Tình hình thực hiện bảo hiểm xã hội trong các doanh nghiệp ngoài quốc doanh ở nước ta Thực trạng và một số giải pháp

Lời nói đầu Bảo hiểm xã hội (BHXH) là một chính sách lớn của Đảng và nhà nước ta, thể hiện tính xã hội và tính nhân văn sâu sắc, thể hiện sự quan tâm của Đảng và nhà nước đối với người lao động đang làm việc cũng như những người đã góp công sức cho sự nghiệp xây dựng đất nước nay được nghỉ việc hưởng chế độ BHXH. Với chủ chương “Thực hiện các chính sách xã hội nhằm tạo sự an toàn trong cuộc sống cho mọi thành viên của cộng đồng bao gồm BHXH cho mọi người thuộc các thành phần kinh tế…”, trên cơ

doc33 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1375 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Tình hình thực hiện bảo hiểm xã hội trong các doanh nghiệp ngoài quốc doanh ở nước ta Thực trạng và một số giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
sở đó các chính sách xã hội nói chung, chính sách xã hội nói riêng đã từng bước được cải tiến và phát triển đúng hướng. Điều đó được thể hiện rõ tại chương XIII Bộ luật lao động và điều lệ BHXH ban hành kèm theo Nghị định 12/CP ngày 26/01/1995 của Chính phủ. Theo đó, chính sách bảo hiểm xã hội không chỉ thực hiện cho người lao động trong khối hành chính sự nghiệp, Đảng, đoàn thể mà còn mở rộng đến lao động trong các thành phần kinh tế khác, trước mắt là các doanh nghiệp ngoài quốc doanh (DNNQD). Cùng với các thành phần kinh tế quốc doanh, kinh tế tập thể, khu vực kinh tế ngoài quốc doanh là một trong những nhân tố bảo đảm sự ổn định và bền vững của nền kinh tế, góp phần huy động các nguồn lực xã hội, phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh, tăng thu nhập, cải thiện cuộc sống, Đặc biệt sự phát triển nhanh chóng về số lượng của các DNNQD đã và đang tạo ra nhiều cơ hội việc làm cho người lao động, số lượng lao động làm việc trong các DNNQD ngày càng gia tăng góp phần tạo công ăn việc làm cho một bộ phận lao động khá đông đảo. Tuy nhiên, một thực tế hiện nay đang còn tồn tại ở các DNNQD là phần lớn chủ sử dụng lao động chỉ chăm lo đến lợi ích kinh tế của mình, ít quan tâm đếnlợi ích của người lao động. Tỷ lệ các DNNQD tham gia BHXH cho người lao động còn thấp, nhiều doanh nghiệp còn chốn tránh không thực hiện nghĩa vụ này khiến quyền lợi của nhiều người lao động trong khu vực này không được đảm bảo. Vấn đề đặt ra là tại sao các DNNQD lại chưa ý thức trong việc tham gia BHXH cho người lao động và làm thế nào để khuyến khích các chủ DNNQD chủ động tham gia BHXH, từ đó đảm bảo cuộc sống của người lao động trong khu vực này được chăm lo đầy đủ vào những lúc ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, hưu trí hoặc từ trần, góp phần tạo sự ổn định và an sinh xã hội. Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề này, đồng thời cũng nhận thấy những khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện. Vận dụng những kiến thức đã học cộng với sự giúp đỡ của thầy giáo hướng dẫn – Tiến sĩ Nguyễn Văn Định tôi đã mạnh dạn chọn đề tài “ Tình hình thực hiện BHXH trong các DNNQD ở nước ta – Thực trạng và một số giải pháp”. Kết cấu của đề án ngoài lời mở đầu và kết luận gồm có ba phần chính: Phần I: Lý luận chung về BHXH Phần II: Tình hình thực hiện BHXH trong các DNNQD ở nước ta Phần III: Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện BHXH ở các DNNQD Đây là một đề tài còn mới mẻ và rất phức tạp, do đó dù đã có rất nhiều nỗ lực và cố gắng nhưng chắc chắn đề án này không tránh khỏi những thiêú sót. Rất mong nhận được ý kiến đóng góp của thầy cô và bạn bè. Phần I Lý luận chung về bảo hiểm xã hội I/ Những nội dung cơ bản về BHXH 1/ Bản chất của BHXH 1.1/ Khái niệm BHXH Cùng với sự phát triển của nền kinh tế hàng hoá, việc thuê mướn nhân công trở nên phổ biến, Tuy nhiên, chính từ đây xuất hiện mâu thuẫn giữa giới chủ và giới thợ. Mâu thuẫn này ngày càng gia tăng, thể hiện: - Thứ nhất, giới thợ luôn đấu tranh đòi tăng lương, giảm giờ làm, trong khi đó giới chủ lại luôn muốn kéo dài thời gian lao động và cắt xén tiền lương của người lao động. - Thứ hai, khi người lao động không may gặp rủi ro, sự cố như ốm đau, bệnh nghề nghiệp… phải nghỉ việc, trong thời gian đó giới chủ không trả lương, từ đó làm cho cuộc sống của người lao động gặp rất nhiều khó khăn. Những mâu thuẫn này kéo dài và ngày càng gay gắt, do vậy Nhà nước đã phải đứng ra can thiệp và điều hoà bằng cách buộc giới chủ phải có trách nhiệm hơn đối với người lao động mà mình sử dụng. Trách nhiệm này thể hiện ở chỗ: giới chủ phải trích ra một phần thu nhập của mình để hình thành một loại quỹ, đồng thời Nhà nứơc cũng khuyến cáo đối với người lao động cũng phải trích một phần tiền lương để đóng góp vào quỹ. Quỹ này còn được bổ sung từ ngân sách Nhà nước khi cần thiết nhằm đảm bảo đời sống cho người lao động khi họ không may gặp phải những biến cố bất lợi. Chính nhờ những mối quan hệ ràng buộc đó mà rủi ro, bất lợi của người lao động được dàn trải, cuộc sống của người lao động và gia đình họ ngày càng được đảm bảo ổn định. Giới chủ cũng thấy mình có lợi và được bảo vệ, sản xuất kinh doanh diễn ra bình thường, tránh được những xáo trộn không cần thiết. Toàn bộ những hoạt động với những mối quan hệ ràng buộc trên được thế giới quan niệm là BHXH đối với người lao động. BHXH là một trong những loại hình bảo hiểm ra đời khá sớm và đến nay đã được thực hiện ở hầu hết các nước trên thế giới. Tuy nhiên, cho đến nay vẫn chưa có định nghĩa thống nhất về BHXH. Dưới góc độ thu nhập có thể hiểu: “ BHXH là sự đảm bảo thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập cho người lao động khi họ gặp phải những biến cố làm giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc làm trên cơ sở hình thành và sử dụng một quỹ tiền tệ tập trung nhằm đảm bảo đời sống xã hội”. Đứng trên góc độ pháp luật thì có định nghĩa “BHXH là một chế định bảo vệ người lao động, sử dụng nguồn đóng góp của người lao động, người sử dụng lao động (nếu có), và được sự bảo trợ, tài trợ của Nhà nước nhằm trợ cấp vật chất cho người được bảo hiểm và gia đình họ trong trường hợp bị giảm hoặc mất thu nhập bình thường do ốm đau, tai nạn lao động hoặc hết tuổi lao động (về hưu) theo quy định của pháp luật, hoặc chết. Trên góc độ tài chính xác định “BHXH là thuật san sẻ rủi ro và chia sẻ tài chính giữa những người tham gia hiểm theo quy định của pháp luật”. Trên góc độ chính sách cho rằng “BHXH là một chính sách xã hội nhằm đảm bảo đời sống vật chất cho người lao động khi họ không may gặp phải rủi ro nhằm góp phần đảm bảo an oàn xã hội”. 1.2. Bản chất của BHXH BHXH có thể được hiểu dưới nhiều góc độ khác nhau nhưng dù được định nghĩa như thế nào thì bản chất của BHXH cũng được thể hiện ở những nội dung chủ yếu sau: - BHXH là nhu cầu khách quan, đa dạng và phức tạp của xã hội, nhất là trong xã hội mà sản xuất hàng hoá hoạt động theo cơ chế thị trường, mối quan hệ thuê mướn lao động phát triển đến một mức độ nào đó. Kinh tế càng phát triển thì BHXH càng đa dạng và hoàn thiện. Vì thế có thể nói kinh tế là nền tảng của BHXH hay BHXH không vượt quá trạng thái kinh tế của mỗi nước. - Mối quan hệ giữa các bên trong BHXH phát sinh trên cơ sở quan hệ lao động và diễn ra giữa ba bên: bên tham gia BHXH, bên BHXH và bên được BHXH. Bên tham gia BHXH có thể chỉ là người lao động hoặc cả người lao động và người sử dụng lao động. Bên BHXH (bên nhận nhiệm vụ BHXH) thông thường là cơ quan chuyên trách do Nhà nước lập ra và bảo trợ. Bên được BHXH là người lao động và gia đình họ khi có đủ các điều kiện ràng buộc cần thiết. - Những biến cố làm giảm hoặc làm mất khả năng lao động, mất việc làm trong BHXH có thể là những rủi ro ngẫu nhiên trái với ý muốn chủ quan của con người như: ốm đau, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp…Hoặc cũng có thể là những trường hợp xảy ra không hoàn toàn ngẫu nhiên như: tuổi già, thai sản…đồng thời những biến cố đó có thể diễn