hoá được thừa nhận là có tính chất quốc tế, đó là:
Chủ thể của hợp đồng là các bên có quốc tịch khác nhau.
Hàng hoá là đối tượng hợp đồng thông thường được di chuyển từ nước này sang nước khác.
Đồng tiền thanh toán trong hợp đồng là ngoại tệ đối với một trong hai nước.
Cũng cần thấy rằng, việc hình thành các Khu chế xuất ở Việt Nam cùng với các qui chế đặc biệt của Khu chế xuất thì tiêu chuẩn qui định về việc di chuyển hàng hoá qua biên giới là không còn thích hợp.
Luật Thương mại Việt Nam năm 1997 không đưa ra các tiêu chuẩn cụ thể về hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế mà chỉ đưa ra khái niệm về hợp đồng mua bán hàng hoá với thương nhân nước ngoài. Theo đó, hợp đồng mua bán hàng hoá với thương nhân nước ngoài là hợp đồng mua bán hàng hoá được kí kết giữa một bên là thương nhân Việt Nam với một bên là thương nhân nước ngoài.
Như vậy, cho đến nay luật pháp của các nước cũng như các điều ước quốc tế chưa có quan niệm thống nhất về hợp đồng này. Vì vậy khi kí kết hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế phải thoả thuận nguồn luật áp dụng vào hợp đồng đó, từ đó nghiên cứu nguồn luật áp dụng nhằm đảm bảo tính pháp lý của hợp đồng.
2. Đặc điểm của hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế
2.1 Hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế chứa đựng những đặc điểm của hợp đồng mua bán hàng hoá nói chung, đó là:
- Là một hợp đồng song vụ: Nghĩa là các bên trong hợp đồng đều có quyền lợi và nghĩa vụ.
- Là một hợp đồng hẹn ước: Có nghĩa là quyền lợi và nghĩa vụ của các bên phát sinh ngay sau khi hợp đồng được kí kết.
- Là một hợp đồng có tính chất đền bù: Có nghĩa là quyền lợi và nghĩa vụ của các bên luôn đi kèm với nhau.
2.2. Yếu tố nước ngoài của hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế
Ngoài những đặc điểm cơ bản trên, hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế còn có những đặc điểm riêng để phân biệt với hợp đồng mua bán hàng hoá nói chung. Đó chính là yếu tố nước ngoài thể hiện ở các dấu hiệu sau đây:
Chủ thể của hợp đồng có trụ sở thương mại đặt ở các nước khác nhau
Chủ thể là các cá nhân, pháp nhân muốn tham ra kí kết và thực hiện hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế phải có đủ tư cách pháp lý và năng lực hành vi. Về nguyên tắc năng lực hành vi do luật quốc tịch của nước họ qui định: qui định về năng lực hành vi cho thể nhân và cho pháp nhân.
Như vậy, để xem xét tư cách pháp lý của một pháp nhân thì cần xem pháp nhân đó mang quốc tịch nào, sau đó căn cứ vào luật pháp của nước đó để xác định năng lực hành vi cụ thể của pháp nhân đó.
Nói chung, dù các bên là pháp nhân hay thể nhân thì chủ thể hợp đồng thường là các bên có trụ sở ở các nước khác nhau (trừ doanh nghiệp trong khu chế xuất).
Hàng hoá - đối tượng hợp đồng có thể được di chuyển ra khỏi biên giới quốc gia, hoặc từ khu vực pháp lý này sang khu vực pháp lý khác.
Hàng hoá thường được di chuyển ra khỏi biên giới quốc gia hoặc di chuyển sang khu vực pháp lý khác. Nghĩa là hàng hoá được di chuyển từ nước nay sang nước khác hoặc những khu vực pháp lý không phải là khu vực hành chính riêng nhưng được đặt dưới một loạt các qui chế riêng biệt khi có sự trao đổi hàng hoá với bên ngoài (khu chế xuất). Các khu vực pháp lý phải được hiểu là các khu vực chịu sự điều chỉnh của những qui định pháp luật khác nhau. Ranh giới giữa các khu vực pháp lý có thể là biên giới quốc gia hoặc là ranh giới ngăn cách giữa khu chế xuất với phần con lại của lãnh thổ một quốc gia.
Sở dĩ có khái niệm khu vực pháp lý là do sự xuất hiện và ngày càng phát triển mở rộng của các khu chế xuất (Là các khu công nghiệp tập chung chuyên sản xuất hàng hoá xuất khẩu, được hoạt động theo qui chế khu chế xuất, điều 1, qui chế khu chế xuất tại Việt Nam). Theo qui chế này, khu chế xuất nằm trong phạm vi lãnh thổ quốc gia, song nếu hàng hoá là đối tượng hợp đồng mua bán được di chuyển qua ranh giới pháp lý ngăn cách khu chế xuất với phần lãnh thổ còn lại của quốc gia thì đó cũng được coi là biểu hiện về tính chất quốc tế của hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế, với chủ thể là một doanh nghiệp trong nước còn bên kia là các doanh nghiệp khu chế xuất.
Tiền tệ thanh toán giữa người mua, người bán có thể là ngoại tệ đối với một trong hai bên.
Luật áp dụng trong hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế mang tính chất phức tạp, đa dạng, nó bao gồm: Luật quốc gia, Điều ước quốc tế, Tập quán thương mại quốc tế, án lệ.
Tranh chấp phát sinh từ xung quanh việc kí kết và thực hiện hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế có thể do toà án của một nước hoặc do trọng tài quốc tế xét xử.
Cơ quan giải quyết tranh chấp có thể là toà án thương mại, trọng tài thương mại mang tính chất quốc tế với ít nhất một trong hai bên.
Ngoài những đặc điểm cơ bản trên, hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế cũng giống như hợp đồng mua bán hàng hoá thông thường trong nước còn mang đặc điểm nữa là: Tính chất thương mại, tính chất kinh doanh, nghĩa là mục đích của hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế mang tính chất kinh doanh, lợi nhuận.
II- Các khía cạnh pháp lý của hợp đồng mua bán ngoại thương
1. Điều kiện hiệu lực của hợp đồng mua bán ngoại thương
Theo điều 81 của Luật Thương Mại Việt Nam hợp đồng mua bán ngoại thương có hiệu lực khi có đủ các điều kiện sau:
Chủ thể của hợp đồng là bên mua và bên bán phải có đủ tư cách pháp lý
Chủ thể bên nước ngoài là thương nhân và tư cách pháp lý của họ được xác định theo căn cứ theo pháp luật của nước mà thương nhân đó mang quốc tịch.
Luật quốc tịch của các quốc gia khác nhau qui định khác nhau về điều kiện tư cách pháp lý của thương nhân. Theo Luật thương mại Việt Nam 1997 qui định “Thương nhân gồm các cá nhân, pháp nhân, các tổ chức hợp tác, hộ gia đình có đăng ký kinh doanh hoạt động thương mại một cách độc lập và thường xuyên”.
Chủ thể bên Việt Nam phải là thương nhân được phép hoạt động trực tiếp với nước ngoài.
Trước đây chính phủ chỉ cho phép một số thành phần kinh tế được phép ký kết hợp đồng trực tiếp với nước ngoài: Các doanh nghiệp nhà nước, các công ty TNHH, công ty liên doanh...tuy nhiên có một loại hình công ty tư nhân lại không được phép xuất nhập khẩu trực tiếp bởi theo Luật doanh nghiệp Việt Nam thì công ty tư nhân không có tư cách pháp nhân, mà loại hình công ty này đã phát triển rất nhiều ở Việt Nam trong những năm gần đây. Các công ty này muốn ký kết hợp đồng xuất nhập khẩu phải thông qua một công ty uỷ thác hoặc phải chuyển đổi loại hình doanh nghiệp.
Hàng hoá theo hợp đồng là hàng hoá được phép mua bán theo qui định của luật nước bên mua và luật nước bên bán
Theo Quyết định số 46/2001/QĐ_TTg ngày 04/04/2001 của Thủ tướng chính phủ về quản lý xuất nhập khẩu hàng hoá thời kì 2001-2005 thì những mặt hàng cấm xuất khẩu gồm:
- Vũ khí, đạn dược, vật liệu nổ, (trừ vật liệu nổ công nghiệp)
- Đồ cổ
- Các loại ma tuý.
- Các loại hoá chất độc hại.
- Gỗ tròn, gỗ xẻ từ gỗ rừng tự nhiên trong nước, củi than làm từ gỗ hoặc củi, có nguồn gốc tự nhiên trong nước.
- Các loại động vật hoang dã và động vật quí hiếm tự nhiên.
- Các loại máy, mã chuyên dụng và các chương trình phần mềm mật mã sử dụng trong phạm vi bảo vệ bí mật của nhà nước.
Những hàng hoá cấm nhập khẩu gồm có:
- Vũ khí, đạn dược, vật liệu nổ, (trừ vật liệu nổ công nghiệp theo qui định của thủ tướng chính phủ theo văn bản số 1535/CP- KTTH ngày 28/12/1998).
- Các loại ma tuý.
- Các loại hoá chất độc hại.
- Sản phẩm văn hoá đồi truỵ, phản động, đồ chơi trẻ em có ảnh hưởng xấu đến giáo dục nhân cách và trật tự an toàn xã hội.
- Pháo các loại (trừ các loại pháo hiệu cho an toàn hàng hải và nhu cầu khác theo qui định riêng của thủ tướng chính phủ tại văn bản số 1383/CP-KTTH ngày 23/11/1998).
- Thuốc lá điếu, xì gà và các thuốc lá thành phẩm khác.
- Hàng tiêu dùng đã qua sử dụng, bao gồm các nhóm hàng:
• Hàng dệt may, giày dép, quần áo
• Hàng điện tử, điện lạnh
• Hàng trang trí nội thất
• Hàng gia dụng bằng gốm, sành sứ, cao su, chất dẻo và các vật liệu khác
- Vật tư, phương tiện đã qua sử dụng, gồm:
• Máy, khung, săm, lốp, phụ tùng, động cơ đã qua sử dụng của ô tô, máy kéo và xe hai bánh, ba bánh gắn máy.
• Động cơ đốt trong đã qua sử dụng có công suất từ 30CV trở xuống
• Khung gầm đã qua sử dụng có gắn động cơ đã qua sử dụng.
• Xe đạp đã qua sử dụng
• Xe hai bánh, ba bánh đã qua sử dụng.
• Ô tô vận chuyển hành khách trên 16 chỗ ngồi, loại đã qua sử dụng quá 5 năm kể từ ngày nhập khẩu
- Phương tiện vận tải tay lái nghịch (kể cả tháo rời và dạng đã được chuyển đổi tay lái trước khi vào Việt Nam), trừ các loại phương tiện chuyên dùng, hoạt động trong phạm vi hẹp, gồm: xe chở rác và chất thải sinh hoạt, xe thi công mặt đường, xe chở khách trong sân bay và xe nâng hàng trong kho cảng.
- Sản phẩm, vật liệu có chứa amiăng thuộc nhóm amphibole.
- Các loại máy mã chuyên dụng và các chương trình phần mềm mật mã sử dụng trong phạm vi bảo vệ bí mật nhà nước.
Hợp đồng mua bán ngoại thương phải có các nội dung chủ yếu mà luật pháp đã qui định
Theo điều 50 của luật thương mại, hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế phải có các nội dung chủ yếu sau:
• Tên hàng
• Số lượng
• Qui cách phẩm chất
• Giá cả
• Phương thức thanh toán
• Địa điểm và thời gian giao nhận
Ngoài ra các bên còn có thể thoả thuận thêm những nội dung, những điều khoản khác cho hợp đồng như điều khoản về bảo hiểm, điều khoản về khiếu nại, điều khoản trọng tài…Tuy nhiên các điều khoản náy không phải là điều khoản bắt buộc trong hợp đồng ngoại thương.
Hình thức của hợp đồng phải là văn bản
Theo luật Việt Nam, Hợp Đồng Thương Mại Quốc phải được làm bằng văn bản, thư từ điện tín, telex, fax cũng được coi là văn bản. Mọi hình thức thoả thuận miệng đều không có hiệu lực. Mọi sửa đổi bổ sung cũng phải được làm bằng văn bản.
Ngoài ra, hợp đồng phải được kí kết trên nguyên tắc tự nguyện:
- Nguyên tắc tự nguyện cho phép các bên được hoàn toàn tự do thoả thuận về mọi vấn đề liên quan đến quyền và nghĩa vụ của các bên trong khuôn khổ pháp luật.
- Nguyên tắc tự nguyện loại bỏ tất cả các hợp đồng được ký kết trên cơ sở dùng bạo lực, bị đe doạ, bị lừa bịp hoặc do có sự nhầm lẫn.
2. Nội dung chủ yếu của hợp đồng thương mại quốc tế.
2.1. Cấu trúc của một hợp đồng thương mại quốc tế.
Một hợp đồng thương mại quốc tế thường gồm hai phần chính: Những điều trình bày chung và các điều khoản của hợp đồng.
Phần trình bày chung bao gồm:
Số hiệu của hợp đồng: Đây không phải là nội dung pháp lý bắt buộc của hợp đồng. Nhưng nó tạo điều kiện thuận lợi trong quá trình kiểm tra, giám sát, điều hành và thực hiện hợp đồng của các bên.
Địa điểm và ngày tháng kí kết hợp đồng: Nội dung này có thể ở đầu hoặc ở cuối hợp đồng. Nếu như trong hợp đồng không có thoả thuận gì thêm thì hợp đồng sẽ có hiệu lực pháp lý kể từ ngày kí kết.
Các định nghĩa dùng trong hợp đồng:
Trong trường hợp có thể sử dụng các thuật ngữ, mà các thuật ngữ này ở các quốc gia khác nhau có thể sẽ được hiểu theo nghĩa khác nhau. Để tránh những hiểu nhầm, những thuật ngữ hay những vấn đề quan trọng thường phải được định nghĩa.
