Phần I:
Ngân sách Nhà nước : chức năng vai trò và hoạt động của nó
I. Khái niệm và mục tiêu của NSNN:
Trong các xã hội hiện đại, Nhà nước luôn có các chức năng, nhiệm vụ nhiều mặt, như chức năng quản lý hành chính, chức năng kinh tế, chức năng trấn áp và các nhiệm vụ chính trị, nhiệm vụ xã hội. Để thực hiện các chức năng nhiệm vụ đó Nhà nước cần nắm 1 lượng của cải vật chất nhất định. Lượng của cải vật chất đó được hình thành chủ yếu từ thuế, cái mà các tổ chức dân cư phải có nghĩa vụ nộp cho
36 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1578 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Tình hình hoạt động & vai trò đIều tiết vĩ mô nền kinh tế của Ngân sách nhà nước Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nhà nước theo quy định bằng luật pháp của Nhà nước. Từ các nguồn thu đó mà quỹ tiền tệ tập trung lớn nhất của Nhà nước được hình thành, nó được gọi là quỹ Ngân sách, đó là cơ sở vật chất đảm bảo cho Nhà nước tồn tại và hoạt động.Việc sử dụng quỹ Ngân sách để đáp ứng các nhu cầu chi tiêu của Nhà nước chính là quá trình chi tiêu của Ngân sách. Chi tiêu Ngân sách luôn gắn liền với việc thực hiện các nhiệm vụ cụ thể của Nhà nước trên mọi lĩnh vực, và trong từng thời kỳ nhất định.
Trong thời hiện đại nay, chức năng kinh tế của Nhà nước càng trở nên quan trọng. Nhà nước phải can thiệp vào các quá trình kinh tế để sửa chữa những sai lầm của thị trường, để đảm bảo môi trường kinh doanh lành mạnh và đảm bảo tính hiệu quả, công bằng và ổn định của nền kinh tế. Sự can thiệp của Nhà nước ở đây là sự can thiệp gián tiếp, thông qua chính sách thuế khoá, chính sách chi tiêu và các luật lệ của Nhà nước. Như vậy bên cạnh “bàn tay vô hình” của thị trường còn có “bàn tay hữu hình” của Nhà nước là thuế khoá, chi tiêu Chính phủ và các luật lệ của Nhà nước.
Phát triển kinh tế hiện nay đang là mục tiêu cơ bản trong chính sách kinh tế vĩ mô của hầu hết các Chính phủ, phát triển kinh tế không chỉ đơn thuần là sự tăng trưởng kinh tế, mà nó còn bao hàm nhiều vấn đề khác, như sự thay đổi trong cơ cấu kinh tế, sự đô thị hoá và sự tham gia của các thành viên trong xã hội vào qua trình phát triển đó. Để thực hiện được mục tiêu chiến lược này, Nhà nước sử dụng nhiều công cụ khác nhau, trong đó chính sách Ngân sách là một trong những công cụ quan trọng nhất của Nhà nước. Như vậy qua đây ta thấy chính sách của Nhà nước như thế nào, hay cụ thể hơn là việc Nhà nước huy động thu nhập, sử dụng thu nhập vào việc gì, như thế nào? là hoàn toàn phụ thuộc vào các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước, phụ thuộc vào các mục tiêu mà Nhà nước đặt ra trong các thời kỳ khác nhau.
Vậy Ngân sách Nhà nước là gì?
Ngân sách Nhà nước là toàn bộ các khoản thu, chi của Nhà nước trong dự toán đã được các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền quyết định và được thực hiện trong 1 năm để đảm bảo thực hiện các chức năng nhiệm vụ của Nhà nước.
NSNN là một bộ phận quan trọng của hệ thống tài chính. Đây là bộ phận tập trung với hạt nhân là quỹ NSNN.
- Về hình thức: NSNN là bảng tổng hợp các khoản thu chi của Nhà nước.
- Về nội dung kinh tế : NSNN là hệ thống các quan hệ kinh tế phát sinh trong quá trình phân phối sản phẩm quốc dân và các nguồn tiền tệ khác thông qua việc hình thành và sử dụng quỹ tiền tệ tập trung lớn nhất của Nhà nước nhằm phục vụ cho việc thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước.
Cùng với chính sách tiền tệ, chính sách thu nhập và chính sách ngoại thương, chính sách Ngân sách được sử dụng để tác động vào “tổng cầu” của xã hội nhằm hướng nền kinh tế đạt tới những mục tiêu nhất định như: sản lượng cao, tốc độ phát triển cao, tỷ lệ thất nghiệp thấp, tỷ lệ lạm phát thấp và cân bằng cán cân thanh toán.
II. Nguyên tắc hoạt động:
Các quan hệ kinh tế thuộc lĩnh vực NSNN là những quan hệ kinh tế giữa một bên là Nhà nước và một bên là các tổ chức và dân cư. Trong điều kiện nền kinh tế mở, NSNN còn bao gồm cả các quan hệ kinh tế giữa Nhà nước với bộ phận tài chính đối ngoại.