ra cả trong và ngoài quá trình lao động. - Phần thu nhập của người lao động bị giảm hoặc mất đi khi gặp phải những biến cố, rủi ro sẽ được bù đắp hoặc thay thế từ một nguồn quỹ tiền tệ tập trung được tồn tích lại. Nguồn quỹ này do bên tham gia BHXH đóng góp là chủ yếu, ngoài ra còn được sự hỗ trợ từ phía Nhà nước. - Mục tiêu của BHXH là nhằm thoả mãn những nhu cầu thiết yếu của người lao động trong trường hợp bị giảm hoặc bị mất thu nhập , mất việc làm. Mục tiêu này được tổ chức lao động quốc tế (ILO) cụ thể hoá như sau: + Đền bù cho người lao động những khoản thu nhập bị mất để đảm bảo nhu cầu sinh sống thiết yếu cuả họ. + Chăm sóc sức khoẻ và chống bệnh tật + Xây dựng điều kiện sống đáp ứng các nhu cầu của dân cư và các nhu cầu đặc biệt của người già, người tàn tật và trẻ em. Với những bản chất trên, BHXH đã trở thành một trong những quyền con người và được Đại hội đồng Liên hợp quốc thừa nhận và ghi vào “Tuyên ngôn nhân quyền ngày 10/02/1948: “Tất cả mọi người với tư cách là thành viên của BHXH có quyền hưởng BHXH, quyền đó được đặt cơ sở trên sự thoả mãn các quyền về kinh tế, xã hội và văn hoá nhu cầu cho nhân cách và sự tự do phát triển”. 2/ Đối tượng của BHXH Đối tượng của BHXH là thu nhập của người lao động bị biến động giảm hoặc mất đi do bị giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc làm của những người tham gia BHXH . Đối tượng tham gia BHXH là người lao động và người sử dụng lao động. Tuy vậy, tuỳ theo điều kiện phát triển kinh tế - xã hội của mỗi nước mà đối tượng này có thể là tất cả hoặc một bộ phận những người lao động đó. Trong thời kỳ đầu triển khai BHXH thì hầu hết các nước chỉ thực hiện BHXH với các viên chức Nhà nước, những người làm công hưởng lương và Việt nam cũng không phải là một ngoại lệ, vì: - áp dụng đối với những đối tượng này trước hết thể hiện được bản chất của BHXH là mối quan hệ ba bên - Những người làm công ăn lương có mức thu nhập ổn định và do đó việc đóng góp của họ thường dễ dàng hơn - Việc áp dụng đối với các đối tượng này phù hợp với trình độ tổ chức, quản lý của BHXH trong thời kỳ đầu. Tuy nhiên cùng với sự phát triển của nền kinh tế, mức thu nhập của người dân ngày càng gia tăng thì đòi hỏi về an toàn trong cuộc sống đối với mỗi người, mỗi gia đình ngày càng được quan tâm đúng mức. Chính vì vậy kể từ khi ra đời đến nay, đối tượng tham gia BHXH không ngừng được mở rộng, từ đó góp phần đảm bảo sự công bằng giữa tất cả những người lao động thuộc mọi thành phần, lĩnh vực kinh tế khác nhau. 3/ Chức năng của BHXH BHXH có các chức năng chủ yếu sau: Một là, chức năng thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập cho người lao động tham gia bảo hiểm khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập do mất khả năng lao động hoặc mất việc làm. Sự đảm bảo thay thế hoặc bù đắp này chắc chắn sẽ xảy ra và suy cho cùng, mất khả năng lao động sẽ đến với tất cả mọi người khi hết tuổi lao động theo các điều kiện quy định của BHXH. Còn mất việc làm và mất khả năng lao động tạm thời làm giảm hoặc mất thu nhập, người lao động cũng sẽ được hưởng trợ cấp BHXH với mức hưởng phụ thuộc vào các điều kiện cần thiết, thời điểm và thời hạn phải đúng với quy định. Đây là chức năng cơ bản nhất của BHXH, nó quyết định nhiệm vụ, tính chất và cả cơ chế hoạt động của BHXH. Hai là, chức năng phân phối và phân phối lại thu nhập giữa những người tham gia BHXH. Theo chức năng này, BHXH thực hiện phân phối lại thu nhập theo cả chiều dọc và chiều ngang. Phân phối lại giữa những người lao động có thu nhập cao và thấp, giữa những người khoẻ mạnh đang còn làm việc với những người ốm yếu phải nghỉ việc…Thực hiện chức năng này có nghĩa là BHXH đã góp phần thực hiện công bằng xã hội. Ba là, chức năng kích thích người lao động hăng hái lao động sản xuất, nâng cao năng suất lao động cá nhân và năng suất lao động xã hội. Chức năng này biểu hiện ở chỗ: ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp hoặc về