Cơ sở pháp lý để kí kết hợp đồng:
Đây có thể là các Hiệp định Chính phủ đã kí kết hoặc các Nghị định thư kí kết giữa các Bộ ở các quốc gia hoặc nêu ra sự tự nguyện thực sự của hai bên kí kết hợp đồng.
Phần các điều khoản của hợp đồng:
Người ta phải ghi rõ nội dung của từng điều khoản.
Theo mức độ quan trọng của các điều khoản có thể chia thành:
• Các điều khoản chủ yếu: là các điều khoản chủ yếu đối với hợp đồng mua bán, thiếu các điều khoản đó hợp đồng không có giá trị pháp lý. Theo Luật Thương mại Việt Nam, những nội dung có bản đó là:Tên hàng, số lượng, qui cách, chất lượng, giá cả, phương thức thanh toán, địa điểm và thời gian giao nhận hàng hoá.
• Các điều khoản khác: Là các các điểu khoản cần thiết cho hợp đồng nhưng nếu không có nó thì hợp đồng vẫn có hiệu lực pháp lý.
Theo tính chất của các điều khoản chia ra:
• Các điều khoản về hàng hoá như: Tên hàng, số lượng, chất lượng, bao bì, nhãn hiệu.
• Các điều khoản về tài chính như: Giá cả và cơ sở tính giá, về thanh toán.
• Các điều khoản về vận tải như: Điều kiện giao hàng, điều kiện thuê tàu.
• Các điều khoản pháp lý như: Luật áp dụng trong hợp đồng, khiếu nại, bất khả kháng, phạt và bồi thường thiệt hại, trọng tài, thời gian, hiệu lực của hợp đồng.
• Các điều khoản khác
2.2. Nội dung cơ bản của các điều khoản chủ yếu của hợp đồng
Điều khoản tên hàng.
Tên hàng là điều khoản cơ bản của hợp đồng mua bán ngoại thương, nó chỉ rõ đối tượng cần giao dịch, nó là đối tượng của hợp đồng, vì vậy người ta luôn chú trọng diễn đạt chính xác tên hàng. Nếu gồm nhiều mặt hàng chia thành nhiều loại với các đặc điểm khác nhau thì phải lập bảng liệt kê và ghi rõ trong hợp đồng để phụ lục thành một bộ phận của điều khoản tên hàng.
Có những cách để diễn đạt tên hàng như sau:
- Ghi tên thương mại của hàng hoá kèm theo tên thông thường và tên khoa học của hàng hoá.
- Ghi tên hàng kèm theo tên hãng sản xuất ra hàng hoá đó.
- Ghi tên hàng kèm theo nhãn hiệu của nó.
- Ghi tên hàng kèm theo quy cách chính của hàng hoá đó.
- Ghi tên hàng kèm theo công dụng của hàng hoá đó.
- Ghi tên hàng kèm theo số hiệu hạng mục của hàng hoá đó trong danh mục hàng hoá thống nhất.
- Ghi tên hàng kèm theo tên địa phương sản xuất ra hàng hoá đó.
Ngoài ra tuỳ vào từng hàng hoá, từng yêu cầu cụ thể mà người ta có thể kết hợp các cách diễn đạt trên với nhau.
Điều khoản về chất lượng.
Điều khoản nói lên tổng thể các chỉ tiêu, những đặc trưng của hàng hoá mua bán, thể hiện sự thoả mãn nhu cầu trong những điều kiện tiêu dùng nhất định, phù hợp với công dụng của hàng hoá và nó là cơ sở để hai bên mua bán giao nhận hàng.
Đặc biệt, khi xảy ra tranh chấp về chất lượng thì điều khoản chất lượng là cơ sở để kiểm tra, so sánh và giải quyết tranh chấp chất lượng. Do đó, tuỳ vào từng hàng hoá cần có phương pháp qui định chất lượng cho chính xác, phù hợp và tối ưu.
Người ta có thể qui định về chất lượng theo hàng mẫu, theo qui cách phẩm chất, theo chất lượng trung bình.
Điều khoản về số lượng
Đây là điều khoản không thể thiếu được trong hợp đồng mua bán ngoại thương, nó nói nên mặt lượng của hàng hoá giao dịch, điều khoản này bao gồm các vấn đề về đơn vị tính số lượng hoặc trọng lượng của hàng hoá, phương pháp qui định số lượng và phương pháp xác định trọng lượng.
Đơn vị tính số lượng: Trong mua bán ngoại thương thường sử dụng đơn vị đo chiều dài, đo thể tích, đo diện tích, dung tích, đo khối lượng và đơn vị tính số lượng tập hợp như tá (12 cái), gross (12 tá), đôi, bộ…
Phương pháp qui định số lượng: Trong thực tiễn mua bán ngoại thương người ta có thể qui định số lượng hàng hoá giao dịch bằng hai cách: bên bán và bên mua qui định cụ thể số lượng hàng hóa giao dịch hay qui định phỏng chừng, lúc này cần qui định người được phép lựa chọn dung sai về số lượng và giá cả tính cho số lượng hàng hoá đó.
Phương pháp xác định trọng lượng: Thường dùng các phương pháp trọng lượng cả bì, trọng lượng tịnh, trọng lượng thương mại, trọng lượng lý thuyết.
Điều khoản về bao bì, kí mã hiệu.
Điều khoản về bao bì có liên quan đến lợi ích các bên mua bán nên trong quá trình giao dịch đàm phán, hai bên phải thoả thuận được về điều khoản bao bì đồng thời cần ghi rõ ràng, cụ thể vào hợp đồng.
Điều khoản bao bì trong hợp đồng mua bán ngoại thương thường bao gồm những nội dung về: Yêu cầu chất lượng của bao bì, phương thức cung ứng bao bì và giá cả của bao bì.
Để qui định chất lượng của bao bì người ta có thể sử dụng một trong hai phương pháp:
• Qui định chất lượng bao bì phải phù hợp với một phương thức vận tải nào đó. Sự khác nhau về phương thức vận tải dẫn tới yêu cầu khác nhau về bao bì. Ví dụ như với vận chuyển bằng đường biển thì bao bì thường có hình dạng là hình hộp, có đủ độ bền chịu được sức ép của các hàng hoá khác chất xếp trong cùng một hầm tầu trong khi chuyên trở. Còn vận chuyển bằng đường sắt thì bao bì cần chắc chắn bởi hàng hoá có thể sẽ phải qua nhiều khâu sang toa, dịch chuyển. Đối với vận chuyển bằng đường không thì bao bì phải nhẹ có kích thước phù hợp với qui định của công ty hàng không.
• Qui định cụ thể về yêu cầu chất lượng đối với từng loại bao bì bên ngoài cũng như bao bì bên trong của hàng hoá. Những qui định này thường bao gồm các nội dung như: Yêu cầu về vật liệu bao bì, hình thức của bao bì, kích cỡ bao bì, số lớp của bao bì.
• Qui định về phương thức cung ứng bao bì thường tuỳ theo sự thoả thuận của các bên giao dịch, có thể là: Do bên bán cung cấp bao bì, bao bì kèm cùng hàng hoá giao cho bên mua, do bên bán cung ứng trước bao bì để đóng gói nhưng sau khi giao hàng, bên bán thu lại bao bì để tiếp tục sử dụng.
• Qui định về phương thức xác định giá cả bao bì: Nếu như bên bán chịu trách nhiệm cung cấp bao bì sau đó không thu hồi thì hai bên giao dịch thường phải thoả thuận với nhau về giá cả của bao bì theo các cách như: Giá cả bao bì được tính vào giá hàng hoá, giá của bao bì do bên mua trả riêng hoặc giá của bao bì được tính như giá hàng hoá.
Điều khoản về giá cả.
Trong hợp đồng mua bán ngoại thương, điều khoản này rất quan trọng bao gồm các nội dung như: Đồng tiền tính giá, phương pháp qui định giá và qui tắc giảm giá (nếu có).
Có các phương pháp qui định giá như sau:
• Giá cố định: Giá cả được qui định vào lúc kí hợp đồng và không được sửa đổi nếu không có sự thoả thuận khác.
• Giá quy định sau: Giá cả không được qui định vào lúc kí kết hợp đồng mà được xác định trong quá trình thực hiện hợp đồng. Trong hợp đồng, người ta chỉ thoả thuận với nhau một thời điểm nào đó và nguyên tắc nào đó để hai bên gặp nhau xác định giá.
• Giá linh hoạt: Là giá cả được xác định trong lúc kí kết hợp đồng nhưng có thể xem xét lại nếu sau này vào lúc giao hàng, giá thị trường của hàng hoá đó có sự biến động tới một mức nhất định. Trong trường hợp này, người ta thường phải thoả thuận với nhau nguồn tài liệu để phán đoán sự biến động của giá cả và thoả thuận mức chênh lệch tối đa giữa giá thị trường với giá hợp đồng, khi quá mức này có thể xét lại hợp đồng.
• Giá di động: Giá được tính dứt khoát vào lúc thực hiện hợp đồng trên cơ sở giá qui định ban đầu, có đề cập đến những biến động về chi phí sản xuất trong thời kì thực hiện hợp đồng. Trong trường hợp này khi kí kết hợp đồng, người ta qui định một giá ban đầu gọi là giá cơ sở và qui định cơ cấu của giá đó như (lợi nhuận, chi phí khấu hao, tạp phí...) đồng thời qui định phương pháp tính toán giá di động sẽ được áp dụng.
• Giảm giá (chiết khấu): Là chỉ khoản cắt giảm % nhất định cho bên mua theo nguyên giá của bên bán. Giảm giá có thể do: Giảm giá do trả tiền sớm, giảm giá thời vụ, giảm giá đổi hàng củ để mua hàng mới, giảm giá đối với thiết bị dùng rồi, giảm giá tặng thưởng.
Điều khoản thanh toán
Điều khoản này qui định các đồng tiền thanh toán, thời hạn thanh toán, địa điểm thanh toán, phương thức thanh toán, bộ chứng từ dùng cho thanh toán. Đây là điều khoản rất quan trọng và được các bên quan tâm, nếu lựa chọn các điều kiện thanh toán thích hợp thì sẽ giảm được chi phí và rủi ro cho mỗi bên.
Điều khoản giao hàng.
Điều khoản này qui định số lần giao hàng, thời gian giao hàng, địa điểm giao hàng, ga (cảng) đi, ga (cảng) đến, ga (cảng) thông qua, phương thức giao nhận, thông báo giao hàng, số lần thông báo, thời điểm thông báo, nội dung thông báo và một số qui định khác về việc giao hàng.
+ Thời gian giao hàng: Là thời hạn mà người bán phải hoàn thành nghĩa vụ giao hàng. Nếu các bên giao dịch không có thoả thuận nào khác, thời hạn giao hàng này cũng là lúc di chuyển rủi ro và tổn thất về hàng hoá từ người bán sang người mua. Thời hạn giao hàng có thể được qui định theo các phương pháp như:
- Thời hạn giao hàng có định kì: Vào một ngày cố định, vào một ngày được coi là ngày cuối cùng của thời hạn giao hàng, vào một khoảng thời gian như tháng 11/2003, quýIII/2003), vào một khoảng thời gian nhất định theo qui định của hai bên.
- Thời hạn giao hàng ngay: các bên giao dịch có thể thoả thuận giao nhanh, giao ngay lập tức, giao càng sớm càng tốt.
+ Địa điểm giao hàng: việc lựa chọn địa điểm giao hàng có liên quan chặt chẽ đến phương thức chuyên chở hàng hoá và điều kiện cơ sở giao hàng. Mặc dù, nói chung điều kiện cơ sở giao hàng đã xác định rõ địa điểm giao hàng, ví dụ: Khi thoả thuận giao hàng theo điều kiện FOB Hải Phòng thì địa điểm giao hàng đã được xác định rõ rồi. Tuy nhiên, có những điều kiện cơ sở giao hàng chỉ xác định cảng đến mà không xác định cảng đi (Ví dụ điều kiện CIF, CFR) hoặc có trường hợp hai bên có thể còn phải thoả thuận qui định địa điểm giao hàng.
Trong hợp đồng mua bán ngoại thương có các phương pháp qui định địa điểm giao hàng như: Qui định cảng (ga) giao hàng, cảng (ga) đến, cảng (ga) thông qua, qui định một cảng (ga) hay nhiều cảng (ga), qui định cảng (ga) bắt buộc hay cảng (ga) lựa chọn.
+ Phương thức giao nhận: Có nhiều phương thức giao nhận, người ta có thể qui định việc giao nhận tiến hành ở một nơi nào đó, là giao nhận sơ bộ hay cuối cùng. Trong đó, việc giao nhận sơ bộ thường được tiến hành ở ngay địa điểm sản xuất hoặc ở nơi gửi hàng nhằm bước đầu xem xét hàng hóa, xác định sự phù hợp về chất lượng và số lượng so với qui định trong hợp đồng. Còn giao nhận cuối cùng có mục đích xác nhận việc người bán hoàn thành nghĩa vụ giao hàng về các mặt chất lượng, số lượng hàng hoá, thời gian giao hàng, qua đó hai bên thừa nhận các kết quả kiểm tra hàng hoá đã lấy được ở nơi giao nhận cuối cùng.
Người ta cũng có thể qui định việc giao nhận được tiến hành ở một địa điểm nào đó là giao nhận về số lượng hay chất lượng. Giao nhận về số lượng là xác định số lượng thực tế của hàng được giao bằng các phương pháp cân đo, đong, đếm...Còn giao nhận về chất lượng là việc kiểm tra hàng hoá về tính năng, công dụng, hiệu suất, kích thước, về hình dáng, và các chỉ tiêu của hàng hoá để xác định sự phù hợp giữa chúng với các qui định của hợp đồng. Địa điểm giao nhận về số lượng, chất lượng phụ thuộc vào qui định của hợp đồng ví dụ như: Hợp đồng qui định “Số lượng qui định được xác định ở cảng đi nhưng chất lượng được xác định ở cảng đến”.