Trong quá trình sử dụng, NSNN được kế hoạch hoá một cách chặt chẽ, kế hoạch Ngân sách là kế hoạch tài chính cơ bản của Nhà nước. Nó được lập cho một thời kỳ nhất định, thường là một năm. Các khoản thu về các khoản chi trong kế hoạch Ngân sách được sắp xếp theo một trật tự nhất định, gọi là mục lục Ngân sách. Là kế hoạch tài chính cơ bản của Nhà nước, NSNN mang tính pháp luật. Quá trình lập và chấp hành Ngân sách được tiến hành theo một trình tự nhất định và sau khi thông qua, NSNN trở thành một đạo luật- nghĩa là việc thực hiện nó mang tính bắt buộc.
Quá trình xây dựng NSNN phải tuân theo một số nguyên tắc nhất định. Đó là các nguyên tắc sau:
Thứ nhất: Là nguyên tắc thống nhất. Nghĩa là Nhà nước chỉ có một hệ thống Ngân sách thống nhất bao gồm Ngân sách Trung ương và Ngân sách địa phương. Tính thống nhất của Ngân sách còn thể hiện ở sự thống nhất về mục lục Ngân sách, về các báo biểu, biểu mẫu tài chính,thống nhất và hệ thống thu và các nguyên tắc chi, và cuối cùng là sự thống nhất trong việc thực hiện các nghiệp vụ Ngân sách.
Thứ hai: Là nguyên tắc toàn bộ. Chấp hành nguyên tắc toàn bộ nghĩa là toàn bộ các khoản thu và các khoản chi của Ngân sách phải được phản ánh đầy đủ trong NSNN, nguyên tắc này được đưa ra nhằm tránh việc để ngoài Ngân sách các khoản thu hoặc các khoản chi thuộc NSNN.
Thứ ba: Là nguyên tắc công khai. Theo nguyên tắc này, Chính phủ phải công bố công khai trên báo chí và các phương tiện thông tin đại chúng về NSNN, bao gồm nội dung, khối lượng các khoản thu và các khoản chi Ngân sách chủ yếu.
Các nguyên tắc trên đây là các nguyên tắc chủ yếu của quá trình xây dựng Ngân sách. Trên thực tế, mỗi nước trong từng hoàn cảnh cụ thể có thể có sự vận dụng linh hoạt hơn.
Hệ thống NSNN được thiết lập theo tổ chức hệ thống chính quyền Nhà nước. Thông thường Ngân sách Nhà nước bao gồm Ngân sách Trung ương và Ngân sách địa phương trong đó Ngân sách Trung ương giữ vai trò chủ đạo. Ngân sách Trung ương tập trung những nguồn thu quan trọng nhất và đảm nhiệm những nhiệm vụ chi chủ yếu. Việc phân phối quản lý Ngân sách được tiến hành thông qua việc quy định phạm vi nhiệm vụ và trách nhiệm cụ thể của chính quyền Nhà nước, Trung ương và tỉnh, đồng thời thông qua việc phân định các nguồn thu giữa Ngân sách Trung ương và Ngân sách tỉnh để đảm bảo thực hiện các nhiệm vụ trên.
III. Chức năng của NSNN:
NSNN có hai chức năng cơ bản là chức năng phân phối và chức năng giám đốc.
* Chức năng phân phối của NSNN không dừng lại ở khâu phân phối thu nhập (kết quả kinh doanh) mà bao gồm cả phân phối các yếu tố đầu vào, cụ thể là phân bổ các nguồn tài chính. Đối tượng phân phối của NSNN là các nguồn lực tài chính, thu nhập mới sáng tạo ra có liên quan đến Nhà nước, phần do Nhà nước làm chủ sở hữu, gắn liền với khả năng thu chi, vay mượn của Chính phủ, gắn liền với việc hình thành và sử dụng quỹ tiền tệ tập trung của nhà nước (quỹ NSNN, quỹ dự trữ tài chính…) và có quan hệ chặt chẽ với các chủ thể khác của nền kinh tế (doanh nghiệp, hộ gia đình, cá nhân, các đoàn thể, tổ chức phi lợi nhuận...) trong quá trình thực hiện chức năng phân phối. Phạm vi phân phối NSNN được giới hạn ở các nghiệp vụ có liên quan tới quyền chủ sở hữu và quyền lực chính trị của Nhà nước. Nhà nước thực hiện chức năng phân phối nguồn lực tài chính khi cung cấp, tài trợ vốn cho các doanh nghiệp (thường là các doanh nghiệp mà Nhà nước là chủ sở hữu toàn bộ hay bộ phận); hoặc chi cho đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng bằng nguồn vốn tập trung từ NSNN. Chức năng phân phối thu nhập của NSNN được thực hiện khi phát sinh các nghiệp vụ thu, chi NSNN. Phân phối Nhà nước có mặt trong các khâu phân phối lần đầu (Nhà nước tham gia vào quá trình phân chia kết quả sản xuất, kinh doanh với tư cách là chủ sở hữu vốn và tài sản trong các doanh nghiệp có vốn của Nhà nước…) và phân phối lại kết quả sản xuất kinh doanh thông qua thuế và chi tiêu công cộng.