già người lao động được BHXH trợ cấp thay thế nguồn thu nhập bị mất, vì thế mà cuộc sống của họ và gia đình họ luôn được đảm bảo ổn định và có chỗ dựa. Do đó, người lao động luôn yên tâm lao động sản xuất, từ đó nâng cao năng suất lao động và hiệu quả kinh tế. Bốn là chức năng điều hoà lợi ích giữa ba bên: người lao động, người sử dụng lao động và Nhà nước. Thực hiện chức năng này tức là BHXH đã giải quyết được những mâu thuẫn nội tại giữa người lao động và người sử dụng lao động. Đặc biệt là cả hai bên đều thấy nhờ có BHXH mà mình được bảo vệ và có lợi, từ đó làm cho họ hiểu nhau hơn và gắn bó lợi ích được với nhau. Về phía Nhà nước, chi cho BHXH là cách thức chi hiệu quả nhất nhưng vẫn giải quyết dược những khó khăn về đời sống cho người lao động và gia đình họ, từ đó góp phần làm cho sản xuất ổn định, kinh tế chính trị và xã hội dược phát triển an toàn hơn. 4/ Tính tất yếu khách quan của sự tồn tại và phát triển của BHXH 4.1/ Tính tất yếu khách quan Trong cuộc sống hàng ngày, để có thể tồn tại và phát triển, con người luôn phải tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh để tạo nên những sản phẩm cần thiết phục vụ cho nhu cầu của bản thân và gia đình. Như vậy, việc thoả mãn và đáp ứng những nhu cầu đó phụ thuộc vào khả năng lao động của chính họ - những người lao động chính trong gia đình. Trong thực tế, không phải lúc nào con người cũng gặp thuận lợi, có đầy đủ thu nhập và mọi điều kiện sống bình thường. Trái lại, có rất nhiều trường hợp có thể xảy ra làm cho họ bị giảm hoặc mất thu nhập gây xáo trộn cuộc sống sinh hoạt bình thường của gia đình họ. Chẳng hạn như bất ngờ bị ốm đau, tai nạn lao động, mất việc làm, hay khi tuổi già khả năng lao động và tự phục vụ bị suy giảm… Trong những trường hợp đó, thu nhập của họ có thể bị giảm hoặc không còn nhưng các nhu cầu trong cuộc sống không vì thế mà giảm hoặc mất đi mà thậm chí còn tăng lên do xuất hiện những nhu cầu mới như khám chữa bệnh, điều trị, ốm đau, tai nạn… Đồng thời, sản xuất càng phát triển thì những rủi ro đối với người lao động và những khó khăn đối với người sử dụng lao động càng nhiều và trở nên phức tạp, dẫn đến mối quan hệ chủ thợ ngày càng căng thẳng. Sản xuất kinh doanh bị gián đoạn, từ đó làm cho cuộc sống của người lao động gặp rất nhiều khó khăn. Trên thực tế, con người đã tìm ra nhiều cách giải quyết khác nhau như đùm bọc, san sẻ lẫn nhau trong nội bộ cộng đồng, đi vay hay dựa vào sự cứu trợ của nhà nước… Nhưng rõ ràng những cách đó hoàn toàn thụ động và không chắc chắn. Xuất phát từ những đòi hỏi thực tế cùng với những ưu việt của mình, sự ra đời của BHXH là hoàn toàn khách quan trong đời sống kinh tế xã hội của mỗi nước. 4.2/ Quá trình hình thành và phát triển BHXH trên thế giới BHXH có mầm mống từ thế kỷ XIII khi nền công nghiệp và kinh tế hàng hoá bắt đầu phát triển. Ban đầu BHXH mang tính chất rất sơ khai và hoạt động với phạm vi nhỏ hẹp. Từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XVIII, khi những nghiệp đoàn thủ công ra đời, họ đã lập ra các loại quỹ nhằm bảo vệ quyền lợi, tương thân, tương ái khi ốm đau, tai nạn, bệnh nghề nghiệp…Trong thời kỳ cách mạng ở châu âu, số lượng người lao động làm công ăn lương tăng lên, đời sống của họ phụ thuộc vào thu nhập nghề nghiệp và thái độ đối xử của giới chủ. Những rủi ro, tai nạn lao động… xảy ra làm thu nhập của họ bị giảm hoặc mất hẳn. Do đó bên cạnh việc giúp đỡ lẫn nhau, giai cấp công nhân đã tự nhận thức và đấu tranh chống lại giới chủ, đòi giới chủ phải quan tâm đến những người lao động khi họ bị ốm đau hoặc mất khả năng lao động…. Năm 1883, nước Phổ (Cộng hoà Liên bang Đức ngày nay) đã ban hành luật bảo hiểm ốm đau đầu tiên trên thế giới đánh dấu sự ra đời của BHXH. Năm 1884, bảo hiểm tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp ra đời. Năm 1889 phát triển thêm bảo hiểm tuổi già và bảo hiểm tàn tật. Tiếp theo Đức, BHXH lan sang các nước châu âu khác như Anh (1877), Pháp (1899), Liên