Điều khoản về trường hợp miễn trách.
Điều khoản này qui định vè những trường hợp được miễn trách hoặc hoãn thực hiện các nghĩa vụ của hợp đồng cho nên thường hay qui định: Nguyên tắc xác định các trường hợp miễn trách, liệt kê các sự kiện không được coi là miễn trách. Qui định trách nhiệm và quyền lợi của mỗi bên khi xảy ra trường hợp miễn trách.
Có nhiều cách giải thích khác nhau về trường hợp miễn trách trong mua bán ngoại thương nhưng về nguyên tắc thì thống nhất ở những điểm sau:
• Sự cố bất ngờ phải xảy ra sau khi kí kết hợp đồng.
• Không phải do sai lầm hoặc sơ ý của bản thân đương sự hợp đồng gây nên.
• Trường hợp này phải có liên quan trực tiếp đến việc thực hiện hợp đồng.
• Sự cố bất ngờ là sự cố mà đương sự không thể khống chế, không đủ khả năng khống chế.
Điều khoản khiếu nại
Khiếu nại là việc một bên yêu cầu bên kia phải giải quyết những tổn thất hoặc thiệt hại mà bên kia đã gây ra hoặc về những sự vi pham điều đã được cam kết giữa hai bên.
Nội dung cơ bản của điều khoản khiếu nại bao gồm các vấn đề: Thể thức khiếu nại, thời hạn khiếu nại, quyền hạn và nghĩa vụ của các bên có liên quan đến việc khiếu nại, cách thức giải quyết khiếu nại.
Điều khoản bảo hành
Bảo hành là sự bảo đảm của người bán về chất lượng hàng hóa trong một thời gian nhất định. Thời hạn này gọi là thời hạn bảo hành. Thời hạn này được coi là thời hạn để người mua dành cho người mua phát hiện ra khuyết tật của hàng hoá.
Trong điều khoản bảo hành thường qui định thời hạn bảo hành, nội dung bảo hành và trách nhiệm mỗi bên trong mỗi nội dung bảo hành.
Điều khoản phạt và bồi thường thiệt hại.
Trong điều khoản này qui định các trường hợp phạt và bồi thường thiệt hại, cách thức phạt và bồi thường, trị giá phạt và bồi thường tuỳ theo từng hợp đồng có thể có riêng điều khoản phạt và bồi thường hoặc được kết hợp với điều khoản giao hàng, thanh toán.
Điều khoản trọng tài.
Điều khoản này qui định: khi xảy ra tranh chấp giữa các bên tham ra hợp đồng thì ai là người đứng ra phân xử, luật áp dụng vào việc xét xử, địa điểm tiến hành trọng tài, cam kết chấp hành tài quyết và phân định chi phí trọng tài.
Trê._.n đây là các điều khoản chủ yếu cơ bản nhất của một hợp đồng mua bán ngoại thương. Tuy nhiên trong thực tế, tuỳ thuộc vào từng hợp đồng cụ thể mà có thể thêm một số điều khoản khác như: Điều khoản bảo hiểm, điều khoản vận tải, điều khoản cấm chuyển tải và các điều khoản khác nữa...
3. Luật điều chỉnh hợp đồng mua bán ngoại thương.
Do có yếu tố nước ngoài, hợp đồng mua bán ngoại thương có nguồn luật điều chỉnh phức tạp hơn nhiều so với hợp đồng mua bán hàng hóa trong nước với 3 nguồn luật là:
- Điều ước quốc tế
- Luật quốc gia
- Tập quán thương mại quốc tế
Các tập quán thương mại quốc tế hầu như chỉ giữ vai trò bổ trợ, tham khảo. Tiền lệ, án lệ hay thực tiễn xét xử chỉ được thừa nhận như nguồn luật điều chỉnh ở một số nước như Anh, Mỹ.
3.1. Điều ước quốc tế.
Điều ước quốc tế là sự thoat thuận giữa các chủ thể của công pháp quốc tế, mà trước hết và chủ yếu là giữa các quốc gia trên cơ sở bình đẳng và tự nguyện nhằm thiết lập những nguyên tắc pháp lý bắt buộc để thay đổi hay huỷ bỏ quyền và nghĩa vụ với nhau. Sau khi đã tham gia vào Công ước quốc tế, các quốc gia phải thi hành. Điều ước quốc tế có giá trị áp dụng bắt buộc trên toàn lãnh thổ điều ước. Các qui phạm pháp luật quốc gia ban hành phải phù hợp với điều ước quốc tế, trong trường hợp có sự khác nhau, qui pham của điều ước quốc tế sẽ được áp dụng.
Có hai loại điều ước quốc tế:
• Điều ước quốc tế đề ra nguyên tắc pháp lý chung làm cơ sở lý luận cho hoạt động ngoại thương, có thể là song phương, đa phương, khu vực hay toàn cầu. Những điều ước này không điều chỉnh về quyền và nghĩa vụ trách nhiệm cụ thể của các bên trong hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế mà chỉ nêu những nguyên tắc pháp lý có tính chất chỉ đạo.
• Điều ước điều chỉnh đến những vấn đề liên quan đến quyền hạn và trách nhiệm của các bên trong quan hệ mua bán quốc tế, trong việc kí kết hợp đồng mua bán ngoại thương.
Pháp luật Việt Nam qui định:
• Đối với những điều ước quốc tế mà Việt Nam đã kí kết phê chuẩn thì sẽ áp dụng điều ước đó và có giá trị bắt buộc đối với những hợp đồng mua bán quốc tế do các cá nhân là các thương nhân và pháp nhân Việt Nam tham gia.
• Đối với những điều ước quốc tế về ngoại thương chưa được nhà nước Việt Nam kí kết phê chuẩn thì nó không có giá trị bắt buộc đối với các chủ thể là cá nhân, pháp nhân Việt Nam trong quan hệ mua bán quốc tế và Nhà nước qui định được áp dụng các điều khoản không trái với pháp luật Việt Nam.
3.2. Luật quốc gia
Luật quốc gia là luật của các quốc gia xây dựng lên. Các bên trong hợp đồng mua bán ngoại thương có thể thoả thuận áp dụng luật quốc gia khi điều ước quốc tế không qui định hoặc qui định nhưng chưa rõ ràng, cụ thể, không đề cập đến hết các quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ mua bán hàng hoá quốc tế.
Luật quốc gia có thể là luật của nước bên bán, bên mua hay của một quốc gia thứ ba nào đó tuỳ theo sự thoả thuận của các bên và nó được áp dụng để điều chỉnh các hợp đồng mua bán ngoại thương trong các trường hợp sau:
+ Các chủ thể tham gia hợp đồng mua bán ngoại thương khi đàm phán kí kết hợp đồng đã thoả thuận áp dụng luật quốc gia.
+ Khi hợp đồng mua bán ngoại thương đã được kí kết xong nhưng không qui định điều khoản áp dụng. Khi xảy ra tranh chấp hai bên thoả thuận sử dụng luật quốc gia để giải quyết.
+Khi luật đó được qui định trong các điều ước quốc tế.
3.3. Tập quán thương mại quốc tế.
Tập quán thương mại quốc tế là những thói quen thương mại được áp dụng trong một thời gian dài được các nước công nhận và áp dụng rộng rãi mà trên cơ sở đó có thể xác định quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia.
Thông thường các tập quán thương mại quốc tế được chia thành ba nhóm:
• Các tập quán có tính chất nguyên tắc: Là những tập quán cơ bản bao trùm được hình thành trên cơ sở của nguyên tắc tôn trọng chủ quyền và bình đẳng giữa các quốc gia.
• Tập quán thương mại chung: Là các tập quán thương mại được nhiều nước công nhận và áp dụng ở nhiều nơi, nhiều khu vực. Ví dụ các điều kiện thương mại quốc tế do Phòng Thương mại Quốc tế tập hợp và soạn thảo, gọi tắt là INCOTERM, trong đó qui định các điều kiện thương mại khác nhau như FOB, CIF, CFR...được nhiều nước trên thế giới công nhận và áp dụng.
• Tập quán thương mại khu vực: Là các tập quán thương mại được áp dụng ở từng nước, từng khu vực, từng cảng. Ví dụ, theo tập quán thương mại của cảng biển Hoa Kì thì điều kiện FOB qui định khác với những qui định của Incoterm do phòng thương mại quốc tế soạn thảo.
Tập quán mua bán ngoại thương được áp dụng trong hợp đồng mua bán ngoại thương trong các trường hợp sau:
• Khi chính trong hợp đồng mua bán ngoại thương qui định.
• Khi các điều ước quốc tế liên quan quy định.
• Khi các luật quốc gia do các bên thoả thuận và lựa chọn không có hoặc có nhưng không đầy đủ, còn nhiều thiếu sót, không điều chỉnh hết các vấn đề trong hợp đồng.
4. Chế độ trách nhiệm do vi phạm hợp đồng mua bán ngoại thương.
Khi vi phạm hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế bên vi phạm phải chịu trách nhiệm dân sự trước bên bị vi phạm. Trách nhiệm dân sự được biểu hiện thông qua bốn chế tài dân sự sau:
- Buộc thực hiện đúng hợp đồng.
- Phạt vi phạm.
- Bồi thường thiệt hại.
- Huỷ hợp đồng.
4.1. Buộc thực hiện đúng hợp đồng
Buộc thực hiện đúng hợp đồng là việc bên có quyền lợi bị vi phạm yêu cầu bên vi phạm thực hiện đúng hợp đồng hoặc dùng các biện pháp khác để hợp đồng được thực hiện và bên vi phạm phải chịu phí tổn phát sinh.
Trong trường hợp bên bán giao hàng không phù hợp với hợp đồng, người mua có thể yêu cầu người bán khắc phục điều đó bằng cách sửa chữa, trừ những trường hợp mà việc sửa chữa đó là không phù hợp với hoàn cảnh.
Nếu hàng hoá không phù hợp hợp đồng thì người mua cũng có thể đòi người bán phải giao hàng thay thế. Tuy nhiên, người mua sẽ mất quyền dựa vào sự không phù hợp của hàng hoá nếu họ không thông báo cho người bán những tin tức về việc không phù hợp đó trong một thời hạn hợp lý kể từ lúc người mua đã phát hiện hay đáng lẽ ra phải phát hiện ra sự không phù hợp đó.
Bên có quyền lợi bị vi phạm có thể gia hạn một thời gian hợp lý để bên vi phạm thực hiện nghĩa vụ của mình.
Trong trường hợp bên vi phạm không thực hiện chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng trong thời hạn ấn định, bên có quyền lợi bị vi phạm có thể áp dụng các chế tài phạt vi phạm, bồi thường thiệt hại, hoặc huỷ hợp đồng để bảo vệ quyền lợi chính đáng của mình.
4.2. Phạt vi phạm
Luật pháp của tất cả các nước đều cho phép bên bị vi phạm có quyền yêu cầu bên vi phạm trả một khoản tiền phạt nhất định do vi phạm hợp đồng nếu như trong hợp đồng mua bán ngoại thương, hoặc trong các văn bản liên quan, có quy định mức phạt. Phạt vi phạm được quy định trong hợp đồng có hai loại phạt do không thực hiện hợp đồng và phạt do thực hiện không đúng hợp đồng. Mức phạt vi phạm theo điều 228 Luật Thương mại nước CHXHCN Việt Nam quy định là do các bên tự thoả thuận trong hợp đồng nhưng không quá 8% giá trị phần nghĩa vụ bị vi phạm. Công ước Viên không điều chỉnh nội dung về thiệt hại quy ước hay điều khoản phạt.
4.3. Bồi thường thiệt hại
Bồi thường thiệt hại là việc bên có quyền lợi bị vi phạm yêu cầu bên vi phạm trả tiền bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng gây ra.
Điều 74 Công ước Viên 1980 và điều 229 LTM nước CHXHCN Việt Nam quy định: Tiền bồi thường thiệt hại của một bên vi phạm hợp đồng là một khoản tiền bao gồm tổn thất và khoản lợi bị bỏ lỡ mà bên kia phải chịu do hậu quả của sự vi phạm hợp đồng. Số tiền bồi thường thiệt hại không thể cao hơn giá trị tổn thất và khoản lợi đáng lẽ được hưởng.
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại phát sinh khi có hành vi vi phạm hợp đồng, có thiệt hại về vật chất, có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm hợp đồng và thiệt hại vật chất; và có lỗi của bên vi phạm hợp đồng.
Muốn được áp dụng chế tài bồi thường thiệt hại, bên vi phạm phải chứng minh được những thiệt hại thực tế mà mình gánh chịu. Nếu không chứng minh được hoặc chứng minh không đầy đủ có thể bị đối phương từ chối bồi thường
4.4. Huỷ hợp đồng
Đây là chế tài nặng nhất mà bên bị vi phạm có quyền áp dụng khi bên vi phạm vi phạm hợp đồng mua bán ngoại thương. Pháp luật các nước thông thường đều quy định khi bên vi phạm vi phạm nghiêm trọng những điều khoản chủ yếu của hợp đồng thì bên bị vi phạm có quyền huỷ hợp đồng.
Mục a khoản 1 điều 49 và mục a khoản 1 điều 64 Công ước Viên 1980 quy định: bên bị vi phạm có thể tuyên bố huỷ hợp đồng trong các trường hợp bên vi phạm không hoàn thành bất kỳ một nghĩa vụ nào đó của mình theo hợp đồng hoặc theo Công ước Viên 1980 cấu thành nên một vi phạm chủ yếu của hợp đồng.
Điều 235 Luật Thương mại nước CHXHCN Việt Nam cũng quy định: “Bên có quyền lợi bị vi phạm có thể tuyên bố huỷ hợp đồng nếu việc vi phạm của bên kia là điều kiện huỷ hợp đồng mà các bên đã thoả thuận”.