* Chức năng giám đốc ở đây được hiểu là việc giám sát, đôn đốc, kiểm tra, được tiến hành một cách thường xuyên, liên tục, cùng với quá trình vận động của các đối tượng phân phối của NSNN. Chức năng giám đốc của NSNN gắn liền với chức năng phân phối NSNN, thông qua phân phối để giám sát, kiểm tra và nhờ có kiểm tra, giám sát mà quá trình phân phối NSNN được thực hiện đúng pháp luật, có hiệu quả. Công cụ giám đốc NSNN là các nghiệp vụ thống kê, kế toán, kiểm toán, nghiệp vụ thanh tra, kiểm tra tài chính, chế độ công khai tài chính, Ngân sách và bằng các phương tiện thông tin đại chúng. Giám đốc NSNN thực hiện cả ở tầm vĩ mô và vi mô, trực tiếp và gián tiếp. Giám đốc NSNN cung cấp thông tin về các cân đối thu chi NSNN, về thực tế thu chi và tổng ngân quỹ NSNN tại các thời điểm cần thiết, về thực trạng gánh nặng nợ của Nhà nước và khả năng thanh toán của Chính phủ. Thông qua chức năng giám đốc của NSNN, nhà nước kiểm soát tình hình tài chính vĩ mô. Giám đốc NSNN còn xem xét mức độ kết quả thực hiện chế độ, hạn mức chi của NSNN tại cơ sở, xem xét việc chấp hành luật pháp tài chính tại các doanh nghiệp Nhà nước và các đơn vị sử dụng NSNN.
Nếu thực hiện tốt chức năng này, một mặt Nhà nước sẽ được cung cấp những hình ảnh đúng đắn, trung thực, sống động về thực trạng, về quá trình diễn biến, về xu hướng vận động của NSNN. Mặt khác trên cơ sở kết quả giám đốc, Nhà nước tiếp tục vững bước hoặc có những điều chỉnh cần thiết trong điều hành NSNN, tiến tới các mục tiêu chiến lược đã xác định một cách có hiệu quả.
IV. Vai trò của Ngân sách Nhà nước:
Trong kinh tế thị trường, vai trò của NSNN là bảo đảm nguồn tài chính thực hiện chức năng Nhà nước công quyền, duy trì sự tồn tại của thể chế chính trị, là công cụ thúc đẩy tăng trưởng, ổn định và điều chỉnh kinh tế vĩ mô của Nhà nước, bù đắp những khiếm khuyết của thị trường, bảo đảm công bằng xã hội, bảo vệ môi trường sinh thái .
Ngân sách tiêu dùng: công cụ bảo đảm thực hiện chức năng Nhà nước công quyền và bảo vệ Tổ Quốc
Nếu như đa số các học thuyết không có mâu thuẫn về sự cần thiết phải duy trì Ngân sách bảo đảm tiêu dùng thường xuyên của Nhà nước (hầu như tất cả đều thống nhất về việc phải có đủ tiềm lực tài chính, Ngân sách bảo đảm hoạt động của bộ máy quản lý Nhà nước, an ninh, quốc phòng, trật tự và an toàn xã hội) thì người ta lại không nhất trí với nhau khi cho rằng toàn bộ NSNN là Ngân sách tiêu dùng hay Ngân sách tiêu dùng chỉ là một bộ phận của NSNN ? Các nhà kinh tế học thường xuất phát từ chức năng của Nhà nước, căn cứ vào đó để làm luận cứ xác định vai trò của NSNN.
Việc duy trì vai trò Ngân sách tiêu dùng là hoàn toàn cần thiết nhưng chưa đủ bởi có ít nhất 2 lý do: Một mặt, sự ra đời và tồn tại của NSNN thống nhất với sự cần thiết phải có một Ngân sách đủ tiềm lực bảo đảm hoạt động của bộ máy quản lý hành chính, công bằng xã hội, duy trì, cải thiện cơ sở hạ tầng, giữ gìn an ninh, quốc phòng, trật tự và an toàn xã hội. Chính điều đó tạo nên bộ phân Ngân sách thường xuyên (bao gồm cả chi cho cơ sở hạ tầng) của mọi loại hình NSNN. Bộ phận Ngân sách tối thiểu đó thể hiện vai trò của một Ngân sách tiêu dùng, nằm ở khâu sau, khâu phân khối lại thu nhập của quá trình kinh tế, phù hợp nhất quán với chức năng phân khối lại của NSNN. Nhưng mặt khác, thực tế cũng như lý luận về chức năng của NSNN chỉ ra rằng, chức năng phân khối của NSNN không chỉ là phân phối lại kết quả sản xuất kinh doanh mà trước khi phân phối lại kết quả kinh doanh thì NSNN đã tham gia vào phân phối vào các yếu tố đầu vào của quá trình kinh tế. Do đó, Nhà nước không thể và không nên dừng lại ở việc xây dựng một Ngân sách tiêu dùng thụ động, trung tính trước các hoạt động kinh tế. Mặc dầu, việc xây dựng một Ngân sách tiêu dùng tối thiểu tuy có thể tạo cơ hội ngăn chặn tham nhũng, lãng phí nhưng giữa chống tham nhũng lãng phí và việc mở rộng NSNN ra ngoài phạm vi Ngân sách tiêu dùng hiện chưa có những phân tích có sức thuyết phục nào chỉ ra được mối liên hệ tương thích .
