Lời mở đầu
BHXH là một chính sách lớn của Đảng và Nhà nớc ta góp phần đảm bảo ổn định đời sống cho cán bộ, công chức, quân nhân và ngời lao động, ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội, thúc đẩy sự nghiệp xây dựng đất nớc, bảo vệ tổ quốc. Chính vì vậy, từ khi thành lập nớc đến nay, Nhà nớc đã quan tâm thờng xuyên đến việc thực hiện chế độ, chính sách BHXH đối với cán bộ, công chức, quân nhân và ngời lao động của các thành phần kinh tế.
Để hoạt động BHXH tồn tại và phát huy đợc tác d
77 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1313 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Tình hình quản lý thu - Chi quỹ Bảo hiểm xã hội tại Bảo hiểm xã hội huyện Văn Giang, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ụng của mình đối với ngời lao động, ngời sử dụng lao động và Nhà nớc thì vấn đề đầu tiên là phải quan tâm đến hoạt động của quỹ BHXH vì quỹ BHXH là xơng sống của bất kỳ một hệ thống BHXH nào, muốn vậy cơ quan BHXH phải thực hiện tốt công tác thu-chi quỹ BHXH.
Cơ quan BHXH huyện Văn Giang đợc thành lập và bắt đầu đi vào hoạt động từ 1/01/2000 đến nay đã đạt đợc những thành tựu đáng kể về hoạt động thu-chi quỹ BHXH: nh thu quỹ BHXH ngày càng tăng, chi đúng đối tợng, chi kịp thời... bên cạnh đó vẫn còn một số hạn chế cần phải khắc phục, một số cơ sở lợi dụng kẽ hở của pháp luật để trốn nộp BHXH, một số cơ sở nợ đọng BHXH ...điều này làm cho hiệu quả hoạt động của quỹ BHXH còn cha cao và còn phải nhờ vào Ngân sách Nhà nớc. Nh vậy, vấn đề quản lý hoạt động thu-chi quỹ BHXH có một ý nghĩa rất lớn đối với sự phát triển của hệ thống BHXH Việt Nam cũng nh BHXH các tỉnh, huyện trong cả nớc. Do vậy, trong quá trình thực tập tại cơ quan BHXH huyện Văn Giang em đã chọn đề tài: “Tình hình quản lý thu-chi quỹ BHXH tại BHXH huyện Văn Giang” làm chuyên đề thực tập. Nội dung của chuyên đề ngoài lời mở đầu và kết luận bao gồm các phần sau:
Chơng I : Tổng quan về BHXH và quỹ BHXH
Chơng II: Tình hình quản lý thu-chi quỹ BHXH tại cơ quan BHXH
huyện Văn Giang
Chơng III: Một số ý kiến và giải pháp nhằm hoàn thiện công tác thu-chi
quỹ BHXH tại cơ quan BHXH huyện Văn Giang
Chơng I
tổng quan về bảo hiểm xã hội và quỹ bHXH
sự cần thiết phải có bảo hiểm xã hội
1. Sự ra đời của BHXH.
Con ngời muốn tồn tại và phát triển trớc hết phải ăn, mặc, ở và đi lại v.v... Để thoả mãn những nhu cầu tối thiểu đó, ngời ta phải tiến hành lao động để làm ra những sản phẩm cần thiết. Khi sản phẩm đợc tạo ra ngày càng nhiều thì đời sống con ngời ngày càng đầy đủ và hoàn thiện, xã hội ngày càng văn minh hơn. Nh vậy, việc thoả mãn những nhu cầu sinh sống và phát triển của con ngời phụ thuộc vào chính khả năng lao động của họ. Nhng trong thực tế, không phải lúc nào con ngời cũng chỉ gặp thuận lợi, có đầy đủ thu nhập và mọi điều kiện sinh sống bình thờng. Trái lại, có rất nhiều trờng hợp khó khăn bất lợi, ít nhiều ngẫu nhiên phát sinh làm cho ngời ta bị giảm hoặc mất thu nhập hoặc các điều kiện sinh sống khác. Chẳng hạn, bất ngờ ốm đau hay bị tai nạn trong lao động, mất việc làm, khi tuổi già khả năng lao động và khả năng tự phục vụ bị suy giảm v.v... Khi rơi vào những trờng hợp này, các nhu cầu cần thiết trong cuộc sống không vì thế mà mất đi, trái lại có cái còn tăng lên, thậm chí còn xuất hiện thêm một số nhu cầu mới nh: Cần đợc khám chữa bệnh và điều trị khi ốm đau; tai nạn, thơng tật nặng cần phải có ngời chăm sóc nuôi dỡng v.v... Bởi vậy, muốn tồn tại và ổn định cuộc sống, con ngời và xã hội loài ngời phải tìm ra và thực tế đã tìm ra nhiều cách giải quyết khác nhau nh: san sẻ, đùm bọc lẫn nhau trong nội bộ cộng đồng, đi vay đi xin hoặc dựa vào sự cứu trợ của Nhà nớc v.v...Rõ ràng, những cách đó là hoàn toàn thụ động và không chắc chắn.
Khi nền kinh tế hàng hoá phát triển, việc thuê mớn nhân công trở nên phổ biến. Lúc đầu ngời chủ chỉ cam kết trả công lao động, nhng về sau đã phải cam kết cả việc bảo đảm cho ngời làm thuê có một số thu nhập nhất định để họ trang trải những nhu cầu thiết yếu khi không may bị ốm đau, tai nạn, thai sản v.v...Trong thực tế, nhiều khi các trờng hợp trên không xảy ra và ngời chủ không phải chi ra một đồng nào. Nhng cũng có khi xảy ra dồn dập, buộc họ phải bỏ ra một lúc nhiều khoản tiền lớn mà họ không muốn.Vì thế, mâu thuẫn chủ- thợ phát sinh, giới thợ liên kết đấu tranh buộc giới chủ phải thực hiện cam kết. Cuộc đấu tranh này diễn ra ngày càng rộng lớn và tác động nhiều mặt đến đời sống kinh tế-xã hội. Do vậy, Nhà nớc đã phải đứng ra can thiệp và điều hoà mâu thuẫn. Sự can thiệp này một mặt làm tăng đợc vai trò của Nhà nớc, mặt khác buộc cả giới chủ và thợ phải đóng góp một khoản tiền nhất định hàng tháng đợc tính toán chặt chẽ dựa trên cơ sở xác suất rủi ro xảy ra đối với ngời làm thuê. Số tiền đóng góp của cả chủ và thợ hình thành một quỹ tiền tệ tập trung trên phạm vi quốc gia. Quỹ này còn đợc bổ sung từ Ngân sách Nhà nớc khi cần thiết nhằm đảm bảo đời sống cho ngời lao động khi gặp phải những biến cố bất lợi. Chính nhờ những mối quan hệ ràng buộc đó mà rủi ro, bất lợi của ngời lao động đợc dàn trải, cuộc sống của ngời lao động và gia đình họ ngày càng đợc đảm bảo ổn định. Giới chủ cũng thấy mình có lợi và đợc bảo vệ, sản xuất kinh doanh diễn ra bình thờng, tránh đợc những xáo trộn không cần thiết. Vì vậy, nguồn quỹ tiền tệ tập trung đợc thiết lập ngày càng lớn và nhanh chóng. Khả năng giải quyết các phát sinh lớn của quỹ ngày càng đảm bảo.
Toàn bộ những hoạt động với những mối quan hệ ràng buộc chặt chẽ trên đợc thế giới quan niệm là BHXH đối với ngời lao động.
Vậy BHXH là sự đảm bảo thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập đối với ngời lao động khi họ gặp phải những biến cố làm giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc làm trên cơ sở hình thành và sử dụng một quỹ tiền tệ tập trung nhằm đảm bảo cuộc sống cho ngời lao động và gia đình họ góp phần đảm bảo an toàn xã hội.
2. Sự cần thiết phải có hệ thống BHXHý
Trong thực tế cuộc sống không phải ngời lao động nào cũng có đủ điều kiện về sức khoẻ, khả năng lao động hoặc những may mắn khắc để hoàn thành nhiệm vụ lao động, công tác hoặc tạo nên cho mình và gia đình một cuộc sống ấm no hạnh phúc. Ngợc lại, không mấy ai tránh khỏi những rủi ro, bất hạnh nh: ốm đau, tai nạn, già yếu, chết hoặc thiếu công việc làm do những ảnh hởng của tự nhiên, của những điều kiện sống và sinh hoạt cũng nh các tác nhân xã hội khác.
Muốn tồn tại con ngời và xã hội loài ngời phải tìm ra và đã tìm ra nhiều cách giải quyết. Để khắc phục những rủi ro, bất hạnh, giảm bớt khó khăn cho bản thân và gia đình thì ngoài việc tự mình khắc phục, ngời lao động phải đợc sự bảo trợ của cộng đồng tập thể, của các tổ chức cơ quan Nhà nớc và xã hội. Sự bảo trợ này không thể bằng lời nói, bằng sự động viên thăm hỏi chung chung mà phải bằng những nguồn vật chất cần thiết nhằm phục hồi nhanh chóng sức khỏe, duy trì sức lao động xã hội góp phần làm giảm bớt những khó khăn của bản thân và gia đình ngời lao động khi có những hụt hẫng về thu nhập trong các trờng hợp ốm đau, thai sản, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp, mất việc làm hoặc khó khăn khi tuổi về già v.v...Tất cả những cái đó đã trở thành mối đe doạ đối với cuộc sống bình thờng của ngời lao động. Sự đối mặt với cuộc sống thật nan giải. Tình cảnh này đã đa đến những hành động tập thể phát huy truyền thống tơng thân, tơng ái vốn có từ trong nhân dân, đồng thời cũng đòi hỏi giới chủ, giới thợ và Nhà nớc từng bớc can thiệp để duy trì lực lợng công nhân cần thiết cho xã hội và đảm bảo cuộc sống cho ngời lao động cùng gia đình họ, giúp cho sản xuất kinh doanh ổn định và phát triển, từ đó làm cho nền kinh tế ngày một phát triển hơn.
Qua nhiều thời kỳ, cùng với sự tranh chấp giữa nhiều vấn đề của giới chủ và giới thợ, cùng với sự đổi mới của quá trình phát triển kinh tế xã hội của đất nớc, cùng với trình độ chuyên môn và nhận biết về BHXH của ngời lao động ngày càng đợc nâng cao, cách chủ động khắc phục khi không may xảy ra rủi ro với họ ngày càng đợc hoàn thiện.Tuy nhiên chỉ khi có sự ra đời của BHXH thì những tranh chấp cũng nh những khó khăn mới đợc giải quyết một cách ổn thoả và có hiệu quả nhất. Đó cũng chính là cách giải quyết chung nhất cho xã hội loài ngời trong quá trình phát triển đất nớc.
Sự xuất hiện của BHXH là một tất yếu khách quan khi mà mọi thành viên trong xã hội đều cảm thấy sự cần thiết phải tham gia hệ thống BHXH và sự cần thiết phải tiến hành bảo hiểm cho ngời lao động. Vì vậy, BHXH đã trở thành nhu cầu và quyền lợi của ngời lao động và đợc thừa nhận là một nhu cầu tất yếu khách quan, một trong những quyền lợi của con ngời nh trong Tuyên ngôn nhân quyền của Đại hội đồng Liên hợp quốc họp thông qua ngày 10-12-1948 đã nêu:
“ Tất cả mọi ngời với t cách là thành viên của xã hội có quyền hởng BHXH”.
II. Vai trò và nguyên tắc của BHXH
Vai trò của BHXH
1.1. Đối với ngời lao động
Trong cuộc sống hàng ngày, con ngời không thể tránh khỏi những rủi ro nh ốm đau, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, thai sản, già yếu rồi chết ..Tất cả những rủi ro này đều có thể xảy ra đối với bất cứ ngời lao động nào, tại bất cứ thời điểm nào trong bất cứ hoàn cảnh nào trong cuộc sống hàng ngày của con ngời. Nhất là trong giai đoạn hiện nay khi đất nớc đang ngày càng hoàn thiện quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá thì những rủi ro này lại càng diễn ra một cách thờng xuyên và có tính chất ngày càng phổ biến hơn vì sự biến động về thị trờng lao động và sản xuất kinh doanh đa dạng hơn, phức tạp hơn. Khi những rủi ro này xảy ra với những ngời lao động thì sẽ gây cho họ những khó khăn cả về vật chất lẫn tinh thần, gây cho họ mất hoặc giảm thu nhập, từ đó gây ra những ảnh hởng không tốt không chỉ cho chính anh ta, gia đình anh ta mà còn cho cả cộng đồng xã hội loài ngời. Với t cách là một trong những chính sách kinh tế xã hội của Nhà nớc, BHXH sẽ góp phần trợ giúp cho cá nhân những ngời lao động gặp phải rủi ro, bất hạnh khắc phục những khó khăn bằng cách tạo ra cho họ những thu nhập thay thế, những điều kiện lao động thuận lợi, giúp họ ổn định đợc cuộc sống, yên tâm trong công tác, tạo cho họ một niềm tin vào tơng lai, từ đó góp phần quan trọng vào việc tăng năng xuất lao động cũng nh chất lợng công việc cho xí nghiệp, cơ quan họ đang làm nói riêng và cho toàn bộ xã hội nói chung.
1.2. Đối với ngời sử dụng lao động
Để có đợc sản phẩm phục vụ cho cuộc sống của con ngời và sự phát triển của xã hội thì cần phải có ngời tạo ra sản phẩm và nhờ vào quá trình lao động sản xuất để tạo ra sản phẩm cần thiết cho con ngời, cho xã hội. Những ngời biết vận dụng sức lao động để sản xuất ra sản phẩm, đó chính là những ngời chủ sử dụng lao động. Muốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh đợc đảm bảo thì ngời chủ phải tạo đợc mối quan hệ tốt với ngời lao động, giải quyết những vấn đề thuộc phạm vi trách nhiệm của mình đối với ngời lao động thật tốt để họ yên tâm lao động sản xuất và có niềm tin vào cuộc sống từ đó họ lao động sản xuất hăng hái hơn, tạo ra nhiều sản phẩm tốt hơn làm cho quá trình sản xuát kinh doanh của ngời chủ sử dụng lao động hoạt động đạt kết quả cao. Muốn vậy ngời chủ sử dụng lao động phải tham gia đóng BHXH cho những ngời lao động của mình để có thể đảm bảo những khoản chi trả cần thiết, kịp thời đến ngời lao động khi họ gặp những rủi ro bất chắc. Việc tham gia đóng góp BHXH cho ngời lao động của ngời chủ sử dụng lao động là góp vào quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp ngày càng phát triển hơn, nâng cao năng suất, hiệu quả lao động sản xuất của doanh nghiệp cũng nh nâng cao thu nhập cho ngời lao động và góp vào việc phát triển nền kinh tế của đất nớc.
1.3. Đối với xã hội
Trớc tiên cần phải khẳng định rằng hoạt động BHXH là một hoạt động dịch vụ, cơ quan BHXH là một “ Doanh nghiệp” sản xuất ra những dịch vụ “ bảo hiểm” cho ngời lao động, một loại dịch vụ mà bất cứ ai cũng cần đến (không phải chỉ cán bộ, công nhân viên chức mới cần). Nếu các doanh nghiệp này càng sản xuất ra nhiều loại bảo hiểm (đáp ứng đa dạng các nhu cầu) thì giá trị của những sản phẩm dịch vụ này cũng đợc tính trực tiếp vào tổng sản phẩm xã hội.