Xô (1917) … BHXH đã trở thành một trong những quyền của con người và được xã hội thừa nhận. Tuyên ngôn nhân quyền của Liên hợp quốc (10/12/1948) đã ghi “Tất cả mọi người với tư cách là thành viên của xã hội có quyền hưởng BHXH”. Ngày 04/06/1952, tổ chức lao động quốc tế (ILO) ký công ước số 102 về “BHXH cho người lao động” đã khẳng định tất yếu các nước phải tiến hành BHXH cho người lao động và gia đình họ, đồng thời công ước cũng khuyến khích các BHXH trên thế giới phải bao gồm 09 chế độ sau: Chăm sóc y tế Trợ cấp ốm đau Trợ cấp thất nghiệp Trợ cấp tuổi già Trợ cấp tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp Trợ cấp gia đình Trợ cấp sinh đẻ Trợ cấp khi tàn phế Trợ cấp cho người còn sống (trợ cấp mất người nuôi dưỡng). Tuỳ theo điều kiện kinh tế – xã hội, các chế độ trên được thực hiện ở mỗi nước là khác nhau. Tuy nhiên, một nước được gọi là có hệ thống BHXH thì phải thực hiện ít nhất ba chế độ, trong đó ít nhất phải có một trong năm chế độ là: Trợ cấp thất nghiệp, trợ cấp tuổi già, trợ cấp tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp, trợ cấp khi tàn phế, trợ cấp cho người còn sống. 4.3. Quá trình hình thành và phát triển của BHXH ở nước ta BHXH nước ta có mầm mống dưới thời phong kiến Pháp thuộc. Tuy nhiên, trong thời kỳ này nó chỉ được áp dụng cho các công chức, quân nhân Việt nam và các lực lượng vũ trang của Pháp ở Đông dương. Sau cách mạng tháng tám, trên cơ sở hiến pháp năm 1946 của nước Việt nam dân chủ cộng hoà, Chính phủ đã quy định về các chế độ trợ cấp ốm đau, tai nạn, hưu trí cho công nhân viên chức nhà nước. Tuy nhiên, do chiến tranh và khả năng kinh tế có hạn nên chỉ một bộ phận lao động xã hội được hưởng quyền lợi BHXH. Ngày 27/12/1961, Nhà nước ban hành nghị định 128/CP của Chính phủ về “Điều lệ tạm thời thực hiện các chế độ BHXH đối với công nhân viên chức” và được thi hành từ ngày 01/01/1962. Sau hơn 20 năm thực hiện chế độ BHXH đã bộc lộ nhiều hạn chế. Do đó, ngày 15/05/1985 Chính phủ đã ban hành Nghị định 236/HĐBT về việc sửa đổi, bổ sung chính sách và chế độ BHXH đối với người lao động. Nội dung chủ yếu của Nghị định này là điều chỉnh mức đóng và mức hưởng. Tuy vậy, chính sách BHXH ở Việt nam vẫn còn nhiều hạn chế, không phù hợp với cơ chế mới. Vì vậy, ngày 22/06/1993 Chính phủ đã ban hành nghị định 43/CP quy định tạm thời các chế độ BHXH áp dụng cho các thành phần kinh tế, đánh dấu bước đổi mới của BHXH nước ta. Sau khi bộ luật lao động được Quốc hội thông qua ngày 16/06/1994, Chính phủ đã ban hành nghị định 12/CP ngày 26/01/1995 về điều lệ BHXH đối với người lao động trong các thành phần kinh tế. Nội dung của bản điều lệ này đã góp phần thực hiện công bằng xã hội, làm lành mạnh hoá thị trường lao động, đồng thời đáp ứng được sự mong mỏi của đông đảo người lao động trong các thành phần kinh tế của cả nước. Theo điều 02 của nghị định này, BHXH nước ta gồm năm chế độ sau đây: Chế độ trợ cấp ốm đau Chế độ trợ cấp thai sản Chế độ trợ cấp tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp Chế độ hưu trí Chế độ tử tuất. II/ Vai trò của BHXH: Kể từ khi ra đời, BHXH đã không ngừng được mở rộng, số đối tượng tham gia BHXH ngày càng tăng. Cho đến nay, khái niệm BHXH đã trở nên quen thuộc và gần gũi với mọi người lao động thuộc tất cả các thành phần kinh tế. Có được kết quả đó là nhờ vai trò hết sức to lớn của BHXH. Vai trò đó được thể hiện: Thứ nhất, người tham gia BHXH được trợ cấp một phần thu nhập bị giảm hoặc mất đi do ốm đau, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, sinh đẻ, tuổi già hoặc chết. Nhờ đó mà người lao động và gia đình họ có thể ổn định cuộc sống ở mức bình thường khi những sự kiện đó xảy ra. Đặc biệt, khi lao động chính trong gia đình không may gặp phải những rủi ro như: tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp dẫn đến mất khả năng lao động tạm thời hoặc vĩnh viễn, hoặc trong trường hợp người lao động tử vong thì lúc này trợ cấp BHXH là hết sức cần