MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm và coi trọng công tác giáo dục - đào tạo (GD-ĐT). Cùng với khoa học và công nghệ, GD-ĐT đã được Đại hội VIII của Đảng xác định là quốc sách hàng đầu, coi đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho phát triển. Trong những năm qua, mặc dù điều kiện đất nước và ngân sách nhà nước còn nhiều khó khăn, Nhà nước vẫn dành một tỷ lệ ngân sách đáng kể để đầu tư cho giáo dục và đào tạo. Với nguồn ngân sách đó, GD-ĐT đã đạt được những kết quả đ
110 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 2051 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Tiếp tục đổi mới quản lý ngân sách giáo dục - Đào tạo ở nước ta hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
áng khích lệ, nhưng vẫn còn bộc lộ nhiều hạn chế cần phải khắc phục. Để phát huy hơn nữa hiệu quả sử dụng ngân sách, khắc phục những hạn chế còn tồn tại, một trong những vấn đề quan trọng cần phải làm sáng tỏ thêm cả về lý luận lẫn thực tế đó là đổi mới quản lý ngân sách giáo dục- đào tạo. Xuất phát từ thực tế trên đây, đề tài "Tiếp tục đổi mới quản lý ngân sách giáo dục - đào tạo ở nước ta hiện nay" được lựa chọn làm luận văn tốt nghiệp cao học chuyên ngành quản lý kinh tế và hy vọng rằng sẽ đóng góp một phần nhỏ đáp ứng đòi hỏi thực tiễn đang đặt ra hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Đã có một số công trình nghiên cứu về đổi mới công tác lập kế hoạch và cơ chế quản lý ngân sách giáo dục và đào tạo giai đoạn 1990 - 1995 như "Đổi mới và hoàn thiện cơ chế quản lý ngân sách hệ thống giáo dục quốc dân" của TS Trần Thu Hà (năm 1993); đề tài "Xây dựng qui trình lập kế hoạch và cơ chế điều hành ngân sách giáo dục - đào tạo", đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ của Bộ Tài chính (năm 1996)... Các công trình trên đề cập đến nhiều khía cạnh về quản lý, điều hành ngân sách giáo dục - đào tạo ở tầm vĩ mô, nặng về tổng kết thực hiện các năm trước, chưa chú trọng nghiên cứu một cách cơ bản, hệ thống cơ chế quản lý ngân sách GD-ĐT và ít chú trọng đến các giải pháp thực hiện, nhất là trong giai đoạn 2000- 2010. Vì vậy, đề tài được lựa chọn nghiên cứu góp phần bổ sung, hoàn thiện thêm những vấn đề còn bỏ ngỏ, đang cần được làm rõ.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của luận văn
Luận văn nghiên cứu chủ yếu về quản lý ngân sách GD-ĐT ở nước ta trong thời gian qua, trong đó đi sâu phân tích thực trạng quản lý và công tác kế hoạch hóa ngân sách GD-ĐT; Thực trạng công tác điều hành ngân sách GD-ĐT và việc quản lý, sử dụng các nguồn thu ngoài ngân sách nhà nước.
Trong khuôn khổ luận văn cao học và đối tượng nghiên cứu trên đây, luận văn giới hạn trong phạm vi quản lý kế hoạch ngân sách GD-ĐT, các giải pháp chủ yếu để tiếp tục đổi mới quản lý ngân sách GD-ĐT (không nghiên cứu kế hoạch phát triển GD-ĐT). Các khía cạnh khác liên quan sẽ được đề cập khi cần thiết.
4. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn
+ Mục đích:
Luận văn nghiên cứu làm rõ thêm nội dung quản lý ngân sách giáo dục - đào tạo; góp phần nâng cao chất lượng GD-ĐT ở nước ta trong điều kiện cơ chế thị trường.
+ Nhiệm vụ của luận văn:
- Hệ thống hóa và làm rõ thêm về lý luận vị trí của sự nghiệp GD-ĐT; Mối quan hệ giữa GD-ĐT với sự phát triển kinh tế xã hội và nội dung quản lý ngân sách GD-ĐT.
- Phân tích tình hình và thực trạng quản lý ngân sách GD-ĐT ở nước ta, nhất là những năm trong thời kỳ đổi mới gần đây.
- Đề xuất phương hướng, giải pháp tiếp tục đổi mới quản lý ngân sách GD-ĐT ở nước ta hiện nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận để nghiên cứu luận văn là chủ nghĩa duy vật biện chứng, duy vật lịch sử và các quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm đường lối chính sách tài chính, chính sách giáo dục nước ta.
Cùng với phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, đề tài sử dụng các phương pháp nghiên cứu là kết hợp nghiên cứu lý thuyết với quan sát đánh giá thực tiễn, đồng thời sử dụng phương pháp thống kê, tổng hợp, hệ thống hóa, phân tích, so sánh từ đó đề ra các giải pháp nhằm tiếp tục đổi mới quản lý ngân sách GD-ĐT ở nước ta hiện nay.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận văn gồm 3 chương, 9 tiết
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ QUẢN LÝ NGÂN SÁCH
NGÀNH GIÁO DỤC - ĐÀO TẠO
1.1. SỰ NGHIỆP GIÁO DỤC - ĐÀO TẠO TRONG PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI CỦA ĐẤT NƯỚC
1.1.1. Vai trò, vị trí của sự nghiệp giáo dục - đào tạo
Giáo dục bao gồm tất cả các loại hình học tập từ mầm non, giáo dục phổ thông, bổ túc văn hóa nhằm nâng cao dân trí, bồi dưỡng thế hệ trẻ thành người lao động có giác ngộ chính trị, có phẩm chất đạo đức, có sức khỏe đồng thời có trình độ văn hóa phổ thông, làm cơ sở cho quá trình đào tạo tiếp theo. Đào tạo bao gồm các lĩnh vực từ trung học chuyên nghiệp, dạy nghề, cao đẳng, đại học và sau đại học, đây là quá trình truyền thụ kiến thức khoa học kỹ thuật cho người học, nhằm nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, tay nghề cho người lao động, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài cho đất nước. Trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, giáo dục và đào tạo luôn luôn có mối liên quan mật thiết với nhau. Giáo dục và nền tảng để phát triển đào tạo, đào tạo là hoạt động tiếp tục của giáo dục, đào tạo có tác dụng thúc đẩy, định hướng và dẫn dắt sự phát triển của giáo dục.