Nếu thời gian cho phép, bên có ý định tuyên bố huỷ bỏ hợp đồng phải gửi thông báo cho bên kia để tạo điều kiện cho họ có thể đưa ra những bảo đảm cần thiết cho việc hoàn thành nghĩa vụ. Điều này chỉ không cần thiết khi bên kia tuyên bố rằng họ sẽ không hoàn thành nghĩa vụ của mình theo hợp đồng và theo thời gian đã được gia hạn.
Việc áp dụng chế tài huỷ hợp đồng sẽ đưa lại những hậu quả pháp lý nhất định. Cụ thể: khi hợp đồng bị hủy hai bên trở lại trạng thái ban đầu, nếu hợp đồng đã hoàn thành một phần hoặc toàn bộ có thể yêu cầu bên kia trả lại tất cả những gì đã giao hoặc đã thanh toán theo hợp đồng, nếu các bên đều buộc phải trả lại những gì đã nhận được thì họ phải thực hiện điều đó cùng một lúc.
Việc huỷ bỏ hợp đồng giải phóng các bên khỏi các nghĩa vụ đã thoả thuận trong hợp đồng, nhưng vẫn giữ quyền đòi bồi thường thiệt hại. Việc huỷ bỏ hợp đồng không ảnh hưởng đến những điều khoản của hợp đồng về thủ tục giải quyết tranh chấp hoặc thủ tục giải quyết các quyền lợi và nghĩa vụ của các bên trong trường hợp huỷ bỏ nó.
Điều 82 Công ước Viên quy định: người mua sẽ mất quyền tuyên bố huỷ hợp đồng nếu họ không có khả năng trả lại hàng đúng như trạng thái của nó khi nhận trừ những trường hợp Công ước quy định không được áp dụng quyền đó.
Muốn áp dụng chế tài huỷ hợp đồng, cần thỏa mãn các điều kiện theo quy định của pháp luật các nước. Khi đã có đủ các điều kiện để hủy hợp đồng, bên bị vi phạm có quyền hoặc là áp dụng chế tài huỷ hợp đồng hoặc là áp dụng chế tài đòi bồi thường thiệt hại tùy theo quyết định của mình.
* Miễn trừ trách nhiệm về việc không thực hiện nghĩa vụ hợp đồng.
Trong các giao dịch trên thế giới người ta thường quy định những trường hợp mà, nếu xảy ra, bên vi phạm được hoàn toàn hoặc, trong chừng mực nào đó, miễn hay hoãn thực hiện nghĩa vụ của hợp đồng. Những trường hợp như vậy thường xảy ra sau khi ký hợp đồng, có tính chất khách quan và không thể khắc phục được. Khoản 1 & 2 điều 77 Luật Thương mại Việt nam quy định:
“1. Các bên được miễn trách nhiệm về việc không thực hiện một phần hay toàn bộ nghĩa vụ hợp đồng nếu trong hợp đồng có thỏa thuận về các trường hợp miễn trách nhiệm đó.
2. Các bên được miễn trách nhiệm về việc không thực hiện một phần hay toàn bộ nghĩa vụ hợp đồng nếu việc thực hiện này do trường hợp bất khả kháng gây ra.
Trường hợp bất khả kháng là trường hợp xảy ra sau khi ký kết hợp đồng, do những sự kiện bất thường xảy ra mà các bên không thể lường trước được và không thể khắc phục được”.
Công ước Viên 1980 quy định thêm trường hợp bên vi phạm sẽ được miễn trù trách nhiệm nếu họ chứng minh được hành vi vi phạm của họ là do lỗi của người thứ ba hoặc do lỗi của chính bên bị vi phạm.
Trong các căn cứ miễn trách nhiệm nêu trên, bất khả kháng là căn cứ miễn trách thường hay gặp nhất trong buôn bán quốc tế. Vì luật pháp các nước có quy định khác nhau về bất khả kháng cho nên, để được hưởng căn cứ miễn trách này, các bên thường liệt kê cụ thể các trường hợp được coi là bất khả kháng trong hợp đồng.
Bên không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ hợp đồng phải thông báo ngay bằng văn bản cho bên kia về trường hợp được miễn trách và những hậu quả có thể có. Khi trường hợp miễn trách nhiêm chấm dứt cũng phải thông báo ngay bằng văn bản cho bên kia biết. Nếu không thông báo hoặc thông báo không kịp thời cho bên kia thì phải bồi thường thiệt hại (nếu có).
Bên vi phạm hợp đồng có trách nhiệm chứng minh các trường hợp miễn trách nhiệm. Đối với những trường hợp bất khả kháng thì phải được cơ quan, tổ chức có thẩm quyền xác nhận bằng văn bản.
Tóm lại, để có một cái nhìn chung nhất về hợp đồng ngoại thương, ta có thể thấy rõ rằng còn nhiều những cách hiểu, những qui định khác nhau về hợp đồng ngoại thương ở các nguồn luật khác nhau. Chính vì vậy mà khi đàm phán ký kết hợp đồng ngoại thương ta cần lựa chọn và thoả thuận về nguồn luật áp dụng cho hợp đồng. Có như vậy ta mới có thể thực hiện và hoàn thành tốt các nghĩa vụ qui định trong hợp đồng.
Chương 2: quy trình thực hiện hợp đồng mua bán ngoại thương và thực tiễn ở Việt Nam, lấy ví dụ ở công ty VIMEDIMEX
I- quy trình thực hiện hợp đồng mua bán ngoại thương và thực tiễn ở Việt Nam, lấy ví dụ ở công ty VIMEDIMEX
Quá trình đàm phán ký kết hợp đồng ngoại thương có ý nghĩa rất quan trọng, nhưng việc hoàn tất thực hiện hợp đồng ngoại thương mới là mục đích cuối cùng của các bên trong quan hệ hợp đồng kinh tế. Sau khi giao kết hợp pháp, hợp đồng có hiệu lực bắt buộc với các bên, các bên phải thực hiện các nghĩa vụ đã thoả thuận. Quyền và nghĩa vụ của các bên trong quá trình thực hiện hợp đồng ngoại thương được các bên tự do thoả thuận trong khuôn khổ luật pháp cho phép. Trong quá trình thực hiện hợp đồng mua bán hàng hoá nói chung và hợp đồng ngoại thương nói riêng cần tuân thủ các nguyên tắc sau:
Thực hiện hiện thực: Nghĩa là các bên sẽ thực hiện nghĩa vụ của mình trong hợp đồng một cách trung thực, theo đúng những gì đã giao kết trong hợp đồng, theo tinh thần hợp tác có lợi nhất cho các bên, đảm bảo tin cậy lẫn nhau.
Thực hiện đúng: Nghĩa là các bên sẽ thực hiện hợp đồng đúng đối tượng, chất lượng, số lượng, chủng loại, phương thức và các thoả thuận khác.
Không được xâm phạm đến lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác.
Ngoài ra các bên còn đảm bảo nguyên tắc về lợi ích kinh tế của các bên khi thực hiện hợp đồng, đảm bảo công bằng, không bên nào thua thiệt về lợi ích kinh tế.
Trên các nguyên tắc đó, các bên sẽ thực hiện hợp đồng đã giao kết .
Đối với hợp đồng xuất khẩu, đa số hợp đồng xuất khẩu ở Việt Nam là theo điều kiện CIF hoặc CFR và đều dùng phương thức thanh toán bằng thư tín dụng, do đó khi thực hiện những hợp đồng này phải thực hiện đầy đủ các khâu như: Xin giấy phép xuất khẩu (nếu cần), chuẩn bị hàng xuất khẩu, giục mở thư tín dụng, kiểm tra thư tín dụng, sửa đổi thư tín dụng, thuê phương tiện vận tải, khai báo hải quan, mua bảo hiểm cho hàng xuất khẩu, giao hàng lên phương tiện vận tải, làm thủ tục thanh toán, khiếu nại và giải quyết khiếu nại.
Đối với hợp đồng nhập khẩu ở Việt Nam, đa số hợp đồng theo điều kiện FOB và phương thức tín dụng trả tiền ngay, do vậy trình tự thực hiện hợp đồng này thường là xin giấy phép nhập khẩu (nếu cần), mở thư tín dụng, thuê tàu đặt khoang, bốc xếp vận chuyển, làm bảo hiểm, kiểm tra chứng từ thanh toán, nhận hàng, khai báo hải quan, kiểm nghiệm và chuyển giao hàng hoá.
1. Xin giấy phép xuất khẩu, nhập khẩu
Giấy phép xuất khẩu, nhập khẩu là một biện pháp quản lý trực tiếp của nhà nước về hoạt động xuất nhập khẩu nhằm thực hiện một số chính sách vĩ mô các doanh nghiệp khi tiến hành xuất nhập khẩu hàng hoá phải tiến hành xin giấy phép xuất nhập khẩu chuyến để thực hiện hợp đồng. Ngày nay, trong xu thế hội nhập kinh tế, nhà nước đã dần bãi bỏ bớt những biện pháp bảo hộ trực tiếp này, ở nước ta đến nay hầu hết các mặt hàng đều được tự do xuất nhập khẩu, chỉ còn một số hàng hoá sau phải xin giấy phép:
Có 9 mặt hàng phải xin giấy phép xuất nhập khẩu là:
- Hàng hoá xuất khẩu mà nhà nước quản lý bằng hạn ngạch
- Hàng tiêu dùng nhập khẩu theo kế hoạch của Thủ tướng chính phủ duyệt
- Hàng của doanh nghiệp được thành lập theo Luật đầu tư nước ngoài tại Việt nam
- Hàng phục vụ thăm dò, khai thác dầu khí
- Hàng dự hội chợ triển lãm
- Hàng gia công
- Hàng tạm nhập tái xuất
- Hàng xuất nhập khẩu cần điều hành dể đảm bảo nhu cầu trong nước.
Việc cấp Giấy phép xuất khẩu, nhập khẩu được Bộ Thương mại và Tổng cục Hải quan tiến hành.
Nhìn chung, việc nhà nước quản lý xuất nhập khẩu bằng các biện pháp trực tiếp là cần thiết khi phải điều tiết thị trường và thực hiện các chính sách vĩ mô. Tuy nhiên, trong xu thế hội nhập ngày nay thì biện pháp đó không còn thích hợp nữa. Biện pháp này đã ngăn cản tự do thương mại mà các nước, kể cả Việt Nam đang hướng tới cho nên sẽ vấp phải những khó khăn từ bên ngoài khi thực hiện nó. Các doanh nghiệp xuất nhập khẩu trong nước cũng gặp phải không ít khó khăn khi nhà nước áp dụng biện pháp này: Doanh nghiệp tốn thời gian, thủ tục và tiền bạc hơn; có những doanh nghiệp tiềm lực mạnh muốn xuất khẩu nhưng vì do không có hạn ngạch nên phải đi vay, đi mua hạn ngạch để xuất khẩu, ngược lại có những doanh nghiệp không có khả năng mà chỉ trông chờ vào bán hạn ngạch...Vậy những bất cập này nhà nước cần sớm điều chỉnh để tạo sự thông thoáng trong xuất nhập khẩu, thực hiện đúng chủ trương của nhà nước.
Do thực hiện gặp nhiều khó khăn, yêu cầu này đã gặp phải những hiện tượng sau trong thực tế thực hiện hợp đồng:
Công ty hay chủ hàng không khai báo xin giấy phép cho nên khi hàng hoá đưa ra cảng để xuất khẩu hoặc khi hàng hoá nhập về đến cảng, Hải quan đã giữ lại không cho thông quan. Điều này gây tổn hại cho doanh nghiệp cũng như uy tín của các doanh nghiệp Việt Nam. Dù điều này là do các doanh nghiệp làm sai nhưng cũng cần phải thấy sự phức tạp và mất thời gian của giấy phép xuất nhập khẩu của nhà nước.
Doanh nghiệp khai không đúng với giấy phép xuất nhập khẩu, hải quan giữ hàng hoá, điều này có thể do nguyên nhân doanh nghiệp muốn chốn thuế nhưng thực tế đã chứng minh rằng nguyên nhân chủ yếu là do những hàng hoá phải xin giấy phép lâu, sợ mất cơ hội kinh doanh cũng như tốn kém chi phi mà doanh nghiệp xuất nhập khẩu đã khai sai nhằm không phải xin giấy phép.
Giữa tờ khai và giấy phép có sự chênh lệch nên không nhận được hàng.
Như vậy, xung quanh vấn đề giấy phép xuất nhập khẩu đã phát sinh nhiều vấn đề đối với các doanh nghiệp, việc quản lý bằng giấy phép là cần thiết, tuy nhiên cần xem xét tính thuận tiện hợp lý của nó hiện nay.
2. Chuẩn bị hàng
Thực hiện cam kết trong hợp đồng xuất khẩu, chủ hàng xuât khẩu phải tiến hành chuẩn bị hàng xuất khẩu. Căn cứ để chuẩn bị hàng xuất khẩu là hợp đồng TMQT đã kí với nước ngoài hoặc L/C (nếu hợp đồng qui định thanh toán bằng L/C).
Trong việc chuẩn bị hàng cần chú ý:
+ Chất lượng, quy cách của hàng hoá phải phù hợp với quy định của hợp đồng.
+ Đảm bảo đáp ứng yêu cầu về số lượng theo yêu cầu của hợp đồng hoặc thư tín dụng.
+ Bao bì phải bảo vệ được hàng và thích ứng với yêu cầu của vận chuyển.
+ Tiêu chí vận chuyển hàng hoá cần in theo mẫu quy định của hợp đồng.
+ Thời gian chuẩn bị hàng phải theo đúng yêu cầu của thư tín dụng.
