Tín dụng của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn với việc phát triển làng nghề tại tỉnh Quảng Nam

Mở đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài Khai thác và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn tiền tệ cho phát triển kinh tế - xã hội là một trong những giải pháp quan trọng nhất và được quan tâm hàng đầu trong chiến lược và chính sách kinh tế của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta hiện nay. Điều này lại càng có‎ nghĩa đối với một tỉnh duyên hải miền Trung như  Quảng Nam khi mà thu nhập bình quân đầu người còn ở mức thấp hơn so với nhiều tỉnh lân cận, đời sống của người dân cò

doc110 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1433 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Tín dụng của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn với việc phát triển làng nghề tại tỉnh Quảng Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n rất nhiều khó khăn, mâu thuẫn giữa tích luỹ và tiêu dùng còn cực kỳ gay gắt. Hai mươi năm qua, thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NHNo&PTNT) tỉnh Quảng Nam đã có nhiều cố gắng trong việc góp phần phát triển thị trường vốn tín dụng (TD) phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn ở địa phương. Bằng các hoạt động TD thương mại với cơ chế linh hoạt và chính sách ưu tiên phát triển, NHNo&PTNT tỉnh Quảng Nam đã trở thành trung tâm cung ứng vốn TD chủ yếu cho các cơ sở sản xuất và dân cư phục vụ cho việc khôi phục và phát triển các làng nghề trên địa bàn. Bộ mặt của một số làng nghề đã có những chuyển biến đáng phấn khởi. Đã xuất hiện một số mô hình làng nghề truyền thống và làng nghề mới phát triển năng động trong kinh tế thị trường. Tuy nhiên, hoạt động TD của NHNo&PTNT tỉnh Quảng Nam nhằm phục vụ cho phát triển các làng nghề của tỉnh còn bộc lộ nhiều hạn chế và gặp phải không ít khó khăn, quy mô nguồn vốn còn nhỏ, chưa thật "bám rễ" sâu vào các đối tượng làng nghề, hiệu quả TD thấp, hoạt động TD đứng trước nguy cơ có nhiều rủi ro và có thể dẫn đến phát triển không bền vững trong mạng lưới phục vụ. Hơn nữa trong bối cảnh khoa học và công nghệ phát triển nhảy vọt hiện nay và xu hướng khu vực hoá, toàn cầu hoá kinh tế ngày càng sâu rộng, cạnh tranh gay gắt trong các hoạt động sản xuất kinh doanh của các làng nghề, đòi hỏi TD của NHNo&PTNT phải có những đổi mới để nâng cao hiệu quả hoạt động. Trước vấn đề bức xúc trên, để góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh TD, phục vụ tốt nhất chủ trương, nghị quyết của Tỉnh đảng bộ Quảng Nam về đẩy mạnh phát triển làng nghề, tạo việc làm và thu nhập cho người dân, tôi chọn đề tài: "Tín dụng của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn với việc phát triển làng nghề tại tỉnh Quảng Nam" để nghiên cứu làm luận văn thạc sĩ kinh tế chuyên ngành kinh tế chính trị. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Cho đến nay đã có nhiều công trình nghiên cứu liên quan đề cập đến vấn đề TD ngân hàng đổi với quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn, trong đó đáng chú ý là một số công trình sau đây: - “Tín dụng ngân hàng trong việc hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam” (1996), Luận án phó tiến sĩ kinh tế của tác giả Nguyễn Thanh Đảo, tại Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. - “Tín dụng ngân hàng trong việc thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế trên địa bàn Hà Nội” (1996), Luận án phó tiến sĩ kinh tế của tác giả Hoàng Việt Trung, tại Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. - “Ngân hàng Việt Nam với chiến lược huy động vốn phục vụ công nghiệp hoá, hiện dại hoá đất nớc” (1997), Tài liệu tổng kết cuộc thi ngân hàng Việt Nam với việc huy động vốn phục vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, Hà Nội. - “Thị trường vốn Việt Nam trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá” (2001), Luận án tiến sĩ kinh tế của tác giả Đỗ Đức Quân, tại Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. - “Đổi mới chính sách tín dụng theo cơ chế thị trường nhằm góp phần đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta” (2001), Luận án tiến sĩ kinh tế của tác giả Đào Minh Tú, Học viện Ngân hàng, Hà Nội. - “Marketting trong ngân hàng” (1996), Viện Nghiên cứu Khoa học Ngân hàng, Nxb Thống kê, Hà Nội. - “Giải pháp xử l‎í nợ xấu trong tiến trình tái cơ cấu các ngân hàng thương mại Việt Nam”, (2003), Viện Nghiên cứu Khoa học Ngân hàng, Nxb Thống kê, Hà Nội. - “Lịch sử 15 năm xây dựng và trưởng thành Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam” (2003), Nxb Văn hoá - Thông tin, Hà Nội. - “Đổi mới hoạt động tín dụng ngân hàng góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế trên địa bàn Nghệ An theo hớng công nghiệp hoá, hiện đại hoá” (2003), Luận án tiến sĩ Kinh tế của tác giả Hà Huy Hùng, tại Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. - “Nâng cao hiệu quả hoạt động đầu tư của các ngân hàng thương mại Việt Nam” (2003), Luận án tiến sĩ kinh tế của tác giả Lê Thị Hương, Trường Đại học Kinh tế quốc dân, Hà Nội. Ngoài ra, còn có một số công trình khoa học khác nghiên cứu về những vấn đề có liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp tới hoạt động TD hoặc hoạt động kinh doanh nói chung của NHTM, trong đó có NHNo&PTNT Việt Nam đối với chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát triển làng nghề. Nhìn chung, các công trình và bài viết trên đã có những cách tiếp cận khác nhau hoặc trực tiếp, hoặc gián tiếp vấn đề TD NHNo&PTNT đối với việc phát triển làng nghề ở Việt Nam nói chung, một tỉnh nói riêng trong những năm gần đây. Nhưng chưa có công trình nào nghiên cứu vấn đề TD NHNo&PTNT với việc phát triển làng nghề ở tỉnh Quảng Nam dưới góc độ kinh tế chính trị. Đề tài tác giả lựa chọn để nghiên cứu không trùng lặp với các công trình và bài viết đã công bố. 3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu - Mục tiêu: Phân tích, đánh giá thực trạng hoạt động đầu tư TD của NHNo&PTNT Quảng Nam trong phát triển làng nghề trên địa bàn, để đề xuất giải pháp nhằm phát huy tốt hơn vai trò của nó trong phục vụ phát triển làng nghề ở tỉnh Quảng Nam thời gian tới. Nhiệm vụ: Để thực hiện mục tiêu trên, luận văn có những nhiệm vụ sau: - Làm rõ cơ sở lý luận về hoạt động TD của NHNo&PTNT và vai trò của nó trong phát triển làng nghề. - khảo sát, phân tích và đánh giá thực trạng hoạt động TD của NHNo&PTNT Quảng Nam trong phục vụ quá trình phát triển làng nghề trên địa bàn tỉnh. - Đề xuất phương hướng và giải pháp tiếp tục đổi mới hoạt động TD của NHNo&PTNT nhằm đảm bảo phục vụ có hiệu quả cho quá trình phát triển làng nghề trên địa bàn. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu: Đề tài nghiên cứu hoạt động TD của NHNo&PTNT Quảng Nam với hai hoạt động cơ bản là thu hút vốn và cấp TD cho phát triển các làng nghề tỉnh Quảng Nam. - Phạm vi nghiên cứu: Đề tài nghiên cứu ở góc độ kinh tế chính trị đối với hoạt động TD của NHNo&PTNT đối với việc khôi phục và phát triển làng nghề, không đi sâu vào những vấn đề kỹ thuật nghiệp vụ của hoạt động TDNH và cũng không đi sâu vào nghiên cứu cơ chế chính sách và phương thức phát triển các làng nghề. Phạm vi về không gian: Địa bàn tỉnh Quảng Nam. Phạm vi về thời gian: Từ năm 2001 đến nay (tháng 6/2006). 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu - Cơ sở lý luận: Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở những nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, những quan điểm, đường lối và chính sách đổi mới của Đảng và Nhà nước về TDNH trong nền kinh tế thị trường, phục vụ sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. - Phương pháp nghiên cứu: Để phục vụ cho mục tiêu nghiên cứu đề ra, tác giả sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau: Phương pháp hệ thống hoá lý luận - thực tiễn. Phương pháp điều tra, khảo sát, so sánh; phân tích, tổng hợp tình hình thực tiễn về hoạt động TD thương mại phục vụ việc khôi phục và phát triển làng nghề của NHNo&PTNT Quảng Nam. 6. Những đóng góp về khoa học của luận văn - Phân tích và đánh giá thực trạng hoạt động TD thương mại của NHNo&PTNT Quảng Nam trong việc phục vụ khôi phục và phát triển làng nghề của tỉnh từ năm 2001 đến nay. - Đề xuất và kiến nghị phương hwớng và giải pháp tiếp tục đổi mới hoạt động TD của NHNo&PTNT Quảng Nam nhằm phục vụ tốt hơn quá trình khôi phục và phát triển làng nghề trên địa bàn. 7. Kết cấu của đề tài Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn kết cấu thành 3 chương, 6 tiết. Chương 1 Hoạt động tín dụng của Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn và vai trò của nó trong phát triển làng nghề 1.1. Tín dụng Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và đặc điểm hoạt động của nó trong nền kinh tế thị trường 1.1.1. Tín dụng của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Đã có một thời chưa có TD. Trong các nền kinh tế tổ chức sản xuất theo lối tự cấp tự túc, không có TD. TD chỉ ra đời và phát triển trong nền kinh tế hàng hoá và khi nền kinh tế đó đã phát triển đến một trình độ nhất định. Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, sự ra đời và phát triển của TD không phải là ngẫu nhiên hay do ý muốn chủ quan của bất kỳ ai, mà nó được quyết định bởi các điều kiện khách quan trong nền kinh tế hàng hóa. Sự phát triển của phân công lao động xã hội và sự xuất hiện chế độ tư hữu làm cho việc sản xuất của người nông dân và thợ thủ công không chỉ nhằm tự thỏa mãn nhu cầu tiêu dùng của bản thân người sản xuất, mà còn nhằm trao đổi, mua bán, tức là ra đời và phát triển kinh tế hàng hóa. Cùng với sự phát triển kinh tế hàng hóa là quá trình phân hóa xã hội, của cải tập trung vào trong tay người giàu, có quyền thế, trong khi những người nghèo không đủ thu nhập để đáp ứng nhu cầu tối thiểu cho đời sống của mình. Mặt khác, do điều kiện thiên nhiên và điều kiện sản xuất luôn luôn có rủi ro đòi hỏi phải có sự vay mượn nhau để vượt qua những khó khăn của cuộc sống và phát triển sản xuất. Trong điều kiện đó, quan hệ TD ra đời. Lúc đầu quan hệ này còn sơ khai dưới hình thức hiện vật để người giàu cho người nghèo vay đảm bảo cuộc sống. Theo đà phát triển của kinh tế hàng hóa, nhu cầu đầu tư tìm kiếm lợi nhuận và nhu cầu tiêu dùng ngày càng gia tăng, quan hệ TD càng được mở rộng. Mặt khác, do đặc điểm tuần hoàn vốn của từng doanh nghiệp hoặc tổ chức kinh tế trong quá trình phát triển làm xuất hiện tình trạng khi thừa, khi thiếu, tạo nên sự không ăn khớp về mặt thời gian và không gian đầu tư. Có những doanh nghiệp lúc này thừa vốn, nhưng lúc khác lại thiếu vốn. Đứng trên góc độ toàn bộ nền kinh tế quốc dân thì có doanh nghiệp này tạm thời có vốn nhàn rỗi chưa sử dụng, trong khi lại có những doanh nghiệp cần vốn bổ sung nguồn vốn cho dự án đầu tư. Để giải quyết mâu thuẫn này, dòng luân chuyển vốn từ nơi “thừa” đến nơi “thiếu” xuất hiện. Hình thức TD ra đời làm cầu nối trung gian giữa nơi thừa và nơi thiếu vốn. Nói cách khác, TD ra đời là kết quả tất yếu của quá trình giải quyết mâu thuẫn giữa cung và cầu về vốn trong nền kinh tế thị trường và là hiện tượng có tính quy luật. Trong kinh tế thị trường, nhu cầu vốn cho sản xuất kinh doanh đòi hỏi cần phải có nguồn vốn trong xã hội để đáp ứng nhu cầu mở rộng sản xuất, tái sản xuất tài sản cố định. Nguồn cung vốn cho hoạt động TD chủ yếu được huy động từ các khoản tiền nhàn rỗi trong xã hội, bao gồm vốn tiết kiệm của cá nhân, vốn tích luỹ và các nguồn vốn khác của các nhà kinh doanh nhưng chưa dùng, ngân sách nhà nước