Thứ hai, với t cách là một trong những chính sách kinh tế xã hội của Nhà nớc, BHXH sẽ “ bảo hiểm” cho ngời lao động, hoạt động BHXH sẽ giải quyết những “ trục trặc”, “ rủi ro” xảy ra đối với những ngời lao động, góp phần tích cực của mình vào việc phục hồi năng lực làm việc, khả năng sáng tạo của sức lao động. Sự góp phần này tác động trực tiếp đến việc nâng cao năng suất lao động cá nhân, đồng thời góp phần tích cực của mình vào việc nâng cao năng suất lao động xã hội. Với sự trợ giúp của ngời lao động khi gặp phải rủi ro bằng cách tạo ra thu nhập thay thế thì BHXH đã gián tiếp tác động đến chính sách tiêu dùng quốc gia làm tăng sự tiêu dùng cho xã hội.
Thứ ba, với t cách là một quỹ tiền tệ tập trung, BHXH tác động mạnh mẽ tới hệ thống tài chính ngân sách Nhà nớc, tới hệ thống tín dụng tiền tệ ngân hàng. Chính vì vậy, đặt ra một yêu cầu cho quỹ BHXH phải tự bảo tồn và phát triển quỹ bằng nhiều hình thức khác nhau, trong đó có hình thức đầu t phát triển phần “ nhàn rỗi” của quỹ. Phần này có tác động không nhỏ tới sự phát triển đất nớc, góp phần tạo ra những cơ sở sản xuất kinh doanh mới, việc làm mới góp phần quan trọng trong việc tạo ra việc làm cho ngời lao đông. Từ đó góp phần giải quyết tình trạng thất nghiệp của đất nớc, góp phần tăng thu nhập cá nhân cho ngời lao động nói riêng và tăng tổng sản phẩm quốc nội cũng nh tổng sản phẩm quốc dân nói chung.
Thứ t, BHXH góp phần vào việc thực hiện công bằng xã hội, là công cụ phân phối lại thu nhập giữa những nguời tham gia BHXH. Sự phân phối lại thu nhập này đợc tiến hành thông qua hai cách: Phân phối lại theo chiều ngang giữa ngời khoẻ và ngời già, ngời đang làm việc với ngời đã nghỉ hu, ngời trẻ tuổi với ngời lớn tuổi, giữa nam với nữ, ngời đang hởng trợ cấp với ngời cha hởng trợ cấp; phân phối lại theo chiều ngang là mục tiêu quan trọng của chính sách kinh tế xã hội, giữa những ngời có thu nhập cao và ngời có thu nhập thấp. BHXH không bao hàm ý phân phối bình quân, cũng không hàm ý lấy của ngời giàu chia cho ngời nghèo một cách võ đoán. ý tởng của BHXH nhiễu điều phủ lấy giá gơng, là đoàn kết tơng trợ, phát huy tính tự thân, sống hoà nhập có tình có nghĩa giữa các nhóm, các giới bạn trong cùng cộng đồng với nhau mà vốn là tiềm lực của dân tộc ta đã đợc lịch sử chứng minh.
Một số nguyên tắc của BHXH
2.1) Mọi ngòi lao động trong mọi trờng hợp bị giảm hoặc mất khả năng lao động hoặc mất việc làm đều có quyền đợc BHXH .
Quyền đựơc BHXH của ngời lao động là một trong những biểu hiện cụ thể của quyền con ngời. Nhng khi muốn xây dựng hệ thống BHXH thì đầu tiên Nhà nớc phải tạo điều kiện và môi trờng kinh tế xã hội, về chính sách và luật pháp, về tổ chức và cơ chế quản lý cần thiết. Đồng thời, những ngời sử dụng lao động và ngời lao động phải thực hiện trách nhiệm đóng góp tài chính của mình. Không phải là cái có sẵn nên trớc hết phải tìm cách tạo ra nó. ở mỗi nớc không có sự đóng góp này thì chính sách BHXH có hay đến mấy cũng không bao giờ có BHXH trong thực tiễn. Vì vậy, thực hiện trách nhiệm đóng góp tài chính BHXH là điều kiện cơ bản nhất để ngời lao động đợc hởng quyền BHXH.
1.3. Nhà nớc và ngời sử dụng lao động có trách nhiệm phải BHXH đối với ngời lao động, ngời lao động cũng có trách nhiệm phải tự BHXH cho mình.
Đây là mối quan hệ ba bên trong nền kinh tế thị trờng, trong đó Nhà nớc có vai trò quản lý vĩ mô mọi hoạt động kinh tế xã hội trên phạm vi cả nớc. Với vai trò này Nhà nớc có trong tay mọi điều kiện vật chất của toàn xã hội, đồng thời cũng có mọi công cụ cần thiết để thực hiện vai trò của mình. Cùng với sự tăng trởng sự phát triển kinh tế xã hội, cũng có những kết quả bất lợi không mong muốn. Những kết quả bất lợi này trực tiếp hoặc gián tiếp sẽ dẫn đến những rủi ro cho ngời lao động. Khi xảy ra tình trạng nh vậy nếu không có BHXH thì Nhà nớc vẫn phải chi Ngân sách để giúp đỡ ngời lao động dới một dạng khác. Sự giúp đỡ đó chẳng những làm cho đời sống ngời lao động ổn định mà còn làm cho sản xuất kinh tế xã hội của đất nớc ổn định. Vì vậy, khi trong xã hội loài ngời xuất hiện BHXH – một dạng đảm bảo đời sống tiến bộ hơn đối với ngời lao động- so với các dạng giúp đỡ truyền thống thì Nhà nớc càng có điều kiện và càng có trách nhiệm tổ chức và tham gia dạng hoạt động đó.
Đối với ngời sử dụng lao động, mọi khía cạnh đặt ra cũng tơng tự nh trên nhng chỉ trong phạm vi một số doanh nghiệp. ở đó giữa ngời lao động và ngời sử dụng lao động có mối quan hệ rất chặt chẽ. Ngời sử dụng lao động muốn ổn định và sản xuất kinh doanh thì ngoài việc chăm lo đầu t để có máy móc thiết bị hịên đại, công nghệ tiên tiến còn phải chăm lo tay nghề và đời sống của ngời lao động mà mình sử dụng. Khi ngời lao động làm việc bình thờng thì phải trả lơng (trả công) thoả đáng cho ngời lao động. Khi họ gặp rủi ro, ốm đau, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp.. trong đó có rất nhiều trờng hợp gắn với quá trình lao động, với những điều kiện lao động cụ thể của doanh nghiệp thì phải có trách nhiệm BHXH cho họ. Chỉ có nh vậy ngời lao động mới yên tâm tích cực lao động sản xuất góp phần tăng năng suất lao động, tăng hiệu quả kinh tế cho doanh nghiệp.
Đối với ngời lao động khi gặp những rủi ro không muốn và không phải hoàn toàn hay trực tiếp do lỗi của ngời khác thì trớc hết đó là rủi ro của bản thân. Vì thế, nếu muốn đợc BHXH tức là muốn nhiều ngời khác hỗ trợ cho mình, là dàn trải rủi ro của mình cho nhiều ngời khác thì tự mình phải gánh chịu trực tiếp và trớc hết đã...Điều đó có nghĩa là bản thân ngời lao động phải có trách nhiệm tham gia BHXH để tự bảo hiểm cho mình.
1.4. BHXH phải dựa trên sự đóng góp của các bên tham gia để tự hình thành quỹ BHXH độc lập và tập trung.
ở nguyên tắc trên đã thấy rõ tính khách quan của trách nhiệm phải tham gia BHXH đối với ngời lao động của cả ba bên (Nhà nớc, ngời sử dụng lao động và ngời lao động) trong nền kinh tế thị trờng. Biểu hiện cụ thể của trách nhiệm này là đóng phí BHXH đầu kỳ. Nhờ sự đóng góp đó mà phơng thức riêng có của BHXH là dàn trải rủi ro theo nhiều chiều, tạo điều kiện để phân phối thu nhập theo cả chiều dọc và chiều ngang mới đợc thực hiện. Hơn nữa nó còn tạo ra mối quan hệ ràng buộc chặt chẽ giữa trách nhiệm với quyền lợi góp phần phòng chống những hiện tợng nhiễu trong hệ thống hoạt động mang lại nhiều lợi ích cho mọi ngời có liên quan này.
1.5. Phải lấy số đông bù số ít
Cách làm riêng có của BHXH là mọi ngời tham gia BHXH đóng góp cho bên nhận BHXH (cơ quan BHXH chuyên nghiệp) tồn tích dần thành quỹ tài chính độc lập và tập trung dùng để chi trả trợ cấp cho những ngời lao động khi và chỉ khi họ bị giảm bớt hoặc mất thu nhập theo các chế độ xác định. Mức đóng góp BHXH thờng rất thấp nên phần lớn những ngời lao động trong nớc đều có thể đóng góp dễ dàng. Nhng điều quan trọng là sự đóng góp đó đợc thực hiện đều kỳ và là đóng góp của số đông.
1.6. Phải kết hợp hài hoà các lợi ích, các khả năng và phơng thức đáp ứng nhu cầu BHXH .
Trong BHXH cả ba bên tham gia: Ngời sử dụng lao động, ngời lao động và Nhà nớc đều nhận đợc nhiều lợi ích. Nhng lợi ích nhận đợc không phải luôn luôn nh nhau, thống nhất với nhau mà trái lại có lợi ích có lúc lại mâu thuẫn với nhau. Chẳng hạn việc tăng mức trợ cấp hoặc tăng thời hạn nghỉ làm việc và hởng trợ cấp BHXH sẽ rất có lợi cho ngời lao động nhng lại gây khó khăn cho ngời chủ sử dụng lao động, nếu giảm hậu quả bất lợi cho ngời sử dụng lao động thì Nhà nớc lại phải gánh chịu.
1.7. Mức trợ cấp BHXH phải thấp hơn mức tiền lơng lúc đang đi làm, nhng thấp nhất cũng phải đảm bảo mức sống tối thiểu.
Trợ cấp BHXH nói ở đây là loại trợ cấp thay thế cho tiền lơng nh trợ cấp ốm đau, thai sản, hu trí tuổi già chứ không phải là trợ cấp bù đắp hoặc trợ cấp BHXH. Nh đã biết, tiền lơng là khoản tiền mà ngời sử dụng lao động trả cho ngời lao động khi họ thực hiện công việc nhất định. Nghĩa là, chỉ ngời lao động có sức khoẻ bình thờng, có việc làm bình thờng và thực hiện công việc nhất định mới có tiền lơng. Khi đã bị ốm đau, tai nạn hay tuổi già không thực hiện đợc công việc nhất định hoặc không việc làm mà trớc đó có tham gia BHXH thì chỉ có trợ cấp BHXH và trợ cấp đó không thể bằng tiền lơng tạo ra đợc. Còn nếu cố tìm cách trả trợ cấp BHXH bằng hoặc cao hơn tiền lơng thì không một ngời lao động nào phải cố gắng có việc làm và tích cực làm việc để có lơng mà ngợc lại họ sẽ cố gắng ốm đau, thai sản để hởng trợ cấp. Hơn nữa cách lập quỹ, phơng thức dàn trải rủi ro của BHXH cũng không cho phép trả trợ cấp BHXH bằng tiền lơng lúc đang đi làm. Vì trả trợ cấp bằng tiền lơng thì chẳng khác gì bị rủi ro đem rủi ro của mình dàn trải hết cho những ngời khác.
Nh vậy, mức trợ cấp BHXH phải thấp hơn mức tiền lơng lúc đang đi làm. Tuy nhiên do mục đích, bản chất và cách làm của BHXH thì mức trợ cấp thấp nhất cũng không thể thấp hơn mức sống tối thiểu hàng ngày. Chỉ khi đó BHXH mới có ý nghĩa an sinh.
1.8. Kết hợp giữa BHXH bắt buộc với BHXH tự nguyện.
Cho đến nay, ở nớc ta việc tham gia BHXH vẫn cha trở thành tập quán, hơn nữa trong BHXH lợi ích của các bên tham gia và lợi ích trớc mắt với lợi ích lâu dài của ngời lao động vẫn có những mâu thuẫn. Bởi vậy cần có sự kết hợp bắt buộc với tự nguyện trong việc tham gia BHXH . Sự bắt buộc nên thực hiện đối với các bên tham gia BHXH ở khu vực có quan hệ lao động với thu nhập cơ bản. Đối với những ngời có nhu cầu BHXH ở mức cao hoặc với ngời lao động độc lập thì nên để họ tham gia tự nguyện.
1.9. Phải đảm bảo tính thống nhất BHXH trên phạm vi cả nớc, đồng thời phải phát huy tính đa dạng, năng động của các bộ phận cấu thành.
Hệ thống BHXH của một nớc thờng gồm nhiều bộ phận cấu thành. Trong đó bộ phận lớn nhất do Nhà nớc tổ chức và bảo hộ đặc biệt bao trùm toàn bộ những ngời hởng lơng từ Ngân sách Nhà nớc và những ngời lao động thuộc những khu vực kinh tế quan trọng của đất nớc. Các bộ phận nhỏ hơn do các đơn vị kinh tế và t nhân tổ chức ra để bảo hiểm cho một số đối tợng hạn chế do pháp luật quy định. Trong bộ phận do Nhà nớc tổ chức còn có thể có một số bộ phận BHXH chuyên ngành nh: BHXH đối với công chức, BHXH đối với quân nhân hởng lơng và một số bộ phận BHXH theo ngành kinh tế có tính chất đặc thù (đờng sắt, khai thác mỏ..). Các bộ phận BHXH đựơc tổ chức nh thế nào, nhiều hay ít là do đi ều kiện kinh tế, chính trị, xã hội và do Nhà nớc quy định. ở nớc ta do những diều kiện kinh tế xã hội cha cho phép các tổ chức và cá nhân thực hiện BHXH mà chỉ có BHXH của Nhà nớc.
Để BHXH hoạt động có hiệu quả nhất thiết phải bảo đảm tính thống nhất trên những vấn đề lớn hoặc cơ bản nhất để tránh tuỳ tiện, tính cục bộ hoặc những mâu thuẫn nảy sinh. Đồng thời cũng phải có cơ chế để mỗi bộ phận cấu thành có thể năng động trong hoạt động để chúng có thể bù đắp, bổ xung những u điểm cho nhau.
2.8. BHXH phải đợc phát triển dần từng bớc phù hợp với các điều kiện kinh tế xã hội của đất nớc trong từng giai đoạn phát triển cụ thể.
BHXH của một nớc gắn rất chặt với trạng thái kinh tế, với các điều kiện kinh tế xã hội, với cơ chế và trình độ quản lý đặc biệt là với sự điều chỉnh, sự đồng bộ của nền pháp chế của nớc đó. Trong tình hình nớc ta, kinh tế thị trờng theo định hớng XHCN đang hình thành, nhiều mặt kinh tế xã hội đang chuyển động mạnh. Vì vậy, việc xây dựng và phát triển BHXH phải bảo đảm chắc chắn, tính toán thận trọngvà có bớc đi phù hợp.