Công việc chuẩn bị hàng xuất khẩu bao gồm ba khâu chủ yếu: Thu gom tập trung hàng xuất khẩu; đóng gói bao bì và kẻ kí mã hiệu hàng xuất khẩu.
2.1. Thu gom tập trung hàng xuất khẩu
Tập trung hàng xuất khẩu là tập trung thành lô hàng đủ về số lượng, phù hợp về chất lượng và đúng thời điểm, tối ưu hoá được chi phí, đây là một hoạt động rất quan trọng của các doanh nghiệp kinh doanh hàng xuất khẩu.
Tuỳ thuộc vào từng loại hình doanh nghiệp, với các đặc trưng khác nhau mà quá trình tập trung hàng xuất khẩu cũng khác nhau để đảm bảo được hiệu quả của quá trình xuất khẩu. Nhưng về mặt tổng quát quá trình tập trung hàng xuất khẩu thường gồm các bước sau:
Bước 1: Xác định nhu cầu hàng xuất khẩu
Bước 2: Nhận dạngvà phân loại nguồn hàng xuất khẩu
Bước 3: Nghiên cứu khái quát và chi tiết nguồn hàng
Bước 4: Lựa chọn nguồn hàng xuất khẩu và hình thức giao dịch
Bước 5: Tổ chức hệ thống tập trung hàng xuất khẩu
Phân loại nguồn hàng xuất khẩu
Phân chia sắp xếp các nguồn hàng theo các tiêu thức cụ thể nào đó, tạo ra các nhóm nguồn hàng có đặc trưng tương đối đồng nhất để có các chính sách, biện pháp lựa chọn và ưu tiên thích hợp cho từng loại nguồn hàng nhằm khai thác khả năng tối đa từ mỗi loại nguồn hàng. Các loại nguồn hàng có thể phân loại theo khối lượng hàng hoá mua được, theo đơn vị giao hàng, theo khu vực địa lý, và theo mối quan hệ với nguồn hàng.
Nghiên cứu nguồn hàng xuất khẩu
Để khai thác và phát triển nguồn hàng ổn định và phát triển kinh doanh, cần nghiên cứu và tiếp cận nguồn hàng để có phương thức và hệ thống thu mua hàng xuất khẩu được tối ưu. Khi tiến hành nghiên cứu ta cần phải nghiên cứu cả những nguồn hàng hiện hữu và các nguồn hàng tiềm năng về các yếu tố như: Khả năng sản xuất của nguồn hàng, tiềm lực tài chính, khả năng kĩ thuật, khả năng tiếp cận, khả năng phát triển của nguồn hàng.
Các hình thức giao dịch hàng xuất khẩu
Do đặc trưng của từng loại hình doanh nghiệp, doanh nghiệp cần xác định hình thức giao dịch hàng xuất khẩu phù hợp với mình dựa trên các hình thức:
- Mua hàng xuất khẩu
- Gia công hoặc mua bán nguyên liệu, thu mua hàng xuất khẩu
- Liên doanh, liên kết tạo nguồn hàng xuất khẩu
- Xuất khẩu uỷ thác
- Tự sản xuất hàng xuất khẩu
- Tổ chức hệ thống tập trung hàng xuất khẩu
- Tổ chức hệ thống tập trung hàng xuất khẩu bao gồm hệ thống các chi nhánh, các đại lý, hệ thống kho, hệ thống vận chuyển, hệ thống thông tin, hệ thống quản lý kỹ thuật, công nghệ tập trung hàng xuất khẩu và hệ thống nguồn lực thích hợp...nhằm đảm bảo cung cấp đúng chủng loại hàng hoá, đủ về số lượng, phù hợp về chất lượng, kịp thời gian với chi phí thấp. Cơ sở để tổ chức hệ thống hợp lý là đặc điểm mặt hàng, đăc điểm nguồn hàng và hình thức giao dịch.
2.2. Đóng gói bao bì hàng xuất khẩu.
Trong buôn bán quốc tế, đại bộ phận hàng hoá đòi hỏi phải được đóng gói và bao bì trong quá trình vận chuyển và bảo quản. Muốn làm tốt công việc này cần phải nắm vững loại bao bì đóng gói mà hợp đồng qui định và yêu cầu cụ thể của việc bao gói.
Trong thương mại quốc tế, người ta sử dụng rất nhiều loại bao bì như: Hòm, bao kiện, thùng, chai lọ, container... và để có được loại bao bì phù hợp cần xem xét tới các yếu tố như: Quy định của hợp đồng, điều kiện vận tải, khí hậu, điều kiện về luật pháp và thuế quan, điều kiện về chi phí vận chuyển.
Trong thực tế thực hiện điều khoản này ở Việt Nam hiện nay, có nhiều trường hợp doanh nghiệp hoặc không quan tâm nhiều hoặc các cán bộ chuyên trách thiếu kinh nghiệm về đóng bao bì xuất khẩu nên đã tỏ ra không xem xét kỹ hàng hoá dẫn đến đóng bao bì không phù hợp với hàng hoá xuất khẩu.
Để khắc phục điều này, công ty phải chú ý đến công tác kiểm tra về hàng hoá thật kĩ càng trước khi xuất khẩu, phải có đội ngũ cán bộ, công nhân chuyên trách, am hiểu về việc đóng bao bì cho hàng hoá cũng như đặc tính của từng loại hàng hoá.
Cũng có những trường hợp hàng nhập khẩu về bị hỏng do khi thoả thuận về điều khoản bao bì, chúng ta đã không nói rõ để cho người xuất khẩu đóng bao bì theo thói quen của mình, dẫn đến không phù hợp, làm hàng hoá hỏng.
Hoặc có trường hợp hàng hoá xuất vào thị trường Mỹ hoặc EU đòi hỏi bao bì không được có nguồn gốc tự nhiên, vi phạm điều cấm nên không được nhập khẩu và thị trường của họ gây ra mất thời gian và chi phí cho doanh nghiệp. Vì vậy mà các cán bộ đóng gói phải kiểm tra ngay từ đầu tránh những sai sót đáng tiếc.
2.3. Kẻ ký mã hiệu hàng xuất khẩu.
Ký mã hiệu là những ký hiệu bằng chữ, số hoặc hình vẽ được ghi trên các bao bì bên ngoài nhằm cung cấp các thông tin cần thiết cho quá trình giao nhận, bốc dỡ, vận chuyển và bảo quản hàng hoá. Nội dung của ký mã hiệu hàng hoá bao gồm:
- Những nội dung thông tin cần thiết đối với người nhận hàng như: Tên người nhận, tên người gửi, trọng lượng tịnh, trọng lượng cả bì, số hợp đồng, số hiệu chuyến hàng, số hiệu kiện hàng.
- Những thông tin cần thiết cho việc vận chuyển hàng hoá như: Tên nước và tên địa điểm hàng đến, tên nước và tên địa điểm hàng đi, hành trình chuyên chở, số vận tải đến, tên tàu, số hiệu của chuyến đi.
- Những thông tin hướng dẫn xếp đặt, bốc dỡ, bảo quản hàng hoá như: Chống mưa, dễ vỡ, nguy hiểm, tránh ẩm, số kiện tối đa được phép xếp chồng lên nhau, hướng dẫn xếp đặt hàng hoá, không được móc...
- Mã số, mã vạnh của hàng hoá
Việc kẻ ký mà hiệu hàng hoá là một công việc tưởng chừng đơn giản nhưng lại vô cùng quan trọn trong công tác chuẩn bị hàng xuất khẩu. Việc này phải thực hiện làm sao vừa đảm bảo được yêu cầu thông tin về hàng hoá trong quá trình vận chuyển vừa đảm bảo được tính an toàn trong quá trình bốc xếp vừa không được vi phạm những điều cấm kị của nước bên bán, bên mua,bên chuyển tải, mà lại vừa đảm bảo tính thẩm mỹ cho hàng hoá. Những vật liệu dùng để kẻ vẽ kí mã hiệu cũng cần được nghiên cứu sao cho không được ảnh hưởng đến chất lượng hàng hoá.
Có một thực tế là, từ xưa tới nay, việc kẻ vẽ kí mã hiệu ở Việt Nam thường không được nghiên cứu kĩ, nên nhiều khi không đảm bảo được tính chính xác đúng như qui định. Trong thực tế đã từng xảy ra các trường hợp sau:
- Hàng về miền nam Việt Nam đã giao cho miền Bắc.
- Hàng về nước khác đã giao cho nước mình.
- Hàng chẵn giao thành hàng lẻ.
- Hàng lẻ lại giao thành hàng chẵn...
Những điều này xảy ra do tính thông tin của kẻ vẽ kí mã hiệu không đảm bảo.
Hoặc có thực tế trong quá trình thực hiện hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế của một công ty X, xuất khẩu chè sang Ba Lan, đến khi đến cảng dỡ hàng, người nhập khẩu Ba Lan phát hiện ra chè của công ty giao đã hoàn toàn mất mùi và bị hỏng do khi đóng hàng, công ty dùng bao ni lông bao ở trong và đóng vào thùng gỗ. Thùng gỗ này khi được đem sơn và kẻ ký mã hiệu hàng hoá lên thì công ty X lại dùng nhựa thông. Mùi nhựa thông ngấm vào làm chè bị mất mùi, công ty X phải bồi thường cho khách hàng Ba Lan. Như vậy chỉ vì không chịu tìm hiểu kĩ về đặc tính của chè mà công ty X đã bị mất tiền, cơ hội kinh doanh, thời gian, chi phí. Đây là bài học kinh nghiệm quí báu cho các doanh nghiệp Việt Nam.
3. Kiểm tra hàng xuất khẩu.
Trước khi giao hàng, người xuất khẩu phải có nghĩa vụ kiểm tra hàng về phẩm chất, số lượng, trọng lượng, bao bì...(tức là kiểm nghiệm hàng hoá). Nếu hàng xuất khẩu là động vật thực vật thì phải kiểm tra thêm khả năng lây lan bệnh (tức là kiểm dịch động vật thực vật), nếu là hàng thực phẩm thì phải kiểm tra vệ sinh an toàn thực phẩm. Cơ sở kiểm tra hàng xuất khẩu là hợp đồng và L/C cũng như các tài liệu liên quan khác như tài liệu kĩ thuật, thiết kế, tiêu chuẩn mẫu hàng...
Việc kiểm nghiệm, kiểm dịch được tiến hành ở 2 cấp: ở đơn vị và ở cửa khẩu. Trong đó việc kiểm tra ở cơ sở có vai trò quyết định nhất và cũng có tác dụng triệt để nhất, còn việc kiểm tra ở của khẩu có tác dụng thẩm tra lại kết quả kiểm tra ở cơ sở và thực hiện thủ tục quốc tế.
Nội dung kiểm tra ở cơ sở thường là kiểm tra về chất lượng, kiểm tra về số lượng, trọng lượng và do bộ phận kiểm tra chất lượng tiến hành. Tuy nhiên, thủ trưởng đơn vị vẫn là người chịu trách nhiệm chính. Việc kiểm dịch thực vật ở cơ sở do phòng bảo vệ thực vật của quận, huyện, nông trường tiến hành. Việc kiểm dịch động vật ở cơ sở do phòng thú y của quận, huyện hoặc nông trường tiến hành.
Cục thú y và cục bảo vệ thực vật đều có chi nhánh ở các cửa khẩu (như cảng, ga quốc tế). Công ty giám định hàng hoá xuất nhập khẩu cũng đặt ở các trạm và chi nhánh của công ty. Do đó nếu có yêu cầu kiểm tra hàng hoá ở cửa khẩu trước khi gửi hàng xuất khẩu, chủ hàng phải đề nghị các cơ quan chứng nhận (về phẩm chất hoặc sự kiểm dịch) đối với hàng hoá trong thời hạn chậm nhất là 7 ngày trước khi hàng được bốc xuống tàu.
4. Mở thư tín dụng, kiểm tra thư tín dụng và sửa đổi thư tín dụng.
Phương thức thanh toán bằng thư tín dụng (viết tắt là L/C) là sự thoả thuận mà một ngân hàng theo yêu cầu của bên mua sẽ trả tiền cho bên bán hoặc cho bất cứ người nào theo lệnh của bên bán, khi bên bán xuất trình đầy đủ các chứng từ và thực hiện đầy đủ các yêu cầu được quy định trong một văn bản gọi là thư tín dụng.
Nếu trong hợp đồng hai bên thoả thuận thanh toán bằng phương thức tín dụng chứng từ thì sau khi kí kết bên xuất khẩu cần tiến hành giục bên mua (nhập khẩu) mở L/C trên cơ sở hợp đồng. Vì mở L/C là hành động thể hiện thiện chí mua hàng của nguời mua và nó đảm bảo người bán sẽ nhận được tiền khi giao hàng theo đúng hợp đồng.
Khi nhận được thông báo chính thức về việc mở L/C thì bên xuất khẩu, trên cơ sở hợp đồng TMQT đã kí kết cần kiểm tra L/C xem có phù hợp không. Nếu không phù hợp thì cần phải thông báo ngay cho bên mua để biết để sửa chữa, bổ sung kịp thời đảm bảo tiến độ thực hiện hợp đồng. Bởi vì nếu nội dung của L/C không phù hợp với hợp đồng mà người xuất khẩu cứ chấp nhận và giao hàng theo hợp đồng thì người xuất khẩu sẽ không được thanh toán. Ngược lại nếu thực hiện theo L/C thì sẽ vi phạm hợp đồng.
Trong trường hợp hợp đồng nhập khẩu, sau khi ký kết hợp đồng, bên mua cần viết đơn xin mở thư tín dụng theo qui định của hợp đồng và tới ngân hàng làm thủ tục mở thư tín dụng. Nội dung thư tín dụng phải đúng với điều khoản của hợp đồng, phải lấy hợp đồng làm căn cứ và đưa ra quy định đối với từng mục một trong thư tín dụng.
