Tìm hiểu phương thức ẩn dụ trong Tiếng Việt (Thể hiện qua ca dao trữ tình, thơ tình Xuân Diệu và Thơ tình Hồ Xuân Hương)

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH PHẠM THỊ XUÂN RỚT Chuyên ngành : Ngôn ngữ học Mã số : 60 22 01 LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC PGS.TS. NGUYỄN THỊ HAI Thành phố Hồ Chí Minh – 2007 LỜI CẢM ƠN - Tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đối với Phó Giáo sư - Tiến sĩ Nguyễn Thị Hai, Người đã dành nhiều thời gian và công sức để hướng dẫn tôi hoàn thành luận văn. - Tôi xin cảm ơn quý Thầy Cô khoa Ngữ Văn trường Đại học sư

pdf225 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 2304 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Tìm hiểu phương thức ẩn dụ trong Tiếng Việt (Thể hiện qua ca dao trữ tình, thơ tình Xuân Diệu và Thơ tình Hồ Xuân Hương), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
phạm thành phố Hồ Chí Minh đã tận tình chỉ dẫn, giúp đỡ và cho chúng tôi những tri thức cần thiết trong quá trình học tập cũng như trong quá trình thực hiện luận văn. - Tôi xin cảm ơn Thầy Cô phòng Khoa học công nghệ và Sau đại học, và bạn bè đã quan tâm, giúp đỡ tôi thực hiện đề tài này. - Cuối cùng tôi xin cảm ơn trường THPT Tánh Linh, Hạt Kiểm lâm Tánh Linh và anh Hồ Thanh Tuyền đã động viên về tinh thần, giúp đỡ về vật chất để tôi hoàn thành luận văn. MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Trong cuộc sống hàng ngày, chúng ta thấy có những sự vật bản chất không phải là A nhưng lại được mang tên gọi của A do giữa A và chúng có một nét nào đó tương đồng nhau. Đặc điểm này của các sự vật đã kích thích vào khả năng liên tưởng, giúp chúng ta nhận thức về thế giới khách quan đa dạng một cách sinh động. Dựa vào thực tế cuộc sống, qua cảm nhận chủ quan và cảm nhận của thời đại, các tác giả đã đưa vào tác phẩm văn chương của mình những kết quả liên tưởng ấy. Nói cách khác, trên cơ sở kế thừa có chọn lọc và phát huy, các tác giả đã thực hiện những liên tưởng của mình sao cho thỏa mãn được nhu cầu giao tiếp của cộng đồng. Do đó, cách liên tưởng như vậy vừa có tính truyền thống, tính thời đại, vừa mang tính cá nhân chủ quan. Cách liên tưởng ấy chính là ẩn dụ - một phương thức chuyển nghĩa phổ biến. Việc hiểu và nắm vững phương thức chuyển nghĩa ẩn dụ góp phần làm giàu vốn ngôn ngữ, làm tiếng Việt thêm phong phú, đa dạng về ý nghĩa. Mặt khác, nếu biết sử dụng tốt phương thức này thì cách diễn đạt của ta chắc chắn sẽ súc tích, bóng bẩy, truyền cảm, đạt hiệu quả giao tiếp cao. Hơn thế nữa, người thực hiện luận án này là một giáo viên phổ thông, trực tiếp đứng lớp. Cho nên việc hiểu kỹ phương thức ẩn dụ lại càng cần thiết hơn, bởi nó còn giúp nâng cao khả năng cảm thụ văn chương, khả năng phân tích tác phẩm sâu sắc, gợi cảm. Nhờ vậy mới mong có được giờ giảng sinh động, có sức truyền cảm mạnh, thu hút được hứng thú của học sinh. Với tất cả những lý do nêu trên chúng tôi quyết định đi vào đề tài: Tìm hiểu phương thức ẩn dụ trong tiếng Việt (thể hiện qua Ca dao trữ tình, Thơ tình Xuân Diệu và thơ tình Xuân Quỳnh ). 2. Lịch sử vấn đề Việc tìm hiểu phương thức ẩn dụ từ lâu đã được các nhà Việt ngữ học quan tâm. Năm 1940, tác phẩm của Trần Trọng Kim, Bùi Kỷ, Phạm Duy Khiêm [50] giới thiệu một cách sơ lược về ẩn dụ trong văn chương. Trong các giáo trình về từ vựng học tiếng Việt (cụ thể: Nguyễn Văn Tu [121], Đỗ Hữu Châu [13], Nguyễn Thiện Giáp [33]) đều có đề mục viết về hiện tượng chuyển nghĩa nói chung, phương thức ẩn dụ nói riêng. Bên cạnh đó các tác giả viết về phong cách học như: Đinh Trọng Lạc [56]; Cù Đình Tú [122], Nguyễn Nguyên Trứ [120], Nguyễn Thái Hòa [43],… cho rằng ẩn dụ là một biện pháp tu từ chỉ dùng để trang trí, góp phần làm giàu hình tượng, cảm xúc cho tiếng Việt. Song ở mỗi tác giả, ở mỗi thời điểm lại có cách gọi và phân loại khác nhau. Đinh Trọng Lạc [56; tr.103-111] gọi ẩn dụ là một phương thức chuyển nghĩa, có khả năng gợi hình, gợi cảm. Về mặt ý nghĩa, tác giả phân ẩn dụ ra làm ba loại: từ cụ thể đến cụ thể, từ cụ thể đến trừu tượng và từ trừu tượng đến cụ thể. Cách phân loại này dựa vào tính cụ thể của đối tượng chọn làm ẩn dụ. Với cách phân chia này, mối quan hệ tương đồng giữa hai sự vật, hai hiện tượng không được thể hiện rõ nét và cũng không thấy được tính đa dạng, phong phú của ẩn dụ tu từ. Cù Đình Tú [122; tr. 279] xem ẩn dụ là cách cá nhân lâm thời lấy tên gọi biểu thị đối tượng này dùng để biểu thị đối tượng kia dựa trên cơ sở của mối liên tưởng về nét tương đồng giữa hai đối tượng. Dựa vào khả năng tương đồng giữa hai đối tượng, tác giả chia ẩn dụ tiếng Việt ra làm năm loại: tương đồng về màu sắc, tương đồng về tính chất, tương đồng về trạng thái, tương đồng về hành động và tương đồng về cơ cấu. Nhìn chung, cách phân loại này phù hợp với chức năng biểu cảm của ẩn dụ tu từ. Tuy nhiên, cách nhận định về ẩn dụ tu từ của Cù Đình Tú mang nhiều tính truyền thống, chưa làm rõ các phương tiện và biện pháp tu từ. Đinh Trọng Lạc, một lần nữa, khi nghiên cứu lại các giáo trình và tài liệu về phong cách học của mình trước đây, đồng thời tiếp thu những thành tựu mới của ngôn ngữ học hiện đại, đã khẳng định ẩn dụ là Sự định danh thứ hai mang ý nghĩa hình tượng, dựa trên sự tương đồng hay giống nhau giữa khách thể A được định danh với khách thể B có tên gọi được chuyển sang dùng cho A [57; tr.52]. Căn cứ vào từ loại và chức năng của từ ẩn dụ, tác giả chia ẩn dụ ra làm 3 loại: ẩn dụ định danh, ẩn dụ nhận thức và ẩn dụ hình tượng. Trong ba loại này, ẩn dụ định danh và ẩn dụ nhận thức thuộc ẩn dụ từ vựng, hiệu quả tu từ được tạo nên không lớn lắm; còn ẩn dụ hình tượng mang lại hiệu quả tu từ cao, nó tác động vào trực giác của người nhận và đem lại khả năng sáng tạo. Kể từ 1969 trên tạp chí ngôn ngữ, có nhiều bài viết về hiện tượng chuyển nghĩa ẩn dụ như: Nguyễn Văn Mệnh [73]; Nguyễn Thế Lịch [67], [68], … Nguyễn Thế Lịch, trong [68], cho rằng ẩn dụ là một hiện tượng chuyển nghĩa được hình thành từ cấu trúc so sánh hoàn chỉnh sau khi đã lượt bớt các yếu tố 3 (yếu tố thể hiện quan hệ so sánh) và yếu tố 1 (yếu tố bị/ được so sánh), chỉ còn lại hoặc là yếu tố 2 (phương diện so sánh) hoặc là yếu tố 4 (yếu tố so sánh) trong cấu trúc mà thôi. Ông còn cho rằng cùng một yếu tố chuẩn để so sánh có thể có ba dạng thức song song tồn tại: so sánh, tổ hợp ẩn dụ và ẩn dụ. Không phải ẩn dụ nào cũng tạo ra hiệu quả nghệ thuật cao hơn so sánh. Trong ngôn ngữ nghệ thuật, chính những so sánh và tổ hợp ẩn dụ tươi mới rất sinh động, gợi cảm, còn ẩn dụ tạo ra từ so sánh và tổ hợp ẩn dụ ấy lại chịu thiệt thòi là đã quen thuộc, không còn bất ngờ nữa. Thêm vào đó, trong Giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt về mặt từ ngữ (1981) có bài của Hoàng Lai [58], Nguyễn Ngọc Trâm [116]. Còn trong Những vấn đề ngôn ngữ học về các ngôn ngữ phương Đông (1986) có bài của Nguyễn Thế Lịch [66]. Trong Tiếng Việt và các ngôn ngữ Đông Nam Á (1888) có bài của Hà Quang Năng [79]. Theo các tác giả này, có nhiều cách tạo ra hiện tượng chuyển nghĩa trong tiếng Việt. Nguyễn Ngọc Trâm cho rằng sự biến đổi các nét nghĩa trong từ đa nghĩa chủ yếu là do hai hiện tượng đẳng cấu ngữ nghĩa và phi đẳng cấu ngữ nghĩa dẫn tới việc chuyển nghĩa. Còn Hoàng Văn Hành thì khẳng định hiện tượng chuyển nghĩa là hiện tượng tạo ra các đơn vị từ vựng phát sinh theo bốn phương thức chính: ghép, láy, phỏng và chuyển. Trong khi đó, tác giả Hoàng Lai lại nhận thấy quá trình chuyển nghĩa xảy ra nhờ vào mối quan hệ liên tưởng về ngữ nghĩa giữa hai thành tố vốn xa lạ với nhau. Sở dĩ ta liên tưởng được là nhờ một nghĩa vị chung nào đó vốn có trong bản chất của hai thành tố hoặc được gán ghép vào từ ngoài trong một tình huống nhất định. Ở một góc nhìn khác, ít nhiều liên quan đến hiện tượng chuyển nghĩa của từ, có một loạt bài [111], [112], [113] và công trình [114] của Nguyễn Đức Tồn. Trong đó, công trình Tìm hiểu đặc trưng văn hóa - dân tộc của ngôn ngữ và tư duy của người Việt (trong sự so sánh với những dân tộc khác) [114] đã đi sâu nghiên cứu vấn đề chuyển nghĩa theo hướng lý thuyết tâm lý - ngôn ngữ học tộc người. Khi so sánh với cách liên tưởng của người Nga, người Anh… đồng thời thông qua việc tìm hiểu đặc điểm dân tộc của việc định danh động vật, định danh thực vật, định danh bộ phận cơ thể người của người Việt, thông qua những nội dung về đặc điểm ngữ nghĩa của trường tên gọi động vật, trường tên gọi thực vật, ngữ nghĩa của các từ chỉ bộ phận cơ thể người, ông đã chỉ ra đặc điểm tư duy liên tưởng của người Việt. Trong những năm gần đây, trên thế giới lý thuyết ngôn ngữ học tri nhận phát triển mạnh; đi theo hướng nghiên cứu này, ở Việt Nam gần đây cũng có không ít bài báo và công trình. Những khảo cứu theo hướng đi này đã gợi mở ít nhiều cho việc nghiên cứu vấn đề liên tưởng, chuyển nghĩa. Năm 1994, Lý Toàn Thắng trong [99] đã cho ta một cái nhìn khái quát phương hướng nghiên cứu phạm trù không gian trong tiếng Việt như: định hướng không gian, bản đồ tri nhận không gian. Qua đó, mô hình không gian và cách tri nhận không gian của người Việt Nam được trình bày rõ ràng. Năm 1998, Nguyễn Ngọc Thanh [98] khẳng định rằng ẩn dụ là một cơ chế tri nhận đi từ cụ thể đến trừu tượng. Cơ chế tri nhận này giúp ta hiểu thêm được khái niệm trừu tượng thời gian bằng các hình ảnh cụ thể trong thế giới khách quan. Năm 2001, cũng Lý Toàn Thắng [100] nêu lên cái cách thức mà người Việt dùng các loại từ để mô tả các thuộc tính không gian của vật thể và từ đó xếp loại chúng. Căn cứ vào đó ta có thể suy đoán về một cách thức riêng của tiếng Việt trong việc ý niệm hóa phân loại và mô tả thế giới khách quan. Đây là một vấn đề đang thu hút sự chú ý của trào lưu ngôn ngữ học tri nhận trên thế giới. Chắc rằng vấn đề này cũng liên quan không ít đến vấn đề chuyển nghĩa nói chung, vấn đề liên tưởng ẩn dụ nói riêng. Nhìn chung, vấn đề ẩn dụ được nghiên cứu không ít, nhưng chưa có công trình nào khảo sát nó trong các tác phẩm văn học, xét trên trục thời gian, để phát hiện những đặc điểm kế thừa, những đặc điểm sáng tạo của từng tác giả. 3. Phạm vi vấn đề nghiên cứu và mục đích của luận văn 3.1. Hiện tượng chuyển nghĩa của từ nói chung cũng như phương thức ẩn dụ nói riêng biểu hiện vô cùng sinh động, không dễ gì nắm bắt hết được. Thêm vào đó, luận văn lại được định hướng là xem xét phương thức liên tưởng này trong sự phát triển của việc sử dụng ngôn từ, cho nên vấn đề lại càng rộng. Để có thể thực hiện được mục đích của mình trong khuôn khổ luận văn thạc sĩ (cả về số lượng trang, cả về thời lượng), trong những điều kiện hạn hẹp của bản thân học viên (kiến thức về ngôn ngữ học, nhất là ngôn ngữ học hiện đại chưa rộng, chưa sâu), người viết luận văn xin được hạn chế vấn đề trong khuôn khổ sau đây: - Xem xét ẩn dụ tu từ (còn gọi là ẩn dụ phong cách; hay ẩn dụ hình tượng, như cách gọi của Đinh Trọng Lạc [57] ); - Khảo sát vấn đề trong ca dao trữ tình và thơ trữ tình; - Chỉ khảo sát trong 3 tác phẩm cụ thể (sẽ được nêu ở phần nguồn tư liệu nghiên cứu ở mục 0.4.2.). 