Giáo dục - Đào tạo là hoạt động không thể thiếu đối với sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia. Muốn có một nền kinh tế phát triển, một xã hội văn minh đòi hỏi phải có một nguồn nhân lực phát triển cả về thể chất lẫn trí tuệ. Sản phẩm của GD-ĐT là con người, là yếu tố đặc biệt quan trọng trong quá trình sản xuất tạo ra của cải vật chất cho xã hội. Trình độ thành thạo, kỹ năng của con người có tác động trực tiếp đến năng suất lao động, việc hình thành kỹ năng nhất thiết phải thông qua giáo dục và phải được đào tạo.
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH) đất nước về thực chất là nâng cao năng suất lao động xã hội bằng cách thúc đẩy phát triển công nghiệp, sử dụng khoa học công nghệ tiên tiến, đưa đất nước lên một trình độ phát triển mới. Nhân tố quyết định thành công của CNH, HĐH tất yếu là nhân tố con người. Mệnh đề "con người đứng ở trung tâm của sự phát triển", với ý nghĩa "con người vừa là mục đích, vừa là tác nhân của sự phát triển" đã được UNESCO chính thức đề ra trong tài liệu "Hiểu để hành động", xuất bản năm 1997 tại Paris. Quan điểm này ngày nay được nhiều nước thừa nhận và phát triển hết sức phong phú cả về lý luận và thực tiễn như một qui luật phát triển của thời đại. Các nước đang phát triển có thể rút ngắn thời kỳ công nghiệp hóa trên cơ sở đầu tư phát triển mạnh nguồn lực con người. Sự đầu tư được hiểu trên cả ba mặt: chăm sóc sức khỏe, nâng cao mức sống và phát triển sự nghiệp GD-ĐT. Trong đó đầu tư cho sự nghiệp GD-ĐT là đầu tư có hiệu quả nhất.
Sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở đất nước ta đặt ra mục tiêu là đến năm 2020 về cơ bản sẽ trở thành một nước công nghiệp. Nhân tố quyết định thắng lợi của công cuộc CNH, HĐH là nguồn lực con người Việt Nam được phát triển về số lượng và chất lượng trên cơ sở mặt bằng dân trí được nâng cao. Vì vậy, muốn đảm bảo tăng trưởng về kinh tế, giải quyết các vấn đề xã hội, củng cố an ninh quốc phòng, giữ vững an ninh chính trị trước hết phải chăm lo phát triển nguồn lực con người, chuẩn bị lớp người lao động có những phẩm chất và năng lực phù hợp với yêu cầu phát triển đất nước trong giai đoạn mới. Để làm được điều này ngành GD-ĐT phải nhanh chóng đổi mới, phấn đấu đưa nền giáo dục nước nhà đạt trình độ tiên tiến so với các nước trong khu vực trong vòng một, hai thập kỷ tới.
1.1.2. Mối quan hệ giữa giáo dục - đào tạo với sự phát triển kinh tế - xã hội
Giáo dục - đào tạo đã và đang trở thành một lực lượng sản xuất trực tiếp, góp phần không nhỏ vào việc thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội. Nhận thức đúng đắn vai trò của GD-ĐT đã làm thay đổi thái độ của nhiều quốc gia đối với vấn đề phát triển giáo dục. Nhiều quốc gia đã nhìn thấy nguy cơ tụt hậu của quốc gia mình, có một phần nguyên nhân từ sự yếu kém về GD-ĐT. Vì vậy, xu hướng tăng cường phát triển GD-ĐT, coi nó như một đòn bẩy thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội đã trở thành một xu hướng có tính chất toàn cầu trong giai đoạn hiện nay.
1.1.2.1. Giáo dục - đào tạo là động lực đối với sự phát triển kinh tế - xã hội
Trong sự phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia, lao động là yếu tố chủ thể của quá trình sản xuất. trong đó tri thức, kỹ năng của người lao động là yếu tố quyết định sự phát triển của lực lượng sản xuất, là động lực thúc đẩy sự tiến bộ không ngừng của khoa học công nghệ nhằm nâng cao năng suất lao động [1]. C.Mác đã từng chỉ ra rằng: lao động lành nghề là bội số của lao động giản đơn. Như vậy lao động đã qua đào tạo trong một thời gian nhất định tạo ra nhiều giá trị hơn lao động chưa qua đào tạo. Nhưng trong thực tế không phải mọi lao động đều có trình độ nghề nghiệp như nhau, đồng thời do tính phong phú đa dạng của nền kinh tế - xã hội tạo nên lao động có những nghề nghiệp khác nhau và trình độ lao động của mỗi người cũng khác nhau trên cơ sở đáp ứng yêu cầu của từng ngành, từng đơn vị và từng vị trí lao động cụ thể. Vì vậy, GD-ĐT phải cung cấp cho các ngành của nền kinh tế xã hội lực lượng lao động không chỉ về số lượng mà còn đảm bảo về chất lượng, về cơ cấu ngành nghề và cơ cấu trình độ lao động. Nguồn nhân lực với số lượng và chất lượng cao sẽ là một trong những nhân tố quan trọng nhất quyết định qui mô, tốc độ tăng trưởng kinh tế - xã hội.
Sự phát triển nguồn lực thông qua GD-ĐT là nền tảng của tư tưởng giáo dục là quốc sách hàng đầu và giáo dục là động lực của sự phát triển kinh tế xã hội. Theo chương trình phát triển của Liên hợp quốc (UNDP) trong sự phát triển nguồn lực có 5 nhân tố là:
Giáo dục, sức khỏe và dinh dưỡng, môi trường, việc làm, tự do chính trị và kinh tế. Năm nguồn này liên kết và phụ thuộc nhau, nhưng giáo dục được coi là nhân tố cơ bản, là nhân tố thiết yếu để cải thiện sức khỏe và dinh dưỡng, để duy trì môi trường có chất lượng cao, để mở rộng và cải thiện nguồn lao động. Chính vì thế mà hầu như mọi nước đều nhấn mạnh đến chính sách giáo dục như là chính sách ưu tiên quốc gia trong khi xúc tiến các kế hoạch cho sự phát triển [32, tr. 41].