Sau khi bên bán nhận được thư tín dụng cần phải thực hiện việc kiểm tra thư tín dụng. Về nội dung kiểm tra thư tín dụng thường gồm các mặt sau:
+ Kiểm tra về mặt chính sách sao cho phù hợp với pháp luật nước mình.
+ Kiểm tra tài chính của ngân hàng mở thư.
+ Thẩm tra tính chất của thư tín dụng và trách nhiệm thanh toán của ngân hàng mở thư.
+ Thẩm tra số tiền và loại tiền của thư tín dụng.
+ Thẩm tra các điều khoản chất lượng, quy cách, số lượng bao bì của hàng hoá.
+ Thẩm tra kỳ hạn bốc xếp, kỳ hạn có hiệu lực và địa điểm đến kỳ hạn của thư tín dụng.
+ Thẩm tra chứng từ.
Ngoài ra có thể phải thẩm tra các điều kiện khác tuỳ theo loại hợp đồng.
Sau khi tiến hành kiểm tra thư tín dụng, nếu phát hiện vấn đề cần nghiên cứu phân biệt tính chất của vấn đề, lần lượt cùng các ngành hữu quan như ngân hàng, vận tải, thương kiểm...nghiên cứu đưa ra biện pháp xử lý thoả đáng. Nội dung sửa đổi thường hay thấy nhất là kéo dài kỳ hạn bốc xếp vận chuyển và kỳ hạn có hiệu lực của thư tín dụng hoặc thay đổi cảng bốc xếp._.ỷ ngang và mở L/C khi VIMEDIMEX chuẩn bị xong hàng xuất khẩu. Công ty chỉ có nghĩa vụ cung cấp thông tin cho bạn hàng và kiểm tra tính hợp lệ của L/C. Nếu thấy L/C không hợp lệ, công ty sẽ thông báo cho khách hàng và yêu cầu tu chỉnh.
4.3. Thông báo giao hàng
Công ty sẽ gửi thông báo giao hàng cho bên nhập khẩu trước 15 ngày giao hàng, thông báo cho khách hàng về thời gian, địa điểm giao hàng, số lượng hàng hoá để khách hàng có kế hoạch điều tàu đến nhận hàng đúng tiến độ.
4.4. Giao hàng xuất khẩu
4.4.1. Khai báo hải quan
Từ nhiều năm qua, công ty luôn thực hiện nghiêm chỉnh các quy định về hải quan và nộp thuế xuất nhập khẩu đầy đủ cho nhà nước. Chính vì vậy, hải quan cho phép công ty khai báo tại Hà nội và chỉ tiến hành kiểm tra xác xuất là 5%.
4.4.2. Chuyên chở hàng hoá tới địa điểm giao hàng xuất khẩu
Công ty chủ yếu giao hàng xuất khẩu bằng đường biển, hàng của công ty sẽ được vận chuyển ra kho bãi của cảng Hải Phòng, chờ hải quan kiểm hoá và giao cho tàu.
4.4.3. Mời hải quan kiểm hoá và giao hàng cho phương tiện vận tải
4.5. Xin giấy phép xuất khẩu, giấy chứng nhận xuất sứ
Mặt hàng dược phẩm và nguyên liệu dược là mặt hàng nhu yếu cần thiết cho đất nước, cho nên khi xuất khẩu phải xin giấy phép của Bộ Y tế và lấy giấy chứng nhận xuất sứ do Phòng Thương mại công nghiệp Việt Nam cấp. Giấy chứng nhận xuất xứ nhằm chứng minh nguồn gốc xuất xứ hàng của công ty từ Việt Nam, một đất nước có điều kiện tự nhiên thuận lợi cho việc trồng cây thuốc chất lượng cao và nhằm được hưởng chế độ ưu đãi thuế xuất nhập khẩu vào các nước mà Việt Nam có ký kết hiệp định.
4.6. Làm thủ tục thanh toán.
Sau khi hoàn thành nghĩa vụ giao hàng, công ty sẽ tập hợp chứng từ, ký phát hối phiếu đòi tiền và giao cho Vietcombank làm thủ tục thanh toán. Các giấy tờ thanh toán gồm:
- Hoá đơn thương mại
- Hoá đơn hải quan
- Các chứng từ vận tải
- Giấy chứng nhận bảo hiểm (Nếu khách hàng yêu cầu mua bảo hiểm)...
4.7. Khiếu nại và giải quyết khiếu nại.
Trong quá trình thực hiện hợp đồng ngoại thương, công ty VIMEDIMEX luôn thực hiện nghiêm túc nghĩa vụ của mình trong hợp đồng. Chính vì vậy mà ít khi công ty phải giải quyết khiếu nại của khách hàng nhất là khiếu nại về chất lượng, những điều mà khách hàng khiếu nại chủ yếu do nhầm lẫn không chủ đích hoặc do lỗi của người bảo hiểm và công ty sẽ ngay lập tức giải quyết bằng con đường hữu nghị, nhằm tạo cho khách hàng hình ảnh tốt về công ty.
4.8. Làm thủ tục xin miễn thu thuế, hoàn thuế.
Thực hiện chính sách khuyến khích xuất khẩu của nhà nước, áp dụng mức thuế suất xuất khẩu là 0%. Sau khi giao hàng, công ty sẽ tập hợp hoá đơn nhằm xin được miễn thu thuế xuất khẩu và hoàn thuế VAT.
Như vậy là, việc thực hiện hợp đồng ngoại thương đối với mặt hàng dược và nguyên liệu dược tuy có những bước thay đổi so với việc thực hiện hợp đồng ngoại thương với hàng hoá thông thường. Tuy nhiên về trình tự căn bản vẫn dựa trên những bước chung. Qua thực tế thực hiện hợp đồng ngoại thương ở VIMEDIMEX ta có thể thấy rõ hơn quy trình và thực tế ở mỗi công, với mỗi loại hàng hoá là có sự khác nhau. Vì vậy ta cần phải nắm vững những qui tắc chung để từ đó có những vận dụng vào thực tiễn cho linh hoạt và đạt hiệu quả cao.
Tóm lại, việc thực hiện hợp đồng ngoại thương là việc chính và là điều quan tâm hàng đầu và gần như duy nhất của các bên trong hợp đồng. Đó là công việc diễn ra hàng ngày trong thực tế nên nó có muôn vàn cách thức và những điều phát sinh xung quanh việc thực hiện, bởi sự phát triển không ngừng đi lên của cuộc sống. Chương này chỉ nêu nên qui trình phổ biến nhất của việc thực hiện hợp đồng ngoại thương cũng như những thực tế đã và đang diễn ra ở Việt Nam. Qui trình này áp dụng cho mỗi hợp đồng, mỗi hàng hoá có thể có những trình tự khác nhau và mặt hàng dược ở đây là một ví dụ cụ thể nhất. Qua đó ta cũng thấy thực tế việc thực hiện hợp đồng ngoại thương ở công ty VIMEDIMEX diễn ra như thế nào, từ đó có những giải pháp và kiến nghị hữu ích cho việc thực hiện hợp đồng ngoại thương ở Việt Nam và VIMEDIMEX.
Chuơng 3: Một số giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế ở Việt Nam và thực tế ở công ty VIMEDIMEX
I- Định hướng của Nhà nước
1. Định hướng về thị trường.
Nhà nước với vai trò chủ đạo, đứng trên phương diện chính phủ ký kết các Hiệp định thương mại song phương, đa phương với các nước, các tổ chức thương mại, các khu vực trên toàn thế giới. Các hiệp định này sẽ tạo điều kiện khung cho các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vự xuất nhập khẩu.
Vài năm gần đây, Chính phủ Việt Nam đã có những bước tiến quan trọng trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế: ký kết Hiệp định thương mại Việt – Mỹ, Hiệp định thương mại khung với EU, gia nhập APEC, ASEAN và đang tiến tới gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO. Điều này sẽ đem lại nhiều cơ hội cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu Việt Nam cũng như không ít thách thức. Trên cơ sở các Hiệp định đã ký kết ở cấp Nhà nước doanh nghiệp có điều kiện để gia nhập thị trường mới, hoặc Chính phủ đã định hướng sẵn thị trường cho doanh nghiệp, tìm bạn hàng cho doanh nghiệp trong nước. Vấn đề là doanh nghiệp sẽ thực hiện như thế nào cho hiệu quả. Điều này đòi hỏi Nhà nước phải có cơ chế quản lý sát sao, tìm những giải pháp quản lý mới, tránh tình trạng “kẻ ăn không hết người lần chẳng ra” bất hợp lý như tình trạng quản lý hạn ngạch dệt may hiện nay sang Mỹ.
2. Định hướng về khung pháp lý.
Xét trên tầm vĩ mô, hiện tại ở Việt Nam còn tồn tại những qui định cứng nhắc từ thời bao cấp mà đến nay nó không còn hợp lý nữa. Thương mại Việt Nam đã phát triển với tốc độ cao trong vài năm gần đây, đòi hỏi theo đó phải là những cải tiến về mặt pháp lý cho phù hợp, tạo điều kiện để doanh nghiệp có thể thực hiện tốt hợp đồng ngoại thương đã ký kết. Ví dụ như hiện nay Cục giao thông đường bộ và Cảnh sát giao thông không cho phép các xe container hoạt động trong nội thành từ 5 giờ sáng đến 23 giờ đêm hoặc chỉ cho phép xe container có trọng tải qui định được đi trên một tuyến đường nhất định. Điều này gây rất nhiều khó khăn cho doanh nghiệp trong quá trình thực hiện việc giao nhận hàng hoá từ những cảng nội địa như Cảng Sài Gòn, và congtainer đóng theo tiêu chuẩn quốc tế thì không thể hạ bớt chiều cao hay giảm trọng lượng được.
Mặc dù trong Luật Thương mại và chính sách chung của Nhà nước là khuyến khích xuất khẩu và tạo điều kiện tốt nhất có thể để xuất khẩu hàng hoá, nhưng lại tồn tại một số qui định của các cơ quản quản lý khác do không đồng bộ nên doanh nghiệp không biết làm thế nào. Điển hình là vụ nhập khẩu máy tính của công ty Techcom trong thời gian gần đây, công ty nhập máy tính đã qua sử dụng nhưng hải quan cửa khẩu giám định hàng hoá lại chiểu theo qui định của Tổng cục Hải quan và ra quyết định đó là máy mới, Vina Control giám định lại thì lại nói đó là máy có một số chi tiết đã được tân trang lại chưa đủ chứng cứ để nói đó là máy mới hay máy cũ. Như vậy chỉ có doanh nghiệp là chịu thiệt, vậy Nhà nước cần xem xét bãi bỏ những qui định chồng chéo, không hợp lý, tạo hành lang pháp lý ổn định và thông thoáng cho doanh nghiệp thực hiện hợp đồng ngoại thương.
ở tầm vi mô, các doanh nghiệp một mặt vẫn phải áp dụng những qui định cũ còn hiệu lực của Nhà nước, nhưng cần phải tính đến những hạn chế, cản trở của nó trong quá trình thực hiện hợp đồng. Phải căn cứ vào tình hình thực tiễn ở Việt Nam để không làm ảnh hưởng đến nghĩa vụ thực hiện trong hợp đồng, tạo uy tín kinh doanh với bạn hàng nước ngoài. Một mặt nghiên cứu và áp dụng những qui định mới của Nhà nước.
3. Giải pháp cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu trong quá trình thực hiện hợp đồng ngoại thương
Muốn thực hiện tốt hợp đồng ngoại thương các doanh nghiệp cần chú ý thực hiện tốt các điểm sau:
3.1. Nâng cao khả năng đàm phán, ký kết hợp đồng bằng cách tìm hiểu thông tin về thị trường, về nhu cầu khách hàng, yếu tố pháp lý, văn hoá... của bạn hàng.
3.2. Tăng cường nghiên cứu thị trường xuất khẩu, thị trường trong nước kinh doanh hàng nhập khẩu để không bị động và thực hiện hiệu quả nhất hợp đồng.
3.3. Đảm bảo nguồn hàng xuất khẩu ổn định, chất lượng bằng cách thiết lập một hệ thống thu mua hiệu quả, rộng khắp. Tiến hành đầu tư, liên doanh cùng các vùng nguyên liệu, các vùng cung cấp theo hình thức bao tiêu xuất khẩu. Tiến hành tự sản xuất hàng xuất khẩu để chủ động về nguồn hàng... tốt nhất là lập kế hoạch chính xác và dự đoán tốt nhu cầu của thị trường để có kế hoạch thu mua, sản xuất hợp lý.
3.4. Nâng cao trình độ cán bộ công nhân viên bằng cách có kế hoạch hàng năm cho cán bộ sản xuất, công nhân kỹ thuật đi đào tạo và đào tạo lại nhằm cập nhật những kiến thức mới, kỹ thuật mới. Nâng cao nghiệp vụ ngoại thương và trình độ ngoại ngữ, tin học cho cán bộ xuất nhập khẩu.
3.5. Thực hiện tốt công tác kiểm tra chất lượng sản phẩm, thực hiện tốt khâu này giúp công ty giữ được uy tín với bạn hàng, giảm thời gian và chi phí sửa chữa hàng hoá, giải quyết khiếu nại của khách hàng.
3.6. Nâng cao hiệu quả của công tác thanh toán.
Ngoài ra với mỗi đặc thù riêng của từng doanh nghiệp mà có thể có những giải pháp tối ưu cho việc thực hiện hợp đồng ngoại thương, dựa trên phương châm: Uy tín với bạn hàng - tiết kiệm chi phí nhất - thời gian nhanh nhất để đem lại hiệu quả cao nhất.