3.2. Mục đích chính của luận văn là tìm hiểu hiện tượng chuyển nghĩa, mà cụ thể là phương thức ẩn dụ. Cho nên người thực hiện luận văn không đi vào những vấn đề có tính chất tranh luận như khái niệm từ trong tiếng Việt, vấn đề phân loại cấu tạo từ của tiếng Việt. Để thực hiện được mục đích chính của mình, người viết chỉ xin chọn một giải pháp nào tương đối dễ nhận diện từ đối với mọi người, nhất là đối với học sinh phổ thông. 4. Nhiệm vụ của luận văn Người viết luận văn có nhiệm vụ phải trả lời các câu hỏi sau đây: 1./ Những từ ngữ nào trong ba tác phẩm nêu trên đã tham gia vào việc thực hiện phương thức liên tưởng ẩn dụ? 2./ Những hình ảnh nào được các tác giả (dân gian, Xuân Diệu, Xuân Quỳnh) lấy làm cơ sở để thực hiện phương thức liên tưởng ẩn dụ? 3./ Các tác giả Xuân Diệu và Xuân Quỳnh có kế thừa phương thức ẩn dụ của ca dao hay không? Họ tiếp thu nguyên mẫu hay vừa tiếp thu vừa sáng tạo? 4./ Xuân Quỳnh có kế thừa liên tưởng ẩn dụ của Xuân Diệu hay không? 5./ Những ẩn dụ nào là hoàn toàn của riêng Xuân Diệu, của riêng Xuân Quỳnh? 5. Nguồn tư liệu nghiên cứu và phương pháp nghiên cứu 5.1. Nguồn tư liệu nghiên cứu Nguồn tư liệu được chọn để khảo sát phương thức ẩn dụ tu từ trong tiếng Việt là 3 tác phẩm cụ thể sau đây: - Ca dao trữ tình chọn lọc (1998) - Nxb Giáo dục (Vũ Thúy Anh, Vũ Quang Hào sưu tầm và tuyển chọn). - Thơ tình Xuân Diệu (1983) - Nxb Đồng Nai (Kiều Văn tuyển chọn và giới thiệu). - Xuân Quỳnh thơ tình - Nxb Văn học Chúng tôi chọn mảng đề tài trữ tình, vì nghĩ rằng trong phạm vi này phương thức ẩn dụ tu từ có khả năng xuất hiện nhiều. Còn ca dao được chọn làm xuất phát điểm vì tính chất cổ xưa của nó, và còn vì đó là nơi đúc kết các biến tấu của ngôn từ dân gian. Nếu xuất phát điểm là ca dao, chúng tôi tin rằng có thể tìm thấy những điểm kế thừa cũng như sáng tạo của những thế hệ nối tiếp. Xuân Diệu rồi Xuân Quỳnh là hai trong những người nối tiếp trên trục thời gian. Tuy giữa họ về tính thời đại không hoàn toàn trùng khít nhau, về giới tính khác nhau, những rung động trong tâm hồn không như nhau, nhưng, trước hết, họ đều là những tác giả của nhiều bài thơ tình nổi tiếng, và về mặt sử dụng ngôn từ cũng như sử dụng hình ảnh có chỗ nào đó gần nhau giữa họ. 5.2. Phương pháp nghiên cứu 5.2.1. Người thực hiện luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học nói chung, mang tính phương pháp luận, như: quan sát, thống kê, phân loại, miêu tả, so sánh. Trong đó phương pháp thống kê được tiến hành cẩn thận, có cân nhắc qua 3 tác phẩm thuộc nguồn tư liệu nghiên cứu. Phương pháp so sánh cũng được vận dụng để thực hiện các bước so sánh sau: 1/- so sánh Ca dao trữ tình và Thơ tình Xuân Diệu; so sánh Ca dao trữ tình và Xuân Quỳnh thơ tình; so sánh Thơ tình Xuân Diệu và Xuân Quỳnh thơ tình; 2/- so sánh Ca dao trữ tình - Thơ tình Xuân Diệu - Xuân Quỳnh thơ tình. 5.2.2. Người thực hiện luận văn còn vận dụng phương pháp phân tích ngữ nghĩa của từ, xem xét từ ngữ trong văn cảnh, ngữ cảnh; nhưng không nhằm trình bày cấu trúc ngữ nghĩa của từ. Các thao tác phân tích ngữ nghĩa của từ và việc phát hiện cấu trúc ngữ nghĩa của từ chỉ được thực hiện trong giai đoạn chuẩn bị của người viết. Tuy là vậy nhưng việc làm này vô cùng quan trọng đối với người viết, vì kết quả mà nó đưa lại tạo cơ sở cho người viết phát hiện các đường dây liên tưởng thuộc ẩn dụ. Những phát hiện cuối cùng này mới phục vụ cho mục đích của luận văn. Do đó, có thể nói, việc vận dụng phương pháp phân tích ngữ nghĩa của từ nhằm phát hiện các liên tưởng ẩn dụ; luận văn chỉ trình bày các liên tưởng ẩn dụ. 5.2.3. Phương pháp trắc nghiệm khách quan Để kiểm tra lại những phát hiện về các liên tưởng ẩn dụ có trong ba tác phẩm nêu trên, người viết đã thực hiện phương pháp trắc nghiệm. Đối tượng được trắc nghiệm là học sinh phổ thông trung học tại địa bàn người thực hiện luận văn đang giảng dạy. Đây là đối tượng thích hợp vì các em có một trình độ kiến thức văn học tương đối; đối với các tác phẩm nêu trên, các em đã và đang học; ngoài ra, tuổi đời của các em đủ để hiểu những khuất chiết trong tâm hồn của con người. 6. Ý nghĩa của đề tài và những đóng góp của luận văn 6.1. Về lý thuyết, việc nghiên cứu đề tài này giúp các nhà nghiên cứu ngôn ngữ cũng như văn học hiểu rõ hơn cơ chế liên tưởng ẩn dụ trong ca dao cũng như trong thơ của Xuân Diệu và Xuân Quỳnh. Những kết quả của luận văn có thể góp phần nào đó vào việc phát hiện và xây dựng phong cách ngôn ngữ của hai tác giả thơ nêu trên; tạo tiền đề cho việc xây dựng từ điển tác giả văn học. 6.2. Về thực tiễn, nếu luận văn được thực hiện tốt, những kết quả của nó có thể vận dụng vào giảng dạy ngữ văn ở các cấp học. Đối với giáo viên, nó sẽ là tài liệu tham khảo tốt. Đối với người học, nó sẽ giúp họ hiểu rõ hơn cơ chế liên tưởng ẩn dụ trong ba tác phẩm đã nêu, giúp họ cảm nhận tốt ý đồ nghệ thuật của các tác giả. 7. Bố cục luận văn Ngoài phần dẫn nhập, kết luận, giải thích, phụ lục và tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3 chương Chương 1: Những vấn đề lý thuyết liên quan đến đề tài Chương 2: Khảo sát phương thức liên tưởng ẩn dụ trong Ca dao trữ tình, Thơ tình Xuân Diệu và Xuân Quỳnh thơ tình Chương 3: So sánh cơ chế liên tưởng ẩn dụ từ Ca dao trữ tình đến Thơ tình Xuân Diệu và Xuân Quỳnh thơ tình Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ THUYẾT LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI 1.1. Khái niệm từ trong tiếng Việt Để có thể thuận tiện hơn cho công việc khảo sát từ ngữ tham gia vào việc thực hiện các liên tưởng ẩn dụ trong ba tác phẩm đã nêu, chúng tôi chấp nhận quan niệm về từ của Nguyễn Thiện Giáp [32, tr.69]. Theo quan niệm này, từ tiếng Việt có vỏ ngữ âm là một âm tiết, trên chữ viết được thể hiện bằng một khối viết liền (Cũng có nghĩa là mỗi từ được cấu tạo bởi một tiếng). Nếu xét ở góc độ phân biệt những hiện tượng trung tâm (vốn từ vựng cơ bản) và những hiện tượng ngoại biên (từ vay mượn, nhất là bằng cách phiên âm; trường hợp: bù nhìn, bồ hóng,…, với số lượng rất ít ỏi; kể cả trường hợp thường gọi là “từ láy”), có lẽ, quan niệm này phản ánh được diện mạo vốn từ vựng cơ bản của tiếng Việt. So với những ngôn ngữ như Pháp, Nga… thì số lượng từ có vỏ ngữ âm là một âm tiết trong tiếng Việt rất lớn. Lại nữa, nếu chấp nhận trong tiếng Việt có từ ghép như các ngôn ngữ đã nêu, thì rất nhiều trường hợp ranh giới giữa từ ghép và các tổ hợp từ không rõ ràng (như các trường hợp: hoa hồng, áo dài, nhà trẻ…). Thêm vào đó, trong các ngôn ngữ, hiện tượng chuyển nghĩa của từ thường xảy ra ở những đơn vị có kích cỡ ngắn nhất. Bởi những lý do ấy mà chúng tôi tạm chấp nhận giải pháp của Nguyễn Thiện Giáp để tiện cho việc triển khai đề tài. 1.2. Những vấn đề về ngữ dụng học Để thực hiện đề tài này, chúng tôi không thể không đụng chạm đến một số vấn đề thuộc lý thuyết ngữ dụng như: nhân tố giao tiếp, chiếu vật và chỉ xuất, ý nghĩa hàm ẩn và ý nghĩa tường minh (hiển ngôn). Về những vấn đề này chúng tôi xin lĩnh hội cách trình bày của giáo sư Đỗ Hữu Châu [14; tr.4-19], [15; tr.96-156], [11; tr.359- 414]. 1.2.1. Nhân tố giao tiếp: Nhân tố giao tiếp bằng ngôn ngữ gồm ngữ cảnh, ngôn ngữ và diễn ngôn. Ngữ cảnh bao gồm đối ngôn, hoàn cảnh giao tiếp, thoại trường, ngữ huống. Đối ngôn còn gọi là người tham gia giao tiếp. Họ phải ở trong trạng thái tinh thần lành mạnh và có sự phân vai giao tiếp trong một cuộc thoại. Vì rằng giao tiếp là tương tác cho nên vai giao tiếp còn gọi là vai tương tác (bao gồm vai nói, vai nghe; còn gọi là vai phát, vai nhận). Khi giao tiếp mặt đối mặt giữa các đối ngôn thì có sự luân phiên vai tương tác, ví dụ cuộc giao tiếp trong bài ca dao1 sau: - Bây giờ mận mới hỏi đào, Vườn hồng có lối, ai vào hay chưa? - Mận hỏi thì đào xin thưa, Vườn hồng có lối nhưng chưa ai vào. (54) Song cũng có những cuộc giao tiếp chỉ có một đối ngôn phát, còn đối ngôn kia nhận là chủ yếu, chẳng hạn bài ca dao sau đây: Em còn bé dại thơ ngây, Mẹ cha ép uổng từ ngày thiếu niên. Cho nên duyên chẳng vừa duyên, Có thương thì vớt em lên hỡi chàng. (187) Giao tiếp ít nhất phải có hai đối ngôn. Nhưng trên thực tế, trong nhiều trường hợp giao tiếp, vai nói vẫn là một, còn vai nghe lớn hơn hai, thậm chí hàng nghìn, hàng vạn. Trong số đó, theo chúng tôi, các tác phẩm văn học, nhất là các tác phẩm thơ thuộc loại giao tiếp này. Quan hệ tương tác là quan hệ giữa các đối ngôn nảy sinh trong cuộc giao tiếp. Ngoài nó, còn có quan hệ liên cá nhân, là quan hệ từ bên ngoài áp đặt lên quan hệ tương tác. Đó là những quan hệ xã hội. Khi tham gia vào giao tiếp, những quan hệ xã hội này (như tuổi tác, quyền lực, thân tình, xa lạ,…) chi phối cả nội dung, cả hình thức của cuộc giao tiếp và chuyển thành quan hệ liên cá nhân trong giao tiếp. Quan hệ tương tác còn một biểu hiện nữa là quan hệ vị thế giao tiếp. Nó có tác động khởi phát, duy trì, chuyển hướng đề tài, phân phát lượt nói… của các đối ngôn trong giao tiếp. Cho nên nói tới đối ngôn còn là nói tới ý định, niềm tin, kế hoạch và các hành động thực thi kế hoạch giao tiếp. Hoàn cảnh giao tiếp “bao gồm tổng thể các nhân tố chính trị, địa lí, kinh tế, văn hóa, lịch sử với các tư tưởng, các chuẩn mực về đạo đức, ứng xử, với các thiết chế công trình, các tổ chức… tương ứng, tạo nên cái gọi là môi trường xã hội – văn hóa - địa lí cho các cuộc giao tiếp” [15; tr. 110-111]. Thoại trường hay hiện trường giao tiếp là không gian, thời gian của cuộc giao tiếp. “Khái niệm không gian ở đây chỉ nơi chốn cụ thể với những điều kiện, những trần thiết, các đồ vật, các nhân vật tiêu biểu cho một kiểu loại không gian đòi hỏi phải có một cách ứng xử bằng lời tương thích” [15; tr. 111]. Khái niệm thời gian ở đây cũng cụ thể. “Thời gian thoại trường của một không gian thoại trường đòi hỏi phải có những cách thức nói năng tương thích” [15; tr. 111]. Nói tới hoàn cảnh giao tiếp còn là nói tới hiện thực đề tài, nói tới “thế giới khả hữu” được chọn làm hệ quy chiếu cho hiện thực - đề tài của diễn ngôn. “Sự thể hiện tổng hòa các nhân tố của ngữ cảnh hình thành nên các ngữ huống liên tiếp kế tiếp nhau trong một cuộc giao tiếp” [15; tr. 154]. Ngữ huống là “những thể hiện cụ thể của hoàn cảnh giao tiếp, của thoại trường, của các đối ngôn cũng như những thể hiện cụ thể của chính các nhân tố tạo nên cuộc giao tiếp ở một thời điểm cụ thể của cuộc giao tiếp đó” [15; tr. 121]. Ngôn ngữ là công cụ giao tiếp ưu việt nhất, có đường kênh cơ bản là thính giác. Nó bao gồm hai đường kênh nói và viết, bao gồm các biến thể ngôn ngữ mà các đối ngôn lựa chọn để giao tiếp. Trong các biến thể của ngôn ngữ, phải hết sức lưu ý đến ngữ vực2 và đến loại thể mà theo đó hình thành các diễn ngôn phù hợp. Ngôn ngữ là phương tiện của diễn ngôn nhưng nằm ngoài diễn ngôn. Nằm ngoài diễn ngôn không chỉ có ngữ cảnh (đối ngôn, hiện thực ngoài diễn ngôn…), ngôn ngữ và các biến thể được sử dụng, mà còn có ngôn cảnh. Ngôn cảnh là những diễn ngôn trước và sau diễn ngôn đang xét [15; tr. 129]. Ngôn cảnh được chia thành tiền ngôn cảnh và hậu ngôn cảnh. Trong thực tế giao