cho các tổ chức TD vay... Điều này có nghĩa là sự phát triển của TD còn được bắt nguồn từ nhu cầu tiết kiệm và đầu tư. Thực chất, TD là cầu nối giữa các khoản tiết kiệm và các khoản đầu tư trong nền kinh tế. TD đã từng tồn tại trong nhiều phương thức sản xuất khác nhau. Nhưng ở bất kỳ phương thức sản xuất nào, nó cũng biểu hiện ra ngoài như là sự vay mượn lẫn nhau tạm thời một vật hoặc một số tiền nhất định. Hoạt động của TD được diễn ra trên thị trường vốn. Đây là một bộ phận cấu thành rất quan trọng của hệ thống các loại thị trường trong nền kinh tế. Nó là kênh dẫn vốn, góp phần giải quyết sự mất cân đối giữa cung và cầu về vốn trong nền kinh tế. Có thể khái quát vận động của vốn giữa các chủ thể trong nền kinh tế thông qua hai phương thức: tài trợ trực tiếp và tài trợ gián tiếp. Tài trợ trực tiếp là phương thức chuyển vốn từ người có vốn (cung vốn) sang người cần vốn bằng cách người cần vốn phát hành các chứng khoán và bán cho người có vốn thông qua thị trường tài chính. Tuỳ theo từng loại chứng khoán mà người sở hữu chúng có được mối quan hệ với người phát hành ra chứng khoán đó và gọi tên cho loại chứng khoán đó. Ví dụ, có loại chứng khoán được gọi là cổ phiếu, nhưng loại khác lại gọi là tín phiếu, trái phiếu, công trái... Với phương thức này, người có vốn cũng như người cần vốn hoàn toàn có thể chủ động lựa chọn phương án nào tối ưu cho mình. Tài trợ gián tiếp là phương thức chuyển vốn từ người có vốn đến người cần vốn thông qua người thứ ba gọi là tổ chức trung gian tài chính. Tổ chức này có chức năng làm “cầu nối” dẫn vốn từ người có vốn đến người cần vốn. Phương thức này sẽ khắc phục đáng kể những hạn chế mà phương thức tài trợ trực tiếp không thể giải quyết được, vì nó có khả năng tập hợp được vốn từ những người có số vốn nhỏ, tạo điều kiện cho họ có cơ hội tiếp cận với hoạt động sinh lợi và tạo điều kiện cho những người cần số tiền nhỏ vẫn có thể vay được vốn. Ngay cả những người có vốn hoặc cần vốn với số lượng lớn cũng có lợi vì họ sẽ có nhiều cơ hội hơn trong việc tiếp cận với các kênh dẫn vốn. Thêm vào đó, không phải ai cũng có thể hoặc cũng muốn sử dụng những sản phẩm của thị trường tài chính, vì nhiều lý do khác nhau mà họ chỉ có thể hoặc chỉ muốn đầu tư số vốn nhàn rỗi của mình, hoặc là vay mượn vốn thông qua các trung gian tài chính. Nếu không có các trung gian tài chính, thì thị trường tài chính sẽ không thể mang lại lợi ích trọn vẹn cho các chủ kinh tế. Các trung gian tài chính còn là cần thiết vì nó có thể có được những chi phí thong tin và chi phí giao dịch lớn trong quá trình lưu chuyển vốn mà chỉ có nó mới giải quyết được; vì nó có một đội ngũ chuyên nghiệp đánh giá rủi ro để có những biện pháp hữu hiệu trong tài trợ vốn. Các trung gian tài chính có thể liên kết với nhau trong hoạt động tài trợ vốn, tạo điều kiện dễ dàng cho sự vận động của vốn có hiệu quả. Do sự ra đời và phát triển của các trung gian tài chính làm hình thành các quan hệ TD có tính chuyên nghiệp. Trong thực tế, quan hệ TD có thể được diễn ra trực tiếp giữa chủ có vốn với chủ cần vốn. Nhưng hai chủ này không thể khi nào cũng gặp được nhau để giải quyết nhu cầu về vốn, xác định số lượng vốn, thời gian cho vay và sử dụng vốn, và nếu có gặp được nhau thì cũng phải mất nhiều thời gian và chi phí tìm kiếm. Để thoả mãn được nhu cầu của cả hai bên, cần thiết phải có một bên thứ ba đứng ra làm cầu nối. Công việc của bên này là tập trung tất cả số vốn của những người tạm thời thừa hoặc cần đầu tư kiếm lãi, rồi phân phối nó cho các nhu cầu đầu tư dưới hình thức cho vay. Đây chính là các tổ chức TD có tính chuyên nghiệp. Theo nghĩa thông thường, TD là một sự tín nhiệm lẫn nhau. Hay nói cách khác, đó là lòng tin, là quan hệ vay mượn lẫn nhau trên cơ sở có hoàn trả cả gốc lẫn lãi. Dưới góc độ kinh tế chính trị, TD là một quan hệ kinh tế giữa người cho vay và người đi vay, là sự chuyển nhượng quyền sử dụng một lượng giá trị hay hiện vật theo những điều kiện mà hai bên cùng thỏa thuận. Nó được thực hiện thông qua sự vận động của vốn với các giai đoạn: - Giai đoạn phân phối vốn TD dưới hình thức cho vay. ở giai đoạn này, vốn tiền tệ hoặc giá trị vật tư hàng hóa được chuyển từ tay người cho vay sang tay người đi vay. - Giai đoạn sử dụng vốn trong quá trình tái sản xuất. ở giai đoạn này, vốn vay được sử dụng trực tiếp (nếu vay bằng hàng hóa) hoặc được sử dụng để mua hàng hóa (vay bằng tiền) để thỏa mãn nhu cầu sản xuất hoặc tiêu dùng của người đi vay. Tuy nhiên, người đi vay không có quyền sở hữu về giá trị đó, mà chỉ có quyền sử dụng tạm thời trong một thời gian nhất định. - Giai đoạn hoàn trả vốn TD. Đây là giai đoạn kết thúc một vòng tuần hoàn của TD. Nghĩa là sau khi hoàn thành một chu kỳ sản xuất T - H - T để trở về với hình thái tiền tệ thì vốn TD được người vay hoàn trả lại người cho vay. Hoàn trả là một đặc điểm của TD và là cơ sở để phân biệt nó với các phạm trù kinh tế khác. Sự hoàn trả của TD là quá trình quay trở về với tư cách là một lượng giá trị được vận động. Sự hoàn trả luôn luôn phải được đảm bảo giá trị và có phần tăng thêm dưới hình thức lợi tức. Trong trường hợp có lạm phát, sự hoàn trả về mặt giá trị cũng phải được tôn trọng thông qua cơ chế điều tiết bằng lãi suất. C. Mác cho rằng: Tiền được bỏ ra với tư cách là tư bản, có đặc tính là quay trở về tay người đã bỏ tiền ra, về tay người đã chi nó ra với tư cách là tư bản, vì H – T – H’ là hình thái nội tại của sự vận động tư bản, nên chính vì vậy người sở hữu tiền mới có thể đem tiền cho vay với tư cách là tư bản, nghĩa là đem tiền cho vay với tư cách là một vật có đặc tính là sẽ quay trở về điểm xuất phát của nó mà vẫn giữ nguyên vẹn giá trị của nó và đồng thời lại lớn thêm lên trong quá trình vận động [16, tr.534]. Tiền được đem cho vay như vậy, nghĩa là có sự chuyển nhượng tạm thời một lượng giá trị từ người sở hữu sang người sử dụng, sau một thời gian nhất định lại quay về với một lượng giá trị lớn hơn lượng giá trị ban đầu. Đó chính là TD. Thực chất, TD là một quan hệ kinh tế giữa người cho vay và người đi vay một khoản tiền thông qua sự vận động của giá trị. Vốn TD được biểu hiện dưới hình thức tiền tệ được chuyển từ tay người cho vay sang người đi vay trong một thời gian nhất định rồi quay về người chủ cho vay với lượng giá trị lớn hơn giá trị ban đầu. Hay nói cách khác, TD là một phạm trù của nền kinh tế thị trường, phản ánh quan hệ kinh tế giữa chủ sở hữu với chủ sử dụng đối với các nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi trong nền kinh tế theo nguyên tắc hoàn trả đúng kỳ hạn và kèm theo lợi tức. Đến nay, ở nước ta cũng như các nước trên thế giới, đã có nhiều hình thức TD khác nhau. - Nếu căn cứ vào phương thức thực hiện các quan hệ TD theo đối tượng, TD có các hình thức chủ yếu sau: TD thông qua vốn hàng hoá, TD thông qua vốn tiền tệ và TD vốn tài sản. + TD thông qua vốn hàng hoá (còn gọi là TD thương mại) là hình thức mua bán chịu hàng hoá đến kỳ hạn mới thanh toán, kèm theo lợi tức. Nó được thực hiện thông qua các công cụ kỳ phiếu hoặc hối phiếu thương mại. Đây là hình thức khá phổ biến trong kinh tế thị trường. + TD thông qua vốn tiền tệ (gồm TD NH, TD nhà nước và TD tập thể) được thực hiện thông qua các trung gian tài chính. Ví dụ, TDNH được thực hiện thông qua các NH bao gồm NHTM, NH thực hiện các chính sách xã hội. NHTM bao gồm NH Công thương, NH Ngoại thương, NH Đầu tư và phát triển, NHNo&PTNT... TD tập thể là hình thức tự nguyện góp vốn của những thành viên để cho nhau vay, hoặc góp vốn cùng kinh doanh, được thực hiện thông qua các tổ chức TD hợp tác (NH hợp tác xã, quỹ TD nhân dân, hợp tác xã TD...). + TD thông qua vốn tài sản là TD được tồn tại dưới dạng cho thuê tài sản tài chính (trung hạn, ngắn hạn). Khi hết thời hạn thuê, khách hàng có thể thuê tiếp hoặc mua lại theo các điều kiện đã thoả thuận trong hợp đồng. - Nếu căn cứ vào tính chất pháp lý, thì TD có hai hình thức: TD chính thức và TD không chính thức. + TD chính thức là hình thức TD được pháp luật thừa nhận. Loại TD này được thực hiện thông qua các tổ chức: NHTM nhà nước, NH nước ngoài, NH liên doanh, NH cổ phần, hợp tác xã TD và các tổ chức trung gian tài chính khác. + TD không chính thức là hình thức TD “ngầm” không được luật pháp thừa nhận. Hình thức này ra đời và tồn tại gắn liền với lịch sử phát triển của kinh tế hàng hóa thường diễn ra giữa các cá nhân (người có nhu cầu TD) và các nhân (người cho vay nặng lãi) hoặc người bán chịu (TD thương mại trong nhân dân). Đến nay ở nước ta, hình thức TD này vẫn tồn tại tương đối phổ biến ở nông thôn nước ta dưới các dạng cho vay bằng tiền lãi suất cao (15 - 30%/năm), cho vay bằng vàng, cho vay thóc theo vụ 1 thùng (10kg) = 1,4 thùng/ vụ (ở Bắc Bộ) hoặc 1 công = 2 giạ lúa/vụ (ở Nam Bộ), cho vay bằng phân (1 bao urê cuối vụ trả 10 - 12 giạ lúa), bán lúa non (lãi 30 - 50%), cho vay "nóng" theo ngày (lãi suất 1%/ngày)... Trong các nền kinh tế kém phát triển, do sản xuất hàng hóa còn ở giai đoạn đầu, có nhiều yếu tố sơ khai, nên để duy trì mức sống bình thường tối thiểu cần thiết, người ta có thể đi vay với bất cứ hình thức nào và với mức lãi suất là bao nhiêu cũng phải chấp nhận. Hình thức này ngăn cản sự phát triển của sản xuất. ở nước ta, sản xuất nông nghiệp và kinh tế nông thôn còn nhiều yếu tố lạc hậu, khi hệ thống TD chính thức không đáp ứng nổi nhu cầu đời sống kinh tế, chính trị và xã hội, thì đây là miếng đất màu mỡ cho kênh TD “ngầm” hoạt động, mặc dù cho vay nặng lãi có những hạn chế nhưng xét cho cùng nó cũng có những đóng góp tích cực để giải quyết vấn đề vốn cho hộ sản xuất nông nghiệp và các hộ trong hoạt động kinh tế ở nông thôn. Trong hai hình thức trên, TD chính thức là nguồn cung ứng vốn lớn nhất và dần dần chiếm lĩnh thị trường nông thôn mà NHNo&PTNT là nòng cốt. Hình thức này đang hoạt động mạnh mẽ và thực sự mang lại lợi ích cho các hộ kinh doanh nông nghiệp và các hộ hoạt động kinh tế khác ở nông thôn. TD chính thức được phân chia thành 3 loại theo đối tượng thực hiện TD gồm: 1) TD thông qua vốn tiền tệ (TD NH, TD nhà nước và TD tập thể); 2) TD thông qua vốn hàng hóa (hay còn gọi là TD thương mại) và 3) TD thông qua vốn tài sản (cho thuê tài sản tài chính trung hạn và dài hạn). TDNH là một loại hình TD dụng chính thức. Nó là quan hệ kinh thế dưới hình thức tiền tệ, hàng hoá và dịch vụ giữa một bên là NH và một bên là các tổ chức kinh tế, xã hội và dân cư theo nguyên tắc hoàn trả đúng kỳ hạn và kèm theo lợi tức. Trong hình thức này, ngõn hàng đóng vai trò trung gian giữa chủ cho vay và chủ đi vay trên thị trường nhằm đáp ứng cầu vốn cho các hoạt động của các tổ chức kinh tế, xã hội và cá nhân. TDNH được thực hiện thông qua trung gian tài chính là các NH. Nó bao gồm NHTM và NH thực hiện chính sách xã hội. NHTM gồm có NHNo&PTNT, NH Công thương nghiệp, Ngân hàng Đầu tư và Phát triển, Ngân hàng Ngoại thương... Đây là hình thức chủ yếu để huy động vốn nhàn rỗi trong và ngoài nước cho đầu tư phát triển. TD NHNo&PTNT là một hình thức trung gian tài chính thuộc hệ thống ngân hàng thương mại. Khác với các hình thức trung gian tài chính khác, hoạt động của hình thức này là kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng phục vụ cho hoạt động của kinh tế nông nghiệp và khu vực nông thôn với nội dung chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền gửi của các tổ chức cá nhân có vốn, sử dụng vốn này để cấp TD cho những tổ chức, cá nhân cần vốn, và cung ứng các dịch vụ thanh toán nhằm mục đích thu lợi nhuận. ở nước ta, TD NHNo&PTNT so với các hình thức TDNH, có sự ra đời chậm hơn. Theo tinh thần Nghị định 53/HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Thủ tướng Chính phủ) ngày 26 tháng 3 năm 1988, Vụ Tín dụng Nông nghiệp thuộc NH nhà nước Việt Nam đã được phân tách để thành lập NH Phát triển Nông nghiệp Việt Nam. Đây chính là tiền thân của NHNo&PTNT Việt Nam. Ngay từ khi được thành lập, NH Phát triển Nông nghiệp đã được xác định là NHTM giữ vai trò chủ đạo, chủ lực trong thị trường tài chính nông thôn với nhiệm vụ tiếp tục đầu tư TD thúc đẩy sản xuất và lưu thông hàng hoá. Lúc đầu, hoạt động của loại TD này hầu như chỉ đơn nhất là TD theo cơ chế bao cấp, hoạt động TD phải cho vay theo chỉ định và theo kế hoạch định sẵn nhà nước. Đối tượng cho vay chỉ bao gồm kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể. Cùng với công cuộc đổi mới, tháng 9/1990, Nhà nước ban hành hai Pháp lệnh: Pháp lệnh NH nhà nước và Pháp lệnh NHTM, hợp tác xã TD và công ty tài chính, hệ thống NH nước ta được chia thành hai cấp : NH nhà nước và NHTM. Theo Pháp lệnh này, NH Phát triển Nông nghiệp Việt Nam chuyển thành NHNo&PTNT Việt Nam. Hoạt động TD của NHNo&PTNT đến nay đã có nhiều đổi mới và đã có những bước phát triển quan trọng. 