II- Giải pháp cho công ty xuất nhập khẩu y tế I (VIMEDIMEX)
1. Chủ trương, chính sách của Nhà nước về XNK các sản phẩm Y tế
Để ngành dược liệu thực hiện được các mục tiêu của nghị quyết hội nghị lần thứ 4 của ban chấp hành trung ương Đảng khoá VII và nghị quyết đại hội Đảng lần thứ VIII, bên cạnh việc cải tiến, đổi mới các hoạt động cụ thể cần có một chính sách quốc gia về thuốc của Việt Nam trong tình hình mới. Chính phủ đã giao cho Bộ Y tế xây dựng bản thảo trên cơ sở đó Chính phủ thảo luận và ra quyết định. Chính sách quốc gia về thuốc nhằm giải đáp những vấn đề mới của ngành dược nói riêng và ngành Y tế nói riêng, mà cuộc sống thực tế của nước ta đang đặt ra chính sách quốc gia về thuốc không những thực hiện trách nhiệm và sự quan tâm của nhà nước đối với vấn đề thuốc mà còn xác định nhu về thuốc của nhân dân. Không chỉ yêu cầu hiện đại hoá ngành dược của Việt Nam trong thời gian trước mắt và trong thời kì mới mà còn đề ra những chủ trương, biện pháp tạo ra điều kiện mới và khả năng mới để khai thác phát huy nguồn lực trong và ngoài nước của các thành phần kinh tế và của chính ngành dược, của cả Nhà nước và nhân dân, xuất nhập khẩu thuốc là hoạt động quan trọng của chính sách này bởi lượng thuốc, dược liệu trong nước khổng đảm bảo nhu cầu chữa bệnh và chăm sóc sức khỏe của người dân nên phải tiến hành nhập khẩu thêm từ nước ngoài. Bên cạnh đó, một số loại dược liệu, dược phẩm mà nhu cầu sử dụng trong nước chưa cao hoặc chưa cần sử dụng thì phải xuất khẩu để thu ngoại tệ để đảm bảo cho nhập khẩu. Hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu các mặt lhàng Y tế này Nhà nước giao cho Bộ Y tế cùng Tổng công ty Dược thống nhất quản lý. Và do tính chất đặc thù của mặt hàng y tế thuộc loại hàng hoá quản lý chuyên ngành nên các doanh nghiệp hoạt động xuất nhập khẩu mặt hàng này phải được phép của Bộ Y tế, Tổng công ty Dược cũng như sự đồng ý của Thủ tướng Chính phủ.
Để nhằm đáp ứng nhu cầu về thuốc của nhân dân ta và đẩy mạnh xuất khẩu nhằm thu ngoại tệ phục vụ cho nhu cầu nhập khẩu Nhà nước ta đã có chủ trương hình thành và phát triển các vùng cây tinh dầu dược liệu. Để phát triển sản xuất dược liệu, tinh dầu phải trên cơ sở xác định đúng các loại nhu cầu trong nước vầ thế giới, đặc biệt chú trọng đến các dược liệu có nhu cầu cao trên thị trường thế giới như : cây quế, cây xả, cây hồi, cây bạc hà, cây dừa cạn, cây cam... nhằm phát huy lợi thế tuyệt đối, lợi thế so sánh về nguồn dược liệu, tinh dầu của nước ta. Trên cơ sở nghiên cứu thị trường, nắm bắt nhu cầu tiêu thụ trong nước và thế giới, Đảng và Nhà nước ta có chủ trương tập trung vào việc nuôi trồng sản xuất và chế biến các loại dược liệu tinh dầu sau:
Nhóm những cây có tinh dầu.
Phát triển gieo trồng sản xuất các cây con dược liệu di thực dùng để chế thuốc bắc.
Loại cây dược liệu đáp ứng nhu cầu xuất khẩu trước mắt và lâu dài.
Loại cây phục vụ cho nhu cầu thuốc nam.
Loại cây dược liệu tinh dầu cần số lượng lớn dùng cho sản xuất công nghiệp hoặc chiết xuất.
Thêm vào đó, chủ trương của Nhà nước đối với hoạt động xuất khẩu dược liệu là tường bước giảm lượng xuất khẩu thô và tăng lượng xuất khẩu tinh. Xuất khẩu dược liệu, tinh dầu dưới dạng chế biến là xu hướng để phát huy triệt để lợi thế so sánh và trở thành phương hướng chiến lược cơ bản lâu dài cho nhập khẩu. Nhà nước ban hành các chính sách quản lý hạn chế xuất khẩu sản phẩm thô và khuyến khích xuất khẩu những sản phẩm tinh đã qua chế biến đem lại hiệu quả cao cho nền kinh tế.
2. Một số kiến nghị, giải pháp nhằm hoàn thiện quy trình tổ chức thực hiện hợp đồng xuất khẩu của công ty xuất nhập khẩu –Y tế-Hà Nội
2.1. Những giải pháp cụ thể đối với công ty
2.1.1. Chuẩn bị hàng dược liệu xuất khẩu.
Công ty VIMEDIMEX có diện tích để trồng trọt các cây dược liệu để phục vụ trong nước và xuất khẩu là không lớn nên công ty phải đi thu mua hàng ở nhiều nông trường và bà con nông dân ở nhiều nơi. Vì vậy việc nghiên cứu lựa chọn nguồn hàng tốt sẽ góp phần đáp ứng kịp thời, chính xác nhu cầu thị trường và đảm bảo thực hiện đúng chất lượng và thời hạn ghi trong hợp đồng vì công ty phải thu mua từ nhiều nơi nên các lô hàng có chất lượng không đồng đều. Chính vì vậy công tác kiểm tra chất lượng hàng dược liệu xuất khẩu phải chú trọng kiểm tra chất lượng thật kỹ từ cấp cơ sở trở đi, phối hợp với công tác bảo quản để đảm bảo chất lượng hàng dược liệu là đồng đều đúng tiêu chuẩn khi xuất khẩu. Nguồn hàng dược liệu cho xuất khẩu của công ty VIMEDIMEX chủ yếu là từ các tỉnh miền Bắc: vùng núi Đông Bắc cung cấp các loại hồi, ý dĩ, quế, tam thất, cẩu tích; vùng núi Việt Bắc Hoàng Liên Sơn cung cấp các loại sa nhân, cẩu tích, ngũ gia bì, quế và sả... Ngoài ra, các tỉnh vùng đồn bằng Bắc Bộ cũng là nguồn cung cấp dược liệu lớn cho công ty về các loại như sen, ngưu tất, hương nhu, hoa hoè, nhãn...với điều kiện hiện tại còn nhiều khó khăn về vốn công ty chưa thể thực hiện việc cùng liên kết với người dân ở các vùng để trồng và thu hoạch dược liệu. Thực tế việc thực hiện việc mua hàng của công ty phải qua ít nhất hai đến ba khâu trung gian, điều này làm gia tăng giá mua và tác động không tốt cho việc xuất khẩu. Để khăc phục vấn đề này, yêu cầu công ty phải cử cán bộ xuống trực tiếp các tỉnh điều tra khả năng cung ứng hàng đối với từng loại dược liệu, tìm hiểu đầu mối thu gom của các địa phương và liên hệ kí kết hợp đồng mua trực tiếp đối với đầu mối này.
Thiết lập mối quan hệ lâu dài với các chân hàng để đảm bảo việc có hàng thường xuyên để đáp ứng đủ hàng xuất khẩu.
2.1.2. Sản xuất chế biến và bảo quản hàng dược liệu.
Công ty VIMEDIMEX thường xuất khẩu hàng hoá ở dạng thô, không qua chế biến. Vì vậy công ty cần phải thay đổi là xuất khẩu hàng hoá của mình đã chế biến rồi tạo thành những thành phẩm cụ thể sẽ đem lại lợi nhuận cho công ty nhiều hơn.
Về vấn đề bảo quản hàng hoá thì mặt hàng dược liệu rất dễ bị biến đổi về chất lượng nếu không được bảo quản tốt. Bởi vậy, công ty cần phải đầu tư mua sắm máy móc, trang thiết bị hiện đại để bảo quản dược liệu trong khi chờ xuất khẩu. Muốn làm được như vậy, người bảo quản phải hiểu rõ tính chất của dược liệu để có những biện pháp xử lí khi hàng có hiện tượng suy giảm về chất lượng. Cần tuyển dụng những nhân viên, cán bộ am hiểu về dược liệu. Để đảm bảo chất lượng hàng hoá sau khi tiếp nhận vẫn giữ được phẩm chất ban đầu các nhân viên phải có những hướng dẫn cụ thể về kĩ thuật bảo quản cho các cơ sở tiếp nhận hàng hoá tại các địa điểm thu mua cụ thể. Tuỳ từng loại hàng mà tổ chức đưa vào các kho khác nhau của công ty và được bảo quản một cách cẩn thận. Khi nhập hàng thì kho hàng phải đảm bảo các điều kiện sau:
Kho hàng phải khô ráo thông thoáng.
Nhiệt độ phù hợp với tính chất mặt hàng.
Vệ sinh kho hàng thường xuyên để tránh côn trùng, nấm mốc...
2.1.3. Thực hiện tốt công tác kiểm tra chất lượng.
Thực hiện tốt công tác kiểm tra chất lượng sản phẩm là biện pháp quan trong để quản lý và nâng cao chất lượng sản phẩm. Công tác kiểm tra chất lượng sản phẩm được tiến hành tốt mới có thể hạn chế được sự chênh lệch chất lượng so với trình độ của thế giới, trình độ kiểm nghiệm và giám định của Việt Nam còn kém do trang thiết bị kiểm dịch lạc hậu, mang tính thủ công, trình độ của cán bộ kiểm nghiệm còn nhiều hạn chế. Do vậy, nhiều khi bạn hàng nước ngoài yêu cầu doanh nghiệp Việt Nam phải đem hàng hoá đi kiểm nghiệm ở một nước khác hay một cơ quan giám định nước ngoài đóng tại Việt Nam khiến cho giá thành xuất khẩu tăng lên, dịch vụ trong nước lại không được dùng tới.
Để thực hiện tốt hợp đồng xuất khẩu hàng dược liệu và hoà nhập vào thị trường thế giới ngày càng có những yêu cầu cao về tiêu chuẩn chất lượng. Chúng ta nhanh chóng nâng cao chất lượng công tác kiểm nghiệm và giám định cho phù hợp với yêu cầu của các nước bạn hàng bằng cách công ty chú trọng vào công tác chăm lo đào tạo, bồi dưỡng trình độ cán bộ công nhân viên, họ không chỉ là người quan trọng trong công tác kiểm tra chất lượng mà còn là cố vấn đắc lực trong việc tham gia sáng kiến cải tiến nâng cao chất lượng sản phẩm của công ty. Bên cạnh đó, cần tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật cho hệ thống kiểm tra giám định chất lượng, hệ thống đo lường, hệ thống thông tin về tiêu chuẩn chất lượng.
2.1.4. Về phương thức thanh toán
Thực hiện hợp đồng xuất khẩu tại công ty thường thanh toán bằng L/C. trước khi đến hạn thoả thuận trong hợp đồng công ty cần phải đôn đốc khách hàng mở L/C đúng hạn chỉ khi người mua mở L/C mới thể hiện rõ ý chí thực sự khách hàng muốn nhập hàng và thanh toán tiền hàng, là cơ sở để cho người bán thực hiện các bước tiếp theo trong hợp đồng. Khi đến kì hạn thanh toán, công ty tiến hành chuẩn bị bộ chứng từ thanh toán sao cho phủ hợp với L/C. Song song với việc đó, công ty phải thường xuyên liên lạc với khách hàng yêu cầu họ thanh toán tiền hàng đúng tiến độ.
Trong nghiệp vụ thanh toán của công ty thì đa số các nghiệp vụ thanh toán bằng phương thức tín dụng chứng từ L/C chỉ có một số ít sử dụng phương thức thanh toán bằng điện chuyển tiền (TT).
Phương thức thanh toán bằng chuyển tiền (TT), công ty chỉ áp dụng đối với những khách hàng đã quen biết rất rõ, nắm vững tài chính của họ, số lượng hàng ít, do vậy nên công ty mạnh dạn hơn nữa trong việc sử dụng phương thức thanh toán này nhằm rút ngắn thời gian quay vòng vốn và việc thực hiện nghiệp vụ này cũng không phức tạp bằng L/C.
Phương thức thanh toán băng L/C đảm bảo chắc chắn cho công ty nhận được tiền hàng, tuy nhiên khi sử dụng phương thức này công ty phải hết sức chú ý các điểm sau: loại L/C, ngân hàng mở, số tiền L/C, thời hạn L/C ...Bên cạnh đó thì công ty cần tạo mối quan hệ tốt với ngân hàng đại diện cho mình trong thanh toán cụ thể là ngân hàng ngoại thương Việt Nam (Vietcombank).
2.1.5. Nâng cao trình độ cán bộ công nhân viên.
Phần lớn các nhà quản lý doanh nghiệp nhà nước hoạt động thiếu bài bản, dựa nhiều vào kinh nghiệm, chạy theo thị hiếu thị trường nên không ít doanh nghiệp làm ăn thua lỗ. Vì vậy trong điều kiện hiện nay đất nước ta đang theo nền kinh tế thị trường nên môi trường kinh doanh sẽ phức tạp và khó khăn hơn, dẫn đến phải thay đổi cách nhìn nhận. Trong điều kiện mới đòi hỏi công ty phải có đội ngũ cán bộ công nhân viên xuất nhập khẩu giỏi về nghiệp vụ, nhạy cảm về thị trường. Muốn vậy công ty phải có chế độ đào tạo và đào tạo lại đội ngũ này để đáp ứng nhu cầu khắt khe của nền kinh tế thị trường, muốn vậy, công ty phải thường xuyên gửi cán bộ có năng lực đi học tập nghiên cứu các lớp cán bộ trong và ngoài nước. Mở các lớp đào tạo nâng cao trình độ ngoại ngữ tin học trình độ ngoại ngữ tin học cho cán bộ. Đào tạo lại các cán bộ kĩ thuật có đủ khả năng kiểm tra, giám định hàng hoá đảm bảo chất lượng chất lượng hàng hoá theo tiêu chuẩn quốc tế.