Vai trò động lực đối với sự phát triển kinh tế xã hội của GD-ĐT còn được thể hiện ở việc giáo dục nâng cao dân trí làm nền tảng cho sự phát triển của đất nước. Dân trí được biểu hiện ở trữ lượng và trình độ học vấn của dân tộc. Giáo dục nâng cao dân trí có nghĩa giáo dục phải nâng cao được qui mô và chất lượng về phẩm chất đạo đức, trình độ khoa học công nghệ, thể chất và thẩm mỹ. Trình độ dân trí được coi là sức mạnh của công cuộc phát triển kinh tế xã hội của đất nước trước mắt và lâu dài.
Khi đánh giá mặt bằng dân trí của quốc gia người ta phải chú ý cả phương diện định tính và định lượng của dân trí. Mặt định tính của dân trí được thể hiện ở chất lượng học vấn mà người dân đã đạt được (học vấn đó có phù hợp với trình độ tri thức chung của thế giới hay không). Mặt định lượng của dân trí được xác định qua các chỉ số như:
· Tỷ lệ người biết chữ so với tổng số dân
· Tỷ lệ thanh niên, nhi đồng dưới 23 tuổi được đi học
· Bình quân số năm học trung bình của một người dân
· Tỷ lệ trẻ 5 tuổi học mẫu giáo trước lúc vào tiểu học
· Tỷ lệ học sinh học trong độ tuổi 6- 11
· Tỷ lệ học sinh trung học các cấp, các ngành ở độ tuổi 11- 16
· Tỷ lệ sinh viên đại học ở độ tuổi 17- 23...
Trong các chỉ tiêu trên, chỉ tiêu về tỷ lệ người biết chữ và số năm học trung bình của một người dân là hai chỉ tiêu quan trọng nhất để xác định mặt định lượng của dân trí [3].
Nhìn khái quát lịch sử phát triển kinh tế - xã hội của nhiều quốc gia trong thế kỷ qua cũng cho thấy vị trí quan trọng hàng đầu của sự nghiệp phát triển GD-ĐT trong phát triển kinh tế - xã hội.
Ngay những năm 20 của thế kỷ XX, nhà kinh tế học giáo dục lỗi lạc người Nga - X.G.Strumilin đã rút ra kết luận quan trọng: Đầu tư cho giáo dục để phát triển nhân lực 1 đồng sẽ đem lại khả năng sinh lời 4 đồng cho nền kinh tế. Những năm 60 của thế kỷ XX, một nhà kinh tế học giáo dục người Mỹ cùng cộng sự của mình nghiên cứu và đi tới kết luận: Trong hai nguồn vốn cơ bản cho phát triển, cho công nghiệp hóa thì "Vốn người"- Human Capital giữ vai trò quyết định so với "vốn vật chất"- Material Capital.
Thế giới hiện đại ngày nay cũng cung cấp nhiều bằng chứng thuyết phục: Không có quốc gia nào phát triển cao mà trình độ nhân lực, học vấn dân tộc thấp. Tương tự, không có quốc gia nào có trình độ nhân lực thấp kém lại phát triển cao. Cạnh tranh quốc tế ngày nay thực chất là cạnh tranh về khoa học - công nghệ, cạnh tranh về nguồn nhân lực có trình độ cao, mà khoa học - công nghệ và trình độ nhân lực lại phụ thuộc vào sự phát triển của GD-ĐT. Vì vậy, GD-ĐT là nền tảng của sự phát triển, đầu tư cho GD-ĐT là đầu tư vào lĩnh vực phát triển bền vững và hiệu quả nhất.
1.1.2.2. Kinh tế xã hội đảm bảo điều kiện cho phát triển giáo dục - đào tạo
Bất cứ nền giáo dục nào cũng không thể tồn tại và phát triển được nếu thiếu điều kiện đảm bảo về kinh tế. Nếu giáo dục được coi là động lực cho sự phát triển kinh tế - xã hội thì kinh tế - xã hội là nền tảng đảm bảo điều kiện cho phát triển giáo dục. Điều này thể hiện ở một số phương diện sau:
- Kinh tế - xã hội đảm bảo cho sự phát triển GD-ĐT thông qua việc đầu tư.
Muốn duy trì được hoạt động bình thường và phát triển GD-ĐT, nhất thiết phải đầu tư. Nguồn đầu tư lớn nhất và có tính chất thường xuyên, ổn định là ngân sách nhà nước. Đầu tư càng lớn thì giáo dục càng có điều kiện phát triển, tuy vậy sự đầu tư còn phụ thuộc vào khả năng của nền kinh tế đất nước cũng như chủ trương, chính sách của Nhà nước và sự quan tâm của xã hội đối với giáo dục. Ngược lại, nếu đầu tư ít, dẫn đến giáo dục sẽ chậm phát triển. Giáo dục chậm phát triển thì khó đạt được các mục tiêu dân trí, nhân lực, nhân tài, từ đó ảnh hưởng đến sự tăng trưởng kinh tế.
- Kinh tế - xã hội định hướng và tạo môi trường xã hội cho sự phát triển giáo dục.
Một trong những qui luật cần lưu ý trong phát triển GD-ĐT là GD-ĐT chịu sự chế ước của xã hội. Nội dung qui luật này thể hiện ở sự qui định của kinh tế xã hội đối với giáo dục. Điều này có nghĩa: sự phát triển kinh tế - xã hội qui định sự phát triển giáo dục, giáo dục mặc dù có sự vận động độc lập của một tiểu hệ thống, nhưng phải định hướng theo sự định hướng của hệ thống lớn là kinh tế - xã hội.