1.1.2. Đặc điểm hoạt động tín dụng của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam NHNo&PTNT Việt Nam là một loại hình tổ chức trung gian tài chính hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ NH với nội dung chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền gửi của các tổ chức, cá nhân có vốn, sử dụng số vốn này để cấp TD cho các tổ chức, cá nhân cần vốn và cung ứng các dịch vụ thành toán nhằm thu lợi nhuận. Nó là một doanh nghiệp, có tổ chức bộ máy độc lập để quản lý và điều hành kinh doanh, có nguồn tài sản riêng, có mua vào, bán ra, có chi phí, thu nhập và kết quả kinh doanh độc lập; có nghĩa vụ nộp thuế cho ngân sách Nhà nước, tự chủ và tự chịu trách nhiệm trong hoạt động kinh doanh. Phạm vi hoạt động của NH này là ngành kinh doanh nông nghiệp và khu vực nông thôn. Do chức năng, nhiệm vụ của nó, nên NHNo&PTNT gắn bó hữu cơ với nông nghiệp, nông thôn, hoạt động có hiệu quả hay kém hiệu quả của NHNo&PTNT có ảnh hưởng trực tiếp và sâu rộng tới ngành và khu vực kinh tế này. Mặc dù không trực tiếp sản xuất ra hàng nông sản hay các sản phẩm vật chất khác từ nông thôn, nhưng NHNo&PTNT có thể tạo điều kiện thúc đẩy quá trình sản xuất và tái sản xuất của ngành nông nghiệp và kinh tế nông thôn. 1.1.2.1. Mục tiêu hoạt động tín dụng Cũng như các NHTM khác, mục tiêu hoạt động của NHNo&PTNT và lợi nhuận. Trong cơ chế thị trường, mức lợi nhuận cao và thu được lâu bền là cái đích mà các doanh nghiệp kinh doanh cần và muốn đạt tới. Nguồn thu nhập chủ yếu của NHNo&PTNT là từ lãi cho vay, đầu tư chứng khoán và các phí dịch vụ; trong khi nguồn chi chủ yếu là trả tiền lãi cho nguồn vốn huy động và đi vay. Ngày nay, chi phí cho việc trang bị và hiện đại hoá hệ thống cơ sở vật chất, công nghệ NH là những khoản chi chiếm tỷ trọng đáng kể trong danh mục chi phí của NHNo&PTNT. Mục tiêu hoạt động của NHNo&PTNT là lợi nhuận, không có nghĩa là nó theo đuổi mục tiêu đó bằng mọi giá, bất chấp việc tuân thủ các nguyên tắc đảm bảo an toàn. Sở dĩ như vậy là vì, cũng như các doanh nghiệp khác, hoạt động của NHNo&PTNT phụ thuộc vào nhiều yếu tố như môi trường pháp lý, môi trường kinh doanh, môi trường tâm lý xã hội, hoạt động đầu tư của người vay vốn... Sự biến động của các yếu tố này có thể gay ra những rủi ro trong hoạt động của hệ thống NHNo&PTNT. Hoạt động của NHTM nói chung có tác động đến sự phát triển của nền kinh tế, nhưng tình trạng của nền kinh tế cung tác động đến hoạt động của hệ thống NHTM. Thực tế thị trường vốn ở các nước trong khu vực vừa qua cho thấy hoạt động của hệ thống NHTM là rất nhạy cảm. Hướng và cơ cấu đầu tư sai tạo nguy cơ đổ vỡ của hệ thống NH; ngược lại những rủi ro nảy sinh trong hoạt động của hệ thống NH có tính chất lan truyền và gây ra những hậu quả nghiêm trọng đối với hệ thống kinh tế. Nó không chỉ ảnh hưởng xấu đến một quốc gia, mà có khi còn lan truyền ra các nước trong khu vực. Những hậu quả trực tiếp và dễ nhận thấy là sự chao đảo, đổ vỡ hệ thống thị trường vốn, đảo lộn giá trị đồng tiền của quốc gia, từ đó dẫn đến khủng hoảng kinh tế và lan từ quốc gia này sang quốc gia khác. Do mục đích hoạt động TD của NHNo&PTNT là lợi nhuận, nên nó phải tính toán chi phí "đầu vào" và thu hồi "đầu ra" theo nguyên tắc tối thiểu hoá chi phí và tối đa hoá doanh thu để tối đa hoá lợi nhuận. Do theo đuổi mục đích đó, việc quản trị của NHNo&PTNT phải trở thành một hoạt động tất yếu, có ý nghĩa rất quan trọng. Để tồn tại, phát triển và vì lợi ích chung của cộng đồng, NHNo&PTNT buộc phải tuân thủ một cách nghiêm ngặt những tỷ lệ an toàn như khả năng tự chủ tài chính, khả năng thanh toán, thanh khoản, sinh lợi, chất lượng tài sản có... mà những tỷ lệ này đã trở thành tiêu chuẩn và thông lệ quốc tế. Cũng vì thế, mà trong chính sách kinh tế của bất kỳ quốc gia nào, chính phủ cũng đều quan tâm và coi trọng các biện pháp bảo đảm cho hoạt động của hệ thống NHNo&PTNT cũng như các NHTM nói chung phát triển an toàn, hiệu quả và bền vững. Để đạt được mục tiêu lợi nhuận, NHNo&PTNT cũng phải được quyền tự chủ, phải chịu trách nhiệm trong hoạt động của mình, bảo đảm kinh doanh có hiệu quả và phù hợp với những quy định của pháp luật, không thể chấp nhận bất cứ sự can thiệp trái pháp luật hoặc can thiệp "phi thị trường" vào hoạt động kinh doanh của NHNo&PTNT. Tuy nhiên, do tính đa dạng và nhạy cảm của lĩnh vực kinh doanh tiền tệ và dịch vụ NH, mà Nhà nước phải đưa ra những nhuôn khổ pháp lý đồng bộ để quản lý và điều tiết hoạt động này, bảo đảm cho hệ thống NH phát triển bền vững. 1.1.2.2. Phương thức dẫn vốn tín dụng Hoạt động của NHNo&PTNT ngày nay đã trở nên rất đa dạng với rất nhiều loại dịch vụ. Nếu xét ở góc độ thực hiện chức năng dẫn vốn, hoạt động kinh doanh TD của NHNo&PTNT bao gồm 3 nhóm chính: thu hút vốn, cấp TD và đầu tư chứng khoán. Một là, thu hút nguồn vốn: Phương thức này được thực hiện thông qua các biện pháp sau: - Cung cấp các khoản tiền gửi có thể phát séc. Đây là những tài khoản ở một NH mà người sở hữu chúng có quyền được phát séc để rút tiền hoặc thanh toán cho việc mua hàng hoá, dịch vụ. Tài khoản này còn được gọi là tài khoản tiền gửi giao dịch hay tiền gửi thanh toán. Việc đưa ra loại tài khoản tiền gửi này là một trong những bước đi quan trọng nhất của hoạt động NHTM, bởi nó cải thiện đáng kể hiệu quả của quá trình thanh toán, làm cho các giao dịch kinh doanh trở nên dễ dàng hơn, nhanh chóng và an toàn hơn. Tiền gửi có thể phát séc là tiền gửi có thể thanh toán theo yêu cầu, tức là người gửi có thể yêu cầu thanh toán bằng cách viết ra một tờ séc và NH sẽ thực hiện thanh toán ngay cho người đó. Đây là công cụ mang lại nhiều lợi ích cho nền kinh tế, đặc biệt là trong việc bảo quản, kiểm đếm, vận chuyển tiền mặt, quản lý tài chính doanh nghiệp, thanh toán hoặc chuyển đổi ra tiền mặt. Tiền gửi có thể phát séc là một nhuồn vốn quan trọng của NHNo&PTNT, vì nó là nguồn vốn mà NH có phí tổn thấp nhất do những người sở hữu chúng sẵn sàng bỏ qua một số tiền lãi nhất định để có được một tài sản có "lỏng" có thể sử dụng bất cứ lúc nào. Nền kinh tế càng phát triển, thì càng có nhiều khách hàng mở tài khoản séc ở NHTM, NH càng có cơ hội để huy động nguồn vốn này và mở rộng các hoạt động kinh doanh của mình. - Cung cấp các tài khoản tiền gửi phi giao dịch. Tài khoản này có đặc tính chung là được hưởng lãi, rút vốn theo định kỳ và người sở hữu chúng không được quyền phát séc. Do người sở hữu tài khoản không được quyền phát séc nên nó được gọi là tài khoản phi giao dịch. Mức lãi suất của loại tiền gửi này thường cao hơn nhiều so với tài khoản tiền gửi có thể phát séc, vì mục đích chính của những người sử dụng loại tài khoản này là lợi nhuận. Tiền gửi phi giao dịch thường chiếm phần lớn trong cơ cấu nguồn vốn của NHNo&PTNT, nó bao gồm hai khoản chính là tiền gửi tiết kiệm và chứng chỉ tiền gửi. Tiền gửi tiết kiệm lại bao gồm tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn và tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn. Tài khoản này nhằm mục đích chính là huy động nguồn tiết kiệm của các chủ thể trong xã hội nên NH phải trả lãi suất cao hơn so với tiền gửi có thể phát séc. Về nguyên tắc, tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn không được rút ra khi chưa đến hạn, nhưng do sự cạnh tranh thu hút tiền gửi, các NHTM thường cho phép người gửi._. có thể rút tiền trước thời hạn và khi đó sẽ phải giảm một lượng tiền lãi nhất định. Chứng chỉ tiền gửi cũng có nhiều loại kỳ hạn, có thể đến hơn 5 năm. Về thực chất, chứng chỉ tiền gửi được coi như những công cụ vay nợ của các NHTM nói chung (như kỳ phiếu, trái phiếu...) và là một nguồn vốn quan trọng của NHTM, nó có thể được phát hành trên thị trường tài chính. Xét ở cùng thời điểm, so với tiền gửi tiết kiệm thì thông thường chứng chỉ tiền gửi là nguồn vốn có chi phí lớn hơn, nhưng tính ổn định lại cao hơn. Do đó, chứng chỉ tiền gửi có thể đem bán lại được ở thị trường thứ cấp nên nó được các công ty tài chính nắm giữ như là những tài sản đầu tư có tính lỏng cao. - Đi vay vốn. Ngoài nguồn vốn tự huy động, hoạt động TD của NHNo&PTNT còn có thể thông qua việc đi vay trên thị trường liên NH, vay các tổ chức tài chính, tổ chức TD khác hoặc vay NH trung ương. Vay vốn trên thị trường liên NH chủ yếu được sử dụng để đáp ứng nhu cầu thanh khoản, các khoản vay liên NH thường có thời hạn là qua đêm, vài ngày hoặc có thể dài hơn nhưng là vay ngắn hạn. Ngoài ra, trong thực tế, có những tổ chức tài chính, chẳng hạn các công ty bảo hiểm, quỹ bảo hiểm... cũng có những khoản vốn tạm thời nhàn rỗi chưa có kế hoạch sử dụng, do đó, các NHNo&PTNT có thể đi vay các nguồn vốn này. Các NHNo&PTNT còn có thể đi vay tái chiết khấu và đi vay tái cấp vốn tại NH trung ương. Thời hạn vay vốn cụ thể phụ thuộc vào những yếu tố như điều kiện của NH đi vay, tình hình kinh tế - xã hội, tình hình thực hiện chính sách tiền tệ, mục đích sử dụng vốn vay...nhưng thường cũng là ngắn hạn. Ngoài ra, NHNo&PTNT cũng có thể vay NH trung ương với thời hạn rất ngắn để giải quyết khó khăn tạm thời trong hoạt động thanh toán, hoặc trong một số trường hợp nó còn có thể vay vốn của NH trung ương để cho vay một số đối tượng cần thiết theo chương trình phát triển kinh tế nông nghiệp và nông thôn theo yêu cầu của Chính phủ. - Tăng vốn tự có. Vốn tự có bao gồm vốn điều lệ và quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ. Vốn điều lệ là nguồn tiền được đóng góp bởi những chủ NH, còn quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ là nguồn tiền được hình thành bằng việc trích lập từ lợi nhuận hàng năm. Vốn tự có của NHNo&PTNT có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, tuy chỉ chiếm một tỷ lệ tương đối nhỏ trong tổng nguồn vốn hoạt động, nhưng nó lại thực hiện những chức năng không thể thay thế được, chẳng hạn như việc cung cấp nền tảng cho sự tăng trưởng và mở rộng NH, giúp NH chống lại rủi ro, duy trì niềm tin của công chúng và của các cổ đông vào khả năng phát triển của mình. Vốn tự có của NHNo&PTNT là một nguồn lực có ý nghĩa sống còn đối với việc duy trì các hoạt động hàng ngày và bảo đảm cho NH phát triển lâu dài. Quy mô vốn tự có quyết định quy mô huy động vốn, đi vay, quy mô tài sản có và một số hoạt động khác của NH. Vì thế mà một trong những vấn đề đáng quan tâm nhất của NHNo&PTNT là việc thường xuyên phải duy trì được lượng vốn tự có ở mức