Ngân sách phát triển: công cụ thúc đẩy tăng trưởng, ổn định và điều khiển kinh tế vĩ mô của Nhà nước.
Trái với quan điểm “Ngân sách tiêu dùng” hoặc “Ngân sách cai trị” có quy mô vừa phải, đủ đảm bảo chi thường xuyên, chi quốc phòng, an ninh là quan điểm ủng hộ Nhà nước sử dụng Ngân sách can thiệp vào kinh tế. Nhà nước cần phải tác động vào quá trình phát triển kinh tế, dù đó là kinh tế kế hoạch hoá tập trung hay kinh tế thị trường. Với ý nghĩa đó, tiềm lực tài chính của Nhà nước phải đủ mạnh đảm bảo triển khai các biện pháp can thiệp kinh tế. Quy mô thu, chi NSNN phải đủ lớn bảo đảm cho Nhà nước chủ động thực hiện các chính sách tài khóa nới lỏng (hoặc thắt chặt), thực hiện kích cầu đầu tư, tiêu dùng nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Trong thực tế, vai trò công cụ thúc đẩy tăng trưởng, ổn định, điều tiết kinh tế vĩ mô của một Ngân sách phát triển đã được nhận thức, vận dụng rất khác nhau tuỳ thuộc quan niệm của mỗi Nhà nước, tuỳ theo bối cảnh kinh tế ở mỗi thời kỳ và đã trải qua nhiều thăng trầm quan trọng. Nổi bật là hiện tượng đề cao quá mức vai trò công cụ điều tiết kinh tế của NSNN tại các Nhà nước XHCN trước thập kỷ 90 và các Nhà nước TBCN trước thập kỷ 70.
Trong thực tế điều hành chính sách tài khoá, Nhà nước có thể quyết định tăng (hoặc giảm) thế, tăng (hoặc giảm) quy mô thu Ngân sách, tăng (hoặc giảm) quy mô chi Ngân sách nhằm tác động vào nền kinh tế. Nhà nước cũng có thể quyết định ban hành thêm, hoặc cắt bỏ, hoặc tăng, giảm mức thu của một hoặc nhiều sắc thuế làm thay đổi kết cấu nguồn thu Ngân sách từ thuế. Đồng thời, Nhà nước cũng hoàn toàn có thể quyết định thay đổi cơ cấu chi Ngân sách, tăng mức và tỷ trọng chi của từng khoản mục chi trong tổng chi NSNN xác định. Cuối cùng, Nhà nước còn có thể áp dụng chính sách tài khoá nới lỏng, có bội chi và kéo theo đó là các biện pháp bù đắp bội chi, hoặc chính sách Ngân sách cân bằng, không có bội chi (hoặc ngược lại)…Tất cả những điều đó thể hiện vị trí quan trọng của NSNN với tư cách một công cụ tài chính vĩ mô sắc bén và hữu hiệu nhất để Nhà nước can thiệp, điều chỉnh nền kinh tế. Tất cả những hành động đó phản ánh việc Nhà nước can thiệp gián tiếp và trực tiếp vào nền kinh tế. Quá trình và hiệu quả can thiệp kinh tế của Nhà nước thông qua NSNN đã xác lập vị trí, vai trò của Nhà nước và Ngân sách trong nền kinh tế. Dù muốn hay không, mỗi khoản chi Ngân sách đều có tác động đến tổng cầu của nền kinh tế, và do vậy, NSNN không trung tính trước các hoạt động kinh tế. Do đó, Nhà nước cần nắm chắc cơ chế tác động của chi Ngân sách đối với kinh tế thông qua nhận thức đầy đủ và làm chủ cơ chế tác động của hiệu ứng kích thích kinh tế của NSNN để phát huy vai trò thúc đẩy tăng trưởng, ổn định và điều khiển kinh tế vĩ mô của NSNN.
Ngân sách Nhà nước: công cụ bù đắp những khiếm khuyết của thị trường, bảo đảm công bằng xã hội, bảo vệ môi trường sinh thái.
Ngày nay, thế giới hầu hết đều không phủ nhận hoàn toàn vai trò của Nhà nước đối với kinh tế nhưng cũng không còn tôn sùng vai trò làm kinh tế của Nhà nước. Đa số đều ủng hộ vai trò quản lý vĩ mô của Nhà nước đối với nền kinh tế, đồng thời coi trọng quy luật kinh tế khách quan, hạn chế can thiệp kinh tế không cần thiết, khi mà thị trường có thể làm được với cơ chế riêng của nó, đồng thời sẽ can thiệp tích cực với mức độ hợp lý trong những trường hợp cần thiết để bù đắp những thất bại của thị trường. Trên cơ sở đó, vai trò Ngân sách phát triển đã được nhận thức, xây dựng và vận dụng trong thực tiễn điều hành của các Nhà nước, cho dù có sự khác nhau về liều lượng, thời gian và bối cảnh vận dụng.