Bên cạnh đó, công ty cần xây dựng lòng yêu nghề, tạo sự yên tâm trong công tác cho mỗi cán bộ, từ đó phát huy tinh thần tự giác của mọi người một cách trực tiếp hoặc thông qua công đoàn, chăm lo đời sống vật chất tinh thần cho cán bộ công nhân viên, động viên tích cực họ lao động sáng tạo để giữ cho công ty phát triển ổn định. Công ty nên có chính sách tăng lương, chính sách tiền thưởng,... khuyến khích về tinh thần như tổ chức đi thăm quan, du lịch hàng năm...
2.1.6. Nâng cao hiệu quả của công tác giao hàng xuất khẩu:
Khi có một quá trình giao nhận hàng hoá hợp lý công ty sẽ giao hàng tốt hơn từ đó đảm bảo thực hiện hợp đồng đúng tiến độ giữ uy tín kinh doanh. Để làm được việc này công ty phải có các giải pháp thích hợp như:
- Trong mỗi bước của nghiệp vụ giao hàng acho tàu biển cần giao nhiệm vụ cụ thể cho một số cán bộ chuyên trách hoặc lập ra một phòng riêng do nhu cầu công ty lớn. Điều này giúp giao hàng nhanh chóng, thuận tiện, tiết kiệm thời gian và tránh những chi phí không cần thiết.
- Xây dựng các mối quan hệ mật thiết với các cán bộ điều độ cảng, các cán bộ hải quan của cảng. Làm được điều này là một thuận lợi để công ty thực hiện một cách nhanh chóng, thuận tiện thời gian bốc hàng, giảm thời gian chờ đợi...tránh tình trạng ách tắc hàng hoá dẫn đến giao hàng hoá chậm.
- Ký kết hợp đồng lâu dài, nếu có thể công ty lên kế hoạch dài hạ trong xuất khẩu, từ đó đặt chỗ dài hạn với các công ty vận tải, các hãng tàu trong và ngoài nước nhằm giảm chi phí và thời gian, thuận tiện cho việc vận chuyển hàng hoá.
2.1.7. Đối với khâu làm thủ tục hải quan.
Thông quan hàng xuất khẩu sẽ được làm tại cửa khẩu, các nhân viên hải quan sẽ kiểm tra giấy tờ hàng hoá và đối chiếu xem tờ khai hải quan về hàng hoá xuất khẩu. Nếu có gì sai sót không hợp lý giữa các chứng từ đối chiếu với tờ khai hải quan hàng hoá sẽ bị giữ lại để xem xét cho đến khi có sự hợp lý mới thông quan được.
Để tránh những sai sót khi khai trên các giấy tờ hải quan và nội dung các chứng từ thì đòi hỏi các cán bộ khai báo của công ty phải có chuyên môn cao, am hiểu về thủ tục hải quan và họ cần phải chuẩn bị đầy đủ chứng từ cần thiết cho việc kê khai. Khi khai báo hải quan, chứng từ phải rõ ràng, không tẩy xoá đồng thời phải thông báo một cách chính xác và trung thực các điều kiện. Cần phải khai báo chính xác để tạo mọi điều kiện cho nhân viên hải quan đến kiểm tra hàng hoá.
3. Những giải pháp từ phía nhà nước
3.1 Hoàn thiện các chính sách
3.1.1. Chính sách thuế.
Chính sách thuế cần phải khuyến khích những măt hàng dược liệu mà nhà nước ta có trữ lượng khai thác lớn, nhu cầu trong nước không tiêu thụ hết đồng thời hạn chế xuất khẩu nhữngmặt hàng dược liệu quí hiếm. Chính sách thuế phải có tác dụng khuyến khích các sản phẩm dược liệu đã qua chế biến. Khi cần có thể đánh thuế cao đối với doanh nghiệp xuất khẩu sản phẩm thô và thuế ưu đãi cho những sản phẩm tinh chế nhằm nâng cao hiệu quả xuất khẩu.
3.1.2. Chính sách giá cả xuất khẩu dược liệu
Một yếu tố quyết định đến hiệu quả kinh doanh đó là giá, đề ra chính sách giá hợp lý sẽ quyết định thành công trong kinh doanh, việc ra quyết định giá thường chưa nhạy bén, thông báo kiểm soát giá còn chậm, thiếu nhất quán trên cùng một thị trường, khu vực.
Nhà nước trao quyền chủ động định giá cho doanh nghiệp, xoá bỏ cơ chế định giá sàn, giá trần. Tuy nhiên nhà nước có thể kiểm soát giá cả xuất khẩu dược liệu thông qua các biện pháp gián tiếp như: kiểm soát yếu tố hình thành giá để chống các biến động về giá trên thị trường, gây mất ổn định thị trường dược liệu và để chống sự hình thành giá cả độc quyền.
Trong thời điểm hiện nay, nhà nước thi hành các chính sách để ổn định nền kinh tế. Song Nhà nước cần điều chỉnh tỷ giá hối đoái sao cho có lợi cho xuất khẩu hàng hoá nói chung và xuất khẩu dược liệu nói riêng khi cần thiết.
Trong thời gian tới, do yêu cầu của quá trình tự do hoá thương mại, Việt Nam phải thực hiện các qui định của chương trình CEPT, APTA, và dần thích nghi với các nguyên tắc của WTO. Khi các biện pháp thúc đẩy xuất khẩu và hạn chế nhập khẩu bằng thuế quan dần bị bãi bỏ thì chính sách tỷ giá hối đoái linh hoạt sẽ là một trong biện pháp để đẩy mạnh xuất khẩu. Nâng cao tầm quan trọng của khâu thanh toán, làm thủ tục thanh toán với hàng nhập khẩu.
3.2. Hoàn thiện cơ chế quản lý xuất khẩu dược liệu.
Thực tế công tác quản lý xuất khẩu của Nhà nước còn một số bất cập với các diễn biến của hoạt động xuất khẩu nhiều khi còn không ít thiếu sót và nhược điểm cần khắc phục, giải quyết. Về lâu dài, các qui định về xuất khẩu dược liệu hiện hành phải được bổ sung, sửa đổi nhằm:
Thống nhất đầu mối quản lý, tổ chức xuất khẩu dược liệu vào Bộ Y tế bởi vì dược liệu vừa là mặt hàng mang tính kinh tế lại vừa là mặt hàng mang tính chất chuyên ngành.
Tăng cường công tác quản lý Nhà nước về kiểm dịch chất lượng hàng hoá, nhãn hiệu và tiêu chuẩn hàng hoá dược liệu khi xuất khẩu. Đồng thời tăng cường các biện pháp chống buôn lậu, xuất khẩu hàng dược liệu.
Bộ Y tế nên thành lập các hội thống nhất nhằm bảo vệ và tăng cường hiệu quả kinh doanh cho mỗi thành viên, tổ chức việc theo dõi sát diễn biến thị trường, tổ chức tốt các hội chợ triển lãm trong nước và quốc tế, cùng nhau bàn bạc và chia sẻ lợi ích, cơ hội của việc khai thác thị trường mới.
3.3 Hỗ trợ xuất khẩu hàng dược liệu.
Hỗ trợ tài chính xuất khẩu bao gồm việc giảm thuế xuất khẩu, thực hiện các loại tín dụng thương mại lãi suất ưu đãi, giảm thuế quan bảo hộ và nhằm tránh hạn ngạch nhập khẩu. Trong trường hợp cần khuyến khích xuất khẩu mạnh có thể giảm thuế xuất khẩu, thực hiện chính sách giảm thuế hai lần, tức là giảm vào thu nhập phải chịu thuế hai lần chi phí để đẩy mạnh xuất khẩu. Trích một khoản quỹ dự trữ quốc gia bù lỗ cho xuất khẩu đối với việc xuất khẩu sản phẩm mới, hoặc xuất khẩu sang thị trường mới.
Thực hiện phương thức bảo hiểm tín dụng xuất khẩu nhằm hỗ trợ cho các nhà xuất khẩu trong việc xuất khẩu, đăc biệt là xuất khẩu ra các thị trường mới.
3.4. Xúc tiến thương mại
Chính phủ cần có quĩ khuyến khích công tác đẩy mạnh xúc tiến thương mại trên các thị trường chủ yếu của ngành dược liệu. Các cơ quan nghiên cứu của Chính phủ tổ chức xúc tiến thương mại cần cung cấp kịp thời các dự báo xu hướng tiêu dùng, tình hình thị trường để các doanh nghiệp có thể lập và điều chỉnh sản xuất, kinh doanh linh hoạt theo thay đổi của môi trường kinh doanh. Đồng thời phổ biến tư vấn về các chính sách tập quan thương mại, lộ trình hội nhập kinh tế của quốc gia là một đòi hỏi cần thiết của các doanh nghiệp hiện nay mà Chính phủ cần quan tâm hỗ trợ.
4. Một số biện pháp nhằm mở rộng thị trường xuất khẩu, tăng số lượng khách hàng, số lượng hợp đồng kinh tế.
- Tạo uy tín với khách hàng:
+ Tuân thủ nghiêm ngặt các yêu cầu của khách hàng.
+ Liên tục cải tiếnvà nâng cao chất lượng hàng hoá.
+ Coi ý kiến khách hàng là tiêu chuẩn quản lý chất lượng hàng hoá.
+ Đặt lợi ích khách hàng trong lợi ích công ty.
- Đầu tư phát triển hơn nữa công tác Marketing :
+ Thành lập bộ chuyên sâu làm công tác Marketing tại công ty hay thêm chức năng marketing đối với phòng xuất nhập khẩu nhằm lập kế hoạch marketing cụ thể về hàng hoá, giá phân phối, xúc tiến đối với mặt hàng dược liệu của công ty để từ đó có những biện pháp cụ thể để thực hiện tốt các mục tiêu đề ra.
+ Quan tâm đến công tác chào hàng và duy trì tốt mối quan hệ với khách hàng truyền thống đồng thời thiết lập được mối quan hệ mới.
- Bồi dưỡng và nâng cao nghiệp vụ cho các cán bộ xuất nhập khẩu :
+ Đầu tư kinh phí để nâng cao năng lực và trình độ chuyên môn cho cán bộ phòng xuất khẩu.
+ Tạo điều kiện thuận lợi cho cán bộ phòng kế hoạch xuất khẩu của công ty tham gia các hội nghị, hội thảo.
Tóm lại, qua thực tế thực hiện hợp đồng ngoại thương ở Việt Nam và công ty VIMEDIMEX, tôi mạnh dạn kiến nghị những giải pháp trên đây mà tôi cho là hợp lý nhằm hoàn thiện hơn nữa việc thực hiện hợp đồng ngoại thương, nâng cao uy tín của của các doanh nghiệp Việt Nam nói chung và VIMEDIMEX nói riêng đối với bạn hàng quốc tế. Từ đó giúp chúng ta củng cố mối quan hệ bạn hàng với các doanh nghiệp nước ngoài và tìm thêm những đối tác mới, góp phần thúc đẩy nền kinh tế Việt Nam sớm hội nhập và tạo một hình ảnh Việt nam uy tín, là điểm hẹn của các doanh nghiệp và thương nhân nước ngoài.
Mục lục
Lời mở đầu
Kết luận
Danh mục tài liệu tham khảo
Danh mục tài liệu tham khảo
Thực tiễn việc thực hiện hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế rất sinh động và phức tạp, do vậy dù có cố gắng đến đâu cũng không tránh khỏi những hạn chế nhất định, rất mong sự đóng góp của các thầy cô và các bạn bè để khoá luận này được hoàn thiện.
Kết Luận
Quá trình thực hiện hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế là một quá trình phức tạp và sinh động, quá trình ấy đòi hỏi phải tuân thủ chặt chẽ về mặt pháp lý bởi hợp đồng ngoại thương được điều chỉnh bởi nhiều nguồn luật phức tạp, nhưng cũng có sự uyển chuyển linh hoạt trong việc thực hiện. Việc phân tích quy trình thực hiện hợp đồng mua bán ngoại thương và những thực tế ở Việt Nam, đặc biệt ở công ty VIMEDIMEX sẽ giúp các tác nhân liên quan nắm vững và hoàn thiện quy trình thực hiện hợp đồng ngoại thương và từ đó có những giải pháp hợp lý nhằm thực hiện hiệu quả nhất hợp đồng ngoại thương ở đơn vị mình. Đó cũng là mục đích lớn nhất của khóa luận này.
Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo trong khoa KTNT, đặc biệt là GS-NGƯT Vũ Hữu Tửu đã giúp em hoàn thành khoá luận này.
Danh mục tài liệu tham khảo
1. Giáo trình “Kỹ thuật nghiệp vụ ngoại thương”- PGS-NGƯT Vũ Hữu Tửu, NXB Giáo Dục 1999.
2. Giáo trình” Pháp luật trong hoạt động kinh tế đối ngoại” – GS-TS Nguyễn Thị Mơ, PGS_ TS Hoàng Ngọc Thiết, NXB Giáo Dục 1994.
3. Giáo trình “Thanh toán quốc tế” – PGS Đinh Xuân Trình, NXB Giáo Dục1996.
4. Giáo trình “Luật hợp đồng kinh tế”, Đại Học Luật Hà Nội.
5. Luật Thương mại Việt Nam 1997
6. Công ước Viên 1980
7. Incoterm 2000- Hướng dẫn sử dụng Incoterm
8. Nghiệp vụ Buôn bán Quốc tế - NXB Thanh niên 1995
9. Giáo trình Luật dân sự Việt Nam - Trường ĐH Luật 1997
10. Văn bản pháp lý hướng dẫn thi hành luật Thương mại - NXB Chính trị quốc gia 1998
11. Nghệ thuật đàm phán thương vụ quốc tế - NXB trẻ
12. Hợp đồng thương mại quốc tế - NXB Thống kê 1997
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- QT1012.doc