hợp lý. Về nguyên tắc, NHNo&PTNT có thể tăng vốn tự có bằng cách tăng thêm vốn góp của các chủ sở hữu, phát hành cổ phiếu, phát hành giấy nợ thứ cấp có khả năng chuyển đổi và nâng cao năng lực tự tích luỹ từ lợi nhuận của NH. Mặt khác, chính sự hoạt động có hiệu quả của NHNo&PTNT cũng góp phần làm tăng thêm vốn, tức là phần giá trị thị trường của các cổ phiếu vượt quá mệnh giá của nó và đó cũng là cách thức quan trọng làm tăng vốn tự có thực của NH. Các hoạt động thu hút vốn nêu trên làm hình thành một vế trong bảng cân đối tài sản của NHNo&PTNT, đó là tài khoản nợ và vốn. Hai là, cấp tín dụng: Đây là chức năng cơ bản nhất của NHNo&PTNT, là các giao dịch về tài sản giữa các bên cho vay là NH với bên đi vay là các tổ chức kinh tế, xã hội và dân cư trong khu vực nông thôn. Trong đó, bên cho vay chuyển giao tài sản cho bên đi vay sử dụng trong một thời hạn nhất định theo thoả thuận, bên đi vay có trách nhiệm hoàn trả vô điều kiện vốn gốc và lãi cho bên cho vay khi đến hạn thanh toán. NHNo&PTNT chủ yếu cấp TD cho các tổ chức kinh tế và hộ trong các ngành nông nghiệp và khu vực nông thôn. Cấp TD là nguồn sinh lợi lớn nhất của NHNo&PTNT, nhưng cũng là nơi có nhiều rủi ro nhất. Một NHNo&PTNT gặp khó khăn về tài chính thường phát sinh từ các khoản cho vay khó đòi, mà nguyên nhân của nó là do quản lý kém, cho vay không tuân thủ đúng nguyên tắc TD, chính sách cho vay không hợp lý và tình trạng suy thoái ngoài dự kiến của ngành kinh tế nông nghiệp và các ngành kinh tế khác thuộc khu vực nông thôn. Nếu nhìn từ góc độ các hình thái giá trị và các hoạt động nghiệp vụ cụ thể của TD, Luật các tổ chức TD của Việt Nam (sửa đổi) có giải thích: "Hoạt động đầu tư là việc tổ chức TD sử dụng nguồn vốn tự có, nguồn vốn huy động để cấp TD" và "Cấp TD là việc tổ chức TD thoả thuận để khách hàng sử dụng một khoản tiền với nguyên tắc hoàn trả bằng các nghiệp vụ cho vay, chiết khấu, cho thuê tài chính, bảo lãnh NH và các nghiệp vụ khác" [21, tr.105-106]. - Cho vay bằng tiền Đây là nghiệp vụ chủ yếu của hoạt động TD của NHNo&PTNT. Nó bao gồm nhiều loại, có thể theo các căn cứ: Một là, căn cứ vào mục đích vay vốn của khách hàng, có 5 nhóm: Cho vay kinh doanh (còn gọi là cho vay công nghiệp và thương mại) nhằm cung cấp vốn cho các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và các hộ gia đình ở nông thôn. Hỗ trợ vốn cho nông dân trang trải các chi phí trong sản xuất nông nghiệp; Cho vay cá nhân và hộ gia đình nhằm tài trợ tiêu dùng; Cho vay kinh doanh bất động sản ở nông thôn là loại cho vay liên quan đến việc mua sắm và xây dựng bất động sản; Cho vay đối với các tổ chức tài chính, tổ chức TD khác ở nông thôn; Cho vay khác. Phân loại như trên có tác dụng giúp NHNo&PTNT thiết lập danh mục cho vay hướng về khách hàng (thị trường) cho phù hợp với mục tiêu phục vụ của NH này, giúp NH có thể nâng cao hiệu quả hoạt động cho vay bằng cách chuyên môn hoá cung ứng các sản phẩm cho vay theo mục đích sử dụng vốn của khách hàng. Ngược lại, khách hàng cũng dễ dàng hơn trong việc tiếp cận các nguồn vốn TD. Đồng thời, nó cũng là cơ sở để đưa ra những giới hạn an toàn trong hoạt động TD và là một phần quan trọng trong việc xác định chiến lược cho vay có tính cạnh tranh của một NHTM nói chung. Hai là, căn cứ vào thời hạn cho vay và theo quy định hiện hành của Nhà nước, hoạt động cho vay có thể chia thành 3 loại: cho vay ngắn hạn (dài nhất là 12 tháng), cho vay trung hạn (từ 1- 5 năm), và cho vay dài hạn (thời hạn trên 5 năm). Cách phân loại này có ý nghĩa thực tiễn quan trọng. Dựa vào đó, NH có thể xác định được cơ cấu thời hạn cho vay, cân đối kỳ hạn hoàn vốn và kỳ hạn hoàn trả, nâng cao hiệu quả quản trị tài sản có và tài sản nợ của NH, đặc biệt trong việc quản lý khe hở kỳ hạn, khe hở lãi suất và khả năng thanh khoản để phòng tránh rủi ro. Ba là, căn cứ vào tính chất bảo đảm của khoản vốn vay, có thể chia làm 2 loại: cho vay có đảm bảo bằng tài sản (khách hàng phải có tài sản thế chấp, cầm cố hoặc bảo lãnh của bên thứ ba), và cho vay không có bảo đảm bằng tài sản (cho vay dựa vào tín nhiệm của NH đối với khách hàng). Bảo đảm tiền vay là biện pháp nhằm nâng cao chất lượng cho vay và hạn chế rủi ro TD cho NH. Về hình thức, cho vay có bảo đảm bằng tài sản có mức độ rủi ro ít hơn so với cho vay không có bảo đảm bằng tài sản, nhưng thực tế không hoàn toàn như vậy. Điều này thường thấy khi các NH tuyệt đối hoá vai trò của tài sản bảo đảm, coi nhẹ các điều kiện TD khác. Trong những trường hợp này, NH còn có thể bị mất đi những khách hàng tốt. Điều này có nghĩa là, cho vay có bảo đảm bằng tài sản là cần thiết, nhưng không thể coi đó là điều kiện tiên quyết khi cho vay. Xét về hiệu quả kinh tế, nếu cho vay không có bảo đảm về tài sản được mở rộng, thì đó là tín hiệu tốt và thể hiện triển vọng của nền kinh tế (tất nhiên là phải có những khách hàng đủ điều kiện, có uy tín). Hiện nay, trong khu vực nông nghiệp và nông thôn, tình trạng khách hàng thiếu tài sản bảo đảm khi vay vốn là phổ biến. Điều này đã làm cho hoạt động TD của NH gặp nhiều khó khăn. Cần có những giải pháp hợp lý và dài hạn nhằm khắc phục có hiệu quả tình trạng này. Bốn là, căn cứ vào cách thức cho vay, có hai loại: cho vay trực tiếp và cho vay gián tiếp. Cho vay trực tiếp là việc NH cấp vốn trực tiếp cho người đi vay và người đi vay trực tiếp hoàn trả nợ cho NH. Đây là hình thức cho vay chủ yếu và có tính truyền thống của NHNo&PTNT. Nó có thể thực hiện bằng nhiều phương thức như cho vay từng lần, cho vay theo hạn mức TD, cho vay theo dự án đầu tư, cho vay hợp vốn, cho vay trả góp, cho vay theo hạn mức TD dự phòng, cho vay thông qua nghiệp vụ phát hành thẻ TD... Cho vay gián tiếp là việc NH mua lại các chứng từ có giá, khế ước nợ hoặc chứng từ nợ đã phát sinh và còn trong thời hạn thanh toán. Đây là hình thức NH tái cấp vốn cho những người đi vay thông qua chiết khấu thương phiếu, mua các hợp đồng bán trả góp, mua các khoản nợ của DN. Cách phân loại này tạo điều kiện cho NH có thể chuyên môn hoá kỹ thuật, nghiệp vụ và cấp TD, từ đó có thể nâng cao hiệu quả cấp TD bằng sự chuyên sâu và những kỹ năng đã được chuyên môn hoá. Năm là, căn cứ vào quy mô các khách hàng đi vay, có thể phân chia thành ba loại: cho vay khách hàng là doanh nghiệp lớn, cho vay khách hàng là doanh nghiệp nhỏ, và cho vay khách hàng là hộ gia đình và cá nhân ở nông thôn. Việc phân loại này thường dựa vào quy mô vốn và tài sản của chủ đi vay. Nó giúp cho NHNo&PTNT có chính sách và cơ chế TD phù hợp và là cơ sở để đưa ra những cải cách trong quản lý TD theo quan điểm hướng về khách hàng. Ngoài những cách phân loại cho vay trên, còn có những cách phân loại khác như theo mục đích và yêu cầu của quản lý TD. Ví dụ, phân loại cho vay theo cơ cấu kinh tế, có cho vay ngành kinh tế, vùng kinh tế hoặc cho vay theo tính chất sở hữu của khách hàng. Việc phân loại cho vay nói trên có ý nghĩa thực tiễn quan trọng, nó là căn cứ để NHNo&PTNT xây dựng chính sách hợp lý, nâng cao hiệu quả hoạt động cho vay, đồng thời đó là cơ sở để hình thành chiến lược kinh doanh có tính cạnh tranh và mang đặc trưng riêng của NHNo&PTNT Việt Nam. - Cho vay bằng hàng hoá: Đây là hình thức giao dịch TD được thực hiện bằng hàng hoá cụ thể. Hàng hoá của loại TD này thường là cho thuê tài chính. Theo cách này, NH cấp TD trực tiếp bằng hàng hoá cho người đi vay (gọi là người đi thuê), người vay phải hoàn trả nợ cho NH bao gồm cả gốc và lãi. Theo quy định của Luật tổ chức TD, thì "cho thuê tài chính" là hoạt động TD trung hạn và dài hạn trên cơ sở hợp đồng cho thuê tài chính giữa bên cho thuê là tổ chức TD với khách hàng thuê" [21, tr.106]. Cho thuê tài chính là một phương thức tài trợ vốn quan trọng cho các tổ chức kinh tế không chỉ ở các nước phát triển mà ngày nay đã được triển khai rộng rãi ở các nước đang phát triển. Nó mang lại nhiều lợi ích cho nền kinh tế nói chung, nông nghiệp và nông thôn nói riêng. Nó tạo điều kiện cho người đi thuê có được cơ sở vật chất kỹ thuật cần thiết ngay trong điều kiện nguồn vốn của họ còn ít không thể đáp ứng trong việc mua được những tài sản này; đồng thời đây cũng là cách phân tán rủi ro - một cơ chế đặc thù của kinh doanh hiện đại. Nó cũng tạo cơ hội cho bên cho thuê trong việc quản lý và kiểm soát tài sản nhằm mục đích an toàn TD, tránh được tình trạng sử dụng vốn không đúng mục đích, hạn chế rủi ro. Hình thức này thường được thực hiện thông qua các công ty cho thuê tài chính. Tuy nhiên, NHNo&PTNT có thể hình thành những bộ phận loại này để phục vụ cho phát triển kinh tế nông nghiệp và khu vực nông thôn theo hướng đẩy mạnh CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn, đó là nhiệm vụ hàng đầu hiện nay ở nước ta. - Bảo lãnh NH: Đây là một nghiệp vụ TD mà NHNo&PTNT cấp cho khách hàng trên cơ sở uy tín của mình. Với nghiệp vụ này, NH không phải cung cấp tiền hay hàng, nhưng khi người được bảo lãnh không thực hiện được nghĩa vụ theo hợp đồng thì người bảo lãnh phải thay thế dể thực hiện nghĩa vụ thanh toán. Vì vậy, bảo lãnh của NH còn được gọi là TD chữ ký. Hình thức TD này đã được ghi trong Luật các tổ chức TD của nước ta. Hình thức này được sử dụng khá phổ biến trong các giao dịch thương mại. Nó có hai chức năng chủ yếu: 1) là công cụ bảo đảm đối với người hưởng thụ bằng việc cam kết thực hiện nghĩa vụ đối với người hưởng thụ khi xảy ra sự vi phạm hợp đồng của người được bảo lãnh, nó giúp cho các giao dịch về hàng hoá được thực hiện một cách thuận lợi. 2) là công cụ tài rợ về tài chính cho người được bảo lãnh. Thông qua hình thức này mà người được bảo lãnh không phải xuất quỹ mà được vay nợ, trả chậm tiền hàng hoá, dịch vụ, chậm nộp thuế... nghĩa là mặc dù không trực tiếp cấp vốn, nhưng bảo lãnh NH đã giúp cho khách hàng được hưởng những lợi ích tài chính như khi được NH cho vay. Đây là một trong những hoạt động cho vay có nhiều tác dụng, bởi nó đáp ứng những nhu cầu đa dạng của các hoạt động sản xuất kinh doanh của các hộ nông dân và người lao động ở khu vực nông thôn và tạo thuận lợi cho các chủ thể trong các giao dịch kinh tế. Năm là, đầu tư chứng khoán Đây là hoạt động kinh doanh quan trọng của NHNo&PTNT. Trong hoạt động này, NH cung ứng vốn cho các chủ kinh tế (tài trợ vốn) thông qua hoạt động mua chứng khoán. Nó có thể đầu tư chứng khoán bằng cách mua các loại trái phiếu chính phủ, công trái, trái phiếu đô thị, tín phiếu kho bạc, trái phiếu doanh nghiệp hay các loại chứng khoán khác. Mục đích của dầu tư chứng khoán là để sinh lợi, tăng vường khả năng thanh khoản, hỗ trợ cho các hoạt động TD và đa dạng hoá hoạt động kinh doanh để phân tán rủi ro. Các chứng khoán đều mang lại thu nhập cho người sở hữu chúng. Nhờ hoạt động này, NHNo&PTNT có thể chủ động dùng nguồn vốn của mình để lựa chọn mua loại nào cho thích hợp và có hiệu quả. Trong các danh mục đầu tư chứng khoán, thì tín phiếu kho bạc và trái phiếu chính phủ là những chứng khoán được các NHTM nói chung ưa chuộng nhất, bởi tính an toàn cao và nó là loại "lỏng" nhất, có thể được mua bán hoặc chuyển đổi thành tiền một cách dễ dàng với chi phí giao dịch thấp. Đầu tư chứng khoán là một hướng quan trọng trong đa dạng danh mục tài sản có sinh lợi của một NHTM, tạo điều kiện phân tán rủi ro, không bị phụ thuộc quá lớn vào hoạt động TD. Tuy khả năng linh hoạt trong điều chỉnh danh mục đầu tư chứng khoán là tốt hơn so với danh mục TD, nhưng nếu tuyệt đối hoá vai trò của khoản đầu tư này thì NHNo&PTNT không còn đúng nghĩa với tên gọi của nó. 1.2. làng nghề ở quảng nam và Vai trò của tín dụng Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đối