Mỗi nguyên tắc trên đây không tồn tại và phát huy tác dụng một cách đơn lẻ mà chúng vận động trong một hệ thống chặt chẽ. Bởi vậy, cần vận dụng chúng một cách tổng hợp và hợp lý vào mỗi vấn đề cụ thể thì mới có thể đạt hiệu quả nh mong muốn.
III Bản chất của BHXH .
BHXH là sản phẩm tất yếu của nền kinh tế hàng hoá. Khi trình độ phát triển, kinh tế của một quốc gia đạt đến một mức độ nào đó thì hệ thống BHXH có điều kiện ra đời phát triển. Vì vậy các nhà kinh tế cho rằng sự ra đời và phát triển của BHXH phản ánh sự phát triển của nền kinh tế. Một nền kinh tế chậm phát triển, đời sống nhân dân thấp kém không thể có hệ thống BHXH vững mạnh đợc. Kinh tế càng phát triển hệ thống BHXH càng đa dạng, các chế độ BHXH càng mở rộng, các hình thức BHXH ngày càng phong phú.
Vì vậy, thực chất của BHXH là thực hiện mục tiêu bảo đảm an toàn kinh tế cho ngời lao động và gia đình họ. BHXH là quá trình tổ chức sử dụng thu nhập cá nhân và tổng sản phẩm trong nớc (GDP) để thoả mãn an toàn kinh tế cho ngời lao động và an toàn xã hội. BHXH mang cả bản chất kinh tế và cả bản chất xã hội. Về mặt kinh tế nhờ sự tổ chức phân phối lại thu nhập đời sống của ngời lao động và gia đình họ luôn đợc bảo đảm trớc những rủi ro, bất trắc xã hội. Về mặt xã hội, do có sự “san sẻ rủi ro’’ của BHXH, ngời lao động chỉ phải đóng góp một khoản nhỏ trong thu nhập của mình cho quỹ BHXH, nhng xã hội sẽ có một lợng vật chất đủ lớn trang trải những rủi ro xảy ra. ở đây, BHXH đã thực hiện nguyên tắc “ lấy của số đông bù cho số ít”.
Tuy nhiên tính kinh tế và tính xã hội của BHXH không tách rời mà đan xen lẫn nhau. Khi nói đến sự bảo đảm kinh tế cho ngời lao động và gia đình họ là đã nói đến tính xã hội của BHXH. Ngợc lại, khi nói đến sự đóng góp ít nhng lại đủ trang trải mọi rủi ro xã hội thì cũng đã đề cập đến tính kinh tế của BHXH.
Dới góc độ kinh tế, bản chất của BHXH chính là sự đảm bảo thu nhập, bảo đảm cuộc sống cho ngời lao động và gia đình họ khi họ giảm hay mất khả năng lao động. Có nghĩa là tạo ra một khoản thu nhập thay thế cho ngời lao động khi họ gặp phải rủi ro thuộc phạm vi BHXH.
Dới góc độ chính trị, bản chất của BHXH là sự kết hợp của ngời lao động xuất phát từ lợi ích chung của họ.
Dới góc độ xã hội, bản chất của BHXH đợc hiểu nh là một chính sách xã hội nhằm đảm bảo đời sống cho ngời lao động và gia đình họ khi thu nhập của họ bị giảm hay mất. Thông qua đó bảo vệ và phát triển lực lợnglao động xã hội, lực lợng sản xuất, tăng năng suất lao động ổn định trất tự xã hội.
Với bản chất của BHXH nêu trên, đối tợng tham gia BHXH là ngời lao động, ngời sử dụng lao động và Nhà nớc. Tuỳ theo mỗi nớc mà mức độ tham gia BHXH của các bên là khác nhau. ở Việt Nam Bộ luật Lao động đã có một chơng về BHXH, trong đó quy định các đối tợng sau đây phải áp dụng các chế độ BHXH:
Ngời lao động làm việc trong các doanh nghiệp Nhà nớc
Ngời lao động làm việc trong các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh có sử dụng từ 10 lao động trở lên.
Ngời lao động Việt Nam làm việc trong các doanh nghiệp có vốn đầu t nớc ngoài, khu chế xuất, khu công nghiệp; trong các cơ quan, tổ chức nớc ngoài hoặc tổ chức quốc tế tại Việt Nam, trừ trờng hợp Điều ớc quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc tham gia có quy định khác;
Ngời lao động làm việc trong các tổ chức kinh doanh dịch vụ thuộc cơ quan hành chính, sự nghiệp, cơ quan Đảng, đoàn thể;
Ngời lao động làm việc trong các doanh nghiệp, các tổ chức dịch vụ thuộc lực lợng vũ trang;
Ngời giữ chức vụ dân cử, bầu cử làm việc trong các cơ quan quản lý Nhà nớc, Đảng, đoàn thể từ Trung ơng đến cấp huyện;
Công chức, viên chức nhà nớc làm việc trong các cơ quan hành chính sự nghiệp; ngời làm việc trong các cơ quan Đảng, đoàn thể từ Trung ơng đến cấp huyện;
Các đối tợng trên đi học, thực tập, công tác điều dỡng ở ngoài nớc mà vẫn hởng tiền lơng hoặc tiền công thì cũng thuộc đối tợng thực hiện BHXH bắt buộc.
Các đối tợng quy định trên gọi chung là ngời lao động.
Cùng với đối tợng tham gia BHXH đợc mở rộng hơn so với trớc đây, thì loại hình tham gia BHXH cũng đợc thống nhất: BHXH bắt buộc và BHXH tự nguyện. Vấn đề này bớc đầu đã tạo ra sự bình đẳng giữa những ngời lao động thuộc các thành phần kinh tế. Với đối tợng đã đợc quy định nh trên, hiên nay nớc ta có khoảng 15% lực lợng lao động tham gia BHXH.
quỹ BHXH .
Trong đời sống kinh tế xã hội, có rất nhiều loại quỹ khác nhau nh: quỹ tiêu dùng, quỹ sản xuất, quỹ dự phòng, quỹ tiền lơng, quỹ tiền thởng, quỹ phúc lợi, quỹ tiết kiệm...Tất cả các loại quỹ này đều có một điểm chung là tập hợp các phơng tiện tài chính cho những hoạt động nào đó theo mục tiêu định trớc. Quỹ lớn hay quỹ nhỏ biểu thị khả năng về mặt phơng tiện và vật chất để thực hiện công việc cần làm.
Tất cả các quỹ đều không chỉ tồn tại với một khối lợng tĩnh tại một thời điểm mà luôn biến động tăng lên ở đầu vào với các nguồn thu và giảm đi ở đầu ra với các khoản chi nh một dòng chảy liên tục. Để đảm bảo cho đầu ra ổn định, ngời ta thiết lập một lợng dự trữ. Bởi vậy, để nắm và điều hành đợc một quỹ nào đó thì không phải chỉ nắm đợc khối lợng của nó tại một thời điểm nhất định, mà quan trọng hơn là phải nắm đợc lu lợng của nó trong một khoảng thời gian nhất định.
Theo những quan niệm về quỹ nói chung nh trên, thì quỹ BHXH là tập hợp những đóng góp bằng tiền của những ngời tham gia BHXH hình thành một quỹ tài chính độc lập, tập trung nằm ngoài Ngân sách Nhà nớc để chi trả cho những ngời đợc BHXH và gia đình họ khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập do bị giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc làm.
Nh vậy, quỹ BHXH là một quỹ tiêu dùng đồng thời là một quỹ dự phòng, nó vừa mang tính kinh tế, vừa mang tính xã hội rất cao và là điều kiện hay cơ sở vật chất quan trọng đảm bảo cho toàn bộ hệ thống BHXH tồn tại và phát triển.
Quỹ BHXH hình thành và hoạt động đã tạo ra khả năng giải quyết những rủi ro của tất cả những ngời tham gia với tổng dự trữ ít nhất, giúp cho việc dàn trải rủi ro đợc thực hiện theo cả hai chiều không gian và thời gian, đồng thời giúp giảm tối thiểu thiệt hại kinh tế cho ngời sử dụng lao động, tiết kiệm chi cho cả ngân sách Nhà nớc và ngân sách gia đình.
Nguồn quỹ BHXH.
Quỹ BHXH là quỹ tài chính độc lập, tập trung nằm ngoài ngân sách nhà nớc.
Quỹ BHXH đợc hình thành chủ yếu từ các nguồn sau đây:
- Ngời sử dụng lao động đóng góp
- Ngời lao động đóng góp
- Nhà nớc đóng và hỗ trợ thêm
- Các nguồn khác (nh cá nhân và tổ chức từ thiện ủng hộ, lãi do đầu t phần quỹ nhàn rỗi).
Trong nền kinh tế hàng hoá, trách nhiệm tham gia đóng góp BHXH cho ngời lao động đợc phân chia cho cả ngời sử dụng lao động và ngời lao động trên cơ sở quan hệ lao động. Đi ều này không phải là sự phân chia rủi ro, mà là lợi ích giữa hai bên. Về phía ngời sử dụng lao động, sự đóng góp một phần BHXH cho ngời lao động sẽ tránh đợc thiệt hại kinh tế do phải chi ra một khoản tiền lớn khi có rủi ro xảy ra đối với ngời lao động mà mình thuê mớn. Đồng thời nó còn góp phần giảm bớt tình trạng tranh chấp, kiến tạo đợc mối quan hệ tốt đẹp giữa chủ- thợ. Về phía ngời lao động, sự đóng góp một phần để BHXH cho mình vừa biểu hiện sự tự gánh chịu trực tiếp rủi ro của chính mình, vừa có ý nghĩa ràng buộc._. nghĩa vụ và quyền lợi một cách chặt chẽ.
Mối quan hệ chủ-thợ trong BHXH thực chất là mối quan hệ lợi ích. Vì thế, cũng nh nhiều lĩnh vực khác trong quan hệ lao động, BHXH không thể thiếu đợc tham gia đóng góp của Nhà nớc. Trớc hết các luật lệ của Nhà nớc về BHXH là những chuẩn mực pháp lý mà cả ngời sử dụng lao động đều phải tuân theo, những tranh chấp chủ-thợ trong lĩnh vực BHXH có cơ sở vững chắc để giải quyết. Ngoài ra, bằng nhiều hình thức, biện pháp và mức độ can thiệp khác nhau, Nhà nớc không chỉ tham gia đóng góp và hỗ trợ thêm cho quỹ BHXH chắc chắn và ổn định.
Phần lớn các nớc trên thế giới, quỹ BHXH đều đợc hình thành từ các nguồn nêu trên. Tuy nhiên, phơng thức đóng góp và mức đóng góp của các bên tham gia BHXH có khác nhau.
Về phơng thức đóng góp BHXH của ngời lao động và ngời sử dụng lao động hiện vẫn còn hai quan điểm. Quan điểm thứ nhất cho rằng, phải căn cứ và mức lơng cá nhân và quỹ lơng của cơ quan, doanh nghiệp. Quan điểm thứ hai lại nêu lên, phải căn cứ vào mức thu nhập cơ bản của ngời lao động đợc cân đối chung trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân để xác định mức đóng góp.
Về mức đóng góp BHXH, một số nớc quy định ngời sử dụng lao động phải chịu toàn bộ chi phí cho chế độ tai nạn lao động, Chính phủ trả chi phí y tế và trợ cấp gia đình, các chế độ còn lại cả ngời lao động và ngời sử dụng lao động cùng đóng góp mỗi bên một phần bằng nhau. Một số nớc lại quy định, Chính phủ bù thiếu cho quỹ BHXH hoặc chịu toàn bộ chi phí quản lý v.v…
ở nớc ta, từ năm 1962 đến 1987, quỹ BHXH chỉ đợc hình thành từ 2 nguồn: các xí nghiệp sản xuất vật chất đóng góp 4,7% quỹ lơng của xí nghiệp, phần còn lại do Ngân sách Nhà nớc đài thọ. Thực chất là không tồn tại quỹ BHXH độc lập. Từ năm 1988 đến nay, các đơn vị sản xuất kinh doanh đóng góp 15% quỹ lơng của đơn vị. Sau khi nền kinh tế nớc ta chuyển sang cơ chế thị trờng, Chính phủ đã ban hành Nghị định 43/CP ngày 22/6/1993 và Điều lệ BHXH Việt Nam ban hành kèm theo Nghị định số 12/Cp ngày 26/01/1995, trong các văn bản này đều quy định quỹ BHXH đợc hình thành từ các nguồn sau đây:
- Ngời sử dụng lao động đóng bằng 15% so với tổng quỹ tiền lơng của những ngời tham gia BHXH trong đơn vị. Trong đó 10% để chi trả các chế độ hu trí, tử tuất và 5% để chi trả các chế độ ốm đau, thai sản, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp.
- Ngời lao động đóng bằng 5% tiền lơng tháng để chi trả các chế độ hu trí và tử tuất.
- Nhà nớc đóng và hỗ trợ thêm để đảm bảo thực hiện các chế độ BHXH đối với ngời lao động.
- Các nguồn khác.
2. Mục đích sử dụng quỹ BHXH
Quỹ BHXH đợc sử dụng chủ yếu cho hai mực đich sau đây:
- Chi trả và trợ cấp cho các chế độ BHXH
- Chi phí cho sự nghiệp quản lý BHXH
Theo khuyến nghị của Tổ chức lao động quốc tế (ILO) quỹ BHXH đợc sử dụng để trợ cấp cho các đối tợng tham gia BHXH, nhằm ổn định cuộc sống cho bản thân và gia đình họ, khi đối tợng tham gia BHXH gặp rủi ro. Thực chất là trợ cấp cho 9 chế độ mà tổ chức này đã nêu lên trong công ớc 102 tháng 6 năm 1952 tại Giơnevơ:
1. Chăm sóc y tế
2. Trợ cấp ốm đau
3. Trợ cấp thất nghiệp
4. Trợ cấp tuổi già
5. Trợ cấp tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp
6. Trợ cấp gia đình
7. Trợ cấp sinh đẻ
8. Trợ cấp khi tàn phế
9. Trợ cấp cho ngời còn sống ( trợ cấp mất ngời nuôi dỡng)
9 chế độ trên hình thành một hệ thống các chế độ BHXH . Tuỳ điều kiện kinh tế xã hội mà mỗi nớc tham gia công ớc Giơnevơ thực hiện khuyến nghị đó ở mức độ khác nhau, nhng ít nhất phải thực hiện đợc ba chế độ. Trong đó, ít nhất phải có một trong năm chế độ: (3), (4), (5), (8), (9). Mỗi chế độ trong hệ thống trên khi xây dựng đều dựa trên những cơ sở kinh tế xã hội tài chính, thu nhập, tiền lơng .v.v…Đồng thời tuỳ từng chế độ khi xây dựng còn phải tính đến các yếu tố sinh học; tuổi thọ bình quân của quốc gia, nhu cầu dinh dỡng; xác suất tử vong…
Tuy nhiên, cơ sở để xác định điều kiện hởng BHXH phải tính đến một loạth các yếu tố liên quan đến toàn bộ hệ thống các chế độ cũng nh từng chế độ BHXH cụ thể. Chẳng hạn khi xác định điều kiện hởng trợ cấp BHXH tuổi già phải dựa vào cơ sở sinh học là tuổi đời và giới tính, của ngời lao động là chủ yếu. Bởi vì tuổi già để hởng trợ cấp hu trí của mỗi giới, mỗi vùng, mỗi quốc gia có những khác biệt nhất định. Do đó, co những nớc quy định: Nam 60 tuổi và Nữ 55 tuổi sẽ đợc nghỉ hu. Nhng cũng có những nớc quy định: Nam 65 tuổi và Nữ 60 tuổi.v.v…Hoặc khi xác định điều kiện hởng trợ cấp cho chê độ tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp phải tính đến các yếu tố nh: Điều kiện và môi trờng lao động; bảo hộ lao động v.v…Các yếu tố này thờng có quan hệ và tác động qua lại với nhau ít nhiều ảnh hởng đến điều kiện BHXH của từng chế độ và toàn bộ hệ thống các chế độ BHXH.