tiếp, cùng một nội dung có thể được thể hiện bằng dạng nói và dạng viết. Cho nên cần phân biệt diễn ngôn nói và diễn ngôn viết. Diễn ngôn ở dạng thức viết được gọi là văn bản (text)3. Ngôn cảnh của diễn ngôn nói và văn bản có những điểm khác nhau. Diễn ngôn nói chủ yếu xuất hiện trong hội thoại, gồm rất nhiều nhân tố, ngoài những yếu tố thuần túy ngôn ngữ học còn có những yếu tố như: hành vi ngôn ngữ, các đơn vị hội thoại, các yếu tố kèm lời và phi lời (điệu bộ, cử chỉ, nét mặt, trọng âm, ngữ điệu,…); đồng thời nó chỉ có tiền ngôn cảnh. Ngôn cảnh của văn bản được gọi là văn cảnh. Trong văn bản, câu bao giờ cũng xuất hiện với tiền văn và hậu văn. Trở lại câu ca dao - Bây giờ mận mới hỏi đào,... - Mận hỏi thì đào xin thưa,…Yếu tố cần xem xét ở đây là mận, đào. Tiền văn của mận là bây giờ, hậu văn là hỏi đào. Còn tiền văn của đào là mận hỏi, hậu văn là xin thưa. Nhờ việc xác định này mà ta hiểu được rằng hiện thực - đề tài của văn bản này không phải là nói về hai sự vật mận và đào, mà nói về chuyện tìm hiểu của đôi trai gái thuộc đề tài tình yêu. Văn cảnh, nói chung, có tính chất tĩnh, chứ không có tính chất động như ngôn cảnh của diễn ngôn nói. Thuộc văn cảnh còn có các văn bản viết về cùng một hiện thực - đề tài, nói rộng ra là tất cả các văn bản thuộc cùng một thể loại ở một thời điểm nhất định của lịch sử. Do đó “liên văn bản là một đặc tính của văn cảnh của văn bản” [15; tr.131]. Diễn ngôn là gì? Trước khi đi vào khái niệm diễn ngôn, chúng ta sơ lược nói về câu và phát ngôn. Câu là một tổ chức tuyến tính các đơn vị từ vựng theo những quy tắc kết học. Có câu trừu tượng, thuộc hệ thống. Câu hệ thống được hiện thực hóa bằng những câu cụ thể, có nghĩa là câu được làm đầy bởi các đơn vị từ vựng. Phát ngôn là những câu cụ thể được dùng trong những ngữ cảnh cụ thể, trong những cuộc giao tiếp cụ thể. Nó là biến thể của câu. Một câu tồn tại trong vô số phát ngôn xuất hiện trong những ngữ cảnh khác nhau. Trên thực tế sử dụng ngôn ngữ, chúng ta chỉ gặp các phát ngôn [15; tr.136-137]. Diễn ngôn là bộ phận hợp thành sự kiện lời nói và tổ hợp các sự kiện lời nói4 hình thành một cuộc giao tiếp. Các chức năng giao tiếp được thực hiện bằng các diễn ngôn và cụ thể hóa thành các thành phần diễn ngôn. Diễn ngôn có hình thức và nội dung riêng, xuất hiện giữa tiền ngôn cảnh và hậu ngôn cảnh (đối với diễn ngôn viết). Hình thức của nó được tạo bằng các yếu tố ngôn ngữ (các đơn vị từ vựng, các quy tắc cú pháp…), các hành vi ngôn ngữ để chuyển các câu thành các phát ngôn và những yếu tố kèm lời và phi lời (động tác, cử chỉ…) được dùng khi nói ra phát ngôn, nói ra diễn ngôn. Nội dung của diễn ngôn có hai thành phần: thông tin và liên cá nhân5. Hai thành phần này thống nhất với nhau, thể hiện các đích khác nhau. Các đích này là sự cụ thể hóa các chức năng giao tiếp thuộc diễn ngôn, cũng chính là sự cụ thể hóa ý định của người tham gia đặt ra trong giao tiếp. Hiểu đúng, giải thuyết đúng một diễn ngôn không có nghĩa là chỉ hiểu và giải thuyết đúng nội dung thông tin, nội dung miêu tả, mà nhất thiết còn phải hiểu, và giải thuyết đúng nội dung liên cá nhân của diễn ngôn [15; tr.136-155]. Toàn bộ các nhân tố giao tiếp nêu trên, đặc biệt là ngữ cảnh, phải trở thành hiểu biết chung của những người tham gia giao tiếp. Trong bất kỳ cuộc giao tiếp nào, các nhân vật tham gia giao tiếp cũng “chỉ huy động bộ phận hiểu biết” cần yếu hữu quan “với hiện thực- đề tài của diễn ngôn”, bộ phận hiểu biết quan yếu này sẽ trở thành kiến thức nền đối với một diễn ngôn hay một sự kiện lời nói nào đó có tính bộ phận của cuộc giao tiếp. Chẳng hạn để hiểu thuyền và bến trong câu ca dao sau đây được quy chiếu về sự vật nào trong hiện thực - đề tài của diễn ngôn: Thuyền đi để bến đợi chờ Tình đi nghĩa ở bao giờ quên nhau. (428) người tiếp nhận phải có kiến thức nền là: 1/ câu ca dao này thuộc loại cổ, ra đời từ xa xưa; 2/ thời ấy, nói chung, có thể thuộc xã hội phong kiến; 3/ quan niệm sống của thời ấy là nam nhi chí tại bốn phương, còn nữ nhi thì tề gia nội trợ. Nhờ vào hậu văn của thuyền là đi, và nhất là hậu văn của bến là đợi chờ, ta biết thuyền và bến ở đây được dùng để chỉ người. Thêm vào đó ta còn hiểu biết đặc điểm của thuyền là có khả năng di động, và thường được di chuyển từ nơi này đến nơi khác, lênh đênh trên sóng nước, khắp bốn phương trời. Còn bến là vật ở yên một chỗ, dù có bị dời địa điểm thì sự vật bến cũng có tính chất bất di bất dịch. Đây cũng là những kiến thức nền. Dựa vào nó, ta thiết lập được mối liên tưởng giữa hình ảnh thuyền với người con trai, còn hình ảnh bến được liên tưởng với người con gái. Trên cơ sở tạo lập được những hiểu biết chung với tác giả dân gian, chúng ta nắm bắt được thông điệp mà họ đã gửi gắm vào câu ca dao này. Nên nhớ rằng có những kiến thức nền mang tính trường tồn, có những kiến thức mang tính thời đoạn; có những hiểu biết mang tính dân tộc, có những hiểu biết thuộc về một cộng đồng người ở khu vực hẹp nào đó. Người tiếp nhận diễn ngôn hay văn bản, phải biết rõ điều đó. Vì vậy, để có thể hiểu tốt một diễn ngôn hay văn bản, nhất là văn bản văn học, người tiếp nhận phải có vốn sống, vốn hiểu biết sâu rộng, nhờ vào việc học tập trong sách vở và trong đời sống nói chung. 1.2.2. Chiếu vật và chỉ xuất Việc nghiên cứu phương thức ẩn dụ cũng có liên quan đến các khái niệm chiếu vật và chỉ xuất. 1.2.2.1. Khái niệm chiếu vật. Như trên đã nói, một câu khi được làm đầy bởi các từ ngữ đã gắn với ngữ cảnh thì nó sẽ trở thành phát ngôn. Quan hệ giữa phát ngôn (diễn ngôn) với các bộ phận tạo nên ngữ cảnh của nó được gọi là sự chiếu vật (reference, référence, cũng được gọi là sự sở chỉ) [15; tr.186]. Nhờ chiếu vật mà ngôn ngữ gắn với ngữ cảnh, từ đó ta có cơ sở đầu tiên để xác định nghĩa của đơn vị ngôn ngữ đang thực hiện chức năng giao tiếp. Trong một phát ngôn thường có một hay một số biểu thức chiếu vật. Mỗi biểu thức chiếu vật được dùng để chỉ một yếu tố nào đó nằm trong bộ ba: đối ngôn, hoàn cảnh giao tiếp và thoại trường hợp thành ngữ cảnh của phát ngôn đó được nói tới trong phát ngôn đó…Các biểu thức chiếu vật là những cái neo mà phát ngôn thả vào ngữ cảnh để móc nối nó với ngữ cảnh [15;tr.187]. Một biểu thức chiếu vật có thể có một nghĩa chiếu vật, chẳng hạn những tên riêng… Song tuyệt đại đa số các biểu thức chiếu vật như: tôi, chúng ta, cái nhà này… tùy theo ngữ cảnh mà sự vật được quy chiếu sẽ thay đổi. Trường hợp này được gọi là chiếu vật linh hoạt hay không duy nhất. Song chiếu vật không phải là việc tự thân của ngôn ngữ. Con người làm cái việc ấy. George Yule khẳng định rằng Quy chiếu (reference) là hành động người nói / viết dùng các hình thái ngôn ngữ giúp người nghe / đọc xác định (identify) được một sự vật nào đó [126; tr.9]. Vậy có thể hiểu chiếu vật như là hành vi ngôn ngữ. Người nói là người thực hiện hành vi chiếu vật. Song người nghe cũng không hoàn toàn thụ động, vô can. Rõ ràng rằng người nói phải thực hiện hành vi chiếu vật là vì lợi ích của người nghe, người đọc, chứ không vì người nói. Vì khi nói ra một lời nào đó, người nói đã biết rõ vật mà mình muốn người nghe quy chiếu; họ đã biết rõ mình muốn nói gì. Có nghĩa là hành vi chiếu vật, giống như những hành vi nói năng khác, cũng nằm trong ý định của người nói và người nói cũng có niềm tin đối với người nghe. Người nghe chính là chỗ dựa để người nói xây dựng nên những niềm tin về khả năng nhận biết được sự vật được quy chiếu qua biểu thức chiếu vật người nói sử dụng. Tổng những niềm tin về khả năng nhận biết sự vật được quy chiếu là một bộ phận trong những bộ phận tạo nên hình ảnh tinh thần - người nghe mà người nói tạo ra trong giao tiếp [15; tr. 105]. Có một điều cần lưu ý rằng không phải bao giờ người nghe, người đọc cũng nhận biết ngay được vật quy chiếu thông qua biểu thức quy chiếu. Việc nhận biết ngay chiếu vật chỉ có thể xảy ra khi giao tiếp trực diện nhờ vào biểu thức chiếu vật cùng với những yếu tố đi kèm ngôn ngữ và yếu tố phi ngôn ngữ. Nếu không có những điều kiện này thì người nghe, người tiếp nhận phải suy ý từ biểu thức chiếu vật để nhận biết sự vật được quy chiếu chính xác là sự vật nào. Song người nói nêu ra sự vật được quy chiếu không chỉ để cho đối ngôn của mình nhận biết mình đang nói đến sự vật nào mà là còn để nói cái gì đó về nó, cũng là để báo cho đối ngôn của mình biết rằng mình sẽ nói cái gì về nó. Điều đó có nghĩa là lập cho sự vật được quy chiếu một vị ngữ, đưa ra một “thuyết” nào đó về nó. Hành vi chiếu vật và hành vi lập vị ngữ bao giờ cũng đi đôi với nhau trong việc tạo nên lõi mệnh đề của các phát ngôn. Như vậy thao tác suy ý ở người nghe bao gồm suy ý để nhận biết ý đ._.ịnh chiếu vật, mục đích chiếu vật và sự vật được quy chiếu của người nói qua biểu thức chiếu vật [15; tr.197]. Đóng vai trò nghĩa chiếu vật ngoài sự vật, còn có cả đặc tính, quan hệ, sự kiện, hoạt động. Đặc tính, quan hệ, sự kiện được chiếu vật khi người nói có ý định cho người nghe (người đọc) biết đặc tính, quan hệ, sự kiện nào đang được nói tới. Tất nhiên sự vật thường được chiếu vật hơn cả. Bởi vì chúng là nơi xuất phát các hoạt động, quá trình, cũng là nơi quy tụ các đặc điểm, tính chất, trạng thái; và còn vì không chiếu vật chúng thì sẽ không có căn cứ để lập vị ngữ. Đến đây sẽ có một câu hỏi đặt ra là khi nào thì sự vật, đặc tính, quan hệ, sự kiện đóng vai trò cái được chiếu vật, khi nào thì được dùng không ở chức năng chiếu vật (cũng còn được gọi là những trường hợp được dùng trong chức năng thuộc ngữ (attributive) [15; tr201]. Điều này có thể được phân biệt như sau: Sự vật (đặc điểm, quá trình, sự kiện) khi được dùng trong chức năng chiếu vật, chúng được quan niệm như những thực thể tự mình, có ranh giới và có những thuộc tính đặc thù. Sự vật khi được dùng trong chức năng thuộc ngữ thì cũng là được dùng theo lối hoán dụ. Lúc này sự tồn tại của chúng như những thực thể không còn quan yếu nữa, chúng được nêu ra chỉ đại diện cho những thuộc tính cần được nêu ra trong giao tiếp mà thôi. Trong chức năng chiếu vật, sự vật chính là sự vật. Trong chức năng thuộc ngữ, sự vật trở thành tín hiệu cho những thuộc tính quan yếu đối với một phát ngôn nào đó [15; tr.206]. Vậy hành vi chiếu vật được thực hiện trong điều kiện nào? Điều kiện tiên quyết để thực hiện hành vi chiếu vật là xác lập thế giới khả hữu - hệ quy chiếu. Sự vật phải tồn tại trong thế giới khả hữu mà người nói đã chọn làm hệ quy chiếu cho diễn ngôn của mình [15; tr. 206-212]. Muốn trở thành hệ quy chiếu thì thế giới khả hữu trong đó định vị sự vật được nói tới phải là thế giới đã biết đối với các đối ngôn, nhất là đối với đối ngôn nghe. Điều này có nghĩa là thế giới ấy đã được nhận thức, được chấp nhận làm cơ sở cho những điều đã nói tới trong diễn ngôn. Như vậy, để thực hiện sự chiếu vật và để nhận biết hiệu quả của sự chiếu vật, người nói và người nghe phải dựa vào những điều kiện nhất định, phải hành động chiếu vật và hành động của họ bị chi phối bởi những quy tắc nhất định nào đó. Những điều kiện và những quy tắc đó thuộc ngữ cảnh và thuộc ngữ năng