với sự phát triển làng nghề 1.2.1. Làng nghề và nhu cầu về vốn cho phát triển các làng nghề ở Quảng Nam 1.2.1.1. Làng nghề và đặc điểm của làng nghề - Làng nghề: Làng là một phạm trù dùng để chỉ một khối dân cư ở nông thôn làm thành một đơn vị có đời sống riêng về nhiều mặt, và là đơn vị hành chính thấp nhất thời phong kiến [29, tr.522]. Làng ở Việt Nam đã xuất hiện từ thời Hùng Vương. Nó được hình thành trên cơ sở những công xã nông thôn, trong đó mỗi công xã gồm một số gia đình, có một tinh thần cộng đồng, cộng cảm, sống quây quần trong một khu vực địa lý nhất định. Sự tập trung đó là do nghề trồng lúa nước (đã có ở nước ta vào khoảng thế kỷ thứ VII TCN) phải thường xuyên chống thiên tai mà công việc này một gia đình không thể đảm đương được, cần có sự liên kết của cộng đồng, gắn bó với nhau và cùng chung sống chết. Lúc đầu, nguồn sống cơ bản của người dân trong các làng là sản phẩm nông nghiệp. Quá trình phát triển của lực lượng sản xuất làm cho sản xuất nông nghiệp có của dư thừa, làm ra đời kinh tế hàng hoá. Dần dần trong làng có những người làm nghề buôn bán, rồi có những người chế tác công cụ lao động, sản xuất đồ mộc, đan lát đồ dùng, nuôi tằm, kéo tơ, dệt vải...tức là chuyển sang sản xuất thủ công. Trong thời kỳ đầu, sản xuất công nghiệp chỉ ở quy mô gia đình và bị phụ thuộc kinh tế tự nhiên giống như cách mô tả của V.I. Lênin: "ở đây, nghề thủ công với nông nghiệp chỉ là một mà thôi" [15, tr.411-412]. Theo đà phát triển của lực lượng sản xuất, phân công lao động xã hội và kinh tế hàng hoá, những người sản làm nghề thủ công vốn coi công việc của mình là một nghề phụ trong nghề nông chuyển sang thành một nghề độc lập. Tuy họ đã rời bỏ sản xuất nông nghiệp, nhưng vẫn gắn chặt với làng quê, phục vụ cho sản xuất nông nghiệp và sống bằng nghề thủ công nghiệp. Bên cạnh những người này, trong làng vẫn có những người làm nông nghiệp kiêm thợ thủ công. Trong quá trình phát triển, số người trong làng chuyển hẳn sang sản xuất các mặt hàng thủ công dần tăng lên, có đội ngũ thợ, có quy trình công nghệ, quy mô sản xuất hàng thủ công tăng lên đến một mức độ nhất định làm cho làng làng thuần nông chuyển biến thành các làng nghề. Làng nghề là một khái niệm chứa đựng hai bộ phận cấu thành là "làng" và "nghề". Đến nay, ở nước ta có một số quan niệm khác nhau về làng nghề. Chẳng hạn, theo giáo sư Trần Quốc Vượng, "làng nghề là làng tuy vẫn trồng trọt theo lối tiểu nông và chăn nuôi nhỏ, cũng có một số nghề phụ khác, song đã nổi trội một số nghề cổ truyền tinh xảo với một tầng lớp thợ thủ công chuyên nghiệp hay bán chuyên nghiệp. có phường, có ông trùm, có phó cả... cùng một số thợ và phó nhỏ, đã chuyên tâm, có quy trình công nghệ nhất định "sinh ư nghệ, tử ư nghệ", "nhất nghệ tinh, nhất thân vinh", sống chủ yếu được bằng nghề đó và sản xuất ra các mặt hàng thủ công" [30, tr.27]. Đây là quan niệm tuy đúng với làng nghề truyền thống, nhưng lại không thích hợp với các làng nghề nói chung và càng không phải là làng nghệ mới được đi vào hoạt động. Nếu cho rằng phát triển làng nghề phải có nghề cổ truyền nổi trội, tinh xảo với một tầng lớp thợ thủ công chuyên nghiệp thì ngày nay rất khó có được một loại làng nghề như vậy. Một quan niệm khác cho rằng, "làng nghề là những làng đã có từ 50 hộ hoặc từ 1/3 tổng số hộ hay lao động của địa phương trở lên làm nghề chiếm phần chủ yếu trong tổng thu nhập của họ trong năm" [8, tr.15]. Còn trong Dự thảo Nghị định của Chính phủ về một số chính sách khuyến khích phát triển ngành nghề nông thôn được Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đệ trình tháng 5/2005, thì "làng nghề là thôn, ấp, bản có trên 35% số hộ hoặc lao động tham gia hoạt động ngành nghề nông thôn và thu nhập từ ngành nghề nông thôn chiểm trên 50% tổng thu nhập của làng". Các định nghĩa trên đã khắc phục được nhước điểm của quan niệm thứ nhất, quan tâm dến phải có tỷ lệ người làm nghề và thu nhập từ ngành nghề, nhưng lại cố định tiêu chí xác định làng nghề và việc cố định những tiêu chí trong khái niệm sẽ làm cho các nhà hoạch định chính sách khó xử lý khi chế độ ưu đãi đối với làng nghề đã thay đổi thì phải chăng khái niệm cũng thay đổi. Quan niệm thứ tư của TS Dương Bá Phượng, "làng nghề là làng ở nông thôn có một (hay một số) nghề thủ công tách khỏi nông nghiệp và kinh doanh độc lập" [20, tr.13-14]. Quan niệm này đã nêu được hai yếu tố cơ bản cấu thành của làng nghề là làng và nghề, nêu được vấn đề nghề trong làng tách ra khỏi nông nghiệp và kinh doanh độc lập, nên phù hợp với điều kiện mới hơn, tránh được hạn chế của quan niệm thứ hai, nhưng vẫn mắc phải hạn chế của quan niệm thứ nhất. Theo tác giả, có thể hiểu đơn giản làng nghề là làng có hoạt động thủ công nghiệp. Song, không phải bất cứ quy mô nào của nghề cũng đều được gọi làng đó là làng nghề. Làng được gọi là làng nghề khi các hoạt động thủ công nghiệp đủ lớn ở mức độ nào đó mang tính ổn định. Quan niệm làng nghề phải được xác định cả về mặt chất và mặt lượng. Mặt chất, làng nghề phải là làng có sự khác biệt so với các làng thuần nông hoặc với phố nghề ở thành thị. Mặt lượng, làng nghề phải được thể hiện ở một quy mô nhất định và có tính ổn định tương đối cao. Vì có điểm xuất phát là làng gắn với nông nghiệp, nên khi quy mô thủ công nghiệp của làng phát triển đến mức độ nào đó mới được gọi là làng nghề. Việc xác định quy mô nghề, phải vừa xem xét bản thân hoạt động thủ công nghiệp, vừa phải đặt nó trong quy mô làng về số hộ, số lao động, thu nhập từ hoạt động kinh tế của nghề. Có nhiều chỉ tiêu phản ánh quy mô các hoạt động thủ công nghiệp, trong đó có hai chỉ tiêu cơ bản là giá trị sản xuất và lao động làm nghề thủ công nghiệp. Song, do nghề gắn với làng vốn có điểm xuất phát là nông nghiệp, nên phải so sánh tỷ lệ lao động (hay hộ) và thu nhập của thủ công nghiệp với tổng số lao động và tổng thu nhập của làng. Nghĩa là, tỷ lệ lao động làng nghề và tỷ lệ thu nhập do nghề mang lại so với lao động và thu nhập của làng là tiêu thức xác định làng đó có phải là làng nghề hay không. Trên cơ sở kế thừa, tiếp thu các điểm hợp lý của các qun niệm nêu trên và nghiên cứu của bản thân, có thể hiểu làng nghề là làng ở nông thôn có một (hay một số) nghề thủ công hầu như được tách hẳn ra khỏi nông nghiệp, kinh doanh độc lập và đạt tới một tỷ lệ nhất định về lao động và thu nhập của làng. Tên gọi của làng nghề gắn liền với tên gọi của các nghề thủ công như nghề gốm sứ, đúc đồng, ươm tơ, dệt vải, dệt tơ lụa...Trước đây, làng nghề chỉ bao hàm các nghề thủ công nghiệp. Ngày nay, do sự phát triển mạnh của ngành kinh tế dịch vụ, nên ở các tỉnh còn có các nghề buôn bán dịch vụ trong nông thôn cũng được gọi là làng nghề. Trong một làng nghề có thể chỉ có một nghề, nhưng cũng có thể có nhiều nghề. Điều này là tuỳ theo số lượng ngành nghề thủ công nghiệp và dịch vụ chiếm tỷ lệ ưu thế có trong làng. - Đặc điểm của làng nghề: Khác với làng thuần nông và phố nghề, làng nghề được ra đời và phát triển ở nông thôn, có mối quan hệ chặt chẽ với nông nghiệp, lao động mang tính chất thủ công và chủ yếu là lao động tại chỗ; vốn ít, kỹ thuật và công nghệ lạc hậu và mang tính chất thủ công; hộ gia đình là hình thức tổ chức sản xuất chủ yếu, đa số sản phẩm được sản xuất có tính chất đơn chiếc và nhiều sản phẩm mang bản sắc văn hoá của vùng, của dân tộc. Quá trình phát triển kinh tế thị trường, CNH và HĐH nông nghiệp, nông thôn làm cho các quan hệ kinh tế ở làng xã thay đổi, các làng nghề cũng biến đổi theo. Dưới đây là những đặc điểm chủ yếu của làng nghề. Một là, làng nghề có quan hệ gắn bó với nông nghiệp, nhưng ít phụ thuộc vào nông nghiệp. ở nước ta trước đây cũng như hiện nay, hầu hết các nghề đều lấy làng làm địa điểm hoạt động. Do thủ công nghiệp hình thành trong các làng, nên giữa nghề nông và nghề thủ công nghiệp có mối quan hệ gắn bó, bổ sung cho nhau. Sự phát triển của thủ công nghiệp trong làng phụ thuộc rất lớn vào nông nghiệp. Bên cạnh các hộ chuyên làm thủ công nghiệp, đa số các hộ trong làng làm nông nghiệp kiêm thủ công nghiệp. Sự phát triển của nông nghiệp tạo điều kiện để các hộ chuyển sang làm nghề thủ công nghiệp. Nông nghiệp được coi như "bàn đạp" để phát triển thủ công nghiệp trong làng. Hầu hết nguyên liệu của thủ công nghiệp trong làng do nông nghiệp tao ra (như chế biến nông sản, dệt vải, dệt chiếu...), một phần lớn nguồn vốn để hình thành làng nghề ban đầu có nguồn gốc từ tích luỹ nông nghiệp, sản phẩm làm ra trước hết là phục vụ nông nghiệp và cư dân nông thôn. Cùng với quá trình phát triển kinh tế, xã hội, khi trình độ kinh tế phát triển cao hơn, hoạt động của làng nghề càng có xu hướng độc lập hơn đối với nông nghiệp. Nguyên liệu cho sản xuất của làng nghề được đa dạng hoá trong đó có cả sản phẩm của các ngành công nghiệp ở thành thị. Hơn nữa, khi nước ta đã là thành viên chính thức của WTO, nguyên liệu cho sản xuất của làng nghề còn bị cạnh tranh quyết liệt từ các bạn hàng nước ngoài. Do tác động của cách mạng khoa học và công nghệ, lợi thế nguyên liệu có nguồn gốc trực tiếp từ tự nhiên giảm xuống, làm cho sự tồn tại và phát triển của làng nghề gắn liền với nguyên liệu tại chỗ từ nông nghiệp có xu hướng giảm xuống. Làng nghề ngày càng có tính độc lập hơn đối với nông nghiệp. Hai là, lao động trong làng nghề là sự kết hợp giữa kỹ năng, kỹ thuật cao với tay nghề khéo léo của thợ thủ công, giữa lao động tại chỗ với lao động từ nơi khác đến. Trong các làng nghề hiện nay, trừ một số khâu công việc hoặc những công việc mang tính bí quyết nghề nghiệp, còn lại là lao động phổ thông, trình độ thấp, hầu hết là lao động tại địa phương. Ngày nay, do tác động của cách mạng khoa học và công nghệ, xu hướng tự do hoá thương mại, nên việc sản xuất của làng nghề phải dựa vào những phương tiện, công cụ lao động mới. Nó đòi hỏi lao động trong làng nghề cũng phải được nâng cao trình độ chuyên môn kỹ thuật thì sản phẩm làm ra mới đủ sức cạnh tranh. Cũng do những tác động này, cơ cấu lao động trong làng nghề cung phải thay đổi theo hướng ngày càng hiện đại. Ba là, khả năng tiếp cận nguồn vốn thuận lợi hơn. Hiện nay, vốn để các cơ sở sản xuất kinh doanh trong làng nghề chủ yếu là tự có và đi vay trong làng, nhất là của những người họ hàng. Trong những năm gần đây, lượng vốn mà các làng nghề vay của các tổ chức TD tuy đã tăng lên, nhưng vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu. Đồng thời, do tác động của công cuộc đổi mới và do đẩy mạnh CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn mức sống của người dân tăng lên, lượng tiết kiệm trong dân cư tăng lên và các dịch vụ nhất là dịch vụ TD nông thôn được mở rộng sẽ là điều kiện để các chủ kinh tế trong làng nghề tiếp cận dễ dàng hơn với các nguồn vốn xã hội. Bốn là, có sự kết hợp công nghệ sản xuất hiện đại với kinh nghiện, kỹ thuật thủ công theo hướng tiểu thủ công nghiệp hiện đại, thủ công nghiệp tinh xảo. Một số nghề được cơ giới hoá ở một vài công đoạn trong sản xuất (ví dụ xay bột để làm bánh tráng gạo bằng máy thay cho kỹ thuật thủ công trước đây, cưa gỗ và bào trơn bằng máy trong nghề mộc...). Dưới tác động của việc đẩy mạnh CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn, trình độ cơ giới hoá của các làng nghề ngày càng tăng lên và theo hướng ngày càng hiện đại. Lượng vốn đầu tư cho một chỗ làm việc trong làng nghề theo đó cũng ngày càng tăng lên. Năm là, có sự chuyên môn hoá, hợp tác hoá, liên kết giữa các hình thức sản xuất kinh doanh trong làng nghề và giữa các làng nghề với công nghiệp lớn. Do tác động của CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn, các hình thức sản xuất kinh doanh trong làng nghề cũng được cơ cấu lại theo hướng giảm số hộ cá thể, tăng số cơ sở như tổ hợp tác, hợp tác xã, công ty. Có sự liên kết giữa làng nghề với các tổ chức kinh doanh khác như liên kết dịch vụ đầu vào, đầu ra, liên kết giữa các công đoạn sản xuất do phát triển chuyên môn hoá. Các hiệp hội ngành nghề giúp nhau cũng phát triển...Kết cấu hạ tầng cho làng nghề phát triển mạnh mẽ. Sáu là, sản phẩm được sản xuất ra có sự kết hợp giữa sản xuất hàng loạt với sản xuất đơn chiếc mang bản sắc văn hoá dân tộc. Tuy sản xuất trong làng nghề vẫn là sản xuất quy mô nhỏ, nhưng do áp dụng máy móc, nên để tránh lãng phí trong việc sử dụng máy móc thiết bị công nghệ thì việc sản xuất phải có khối lượng đủ lớn mới giảm được chi phí sản xuất, mới có lợi nhuận để tồn tại và phát triển. Đồng thời, do tác động của cạnh tranh, viêc sản xuất sản phẩm có tính đến những nét đặc trưng gắn với các giá trị văn hoá truyền thống của địa phương thông qua công nghệ thủ công, sản xuất đơn chiếc ở một số công đoạn là cần thiết để phát triển làng nghề hiện đại. Những đặc điểm nêu trên của làng nghề được xem xét gắn với những biến đổi của nông nghiệp, nông thôn theo hướng CNH, HĐH đang diễn ra mạnh mẽ hiện nay ở cả nước nói chung và mỗi tỉnh, thành nói riêng. 