Thời gian hởn trợ cấp và mức hởng trợ cấp BHXH nói chung phụ thuộc vào từng trờng hợp cụ thể và thời gian đóng phí BHXH của ngời lao động trên cơ sở tơng ứng giữa đóng và hởng. Đồng thời mức trợ cấp còn phụ thuộc vào khả năng thanh toán chung của từng quỹ tài chính BHXH; mức sống chung của các tầng lớp dân c và ngời lao động. Nhng về nguyên tắc, mức trợ cấp này không cao hơn mức tiền lơng hoặc tiền công khi ngời lao động đang làm việc và nó chỉ bằng một tỷ lệ phần trăm nhất định so với mức tiền lơng hay tiền công. ở các nớc kinh tế phát triển do mức lơng cao nên tỷ lệ này thờng thấp và ngợc lại ở những nớc đang phát triển do mức tiền lêong còn thấp nên phải áp dụng một tỷ lệ khá cao. Ví dụ, ở pháp mức trợ cấp hu trí chỉ bằng 50% mức lơng cao nhất ( với điều kiện đóng BHXH đủ 37,5 năm ), ốm đau đợc hởng trợ cấp bằng 50% tiền lơng, thời gian nghỉ ốm đợc hởng trợ cấp không quá 12 tháng. Sinh con đợc hởng trợ cấp BHXH bằng 90% tiền lơng trong vòng 16 tuần v.v…Còn ở Philipin, mức trợ cấp hu trí từ 42% đến 102%, tuỳ thuộc từng nhóm lơng khác nhau, ốm đau đợc hởng 65%, sinh con đợc nghỉ 45 ngày và đợc trợ cấp bằng 100% tiền lơng v.v…
Tuy vậy, việc các nớc quy định trợ cấp BHXH bằng tỷ lệ phần trăm so với tiền lơng hay tiền công thờng dẫn đến bội chi quỹ BHXH. Vì vậy, một số nớc đã phải tìm cách khắc phục nh: trả ngay 1 lần khi nghỉ hu, hoặc suốt đời đóng theo tỷ lệ phần trăm của một mức thu nhập quy định và hởng cũng theo tỷ lệ phần trăm của mức quy định.
Ngoài việc chi trả trợ cấp theo các chế độ BHXH, quỹ BHXH còn đợc sử dụng cho chi phí quản lý nh: Tiền lơng cho những ngời làm việc trong hệ thông BHXH; khấu hao tài sản cố định, văn phòng phẩm và một số khoản chi khác… Phần quỹ nhàn rỗi phải đợc đem đầu t sinh lợi. Mục đích đầu t quỹ BHXH là nhằm bảo toàn và tăng trởng nguồn quỹ.
Quá trình đầu t quỹ BHXH phải đảm bảo nguyên tắc: an toàn, có lợi nhuận, có khả năng thanh toán và đảm bảo lợi ích kinh tế- xã hội.
chƯơng II
Tình hình quản lý thu- chi quỹ BHXH tại
cơ quan BHXH huyên VĂN GIANG
I/ Giới thiệu về BHXH Việt Nam và BHXH huyện Văn Giang
Giới thiệu về BHXH Việt Nam
1.1. Sự ra đời và phát triển của BHXH Việt Nam
BHXH Việt Nam đã xuất hiện từ rất lâu trong xã hội nhng tồn tại ở nhiều hình thức, nhiều chế độ mà cha thể hiện rõ bản chất của BHXH. ở nớc ta, BHXH đã có mầm mống từ thời phong kiến Pháp thuộc. Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, chính phủ nớc Việt Nam dân chủ cộng hoà - nay là Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, đã ban hành sắc lệnh số 29/SL ngày 12/03/1947 thực hiện bảo hiểm ốm đau, tai nạn lao động và hu trí. Các chế độ này đợc thực hiện đối với những ngời làm việc trong các cơ quan từ cơ sở đến Trung ơng. Tuy nhiên, do chiến tranh và khả năng kinh tế còn có hạn, cho nên chỉ một bộ phận lao động xã hội đợc hởng quyền lợi BHXH.
Sau khi hoà bình lập lại, ngày 27/12/1961 Nhà nớc ban hành nghị định số 128/CP của Chính phủ về “Điều lệ tạm thời thực hiện các chế độ BHXH đối với công nhân viên chức” và đợc thi hành từ ngày 1/01/1962. Sau hơn 20 năm thực hiện BHXH đối với công nhân viên chức các chế độ BHXH đã bộc lộ nhiều hạn chế. Do đó, ngày 18/09/1985 Chính phủ (lúc đó là Hội Đồng Bộ Trởng) đã ban hành nghị định số 236/HĐBT về việc sửa đổi bổ xung chính sách và chế độ BHXH đối với ngời lao động. Nội dung chủ yếu của nghị định này là điều chỉnh mức đóng và hởng BHXH.
Tuy nhiên, chính sách BHXH ở Việt Nam vẫn còn nhiều bất cập, không phù hợp với cơ chế mới. Vì vậy ngày 22/06/1993 Chính phủ đã ban hành nghị định số 43/CP quy định tạm thời về các chế độ BHXH áp dụng cho các thành phần kinh tế, đánh dấu bớc đổi mới BHXH Việt Nam.
Tuy vậy, chỉ khi Bộ luật lao động đợc Quốc hội nớc Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua ngày 15/06/1994, Điều lệ tạm thời về BHXH theo nghị định số 12/CP của Chính phủ ban hành ngày 26/01/1995 và nghị định số 45/CP của Chính phủ ban hành ngày 15/07/1995 cho các đối tợng hởng BHXH là công nhân viên chức và lực lợng vũ trang. BHXH Việt Nam thực sự đổi mới nội dung, phơng thức hoạt động cũng nh tổ chức quản lý hoạt động. Từ năm 1995 đến nay BHXH Việt Nam hoạt động theo phơng thức mới đã đem lại những kết quả tốt hơn nhng bên cạnh đó vẫn còn những hạn chế cần phải khắc phục.
1.2. Hệ thống tổ chức BHXH Việt Nam
Từ khi đổi mới cơ chế quản lý hoạt động BHXH theo nghị định số 12/CP của Chính phủ ban hành ngày 26/01/1995 BHXH Việt Nam tổ chức và quản lý theo hệ thống dọc, tập trung thống nhất từ Trung Ương đến địa phơng và quản lý quỹ tài chính độc lập không phụ thuộc ngân sách Nhà nớc, bao gồm các cấp:
ở Trung ơng là BHXH Việt Nam
ở tỉnh, thành phố trực thuộc Trung Ương là BHXH tỉnh trực thuộc
BHXH Việt Nam
ở quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh là BHXH huyện trực thuộc
BHXH tỉnh
Cơ cấu tổ chức BHXH Việt Nam có mối quan hệ với Bộ LĐTB và XH là mối quan hệ cộng tác bình đẳng cùng thực hiện một mục tiêu là thực hiện BHXH đối với ngời lao động công bằng và đúng chế độ v.v... đợc thể hiện qua sơ đồ sau:
Sơ đồ 1
Quan hệ ngang:
Quan hệ dọc :
BHXH Việt Nam do Tổng giám đốc quản lý và điều hành thực hiện các nhiệm vụ và quyền hạn sau:
- Chỉ đạo và thực hiện việc thu BHXH theo quy định của Bộ luật lao động, Điều lệ BHXH và các quy định của Chính phủ.
- Quản lý quỹ tài chính và tổ chức việc chi trả BHXH cho ngời tham gia BHXH đợc đầy đủ và thuận tiện, đúng thời hạn.
- Đợc quyền từ chối việc chi trả các chế độ BHXH cho các đối tợng hởng BHXH khi có kết luận của cơ quan Nhà nớc có thẩm quyền về hành vi man trá, làm giả hồ sơ, tài liệu để đợc hởng BHXH đồng thời ra thông cáo về việc từ chối chi trả đó cho đối tợng, cơ quan sử dụng lao động và cơ quan pháp luật.
- Bồi thờng mọi khoản thu-chi sai các quy định của Nhà nớc về BHXH cho các đối tợng tham gia BHXH và chịu trách nhiệm trớc pháp luật.
- Xây dựng và tổ chức thực hiện dự án và biện pháp để bảo tồn giá trị và tăng cờng quỹ BHXH theo quy định của Chính phủ.
- Trình Thủ tớng Chính phủ quyết định về định mức chi phí quản lý và định mức lệ phí thu-chi quỹ BHXH và các quy định khác có liên quan đến hoạt động BHXH và tổ chức thực hiện các hoạt động nói trên.
- Kiến nghị với Chính phủ và các cơ quan Nhà nớc việc sửa đổi, bổ sung các chính sách và chế độ BHXH phù hợp với tình hình của đất nớc qua từng giai đoạn, từng thời kỳ.
- Lu giữ hồ sơ, cấp và quản lý sổ BHXH.
- Tổ chức thực hiện công tác thống kê, hạch toán kế toán, hớng dẫn nghiệp vụ thu chi BHXH và kiểm tra việc thực hiện; tổ chức công tác thông tin tuyên truyền, giải thích các chế độ chính sách về BHXH.
- Kiểm tra việc thực hiện các chế độ thu chi BHXH.
- Giải quyết kịp thời các khiếu lại của ngời tham gia BHXH về việc thực hiện các chế độ, chính sách BHXH.
- Thực hiện việc hợp tác quốc tế về sự nghiệp BHXH theo quy định của Chính phủ.
- Quản lý tổ chức, viên chức, tài chính, cơ sở vật chất của BHXH Việt Nam theo quy định của Nhà nớc.
- Thực hiện các báo cáo định kỳ về thu-chi và các hoạt động về BHXH cho Bộ LĐ-TB và XH và Bộ Tài chính.
- BHXH Việt Nam đợc quan hệ trực tiếp với các cơ quan Nhà nớc và các đoàn thể nhân dân ở Trung ơng và địa phơng, với các bên tham gia BHXH để giải quyết các vấn đề có liên quan đến BHXH theo quy định của Bộ luật lao động, Điều lệ BHXH.
- Thực hiện các nhiệm vụ khác do Chính phủ giao cho.
Cơ cấu tổ chức bộ máy giúp việc cho Tổng giám đốc BHXH Việt Nam:
- Ban quản lý chế độ chính sách BHXH
- Ban quản lý thu BHXH
- Ban quản lý chi BHXH
- Ban kiểm tra-pháp chế
- Ban kế hoạch - tài chính
- Ban tổ chức cán bộ
- Văn phòng
- Trung tâm thông tin –khoa học
Nhiệm vụ, quyền hạn và biên chế của các đơn vị nói trên do Tổng giám đốc quyết định.
Hiện nay, do việc sát nhập BHYT vào BHXH nên tổ chức bộ máy còn có thêm một số phòng chức năng khác nh phòng trực tại bệnh viện, phòng thu BHXH tự nguyện.
Giới thiệu về BHXH huyện Văn Giang
1.3. Sự ra đời và phát triển
BHXH huyện Văn Giang là cơ sở BHXH cấp huyện trực thuộc BHXH tỉnh Hng Yên. BHXH tỉnh Hng Yên là BHXH cấp tỉnh trực thuộc BHXH Việt Nam. BHXH tỉnh Hng Yên chính thức đi vào hoạt động là ngày 1/10/1997, BHXH huyện Văn Giang là đơn vị hành chính sự nghiệp chịu sự quản lý theo ngành dọc, BHXH huyện Văn Giang đợc thành lập theo quyết định của BHXH Việt Nam vào ngày 1/01/2001, khi huyện Văn Giang đợc tách ra từ huyện Châu Giang (tách Châu Giang thành Văn Giang và Khoái Châu). Từ 1/10/1997 đến 1/01/2001 BHXH Văn Giang lúc đó hoạt động là BHXH Khoái Châu. Khi BHXH huyện Văn Giang đợc thành lập và chính thức đi vào hoạt động đã lấy trụ sở làm việc tại thị trấn Văn Giang, BHXH huyện Văn Giang có con dấu riêng và mở tài khoản giao dịch công tác độc lập tại Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn huyện Văn Giang. BHXH huyện Văn Giang có vị trí nh sau:
Sơ đồ 2:
BHXH Việt Nam
BHXH tỉnh Hng Yên
BHXH huyện Văn Giang
Nh vậy, BHXH huyện Văn Giang là đơn vị trực thuộc BHXH tỉnh Hng Yên chịu sự quản lý của BHXH Việt Nam, đợc sự hớng dẫn và chỉ đạo của BHXH tỉnh Hng Yên, BHXH huyện Văn Giang có trách nhiệm thực hiện nhiệm vụ BHXH tỉnh Hng Yên giao cho gồm:
- Theo dõi, đốc thu BHXH 20% so với tổng quỹ lơng (hiện nay là 23% do y tế nhập vào 3%) trong đó thu 15% của chủ sử dụng lao động (nay là 17%) và 5% của ngời lao động (nay là 6%)
- Chi trả các chế độ nghỉ ốm, thai sản cho đối tợng tham gia đóng góp BHXH
- Tổ chức việc chi trả lơng hu, trợ cấp BHXH, cả việc chi pháp lệnh ngời có công.
- Theo dõi tăng, giảm hàng tháng để lập danh sách chi trả lơng hu và trợ cấp theo quy đinh.
- Tiếp nhận, báo cáo kịp thời với BHXH tỉnh Hng Yên các trờng hợp hởng lạc trợ cấp BHXH, điều chỉnh lơng hu.
- Đối chiếu tờ khai với hồ sơ gốc để triển khai cấp sổ BHXH
Hiện nay BHXH huyện Văn Giang do có sự sát nhập của BHYT nên có một số nhiệm vụ và quyền hạn của BHYT nh: cấp thẻ BHXH, tuyên truyền, vận động... và điều hành.
BHXH huyện Văn Giang do giám đốc quản lý sau giám đốc là phó giám đốc và các bộ phận chức năng nh:
- Bộ phận kế toán
- Bộ phận quản lý thu
- Bộ phận chế độ-chính sách
Sát nhập BHYT vào có thêm bộ phận:
Bộ phận trực tại bệnh viện.
Nhiệm vụ, quyền hạn và biên chế của các bộ phận nói trên do giám đốc BHXH tỉnh Hng Yên quyết định trong phạm vi tổng biên chế của BHXH huỵên đợc tổng giám đốc phân bổ.