thiết và quan trọng. Đây là vai trò cơ bản, quan trọng và bao trùm nhất của BHXH. Thứ hai, BHXH là chỗ dựa tinh thần cho người lao động, giúp họ yên tâm trong cuộc sống, trong sản xuất kinh doanh, từ đó góp phần làm cho sản xuất kinh doanh phát triển ổn định. BHXH là loại bảo hiểm có tính cộng đồng, tương trợ và nhân văn sâu sắc nhất trong các loại hình bảo hiểm. Thứ ba, BHXH là một bộ phận quan trọng trong chính sách bảo đảm xã hội của nước ta, thực hiện BHXH có nghĩa là đã góp phần đảm bảo an toàn xã hội, đồng thời thể hiện được sự quan tâm của nhà nước đối với người lao động thuộc mọi thành phần kinh tế. Thứ tư, BHXH làm cho mối quan hệ giữa chủ và thợ được hài hoà hơn, hạn chế những mâu thuẫn phát sinh, đồng thời giải quyết lợi ích cơ bản giữa ba bên : người lao động, người sử dụng lao động và nhà nước, từ đó góp phần đảm bảo an toàn xã hội. Thứ năm, BHXH còn tập hợp được một lượng tiền lớn thông qua sự đóng góp của người lao động, người sử dụng lao động và sự hỗ trợ của nhà nước tạo thành quỹ BHXH. Quỹ này ngoài việc sử dụng cho hai mục đích chính là chi trả trợ cấp cho các chế độ BHXH và chi phí cho sự nghiệp quản lý BHXH, phần quỹ nhàn rỗi còn được đem đầu tư sinh lời, từ đó góp phần phát triển kinh tế, tạo thêm công ăn việc làm. Ngoài ra, hoạt động BHXH còn thu hút một số lao động nhất định, góp phần giảm bớt tình trạng thất nghiệp cho xã hội. Phần II Tình hình thực hiện BHXH trong các doanh nghiệp ngoài quốc doanh ở Việt nam I/ Khái quát về Doanh nghiệp ngoài quốc doanh (DNNQD) 1/ Nhận diện DNNQD Để có thể nhận diện DNNQD một cách chính xác, chúng ta sẽ đi từ việc phân định các thành phần kinh tế ở nước ta. Cùng với sự phát triển kinh tế - xã hội, việc xác định các thành phần kinh tế trong nền kinh tế ở nước ta đã có sự thay đổi nhất định. Đại hội Đảng lần thứ VI và VII xác định có kinh tế quốc doanh, kinh tế tập thể, kinh tế gia đình và kinh tế tư nhân. Đại hội Đảng lần thứ VIII xác định có: kinh tế Nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế cá thể, kinh tế tư bản nhà nước và kinh tế tư bản tư nhân. Với chủ chương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, Đại hội Đảng lần thứ IX đã khẳng định “Các thành phần kinh tế kinh doanh theo pháp luật đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế định hướng xã hội chủ nghĩa, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và phát triển lành mạnh. Théo đó các thống kê chính thức của Nhà nước Việt nam gần đây sử dụng cách phân chia: kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân, kinh tế cá thể, kinh tế hỗn hợp và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. đồng thời có sự phân chia tổng hợp hơn thành khu vực kinh tế trong nước (gồm khu vực kinh tế nhà nước, khu vực kinh tế ngoài quốc doanh) và khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Với cách phân định hiện nay có thể xác định thành phần kinh tế ngoài quốc doanh chỉ bao gồm: kinh tế tư nhân, kinh tế cá thể và kinh tế hỗn hợp. Đứng trên giác độ khác cũng có thể nói thành phần kinh tế ngoài quốc doanh gồm các công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, doanh nghiệp tư nhân, công ty hợp danh và các hộ cá nhân hoạt động sản xuất kinh doanh. Thông qua việc xác định thành phần kinh tế ngoài quốc doanh đồng thời kết hợp với định nghĩa về doanh nghiệp trong luật doanh nghiệp chúng ta có thể xác định DNNQD bao gồm: công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, doanh nghiệp tư nhân (không bao gồm các hộ cá nhân hoạt động sản xuất kinh doanh). 