giao tiếp (tức năng lực sử dụng ngôn ngữ để thực hiện hoạt động giao tiếp) của người nói và người nghe. 1.2.2.2. Các phương thức chiếu vật Phương thức chiếu vật là tổ chức các kiểu biểu thức chiếu vật nhờ chúng mà người nói thực hiện sự chiếu vật và người nghe suy ra nghĩa chiếu vật [15; tr.213]. Các sách ngữ dụng học thường giới thiệu ba phương thức chiếu vật sau đây: tên riêng; biểu thức miêu tả; chỉ xuất. Tên riêng là tên đặt cho từng cá thể sự vật. Tên chung là tên của cả một loại sự vật và cho tất cả các cá thể sự vật kể cả tính chất, trạng thái, vận động trong cùng một loại. Bất cứ cá thể nào trong loại cũng được gọi bằng một tên chung (danh từ chung). Các loại danh từ chung đảm nhiệm vai trò tạo ra các biểu thức miêu tả khác nhau, ít nhiều có liên quan đến sự chiếu vật cá thể, sự chiếu vật một số và chiếu vật loại. Biểu thức cơ bản trong các biểu thức miêu tả là biểu thức xác định. Biểu thức này chủ yếu là các cụm danh từ. Ở tiếng Việt, sau danh từ chung chỉ dẫn chiếu vật của một biểu thức chiếu vật xác định thường có những yếu tố miêu tả khác nhằm “tách sự vật ra khỏi các sự vật đồng loại khác” trong thế giới khả hữu được chỉ dẫn bởi danh từ chung. Việc đưa yếu tố miêu tả nào vào biểu thức miêu tả không chỉ tùy thuộc vào ý định miêu tả của người nói, mà còn tùy thuộc vào khả năng dự đoán của người nói, vào hiểu biết của đối ngôn đã có về sự vật, vào mức độ, phương diện của sự vật, dự đoán là đối ngôn quan tâm, và còn tùy thuộc vào mục đích, chiến lược giao tiếp mà người nói theo đuổi. Một sự vật - nghĩa chiếu vật được xem là xác định (và biểu thức tương ứng với nó là biểu thức xác định) khi nó đã được định vị trong thế giới khả hữu - hệ quy chiếu và nó có tính duy nhất trong thế giới hệ quy chiếu đó. Tính duy nhất của sự vật xác định không đồng nhất với tính cá thể. Có khi một cá thể là duy nhất, cũng có khi một tập hợp cá thể là duy nhất. Tính đã biết và tính duy nhất của ý nghĩa xác định có quan hệ chặt chẽ với nhau. Cho nên tính duy nhất của sự vật phải được hiểu là duy nhất được nhận thức bởi các đối ngôn trong một cuộc giao tiếp nhất định. Cũng có trường hợp “duy nhất” được hiểu theo quan hệ toàn bộ và bộ phận. Có những bộ phận hợp thành một cách tất yếu một sự vật toàn bộ nào đó, chẳng hạn người thì nhất định phải có đầu, mình, chân, tay. Khi nhắc tới bộ phận bất khả li duy nhất của một sự vật - hệ chiếu vật nào đó, bộ phận đó thường cũng được chiếu vật bởi biểu thức miêu tả xác định. Còn khi biểu thức không xác định được dùng tức là người nói muốn nhấn mạnh đến tính chất không phải duy nhất của bộ phận đó đối với sự vật toàn bộ [15; tr.221-239]. Chỉ xuất (deictics hay indexicals) là thuật ngữ trong tiếng Việt dùng để dịch thuật, ngữ ngôn ngữ học quốc tế deictics bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp, có nghĩa là chỉ trỏ. Trong giao tiếp, ta có thể dùng tay để chỉ vào sự vật mà mình muốn nói đến để đối ngôn có thể nhận biết chính xác. Việc dùng tay để chỉ vào sự vật được gọi là sự trực chỉ. Trực chỉ có rất nhiều hạn chế, không phải lúc nào cũng có thể chỉ trỏ được. Hơn nữa, tay không phải là yếu tố ngôn ngữ, cho nên trực chỉ không đảm nhiệm được chức năng chiếu vật của ngôn ngữ. Từ đó ta thấy rằng trong ngôn ngữ chỉ có phương thức chỉ xuất, chứ không có phương thức trực chỉ. Chỉ xuất có nghĩa là dùng những phương tiện ngôn ngữ sẵn có để tách vật được quy chiếu khỏi các cá thể trong cùng loại. Đối với phương thức chỉ xuất, trực chỉ chỉ là phương tiện kèm ngôn ngữ trong giao tiếp mặt đối mặt. Chỉ xuất được thực hiện bằng con đường định vị: định vị xưng hô, định vị không gian và định vị thời gian. Định vị là chỉ rõ vị trí không gian, thời gian của sự vật, sự kiện, hiện tượng được nói tới. Định vị không gian và thời gian bao giờ cũng phải có tọa độ mốc, làm chuẩn. Đó chính là không gian, thời gian mà trong đó cuộc thoại đang diễn ra. Sự định vị lấy không gian, thời gian hội thoại làm mốc là định vị chủ quan. Ngoài ra có định vị theo nhận thức, định vị khách quan [14; tr.17-18]. Thực ra hai loại định vị này vẫn lấy định vị chủ quan làm cơ sở. Thêm vào đó còn có định vị trong ngôn bản. Bằng các phép thế đại từ, chúng ta có thể định vị sự vật, sự kiện theo ngôn bản. Loại định vị này có hai dạng: hồi chỉ và khứ chỉ. Dạng hồi chỉ là định vị theo sự vật, sự việc đã nói trong tiền ngôn bản. Dạng khứ chỉ là định vị theo những ngôn bản tiếp theo ngôn bản đang xem xét [14; tr.19]. 1.2.3. Ý nghĩa tường minh và ý nghĩa hàm ẩn [11; tr.359-414] Như trên đã nói không phải lúc nào người nghe, người đọc cũng nhận ra ngay chiếu vật. Có lúc họ buộc phải dùng thao tác suy ý từ những biểu thức chiếu vật mới nhận biết được. Bởi vì một phát ngôn, ngoài cái ý nghĩa được nói ra trực tiếp nhờ vào các yếu tố ngôn ngữ, còn có rất nhiều ý nghĩa khác mà chúng ta phải thực hiện các thao tác suy ý khi dựa vào ngữ cảnh, ngôn cảnh, vào các quy tắc điều khiển hành vi ngôn ngữ, điều khiển lập luận… mới nắm bắt được chúng. Chúng ta gọi ý nghĩa trực tiếp do các yếu tố ngôn ngữ đem lại là ý nghĩa tường minh (hiển ngôn). Còn các ý nghĩa nhờ vào suy ý mới nắm bắt được sẽ được gọi là ý nghĩa hàm ẩn [11; tr.359]. Có ý nghĩa hàm ẩn nghĩa học và ý nghĩa hàm ẩn dụng học, nếu xét ở góc độ bản chất của chúng. Bởi vì ý nghĩa của một phát ngôn gồm nội dung mệnh đề (nội dung miêu tả, nội dung sự vật) và các nội dung thuộc ngữ dụng học. Ý nghĩa hàm ẩn nghĩa học là ý nghĩa hàm ẩn có quan hệ với nội dung mệnh đề đó. Nó chỉ có quan hệ với các nhân tố ngôn ngữ biểu thị nội dung mệnh đề. Ý nghĩa hàm ẩn ngữ dụng học là những ý nghĩa hàm ẩn có quan hệ với các quy tắc ngữ dụng học như quy tắc chiếu vật, quy tắc lập luận, các hành vi ngôn ngữ, các quy tắc hội thoại…[11; tr. 362]. Ý nghĩa hàm ẩn nghĩa học và ý nghĩa hàm ẩn dụng học còn được phân thành hai loại: tiền giả định (presuppostion - kí hiệu pp) và các hàm ngôn (implicitation – kí hiệu imp). Và như vậy, chúng ta cũng sẽ có các loại: tiền giả định nghĩa học và tiền giả định dụng học; hàm ngôn nghĩa học và hàm ngôn dụng học. Theo Đỗ Hữu Châu, hàm ngôn ngữ nghĩa có cơ sở là các lẽ thường. Cho nên có thể gọi hàm ngôn ngữ nghĩa là hàm ngôn lập luận (hay còn gọi là hàm ngôn mệnh đề). Hàm ngôn ngữ dụng là những hàm ngôn có được do sự vi phạm các quy tắc ngữ dụng (bao gồm quy tắc chỉ xuất, chiếu vật, quy tắc lập luận, quy tắc hội thoại, mà quan trọng nhất là phương châm và các nguyên tắc cộng tác hội thoại của Grice6). Tiền giả định là những hiểu biết cần thiết được xem là bất tất phải bàn cãi, bất tất phải đặt lại thành vấn đề, đã được các nhân vật giao tiếp mặc nhiên thừa nhận, là những hiểu biết chung giữa người nói và người nghe, dựa vào chúng người nói tạo nên ý nghĩa tường minh trong phát ngôn của mình. Hàm ngôn là tất cả những nội dung có thể suy ra từ một phát ngôn cụ thể nào đó; suy ra từ ý nghĩa tường minh cùng với tiền giả định của nó. Nếu không có ý nghĩa tường minh và tiền giả định của nó, thì không thể suy ra được hàm ngôn thích hợp. Cơ sở để suy ra hàm ngôn từ ý nghĩa tường minh là các lẽ thường; cũng có thể là các quan hệ lôgic. Trong mối quan hệ với hình thức thì tiền giả định phải có quan hệ với các yếu tố ngôn ngữ cấu thành phát ngôn, phải có những dấu hiệu đánh dấu nó. Trái lại, hàm ngôn không tất yếu phải được đánh dấu bằng các dấu hiệu ngôn ngữ. Trong một văn bản, những điều đã nói ở tiền ngôn được xem là tiền giả định cho những phát ngôn sau. Xét về hiệu quả thông tin thì nội dung thông tin mà tiền giả định cung cấp đã là quan yếu ở tiền ngôn, cho nên nó không là cái mới đối với phát ngôn đang xem xét, do đó có lượng tin thấp. Song cần phải phân biệt khái niệm hiệu quả thông tin và lượng tin. Nếu xét trong một phát ngôn thì tiền giả định không có hiệu quả thông tin, nhưng nó vẫn có lượng tin. Tuy lượng tin này không quan yếu đối với hiệu quả thông tin của phát ngôn đang xem xét, nhưng nó vẫn rất cần thiết để lí giải hiệu quả thông tin của phát ngôn. Mặt khác, cũng có trường hợp tiền giả định có hiệu quả thông tin. Đó là trường hợp ý nghĩa hàm ẩn không tự nhiên rơi vào tiền giả định. Lúc bấy giờ tiền giả định lại có hiệu quả thông tin cao hơn là ý nghĩa tường minh và hàm ngôn. Song, nói chung, trong giao tiếp ý nghĩa tường minh và hàm ngôn có tính năng động hội thoại cao hơn tiền giả định. Trừ những tiền giả định có vai trò ý nghĩa hàm ẩn không tự nhiên, các tiền giả định thông thường có những đặc điểm sau: 1/ Nó có tính chất kháng phủ định. Khi phát ngôn chuyển từ dạng khẳng định sang phủ định thì tiền giả định vẫn được giữ nguyên; 2/ Nó có tính chất bất biến khi phát ngôn thay đổi về hành vi ngôn ngữ tạo ra nó; 3/ Nó có tính chất không thể khử bỏ. Nó không thể nào bị loại bỏ ngay trong cùng một phát ngôn bởi cùng một người nói ra. Sở dĩ như vậy vì nó là điều “bất tất phải bàn cãi”, “bất tất phải đặt vấn đề xem xét lại”. Trong lúc đó hàm ngôn không giữ nguyên khi phát ngôn được chuyển từ khẳng định sang phủ định. Hàm ngôn cũng không giữ nguyên khi hành vi ngôn ngữ thay đổi với ý nghĩa tường minh. Cuối cùng, hàm ngôn có thể bị khử một cách dễ dàng nhờ kết tử đối nghịch. Thực ra sự phân biệt tiền giả định và hàm ngôn như đã nêu, trong thực tế, chỉ áp dụng được cho các tiền giả định và hàm ngôn nghĩa học, không áp dụng cho các ý nghĩa hàm ẩn ngữ dụng học [11; tr. 377]. Có các loại tiền giả định như sau: tiền giả định bách khoa và tiền giả định ngôn ngữ; tiền giả định ngữ dụng và tiền giả định nghĩa học (tiền giả định tồn tại, tiền giả định đề tài, tiền giả định điểm nhấn); tiền giả định từ vựng (tiền giả định thực từ, tiền giả định hư từ) và tiền giả định cú pháp7. Ở trên chúng tôi có nhắc đến khái niệm ý nghĩa hàm ẩn - tiền giả định và hàm ngôn - không tự nhiên. Nó chính là đối tượng chính của ngữ dụng học. Nó được hiểu là các ý nghĩa hàm ẩn nằm trong ý định của người nói và cái ý định đó phải được người nghe nhận biết. Grice là người xây dựng những cơ sở đầu tiên quan trọng cho việc nghiên cứu các ý nghĩa hàm ẩn hiểu theo cách nói trên. 1.3. Những vấn đề về ngữ nghĩa học 1.3.1. Ý nghĩa của từ Nghĩa của từ (cũng như của các đơn vị ngôn ngữ khác) là quan hệ của từ với cái gì đó nằm ngoài bản thân nó. Có nghĩa là hiểu nghĩa của một đơn vị ngôn ngữ nào đó là hiểu đơn vị ấy có quan hệ với cái gì, nói cách khác là nó biểu thị cái gì. Cần phân biệt nghĩa của từ với sự hiểu biết, nhận thức về nghĩa đó. Bản thân nghĩa của từ không xuất hiện và tồn tại trong nhận thức của con người. Nghĩa của từ cũng như những đơn vị ngôn ngữ khác tồn tại thực sự khách quan trong lời nói. Còn trong nhận thức của con người chỉ có sự phản ánh, sự hiểu biết những nghĩa đó mà thôi. Từ có quan hệ rất đa dạng với các hiện tượng khác, do đó nghĩa của từ là một hiện tượng phức tạp, bao gồm một số thành tố đơn giản hơn như: nghĩa sở chỉ, nghĩa sở biểu, nghĩa sở dụng, nghĩa kết cấu8 [31; tr.78-81 ]. 