Kinh tế - xã hội không chỉ định hướng, đầu tư về cơ sở vật chất và tài chính mà còn tạo ra môi trường xã hội rộng lớn tạo điều kiện cho sự phát triển giáo dục. Môi trường xã hội của giáo dục gồm: Môi trường gia đình, các cộng đồng dân cư, các tổ chức xã hội... Môi trường xã hội tạo điều kiện cho sự phát triển giáo dục ở chỗ: thứ nhất, hỗ trợ các điều kiện vật chất, tinh thần cho giáo dục; thứ hai, góp phần tác động giáo dục đến các đối tượng giáo dục (học sinh, sinh viên...); thứ ba, sử dụng người được đào tạo. Như vậy, để phát triển giáo dục, cần tạo ra mối quan hệ, liên hệ chặt chẽ giữa Đảng, Nhà nước với giáo dục.
Tóm lại, giáo dục và kinh tế xã hội có mối quan hệ biện chứng với nhau. Giáo dục là động lực cho sự phát triển kinh tế xã hội, nhưng muốn phát triển giáo dục, cần phải có sự đảm bảo các điều kiện từ phía kinh tế - xã hội, một trong những điều kiện đó là sự đầu tư của kinh tế - xã hội cho giáo dục.
1.1.3. Quan điểm của Đảng và Nhà nước về giáo dục - đào tạo
Dân tộc ta có truyền thống văn hóa lâu đời, đó là truyền thống hiếu học, tôn sư trọng đạo. Cổ nhân xưa vẫn thường dạy: "Ấu bất học, Lão hà vi", điều này có thể nói rằng không học hành thì chẳng thể làm được việc gì. Ngay từ sau Cách mạng tháng 8 năm 1945, thấm nhuần lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh: "Vì lợi ích mười năm trồng cây, vì lợi ích trăm năm trồng người", Đảng và Nhà nước ta đã đặc biệt quan tâm tới GD-ĐT, đã có nhiều chủ trương, biện pháp thúc đẩy ngành GD-ĐT phát triển, góp phần vào sự nghiệp kháng chiến và xây dựng đất nước của dân tộc ta. Tư tưởng chỉ đạo của Đảng và Nhà nước được thể chế bằng các văn bản có hiệu lực pháp lý cao như Hiến pháp 1946, Hiến pháp 1959, Hiến pháp 1980 và đặc biệt Hiến pháp 1992 đã ghi rõ: "Giáo dục và Đào tạo được xác định là quốc sách hàng đầu" (Điều 35). Đến Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 4 (khóa VII) năm 1993 đã ra Nghị quyết về "Tiếp tục đổi mới sự nghiệp giáo dục - đào tạo" với bốn quan điểm:
- Giáo dục và đào tạo là quốc sách, là động lực thúc đẩy, là điều kiện cơ bản đảm bảo việc thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội, xây dựng và bảo vệ đất nước, phải coi đầu tư cho giáo dục là hướng chính của đầu tư phát triển
- Mục tiêu giáo dục nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, đào tạo những con người có kiến thức văn hóa, khoa học, có kỹ năng nghề nghiệp... Mở rộng qui mô đào tạo, đồng thời chú trọng nâng cao chất lượng hiệu quả giáo dục, gắn học với hành, tài với đức.
- Giáo dục - đào tạo gắn với yêu cầu phát triển đất nước và phù hợp với xu thế tiến bộ của thời đại.
- Đa dạng hóa các hình thức đào tạo, thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục.
Trong báo cáo chính trị của Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ VIII đã chỉ rõ: "Cùng với Khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Coi trọng cả ba mặt: mở rộng qui mô, nâng cao chất lượng và phát huy hiệu quả " [38, tr. 107]. Đại hội lần thứ VIII Đảng Cộng sản Việt Nam cũng khẳng định "đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước". Để thực hiện thành công sự nghiệp CNH, HĐH phải "lấy việc phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững". Đảng Cộng sản Việt Nam đã chọn GD-ĐT, khoa học - công nghệ (KH-CN) làm khâu đột phát trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội. Đây là một chủ trương hoàn toàn đúng đắn, chính vì vậy Đảng ta đã có riêng Nghị quyết Trung ương 2 (khóa VIII) về GD-ĐT và KH-CN. Nghị quyết Trung ương 2 (khóa VIII) đã nhất quán với tư tưởng và mục tiêu đã nêu ở Nghị quyết Trung ương 4 (khóa VII) và Nghị quyết Đại hội VIII của Đảng. Trong đó đã nêu 6 định hướng chiến lược phát triển GD-ĐT trong thời kỳ CNH, HĐH, đó là:
- Mục tiêu cơ bản của GD-ĐT là nhằm xây dựng con người có lý tưởng, đạo đức trong sáng, biết giữ gìn và phát huy các giá trị văn hóa của dân tộc, có năng lực và biết phát huy nội lực, làm chủ tri thức khoa học và công nghệ hiện đại, có tư duy sáng tạo, kỹ năng thực hành giỏi, có tác phong công nghiệp và có sức khỏe để phụng sự Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
- Muốn thực hiện thành công sự nghiệp CNH, HĐH, phải thực sự coi GD-ĐT, KH - CN là nhân tố quyết định. Tiếp tục khẳng định coi GD-ĐT là quốc sách hàng đầu.
- Giáo dục - đào tạo là sự nghiệp của toàn Đảng, của Nhà nước và của toàn dân.
- Phát triển GD-ĐT gắn với nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội, những tiến bộ KH-CN và củng cố an ninh quốc phòng. Coi trọng cả ba mặt: mở rộng qui mô, nâng cao chất lượng và phát huy hiệu quả, thực hiện giáo dục kết hợp với lao động sản xuất, nghiên cứu khoa học, lý thuyết với thực tiễn, nhà trường gắn liền với gia đình và xã hội.
- Các trường công lập phải giữ vai trò nòng cốt đi đôi với đa dạng hóa các loại hình GD-ĐT.