Tóm lại, quan niệm đúng đắn về những vai trò đích thực của NSNN trong kinh tế thị trường sẽ cho phép xác lập và sử dụng có cơ sở khoa học, có hiệu quả công cụ NSNN trong điều hành kinh tế- xã hội. Mặc dù bối cảnh kinh tế thay đổi nhưng nếu nhận thức đúng đắn và hội tụ đủ những điều kiện cần thiết thì vẫn có thể xây dựng và triển khai các chính sách kích cầu qua NSNN có hiệu quả; vai trò thúc đẩy tăng trưởng, ổn định và điều tiết kinh tế vĩ mô của NSNN càng được phát huy tác dụng.
V. Hoạt động củaNSNN:
1. Thu NSNN:
Khái niệm và phân loại:
Thu của NSNN là toàn bộ các khoản tiền thu được tập trung vào trong tay Nhà nước để hình thành nên quỹ Ngân sách. Thu của NSNN được tập trung từ nhiều nguồn khác nhau bao gồm các khoản thu từ thuế, thu về lệ phí và thu từ tài sản của Nhà nước. Ngoài ra thu Ngân sách còn bao gồm các khoản thu từ việc vay của Nhà nước (bao gồm vay trong nước thông qua việc phát hành trái phiếu và vay nước ngoài) các khoản thu do nhận viện trợ.
Trong các loại thu trên thì thuế là loại thu chủ yếu, nó tạo nên bộ phận quan trọng và chủ yếu của quỹ Ngân sách. Nhiều nước số thu về thuế chiếm 80-90% tổng số thu của Ngân sách. Thuế bao gồm rất nhiều loại như thuế doanh thu, thuế hàng hoá, thuế xuất nhập khẩu, thuế lợi tức, thuế thu nhập cá nhân, thuế giá trị gia tăng…
Thu về lệ phí bao gồm lệ phí giao thông, lệ phí chứng thư, lệ phí chuyển nhượng tài sản, lệ phí từ việc sử dụng một số hàng hoá công cộng…
Thu về tài sản của Nhà nước bao gồm các khoản thu về bán và cho thuê các tài sản của Nhà nước. Nhà nước có thể bán các xí nghiệp quốc doanh cũ, hoặc xây dựng rồi cho thuê hoặc bán cho tư nhân. Trong điều kiện kinh tế thị trường, Nhà nước cũng có thể là một cổ đông, Nhà nước tham gia vào công việc đầu tư bằng cách mua cổ phiếu của các công ty cổ phần và dĩ nhiên Nhà nước cũng được hưởng cổ tức từ các cổ phần của mình.
Trong quá trình quản lý Ngân sách, người ta thường phân loại thu của Ngân sách theo nhiều tiêu thức khác nhau:
- Căn cứ vào tính chất các loại thu có thể chia thành thu về thuế, thu về lệ phí, thu về tài sản của Nhà nước, thu về vay nợ, viện trợ.
- Căn cứ vào mối quan hệ đối với cân đối Ngân sách có thể phân thành hai loại là thu trong cân đối Ngân sách (bao gồm thu về thuế, thu về lệ phí và thu từ tài sản của nhà nước) và thu để bù đắp thiếu hụt Ngân sách ( bao gồm thu về vay nợ, viên trợ và thu về phát hành).
- Căn cứ vào nguồn hình thành có thể phân thành thu trong nước và thu ngoài nước.
Ngoài ra còn có thể phân loại Ngân sách theo khu vực: thu từ khu vực kinh tế tư nhân cá thể và thu từ khu vực kinh tế của Nhà nước.
b-Tác động vĩ mô của thu NSNN:
Để thúc đẩy kinh tế phát triển phải tăng cường đầu tư của Nhà nước và đặc biệt là đầu tư tư nhân. Nguồn đầu tư là tiết kiệm nên muốn tăng cường đầu tư thì phải tăng cường tiết kiệm. Tiết kiệm của nhà nước có thể tăng bằng cách tăng thuế hoặc giảm chi tiêu của Chính phủ. Việc tăng thuế là một việc làm khó khăn và nó có ảnh hưởng đến đầu tư tư nhân. Để tăng tiết kiệm tư nhân, Nhà nước có thể giảm thuế. Ngoài ra việc áp dụng các biện pháp ưu đãi về thuế cũng như trợ cấp cho các doanh nghiệp có vai trò đặc biệt quan trọng có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc khuyến khích sử dụng đầu tư. Để khuyến khích phát triển một lĩnh vực nào đó, Nhà nước có thể miễn giảm về thuế cho lĩnh vực đó trong một thời gian nhất định. Trên thực tế nhiều khi biện pháp này bị lạm dụng và các quy định ưu đãi nhiều đến mức làm cho việc tính thuế trở nên phức tạp, gây nhiều khe hở cho việc tránh thuế, trốn thuế. Nhà nước sử dụng các chính sách về thuế để đảm bảo thực hiện vai trò định hướng đầu tư, kích thích hoặc hạn chế sản xuất kinh doanh.