1.3.2. Sự biến đổi ý nghĩa của từ Cơ cấu ý nghĩa của từ không phải là bất biến; nó có bị thay đổi. Nguyên nhân dẫn đến sự thay đổi này rất đa dạng, phức tạp, tùy thuộc từng trường hợp. Nguyên nhân ngôn ngữ học thuần túy cũng có, tuy hiếm. Qua quá trình sử dụng lâu dài trong lịch sử, nhiều yếu tố mới của ngôn ngữ (âm vị, từ, kiểu câu…) được bổ sung, đồng thời yếu tố cũ cũng bị rơi rụng dần. Do đó, mối quan hệ giữa các từ trong ngôn ngữ, cùng với kết cấu chung của nó cũng bị thay đổi. Điều này có thể dẫn đến hiện tượng từ có thêm nghĩa mới. Mặt khác, nên nhớ rằng, ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp ưu việt nhất của con người trong xã hội. Như vậy, có nghĩa là môi trường ngôn ngữ diễn biến là môi trường xã hội. Do đó những nguyên nhân mang tính xã hội chiếm một vai trò rất quan trọng trong việc biến đổi ý nghĩa của từ. Trước tiên, chúng ta thấy, khi một hiện tượng mới trong tự nhiên xuất hiện, một sản phẩm mới ra đời, con người có nhu cầu đặt tên gọi cho những cái mới ấy. Một trong ba con đường đáp ứng được nhu cầu ấy là sự biến đổi ý nghĩa của từ. Đồng thời với sự phát triển của xã hội, trình độ nhận thức của con người cũng ngày một nâng cao. Người ta có thể nhận thức sâu sắc hơn về sự vật xung quanh và phát hiện được những thuộc tính nằm sâu trong bản chất của sự vật mà trước đây họ chưa thể nhận ra. Do vậy, ý nghĩa của từ cũng bị thay đổi theo sự nhận thức của con người. Bởi vì từ cũng có chức năng giao tiếp, tuy rằng chỉ là gián tiếp. Người ta phải sử dụng từ để tạo nên những thành phần câu. Còn câu là đơn vị trực tiếp thực hiện chức năng giao tiếp, nó diễn đạt được những nhận thức của con người. Nhờ thế con người có thể truyền cho nhau những hiểu biết của mình về thế giới xung quanh. Liên quan đến nguyên nhân xã hội của sự diễn biến ngôn ngữ là hiện tượng thay đổi môi trường sử dụng của các từ. Hiện tượng này cũng làm cho nghĩa của các từ thay đổi. Các từ có thể chuyển từ môi trường rộng sang môi trường hẹp (đó là hiện tượng chuyên môn hóa); hoặc ngược lại. Yếu tố tâm lí xã hội cũng ảnh hưởng không ít đến việc thay đổi môi trường sử dụng của các từ. Xã hội phát triển mạnh về phương diện nào thì những sự vật, khái niệm ở phương diện đó gây ấn tượng mạnh mẽ vào tâm lí con người, dẫn đến tình trạng các từ biểu thị những sự vật, khái niệm ấy chuyển nghĩa để biểu thị những sự vật, khái niệm ấy trong phương diện khác [31; tr 83]. Ví dụ từ kế hoạch trong tiếng Việt vốn là một thuật ngữ kinh tế, nhưng nay nó đã được sử dụng rộng rãi trong ngôn ngữ toàn dân. Cũng do yếu tố tâm lí, một từ chuyển nghĩa đã tác động đến hàng loạt từ khác gần nghĩa với nó. Chẳng hạn, từ ghê khi được dùng để chỉ mức độ của tính chất (đẹp ghê), thì lập tức các từ gớm, khiếp, kinh khủng… cũng có nghĩa tương tự. Những từ như vậy gọi là trung tâm bành trướng ngữ nghĩa. Nắm được những trung tâm bành trướng như thế ta có thể nắm được tâm tư, tình cảm và lí trí chung của thời đại [31; tr 84]. Ít nhiều liên quan đến yếu tố tâm lí xã hội là các hiện tượng kiêng húy, tránh gọi tên trực tiếp của đối tượng, là hiện tượng muốn giữ bí mật trong một nhóm người nào đó. Những hiện tượng này cũng đã tạo điều kiện cho sự biến đổi ý nghĩa của từ. Ở một góc độ khác, cũng liên quan đến yếu tố tâm lí xã hội là những hiện tượng thuộc về sự cố gắng của người dùng muốn làm cho lời nói của mình thích hợp hơn với các chức năng mà nó phải đảm nhiệm, hoặc muốn diễn đạt trang nhã, lịch sự, tránh dùng các từ gây ấn tượng về sự chết chóc, đau buồn, bệnh tật hay thô tục… hoặc muốn tránh bộc lộ ý mình một cách trực diện. Tất cả những hiện tượng này cũng tác động nhiều đến việc biến đổi ý nghĩa của từ. Các nguyên nhân nêu trên là động lực làm cho các từ có thể biến đổi ý nghĩa. Còn bản thân quá trình phát triển thêm ý nghĩa của từ lại gắn liền với hiện tượng chuyển nghĩa của từ. Các từ có thể biến đổi ý nghĩa được hay không lại là do mối quan hệ giữa âm thanh và ý nghĩa của từ quy định. Nó là cơ sở thực sự của sự biến đổi ý nghĩa của từ. Mối quan hệ này là không tùy tiện, nó có tính quy ước một cách biện chứng lịch sử, chứ không phải hoàn toàn cố định hay thuần túy võ đoán [32; tr.160-161]. Những phương thức chủ yếu trong sự biến đổi ý nghĩa của từ là mở rộng và thu hẹp ý nghĩa, chuyển đổi tên gọi. Chuyển đổi tên gọi là kết quả của những quá trình liên tưởng khác nhau, đó là ẩn dụ và hoán dụ. 1.3.3. Phương thức ẩn dụ 1.3.3.1. Khái niệm ẩn dụ Ẩn dụ là một phương thức chuyển tên gọi dựa trên sự liên tưởng so sánh những mặt, những thuộc tính … giống nhau giữa các đối tượng được gọi tên [18; tr.176]. Xét về mặt chức năng cần phân biệt ẩn dụ từ vựng học và ẩn dụ tu từ học. 1.3.3.2. Ẩn dụ từ vựng học Ẩn dụ từ vựng học là đối tượng của từ vựng học. Đó là sự chuyển nghĩa của từ được thực hiện theo những liên tưởng so sánh tương đồng (về hình thức, thuộc tính, chức năng…) giữa hai sự vật đã thành của chung cả cộng đồng, mang tính bắt buộc, thực sự tạo nên nghĩa mới của từ. Những nghĩa mới này được ghi lại trong từ điển. Chẳng hạn từ đầu trong những ngữ cảnh: Đầu, mình, tứ chi là những bộ phận của cơ thể người; Đầu trâu mặt ngựa được dùng theo nghĩa gốc, nghĩa trực tiếp. Còn trong các ngữ cảnh sau: đầu núi; đầu sóng ngọn gió từ đầu được dùng theo nghĩa chuyển bằng phương thức ẩn dụ và là ẩn dụ từ vựng. Sự chuyển nghĩa của từ thuộc phạm vi từ vựng học có trường hợp đi xa đến mức có thể vượt ranh giới về nghĩa của một từ. Kết quả của những trường hợp như vậy dẫn đến sự xuất hiện của những từ đồng âm. Tùy theo căn tố từ nguyên làm cơ sở cho ẩn dụ được người nói và người nghe lĩnh hội hay không mà ta có thể phân ra ẩn dụ còn sống và ẩn dụ đã bị chết (kể cả hoán dụ cũng vậy). Ẩn dụ còn sống là những ẩn dụ mà với nó, người nói và người nghe có thể nhận thức rõ ràng ý nghĩa gốc và mối quan hệ bên trong giữa nghĩa trực tiếp và nghĩa chuyển tiếp (như cách dùng của từ đầu trong các ngữ cảnh đầu núi, đầu sóng). Ta gọi là ẩn dụ bị chết đối với những trường hợp khi mối quan hệ giữa nghĩa trực tiếp và nghĩa chuyển tiếp bị mờ đi hoặc mất hẳn. Ví dụ từ đểu vốn chỉ người đi gánh thuê. Trên cơ sở nghĩa gốc này, nó đã phát triển thành nghĩa “hèn mạt, xỏ xiên”. Nghĩa gốc ngày nay không còn được dùng nữa. Do đó người dùng cũng không thể nhận ra được mối liên hệ giữa hai loại ý nghĩa này [32; tr.168]. Cũng xét về chức năng, ẩn dụ từ vựng học có thể tạm chia ra hai loại: ẩn dụ định danh và ẩn dụ nhận thức9. Đinh Trọng Lạc phân biệt hai loại ẩn dụ từ vựng này như sau: - Ẩn dụ định danh là một thủ pháp có tính chất thuần túy kỹ thuật dùng để cung cấp những tên gọi mới bằng cách dùng vốn từ vựng cũ, ví dụ: đầu làng, chân trời, tay ghế. Đây là nguồn tạo nên những tên gọi chứ không phải là loại ẩn dụ nhằm phát hiện những sắc thái ý nghĩa. Nó không tác động vào trực giác để gợi mở mà tác động vào cách nhìn để chỉ xuất, không đem lại cho người đọc những cảm xúc về vẻ đẹp của ngôn từ mang tính biểu cảm, không gợi sự liên tưởng phong phú [57]. Nói cách khác, những ẩn dụ từ vựng học không hoặc rất ít có khả năng gợi hình, tạo hình hoặc gợi cảm. Bởi trải qua quá trình được sử dụng quá lâu dài của các từ ẩn dụ này, mối liên tưởng giữa hai sự vật được so sánh trở nên quá mờ nhạt, hình ảnh được so sánh trở nên sáo mòn. - Ẩn dụ nhận thức là loại ẩn dụ nảy sinh do kết quả của việc làm biến chuyển khả năng kết hợp của những từ chỉ dấu hiệu khi làm thay đổi ý nghĩa của chúng từ cụ thể đến trừu tượng. Ví dụ: những từ ngữ chỉ đặc trưng như giá lạnh, mơn mởn, hiền hoà, vằng vặc vốn có ý nghĩa cụ thể và thường có khả năng kết hợp với những từ ngữ chỉ sự vật, hiện tượng như: băng tuyết, cây lá, con người, vầng trăng (băng tuyết giá lạnh, cây lá mơn mởn, con người hiền hoà, vầng trăng vằng vặc), nay được ẩn dụ hoá, được dùng với ý nghĩa trừu tượng và có khả năng kết hợp cả với những từ ngữ như tâm hồn, tuổi xuân, dòng sông và cả những động từ cũng có thể ẩn dụ hoá theo cách này, ví dụ: tâm hồn bay bổng, cuộc sống lênh đênh… Loại ẩn dụ từ vựng này là nguồn tạo nên hiện tượng đa nghĩa của từ [57]. Những ẩn dụ từ vựng kiểu này còn có khả năng gợi hình, gợi cảm, có tính hình tượng. Nó tạo nên cách dùng mới của từ và những cách dùng như vậy đều được từ điển ghi lại. 1.3.3.3. Ẩn dụ tu từ học Ẩn dụ tu từ học là đối tượng nghiên cứu của môn phong cách học. Đó cũng là sự chuyển nghĩa của từ theo phương thức ẩn dụ, nhưng lại dựa trên những kết quả liên tưởng so sánh tương đồng có tính chất cá nhân (hoặc tập thể cá nhân như: tác giả dân gian sáng tác ca dao, các tác giả trong một trào lưu văn học), mang tính lâm thời, tức trong một văn cảnh nhất định, trong một thời điểm giao tiếp cụ thể (hoặc cũng có thể trong một thời đoạn nhất định, ví dụ những từ thu, chiều có giá trị ẩn dụ về sự chia ly, có khả năng gợi buồn chỉ trong giai đoạn văn học từ 1930 đến trước cách mạng tháng Tám 1945 và chỉ thuộc về dòng văn học lãng mạn). Ẩn dụ tu từ học không tạo ra nghĩa mới của từ. Nó chỉ là những trường hợp sử dụng có hình ảnh, mang tính hình tượng cao, giúp cho tác giả diễn đạt chính xác các khuất chiết của tư tưởng và các cung bậc của tình cảm. Có thể nói nó góp phần nâng cao nhận thức của con người và gợi ra nhiều cảm xúc mới lạ. Nó tác động vào trực giác của người nhận, tác động mạnh mẽ đến cảm xúc của người đọc (người nghe), gợi sự liên tưởng phong phú, sâu sắc và đem lại khả năng cảm thụ sáng tạo. Nó giúp người đọc tưởng tượng ra thế giới xung quanh đầy màu sắc thông qua ngôn ngữ nghệ thuật. Chẳng hạn đọc câu ca dao sau: Đêm trăng thanh anh mới hỏi nàng Tre non đủ lá đan sàng nên chăng? Đan sàng thiếp cũng xin vâng, Tre vừa đủ lá, non chăng hỡi chàng? ta thấy tác giả dân gian không nói thẳng ý của mình, mà dùng các hình ảnh: “trăng thanh”, “tre non”, “đan sàng” buộc người tiếp nhận phải liên tưởng, so sánh để lý giải. Những từ ngữ biểu thị những hình ảnh cụ thể ấy là cách dùng rất riêng, chỉ của tác giả bài ca dao này, những liên tưởng giữa hình ảnh với ẩn ý cũng rất riêng của tác giả, và cũng rất cụ thể trong văn cảnh của bài ca dao đang xét. Người tiếp nhận phải huy động tất cả yếu tố của văn cảnh để phát hiện ra những hiểu biết chung giữa tác giả với mình, tức thiết lập được những kiến thức nền, và dựa vào nó mới có thể lí giải được cái thông điệp mà chàng muốn gửi vào nội dung lời hỏi, mới hiểu được đề tài của cuộc giao tiếp này là tình yêu – hôn nhân.. Nhưng những cách sử dụng như vậy không được từ điển ghi lại. Nó chỉ tạo ra phong cách cá nhân, là sự sáng tạo của người viết và vì thế hiệu quả nghệ thuật mà nó mang lại rất cao. Theo Cù Đình Tú ẩn dụ tu từ được xây dựng từ cơ sở những tương đồng về màu sắc, về tính chất, về trạng thái, về hành động, về cơ cấu [122; 280 - 281]. Ẩn dụ tu từ được tạo nên bởi ba nhân tố sau: văn cảnh; tính hợp lí; thói quen thẩm mỹ. (1) Như ở phần Nhân tố giao tiếp đã nêu, văn cảnh là toàn bộ những câu ở trước và ở sau một yếu tố ngôn ngữ cần xem xét. Nó soi sáng nghĩa cho yếu tố đó. Vì ẩn dụ không nằm trong cơ cấu nghĩa của từ mà là kết quả của hiện tượng chuyển nghĩa mang tính lâm thời, cho nên ý nghĩa mới được tạo ra từ ẩn dụ chỉ có giá trị trong một văn cảnh nhất định. Nếu tách khỏi văn cảnh thì nó sẽ không còn tồn