Giám đốc BHXH huyện quy định nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể của từng viên chức thuộc quyền giám đốc quản lý.
Việc thành lập BHXH huyện Văn Giang là do Tổng giám đốc BHXH Việt Nam quy định căn cứ vào khối lợng công việc, số lợng ngời và đơn vị tham gia BHXH trên địa bàn huyện Văn Giang.
II/ Tình hình thực hiện BHXH ở nớc ta trong thời gian qua
Từ trớc năm 1995
Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, Nhà nớc Việt Nam dân chủ cộng hoà đợc thành lập và đang phải giải quyết trăm công ngàn việc mang tính sống còn của toàn dân tộc, nhng Đảng và Chính phủ vẫn quan tâm đến công tác BHXH đối với công nhân viên chức khi bị ốm đau, tai nạn, thai sản, tai nạn lao động, già yếu và tử tuất. Các chế độ BHXH trên đợc quy định trong một số điều của các sắc lệnh số 27/SL, số 29/SL và 77/SL (năm 1950). Đặc điểm thời kỳ này là các cơ quan quản lý sử dụng cán bộ công nhân viên chức Nhà nớc, đồng thời là cơ quan thực hiện các chế độ BHXH. Có thể coi đây là thời kỳ manh nha về BHXH của Nhà nớc Việt Nam dân chủ cộng hoà (nay là Nhà nớc cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam).
Thực hiện nghị quyết đại hội Đảng cộng sản Việt Nam lần thứ ba (năm 1960): xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc đấu tranh giải phóng dân tộc ở miền Nam, Quốc hội và chính phủ đã khẩn trơng thực hiện đề án xây dựng Điều lệ về các chế độ BHXH và tổ chức quản lý công tác BHXH. Ngày 14/12 năm 1961 Uỷ ban thờng vụ Quốc hội ra nghị quyết phê chuẩn việc hội đồng chính phủ quy định và ban bố “Điều lệ tạm thời về BHXH đối với công nhân viên chức nhà nớc”; Hội đồng Chính phủ sẽ thoả thuận với Tổng công đoàn Việt Nam (nay là Tổng liên đoàn lao động Việt Nam) về việc quản lý quỹ BHXH của Nhà nớc và quản lý các sự nghiệp BHXH. Ngày 27/12/1961, Hội đồng Chính phủ ra nghị định số 218/CP ban hành “Điều lệ tạm thời về các chế độ BHXH ” đối với công nhân viên chức nhà nớc, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/1962. Từ nghị định trên, các chế độ BHXH đợc quy định riêng trong một văn bản pháp quy và hình thành tổ chức chuyên trách độc lập để quản lý và thực hiện các chế độ BHXH trong hệ thống Tổng công đoàn Việt Nam (nay là Tổng liên đoàn lao động Việt Nam). Phơng tiện vật chất đảm bảo thực hiện các chế độ BHXH đối với công nhân viên chức nhà nớc là công đoàn tổ chức thu 4,7% so với tổng quỹ lơng của các cơ quan xí nghiệp, nông lâm trờng, bệnh viện, trờng học... từ tháng 01/1962 đến tháng 01/1964, để chi trả 6 chế độ (ốm đau, thai sản, tai nạn lao động-bệnh nghề nghiệp, hu trí, mất sức lao động, tử tuất).
Ngày 20/3/1962 Hội đồng Chính phủ ra Nghị định số 31/CP về việc điều chỉnh một số nhiệm vụ về quản lý và thực hiện các chế độ BHXH giữa Bộ Nội vụ, Bộ lao động, Bộ công an, Bộ Y tế, Tổng công đoàn Việt Nam. Ngày 23/03/1962, Hội đồng Chính phủ ra tiếp Nghị định số 39/CP về quy định nội dung thu và chi quỹ BHXH của Nhà nớc, phù hợp với nhiệm vụ đợc giao tại Nghị định số 31/CP. Nội dung cơ bản hai Nghị định trên là về quản lý và các chế độ BHXH, Bộ nội vụ, Bộ lao động đợc giao thực hiện các chế độ BHXH nh: Hu trí, mất sức lao động, xí nghiệp, Tổng công đoàn thực hiện các chế độ ốm đau, thai sản, tai nạn lao động-bệnh nghề nghiệp và quản lý thu quỹ BHXH 3,7% so với tổng quỹ lơng của công nhân viên chức nhà nớc.
Thực hiện hai Nghị định trên, các tổ chức BHXH ở các Bộ có liên quan đợc hình thành, riêng tổ chức BHXH của Tổng công đoàn đợc giữ nguyên, nhng thu gọn lại, do chỉ còn thực hiện 3 chế độ BHXH, có lúc Tổng công đoàn đã nhập ban BHXH vào ban tài chính (1968-1973). Việc bàn giao nhiệm vụ, hồ sơ đối tợng và quỹ giữa Tổng công đoàn với tổ chức BHXH các Bộ đến tháng 8/1964 mới xong. Từ tháng 9/1994, Tổng công đoàn chỉ còn thu 3,7% quỹ lơng để chi trợ cấp cho 3 chế độ: ốm đau, thai sản, tai nạn lao động-bệnh nghề nghiệp BHXH các Bộ thu 1% tổng quỹ lơng để chi trả lơng hu, trợ cấp mất sức lao động, trợ cấp tử tuất. Do thay đổi tổ chức của các Bộ nên quản lý và thực hiện các chế độ BHXH đã chuyển giao từ Bộ nội vụ sang Bộ Lao động; Bộ Lao động sang Bộ Thơng binh xã hội, rồi lại nhập về Bộ Lao động –Thơng binh và xã hội.
Về nguồn thu quỹ BHXH, trong nhiều năm, nghĩa vụ và trách nhiệm của thủ trởng các cơ quan, đơn vị sản xuất kinh doanh không đợc làm rõ, tất cả đều thu qua Ngân sách Nhà nớc, nghĩa vụ của ngời lao động bị lãng quên. Do đó, thu không đủ chi ngày càng trầm trọng, Ngân sách Nhà nớc phải cấp bù ngày càng lớn, ví dụ: nguồn thu do ngành LĐ-TB và XH quản lý số thu năm 1985 chỉ là 3.03% so với chi, Ngân sách Nhà nớc phải cấp bù tới 96,97%. Để khắc phục sự thiếu hụt nguồn quỹ BHXH, tháng 10/1986 Chính phủ đã quyết định nâng tỷ lệ nguồn thu quỹ BHXH do ngành LĐ-TB và XH quản lý nên 10% và nguồn thu do tổng công đoàn quản lý lên 5% so với tổng quỹ lơng. Song tình trạng thu không đủ chi, thủ trởng các cơ quan, đơn vị sản xuất kinh doanh vẫn không trích nộp BHXH đúng quy định, nên năm 1987 số thu do ngành LĐ-TB và XH quản lý chỉ đạt 2,34% so với số chi.
Từ năm 1988 đến năm 1994 số thu BHXH mới nhích dần từ hơn 12% đến hơn 32% so với số chi. Nguồn thu BHXH do Tổng Công Đoàn quản lý có khả quan hơn bình quân 30 năm số thu đạt 4,1% quỹ lơng trên năm, đảm bảo chi trả và phát triển sự nghiệp BHXH, do biết nắm chặt nghĩa vụ trích nộp BHXH với quyền lợi của ngời lao động và ngời quản lý ở các cơ quan, đơn vị sản xuất kinh doanh: nếu đơn vị cơ quan nào vận động giảm tỷ lệ ốm đau, sinh đẻ, tai nạn lao động – bệnh nghề nghệp theo kế hoạch hàng năm đã duyệt thì đợc sử dụng từ 50% đến 70% số tiền giảm chi cho 3 chế độ đó để chi cho nghỉ ngơi, dỡng sức. Ngoài ra, các thành viên ban BHXH của đơn vị hàng năm đợc khen thởng thích đáng do thành tích thu vợt mức và giảm chi 3 chế độ: ốm đau, thai sản, tai nạn lao đông-bệnh nghề nghiệp.
Về các chế độ BHXH, hơn 30 năm trớc khi ra đời, Chính phủ đã nhiều lần điều chỉnh để đảm bảo quyền lợi cho ngời đợc hởng các chế độ BHXH phù hợp với sự phát triển về kinh tế của đất nớc và công bằng xã hội, điển hình là đợt điều chỉnh lơng hu và trợ cấp xã hội theo nghị định số 236/HĐBT năm 1985, các quyết định bù giá năm 1988, điều chỉnh lại chế độ mất sức lao động theo quyết định sô 60/HĐBT năm 1990...
Để phù hợp với cơ chế thị trờng có sự điều tiết của Nhà nớc, ngày 22/06/1993, Chính phủ có Nghị định số 43/CP quy định tạm thời về chế độ BHXH thay thế cho Nghị định só 218/CP của Chính phủ ngày 27/12/1961. Nội dung nghị định đã bao hàm cả những cải cách lớn về BHXH; làm rõ trách nhiệm, nghĩa vụ đóng góp, xây dựng quỹ BHXH của ngời sử dụng lao động và ngời lao động; các chế độ BHXH chỉ còn lại 5 chế độ (ốm đau, thai sản, tai nạn lao động-bệnh nghề nghiệp, hu trí, tử tuất) chế độ mất sức lao động đợc đa vào chế độ hu trí, hởng tỷ lệ thấp hay trợ cấp 1 lần. Sau một năm, ngày 23/06/1994 tại kỳ họp thứ 5 quốc hội khoá IX đã thông qua Bộ Luật lao động, trong đó có chơng XII về BHXH.
Đây là một chấm phá, cải cách các chế độ BHXH và tổ chức thu – chi, thực hiện các chế độ BHXH. Thi hành Bộ Luật lao động về BHXH, Chính phủ đã ra nghị định số 12/CP ngày 26/01/1995 về việc thành lập BHXH.
Nh vậy, sau hơn 30 năm hoạt động, các tổ chức BHXH tiền thân của BHXH Việt Nam về cơ bản đã có đóng góp đáng kể góp phần thúc đẩy sản xuất, xây dựng XHCN ở Miền Bắc, giải phóng ở Miền Nam và xây dựng lại Tổ Quốc kể từ sau chiến thắng 30 tháng 4 năm 1975. Từ hoạt động thực tiễn của các tổ chức BHXH tiền thân đã rút ra các bài học kinh nghiệm: Tổ chức quản lý còn phân tán, manh mún; vừa quản lý Nhà nớc, vừa tổ chức thực hiện các chế độ BHXH không khác gì “vừa đá bóng, vừa thổi còi”; quỹ BHXH cha hạch toán độc lập với Ngân sách Nhà nớc; quản lý thu – chi còn mang nặng tính bao cấp, nghĩa vụ và quyền lợi của chủ sử dụng lao động và ngời lao động cha làm rõ... Những bài học trên là cơ sở để đổi mới, cải cách tổ chức quản lý và thực hiện các chế độ BHXH.
Từ năm 1995 đến nay
BHXH Việt Nam từ khi hoạt động theo cơ chế mới đến nay đã gần 8 năm nhng đó chỉ là một khoảng thời gian khá ngắn so với sự phát triển BHXH ở một số nớc trên thế giới. Tuy vậy hoạt động BHXH Việt Nam cũng đã đạt đợc những thành tựu đáng ghi nhận khẳng định sự ra đời của mình là đúng đắn theo đờng lối đổi mới của Đảng Cộng Sản Việt Nam. Những thành tựu cơ bản đạt đợc là: hàng năm BHXH Việt Nam đã thu BHXH gấp 10 lần so với năm thu BHXH theo cơ chế cũ (trớc năm 1945) thực hiện đúng đắn hơn các chế độ, chính sách BHXH theo quy định của Nhà nớc, thực hiện chi trả lơng hu và trợ cấp BHXH đúng đối tợng, đúng kỳ, đúng số, an toàn và kịp thời.
Hoạt động hiệu quả của BHXH đã thực sự góp phần bảo đảm an sinh xã hội và tăng trởng kinh tế đất nớc.
III/ Tình hình quản lý thu BHXH tại BHXH huyện Văn Giang
Thu BHXH
Tham gia BHXH là nghĩa vụ của các đơn vị sử dụng lao động nhằm thực hiện quyền lợi của ngời lao động theo quy định của Bộ Luật lao động. Chính sách BHXH hiện nay đang đợc thực hiện nhằm đạt tới mục tiêu là tạo nên một quỹ BHXH độc lập với Ngân sách Nhà nớc, thực hiện đảm bảo về tài chính để chi trả các chế độ BHXH cho ngời lao động. Từ đó, thu BHXH trở thành một nhiệm vụ quan trọng, quyết định sự tồn tại và phát triển của công tác BHXH. Sau một thời gian hoạt động, công tác thu BHXH ngày càng thuận lợi và đi vào ổn định. Hệ thống các văn bản pháp lý do Nhà nớc và các cơ quan chức năng ban hành phục vụ cho công tác BHXH ngày càng đợc hoàn thiện. Nền kinh tế Việt Nam với mức tăng trởng cao, hoạt động sản xuất kinh doanh của nhiều đơn vị đạt hiệu quả dẫn đến đời sống của ngời lao động đợc nâng cao, đó là điều kiện thuận lợi cho việc tham gia và đóng BHXH, nhng yếu tố quyết định là những nỗ lực toàn diện của ngành BHXH. Việc tuyên truyền phổ biến các chế độ, chính sách BHXH đợc thực hiện liên tục trong cả nớc đã nâng cao nhận thức về nghĩa vụ và quyền lợi tham gia BHXH của đông đảo chủ sử dụng lao động và ngời lao động. Việc thực hiện, giải quyết các chế độ BHXH cho ngời lao động nhanh chóng, đầy đủ và thuận lợi đã tạo niềm tin tởng của các đơn vị sử dụng lao động và ngời lao động đối với cơ quan BHXH. Các bộ phận chuyên trách thu BHXH của ngành từ Trung ơng đến địa phơng luôn tăng cờng theo dõi, quản lý chặt chẽ số lao động, số thu BHXH của các đơn vị, đôn đốc họ nộp đủ BHXH và đúng thời hạn. Qua từng năm số đơn vị và ngời lao động tham gia BHXH đều tăng thể hiện qua bảng sau:
Bảng 1:
Năm
Lao động (ngời)
Tỷ lệ
(NS/NT)
Số thu
(triệu đồng)
Tỷ lệ (NS/NT)
1995
2.275.998
788.486
1996
2.961.444
128,4%
2.569.733
1997
3.162.352
108,2%
3.445.611
134,1%
1998
3.355.589
106,1%
3.875.956
112,5%
(Nguồn BHXH Việt Nam)
Bảng số liệu cho thấy các chỉ tiêu công tác thu BHXH qua các năm đều gia tăng, năm sau cao hơn năm trớc. Đặc biệt số lao động năm 1998 tham gia BHXH so với năm 1995 tăng 1.079.591 lao động, tổng số thu BHXH năm 1998 tăng so với năm 1995 là 3.087.470 triệu. Năm 1999 BHXH Việt Nam đã thu đợc 4.188.382 triệu đồng đạt 106,9% kế hoạch năm và năm 2000 thu đạt 5.215.200 triệu đồng so với năm 1996 thì số thu năm 2000 tăng 200% và số thu BHXH còn tiếp tục tăng vào những năm tiếp theo khi mà chế độ BHXH tự nguyện đợc đa ra.