2/ Vai trò kinh tế xã hội của DNNQD DNNQD là một bộ phận cấu thành không thể thiếu trong nền kinh tế ở hầu hết các nước trên thế giới. Tuy nhiên, trước đây trong một thời gian khá dài chúng ta đã không công nhận sự tồn tại của khu vực kinh tế này làm cho nó phải hoạt động dưới nhiều hình thức khác nhau hoặc dưới dạng kinh tế tập thể. Những năm gần đây, với sự thừa nhận nền kinh tế nhiều thành phần, các DNNQD đã thực sự khởi sắc và thể hiện vai trò to lớn của mình trong nền kinh tế. Đặc biệt với điều kiện của nước ta hiện nay: kinh tế kém phát triển, ngân sách bội chi,… chúng ta phải tiến hành công nghiệp hoá và hiện đại hoá trong điều kiện phải chịu nhiều áp lực, thêm vào đó tình trạng thất nghiệp gia tăng đang là một gánh nặng cho xã hội. Trong điều kiện đó, vai trò của NDNQD càng trở nên quan trọng, vai trò đó thể hiện: Một là, các DNNQD có vai trò quan trọng trong sự tăng trưởng của nền kinh tế. Chúng đóng góp rất lớn vào sự gia tăng của tổng sản phẩm quốc nội. ở Việt nam, theo đánh giá của Viện nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương thì hiện nay các DNNQD của cả nước đóng góp khoảng 7% GDP của cả nước. Hai là, tác động kinh tế – xã hội lớn nhất của các DNNQD là giải quyết một số lượng lớn chỗ làm việc cho dân cư, tăng thu nhập cho người lao động, góp phần xoá đói giảm nghèo. Theo thống kê thì số lượng lao động làm việc trong khu vực này tăng khoảng 70.000 người mỗi năm. Có thể nói đây là một sự đóng góp to lớn của các DNNQD. Nó không chỉ làm tăng thu nhập, cải thiện đời sống, tạo nguồn thu quan trọng cho ngân sách nhà nước mà từ đó còn góp phần hạn chế tệ nạn xã hội (do không có việc làm), khai thác được nguồn nhân lực dồi dào của đất nước. Ba là, do tính chất nhỏ lẻ, dễ phân tán và yêu cầu về số lượng vốn ban đầu không lớn nên các DNNQD có khả năng huy động được tối đa mọi nguồn vốn nhỏ lẻ, nhàn rỗi trong các tầng lớp dân cư để đầu tư vào hoạt động sản xuất kinh doanh. Bốn là, các DNNQD góp phần làm cho nền kinh tế năng động, hiệu quả hơn. Do số lượng các doanh nghiệp tăng nhanh đã làm tăng tính cạnh tranh, giảm bớt rủi ro của nền kinh tế, đồng thời làm tăng số lượng, chủng loại hàng hoá, dịch vụ trong nền kinh tế. Ngoài ra, các DNNQD có khả năng thay đổi mặt hàng, công nghệ và chuyển hướng kinh doanh nhanh, điều đó làm cho nền kinh tế năng động hơn. Sự có mặt của các DNNQD trong nền kinh tế cũng có tác dụng hỗ trợ các doanh nghiệp quốc doanh kinh doanh có hiệu quả hơn. Năm là, các DNNQD có vai trò to lớn đối với quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đặc biệt đối với khu vực nông thôn. Sự phát triển của các DNNQD ở nông thôn góp phần thúc đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, làm cho công nghiệp và các ngành thương mại – dịch vụ phát triển. Còn ở thành thị, các DNNQD phát triển cũng làm tăng tỷ trọng khu vực công nghiệp, dịch vụ và làm thu hẹp dần tỷ trọng khu vực nông nghiệp trong cơ cấu kinh tế quốc dân. Những vai trò đó chứng tỏ chính sách phát triển khu vực DNNQD của Đảng và Nhà nước ta là hoàn toàn đúng đắn, không những xuất phát từ thực tiễn phát triển kinh tế nước ta mà còn đáp ứng được yêu cầu của quy luật khách quan “quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của tư liệu sản xuất”. 3/ Thực trạng phát triển các DNNQD ở nước ta hiện nay Đại hội Đảng lần thứ VI (tháng 12/1986) đã đánh dấu bước ngoặt trong việc đổi mới toàn diện, sâu sắc đời sống kinh tế - xã hội, trong đó khẳng định nền kinh tế nước ta gồm nhiều thành phần tồn tại lâu dài. Đại hội Đảng lần thứ VII (năm 1991)và lần thứ VIII (năm 1996) tiếp tục khẳng định những tư tưởng của Đại hội VI, đồng thời nhấn mạnh: Nhà nước thực hiện nhất quán chính sách kinh tế nhiều thành phần, không phân biệt đối xử, không tước đoạt tài sản hợp pháp, không gò ép tập thể hoá tư liệu sản xuất, không áp đặt hình thức kinh doanh, khuyến khích các hoạt động có ích cho quốc tế dân sinh. Trên cơ sở các quan điểm đổi mới của Đảng, cho đến nay các DNNQD không chỉ phát triển mạnh mẽ về số lượng, về vốn mà cả về hình thức hoạt động. Nếu như cuối năm 1991 cả nước có khoảng 130 DNNQD thì đến cuối năm 1999, con số này đã lên tới khoảng xấp xỉ 40.000 doanh nghiệp. Trong sáu tháng đầu năm 2000, khoảng 7000 doanh nghiệp đăng ký thành lập và đến cuối tháng 10/2000 đã có hơn 10.000 doanh nghiệp mới được đăng ký thành lập. Tính đến cuối năm 