- Thực hiện công bằng xã hội trong GD-ĐT
Nhận thức rõ vai trò của sự nghiệp GD-ĐT trong giai doạn hiện nay và để tăng cường hiệu lực quản lý Nhà nước đối với sự nghiệp GD-ĐT, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa X (kỳ họp thứ 4) đã thông qua Luật giáo dục ngày 2/12/1998, có hiệu lực kể từ ngày 1/6/1999. Đây là văn kiện pháp lý hết sức quan trọng liên quan tới mọi khía cạnh của lĩnh vực GD-ĐT, có tác động to lớn tới toàn xã hội, mọi người dân Việt Nam
Quan điểm GD-ĐT là quốc sách hàng đầu đã được Đảng và Nhà nước ta khẳng định từ nhiều năm qua. Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ IX tiếp tục khẳng định GD-ĐT là quốc sách hàng đầu, phát triển GD-ĐT là một động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp CNH, HĐH, là điều kiện để phát huy nguồn lực con người - yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững. Nghị quyết Đại hội IX cũng đã chỉ ra phương hướng phát triển GD-ĐT trong những năm tới là:
- Tiếp tục nâng cao chất lượng toàn diện, đổi mới nội dung, phương pháp dạy và học, hệ thống trường lớp và hệ thống quản lý giáo dục; thực hiện "chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa"
- Phát huy tinh thần độc lập suy nghĩ và sáng tạo của học sinh, sinh viên, đề cao năng lực tự học, tự hoàn thiện học vấn và tay nghề. Thực hiện phương châm "học đi đôi với hành, giáo dục kết hợp với lao động sản xuất, nhà trường gắn liền với đời sống xã hội".
- Đẩy mạnh phong trào học tập trong nhân dân bằng hình thức chính qui và không chính qui, thực hiện "giáo dục cho mọi người", "cả nước trở thành một xã hội học tập".
Trong những năm tới quan điểm này cần phải được quán triệt sâu sắc hơn, phải coi là kim chỉ nam xuyên suốt quá trình chỉ đạo, quản lý hoạt động giáo dục - đào tạo đồng thời phải làm cho mọi người dân, mọi cấp, mọi ngành nhận thức rõ và coi đây là nhiệm vụ thường xuyên, nhiệm vụ trung tâm trên con đường CNH, HĐH đất nước.
1.2. NỘI DUNG QUẢN LÝ NGÂN SÁCH GIÁO DỤC - ĐÀO TẠO
1.2.1. Các nguồn tài chính đầu tư cho giáo dục - đào tạo
Tài chính ra đời gắn liền với sự ra đời và phát triển của Nhà nước và nền sản xuất hàng hóa. Tài chính là những quan hệ kinh tế trong phân phối sản phẩm quốc dân. Trên cơ sở đó các quỹ tiền tệ tập trung và không tập trung được hình thành và sử dụng cho tái sản xuất xã hội, tăng trưởng kinh tế và thực hiện các nhiệm vụ và chức năng của Nhà nước. Tài chính là những quan hệ kinh tế nhưng không phải mọi quan hệ kinh tế trong nền kinh tế xã hội đều thuộc phạm vi tài chính. Tài chính chỉ bao gồm những quan hệ kinh tế trong phân phối gắn liền với quá trình hình thành, sử dụng các quỹ tiền tệ. Mỗi quỹ tiền tệ được hình thành luôn gắn liền và phản ánh mối quan hệ sở hữu về thu nhập, mỗi quỹ tiền tệ đều có mục đích sử dụng xác định. Sự hình thành và sử dụng các quỹ tiền tệ đều được thể chế hóa bởi hệ thống các chế độ và luật tài chính.
Tài chính luôn gắn liền với Nhà nước, là công cụ quan trọng được Nhà nước sử dụng để quản lý vĩ mô nền kinh tế, thực hiện các nhiệm vụ và chức năng của Nhà nước. Quan hệ tài chính của các cơ sở GD-ĐT chính là quan hệ giữa thực thể nhà nước với thực thể các cơ sở giáo dục - đào tạo với tư cách là một pháp nhân có chức năng giáo dục và đào tạo. Khi nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường, tài chính nói chung có ba chức năng: chức năng tổ chức vốn; chức năng phân phối; chức năng giám đốc.
* Chức năng tổ chức vốn là sự thu hút vốn bằng nhiều hình thức từ các thành phần kinh tế, các chủ thể, các lĩnh vực khác nhau trong nền kinh tế như: vay mượn, đóng góp tự nguyện... để hình thành các quỹ tiền tệ nhằm phục vụ cho sản xuất kinh doanh hoặc tiêu dùng và phát triển kinh tế - xã hội.
* Chức năng phân phối của tài chính là sự phân chia tổng sản phẩm quốc dân (GNP) theo những tỷ lệ và xu hướng nhất định cho tiết kiệm và tiêu dùng nhằm tích tụ tập trung vốn để đầu tư phát triển kinh tế và thỏa mãn các nhu cầu chung của Nhà nước, của xã hội và cá nhân.
* Chức năng giám đốc là thuộc tính khách quan vốn có của tài chính, bắt nguồn từ bản chất của tài chính. Chức năng giám đốc của tài chính bao gồm nhiều khía cạnh, trong đó chủ yếu là quá trình kiểm tra, kiểm soát các hoạt động tài chính nhằm làm tốt toàn bộ quá trình phân phối GNP.
Để thực hiện các chức năng và nhiệm vụ của mình, Nhà nước cần nắm được một lượng của cải vật chất nhất định được hình thành chủ yếu từ các nguồn thu mà các tổ chức dân cư có nghĩa vụ phải nộp cho Nhà nước theo qui định của pháp luật. Từ các nguồn thu đó mà quĩ tiền tệ tập trung lớn nhất của Nhà nước được hình thành và nó được gọi là quỹ ngân sách - đó là cơ sở vật chất đảm bảo cho Nhà nước tồn tại và hoạt động. "Ngân sách nhà nước là toàn bộ các khoản thu chi của Nhà nước trong dự toán đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định và được thực hiện trong một năm để đảm bảo thực hiện các chức năng của Nhà nước".
Đối với GD-ĐT, tài chính có vai trò hết sức quan trọng đối với sự phát triển của hệ thống, nó vừa là phương tiện để hệ thống GD-ĐT duy trì và phát triển các hoạt động của mình, vừa là công cụ để nhà nước và các cơ sở GD-ĐT thực hiện các chính sách, các mục tiêu đã định.