Vậy thu BHXH là một hoạt động thờng xuyên và đa dạng trong các hoạt động BHXH, có nhiều quan niệm khác nhau về thu BHXH nhng có thể hiểu chung nhất về hoạt động thu quỹ BHXH ở phần sau.
1.1. Những vấn đề chung về thu quỹ BHXH
Thu quỹ BHXH là hoạt động của các cơ quan BHXH cùng với sự phối hợp của các ban ngành chức năng trên cơ sở các quy định của pháp luật nhằm tạo ra các nguồn tài chính tập trung (quỹ BHXH tập trung), từ việc đóng góp của các bên tham gia BHXH và những nguồn tài chính bổ xung khác.
Thu quỹ BHXH là một hoạt động không thể thiếu trong hoạt động BHXH nói chung, nó đảm bảo cho sự tạo lập và sử dụng một quỹ tiền tệ tập trung và tạo ra nguồn tài chính để có thể tiến hành các hoạt động BHXH. Do đó mà việc đóng góp vào BHXH của các bên tham gia BHXH là sự tất yếu trong hoạt động BHXH, vì những lý do sau:
- Việc đóng góp quỹ BHXH đánh dấu sự đóng góp của những ngời tham gia BHXH, là cơ sở để đo sự đóng góp của các bên tham gia BHXH.
- Tạo ra đợc nguồn tài chính tập trung từ đó có thể tiến hành thống nhất các hoạt động BHXH.
- Nguồn thu của BHXH đợc hình thành từ ba nguồn chủ yếu: đóng góp của ngời lao động, ngời sử dụng lao động và phần hỗ trợ từ Ngân sách Nhà nớc; nguồn thu này phản ánh rõ nét quan hệ ba bên trong BHXH, là cơ sở để tạo ra các quan hệ khác trong BHXH.
- Thực chất, quan hệ ba bên trong BHXH là mối quan hệ về lợi ích do sự đóng góp vào BHXH của các bên tham gia là mối quan hệ về lợi ích, từ việc tham gia đóng góp BHXH các bên tham gia BHXH đều tìm kiếm đợc lợi ích cho mình một lợi ích nhất định, ngời sử dụng lao động tìm kiếm lợi ích từ việc họ sẽ bỏ ra ít chi phí hơn khi ngời lao động không may gặp phải những rủi ro, ngời lao động đợc tìm kiếm lợi ích từ việc họ đợc hởng các quyền lợi khi họ không may gặp phải những rủi ro, Nhà nớc đạt đợc mục tiêu ổn định đợc xã hội, ổn định đợc mối quan hệ lợi ích giữa ngời lao động và ngời sử dụng lao động trong xã hội, thúc đẩy kinh tế-xã hội phát triển.
Từ đó có thể nói rằng, thu BHXH là một phần quan trọng không thể thiếu đợc của hoạt động BHXH.
1.2. Công tác thu BHXH tại BHXH huyện Văn Giang
Huyện Văn Giang là một huyện làm nông nghiệp là chủ yếu, khu công nghiệp còn hạn chế, các nhà máy xí nghiệp cha nhiều. Nhng trong những năm gần đây trên địa bàn huyện có một số cơ sở đợc xây dựng và đi vào hoạt động đã đem lại nguồn thu cho BHXH huyện nh: Công ty Vật liệu xây dựng, Cơ sở sản xuất nấm, Nhà máy gốm sứ Văn Giang...
Tuy bớc đầu còn gặp nhiều khó khăn về địa điểm làm việc vì trụ sở chính của cơ quan cha đợc hoàn thiện, cán bộ chuyên môn cha có nhiều kinh nghiệm công tác thu BHXH tại huyện Văn Giang phải dựa vào danh sách lao động, tổng quỹ lơng, mức lơng của ngời lao động nên hoạt động của cơ quan còn gặp nhiều khó khăn nhng BHXH huyện Văn Giang đã cố gắng hoàn thành kế hoạch do tỉnh giao đúng thời hạn.
Để thực hiện đợc đầy đủ công tác thu BHXH đúng thời hạn thì nhất thiết cơ quan BHXH huyện Văn Giang phải thiết lập đợc danh sách lao động của các đơn vị cùng với tổng quỹ lơng hàng tháng của ngời lao động.
Theo Điều lệ của BHXH quy định thì việc đóng BHXH phải đợc theo dõi, ghi chép kết quả của từng đơn vị, từng ngời lao động. Theo đó, chủ sử dụng lao động đóng 15% quỹ tiền lơng (nay là 17%), ngời lao động đóng bằng 5% (nay là 6%) tiền lơng làm căn cứ đóng BHXH.
Để đạt đợc chỉ tiêu thu quỹ BHXH cơ quan BHXH Văn Giang đề ra hình thức và biện pháp tổ chức triển khai nh sau:
- Rà soát nắm lại cơ sở đóng trên địa bàn huyện thuộc huyện quản lý
- Tổ chức đại lý chi trả và đôn đốc thu BHXH với từng xã, từng đơn vị.
- Vào sổ cập nhật theo dõi đối chiếu việc thực hiện trích đóng BHXH của từng đơn vị kịp thời.
- Tổ chức triển khai vận động các doanh nghiệp t nhân thực hiện đăng ký đóng BHXH cho ngời lao động, hớng dẫn cơ sở tổ chức thực hiện tốt các quyền lợi cho ngời lao động theo luật định và Điều lệ BHXH quy địn._.an quản lý Nhà nớc về lao động là Sở Lao Động- Thơng binh và Xã hội. Việc làm này đã vi phạm khoản 2 Điều 27 Chơng IV của Bộ Luật lao động và cũng không đa những lao động này vào danh sách đóng BHXH.
+ Doanh nghiệp kéo dài thời gian thử việc khi tuyển dụng lao động một cách tuỳ tiện trái với quy định của Điều 32 Chơng IV Bộ Luật lao động. Trong thời gian kéo dài đó doanh nghiệp không đăng ký đóng BHXH cho ngời lao động.
+ Doanh nghiệp cha hoàn tất các thủ tục chấm dứt hợp đồng lao động nh quy định của điều 35 Chơng IV Bộ Luật lao động và đa ngời lao động ra khỏi danh sách đóng BHXH. Cụ thể là trong các trờng hợp ngời lao động vi phạm nội quy lao động, khi doanh nghiệp không bố trí đợc công ăn việc làm cho ngời lao động.
- Về tiền lơng đóng BHXH: Là một trong hai yếu tố cấu thành mức nộp BHXH của doanh nghiệp và thờng thất thu BHXH trong các trờng hợp:
+ Doanh nghiệp không đa khoản phụ cấp khu vực ngời lao động vào danh sách đăng ký đóng BHXH nh điều 37 Điều lệ BHXH đã quy định.
+ Doanh nghiệp không báo cáo tăng mức nộp BHXH với cơ quan BHXH ngay khi ngời lao động đợc nâng bậc lơng.
+ Doanh nghiệp không tổ chức thi tay nghề nâng bậc lơng cho ngời lao động một cách thờng xuyên nh quy định. Có nhiều lao động hàng chục năm liền không đợc nâng bậc lơng, không thay đổi mức đóng BHXH.
Trong các trờng hợp trên, không những ngành BHXH bị thất thu mà còn ảnh hởng trực tiếp đến quyền lợi của ngời lao động về mức hởng BHXH khi họ bị ốm đau, thai sản, tử tuất và đặc biệt là hu trí.
ã Các doanh nghiệp thực hiện việc thu nộp BHXH cha kịp thời nh Điều 37 Nghị định 12/CP của Chính phủ quy định:
Nh đã nói ở trên, BHXH là khoản thu mang tính hoàn trả trực tiếp cho ngời lao động khi họ gặp rủi ro, ốm đau tai nạn lao động, bệngh nghề nghiệp hoặc lúc thai sản, hết tuổi lao động.
Vì vậy, hơn ai hết, chủ sử dụng lao động phải nhận thức đợc rằng nợ cơ quan BHXH chính là nợ ngời lao động của họ. Nhng trong thực tế quản lý thu BHXH ở cơ sở cho thấy thời gian qua có rất nhiều doanh nghiệp để nợ đọng với thời gian dài, điển hình có những doanh nghiệp từ khi thành lập hệ thống BHXH đến nay hầu nh không nộp BHXH cho ngời lao động.
Việc các doanh nghiệp để nợ đọng BHXH đang là vấn đề bức xúc ở nhiều địa phơng, nhiều lĩnh vực kinh tế và gây hậu quả hết sức nặng nề.
- Đối với doanh nghiệp: Khi ngời lao động cha nhìn thấy những cống hiến về sức lao động, trí tuệ, kinh tế của mình đợc xác nhận trên sổ BHXH thì sẽ ảnh hởng đến năng suất, chất lợng lao động, ảnh hởng đến điều hành cũng nh hiệu quả kinh tế trong sản suất kinh doanh.
- Đối với ngời lao động: Theo các văn bản pháp quy về chế độ BHXH hiện hành thì cơ quan BHXH có quyền từ chối chi trả trợ cấp BHXH khi doanh nghiệp cha hoàn thành nghĩa vụ đóng BHXH, vì vậy ngời lao động cha đợc hởng trợ cấp BHXH trong lúc cần thiết. Đó là những khi:
+ Ngời lao động bị ốm đau.
+ Ngời lao động nghỉ việc do thai sản. Thực tế ở các doanh nghiệp nợ đọng BHXH kéo dài ngời lao động sinh con đến khi con lớn vẫn cha đợc hởng trợ cấp thai sản.
+ Ngời lao động bị tai nạn lao động- bệnh nghề nghiệp.
+ Ngời lao động đến tuổi nghỉ hu nhng cha đợc nghỉ hu.
+ Ngời lao động không may bị chết.
+ Ngoài ra, ngời lao động khi di chuyển từ nơi làm việc cũng không đợc xác nhận đã nộp BHXH ở cơ quan cũ.
- Đối với xã hội: Không đạt đợc mục đích an sinh xã hội nh chủ trơng của Đảng, của Chính phủ đề ra, gây ra những khiếu kiện của ngời lao động tới nhiều Ban, Ngành phải giải quyết.
Nh vậy, để thực hiện tốt chính sách BHXH không chỉ cần đến sự nỗ lực của ngành BHXH, mà các cấp, các ngành và các doanh nghiệp cũng phải nhận thức đúng đắn về chính sách này.
ã Một số doanh nghiệp thực hiện hạch toán thu chi sai so với quy định của điều lệ BHXH và các văn bản pháp quy về chế độ kế toán thống kê.
Doanh nghiệp thu 5% tiền lơng của ngời lao động, nhng không đa những ngời đó vào danh sách đóng BHXH mà sử dụng số tiền này vào mục đích khác, trong khi đó ngời lao động vẫn tởng rằng mình đang tham gia BHXH. Đối với những lao động mang tính thời vụ, không đa vào danh sách đóng BHXH, doanh nghiệp cũng không thanh toán trả 15% tiền lơng cho ngời lao động cùng với tiền lơng của họ theo quy định của Bộ Luật lao động.
Doanh nghiệp không bố trí đợc việc làm, cho ngời lao động nghỉ tự túc. Doanh nghiệp thu cả 20% BHXH của những ngời lao động này.
Doanh nghiệp không hạch toán 15% BHXH vào giá thành mà trừ cả 20% trên bảng thanh toán tiền lơng của ngời lao động hàng tháng.
Do nợ đọng BHXH kéo dài, ngời lao động không đợc thanh toán chế độ ốm đau, thai sản. Để tránh những phản ứng của ngời lao động, doanh nghiệp dùng nguồn tiền thu 5% của ngời lao động có việc làm và 20% của ngời lao động nghỉ tự túc để chi ốm đau thai sản.
Một số doanh nghiệp trích thừa phải nộp BHXH khi hạch toán kế toán và sử dụng phần chênh lệch vào mục đích khác. Phần chênh lệch này do doanh nghiệp trích 15% BHXH vào giá thành theo số lợng lao động trong danh sách đóng BHXH đầu năm, nhng diễn biến trong năm có nhiều lao động nghỉ tự túc nộp cả 20%, tức là 15% BHXH của những ngời công nhân nghỉ việc tự túc đã đợc hạch toán hai lần. Điều này làm tăng chi phí sản xuất trong giá thành sản phẩm, giảm lợi nhuận, giảm lợi tức chịu thuế doanh nghiệp.
Việc hạch toán chi trả 5 chế độ BHXH khi doanh nghiệp nhận đợc tiền của cơ quan BHXH nhiều khi còn cha đúng ngời, đủ số, kịp thời. Hoặc có những công nhân viên trên bảng thanh toán tiền lơng trong tháng thể hiện đủ 26 công lao động, đồng thời trên bảng tổng hợp ngày nghỉ hởng trợ cấp BHXH của tháng đó cũng có công nghỉ ốm, thai sản.
Thực trạng trên của BHXH Việt Nam cũng chính là những tồn tại hiện nay tại cơ quan BHXH huyện Văn Giang mà cơ sở đang cố gắng khắc phục.
Những kết quả đạt đợc của BHXH huyện Văn Giang
BHXH huyện Văn Giang thực hiện công tác quản lý thu-chi quỹ BHXH theo cơ chế quản lý mới đã đạt đợc kết quả nh sau:
Về công tác thu: số thu BHXH qua 2 năm tăng lên rất nhiều, năm 2001 số thu chỉ đạt gần 1,8 tỷ đồng với số lao động là 1.400 mà đến năm 2002 số thu BHXH đã tăng lên trên 1,84 tỷ đồng với số lao động là 1.435 lao động. Kết quả đó dã cho thấy việc thực hiện chế độ, chính sách BHXH theo sự đổi mới là hoàn toàn đúng và thực sự phát huy đợc tác dụng. Theo thống kê năm 2002, số đơn vị tham gia BHXH và số lao động tham gia BHXH trên địa bàn huyện đợc thể hiện qua bảng sau:
Bảng 3:
Tên đơn vị
Tổng số đơn vị (đơn vị)
Tổng số lao động tham gia (ngời)
Số thu BHXH (đồng/quý)
Doanh nghiệp Trung ơng
2
147
130.151.359
Doanh nghiệp ngoài quốc doanh
2
17
7.415.000
Khối hành chính Trung ơng
6
111
42.074.420
Khối hành chính địa phơng
26
1017
341.984.447
Khối xã, phờng
11
199
47.445.355
Tổng
45
1.491
569.069.581
(Nguồn: BHXH huyện Văn Giang)
Từ kết quả bảng trên cho ta thấy, số đơn vị tham gia BHXH trên địa bàn huyện thuộc khối doanh nghiệp ngoài quốc doanh tăng thêm 2 doanh nghiệp, khối hành chính sự nghiệp tăng thêm 2 đơn vị, đó chính là những cố gắng của cán bộ cơ quan. Bên cạnh những dấu hiệu khả quan trên, công tác thu BHXH huyện Văn Giang còn một số vấn đề tồn tại nh: một số doanh nghiệp Nhà nớc cha nghiêm túc trong công tác thu BHXH. Số doanh nghiệp ngoài quốc doanh và số lao động tham gia BHXH còn quá ít so với tổng số lao động trong doanh nghiệp, số doanh nghiệp tham gia BHXH cho ngời lao động thì khai giảm quỹ lơng, khai giảm số lao động, tình trạng nợ đọng BHXH vẫn còn tồn tại ở một số doanh nghiệp cha giải quyết đợc.