1.2.1.2. Các làng nghề trên địa bàn tỉnh Quảng Nam hiện nay Quảng Nam là tỉnh có nhiều làng nghề truyền thống hình thành từ lâu đời. Đó là các làng nghề như nghề mộc Kim Bồng, gốm Thanh Hà, nghề đúc đồng ở Phước Kiều đã có từ thế kỷ XV gắn với đô thị cổ Hội An và dinh trấn Quảng Nam tại Thanh Chiêm. Theo thời gian, về sau hình thành thêm những làng nghề mới ở khu vực ven sông Thu Bồn, sông Vu Gia như nghề ươm tơ, dệt lụa, dệt chiếu... Các làng nghề này đã trở thành quen thuộc và đống vai trò quan trọng trong việc tạo ra sản phẩm tiêu dùng trên địa bàn, trong nước và xuất khẩu ra nước ngoài. Những sản phẩm của các làng nghề mang bản sắc văn hoá của địa phương Quảng Nam. Trước năm 1975, các làng nghề sản xuất phân tán, phát triển chậm, hầu như lao động ở các làng nghề đã di chuyển đi làm ăn nơi khác hoặc đến các vùng ven đô thị để duy trì sản xuất, vì vậy quy mô sản xuất và số lượng sản phẩm của làng nghề không lớn, hoạt động sản xuất hầu như cầm chừng. Sau ngày giải phóng, Đảng và Nhà nước ta có những chính sách đẩy mạnh phát triển kinh tế, trong đó tập trung khôi phục và phát triển ngành nghề tiểu thủ công nghiệp và làng nghề truyền thống, nên nhiều cơ sở sản xuất công nghiệp ở các địa phương được khôi phục và phát triển. Sản phẩm của một số làng nghề được Nhà nước bao cấp cả về cung ứng nguyên liệu và bao tiêu sản phẩm. Các làng nghề được phát triển mạnh nhất là các sản xuất thủ công, mỹ nghệ, vì đây là những sản phẩm được các nước Đông Âu ưa chuộng, có khả năng xuất khẩu sang các thị trường này để thu ngoại tệ. Từ khi chuyển đổi nền kinh tế sang cơ chế thị trường, các cơ sở sản xuất trong làng nghề chưa thích nghi với cơ chế mới nên đã gặp nhiều khó khăn, có lúc tưởng như bế tắc. Sở dĩ như vậy bởi vì, một mặt do thị trường tiêu thụ truyền thống của sản phẩm thủ công mỹ nghệ, hàng dệt may bị thu hẹp; mặ khác, các cơ sở chưa kịp thích nghi với cơ chế thị trường, thiếu tính năng động trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Mặc dù vậy, trên địa bàn tỉnh Quảng Nam vẫn có một số làng nghề do biết khắc phục khó khăn, nhạy bén, năng động trong môi trường mới, nên đã duy trì được sản xuất, tìm được thị trường, bán được hàng và dần dần tăng quy mô. Những năm gần đây, nhờ có một số ưu đãi của Nhà nước về cơ chế chính sách, các làng nghề có điều kiện phục hồi và phát triển. Trong tỉnh, đã xuất hiện một số làng nghề mới. Một số làng nghề đã mạnh dạn đầu tư đổi mới thiết bị công nghệ, mở rộng qui mô sản xuất, quan tâm đến chất lượng và mẫu mã sản phẩm như làng nghề làm hàng thủ công mỹ nghệ, làng nghề dệt vải, dệt chiếu, đúc đồng, gốm sứ vv... Đến nay, toàn tỉnh đã có 61 làng nghề hoạt động trong nhiều lĩnh vực kinh doanh bao gồm cả sản xuất và dịch vụ được phân bổ trên khắp các huyện, thị (phụ lục 1). 1.2.2. Vai trò của tín dụng Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đối với sự phát triển làng nghề Vốn là điều kiện không thể thiếu được cho hoạt động sản xuất kinh doanh của các làng nghề. Vốn bao gồm cả vốn bằng tiền và các tài sản khác phục vụ cho sản xuất, tác động đ._.mình. Thuê tài chính đáp ứng nhu cầu rộng lớn của các đối tượng, nó không chỉ thỏa mãn cho các doanh nghiệp mà cả hộ sản xuất trong các làng nghề. Cho thuê tài chính xuất phát từ lợi ích của doanh nghiệp và của nền kinh tế, không đòi hỏi về tài sản thế chấp, điều này rất phù hợp để tạo cho các doanh nghiệp tại các làng nghề đầu tư máy móc, kỹ thuật phục vụ sản xuất. Tạo điều kiện cho các làng nghề có thể tiếp cận với công nghệ sản xuất mới mà không cần lo tạo lập một nguồn vốn quá khả năng của họ. Hơn nữa, trong điều kiện TD trung, dài hạn đang gặp nhiều khó khăn về nguồn vốn, tài sản thế chấp, thủ tục…, thì thuê tài chính là giải pháp hữu hiệu giúp các làng nghề có điều kiện trang bị máy móc, thiết bị, đẩy mạnh cơ giới hoá, HĐH sản xuất. Đây là giải pháp nhằm góp phần thực hiện mục tiêu CNH, HĐH làng nghề ở nông thôn, hỗ trợ cho việc bảo tồn và phát triển các làng nghề truyền thống. Kết hợp hài hoà giữa các hình thức cho vay trực tiếp với hình thức cho vay gián tiếp. Hiện nay, trong điều kiện số lượng khách hàng của NH nông nghiệp rất lớn, trong khi đó lực lượng cán bộ TD không thể đáp ứng đầy đủ yêu cầu của các hộ sản xuất khi vay vốn. Để mở rộng đầu tư vốn kịp thời và đầy đủ cho làng nghề, NH cần phải kết hợp hài hoà giữa các hình thức cho vay trực tiếp với hình thức cho vay gián tiếp. Đối với các doanh nghiệp, hộ sản xuất có nhu cầu vay lớn thì NH có thể áp dụng hình thức cho vay trực tiếp đến tận các đơn vị. NH và các đơn vị vay vốn trực tiếp kết hợp đồng TD với nhau. Đối với các hộ sản xuất, cần mở rộng việc cho vay qua tổ vay vốn của các tổ chức đoàn thể đối với các hộ sản xuất có thu nhập thấp theo tinh thần Nghị quyết liên tịch 2.308 giữa Trung ương Hội Nông dân Việt Nam với NHNo&PTNT Việt Nam. Mạnh dạn cho vay không có bảo đảm bằng tài sản đối với các hộ vay vốn mang tính sản xuất hàng hoá, có dự án đầu tư, phương án sản xuất, kinh doanh khả thi, khả năng hoàn trả nợ NH đúng hạn. Qua đó tạo điều kiện cho các hộ có nhiều cơ hội tiếp cận hơn với vốn TDNH. - Đổi mới xác định mức lãi suất cho vay Cùng với nguồn vốn, lãi suất là vấn đề cốt lõi thể hiện trong kết quả hoạt động NH. Trong cơ chế thị trường, lãi suất phải thực sự là giá mua, giá bán của hàng hoá tiền tệ. Cái khó nhất hiện nay là làm thế nào vừa bảo đảm tuân thủ các quy luật kinh tế thị trường để NHNo&PTNT thực hiện kinh doanh, vừa phải đảm bảo sự ưu tiên nhất định đối với sản xuất nông nghiệp nói chung, làng nghề nói riêng. Nghĩa là, lãi suất huy động phải đảm bảo sát với chỉ số giá cả thị trường có thể cạnh tranh, còn lãi suất cho vay phải tương đối thấp mới có tác động đến sự phát triển sản xuất Lãi suất cho vay phải vừa đảm bảo sự tồn tại và phát triển của NH, vừa tạo được động lực khuyến khích phát triển kinh tế. Để giải quyết tốt vấn đề này, NH cần thực hiện cơ chế lãi suất theo hướng: Một là, tối tiểu hoá chi phí huy động để có thể giảm lãi suất cho vay. Việc giảm chi phí phải được thực hiện đồng bộ từ khâu sử dụng lao động đến khâu sử dụng các vật tư, tài sản, công cụ lao động, chi phí hành chính, hội nghị... Xử lý lãi suất theo cơ chế thị trường, mua rẻ - bán rẻ, không nên để chênh lệch quá lớn giữa giá mua và giá bán. Hai là, NH có thể áp dụng cơ chế lãi suất linh hoạt, dựa trên sự phân loại của khách hàng vay vốn. Đối với các cơ sở làng nghề hoạt động kinh doanh có hiệu quả, có uy tín trong quan hệ TD, xếp loại I... thì nên có lãi suất ưu đãi. Ba là, thực hiện lãi suất thực tế dương, tiến tới tự do hoá về lãi suất phù hợp với quan hệ cung - cầu thị trường. Về lâu dài, nên thực hiện thống nhất một hệ thống lãi suất, tránh tâm lý ỷ lại, triệt tiêu động lực kinh doanh. Bốn là, lãi suất phân chia theo từng khu vực, từng đối tượng vay, từng loại dự án theo nguyên tắc đối tượng nào, khu vực nào có tỷ suất lợi nhuận cao thì lãi suất cho vay cao. Năm là, bên cạnh việc tích cực sử dụng các nguồn vốn từ các tổ chức TD quốc tế hỗ trợ qua các dự án với lãi suất thấp, các chi nhánh NH cơ sở phải chọn đối tượng đầu tư phù hợp và có ưu tiên lãi suất theo những biện pháp xử lý thích ứmg. Vốn đầu tư cho các cơ sở và hộ sản xuất làng nghề thường lớn hơn rất nhiều so với vốn đầu tư cho các hộ sản xuất thuần nông và dịch vụ. Do vậy, tổ chức TD có thể áp dụng lãi suất cho vay tại làng nghề như hình thức “bán buôn” trên cơ sở hạ lãi suất với các dự án nằm trong chương trình, định hướng phát triển của Trung ương và địa phương, các dự án phát triển vùng cung cấp nguyên liêu như vùng trồng dâu nuôi tằm, nuôi trồng thuỷ sản...tạo ra tính ổn định lâu dài cho sự phát triển của làng nghề. 3.2.3. Nhóm giải pháp về tổ chức bộ máy, công nghệ và nguồn nhân lực - Tiếp tục đổi mới tổ chức bộ máy TD của NHNo&PTNT Bên cạnh các nhóm giải pháp về tăng cường huy động vốn và mở rộng cho vay đối với làng nghề, nhóm giải pháp này liên quan đến đội ngũ cán bộ NH và mô hình tổ chức. Nó có ý nghĩa chiến lược và là tiền đề để thực hiện các giải pháp nêu trên. Một là, phân công, bố trí cán bộ TD phụ trách theo từng loại hình doanh nghiệp, hộ sản xuất để tạo sự chuyên môn hoá. Xây dựng cơ chế luân chuyển để tránh sự trì trệ và đề phòng các mối quan hệ phát sinh không lành mạnh giữa cán bộ TD với khách hàng. Cơ cấu cán bộ phải đảm bảo sự hợp lý về chuyên môn, kết hợp sự năng động, nhạy bén của đội ngũ cán bộ trẻ với kinh nghiệm của cán bộ lâu năm. Hai là, sắp xếp bộ máy tổ chức theo hướng tinh gọn, giảm bớt các khâu trung gian nhằm làm cho các quyết định quản lý được triển khai nhanh chóng, đồng bộ. Sử dụng đội ngũ cán bộ từ NH tỉnh đến các chi nhánh NH cơ sở hợp lý, đúng người, đúng việc, bảo đảm sử dụng có hiệu quả nguồn nhân lực. Đồng thời, tăng cường được khâu quản lý, kiểm tra giám sát, phát huy được tính tự giác, linh hoạt của mỗi cán bộ. Ba là, xây dựng hệ thống thông tin TD chặt chẽ, nhanh nhạy giữa hội sở chính với các chi nhánh tạo cơ sở vững chắc cho các quyết định đầu tư mang tính khả thi cao. Bốn là, không ngừng chọn lọc, bổ sung, tăng cường lực lượng cán bộ NH nhất là cán bộ TD, kể cả cán bộ điều hành và cán bộ tác nghiệp trực tiếp. Nghiên cứu, ban hành quy định cụ thể về tiêu chuẩn cán bộ NH nói chung, cán bộ TD nói riêng, bảo đảm những cán bộ đó phải có đạo đức nghề nghiệp, thông thạo nghiệp vụ, có hiểu biết về pháp luật và kinh tế thị trường, có tác phong giao dịch tốt... Trên cơ sở đó, tiến hành chọn lọc đội ngũ cán bộ hiện có, chuyển sang bộ phận khác những cán bộ TD không đáp ứng được yêu cầu tiêu chuẩn đã đề ra. Đồng thời, tuyển chọn để bổ sung cán bộ trẻ, có đủ tiêu chuẩn, nâng tỷ trọng cán bộ làm công tác TD lên trên 50% trong lực lượng lao động của cơ quan. Năm là, bên cạnh việc đào tạo và bồi dưỡng cán bộ, Ban lãnh đạo NH phải cân nhắc thận trọng khi bố trí nhân sự để phát huy được thế mạnh và hạn chế được nhược điểm của mỗi người. Ban lãnh đạo phải thường xuyên theo sát hoạt động của nhân viên để đánh giá về họ được chính xác. Ngoài ra, việc đề ra một chế độ đãi ngộ xứng đáng như về lương, thưởng đối với cán bộ TD để động viên, khuyến khích kịp thời nhằm làm cho cán bộ, nhân viên không ngừng nâng cao tinh thần trách nhiệm, kích thích sự cố gắng