Nước ta đang trong quá trình đổi mới theo hướng xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đối với GD-ĐT vai trò của nguồn tài chính tập trung của nhà nước (ngân sách nhà nước) có ý nghĩa quyết định và chủ đạo. Tính chất này thể hiện ở các mặt sau đây:
- Ngân sách nhà nước (NSNN) là nguồn tài chính chủ yếu đảm bảo hoạt động cho các cơ sở giáo dục và đào tạo, nhằm duy trì và phát triển hệ thống giáo dục đào tạo theo chiến lược phát triển kinh tế - xã hội.
- Đầu tư từ nguồn NSNN để xây dựng cơ sở vật chất trường lớp, mua sắm trang thiết bị phục vụ giảng dạy, học tập, nghiên cứu và ứng dụng vào lao động sản xuất, một mặt tạo điều kiện để tăng về số lượng và từng bước nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo. Mặt khác, tạo điều kiện thu hút sự đóng góp của các tầng lớp nhân dân, các doanh nghiệp, cộng đồng xã hội nhằm thực hiện chủ trương xã hội hóa giáo dục.
- Nguồn NSNN đảm bảo ổn định và phát triển đời sống đội ngũ cán bộ giáo viên, thông qua chế độ lương và các phụ cấp ưu đãi đối với nhà giáo, các chế độ và đào tạo bồi dưỡng... Đây là đội ngũ công chức lớn trong hệ thống cơ quan hành chính sự nghiệp ở nước ta.
- Ngân sách nhà nước đầu tư cho GD-ĐT còn giải quyết tốt các vấn đề chính sách xã hội thông qua các chế độ về học bổng, sinh hoạt phí và các chế độ đãi ngộ vật chất cho học sinh diện chính sách, khuyến khích học sinh tài năng, học sinh nghèo vượt khó.
- Ngân sách nhà nước có vai trò điều tiết, phát triển các ngành học, bậc học theo cơ cấu hợp lý, đáp ứng yêu cầu sử dụng nhân lực của nền kinh tế thông qua việc phân bổ ngân sách theo những định mức khác nhau, có phân biệt theo ngành nghề đào tạo.
Ngoài nguồn thu chủ yếu từ NSNN, các cơ sở giáo dục đào tạo còn được đầu tư bằng nguồn ngoài ngân sách nhà nước. Với phương châm "nhà nước và nhân dân cùng làm", Chính phủ đã có Nghị quyết về thực hiện xã hội hóa giáo dục đào tạo (Nghị quyết 90/CP ngày 21/8/1997), khẳng định sự nghiệp GD-ĐT là sự nghiệp của toàn Đảng, toàn dân; mọi cá nhân, tổ chức đều phải có trách nhiệm quan tâm đóng góp sức lực, trí tuệ, tiền của để phát triển sự nghiệp GD-ĐT.
Xã hội hóa giáo dục (XHHGD) là một xu hướng mới xuất hiện gần đây ở các nước phát triển và đang phát triển. Bản chất của XHHGD là đa dạng hóa các loại hình đào tạo, là sự huy động đóng góp của mọi người, mọi tầng lớp, tổ chức và xã hội tham gia vào giáo dục dưới sự điều tiết và giám sát của nhà nước. Hình thức XHHGD chính là công cụ để tăng cơ hội tiếp cận với giáo dục cho mọi người, giảm gánh nặng ngân sách nhà nước phải đầu tư vào giáo dục và thúc đẩy tiến trình tiến tới một xã hội học tập.
Trong những năm qua, chi NSNN cho sự nghiệp giáo dục đào tạo có xu hướng tăng lên, nhưng vẫn chưa đáp ứng đầy đủ nhu cầu phát triển ngành giáo dục đào tạo. Chính vì vậy cần phải tích cực huy động các nguồn lực tài chính ngoài NSNN. Vai trò của nguồn ngoài NSNN đầu tư cho giáo dục đào tạo thể hiện trên các mặt sau đây:
- Tăng nguồn đầu tư cho sự nghiệp GD-ĐT để nâng cấp cơ sở vật chất, cải thiện đời sống cán bộ giáo viên nhằm từng bước nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo
- Khai thác các tiềm năng, sự đóng góp của các thành phần kinh tế, của cộng đồng xã hội, trong khi nguồn NSNN còn hạn hẹp
- Tạo điều kiện cho các cơ sở giáo dục đào tạo chủ động hơn trong việc huy động và sử dụng có hiệu quả sự đóng góp của cộng đồng xã hội
Các nguồn vốn ngoài ngân sách nhà nước đầu tư cho giáo dục - đào tạo bao gồm:
- Tiền học phí, lệ phí tuyển sinh, tiền đóng góp xây dựng trường sở của học sinh và gia đình người học. Đây là nguồn thu tương đối ổn định theo chế độ chính sách qui định của nhà nước. Cùng với nguồn NSNN, học phí và các khoản lệ phí có thể xác định được căn cứ vào số lượng người học và mức thu theo qui định có phân biệt đối với từng đối tượng, vùng miền và bậc học. Nguồn thu này có thể kế hoạch hóa được trong dự toán thu chi ngân sách toàn ngành.
- Nguồn thu từ tài trợ của các tổ chức cá nhân trong và ngoài nước, bằng tiền, hiện vật hoặc công lao động. Đây là nguồn thu không thường xuyên nhưng là nguồn đóng góp không nhỏ đối với đầu tư cho GD-ĐT.
- Nguồn thu từ các hợp đồng nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ cho các ngành kinh tế, thu từ các hợp đồng liên kết đào tạo.