Cùng với công tác thu, công tác chi trả BHXH cũng đợc thực hiện thờng xuyên, đảm bảo chi đúng, chi đủ, chi kịp thời và an toàn. Tình hình chi trả BHXH tại huyện Văn Giang đợc thể hiện nh sau:
Bảng 4:
Năm
Tổng số tiền
chi trả
Nguồn do
Ngân sách cấp
Nguồn do
quỹ BHXH cấp
2001
9.482.367.139
8.764.656.000
717.711.139
2002
9.512237.325
8.506.127.000
1.006.110.325
(Nguồn BHXH huyện Văn Giang )
Nh vậy qua 2 năm số chi từ nguồn do Ngân sách cấp giảm xuống, trong khi số chi từ nguồn quỹ BHXH tăng lên nhng số chi từ nguồn quỹ vẫn cao so với nguồn quỹ BHXH cấp. Điều đó cho thấy rằng, việc tăng lên về số tiền chi trả này là do sự tăng lên về đối tợng tham gia và hởng trợ cấp BHXH.
Có thể nói rằng thu-chi là hai nhiệm vụ quan trọng nhất của chính sách BHXH. Thu BHXH để tạo nên nguồn quỹ BHXH độc lập với Ngân sách Nhà nớc. Làm tốt công tác thu BHXH sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho công tác chi trả các chế độ BHXH.
Chơng III:
Một số ý kiến-giải pháp đề xuất nhằm hoàn thiện công tác thu-chi quỹ bảo hiểm xã hội ở phòng bảo hiểm xã hội
huyện Văn Giang
I. Giải pháp đối với cơ quan BHXH
Hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật về BHXH, xây dựng luật BHXH
BHXH ở nớc ta ra đời muộn, lại hoạt động trong hoàn cảnh đất nớc vừa trải qua hai cuộc chiến tranh, đang khôi phục nền kinh tế để tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội. Vấn đề tổ chức BHXH ở nớc ta còn nhiều tồn tại cần giải quyết trong đó có việc ban hành các văn bản pháp luật về BHXH. Với một hệ thống văn bản khá cồng kềnh do nhiều cơ quan chức năng ban hành đã làm cho việc hớng dẫn thực hiện, kiểm tra, kiểm soát các văn bản trên gặp khó khăn, tạo ra nhiều kẽ hở dẫn đến hoạt động BHXH kém hiệu quả, quỹ BHXH trở thành gánh nặng cho ngân sách Nhà nớc.
Việc thay đổi thờng xuyên các văn bản hớng dẫn với nội dung không rõ ràng, thống nhất với nhau đã gây khó khăn cho các cán bộ BHXH và phản ứng từ phía chủ sử dụng lao động và ngời lao động. Vì vậy, xây dựng hệ thống pháp luật về BHXH là nhiệm vụ quan trọng, cấp bách và rất cần thiết. Cụ thể:
Để hình thành hệ thống pháp luật về BHXH đồng bộ và có hiệu lực, trớc hết cần phải sắp xếp và rà soát lại toàn bộ các văn bản BHXH từ trớc tới nay, xem xét hiệu quả việc thực hiện các văn bản đó để loại bỏ hoặc điều chỉnh, đổi mới cho phù hợp với nhu cầu quản lý mới của nền kinh tế thị trờng. Các văn bản không mang tính mệnh lệnh đơn thuần mà phải phù hợp với nguyện vọng của phía ngời tham gia để việc thực hiện đạt kết quả cao.
Nâng cao chất lợng cũng nh khả năng thực thi của các văn bản mang tính pháp lý về hoạt động BHXH, hình thành hệ thống các văn bản pháp luật về BHXH phù hợp với mọi thành phần kinh tế và mọi hoạt động kinh tế trong cả nớc để đảm bảo tính chất xã hội hoá của BHXH. Luật BHXH phải đáp ứng đợc tiến trình đổi mới kinh tế xã hội của đất nớc, đáp ứng đợc mục tiêu chiến lợc về con ngời trong giai đoạn công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Cần xác định rõ trách nhiệm của chủ sử dụng lao động, vai trò của công đoàn, để đảm bảo đầy đủ quyền lợi hợp pháp và quyền bình đẳng cho mọi đối tợng tham gia BHXH. Luật xác định rõ hệ thống tổ chức của BHXH, hệ thống hoạt động có cơ chế kiểm tra, kiểm soát đảm bảo quyền lợi cho ngời lao động và nguồn quỹ lớn mạnh.
Chính phủ cần tăng cờng sự điều hành với BHXH, xác định rõ quyền hạn, trách nhiệm cho ai, cho cơ quan nào.
Tăng cờng thanh tra, kiểm tra và kiểm soát việc thực hiện các chính sách BHXH để phát hiện kịp thời những trờng hợp vi phạm hoặc điểm không phù hợp với thực tế.
Có chơng trình quy hoạch đào tạo và sử dụng cán bộ
Đội ngũ cán bộ của ngành BHXH hiện nay đợc quyền từ Liên đoàn Lao động và Phòng lao động thơng binh và xã hội sang. Đại đa số các cán bộ cha qua đào tạo đại học, thiếu kinh nghiệm quản lý. Một số cán bộ ở cấp tỉnh, huyện trong quá trình làm việc còn chủ yếu dựa vào kinh nghiệm là chính, tiếp cận với các văn bản của nhà nớc một cách thụ động thiếu tính sáng tạo, phong cách làm việc còn mang tính chất hành chính quan liêu. Vì vậy, việc đổi mới xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ ngành BHXH là một vấn đề cấp thiết mang tính khách quan. Gần đây ở một số địa phơng đã giải quyết cho cán bộ vừa làm vừa đi học tại chức để họ nâng cao đợc trình độ nghiệp vụ cũng nh quản lý. Song đó mới chỉ là giải pháp mang tính chất tình thế nên khó tránh khỏi tình trạng chắp vá cả về số lợng và chất lợng. Do vậy, chúng ta phải xây dựng một định hớng đào tạo và phát triển đội ngũ cán bộ của ngành BHXH:
Hình thành trung tâm đào tạo về đại học tại chức, nghiệp vụ tài chính kế toán, quản lý kinh tế, tin học riêng cho ngành BHXH ở cấp tỉnh. Cần phải có chơng trình đào tạo phù hợp, đáp ứng đợc cả nhu cầu hiện tại và trong tơng lai. Ngoài ra thờng xuyên tổ chức các buổi tập huấn nghiệp vụ cho cán bộ BHXH các quận, huyện.
Đối với việc tuyển dụng cán bộ ngành BHXH không chỉ chú ý đến số lợng mà phải quan tâm đến chất lợng cán bộ, đặc biệt là đối với chức danh giám đốc và kế toán trởng. Cần lựa chọn các cá nhân tiêu biểu, có bản lĩnh chính trị vững vàng, có quan điểm lập trờng đúng đắn, có tình thơng yêu đồng chí, đồng nghiệp, gắn bó với ngời lao động.
Coi trọng đào tạo đội ngũ cán bộ trẻ
Một phơng án hữu hiệu đang đợc nhiều ngành mũi nhọn áp dụng đó là lực lợng sinh viên. Để thu hút nhân tài nên đi thẳng vào các sinh viên xuất sắc theo hợp đồng thoả thuận khi họ tốt nghiệp sẽ về công tác cho cơ quan BHXH.
Tóm lại, muốn xây dựng hệ thống BHXH của Việt Nam vững mạnh thì Đảng và Nhà nớc phải tăng cờng đầu t cho ngành này để có một chơng trình đào tạo và sử dụng hợp lý và khoa học. Bên cạnh đó bản thân ngành BHXH cũng phải nỗ lực triển khai các chơng trình đào tạo đó.
Mở rộng nguồn thu BHXH
Xuất phát từ nguyện vọng của ngời lao động và xu hớng xây dựng Nhà nớc xã hội chủ nghĩa, trong những năm gần đây, Đảng và Nhà nớc ta đã có chủ trơng thực hiện BHXH cho ngời lao động đến tất cả các thành phần kinh tế. Khi mọi ngời lao động đều đợc tham gia BHXH chính là đã tạo ra mạng lới bảo về rộng khắp, che chắn cho mọi ngời lao động không bị rơi vào cảnh túng quẫn, một xã hội có sự liên kết cộng đồng tơng trợ giúp đỡ lẫn nhau. Để mở rộng đối tợng tham gia BHXH, Nhà nớc ta cần ban hành các chính sách BHXH tự nguyện. Hình thức BHXH này đợc Bộ luật lao động và Nghị định 12/CP khẳng định song vẫn cha đợc thực hiện. Đây là hoạt động vừa mang tính chất thơng mại vừa mang tính chất xã hội nên phải có đối tợng tham gia và phải hình thành nguồn quỹ có khả năng đáp ứng nhu cầu chi trả đồng thời phải có sự giúp đỡ của Nhà nớc. ở nớc ta đang thực hiện chính sách mở cửa nền kinh tế, thực hiện cơ cấu nhiều thành phần nên số lợng lao động ngày càng tăng kéo theo sự gia tăng của các đối tợng tham gia và hởng BHXH. Đối tợng của BHXH hiện nay mới chỉ dừng lại ở các cơ quan hành chính sự nghiệp, cơ quan Đảng, Đoàn thể và các đơn vị có sử dụng từ 10 lao động trở lên. Mà nớc ta là một nớc nông nghiệp, 80% dân số sống bằng nghề nông, ngoài ra còn có thợ thủ công, ngời buôn bán nhỏ. Các đối tợng này chiếm đại bộ phận trong tổng số lao động nớc ta vẫn cha đợc tham gia BHXH. Do vậy, Nhà nớc cần có biện pháp hữu hiệu để cho mọi ngời lao động đều đợc tham gia BHXH. Có thể có các hớng giải quyết sau:
Mức góp hiện nay dựa trên tiền lơng cơ bản (gồm lơng cấp bậc, chức vụ, hợp đồng, hệ số chênh lệch bảo lu và các khoản phụ cấp thâm niên, chức vụ bầu cử, phụ cấp khu vực, phụ cấp cấp đắt đỏ). Trong khi đó thu nhập thực tế của ngời lao động lại không ngừng tăng lên. Hiện tại nhiều doanh nghiệp có thu nhập bình quân trên 1 triệu đồng/tháng/ngời. Do vậy, nên có hình thức BHXH bổ sung, khuyến khích ngời lao động tự nguyện đóng góp cao hơn, ứng với thu nhập thực tế, xem xét mức thởng của họ sao cho phù hợp để đảm bảo có sự đảm bảo an toàn cho quỹ BHXH và quyền lợi của họ. Trong hình thức này chủ sử dụng lao động không liên quan.
ở nớc ta hiện nay số lợng doanh nghiệp có quy mô nhỏ dới 10 lao động tơng đối lớn. Vì thế, nên mở rộng đối tợng BHXH đến các doanh nghiệp này.
Để đẩy mạnh công tác thu cần ban hành ngay các văn bản pháp luật buộc các doanh nghiệp ngoài quốc doanh phải đóng BHXH. Nên có quy định buộc các doanh nghiệp này khi đăng ký kinh doanh phải đăng ký tham gia BHXH thì mới cấp giấy phép kinh doanh. Đây là một vấn đề bức xúc cần làm ngay. Đồng thời có các văn bản hớng dẫn công tác chi trả để tạo điều kiện thuận lợi cho công tác chi.
Đối với các đối tợng cha tham gia BHXH bắt buộc thì cần áp dụng hình thức BHXH tự nguyện đặc biệt là đối với nông dân. Hiện nay, nớc ta có khoảng 28 triệu lao động nông thôn chiếm khoảng 71% tổng số lao động cả nớc, hầu hết cha tham gia BHXH. Tốc độ tăng trởng kinh tế nông nghiệp bình quân 4,3% năm, đóng góp khoảng 40% GDP, 40% kim ngạch xuất khẩu, đời sống của ngời nông dân tăng lên rõ rệt. Theo tính toán của ESCAP, số ngời cao tuổi ở Việt Nam năm 1998 khoảng gần 5 triệu ngời, đến năm 2000 lên tới 5,4 triệu ngời và năm 2025 là 12,3 triệu ngời. Trong số ngời cao tuổi ở nông thôn chỉ có một tỷ lệ không đáng kể là cán bộ công nhân viên, bộ đội về hu hoặc nghỉ mất sức lao động có chế độ BHXH. Một số khác thuộc đối tợng chính sách của Nhà nớc, còn lại đại bộ phận là không có chế độ BHXH. Qua điều tra khảo sát 50% ngời về hu, mất sức lao động ở nông thôn có thu nhập từ BHXH dới mức lơng tối thiểu, 90% số ngời cao tuổi ở nông thôn vẫn đang phải làm việc để tăng thu nhập (72% phải dựa vào con cháu, 28% phải có sự trợ giúp khẩn cấp của Nhà nớc và cộng đồng). Vì vậy, mở rộng đối tợng BHXH cho lao động nông thân hiện nay là tất yếu khách quan, là nguyện vọng của hàng triệu lao động nông thôn hiện nay. Tuy nhiên đây là vấn đề hết sức phức tạp cần phải nghiên cứu kỹ cả về lý luận lẫn thực tiễn. Sau đây là một vài kiến nghị về mô hình BHXH cho lao động nông thôn:
+ Nên thực hiện ở vùng đồng bằng trớc vì đây là nơi tập trung nhiều lao động nông thôn.
+ Các chế độ ốm, đau, thai sản, hu trí, tử tuất cần đợc thực hiện trớc.
+ Khuyến khích các hộ giàu tham gia trớc sau đó giúp đỡ các hộ nghèo, gia đình chính sách tham gia.
+ Quỹ BHXH chủ yếu do ngời lao động tham gia đóng góp, Nhà nớc hỗ trợ kinh phí cần thiết.
Nhà nớc cần phải thiết kế chính sách và hệ thống BHXH cho lao động nông thôn nằm trong hệ thống quản lý thống nhất của BHXH Việt Nam.