phấn đấu trong công tác nghiệp vụ của mỗi người. Tại Hội sở tỉnh cũng như tại các chi nhánh NH cơ sở, cần xây dựng một bộ phận cán bộ làm đầu mối quan hệ với các cơ quan, ban, ngành để nắm bắt kịp thời các chủ trương, chính sách của địa phương về phát triển làng nghề để từ đó có cơ sở tham mưu với lãnh đạo có những chỉ đạo kịp thời trong công tác mở rộng và nâng cao chất lượng TD. Sáu là, thành lập và tăng cường năng lực cho một bộ phận chuyên trách về tìm kiếm các nguồn vốn cho vay uỷ thác từ các tổ chức quốc tế, các cơ quan trung ương. 3.2.3.2. Hiện đại hoá công nghệ ngân hàng Để phát triển các dịch vụ tiện ích cho khách hàng, nâng cao khả năng cạnh tranh của NHNo&PTNT, đòi hỏi phải đổi mới công nghệ, trang bị thêm máy vi tính cùng các thiết bị đồng bộ, các phương tiện hiện đại như máy ATM, máy in sổ tiết kiệm... Phương pháp giao dịch đảm bảo thuận tiện cho yêu cầu quản lý và phục vụ tại các đơn vị giao dịch trực tiếp với khách hàng. Mở rộng và phát triển các dịch vụ NH như chuyển tiền điện tử, thanh toán quốc tế, thanh toán tiền gửi ở nhiều nơi, dịch vụ cho khách hàng trong và ngoài nước, trước hết ở những vùng đô thị, nhằm khơi tăng nguồn vốn, phát triển dịch vụ NH. Nếu công tác thanh toán không dùng tiền mặt của NH làm tốt, thì sẽ thu hút các thành phần kinh tế, các tầng lớp dân cư mở tài khoản tiền gửi, mở rộng thanh toán bằng séc cá nhân, từ đó tăng qui mô tiền gửi thanh toán qua NH. Đẩy mạnh công tác thanh toán qua NH, thu hút được nguồn vốn ngày càng nhiều với lãi suất thấp để đáp ứng nhu cầu vốn đầu tư cho phát triển nền kinh tế nói chung và đầu tư cho phát triển làng nghề nói riêng và mang lại hiệu quả cho NH. ứng dụng những thành tựu khoa học và công nghệ tiên tiến để thanh toán nhanh chóng, chính xác, kịp thời. Cụ thể là: + Từng bước áp dụng mở rộng thẻ thanh toán điện tử, thẻ thanh toán không dùng tiền mặt và thẻ rút tiền mặt, thẻ thanh toán séc của NH thẻ thanh toán không dùng tiền mặt của các doanh nghiệp. + Mở rộng thanh toán bù trừ xuống đến tận các NHNo&PTNT cấp huyện, NH cơ sở thông qua việc áp dụng công nghệ tin học, hoà mạng trên toàn quốc. + Nhanh chóng triển khai dự án để kết nối tất cả các ATM trên toàn quốc và lắp đặt nhiều ATM hơn để mang lại sự thuận lợi và tiện ích nhiều hơn cho khách hàng. Không nên thu khách hàng khoản phí chuyển đổi hệ thống ATM để tạo sự tin cậy trong khách hàng. + Cung ứng đầy đủ phương tiện thanh toán theo yêu cầu của khách hàng. Nâng cao chất lượng dịch vụ thanh toán đối với các đơn vị, tổ chức kinh tế và dân cư. Phát triển và hoàn thiện môi trường pháp lý, hoà nhập với thông lệ quốc tế và làm cơ sở thúc đẩy hiện đại hoá công nghệ NH. - Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, nhân viên TD Chất lượng chuyên môn kỹ thuật của đội ngũ cán bộ viên chức của NHNo&PTNT Quảng Nam vẫn còn nhiều bất cập trong cơ chế thị trường nhất là ngoại ngữ, tin học, pháp luật và sự hạn chế về năng lực xây dựng, thẩm định dự án đầu tư…Do vậy, đội ngũ này cần phải được đào tạo lại để đáp ứng yêu cầu phát triển NH trong những năm tới. Tiến hành rà soát lại trình độ cán bộ có tính đến xu hướng phát triển dài hạn của NH trong bối cảnh hội nhập và mở cửa thị trường tài chính, để có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng nhằm nâng cao phẩm chất đạo đức, hoàn thiện kiến thức chuyên môn. Đối với cán bộ chuyên quản tại các làng nghề, phải có sự hiểu biết nhất định về lĩnh vực kinh tế nông nghiệp, nông thôn. Trên cơ sở thâm nhập thực tế, điều tra, nắm bắt được chiều hướng phát triển của từng làng, từng nghề người cán bộ NH có thể khái quát được chiều hướng phát triển của từng nghề, nhu cầu vốn và hiệu quả của từng cơ sở sản xuất. Vì vậy, bên cạnh sự chuyên sâu về nghiệp vụ chuyên môn, người cán bộ TD phải có kiến thức về từng nghề, về thị trường qua việc xử lý tổng thể các thông tin từ đó có thể tư vấn lại cho người sản xuất, hướng dẫn người sản xuất nên sử dụng vốn phù hợp với điều kiện sản xuất để vốn vay phát huy được hiệu quả có lợi nhuận và trả được nợ NH. Giúp đỡ người sản xuất dần quen với cung cách làm ăn khoa học bỏ dần kiểu làm ăn tự do, tự phát, thiếu tính kế hoạch trước đây. Ngoài nhiệm vụ cho vay, cán bộ TD chuyên quản tại các làng nghề phải có trách nhiệm tuyên truyền, quảng cáo các hoạt động nghiệp vụ của NH như nghiệp vụ thanh toán, thu nhận tiền gửi, và các hoạt động khác bằng cả nội và ngoại tệ. Có như vậy mới có thể đưa hoạt động NH gần với hoạt động sản, xuất kinh doanh ở làng nghề, tăng cường khả năng mở rộng thị trường. Để người cán bộ TD có thể làm được điều này, NHNo&PTNT Quảng Nam phải có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng về kiến thức chuyên môn đồng thời cần thường xuyên mở các lớp tập huấn về kinh tế nông nghiệp, nông thôn nói chung, phát triển làng nghề nói riêng để cho cán bộ TD có thể hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình, bởi vì nếu không am hiểu về môi trường kinh doanh thì đầu tư TD sẽ rất khó khăn, không có hiệu quả. Trên đây là ba nhóm giải pháp nhằm thúc đẩy phát triển của các tổ chức TD NHNo&PTNT phục vụ có hiệu quả cho phát triển làng nghề trên địa bàn. Để các giải pháp nêu trên phát huy hiệu quả và có tính khả thi cao, cần thiết phải tạo lập các điều kiện về cơ chế, chính sách từ phía các cơ quan chức năng của tỉnh, NHNo&PTNT Việt Nam, NH Nhà nước và các cấp có thẩm quyền liên quan đến hoạt động TD của NHNo&PTNT Quảng Nam. Một là, Quyết định 67/1999/QĐ-TTg ban hành đến nay đã 6 năm, trong thời gian qua, hầu hết quy mô, năng lực, trình độ của hộ sản xuất trong làng nghề đã được nâng lên, nhưng để phát triển kinh tế của các làng nghề nhanh và bền vững, cần nâng mức cho vay không có thế chấp tài sản cho các hộ sản xuất nông nghiệp và ngành nghề ở nông thôn. Hai là, tích cực đẩy mạnh công tác khuyến công thúc đẩy phát triển đào tạo nghề, khuyến khích và mở rộng ngành nghề ở nông thôn. Đây là tiền đề quan trọng phát triển làng nghề, tăng năng lực tài chính và khả năng kinh doanh trong quan hệ TD với NH. Ba là, ngoài việc các cơ sở làng nghề phải chủ động khai thác, tìm kiếm thị trường tiêu thụ, Nhà nước cũng cần có biện pháp thiết thực giúp cho các cơ sở làng nghề tìm kiếm và mở rộng được thị trường. Cần mở rộng sản xuất, nâng cao hiệu quả kinh doanh của từng doanh nghiệp, từng hộ, qua đó góp phần nâng cao hiệu quả đầu tư TDNH đối với làng nghề. Bốn là, phát triển mạnh cơ sở hạ tầng nông thôn, trước mắt ưu tiên vốn để xây dựng hệ thống đường giao thông, tạo ra điều kiện để thúc đẩy lưu thông hàng hoá từ nông thôn đến thành thị, liên kết kinh tế vùng với kinh tế khu vực, từng bước xoá bỏ kinh tế theo địa giới hành chính trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Năm là, thực hiện quy hoạch và cấp đất để tạo mặt bằng hoạt động cho làng nghề truyền thống. Trên cơ sở đó, có điều kiện xử lý môi trường chất thải đối với làng nghề truyền thống. Đẩy mạnh việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng dất, quyền sở hữu tài sản trên đất để người dân có cơ sở pháp lý khi đăng ký giao dịch bảo đảm trong quan hệ TD với NH. Sáu là, Nhà nước có chính sách ưu đãi về thuế, hỗ trợ lãi suất sau đầu tư đối với các cơ sở làng nghề vay vốn để đổi mới máy móc, trang thiết bị, công nghệ, cải tiến mẫu mã, nâng cao chất lượng sản phẩm. Thực hiện đăng ký và bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp cho sản phẩm. Có chính sách hỗ trợ cho làng nghề, đặc biệt là các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực xuất khẩu được trang bị và ứng dụng công nghệ thông tin vào sản xuất kinh doanh. Tạo điều kiện để doanh nghiệp làm quen với hình thức thương mại điện tử, góp phần khám phá thị trường. Tổ chức các lớp đào tạo, tập huấn nghiệp vụ giúp các chủ doanh nghiệp, hộ sản xuất nâng cao trình độ quản lý và tay nghề của người lao động. Mở rộng hệ thống dịch vụ tư vấn khoa học, công nghệ cho các hộ kinh doanh và doanh nghiệp trong làng nghề nói chung, trong toàn bộ nền kinh tế nói riêng. Bảy là, sớm thành lập quỹ bảo lãnh TD. Vì hầu hết làng nghề ở Quảng Nam hiện nay đều có quy mô rất nhỏ, vốn chủ sở hữu ít, giá trị tài sản thấp, do đó không đủ điều kiện về vốn tự có cũng như tài sản bảo đảm để được vay vốn NH. Việc được một tổ chức uy tín, có thực lực bảo lãnh là điều kiện quan trọng giúp các doanh nghiệp khu vực tư nhân có cơ hội được tiếp cận nguồn vốn TDNH. Tám là, cần tuyên truyền và phổ biến rộng rãi chính sách ưu đãi đầu tư phát triển làng nghề cuả tỉnh. Thường xuyên tổ chức các hội chợ triển lãm, du lịch làng nghề và phát triển mạnh các hoạt động quảng cáo. Hỗ trợ xây dựng thương hiệu, nhãn hiệu, đăng ký chất lượng hàng hoá, dịch vụ theo tiêu chuẩn quốc tế cho các cơ sở làng nghề. Chín là, các chi nhánh NH cơ sở trên địa bàn phải thực hiện tốt thông tin phòng ngừa rủi ro. Có như vậy mới tạo nên một sự thống nhất trong đầu tư, tránh việc lợi dụng của các doanh nghiệp vào sự cạnh trạnh của các NH để vay vốn nhiều NH cùng một lúc phục vụ những mục đích trái với quy định. Mười là, qui hoạch làng nghề, ưu tiên giải quyết mặt bằng phù hợp với các loại sản xuất của làng nghề gắn với cụm công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp. Thực hiện nâng cấp và xây dựng cơ sở hạ tầng của các vùng làm nghề như tạo mặt bằng sản xuất, nâng cấp đường giao thông, điện, nước sản xuất, có chính sách xây dựng cơ sở hạ tầng, qui hoạch đất đai cho các cơ sở làng nghề. Kết luận Phát triển các làng nghề là một nội dung và nhiệm vụ quan trọng của CNH, HĐH nông thôn của tỉnh Quảng Nam. Trong những năm qua, Tỉnh uỷ và ủy ban nhân dân tỉnh đã lãnh đạo và chỉ đạo các cấp, các ngành cùng với nhân dân có nhiều cố gắng trong việc thực hiện nhiệm vụ này. Nhiều làng nghề trong tỉnh đã được khôi phục và phát triển. Nhờ đó, đã tạo ra được trên 25.000 việc làm, sản lượng kinh tế trong tỉnh tăng lên đáng kể, tạo ra nhiều nguồn hàng cho nhu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu, tạo thu nhập cho người dân và tăng thu ngân sách cho Nhà nước. Sự phát triển của làng nghề Quảng Nam đã nhận được sự hỗ trợ đáng kể của chi nhánh NHNo&PTNT Quảng Nam. Tuy nhiên, hoạt động TD của NHNo&PTNT Quảng Nam trong việc phục vụ khôi phục và phát triển các làng nghề còn bộc lộ nhiều hạn chế, chưa thật "bám rễ" sâu vào đối tượng làng nghề, các cơ sở sản xuất trong làng nghề gặp nhiều khó khăn trong việc vay vốn, hiệu quả TD thấp, chất lượng hoạt động TD chưa cao, mức rủi ro TD còn đáng lo ngại... Trên cơ sở hệ thống hoá lý luận về hoạt động TD của NHNo&PTNT và vai trò của nó trong phát triển làng nghề, luận văn đã tiến hành khảo sát, phân tích và đánh giá thực trạng hoạt động TD của NHNo&PTNT Quảng Nam trong phục vụ quá trình phát triển làng nghề trên địa bàn tỉnh từ năm 2001 đến nay. Những phân tích và đánh giá được tập trung vào những thành tựu đạt được trong khôi phục và phát triển làng nghề đối với việc thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội của địa phương, vai trò của nó trong CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn. Đồng thời chỉ ra những hạn chế và nguyên nhân của những hạn chế đó của NHNo&PTNT Quảng Nam trong việc tạo vốn và trong hoạt động tài trợ TD cho các làng nghề. Dựa trên cơ sở lý luận và phân tích thực tiễn trên, căn cứ vào quan điểm, chủ trương phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh được đề ra tại Đại hội Tỉnh đảng bộ Quảng Nam lần thứ XIX, định hướng chiến lược phát triển bền vững tỉnh Quảng Nam giai đoạn 2006 - 2010 và đến năm 2020 và Chiến lược phát triển của NHNo&PTNT Việt Nam, luận văn đưa ra dự báo xu hướng phát triển làng nghề trên địa bàn Quảng Nam đến năm 2015, phương hướng phát triển TD của NHNo&PTNT Quảng Nam phục vụ phát triển làng nghề và đề xuất ba nhóm giải pháp nhằm tiếp tục đổi mới hoạt động TD của NH để phục vụ có tích cực và hiệu quả hơn quá trình phát triển này. Ba nhóm giải pháp được nêu và phân tích trong luận văn gồm giải pháp về huy động vốn, về cấp TD và về tổ chức bộ máy, công nghệ và nguồn nhân lực. Để các giải pháp trên phát huy hiệu quả và có tính khả thi cao, luận văn đưa ra các kiến nghị về cơ chế, chính sách hỗ trợ của các cơ quan chức năng của tỉnh, NHNo&PTNT Việt Nam, NH Nhà nước và các cấp có thẩm quyền liên quan đến hoạt động TD của NHNo&PTNT Quảng Nam. Mặc dù học viên có rất nhiều cố gắng trong việc tìm kiếm tài liệu và nghiên cứu đề tài luận văn, đã đạt được kết quả nhất định, nhưng quá trình thực hiện vẫn không thể tránh khỏi thiếu sót, hạn chế. Học viên mong nhận được những ý kiến đóng góp của các nhà khoa học và những ai quan tâm đến vấn đề này. Học viên xin tiếp thu những đóng góp đó và trân trọng cám ơn. danh mục Tài liệu tham khảo 1. Vũ Đức Chính (2004), Tín dụng Ngân hàng với việc khôi phục và phát triển nghề truyền thống trong Khu vực Đồng bằng Sông Hồng, luận án tiến sỹ kinh tế, Học viện Ngân hàng, Hà Nội. 2. Nguyễn Văn Công (2005), Vốn cho phát triển làng nghề ở Hà Tây, luận văn thạc sỹ kinh tế, Học viện Chính trị quốc gia HCM, Hà Nội. 3. Đảng Cộng sản Việt Nam (1994), Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương khoá VII, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 4. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 5. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 6. Đảng Cộng sản Việt Nam - Đảng bộ tỉnh Quảng Nam (2/2006), Văn kiện đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIX. 7. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 8. Nguyễn Văn Đại, Trần Văn Luận (1997), Tạo việc làm thông qua khôi phục và phát triển làng nghề truyền thống, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội. 9. Phạm Hữu Đăng Đạt (2002), Chuyện làng nghề Đất Quảng, Nxb Đà Nẵng. 10. Trần Đình Định (Chủ biên), Đinh Văn Thanh, Nguyễn Văn Dũng (2006), Những quy định của Pháp luật về hoạt động tín dụng, Nxb Tư pháp, Hà Nội. 11. Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam (2002), Xóm nghề và nghề thủ công truyền thống Nam bộ, Nxb Trẻ. 12. Mai Thế Hởn, Hoàng Ngọc Hòa, Vũ Văn Phúc (2003), Phát triển làng nghề truyền thống trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 13. Vũ Thị Thuý Hường (6/2006), “Giải pháp tín dụng ngân hàng đối với sự phát triển làng nghề ở nước ta hiện nay”, Tạp chí Ngân hàng, tr. 27 - 29. 14. Võ Văn Lâm (1999), Đổi mới hoạt động tín dụng Ngân hàng Nông nghiệp nhằm phát triển nông nghiệp, nông thôn trên địa bàn tỉnh Quảng Nam, Luận văn Thạc sỹ kinh tế, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. 15. V.I. Lênin (1976), Toàn tập, Tập 3, tiếng Việt, Nxb Tiến bộ, Matxcơva. 16. C. Mác và Ph ăngghen (1994), Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tập 25, phần I, tr 534. 17. Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Quảng Nam, Báo cáo tổng kết hoạt động kinh doanh các năm 2001, 2002, 2003, 2004, 2005, Quảng Nam 18. Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam (2006), Đầu tư phát triển kinh tế hộ; Nxb Lao động, Hà Nội. 19. Đỗ Tất Ngọc (2006), Tín dụng Ngân hàng đối với Kinh tế hộ ở Việt Nam, Nxb Lao động, Hà Nội. 20. Dương Bá Phượng (2001), Bảo tồn và phát triển làng nghề trong quá trình công nghiệp hoá, Nxb KHXH, Hà Nội. 21. Quốc hội (2004), Luật các Tổ chức tín dụng, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 22. Sở Công nghiệp tỉnh Quảng Nam (2003), Dự án tổng quan đầu tư khôi phục và phát triển làng nghề, làng nghề truyền thống, Quảng Nam. 23. Sở Công nghiệp tỉnh Quảng Nam (2006), Báo cáo thực trạng và một số giải pháp phát triển bền vững các làng nghề trên địa bàn tỉnh Quảng Nam các năm 2002, 2003,2004,2005, Quảng Nam. 24. Sở Công nghiệp tỉnh Quảng Nam (2006), Đề án phát triển hàng thủ công mỹ nghệ xuất khẩu trên địa bàn tỉnh Quảng Nam đến 2010, Quảng Nam. 25. Phạm Côn Sơn (2004), làng nghề truyền thống Việt Nam, Nxb Văn hóa dân tộc. 26. Lê Văn Tề, Ngô Hướng, Đỗ Linh Hiệp, Hồ Diệu, Lê Thẩm Dương (2004), Nghiệp vụ Ngân hàng thương mại, Nxb Thống kê, Hà Nội. 27. Tỉnh uỷ Quảng nam (2006), Kết luận Hội nghị Tỉnh uỷ lần thứ 3 về giải pháp đẩy mạnh phát triển công nghiệp - dịch vụ, Quảng Nam. 28. Vũ Từ Trang (2002), Nghề Cổ Nước Việt, Nxb Văn hóa dân tộc. 29. Từ điển Tiếng Việt (1995), Nxb Đà Nẵng. 30. Trung tâm triển lãm nghệ thuật Việt Nam (2000): Làng nghề, phố nghề Thăng Long-Hà Nội, Hà Nội. 31. Uỷ ban nhân dân tỉnh Quảng Nam (2002), Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Quảng Nam đến 2015, Quảng Nam. 32. Uỷ ban nhân dân tỉnh Quảng nam (2002), Đề án phát triển công nghiệp ở nông thôn và làng nghề tỉnh Quảng Nam 2002 - 2010, Quảng Nam 33. Uỷ ban nhân tỉnh Quảng Nam (2004), Cơ chế ưu đãi khuyến khích đầu tư trên địa bàn tỉnh Quảng Nam, Quảng Nam. 34. Uỷ ban nhân dân tỉnh Quảng Nam (2006), Báo cáo tình hình thực hiện Nghị quyết 08-NQ/TU khoá XVIII và giải pháp phát triển công nghiệp - dịch vụ 5 năm (2006-2010), Quảng Nam. 35. Uỷ ban Nhân dân tỉnh Quảng Nam (2006), Định hướng chiến lược phát triển bền vững tỉnh Quảng Nam giai đoạn 2006 - 2010 và đến năm 2020, Tam Kỳ. 36. Bùi Văn Vượng (2002), Làng nghề thủ công truyền thống Việt Nam, Nxb Văn hoá - Thông tin, Hà Nội. Phụ lục Phụ lục1: Danh mục các làng nghề ở tỉnh Quảng Nam (có đến 6/2006) Làng nghề Địa điểm (xã, huyện) Qui mô (cơ sở) Sản lượng hàng hoá Công nghệ sản xuất Làng nghề đá mài Xuân Tây Đại Tân, Đại Lộc 4 1.500 m3/năm truyền thống Làng nghề đá Tràng Thạch Đại Hiệp, Đại Lộc 5 30.000 tấn/năm kết hợp Làng nghề chẻ đá ong Tam Quang, Núi Thành 30 200.000 viên/năm Truyền thống Làng nghề chẻ đá Tam Anh Tam Anh, Núi Thành 25 150.000 viên/năm Truyền thống Làng nghề VLXD La Tháp Duy Hoà, Duy Xuyên 60 10.000.000 viên/năm kết hợp Làng gốm Thanh Hà Thanh Hà, Hội An 23 200.000 Sp/năm truyền thống Làng nghề gốm sứ La Tháp Duy Hoà, Duy Xuyên 40 8000 Sp/năm truyền thống Làng nghề đóng sửa tàu thuyền Cẩm Kim, Hội An 11 25 chiếc 150CV/năm truyền thống Làng nghề đóng sửa tàu thuyền Tam Phú, Tam Kỳ 10 150 chiếc 60CV/năm Truyền thống Làng mộc Kim Bồng Cẩm Kim, Hội An 12 8.000 Sp/năm Truyền thống Làng mộc Vân Hà Tam Thành, Tam Kỳ 80 2.500 sp/năm Truyền thống Làng nghề đan lát Tam Vinh, Tam Kỳ 800 800.000 sp/năm truyền thống Làng nghề mây, tre, trúc TT Núi Thành 75 300.000 sp/năm kết hợp Làng nghề mây tre Hoán mỹ ái Nghĩa, Đại Lộc 75 150.000 sp/năm truyền thống Làng nghề mây – tre An Thanh Điện Thắng, Điện Bàn 240 400.000 sp/năm truyền thống Làng nghề đan lát Bình Quế Bình Quế, Thăng Bình 300 500.000 sp/năm truyền thống Làng nghề trống Lâm Yên Đại Minh, Đại lộc 10 10.000 sp/năm truyền thống Làng nghề chằm nón Giảng Hoà Đại Thắng, Đại Lộc 30 50.000 sp/năm truyền thống Làng nghề đúc đồng Phước Kiều Điện Phương, Điện Bàn 57 1.500 sp/năm truyền thống Làng nghề se sợi dừa Tam Hải Tam Hải, Núi Thành 78 5 tấn/năm truyền thống Làng nghề chổi đốt Quảng Đại Đại Cường, Đại Lộc 20 400.000 sp/năm truyền thống Làng nghề rèn Tam Anh Tam Anh, Núi Thành 10 200.000 sp/năm truyền thống Làng nghề rèn công cụ An Chánh Đại Chánh, Đại Lộc 20 50.000 Sp/năm truyền thống Làng rèn công cụ Quế Châu Quế Châu, Quế Sơn 15 25.000 sp/năm truyền thống Làng nghề dệt chiếu Thạch Tân Tam Thăng, Tam Kỳ 115 70.000 sp/năm truyền thống Làng dệt chiếu chẽ Triêm Tây Điện Phương, Điện Bàn 92 10.000 sp/năm truyền thống Làng nghề dệt chiếu An Phước Duy Phước, Duy Xuyên 161 100.000 sp/năm truyền thống Làng nghề dệt chiếu Hà Nhuận Duy Phước, Đại Lộc 95 80.000 sp/năm truyền thống Làng nghề dệt chiếu Bàn Thạch Duy Vinh, Duy Xuyên 220 200.000 sp/năm truyền thống Làng nghề dệt chiếu Hồng Triều Duy Nghĩa, Duy Xuyên 90 80.000 sp/năm truyền thống Làng nghề dệt chiếu Cẩm Kim Cẩm Kim, Hội An 30 40.000 sp/năm truyền thống Làng nghề ươm tơ- dệt lụa Bảo An Điện Quang, Điện Bàn 66 500.000 mét/năm Kết hợp Làng nghề dệt vải Đông Lãnh Điện Trung, Điện Bàn 50 230.000 mét/năm truyền thống Làng nghề dệt vải Tuý La Điện Hồng, Điện Bàn 45 100.000 mét/năm truyền thống Làng nghề dệt vải Nông Sơn Điện Phước, Điện Bàn 100 400.000 mét/năm truyền thống Làng nghề dệt vải La Thọ Điện Hoà, Điện Bàn 48 40.000 mét/năm truyền thống Làng nghề dệt vải Phú Bông xã Điện Phong, Điện Bàn 44 2.350.000 mét/năm truyền thống Làng dệt vải Phú Bông – Thi Lai Duy Trinh, Duy Xuyên 300 7.000.000 mét/năm kết hợp Làng nghề tơ lụa Đông Yên Duy Trinh, Duy Xuyên 48 50.000 mét/năm truyền thống Làng nghề tơ lụa Mã Châu Nam Phớc, Duy Xuyên 65 100.000 mét lụa/năm truyền thống Làng nghề dâu tằm Trung Phước Quế Trung, Quế Sơn 125 150 tấn kén/năm truyền thống Làng nghề ươm tơ Giao Thuỷ Đại Hoà, Đại Lộc 3 1 tấn kén/năm truyền thống Làng nghề ươm tơ Phú Mỹ Đại Nghĩa, Đại Lộc 3 1,5 tấn kén/năm truyền thống Làng nghề dệt thổ cẩm Đhơ- Rồng Tà Lu, Đông Giang 20 1.000 mét/năm truyền thống Làng nghề dệt thổ cẩm thôn Bà Dĩ ATing, Đông Giang 20 1.000 mét/năm truyền thống Làng nghề dệt thổ cẩm thôn Chờ Nết ATing, Đông Giang 20 1.000 mét/năm truyền thống Làng nghề dệt thổ cẩm Zara Tabhing, Nam Giang 35 2.000 mét/năm truyền thống Làng nghề dệt thổ cẩm thôn Ruung Bhalêê, Tây Giang 40 2.500 mét/năm truyền thống Làng nghề chế biến hải sản Duy Hải, Duy Xuyên 42 2.000.000 lít/năm truyền thống Làng nghề chế biến nước mắm Tam Thanh, Tam Kỳ 400 300.000 lít/năm truyền thống Làng nghề chế biến nước mắm Tam Tiến, Núi Thành 75 150.000 lít/năm truyền thống Làng nghề chế biến nước mắm Bình Minh, Thăng Bình 25 200 tấn cá/năm truyền thống Làng nghề chế biến nước mắm xã Bình Dương, Thăng Bình 120 500 tấn cá/năm Truyền thống Làng nghề chế biến nước mắm Điện Dương, Điện Bàn 100 650.000 lít/năm truyền thống Làng nghề bánh tráng Phú Triêm Điện Phương, Điện Bàn 240 400 tấn/năm truyên thống Làng nghề làm bánh đa Bình Nam Bình Nam, Thăng Bình 60 300 tấn/năm truyền thống Làng nghề làm bánh đa khu 3 ái Nghãi, Đại Lộc 30 30 tấn/năm truyền thống Làng nghề làm bún Phương Hoà Tân Thạnh, Tam Kỳ 300 2.000 tấn bún/năm kết hợp Làng nghề Chế biến Trà hương Tam Kỳ 13 1.200 tấn/năm Kết hợp Làng nghề hương Quán Hương Hà Lam, Thăng Bình 350 10.000 muôn /năm truyền thống Làng nghề làm hương thôn 1 Đại Hoà, Đại Lộc 60 3.000 muôn/năm truyền thống Nguồn: Sở Công nghiệp Quảng Nam. Phụ lục 2 Một số chỉ tiêu phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Quảng Nam qua các n ăm TT Chỉ tiêu ĐV 2001 2002 2003 2004 2005 I Tổng sản phẩm (GDP) (giá hiện hành) Triệuđồng 4.679.492 5.242.401 5.991.137 7.096.771 8.802.368 1 Nông-Lâm nghiệp – thuỷ sản Triệuđồng 1.876.475 2001.083 2.136.277 2.360.784 2.724.161 2 Công nghiệp - XDCB Triệuđồng 1.258.148 1.487.892 1.868.937 2.278.708 2.994.477 3 Dịch vụ - thương mại Triệuđồng 1.544.069 1.753.426 2.045.963 2.457.278 3.083.730 II CCKT các ngành % 100 100 100 100 100 1 Nông - Lâm nghiệp % 40.1 38.17 35.66 33.27 30.95 2 Công nghiệp - XDCB % 26.89 28.38 30.19 32.11 34.02 3 Dịch vụ - thương mại % 33.01 33.45 35.15 34.63 35.03 III Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên % 14.53 13.35 12.85 12.19 11.81 IV Dân số trung bình Người 1.412.300 1.425.225 1.438.818 1.452.947 1.465.922 Nguồn: Cục thống kê Quảng Nam, Niên giám thống kê 2001-2005 ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLVan_HienOK.doc
  • docbia.doc
  • docdanh mcu bang bieu.doc
Tài liệu liên quan