tại, câu chứa hình ảnh ẩn dụ trở nên vô nghĩa. Chẳng hạn những câu thơ sau đây trong bài Thuyền và biển của Xuân Quỳnh: Những ngày không gặp nhau Biển bạc đầu thương nhớ Những ngày không gặp nhau Lòng thuyền đau rạn vỡ Nếu từ giã thuyền rồi Biển chỉ còn sóng gió. nếu tách rời khỏi văn cảnh thì các câu (2), (3) và (4) là các câu vô nghĩa. Còn nếu đặt khổ thơ này trong mối quan hệ với những khổ thơ trước và sau nó thì hai câu trên từ chỗ trừu tượng đã chuyển thành câu có thể tri giác được. Cùng một từ ngữ nhưng nếu được chuyển nghĩa theo lối ẩn dụ trong những văn cảnh khác nhau thì chúng lại mang những ý nghĩa khác nhau. Chẳng hạn kết hợp từ chim khôn trong các câu ca dao sau khi thì chỉ người khôn nói chung, kể cả trai, cả gái: - Chim khôn đậu nóc nhà quan, Trai khôn tìm vợ, gái khôn tìm chồng. - Chim khôn tránh lưới tránh đò, Người khôn tránh chốn xô bồ mới khôn. khi thì chỉ riêng người con gái khôn ngoan: - Chim khôn kêu tiếng rảnh rang, Người khôn nói tiếng dịu dàng dễ nghe. - Chim khôn lựa nhánh lựa cành, Gái khôn lựa chốn trai lành gửi thân. Bản thân hình ảnh làm cơ sở cho sự liên tưởng ẩn dụ nếu tồn tại độc lập (đứng riêng rẽ một mình) thì người đọc không thể hiểu được ẩn ý bên trong. Muốn hiểu người đọc phải xét mối quan hệ giữa hình ảnh đó với các hình ảnh khác. Chẳng hạn, nếu xét hình ảnh hoa thơm chỉ trong câu ca dao sau: Hoa thơm bán một đồng mười chắc không ít người đọc sẽ nghĩ rằng đề tài của nó là nói về việc mua bán hoa có hương. Nhưng nếu đọc tiếp câu sau với hình ảnh đối lập là hoa tàn nhị rửa nhưng lại với giá trị quá đối lập là đôi lạng vàng (Hoa tàn nhị rửa bán đôi lạng vàng) thì ta sẽ hiểu được cái thâm ý của tác giả gửi gắm vào câu ca dao (đề cao giá trị của những con người bị coi là thứ bị vứt bỏ như hoa tàn nhị rửa). (2) Chúng ta chỉ hiểu được nghĩa của ẩn dụ khi tìm ra nét tương đồng giữa hai sự vật được dùng để so sánh. Nếu nét tương đồng này không hợp lý thì người đọc không thể liên tưởng đến sự vật được giấu đi trong văn cảnh. Sự hợp lí ở đây được tính cả thời gian, địa điểm, mục đích phát ngôn, thực tế tồn tại của các hiện tượng, sự vật. Chẳng hạn, khi dùng các hình ảnh hoa, (quả) đào thì người ta thường nghĩ ngay đến người con gái. Bởi đặc điểm của hoa, của đào có những nét tương đồng với vẻ đẹp của họ. Hình ảnh thuyền thường được đặt trong thế tương đồng với hình ảnh người con trai “chí tại bốn phương”, hoặc kiếp sống lênh đênh của con người, cũng bởi người ta dễ phát hiện ra những đặc điểm, những trạng thái gần giống nhau giữa các sự vật. (3) Ẩn dụ tu từ đem lại nhiều cảm xúc và nhận thức cho người đọc trên cơ sở liên tưởng tương đồng. Nhưng không phải bất cứ sự tương đồng nào cũng có thể trở thành ẩn dụ. Ngôn ngữ không thể tách rời cuộc sống, thực tiễn xã hội. Nếu chúng ta đặt hai sự vật trong thế so sánh tương đồng quá xa lạ với truyền thống sinh hoạt, với phong tục tập quán, thói quen, thẩm mỹ thì những ẩn dụ tạo ra không tồn tại lâu trong lòng người đọc. Chẳng hạn một nước ở vùng sa mạc mênh mông sẽ không lấy con thuyền, bến nước làm biểu tượng cho tình yêu. Ngược lại các dân tộc sống ở vùng ven biển không thể lấy con sói làm hình tượng cho tình yêu. Ở đây liên quan đến vấn đề sáng tạo cá nhân. Cá nhân dù có tài đến đâu cũng không thể nào tạo ra được những ẩn dụ tách rời khỏi ý thức hệ của từng thời đại cùng với những cơ sở vật chất quy định sự tồn tại xã hội, không thể tạo ra những ẩn dụ không phù hợp với quan niệm thẩm mỹ, văn hóa… của những người sống trong thời đại ấy. Ví dụ trước Cách mạng tháng Tám, “mùa thu” thường gắn với những kỷ niệm riêng tư, thầm kín của con người, là biểu hiện của sự nhớ nhung, của cái buồn man mác nhiều khi vô cớ của những mối sầu hiu hắt được đẩy lên đến tuyệt đỉnh. Cách mạng tháng Tám thành công, cờ đỏ sao vàng phất phới tung bay thì “mùa thu” không còn gợi sự chia ly, sự mất mát, tiếc thương mà đã có thể biểu trưng cho mọi thứ thành quả mà cách mạng trao lại cho ta, từ độc lập, tự do, hòa bình đến bát cơm, tấm áo., đến cả màu vẻ, thanh sắc của đất trời cũng trở nên tươi mát, đằm thắm hơn: Ngẩng đầu lên trong sáng tuyệt trần Tháng Tám mùa thu xanh thắm Mây nhởn nhơ bay, hôm nay ngày đẹp lắm Mây của ta, trời thắm của ta. (Tố Hữu) Và cũng từ đây ta thấy ra đời hàng loạt các ẩn dụ về mùa thu giàu sức ngân vang rung động lòng người: mùa thu huy hoàng, khí thế mùa thu, hành khúc mùa thu… Nói đến ẩn dụ tu từ người ta thường minh họa bằng những câu thơ trữ tình bóng bẩy, sinh động. Nhưng không phải chỉ trong thơ ca mới có ẩn dụ. Ẩn dụ có thể dùng trong văn bản chính luận. Ví dụ: Giai cấp tư sản họ tạo ra những người đào huyệt chôn chính nó. (Tuyên ngôn cộng sản) Ẩn dụ tu từ trong tiếng Việt rất đa dạng và phong phú. Người Việt Nam có bao nhiêu mối liên tưởng thì cũng có thể có bấy nhiêu ẩn dụ. Nên khi tiếp cận với phép ẩn dụ tu từ người tiếp nhận văn bản phải dùng năng lực liên tưởng để quy chiếu các yếu tố hiện diện trên văn bản với các sự vật, hiện tượng ngoài văn bản mới có thể lí giải để phát hiện ra những điều được gói kín trong câu chữ. Điều này cũng có nghĩa là ẩn dụ tu từ rất gắn bó với vấn đề ý nghĩa hàm ẩn như đã nói ở mục 1.2.3 1.3.4. Phân biệt ẩn dụ trừu tượng với hoán dụ trừu tượng Hoán dụ trừu tượng là cách cá nhân dùng ._. tan vỡ 104 Cưa Xuân Quỳnh 0 Răng Ca dao 0 Răng Xuân Diệu 1 - Hoa nở 105 Răng Xuân Quỳnh 0 Đời Ca dao 0 Đời Xuân Diệu 1 - Vật cụ thể 106 Đời Xuân Quỳnh 1 - Vật cụ thể Con tàu Ca dao 0 107 Con tàu Xuân Diệu 0 Con tàu - sân ga Con tàu Xuân Quỳnh 26 - Tình yêu, hạnh phúc - Cuộc chia li - Tình yêu, hạnh phúc - Lý tưởng thời đại - Cuộc sống khẩn trương, sôi nổi, hào hùng của lớp trẻ - Người con trai - Sự trăn trở lo âu của người con gái khi yêu - Người con gái đang yêu - Niềm khát khao, mơ ước - Tố quốc, đất nước - Kỉ niệm tuổi thơ Mùa hạ Ca dao 0 Mùa hạ Xuân Diệu 0 108 Mùa hạ Xuân Quỳnh 1 - Tình yêu tuổi trẻ Ngọn lửa Ca dao 0 Ngọn lửa Xuân Diệu 0 109 Ngọn lửa Xuân Quỳnh 16 - Niềm tin, hi vọng - Niềm đam mê cháy bỏng - Tình yêu thương mãnh liệt - Chiến tranh, gian khổ, thử thách Bàn tay Ca dao 0 Bàn tay Xuân Diệu 0 110 Bàn tay Xuân Quỳnh 15 - Cuộc đời người con gái - Tình yêu, hạnh phúc - Tình yêu lớn lao mà giản dị của người con gái - Tài sản quí giá của người con gái 111 Con đường Ca dao 0 Con đường Xuân Diệu 0 Con đường Con đường, đất đỏ Xuân Quỳnh 4 - Kỷ niệm - Tổ quốc - Thời đại, lý tưởng - Tình yêu của người con gái Phố xá Ca dao 0 Phố xá Xuân Diệu 0 112 Phố xá Con đường, Phố xá Xuân Quỳnh 4 - Con người - Xã hội thời kì mới Lời ru Ca dao 0 Lời ru Xuân Diệu 0 113 Lời ru Xuân Quỳnh 4 - Lẽ sống của con người - Tình cảm dạt dào, niềm tin, hi vọng Cánh chuồn Ca dao 0 Cánh chuồn Xuân Diệu 0 114 Cánh chuồn Xuân Quỳnh 3 - Tình yêu - Kỷ niệm tuổi thơ Muối gừng Ca dao 0 Muối gừng Xuân Diệu 0 115 Muối gừng Xuân Quỳnh 2 - Khó khăn, khổ cực Bão táp Ca dao 0 116 Bão táp Xuân Diệu 0 Bão táp Xuân Quỳnh 2 - Khó khăn, trắc trở trong tình yêu Gạch Ca dao 0 Gạch Xuân Diệu 0 117 Gạch Xuân Quỳnh 1 - Con người Tâm tư Ca dao 0 Tâm tư Xuân Diệu 0 118 Tâm tư Xuân Quỳnh 1 - Vật chất cụ thể Tết Ca dao 0 Tết Xuân Diệu 0 119 Tết Xuân Quỳnh 1 - Thời gian một năm Đồng cạn đồng sâu Ca dao 0 Đồng cạn đồng sâu Xuân Diệu 0 120 Đồng cạn đồng sâu Xuân Quỳnh 1 - Sự nghèo khổ, khó khăn Tiếng gà Ca dao 4 - Thời gian về sáng Tiếng gà Xuân Diệu 0 121 Tiếng gà Xuân Quỳnh 1 - Kỷ niệm tuổi thơ Phụ lục 4: Kết quả trắc nghiệm Phần 4.1. Ca dao trữ tình Việt Nam Nhận xét (%) STT Hình ảnh Liên tưởng (nghĩa biểu trưng) Đúng Sai Không nhận xét (1) (2) (3) (4) (5) (6) Hoa Hoa gạo - Người con gái đẹp khó với tới: Thân cô như hoa gạo trên cây Chúng anh như đám cỏ mây bên đường Lạy trời cho cả gió sương Cho hoa gao rụng xuống chui luồn cỏ mây. 76,7 13,3 10,0 Hoa lý - Người con gái: Chiều chiều vãng cảnh vườn đào Hỏi thăm hoa lí rơi vào tay ai 60,0 25,6 14,4 - Người con gái có vẻ đẹp kín đáo lâu bền: Trách cha trách mẹ em lầm Cho nên em phải khóc thầm hôm mai Trách chàng chẳng dám trách ai Trách chàng chê nụ hoa nhài không thơm 76.4 23,1 1,5 Hoa nhài - Tình yêu đằm thắm: Đôi ta lấm tấm hoa nhài Chồng đây vợ đấy kém ai trên đời. 54,4 33,3 12,2 1 Hoa sen - Người có phẩm chất cao quý đẹp đẽ: Trong đầm gì đẹp bằng sen Lá xanh bông trắng lại chen nhị vàng Nhị vàng bông trắng lá xanh Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn. 92,2 6,7 1,1 Hoa ngâu - hoa mẫu đơn - Sự khác biệt về tính cách, phẩm chất giữa hai người: Xin ai chớ phụ hoa ngâu Tham nơi quyền quý đi cầu mẫu đơn. 62,2 33,3 4,4 Hoa sói - Cuộc đời người con gái lận đận trong tình duyên: Hoa sói mà gói sương sông Thầy mẹ gả phải người chồng bất nhân Trách trời ăn ở không cân Để cho hoa sói đứng sân chịu sầu Chắc trời soi xét nơi đâu Chẳng soi cảnh thảm cảnh sầu này cho. 57,8 20,0 2,2 Hoa tàn - Người con gái đã luống tuổi, tàn tạ, không còn đẹp đẽ thanh tân: Hoa tàn vì bởi mẹ cha Khi búp không bán để già ai mua 63,3 27,8 8,9 Nguyệt hoa - Tính lẳng lơ, không đứng đắn: Đố ai nằm võng không đưa Ru con không hát anh chừa nguyệt hoa. 61,1 35,6 3,3 - Sự kết nối tình yêu: Anh về xẻ ván cho dày, Bắc cầu chín nhịp cho thầy mẹ sang. Quý hồ em có lòng thương, Một trăm một vạn chặng đường cũng đi. 78,9 13,3 7,8 - Những khó khan trắc trở: Thương em chẳng quản xa gần, Cầu không tay vịn cũng lần tới nơi. 68,5 23,2 8,3 2 Cầu - Kỉ niệm tình yêu: Nhớ khi gánh nặng anh chờ, Qua cầu anh đợi, bây giờ em quên. 63,4 21,1 15,5 Cầu tre - cầu Thượng Gia - Hai loại người khác biệt nhau về tính cách: Chắc gì đâu đã hơn đâu, Cầu tre vững nhịp hơn cầu Thượng Gia 68,9 23,3 7,8 4 Xuân - Tuổi trẻ: Chim bay thẳng cánh trên trời Tội gì bỏ quá một đời xuân xanh. 80,0 16,7 3,3 - Nhân chứng cho tình yêu: Mình về sao được mà về, Mặt trăng còn đó, lời thề còn đây. 84,4 14,5 1,1 - Vật thể nguyên vẹn: Vầng trăng ai xẻ làm đôi Đường trần ai vẽ ngược xuôi hỡi chàng? Đưa nhau một bước lên đàng Cỏ xanh hai dãy mấy hàng châu sa. 54,5 44,4 1,1 Trăng - Người con gái còn non trẻ: Lạ lùng anh mới hỏi thăm Trăng kia đã đến hôm rằm hay chưa? Trăng đang mười bốn chưa rằm Lá dâu non còn đợi con tằm mới hăng. 81,1 17,8 1,1 Trăng khuyết - trăng tròn - Quy luật vận hành của tự nhiên: Trăng khuyết rồi trăng lại tròn Mụ gia kén rể con còn goá lâu. 68,9 26,7 4,4 Trăng rằm - Vẻ đẹp đẽ viên mãn của con người: Trăng rằm vừa tỏ vừa cao Cho nên ai cũng ước ao trăng rằm. 81,1 16,7 2,2 5 Trăng hoa - Tính lẳng lơ, không đoan chính: Ở đây gần cảnh nhà chùa Lẽ đâu có lẽ chuyện trò trăng hoa. 57,8 38,9 3,3 Trăng thanh, trăng sáng - Thời gian đẹp đẽ, thuận lợi: (1) Đêm trăng thanh anh mới hỏi nàng: Tre non đủ lá đan sàng nên chăng? Đan sàng thiếp cũng xin vâng, Tre vừa đủ lá, non chăng hỡi chàng? (2) Người thanh nói tiếng cũng thanh Thấy em lịch sự lòng anh cũng mừng Đêm trăng sáng chỉ có chừng Đôi ta đã gặp thì đừng xa nhau 76,7 14,4 8,9 Trăng - gió, trăng - cuội - Sự gắn bó lứa đôi: (1) Bao giờ cho gạo bén sàng Cho trăng bén gió cho nàng bén anh. (2) Một trăng được mấy cuội ngồi Một thuyền chở được mấy người tình chung. 