1.2.2. Nội dung quản lý ngân sách giáo dục - đào tạo
Ngân sách nhà nước là bản tổng hợp các khoản thu chi bằng tiền của Nhà nước cho một khoảng thời gian nhất định nào đó, thường là một năm. Có thể nói, năm được dùng làm đơn vị thời gian chuẩn cho hoạt động của NSNN. Ở hầu hết các nước trên thế giới, dự toán NSNN đều được xác định cho từng năm, các năm đó được gọi là năm ngân sách (hay năm tài khóa). Điều khác nhau ở các nước là mốc tính năm ngân sách, tức là thời điểm bắt đầu và thời điểm kết thúc của một năm ngân sách không hoàn toàn giống nhau. Chẳng hạn ở Nhật mốc tính năm ngân sách là 01 tháng 4 năm nay đến 31 tháng 3 năm sau; ở Mỹ từ 1/10 năm nay đến 30/9 năm sau; Ở Việt Nam, Trung Quốc và một số nước Đông Âu lại qui định năm ngân sách trùng với năm dương lịch.
Quản lý ngân sách GD-ĐT ở nước ta là quản lý các nguồn thu (thu từ NSNN cấp và thu ngoài NSNN) và các nhiệm vụ chi cho GD-ĐT thông qua chu trình quản lý ngân sách sau đây:
- Xây dựng dự toán ngân sách GD-ĐT
- Chấp hành dự toán
- Kế toán và quyết toán
* Xây dựng dự toán ngân sách là khâu mở đầu của một chu trình ngân sách, là khâu cơ sở cho các khâu tiếp theo. Nếu khâu lập dự toán được thực hiện một cách có cơ sở khoa học sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các khâu tiếp theo nhất là khâu chấp hành ngân sách. Dự toán ngân sách phải đảm bảo thực hiện đầy đủ và đúng đắn các quan điểm chính sách tài chính quốc gia như: trật tự cơ cấu các nguồn thu, thứ tự, cơ cấu và nội dung chi tiêu đồng thời phải tuân thủ các yêu cầu của Luật Ngân sách nhà nước.
* Chấp hành dự toán NSNN là khâu tiếp theo sau khâu lập ngân sách. Đó là quá trình sử dụng tổng hợp các biện pháp kinh tế- tài chính nhằm biến các chỉ tiêu thu chi ghi trong kế hoạch NSNN trở thành hiện thực. Thông qua chấp hành NSNN mà tiến hành kiểm tra việc thực hiện các chính sách chế độ, tiêu chuẩn, định mức kinh tế- tài chính của Nhà nước.
* Quyết toán ngân sách là khâu cuối cùng của một chu trình ngân sách. Đó là việc tổng kết lại quá trình thực hiện dự toán ngân sách sau năm ngân sách kết thúc nhằm đánh giá toàn bộ kết quả hoạt động của một năm ngân sách. Công tác quyết toán ngân sách thực hiện tốt sẽ có ý nghĩa hết sức thiết thực trong việc đánh giá quá trình chấp hành ngân sách sau 1 năm, rút ra những bài học bổ ích cho._. công tác lập ngân sách và chấp hành ngân sách cho những chu trình tiếp theo.
Quản lý ngân sách GD-ĐT có những đặc điểm chính sau đây:
- Hầu hết các đơn vị thuộc ngành GD-ĐT được coi là các đơn vị hành chính sự nghiệp. Đó là các đơn vị được trang trải mọi khoản chi phí để thực hiện nhiệm vụ chính trị của mình từ nguồn NSNN theo nguyên tắc không bồi hoàn một cách trực tiếp. Quản lý ngân sách GD-ĐT chủ yếu là quản lý các nguồn kinh phí từ NSNN cấp hàng năm (các nguồn thu khác chỉ chiếm tỷ lệ nhỏ).
- Kế hoạch NSNN giao hàng năm cho ngành GD-ĐT được tính theo năm tài chính (năm dương lịch), nhưng khi tính toán để xây dựng dự toán ngân sách, phân bổ, điều hành ngân sách lại phải tính đến năm học.
- Ngành GD-ĐT bao gồm nhiều bậc học, nhiều loại hình trường lớp (công lập, bán công, dân lập, tư thục), nhiều loại hình đào tạo (chính qui, tại chức, đào tạo không chính qui) với các cấp độ quản lý khác nhau, mức chi khác nhau. Đặc điểm này gây nhiều khó khăn đối với công tác quản lý ngân sách GD-ĐT.
- Xã hội hóa GD-ĐT ngày càng mở rộng, ngoài nguồn thu chủ yếu từ ngân sách nhà nước cấp hàng năm, các cơ sở GD-ĐT còn các nguồn thu khác từ học sinh, từ cộng đồng xã hội, từ các tổ chức quốc tế... đòi hỏi công tác quản lý ngân sách GD-ĐT phải kế hoạch hóa được các nguồn thu khác, sử dụng một cách có hiệu quả đúng pháp luật.
Chi NSNN cho giáo dục và đào tạo bao gồm hai bộ phận:
- Chi cho giáo dục (Giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông).
- Chi cho đào tạo (Dạy nghề, THCN, Cao đẳng, Đại học, Sau đại học).
Luật Ngân sách nhà nước đã phân định nguồn thu và nhiệm vụ chi của ngân sách trung ương và ngân sách các cấp chính quyền địa phương như sau:
- NSTW đảm nhận những nhiệm vụ chi cho các trường Đại học quốc gia, các trường Đại học vùng, các trường Đại học, Cao đẳng trực thuộc Bộ Giáo dục và Đào tạo và trực thuộc các Bộ ngành khác.
- Ngân sách địa phương đảm nhận chi GD-ĐT trên địa bàn tỉnh, bao gồm các trường Cao đẳng, Dạy nghề, THCN, các trường Đảng, đoàn thể và khối giáo dục phổ thông, mầm non [21].
1.2.2.1. Nội dung chi NSNN cho giáo dục - đào tạo ở Trung ương
* Chi thường xuyên cho sự nghiệp đào tạo (bao gồm 4 nhóm chi là: chi cho con người, chi hành chính quản lý, chi giảng dạy học tập, chi mua sắm sửa chữa) cho các đối tượng:
+ Chi cho các trường Đại học, Cao đẳng thuộc Trung ương quản lý.
+ Chi cho các trường bồi dưỡng cán bộ.
+ Chi cho các trường dân tộc nội trú Trung ương.
+ Chi đào tạo lưu học sinh nước ngoài ở Việt Nam.
+ Chi đào tạo lưu học sinh Việt Nam ở nước ngoài.