Đẩy mạnh công tác tuyên truyền về BHXH
BHXH Việt Nam mới đi vào hoạt động theo cơ chế mới, hạch toán độc lập, cân đối thu chi nên việc đẩy mạnh công tác tuyên truyền về BHXH là hết sức cần thiết. Công tác thông tin, tuyên truyền về BHXH trong những năm qua đã có nhiều cố gắng và đạt đợc những kết quả đáng ghi nhận:
Đó là nâng cao nhận thức xã hộ đối với BHXH, đa ra những hình thức tuyên truyền hiệu quả hơn và đã xây dựng đợc đội ngũ đông đảo cộng tác viên. Nhng so với yêu cầu và nhiệm vụ chung của ngành, công tác thông tin tuyên truyền về BHXH còn nhiều hạn chế, tồn tại cần khắc phục. Nhìn chung số đông ngời lao động, chủ sử dụng lao động cha có hiểu biết rõ ràng về BHXH, thêm vào đó công tác tuyên truyền cha đợc quan tâm một cách đúng mức, kinh phí tuyên truyền còn quá ít ỏi, hiệu quả tuyên truyền thấp. Để nâng cao hiệu quả của công tác tuyên truyền cần phải thực hiện theo các hớng sau:
Về nội dung:
Ngoài tuyên truyền chính sách, pháp luật và các chế độ BHXH, giải đáp hớng dẫn việc thực hiện các chế độ, kết quả các mặt hoạt động của ngành. Cần đặc biệt quan tâm đến nội dung mà lâu nay ít đợc đề cập đến đó là tuyên truyền về mục đích, bản chất nhân đạo nhân văn của BHXH. Nếu chúng ta làm đợc điều đó thì sẽ từng bớc thay đổi đợc tâm lý nặng nề của họ hiện nay là bắt buộc phải đóng BHXH. Từ đó hình thành ở họ thái độ tự giác, tự nguyện tham gia BHXH và có trách nhiệm nộp BHXH. Trớc đây chúng ta thờng tuyên truyền nhiều về nội dung thu chi, quản lý quỹ BHXH và giải quyết về BHXH là cha đủ. Đó mới chỉ là biện pháp để thực hiện mục đích nhân đạo. Nội dung tuyên truyền mới chỉ dành riêng cho nội bộ ngành, cha thu hút đợc đông đảo ngời lao động, chủ sử dụng lao động và các thành viên khác trong xã hội.
Về hình thức tuyên truyền:
Tạp chí BHXH Việt Nam ra đời đánh dấu một mốc lịch sử trong công tác tuyên truyền về BHXH. Thời gian qua, các bài báo viết chủ yếu là của các nhà quản lý BHXH, đội ngũ cộng tác viên cha đáp ứng đợc số lợng, chất lợng bài viết. Để phục vụ độc giả tốt hơn, tạp chí BHXH phải đa dạng hoá nội dung và hình thức thực hiện. Trớc hết là đội ngũ phóng viên, biên tập viên, cộng tác viên phải có những bài viết với chất lợng cao. Bài viết không dừng lại ở thông tin một cách đơn thuần những kết quả đạt đợc mà phải dựa trên sự phân tích một cách khoa học, mang tính lập luận nghiệp vụ về BHXH. Bài viết đăng trên tạp chí phải đầy đủ thông tin cần thiết và chính xác cập nhật. Đòi hỏi đội ngũ biên tập viên, cộng tác viên trong và ngoài ngành phải có trình độ chuyên môn, trách nhiệm cao.
Tăng cờng phối hơp với các cơ quan thông tin đại chúng (Đài truyền hình, truyền thanh, báo chí) để tuyên truyền sâu rộng hơn về bảo hiểm xã hội. Nội dung tuyên truyền cần ngắn gọn, dễ hiểu, gây đợc sự chú ý của mọi ngời.
Tổ chức thực hiện một số hình thức tuyên truyền trực quan sinh động: in tờ gấp, tranh cổ động, áp phích, sách hỏi đáp giới thiệu về pháp luật và các chế độ BHXH, phát hành rộng rãi đến từng đơn vị sử dụng lao động.
Có biện pháp để thu hút các nhà chuyên môn, chuyên gia nổi tiếng trên các lĩnh vực: văn hoá, hội hoạ, nhạc kịch. Sáng tác các tác phẩm có tinh hoa văn hoá nghệ thuật cao, có nội dung tuyên truyền đợc quần chúng a thích. Các bài hát, bài thơ, các vở kịch, phim tranh cổ động phải đợc dàn dựng, thể hiện và trình bày công phu để giới thiệu rộng rãi đến toàn xã hội với cách tốt nhất là thông qua đài truyền hình, qua các cuộc thi.
Tổ chức các hội nghị, các cuộc họp trong đó có các đại diện của ngời lao động để nhằm mục đích tuyên truyền về BHXH gióp các bên tham gia hiểu rõ tính pháp luật của BHXH, nắm đợc quyền lợi và nghĩa vụ của mình. Đồng thời qua đó thu thập tổng hợp các ý kiến thắc mắc, đóng góp của ngời lao động, chủ sử dụng lao động để đa ra các biện pháp phù hợp với nguyện vọng của họ.
Phấn đấu mỗi cán bộ BHXH là một tuyên truyền viên vì hơn ai hết họ hiểu rõ mục đích, bản chất, tác dụng và cách thức thực hiện các chính sách BHXH.
Hiệu quả của tuyên truyền phải đợc đánh gía bởi mức độ ảnh hởng thay đổi nhận thức, thái độ của đối tợng tham gia theo mục đích đã định, số lợng đối tợng đợc tuyên truyền, chi phí cho tuyên truyền.
Hoàn thiện nghiệp vụ quản lý thu chi, đa hệ thống hoá vi tính vào công tác quản lý thu chi quỹ BHXH.
Công tác thu quỹ BHXH có yêu cầu rất cao đối với những cán bộ làm công tác này, đòi hỏi ngời cán bộ phải năng động, sáng tạo, nhiệt tình trong công việc. Do vậy cần có những chế độ u đãi đối với họ nh: phơng tiện đi lại, thanh toán công tác phí theo chế độ riêng phù hợp với hoàn cảnh cụ thể. Bên cạnh đó chúng ta cũng nên quan tâm đến các tổ chức, đơn vị mà chúng ta quản lý. Chúng ta có thể tiến hành các hình thức khen thởng, cám ơn đến các đơn vị luôn thực hiện đúng tiến độ thu BHXH. Còn đối với các đơn vị nộp chậm, nộp thiếu tiền BHXH thì chúng ta nên xem xét tình hình cụ thể của đơn vị. Nếu đơn vị thực sự gặp khó khăn thì đề nghị các cơ quan chức năng tạo điều kiện thuận lợi, giúp họ nhanh chóng thoát khỏi tình trạng khó khăn. Nếu đơn vị cố tình chiếm dụng quỹ trong khi có đủ khả năng nộp tiền BHXH thì phải có các biện pháp xử phạt hành chính vì nhiều đơn vị sẵn sàng chấp nhận nộp phạt nếu nh họ thấy tiền lãi thu đợc do chiếm dụng quỹ BHXH vào hoạt động sản xuất kinh doanh lớn hơn số tiền họ phải nộp mà trong một số trờng hợp chúng ta phải mạnh dạn đề nghị các cơ quan thực thi pháp luật tiến hành truy tố họ vì không đảm bảo quyền lợi cho ngời lao động. Đối với các đơn vị hoạt động sản xuất kinh doanh mang tính chất thời vụ thì cần xác định thời điểm thu hợp lý để tạo điều kiện cho họ nộp đúng, nộp đủ.
Công tác chi trả cũng cần phải đợc đổi mới cho phù hợp với nhu cầu của cuộc sống. Đối với các cán bộ chi trả lơng hu và trợ cấp tại các tổ, phờng trên địa bàn quận thì phải không ngừng nâng cao mức thù lao cho họ để họ có thể yên tâm làm công tác này, đem lại hiệu quả chi trả cao hơn. Đối với các bộ làm công tác chi trả 2 chế độ ốm đau, thai sản ở các đơn vị thì cũng phải có mức thù lao thoả đáng đặc biệt là đối với những đơn vị có đông lao động, có nhiều lao động nữ, điều kiện làm việc cho ngời lao động cha đảm bảo.
Hiện nay nền kinh tế nớc ta đang dần bắt kịp tốc độ phát triển của nền kinh tế thế giới. Chúng ta đang mạnh mẽ áp dụng công nghệ tin học vào công tác quản lý, vào hoạt động sản xuất kinh doanh trên tất cả các lĩnh vực của đời sống. Ngành BHXH cũng đã đa hệ thống tin học vào hoạt động của mình nhng mới chỉ dừng lại ở mức độ “có máy vi tính”. Hiện nay ở hầu hết các cơ quan BHXH đều có hơn 2 chiếc máy vi tính nhng số lợng cán bộ BHXH biết sử dụng thành thạo nó thì có rất là ít, thậm chí có nơi không có. Các cán bộ của ngành BHXH mới chỉ dừng lại việc bắt đầu biết sử dụng máy vi tính mà cha khai thác đợc hết hiệu quả mà máy vi tính đem lại trong công tác thu chi quỹ BHXH. Mặt khác do cha đợc quan tâm đúng mức nên hệ thống các chơng trình phần mềm chuyên ngành của ngành BHXH cha dợc đồng bộ, cha tạo ra sự thuận tiện cho các cán bộ khi làm việc trực tiếp với máy tính. Bên cạnh đó hệ thống phần mềm này còn thiếu tính năng bảo mật nên rất dễ bị đánh cắp số liệu. Chính vì vậy mà trong những năm tiếp theo Nhà nớc nên cung cấp kinh phí cho ngành BHXH để họ có đủ điều kiện đa hoạt động tin học trong quản lý cóp hiệu quả cao thông qua việc mua máy vi tính, mua phần mềm quản lý cũng nh việc mở các lớp đào tạo tin học cho tất cả các cán bộ trong toàn ngành BHXH cả về kỹ năng sử dụng máy tính và kỹ năng khai thác hiệu quả phần mềm chuyên ngành.6. Bảo toàn và tăng trởng quỹ BHXH
Muốn công tác chi trả đợc thực hiện tốt hơn và để đảm bảo khă năng chi trả thì phải có các biện pháp bảo tồn và tăng trởng quỹ BHXH. Để bảo tồn đợc giá trị của quỹ cần sử dụng có hiệu quả và tiết kiệm quỹ, cần tăng nguồn thu, chi đúng mục đích, đối tợng và tăng cờng công tác kiểm tra sử dụng quỹ. Do vậy, cần phải đầu t quỹ sao cho có hiệu quả cao nhất trên nguyên tắc đảm bảo an toàn, hạn chế rủi ro. Trong những năm tới chúng ta vẫn phải tiến hành đầu t trên các lĩnh vực quen thuộc nh: mua tín phiếu, trái phiếu của Chính phủ, cho các tổ chức tín dụng của Nhà nớc vay, đầu t vốn vào các doanh nghiệp lớn đợc sự bảo hộ của Nhà nớc.
Tóm lại, cơ quan BHXH huyện Văn Giang hoạt động dới sự chỉ đạo chung của BHXH Việt Nam nên giải pháp chung đối với BHXH Việt Nam cũng chính là giải pháp cho BHXH huyện Văn Giang hoạt động đợc tốt hơn theo cơ chế quản lý mới.
I. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện công tác thu-chi quỹ BHXH
Kiến nghị đối với công tác thu
Quản lý thu BHXH phải đảm bảo, quán triệt công tác quản lý đầy đủ, chính xác kịp thời đối tợng tham gia BHXH và quỹ tiền lơng làm cơ sở để nộp.
Tổ chức cấp sổ BHXH cho ngời lao động kịp thời để ghi chép các quá trình tham gia BHXH và mức đóng của họ vào quỹ, cần sử dụng công nghệ quản lý mới để thay thế cho phơng pháp làm việc thủ công hiện nay.
Từng bớc áp dụng công nghệ thông tin trên cơ sở xây dựng hoàn chỉnh mạng máy tính toàn ngành để có thể quản lý hoạt động thu BHXH một cách dễ dàng và nhanh chóng hơn.
Cần phải có hệ thống quản lý các tài khoản chuyên thu chặt chẽ. Để làm đợc việc đó cơ quan BHXH cần phải có những chế độ khen thởng kịp thời cho những công nhân viên chức, các đơn vị sử dụng lao động làm tốt. Bên cạnh đó cũng cần phải có hình thức kỷ luật nghiêm khắc đối với những đơn vị, công nhân viên chức vi phạm quy định của Nhà nớc và của ngành.
Đào tạo đội ngũ cán bộ có những kiến thức cơ bản về nghiệp vụ BHXH một cách đồng bộ, đúng quy định của ngành và pháp luật, đáp ứng đợc những yêu cầu thực tế đặt ra.
Trao đổi, hợp tác, học hỏi kinh nghiệm thực tiễn về BHXH của các nớc trên thế giới và khu vực thông qua hoạt động hợp tác và trao đổi kinh nghiệm giữa BHXH Việt Nam với cơ quan, tổ chức BHXH các nớc.
Kiến nghị đối với công tác chi BHXH
Quản lý chi BHXH nhằm giải quyết các chế độ BHXH và chi trả kịp thời, đúng lúc, chính xác, đúng đối tợng cho những ngời đợc hởng trợ cấp của các chế độ BHXH. Do đó, công tác chi BHXH phải bảo đảm các mặt sau:
- Tăng cờng biện pháp quản lý tiền mặt trong tất cả các công đoạn vận chuyển từ nơi giao nhận tiền tới khi chi trả cho các chế độ đợc hởng.
- Cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa BHXH các cấp với BHXH Việt Nam trong việc quản lý sự biến động do di chuyển, chết hoặc hết thời gian hởng quyền lợi BHXH.
- Cần tìm ra phơng thức và mô hình chi trả hợp lý để bảo đảm quyền lợi cho các đối tợng và bảo đảm sự phù hợp với khả năng, yêu cầu chi trả của cơ quan BHXH cơ sở.
Ngoài ra BHXH còn cần phải hoàn thiện hệ thống văn bản pháp quy về BHXH. Hệ thống luật BHXH cần sớm đợc ra đời để quán triệt một số nguyên tắc nhất định nh gắn liền giữa quyền lợi và trách nhiêm, mức hởng của các chế độ phải căn cứ vào thời gian đóng, mức đóng BHXH của ngời lao động.
Kết luận
BHXH là một chính sách xã hội lớn, quan trọng mà Đảng và Nhà nớc ta đã xác định. Thực hiện tốt công tác BHXH là tạo nên một mạng lới an toàn có tính nhân văn góp phẩn để ổn định cuộc sống về vật chất và tinh thần cho ngời lao động, đảm bảo sự an toàn cho xã hội, đẩy nhanh sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội của đất nớc.
Tromg hoạt động BHXH, hoạt động thu-chi BHXH là một bộ phận quan trọng trong quản lý quỹ BHXH, cùng với hoạt động đầu t tăng trởng quỹ, đó chính là những nhân tố quan trọng quyết sự tồn tại và phát triển của hệ thống các chế độ BHXH.
Để BHXH thực sự trở thành một chính sách xã hội quan trọng góp phần vào công cuộc phát triển kinh tế-xã hội của đất nớc, bên cạnh những đổi mới về cơ chế quản lý, về nhận thức, về mô hình tổ chức và các công tác khác của BHXH thì hoạt động thu-chi cũng cần phải không ngừng tiếp tục hoàn thiện và đổi mới hoạt động.
Trên đây là toàn bộ những kết quả nghiên cứu của đề tài trong quá trình thực tập tại cơ quan BHXH huyện Văn Giang và nhờ có sự giúp đỡ của cán bộ cơ sở cùng sự hớng dẫn tận tình của cô giáo Nguyễn Thị Chính và sự cố gắng tìm hiểu của bản thân, em đã hoàn thành đợc chuyên đề này. Do khả năng còn hạn chế cho nên chuyên đề đợc hoàn thành không tránh khỏi những sai sót nên em rất mong sự chỉ bảo của các thầy, các cô cùng những ngời quan tâm đến đề tại này. Em xin chân thành cảm ơn.
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- M0206.doc