60,0 32,2 7,8 Trăng già - Định mệnh: Trách duyên lại giận trăng già Xe tơ lầm lỗi hoá ra chỉ mành. Biết ai than thở sự tình? Chẳng qua mình lại biết mình mà thôi. 65,6 34,4 0,0 Trăng lặn, trăng tà, trăng lu, trăng khuyết - Số phận hẩm hiu, không hạnh phúc: (1) Ngồi buồn quấy nước trông trăng, Nước trong trăng lặn buồn chăng hỡi buồn! (2) Trăng lu vì bởi áng mây Đôi ta cách trở vì dây tơ hồng. 76,7 20,0 3,3 6 Gió - Tình yêu của người con trai: Ngày ngày ra tựa bao lơn Hóng lên hóng xuống cho cơn gió vào Gió vào ve vuốt má đào Má đào quyến gió lối nào gió ra. 51,1 38,9 10 - Hiểm nguy, thử thách: Thương anh không quản chi xa, Đá vàng cũng quyết, phong ba cũng liều. 74,4 20 5,6 Gió -mưa - Điều kiện không thuận lợi: Mưa xuân lác đác vườn đào Công anh đắp đất ngăn rào vườn hoa Ai làm gió táp mưa sa Cho cây anh đổ, cho hoa anh tàn. 60,0 34,4 5,6 Sóng - Thử thách, khó khăn: Chớ thấy sóng cả mà lo, Sóng cả mặc sóng, chèo cho có chừng. 75,5 6,7 17,8 7 Sóng - gành - Tình yêu chung thuỷ: Chừng nào cho sóng bỏ gành Cù lao bỏ biển anh đành bỏ em. 68,9 28,9 2,2 Thuyền - bến, thuyền - dây - Hạnh phúc một vợ một chồng: Một thuyền một bến một dây Ngọt bùi ta hưởng, đắng cay ta chịu cùng 57,8 31,1 11,1 - Lứa đôi gắn bó: Nong tằm ao cá nương dâu Đò xưa bến cũ nhớ câu hẹn hò. 66,7 28,9 4,4 Thuyền/ đò - bến - Lứa đôi xa cách: Ai làm cho bến xa thuyền Cho trăng xa cuội cho bạn hiền xa ta 78,9 18,9 2,2 8 Thuyền - biển - Lứa đôi xa cách: Ai làm cho biển cạn khô Cho thuyền sang không đặng, Hán Hồ xa nhau. 75,6 22,2 2,2 - Không gian tình yêu: Lênh đênh một chiếc thuyền tình Phòng khi xuôi ngược có mình có ta Phòng khi gió táp mưa sa Mình vào giữ lái, ta ra chịu sào. 62,2 36,7 1,1 Thuyền tình - Người con gái vào tuổi khao khát tình yêu: Thuyền tình đã ghé tới nơi Khách tình sao chẳng xuống chơi thuyền tình. 36,9 41,1 22,0 Thuyền - khách, thuyền - lái - Sự kết hợp lứa đôi: (1) Thuyền ai đứng chực bên sông Có lòng đợi khách hay không hỡi thuyền? (2) Thuyền sao chẳng bẻ lái cho Thuyền còn lơ lửng để chờ đợi ai. 66,7 30,0 3,3 Thuyền thúng - thuyền ván - Những loại người khác biệt nhau về phẩm chất: Em chê thuyền thúng chẳng đi Em đi thuyền ván có khi gập ghềnh. Ba chìm bảy nổi lênh đênh Có khi đổ ngửa đổ nghiêng thiệt thòi. 76,7 21,1 2,2 Thuyền rồng - Sự giàu có, sang trọng: Chớ tham ngồi mũi thuyền rồng Tuy rằng tốt đẹp nhưng chồng người ta. Chớ tham vóc lĩnh trừu hoa, Lấy chồng làm lẽ người ta giày vò. 65,6 24,4 10,0 Bách lênh đênh - Người phụ nữ trong tình yêu: Lênh đênh chiếc bách giữa dòng Thương thân goá bụa phòng không lỡ thì. Gió đưa cây trúc ngã quỳ Ba năm trực tiết còn gì là xuân. 61,1 36,7 2,2 Chốn thuyền chài - Nơi nguy hiểm: Anh nói với em Như rựa chém xuống đá Như rạ cắt xuống đất, Như mật rót vào tai… Bây chừ anh đã nghe ai Bỏ em giữa chốn thuyền chài rứa ri? 54,5 43,3 2,2 - Không gian vô định: Anh về em những trông chừng Trông bể bể rộng, trong rừng rừng xanh. 74,5 23,3 2,2 9 Biển - Nơi nguy hiểm: Giỏi giang chớ vội khoe tài Sông sâu sào ngắn bể trời mênh mông. 54,5 42,2 3,3 Cây khô - Cha mẹ già: Cây khô chưa dễ mọc chồi Bác mẹ chưa dễ ở đời với ta. 78,9 17,8 3,3 Cây cả bóng cao-cây cả bóng thưa - Nơi thuận lợi / nơi khó khăn: Ngỡ rằng cây cả bóng cao Thiếp ẩn mình vào phơi nắng cùng mưa. Ai ngờ cây cả bóng thưa Ẩn nắng nắng hắt, ẩn mưa mưa vào. 67,8 30,0 2,2 10 Cây cao lá dài - Yêu cầu cao của bậc cha mẹ: Thấy em anh cũng muôn chào Sợ lòng bác mẹ cây cao lá dài. 55,6 41,1 3,3 11 Cành hồng - Sự kết nối tình yêu: Cô kia đứng ở bên sông Muốn sang anh ngả cành hồng cho sang. 79,0 13,3 7,7 Lá ngọc, cành vàng - Xứng đôi vừa lứa: Bây giờ anh bắt tay nàng Hỏi: sao lá ngọc cành vàng xa nhau? Xa nhau ta mới xa nhau Khi xưa ta vẫn ăn trầu một cơi Bây giờ anh nói rõ sự tình Tại ba với má hai đứa mình xa nhau. 63,4 33,3 3,3 Bẻ lá vin cành - Lời dèm pha: Dù ai bẻ lá vin cành Thì nàng phải nhớ lời anh dặn dò. 73,4 24,4 2,2 12 Bẻ cành gai lấp đàng lối đi - Phụ tình: Chẳng ai phụ bạc như chàng Bẻ cành gai bạc lấp đàng lối đi. 78,9 16,7 4,4 13 Cỏ mây - Người con trai: Thân cô như hoa gạo trên cây Chúng anh như đám cỏ mây bên đường Lạy trời cho cả gió sương Cho hoa gạo rụng xuống chui luồn cỏ mây. 66,7 31,1 2,2 Cá - Trai / gái trong giai đoạn tìm hiểu nhau, theo đuổi nhau: Nào là cá lớn đi đâu, Để cho cá nhỏ cắn câu thế này? 58,9 36,7 4,4 Cá - người câu - Lứa đôi đang theo đuổi nhau: Ngồi trên hòn đá buông câu Bởi ai xui giục, cá sầu không ăn? 52,2 41,1 6,7 14 Cá - Chim - Lứa đôi chia cách: Anh mong gửi cá cho chim, Chim bay ngàn dặm, cá chìm bể Đông. 71,1 23,3 5,6 Cá bể - chim rừng - Người không chung thủy: Từ ngày gặp gỡ giữa đường Những lời bạn nói nhớ thương vô chừng Tưởng là thành cơm, thành cháo, tôi bỏ bụng mừng Hay đâu cá bể chim rừng vội bay. 77,8 17,8 4,4 Cá hoá rồng - Sự thành đạt, đổi đời, hạnh phúc: Bao giờ cá chép hóa rồng Đền ơn cha mẹ bế bồng ngày xưa. 67,8 21,1 11,1 Nước - Tình yêu: Nước vơi rồi nước lại đầy, Tình kia chưa trả, nghĩa này chưa quên. - Sự chung thủy: Đôi ta như con một nhà Như áo một mắc, như hoa một chùm. Đôi ta như nước một chum, Nước cạn mặc nước, ta đùm lấy nhau. 74,2 69,1 25,8 12,3 0,0 18,6 Nước trời - Sự vĩnh hằng: Dưới mặt nước chói lòa yếm đỏ, Trên bầu trời ráng đỏ mây xanh. Từ ngày chia cắt em anh, Nước trời còn đó ai đành phụ nhau. 75,3 24,7 0,0 Nước trong - Người có phẩm chất cao quí, đẹp đẽ: Nước trong giếng đá hôi phèn, Coi em cũng lịch tại hèn mẹ cha. 65,4 27,3 7,3 15 Nước - mương - Sự kết hợp lứa đôi: Nói thương mà chẳng thấy thương, Nước thì muốn chảy mà mương không đào. Đào thì em cũng muốn đào, Biết rằng nước có chảy vào mương không? 87,1 12,9 0,0 Chim có đôi - Hạnh phúc lứa đôi: Chim kia cũng muốn có đôi Huống chi thân thiếp lẻ loi một mình. Con chim nó hát tang tình Có đôi cũng vậy, một mình cũng hay. 58,9 36,7 4,4 Chim đậu - Chim bay - Người chinh phục được / Người chưa chinh phục được: Gặp nhau giữa cánh đồng này Con mắt liếc lại lông mày đưa ngang. Bây giờ được thở được than Bắt con chim đậu bỏ đàn chim bay. Bây giờ anh nắm được tay Anh yêu vì nết anh say vì tình. 63,4 33,3 3,3 Chim lạc đàn - Chàng trai khi thiếu vắng bạn tình: Lạ lùng anh mới tới đây, Bồ câu đóng sáo, chim bay lạc đàn 65,5 28,9 5,6 16 Chim khôn - Người khôn ngoan: Chim khôn chết mệt về mồi Người khôn chết mệt về lời nhỏ to. 61,1 35,6 3,3 Đàn - Tâm trạng người đang yêu: Đương khi cuộc rượu say nồng Đàn kia đang gảy sau chùng mất dây. Hết điệu thì em cho vay Can gì phải nghỉ nửa ngày, anh ơi! 60 38,9 1,1 17 Đàn đứt dây - Cảnh ngộ không may mắn: Phận em sao lắm dở dang Cầm tiêu tiêu gảy, cầm đàn đứt dây 84,5 14,4 1,1 18 Lòng son dạ sắt - Phẩm chất tốt, kiên định: Mẹ già ở túp lều tranh Sớm thăm tối viếng cho đành lòng em Lòng son dạ sắt càng thêm Lòng đà trăng gió ai tìm thấy ai. 77,7 16,7 5,6 Phần 4.2. Thơ tình Xuân Diệu Nhận xét (%) STT Hình ảnh Liên tưởng (nghĩa biểu trưng) Đúng Sai Không nhận xét (1) (2) (3) (4) (5) (6) - Sức sống bền bỉ đang âm thầm lan tỏa: Anh muốn mang lời đi tạ ơn Bầu trời như thể gió căng buồm Hoa trong cỏ dại chiều hôm ấy Đã đẹp tưng bừng hơn mọi hôm. 87,8 11,1 11,0 Hoa - Sự kết hợp lứa đôi: Lá như con mắt cụm cây nhìn Trái tựa hình tim, chim hót xin Gió đẩy đầu hoa, nghiên ngả thắm Nhị vàng hoa cạnh liếc hoa bên. 54,4 40 5,6 1 Hoa tím - Tình yêu nồng cháy: (1) Hoa tím tương tư đã nở đầy Mời em dạo bước tới vườn đây Em xem: yêu mến em gieo hạt Hoa tím tương tư đã nở đầy. 54,4 24,4 21,2 Hoa - cỏ - Tình yêu lứa đôi: Một tối bầu trời đắm sắc mây Cây tìm nghiêng xuống nhánh hoa gầy Hoa nghiêng xuống cỏ trong khi cỏ Nghiêng xuống làn rêu một tối đầy. 60,0 25,6 14,4 Hoa - gió - Tình yêu lứa đôi: Sao họ khép nõn nà mà bợ ngợ Những nàng hoa chờ đợi gió phong lưu. 50,0 46,7 3,3 Hoa nhài - Con người: Chen lá lục những búp lài mở cửa Hớp bóng trăng đầy miệng nhỏ xinh xinh 60,0 31,1 8,9 Hoa hồng - Người con gái: Ta tiếc theo sau những đóa hồng Những nàng con gái sớm phai bông Những cô hây hẩy còn đôi tám Xô đuổi tình yêu vội lấy chồng. 57,8 20,0 2,2 Người hoa, hoa ái tình, chim hoa,.. - Những kết hợp từ ngữ mới lạ - hoa trở thành định ngữ cho những gì tươi đẹp, đắm say nhất: (1) Cứ như thế cho đến giờ đen tối Hoa ái tình chung phận đoá hồng khô. (2) Có lẽ người hoa nay đã tươi Nghe chiều âu yếm lấn vô người. (3) Bước đẹp em vừa ngự tới đây Chim hoa ríu rít liễu vui vầy. 63,3 27,8 8,9 2 Áo - Người con trai: Cánh du lang tha thướt phấn qua tường Áo công tử dải là vương não ruột. 53,3 43,3 3,3 - Tình yêu : Áo em thoang thoảng hoa cau Áo em say đắm một màu trầm hương Áo em ngày nhớ đêm thương Áo em chín nắng mười thương anh chờ. 68,9 23,3 7,8 3 Mưa - Tình yêu: Lòng ta là một cơn mưa lũ Đã gặp lòng em là lá khoai Mưa biếc tha hồ rơi giọt ngọc Lá xanh không ướt đến da ngoài. 33,3 50,0 16,7 - Người con gái: Nghìn buổi sáng bình minh xe chỉ thắm Đem lòng tôi ràng rịt với xuân tươi. 44,4 54,5 1,1 4 Xuân - Tình yêu: Xuân của đất trời nay mới đến Trong tôi xuân đến đã lâu rồi. Từ lúc yêu nhau hoa nở mãi Trong vườn thơm ngát của hồn tôi. 68,9 21,1 10,0 - Buồn, đau khổ, đau đớn xót xa của con người: Yêu ngẩn ngơ, rồi đau đớn xót xa Số anh là khổ, phận anh là Suốt đời nuốt lệ vào trong ngực Đem ái tình dâng kẻ phụ ta. 85,6 8,9 5,6 5 Lệ - Tình yêu nồng cháy: Rễ ăn huyết lệ từ lâu Màu hoa mới được bền lâu thế này 38,9 41,1 20,0 6 Trăng - hoa - Tình yêu lứa đôi: Bâng khuâng chân tiếc giậm lên vàng Tôi sợ đường trăng tiếng dậy vang Ngơ ngác hoa duyên còn núp lá Và làm sai lỡ nhịp trăng đang. 55,6 34,4 10,0 Trăng - gió - Sự kết hợp lứa đôi: Ai làm cách trở đôi ta Vì anh vụng gượng hay là vì em? Trăng còn đợi gió chưa lên, Hay là trăng đã tròn trên mái rồi? 60,0 32,2 7,8 7 Gió - Con người: Gío rên rỉ như lời ai thuở trước Trời nhung mơn lòng ấy xưa yêu Không khí thì êm, đêm sương khẽ bước Xưa tìm ai mơn trớn cũng như chiều 51,1 38,9 10,0 Sóng - Tình cảm, tình yêu: Nhưng hồn anh sáng anh vui Anh có nghe đây đó cuộc đời gần quanh. Có em: ấm cả trời xanh Sóng bên chân khẽ cùng anh chuyện trò. 64,4 28,9 6,7 8 Sóng - cát - Tình yêu lứa đôi: Anh xin làm sóng biếc Hôn mãi cát vàng em Hôn thật khẽ thật êm Hôn êm đềm mãi mãi. 80,1 14,4 5,5 9 Thuyền - bến - Hạnh phúc lứa đôi: Người giai nhân: bến đợi dưới cây già Tình du khách: thuyền qua không buộc chặt. 57,8 31,1 11,1 10 Biển - gành - Tình yêu lứa đôi: Anh không xứng là biển xanh Nhưng cũng xin làm bể biếc Để hát mãi bên gành Một tình chung không hết. 72,3 24,4 3,3 Cây đời - Sự trường tồn vĩnh hằng: Vĩnh viễn yêu em như yêu sự thật Và cây đời mãi mãi xanh tươi. Mãi mãi môi em nhụy đời vô hạn Và cây đời ! Ôi xán lạn xanh tươi. 82,2 15,6 2,2 11 Cây - Con người: Tôi biết rằng chỉ cách một ngày sau Cây bên đường sẽ trông thấy tôi sầu. Đi thất thểu, đi lang thang, đi quạnh quẽ. 58,9 38,9 2,2 12 Cánh hồng - Sự kết nối tình yêu: Sao buổi đầu xuân êm ái thế! Cánh hồng kết những nụ cười tươi. 79,0 13,3 7,7 13 Lá - Cành - Sự chờ đón tình yêu: Lá lim dim trên mấy ngọn bằng bằng Cành lả lả chờ tay ai đón đẩy. 71,2 24,4 4,4 Cá - Chim - Tin tức tình yêu: Hay là nhắn cá gởi chim Nhờ mưa đưa bức chăn êm tới người. 