Thu NSNN còn có vai trò thực hiện công bằng xã hội, giảm bớt sự bất công trong phân phối thu nhập giữa các tầng lớp dân cư, giữa các vùng. Thuế thu nhập và thuế lợi tức có vai trò quan trọng nhằm điều tiết thu nhập để phân phối lại cho các đối tượng có thu nhập thấp, thúc đẩy công bằng xã hội. Tuy nhiên đối với thuế doanh thu và thuế hàng hoá là những loại thuế thường làm cho quá trình phân phối trở nên mất công bằng hơn vì nó thu phần nhiều hơn của những người có thu nhập thấp hơn.
Như vậy chúng ta thấy thuế là một nguồn thu quan trọng và chủ yếu của thu NSNN. Thuế là khoản đóng góp bắt buộc, được quy định thành luật của các tổ chức kinh tế và dân cư cho Nhà nước. Thuế thể hiện mối quan hệ phân phối lại thu nhập của dân cư và các tổ chức kinh tế cho Nhà nước. Tính bắt buộc của thuế thể hiện ở chỗ khi Nhà nước xác định mức thuế thì người nộp thuế không có quyền thắc mắc, đòi hỏi gì. Thuế do Nhà nước ban hành và chỉ có Nhà nước mới có quyền thay đổi. Nộp thuế là nghĩa vụ của các tổ chức kinh tế và dân cư. Thuế thường được thu bằng tiền, nhưng cũng có trường hợp thu bằng hiện vật. Thuế thường đánh vào lưu thông, tiêu thụ, các loại thu nhập và giá trị của tài sản. Đối tượng chịu thuế rất khác nhau và cách đánh thuế trên mỗi đối tượng cũng khác nhau. Người ta phân biệt thành hai loại thuế là thuế gián thu và thuế trực thu. Thuế gián thu là thuế đánh vào hàng hoá và dịch vụ, như vậy nó chỉ đánh gián tiếp vào người mà sử dụng hàng hoá và dịch vụ đó. Còn thuế trực thu là thuế đánh trực tiếp vào thu nhập của các tổ chức kinh tế và người dân.
Các loại thuế như thuế doanh thu, thuế giá trị gia tăng, thuế hàng hoá, thuế xuất nhập khẩu được coi là thuế gián thu, chúng được cấu thành trong giá bán các loại hàng hoá và nó làm cho giá bán tăng lên.Thuế doanh thu là loại thuế đánh vào hành động lưu thông của tất cả các loại hàng hoá và dịch vụ. Nó động viên một phần thu nhập của người tiêu dùng nhưng lại nằm trong giá bán nên dễ bị che khuất và việc đánh thuế ít gây trở ngại, chống đối từ người chịu thuế. Hơn nữa đối tượng đánh thuế là rất rộng rãi và tương đối ổn định nên thuế doanh thu là một trong những nguồn thu quan trọng và khá ổn định của Ngân sách.
Thuế hàng hoá thường được đánh vào các mặt hàng không khuyến khích tiêu dùng và những mặt hàng xa xỉ. Những mặt hàng không khuyến khích tiêu dùng là các loại hàng hoá mà việc tiêu dùng chúng có ảnh hưởng không tốt đến sức khoẻ như thuốc lá, rượu… Việc đánh thuế cao vào những loại mặt hàng này làm giá của chúng trên thị trường tăng lên và như vậy sẽ hạn chế tiêu dùng chúng. Tuy nhiên những hàng hoá không khuyến khích tiêu dùng có hệ số biến đổi về giá và hệ số biến đổi về thu nhập thấp. Do vậy việc áp dụng thuế suất cao đối với chúng không những hạn chế tiêu dùng mà còn có tính chất không tiến bộ, không đảm bảo tính công bằng trong xã hội.
Thuế trực thu là loại thuế đánh trực tiếp vào thu nhập của các tổ chức kinh tế và dân cư. Thuế trực thu bao gồm thuế lợi tức và thuế thu nhập cá nhân.. Thuế lợi tức hay còn gọi là thuế thu nhập công ty là loại thuế thu trên tổng lợi nhuận kinh doanh của các doanh nghiệp, lợi nhuận chịu thuế là số chênh lệch giữa tổng doanh thu của doanh nghiệp trừ đi các khoản chi phí hợp lý mà doanh nghiệp bỏ ra để tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh. Thuế suất thuế lợi tức ở đa số các nước là thuế suất tỷ lệ cố định, một số nước áp dụng thuế suất luỹ tiến toàn phần, một số nước áp dụng thuế suất luỹ tiến từng phần và có những nước áp dụng tổng hợp cả hai loại thuế suất đó. Thuế lợi tức là loại thuế có tác động lớn tới các quyết định đầu tư của các doanh nghiệp. Việc tăng hay giảm thuế lợi tức có thể dẫn tới sự thu hẹp hay mở rộng quy mô của vốn đầu tư nói chung.Việc áp dụng các quy định miễn giảm thuế lợi tức có tác dụng khuyến khích đầu tư thực sự nhưng nó cũng làm việc tính thuế thêm phần phức tạp gây ra những hiện tượng mất công bằng và không đảm bảo tính chắc chắn trong các chính sách thuế.