2000, cả nước đã có khoảng trên 50.000 DNNQD. Tốc độ tăng trưởng năm 2000 là chưa từng có so với trước đó, nó cho thấy tiềm năng phát triển của các DNNQD ở nước ta. Biểu 1: Số lượng các DNNQD tính theo địa vị pháp lý (1996-2000) 1996 1997 1998 1999 2000 Tổng số DNNQD 31.143 33.713 36.753 39.915 54.915 Doanh nghiệp tư nhân 21.905 23.009 24.998 26.989 35.145 Công ty TNHH 9.316 10.420 11.384 12.473 18.122 Công ty cổ phần 276 302 371 453 1.648 Tốc độ tăng hàng năm 8,3% 9,0% 8,6% 37,5% (Nguồn: Phát triển khu vực DNNQD – dự án VIE về chiến lược phát triển Kinh tế – xã hội 2001 – 2010) Sau khi có luật doanh nghiệp ra đời (01/01/2001), số lượng DNNQD tăng lên nhanh chóng. Tính đến ngày 31/12/2001 đã có khoảng gần 70.000 DNNQD, tăng 1,8 lần so với năm 1998. Cùng với sự gia tăng nhanh chóng về số lượng các DNNQD thì số lao động được thu hút vào khu vực này cũng không ngừng tăng lên. Tính đến cuối năm 2000, số lao động làm việc trong các DNNQD đã lên tới gần 90.000 người, đây không phải là một con số lớn song lại hết sức có ý nghĩa trong việc chuyển đổi cơ cấu lao động ở nước ta hiện nay. Biểu 2: Cơ cấu lao động ở nước ta xét theo loại hình doanh nghiệp (Đơn vị: %) 1996 1997 1998 1999 2000 Khu vực Nhà nước 9,1 9,2 9,1 9,0 9,0 Hộ GĐ và nông dân (Kinh tế cá thể) 89,2 89 88,8 88,7 88,2 Khu vực DNNQD 1,1 1,2 1,4 1,7 2,1 Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài 0,6 0,6 0,7 0,6 0,7 Tổng cộng 100 100 100 100 100 (Nguồn: Phát triển khu vực DNNQD – dự án VIE về chiến lược phát triển Kinh tế – xã hội 2001 – 2010) Có thể thấy tỷ trọng lao động làm việc trong các DNNQD tăng lên khá đều đặn qua các năm. Đặc biệt trong ba năm trở lại đây, số lượng lao động làm việc trong khu vực này tăng lên nhanh chóng. Đến cuối năm 2000, các DNNQD đã thu hút được khoảng 2,1% tổng số lao động đang làm việc trong toàn bộ nền kinh tế. Mặc dù tỷ trọng này còn nhỏ song nó đã ghi nhận một sự gia tăng khá nổi bật (tăng lên gần 02 lần so với năm 1996). Hiện nay số lao động làm việc trong các DNNQD đã lên tới trên một triệu người. Sự gia tăng nhanh chónh này là không thể phủ nhận, có thể nói đây là sự đóng góp to lớn của khu vực DNNQD trong việc giải quyết việc làm cho số lao động dôi dư, đồng thời góp phần tạo ra sự chuyển dịch cơ cấu lao động, giảm tỷ lệ lao động trong lĩnh vực nông nghiệp ở nước ta hiện nay. Cùng với sự thuận lợi hơn về môi trường chính sách so với những năm trước dây, chính phủ sẽ tạo điều kiện hơn nữa cho sự tham gia của tư nhân và tạo ra sân chơi bình đẳng giữa các thành phần kinh tế. Chắc chắn khu vực DNNQD sẽ phát triển nhanh chóng và số lượng lao động được thu hút vào khu vực này sẽ không ngừng gia tăng trong nững năm tới. II/ Tình hình thực hiện BHXH trong các DNNQD ở nước ta 1/ Sự cần thiết phải thực hiện BHXH trong các DNNQD BHXH là chính sách lớn của Đảng và Nhà nước đối với người lao động nhằm từng bước mở rộng và nâng cao đời sống cho người lao động khi gặp rủi ro như ốm đau, tai nạn, bệnh nghề nghiệp, thai sản, hết tuổi lao động… Mục đích cuối cùng của BHXH là về con người và cho con người. Hoạt động của BHXH mang tính chất nhân văn rất cao, vì vậy nếu BHXH chỉ được thực hiện trong công chức Nhà nước thì sẽ không tạo được sự bình đẳng quyền làm việc và hưởng phúc lợi xã hội giữa những người lao động trong các thành phần kinh tế. Cùng với sự tăng trưởng khá nhanh trong những năm gần đây, các DNNQD đã góp phần to lớn trong việc giải quyết công ăn việc làm cho hàng triệu lao động, đồng thời cũng có những đóng góp đáng kể vào quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Dó đó, việc thực hiện BHXH trong các DNNQD là hết sức cần thiết, nó không chỉ giúp người cho lao động trong khu vực này được đảm bảo lợi ích tương đối ổn định kể cả trong những hoàn cảnh rủi ro ngẫn nhiên mà còn thể hiện sự quan tâm của Đảng đối với người lao động trong mọi thành phần kinh tế, từ đó góp ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLVV028.doc