65,7 31,0 3,3 14 Chim - Trái tim: Mau với chứ, vội vàng lên với chứ, Em, em ơi, tình non đã già rồi: Con chim hồng, trái tim nhỏ của tôi Mau với chứ! Thời gian không đứng đợi 47,8 47,8 4,4 - Tình cảm mỏng manh, không chắc chắn: Dầu chiếm tay em, anh vẫn hay Rằng anh chỉ nắm cánh chim bay Bao giờ có được người yêu dấu! Chất chứa trong lòng vạn đắng cay. 74,5 21,1 4,4 15 Đàn - Tình cảm yêu thương: Anh còn nghỉ ngợi bước như mơ Mắt thẩn thơ trong cảnh thẫn thờ Đàn của hồn ta ai vặn thế Gặp nhau khi ấy bỗng hòa tơ. 72,2 25,6 2,2 - Mong đợi, say đắm, khát khao: Anh đợi tin em đến cháy lòng Lo em tai nạn xảy ra không? Sao em không viết, thư không gửi. Tim cứ quay về mãi hướng trong. 77,8 21,1 1,1 - Rung động, ngất ngây, mong muốn được yêu: Lòng tôi bốn phía mở cho trăng Khách lại mười phương cũng đãi đằng Nước ngọt sẵn tuôn, vườn đợi hái Đường không ngăn cấm, cỏ chờ băng. 64,4 28,9 6,7 - Vật dễ vỡ: Anh vẫn tưởng chuyện đùa khi tuổi nhỏ Ai có ngờ lòng vỡ đã từ bao! 45,6 50,0 4,4 - Sự thờ ơ, lạnh nhạt: Như đối cùng ta giữa cảnh mưa Mà lòng không hiểu trán bơ vơ Không tăng âu yếm trong câu nói Trong mắt còn nguyên vẻ hững hờ. 74,5 21,1 4,4 - Cô đơn, đau đớn, thất vọng: Đường rạo rực, thì thầm rối rắm Ngập lòng tôi. Mà ai ngó tới đâu! Tôi điên cuồng tất nhiên phải khổ đau Tôi biết lắm, trời ơi, tôi biết lắm! 67,8 27,8 4,4 16 Lòng - Sự kết hợp lứa đôi: Trong thấy chiều hôm ngơ ngẩn vậy Lòng anh thôi đã cưới lòng em. 68,9 26,7 4,4 Lòng dạ - Tình cảm sâu kín: Tôi biết lắm, trời ơi, tôi biết lắm! Hỡi lòng dạ sâu xa như vực thẳm! 66,7 28,9 4,4 Hoa lòng, nhụy lòng,.. - Những cụm từ mới lạ, lòng làm định ngữ cho sự tươi đẹp, dạt dào của tình yêu: (1) Cho anh một đóa hoa tinh túy Một đóa hoa lòng chẳng héo khô. (2) Người si muôn kiếp là hoa núi Uổng nhụy lòng tươi tặng khách hờ. 72,2 21,1 6,7 Phần 4.3. Xuân Quỳnh thơ tình Nhận xét (%) STT Hình ảnh Liên tưởng (nghĩa biểu trưng) Đúng Sai Không nhận xét (1) (2) (3) (4) (5) (6) Màu hoa - Tình yêu nồng cháy: Thời gian đi màu hoa cũ về đâu Nay trở lại vẫn như còn mới mẻ Bao mùa thu hoa vẫn vàng như thế Chỉ em là đã khác với em xưa … Nhưng màu hoa đâu dễ nguôi quên Thành phố ngợp ngày nao chiều gió dậy Gương mặt ấy lời yêu thuở ấy Màu hoa vàng vẫn cháy ở trong em. 54,4 24,4 21,2 1 Bông cúc - Người con gái: Anh mơ anh thấy có em Thấy bông cúc nhỏ nơi triền đất quê. 60,0 25,6 14,4 - Hoài niệm: Hoa cúc xanh có hay là không có Trong đầm lầy tuổi nhỏ của anh xưa. … Hoa cúc xanh có hay là không có Tháng năm nào ấp ủ thuở ngây thơ. 71,1 24,4 4,4 Hoa nghệ, hoa diếp, hoa sim - Nỗi đau đớn, tủi hờn, oán trách về cuộc đời người con gái: Khắp Hoàng Liên trên một ngàn thước núi Hoa nếp mỏng manh trước tầm gió thổi Hoa diếp vàng cô độc giữa thâm u Và bên đường hoa nghệ dại ngẩn ngơ Hoa sim tím một nỗi buồn hoang dã . . . Những hoa này chỉ hoa dại mà thôi. 80,0 16,7 3,3 Hoa cúc - Mơ ước: Hoa cúc xanh, có hay là không có Một ngôi trường bé nhỏ cuối ngàn xa Mơ ước của người hay mơ ước của hoa Mà tươi mát mà dịu dàng đến thế. 53,3 42,2 4,4 Hoa - Người con trai: Anh có nghe hoa rơi Quanh chỗ mình đứng đó Hoa ơi sao chẳng nói Anh ơi sao lặng thinh Đốt lòng em câu hỏi “Yêu em nhiều không anh”. 83,3 16,7 0,0 Hoa tường vi - Cuộc đời người con gái lận đận trong tình duyên: (1) Hoa tường vi như thực lại như mơ Cùng tôi sống suốt một thời trẻ dại . . . Hoa phảng phất mối tình trong truyện cổ Mang lỡ lầm oan ức đã xa xôi Hoa tường vi thời trẻ dại của tôi Hoa hiểu cả những điều tôi chẳng nói. 57,8 20,0 2,2 - Sự chia ly, tiễn biệt: Sân ga chiều em đi Bàn tay da diết năm Vừa thoáng tiếng còi tàu Lòng đã nam đã bắc. 51,1 47,8 1,1 Con tàu – sân ga - Tình yêu, hạnh phúc: Tàu sẽ dừng ga cuối Xin đừng vội ra đi Cho phút giây gặp gỡ Đỡ lo giờ cách chia. 61,3 37,5 1,2 2 Áo - Kỷ niệm tuổi thơ: Tuổi thơ tôi trong vạt áo của bà, Chuyện cổ tích chẳng xua tan nỗi sợ. 62,2 36,7 1,1 3 Mưa - Lý tưởng hạnh phúc, niềm tin tuổi trẻ: Nước đây rồi! Ơi bạn bè anh em! Chúng tôi vục trăm gầu nước mát Trận mưa này mưa từ lòng đất Trận mưa này, mưa của chúng tôi. 75,6 23,3 1,1 - Con người : Người trẻ trung, thành phố thì già Em và anh lúc bấy giờ cũng trẻ Chúng ta qua những ngôi nhà đổ vỡ Dòng chữ ghi trước cửa của người đi Con đường dài bóng lá đan thưa Trận mưa rào cảm thông và độ lượng … 50,0 45,6 4,4 - Thân phận người phụ nữ: “Thân gái như hạt mưa sa Hạt vào gác tía hạt ra vũng lầy” Hạt mưa sa trên bùn lầy nước đọng Một kiếp người nhắm mắt lệ còn rơi … 90,0 10,0 0,0 - Tuổi trẻ: Tôi biết chắc mùa xuân rồi cũng hết Hôm nay non, mai cỏ sẽ già Tôi đã đi mấy chặng đường xa Vượt mấy núi mấy rừng qua mấy biển. 80,0 16,7 3,3 4 Xuân - Thời gian một năm: Lòng ta như cánh đồng Màu xanh là mãi mãi Như gốc hoa đã hái Mùa sau lại ra hoa Mùa xuân này đi qua Thì mùa xuân khác tới. 64,4 26,7 8,9 - Vật cụ thể: Em đi qua phố Hàng Đào Mãi vui chân bước lạc vào Hàng Ngang Gặp mùa xuân ở Hồ Gươm Trong muôn màu áo trên đường chiều nay … Cô cười và chỉ mùa xuân Ở trên lá chiếu chúng mình mới mua. … Cỏ xanh xanh suốt chân đê! Ô hay xuân vẫn cùng đi với mình. 63,3 30,0 6,7 5 Lệ - Đau khổ cực độ: Hạt mưa sa trên bùn lầy nước đọng Một kiếp người nhắm mắt lệ còn rơi. 85,6 8,9 5,6 6 Trăng - cây - Tình yêu: Mặt trời mọc mãi từ cuối biển Vầng trăng lên lưu luyến những hàng cây. 55,6 34,4 10,0 - Tình yêu của người con gái: Xóm làng nào anh sẽ đi qua Những đồng lúa, vườn cây bờ bãi … Dẫu em biết chắc rằng anh trở lại, Ngọn gió buồn vẫn thổi phía không anh. 53,3 46,7 0,0 7 Gió - Người phụ nữ có cá tính: Ngọn gió nam tư do phiêu lưu Phía các đại dương ập đến Gió khuấy động chân sóng sâu đáy biển Làm nước đỏ ngầu lên Không vật gì dưới nước được nằm yên. 80,0 17,8 2,2 - Kỷ niệm tuổi thơ: Tôi trở về tìm lại tuổi thơ Hoa sấu rụng bên chái nhà đã cũ Nhũng đêm vắng nghe tiếng gào của gió Tiếng súng rền, tiếng mõ, tiếng người la. 68,9 28,9 2,2 Gió - mây - Tình yêu lứa đôi: Mây trắng bay đi cùng với gió Lòng như trời biếc lúc nguyên sơ Đắng cay gửi lại bao mùa cũ Thơ viết đôi dòng theo gió xa. 58,9 37,8 3,3 Gió - cát - Lý tưởng, vận mệnh đất nước: Tôi sẵn lòng đem hiến cả đời tôi Cho cát trắng và gió lào quạt lửa. 72,3 23,3 4,4 Cát - nắng - Tình yêu lứa đôi: Chỉ có cát phơi mình dưới nắng Chỉ có cát nghiêng về phía sóng Như tấm lòng tôi ngóng những thuyền xa. 57,8 40,0 2,2 - Trắc trở, thử thách: Qua bao ngày lửa đạn Đất về với mùa xuân Như em về với anh Qua những ngày sóng gió. 75,5 6,7 17,8 8 Sóng - Con người : Ở chân trời đã sấm chớp rồi kia Mây đen đến gió xanh mặt biển Sóng reo mừng chúng tôi chờ đón Nhưng mưa chẳng tới đây mưa rất xa Cơn mưa kia nào phải của ta: 51,1 47,8 1,1 - Sự nhớ nhung da diết: Con sóng dưới lòng sâu Con sóng trên mặt nước Ôi con sóng nhớ bờ Ngày đêm không ngủ được Lòng em nhớ đến anh Cả trong mơ còn thức 77,8 22,2 0,0 - Khả năng vượt khỏi sự nhỏ bé tình yêu: Dữ dội và dịu êm Ồn ào và lặng lẽ Sóng không hiểu nỗi mình Sóng tìm ra tận bể. 75,6 23,3 1,1 - Tình cảm, tình yêu: Sông cũng như tình yêu-sông thiên vị Lấy phù sa bên lở đắp bên bồi Sóng vỗ về bờ cỏ non tươi Lá xanh mướt cơn mưa vừa gội. 64,4 28,9 6,7 Sóng - cát - Tình yêu lứa đôi: Chỉ có cát phơi mình dưới nắng Chỉ có cát nghiêng về phía sóng Như tấm lòng tôi ngóng những thuyền xa. 80,1 14,4 5,5 Thuyền - bến, thuyền - đất - Hạnh phúc lứa đôi: Suốt đêm dài mũi đất chẳng nguôi yên Đất đi cùng với những con thuyền Trong tiếp gió gọi hoài không ngớt. 57,8 31,1 11,1 9 Thuyền - biển - Tâm trạng nhiều biến động của người đang yêu: Những ngày không gặp nhau Biển bạc đầu thương nhớ Những ngày không gặp nhau Lòng thuyền đau rạng vỡ. 68,9 27,8 3,3 - Sự dữ dội nồng nàn của tình yêu: Cũng có khi vô cớ Biển ào ạt xô thuyền Vì tình yêu muôn thuở Có bao giờ đứng yên. 80,0 16,7 3,3 - Sự bất tận của tình yêu: Lòng thuyền nhiều khát vọng Và tình biển bao la Thuyền đi hoài không mỏi Biển vẫn còn xa xa. 65,6 31,1 3,3 - Tình yêu lứa đôi: Biển như cô gái nhỏ Thì thầm gửi tâm tư Quanh mạn thuyền sóng vỗ. 55,6 40,0 4,4 - Người con trai: Chỉ có cát phơi mình dưới nắng Chỉ có cát nghiêng về phía sóng. Như tấm lòng tôi nhớ những thuyền xa. 55,6 32,2 12,2 - Người con gái đang yêu: Biển hay tình em đó Gọi lòng anh bay xa. 62,3 34,4 3,3 10 Biển - Cuộc đời người con gái thời chiến tranh: Biết bao nhiêu năm tháng đi qua Dẫu biển đã trải nhiều chiến trận Chưa bao giờ biển mang thương tích Mảnh bom đạn biển dấu tận lòng sâu. 68,9 27,8 3,3 - Tình bao dung, rộng lượng của người phụ nữ: Biển chỉ quen theo qui luật của mình Biển vẫn ấm những ngày trở rét Biển vẫn mát những ngày nắng khét Dẫu vui buồn biển vẫn mênh mông Vẫn là nơi gặp gỡ triệu dòng sông 72,3 23,3 4,4 Cây - Tâm trạng người đang yêu: Cát vắng, sông đầy cây ngẩn ngơ Không gian xao xuyến chuyển sang mùa Tên mình ai gọi sau vòm lá Lối cũ em về nay đã thu. 62,3 30,0 7,1 Cây bàng, phi lao - Con người: Cây bàng gai nhìn tôi trách móc Rặng phi lao chẳng còn reo hát Cây giận rồi và gió cũng lặng im. 65,6 32,2 2,2 11 Phi lao - Tình yêu lứa đôi: Bên bờ hàng phi lao Đang thì thầm tình tự Nhìn đâu cũng thấy nụ cười Hàng phi lao hát những lời mát xanh. 55,6 42,2 2,2 - Tình yêu của người con gái: Lòng những muốn trở thành ngọn cỏ Bên lề đường ngày đó tiễn anh đi. 68,9 28,9 2,2 12 Cỏ - Kỷ niệm tình yêu: Người mới đến những nơi tôi từng đến Lại con đường vạt cỏ tuổi mười lăm Lại hàng cây nghe tiếng thì thầm Lời thành thật, dối lừa trên ghế đá. 65,6 31,1 3,3 - Thân phận bé nhỏ: Có mấy ai nhớ về ngọn cỏ Mọc vô tình trên lối ta đi Dẫu nhỏ nhoi không đáng nhớ làm chi Không nghĩ đến nhưng mà vẫn có. 82,2 15,6 2,2 - Sự tươi trẻ, sức sống con người: Người thành phố ra khỏi phòng chật chội Chợt nhìn sang bãi cỏ mênh mông Thấy thảnh thơi mát nhẹ trong lòng Sau những buổi bộn bề công việc Và bãi cỏ hình như cũng biết Nên tháng ngày xanh mãi không thôi. 72,3 24,4 3,3 - Sự yên bình: Trong ác liệt bỗng biết ơn màu cỏ Cỏ làm bớt hoang tàn Cỏ làm bớt thương đau. 61,1 36,7 2,2 13 Cá, cua - Con người: Cá đoàn tụ sau mùa giá rét Cua hết gầy trong đêm tối không trăng. 53,3 42,3 4,4 16 Gạch - Con người: Anh đã đi cùng em Bàn chân in gạch lát Gạch như lên tiếng hát Mỗi khi lòng ta vui Gạch mang màu thương nhớ Mỗi khi mình xa xôi. 80,0 16,7 3,2 17 Nón - Tình cảm, tình yêu lứa đôi: Mưa to thế chắc sông tràn bờ cỏ Thương chiếc xe anh nhọc nhằn trong gió Mái nhà nao đêm nay anh dừng chân Ước chi làm chiếc nón che anh. 61,1 37,8 1,1 - Mong ước tột đỉnh: Người chống giặc bốn năm ở dưới hầm sâu Vẫn mong ước cháy lòng được đi trên mặt đất Đó miền đất nơi em tìm đến Đã có gì kỷ niệm của ta đâu. 65,6 33,3 1,1 - Khát khao tột đỉnh: Những bài thơ mình viết cho mình Cho bè bạn những người yêu quí nhất Những bài thơ viết về súng đạn Về khu rừng cháy khát những mầm cây Về khát khao từng đốt cháy lòng Hạnh phúc đang còn tình yêu đã mất. 55,5 40,1 4,4 18 Lòng - Mong chờ tột đỉnh: Con chuồn ngô hay làm dáng Chao mình soi mặt ao trong Đốt cháy lòng một nét chờ mong. 58,1 38,7 3,2 ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLA7070.pdf