Thuế thu nhập cá nhân là loại thuế trực thu có tính chất luỹ tiến cao nhất. Trong các nước phát triển thì thuế thu nhập cá nhân là loại thu quan trọng nhất của NSNN. Thuế thu nhập cá nhân là loại thuế được coi là tiến bộ nhất vì nó có vai trò giảm bớt khoảng cách giữa những người có thu nhập cao và những người có thu nhập thấp trong xã hội. Thuế suất thuế thu nhập cá nhân thường là thuế suất luỹ tiến, thu nhập càng cao thì tỷ lệ thu thuế càng lớn. Nhờ có hệ thống thuế suất luỹ tiến mà thuế thu nhập cá nhân là một trong những công cụ điều tiết tự động rất tốt: Nếu sản lượng tăng, thu nhập tăng thì thuế cũng tăng; nếu sản lượng giảm, thu nhập giảm thì thuế cũng giảm. Thuế thu nhập cá nhân là loại thuế nhạy cảm về thu nên nó có vai trò điều tiết vĩ mô rất quan trọng.
Như vậy với vai trò là nguồn thu quan trọng và chủ yếu của NSNN, thuế có tác động rất lớn đến hoạt động của nền kinh tế. Vì vậy các chính sách thuế mà mỗi quốc gia ban hành phải thận trọng để có thể thúc đẩy nền kinh tế của quốc gia mình.
Ngoài tác dụng là thúc đẩy kinh tế phát triển và thực hiện công bằng xã hội thì thu Ngân sách còn có tác động đến sự ổn định kinh tế, ngăn ngừa sự thụt lùi, giảm lạm phát và thất nghiệp. Các nguồn vay nợ từ trong nước và ngoài nước sẽ tạo thêm nguồn vốn cho nền kinh tế. Tuy nhiên nếu để tăng thu Ngân sách mà nhà nước dùng biện pháp phát hành thêm tiền (in tiền) thì nó sẽ gây ra tình trạng lạm phát gia tăng. Nếu dùng biện pháp vay dân (thông qua việc phát hành trái phiếu) sẽ góp phần làm giảm lượng tiền mặt trong nền kinh tế, tạo ra sự cân đối tiền hàng và làm giảm tốc độ lạm phát. Trong điều kiện nền kinh tế có lạm phát cao thì cần phải tăng thuế và khống chế tiêu dùng của Chính phủ. Ngược lại trong thời kỳ suy thoái kinh tế, thất nghiệp cao thì cần phải giảm thuế và mở rộng chi tiêu của Chính phủ (ở đây thường sử dụng các loại thuế nhạy cảm về thu và các khoản trợ cấp của Chính phủ).
Như vậy chúng ta thấy riêng thu NSNN đã có tác động rất lớn đến sự tồn tại và phát triển của một quốc gia. Chính vì vậy nó là một vấn đề rất được quan tâm để từ đó Nhà nước ban hành các chính sách phù hợp nhằm thúc đẩy đất nước ngày càng phát triển.
2- Chi NSNN:
a- Khái niệm và phân loại:
Chi NSNN là việc sử dụng thu nhập của Ngân sách để phục vụ thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước. Việc mở rộng các vai trò của Nhà nước làm cho chi tiêu Ngân sách của hầu hết các quốc gia tăng liên tục. Chi Ngân sách có nhiều loại khác nhau và dựa vào các tiêu thức khác nhau, người ta có thể có nhiều cách phân loại chi Ngân sách.
Căn cứ vào mối quan hệ giữa tích luỹ và tiêu dùng có thể phân loại chi Ngân sách thành hai loại chi lớn là chi tích luỹ và chi tiêu dùng. Chi tích luỹ là các khoản chi đầu tư xây dựng cơ sở vật chất cho lĩnh vực kinh tế, lĩnh vực phi kinh tế và chi dự trữ. Chi tiêu dùng bao gồm tất cả các khoản ngoài chi tích luỹ.
Căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước, chi Ngân sách có thể phân thành chi phát triển kinh tế, chi văn hoá xã hội, chi quản lý hành chính, chi quốc phòng và các khoản chi khác. Trong đó, chi phát triển kinh tế bao gồm các khoản chi đầu tư xây dựng và duy trì hoạt động của các cơ sở kinh tế của Nhà nước, chi trợ giá và trợ cấp cho các doanh nghiệp tư nhân. Chi văn hoá xã hội bao gồm các khoản chi đầu tư và chi thường xuyên cho các tổ chức thuộc lĩnh vực văn hoá xã hội, trợ cấp xã hội. Chi quản lý hành chính là chi để duy trì hoạt động của các cơ quan hành chính, các cơ quan chính quyền. Chi quốc phòng bao gồm chi để duy trì lực lượng quốc phòng. Các khoản chi khác bao gồm chi trả nợ, viện trợ, cho vay…
Căn cứ vào nội dung của các khoản chi thì có thể phân loại chi Ngân sách thành chi đầu tư, chi trợ cấp, chi bù giá hàng tiêu dùng, chi tiêu dùng chung và chi trả nợ. Trong đó, chi đầu tư bao gồm chi đầu tư cho cả lĩnh vực sản xuất, không sản xuất và dự trữ Nhà nước về đầu tư. Chi trợ cấp là các khoản bù giá, trợ cấp cho các doanh nghiệp Nhà nước, trong trường hợp đặc biệt có thể là doanh nghiệp tư nhân khi thu nhập không đủ bù đắp chi phí do giá bị khống chế, hoặc trợ cấp để khuyến khích phát triển. Chi bù giá hàng tiêu dùng là các khoản chi của Ngân sách nhằm làm tăng thu nhập thực tế. Nó có thể được thực hiện bằng cách bù giá vào lương hoặc trợ cấp cho các doanh nghiệp khi họ bán hàng với giá thấp hơn giá trị của chúng. Chi tiêu dùng chung là các khoản chi liên quan đến tiêu dùng chung của cộng đồng. Những nhu cầu chi tiêu dùng chung không phát sinh trên cơ sở các quan hệ thị trường mà trên cơ sở lợi ích chung. Tiêu dùng chung ít động chạm đến lợi ích của từng cá nhân, do vậy Nhà nước phải cấp phát để duy trì chúng.
Ngoài ra chi Ngân sách còn có thể phân loại thành chi thường xuyên, chi đầu tư và chi trả nợ.
b-Tác động vĩ mô của chi NSNN:
Chi Ngân sách có tác động lớn đến việc thực hiện các mục tiêu của chính sách Ngân sách. Tuy nhiên mức độ tác động còn phụ thuộc vào sự đúng đắn của các quyết định đưa ra. Thông thường chi Ngân sách được đưa ra nhằm vào các mục tiêu như thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, thực hiện công bằng xã hội và ổn định kinh tế. Để thực hiện các mục tiêu đó, Nhà nước thường sử dụng các biểu số như cấp phát cho đầu tư, trợ cấp, chi mua hàng hoá và dịch vụ công cộng. Tuỳ vào mục tiêu cụ thể và tình hình kinh tế xã hội mà có thể thay đổi tổng chi.
Phát triển kinh tế là nhiệm vụ hàng đầu của tất cả các Nhà nước hiện đại. Để đạt được sự phát triển thì Chính phủ phải hoạch định được chiến lược phát triển đúng đắn, phù hợp và cần phải có vốn đầu tư của Nhà nước. Chi đầu tư của Chính phủ có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển kinh tế vì nó tạo điều kiện và môi trường thuận lợi cho việc bỏ vốn đầu tư của các doanh nghiệp tư nhân, hay nói cách khác là đầu tư của Chính phủ tạo ra sự khởi động ban đầu, kích thích quá trình vận động vốn để hướng tới sự tăng trưởng. Đối tượng đầu tư của Nhà nước thường là những công trình thuộc kết cấu hạ tầng, các ngành kinh tế mũi nhọn và những công trình kinh tế mà không thể dựa vào đầu tư tư nhân nhưng hoạt động của chúng lại cần thiết cho xã hội. Hệ thống cơ sở hạ tầng phát triển là tiền đề cho sự phát triển kinh tế nói chung, nó tạo điều kiện thuận lợi cho việc mở mang đầu tư vào các ngành kinh tế và sự ra đời của các doanh nghiệp này sẽ kéo theo sự ra đời của các doanh nghiệp khác. Ngược lại một hệ thống cơ sở hạ tầng kém phát triển sẽ kìm hãm sự phát triển của nền kinh tế. Việc xây dựng các công trình thuộc cơ sở hạ tầng đòi hỏi số vốn đầu tư lớn, thời gian dài và chúng thường không mang lại lợi nhuận trực tiếp mà hiệu quả của chúng thể hiện ở sự phát triển kinh tế nói chung. Các ngành công nghiệp non trẻ cũng cần có vốn đầu tư của nhà nước. Sự phát triển các ngành này sẽ tạo điều kiện cho sự phát triển của các ngành kinh tế khác.
Chi đầu tư của Ngân sách không chỉ có đầu tư mới mà còn bao gồm cả đầu tư mở rộng và đầu tư theo chiều sâu các cơ sở hoạt động. Các biện pháp đầu tư theo chiều sâu có ý nghĩa quan trọng đối với quá trình phát triển, hiệu quả của chúng thường lớn hơn hiệu quả của đầu tư theo chiều rộng vì nhu cầu vốn đầu tư nhỏ hơn, thời gian đầu tư ngắn hơn và thời gian thu hồi vốn cũng ngắn hơn. Tuy nhiên không phải tất cả các khoản đầu tư của Chính phủ đều góp phần cho sự nghiệp tăng trưởng. Vấn đề là ở chỗ phải biết lựa chọn đối tượng đầu tư cho đúng. Thực tế ở nhiều nước cho thấy tác hại của việc lựa chọn đối tượng đầu tư không phù hợp là rất lớn như vốn NSNN bị sử dụng lãng phí, các công trình xây dựng không mang lại hiệu quả kinh tế và tình trạng căng thẳng triền miên về cân đối Ngân sách. Những hậu quả đó lại có tác động xấu đến tăng trưởng kinh tế.
Chính sách chi cũng có tác động nhất định đến việc thực hiện các mục tiêu ổn định kinh tế. Trong trường hợp chi vượt thu quá nhiều sẽ dẫn đến lạm phát. Vì vậy để kìm hãm lạm phát phải khống chế tiêu dùng của Chín._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- C0210.doc