+ Chi đào tạo sau đại học.
+ Chi đào tạo lại.
+ Chi cho các công việc chung của ngành: (Học sinh thi quốc tế, hội nghị, hội thảo ngành; nộp niên liễm...)
* Chi đầu tư và chi chương trình mục tiêu:
+ Đầu tư cho các trường Đại học, Cao đẳng.
+ Tăng cường cơ sở vật chất cho các trường học, mua sắm trang thiết bị dạy và học.
+ Đầu tư nhằm thực hiện các chương trình quốc gia (như: chống mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học; hỗ trợ giáo dục miền núi; tăng cường cơ sở vật chất trường học và bồi dưỡng giáo viên...)
1.2.2.2. Nội dung chi NSNN cho giáo dục - đào tạo ở địa phương
* Chi thường xuyên cho sự nghiệp giáo dục - đào tạo (bao gồm bốn nhóm chi là: chi cho con người, chi hành chính quản lý, chi giảng dạy học tập, chi mua sắm sửa chữa).
+ Chi cho các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp và công nhân kỹ thuật, trường dạy nghề.
+ Chi đào tạo đại học tại chức, đào tạo sơ cấp ngắn hạn.
+ Chi cho trung tâm lao động hướng nghiệp dạy nghề.
+ Chi cho trung tâm giáo dục thường xuyên, bồi dưỡng cán bộ của tỉnh.
+ Chi các trường dân tộc nội trú do tỉnh trực tiếp quản lý.
+ Chi cho các trường phổ thông (Tiểu học, THCS, THPT) và BTVH.
+ Chi cho nhà trẻ, mẫu giáo.
* Chi đầu tư và chi chương trình mục tiêu:
+ Đầu tư xây dựng cơ sở vật chất các trường đại học, cao đẳng, THCN, phổ thông, dạy nghề do tỉnh quản lý.
+ Đầu tư hỗ trợ cho các trường dân lập, bán công.
+ Đầu tư nhằm thực hiện các chương trình mục tiêu của tỉnh về GD-ĐT.
Việc phân định rõ ràng các khoản chi về GD-ĐT cho các cấp ngân sách có ý nghĩa hết sức quan trọng nhằm tạo ra một trật tự, thứ tự ưu tiên đầu tư NSNN (gồm cả NSTW và NSĐP) cho sự nghiệp GD-ĐT. Do tính chất phức tạp của chi đầu tư xây dựng cơ bản, nên trong khuôn khổ luận văn này chỉ đi sâu phân tích chi thường xuyên và chi chương trình mục tiêu.
1.2.3. Yêu cầu khách quan phải tiếp tục đổi mới quản lý ngân sách giáo dục - đào tạo
Hòa chung trong không khí đổi mới của đất nước, toàn ngành GD-ĐT đang nỗ lực phấn đấu, quyết tâm đổi mới, khắc phục những yếu kém về chất lượng và hiệu quả đào tạo, từng bước đầu tư tăng cường cơ sở vật chất trường học, tăng cường công tác quản lý giáo dục, quản lý ngân sách đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
- Với đường lối phát triển kinh tế hoàn toàn đúng đắn của Đảng và Nhà nước đó là phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN. Ngành giáo dục - đào tạo chủ trương tạo cơ hội bình đẳng cho mọi người dân được thụ hưởng giáo dục - đào tạo, trên cơ sở mở rộng các cơ sở giáo dục - đào tạo, đa dạng hóa các loại hình đào tạo, mở rộng hợp tác quốc tế trong lĩnh vực giáo dục - đào tạo... Điều này đòi hỏi ngành giáo dục - đào tạo phải tiếp tục đổi mới công tác quản lý giáo dục - đào tạo nói chung, trong đó phải chú trọng đổi mới công tác quản lý ngân sách GD-ĐT.
- Cùng với sự phát triển của khoa học công nghệ, ngành giáo dục - đào tạo đòi hỏi phải có sự đầu tư thỏa đáng về cơ sở vật chất trường học: trang bị máy móc thí nghiệm, dụng cụ thực hành, đồ dùng giảng dạy và học tập hiện đại phục vụ cho việc đổi mới chương trình, nội dung giáo dục - đào tạo... Điều này cũng đòi hỏi mức độ đầu tư ngân sách của Nhà nước tăng hơn những năm trước đây, do đó công tác quản lý ngân sách GD-ĐT cần phải được tăng cường và đổi mới để quản lý NSNN một cách có hiệu quả.
- Trong điều kiện ngân sách nhà nước còn hạn hẹp, ngành giáo dục - đào tạo đã và đang thực hiện tốt chủ trương xã hội hóa giáo dục - đào tạo. Một nội dung quan trọng của xã hội hóa giáo dục là huy động sự đóng góp của nhân dân nhằm tăng cường cơ sở vật chất nhà trường, trợ giúp những học sinh nghèo vượt khó, chia sẻ trách nhiệm với Nhà nước trong việc xây dựng, phát triển giáo dục. Để sử dụng một cách có hiệu quả hơn nữa nguồn kinh phí đầu tư cho giáo dục - đào tạo, thì tiếp tục đổi mới quản lý ngân sách là tất yếu khách quan.
1.3. KINH NGHIỆM QUẢN LÝ NGÂN SÁCH GIÁO DỤC- ĐÀO TẠO Ở MỘT SỐ QUỐC GIA TRONG KHU VỰC
Đầu tư cho giáo dục- đào tạo là đầu tư cho phát triển, đầu tư cho tương lai, đó là quan điểm của hầu hết các nước trên thế giới. Trong nền kinh tế thị trường, nguồn kinh phí đầu tư cho giáo dục - đào tạo không phải chỉ từ khu vực Nhà nước mà còn từ các khu vực khác (doanh nghiệp, tư nhân, khu vực liên doanh với nước ngoài...). Do vậy, lập kế hoạch cấp phát và quản lý ngân sách cho GD-ĐT dựa trên các nguồn kinh phí đầu tư của toàn xã hội, tỷ lệ đầu tư cho GD-ĐT ở các nước phụ thuộc vào điều kiện kinh tế, khả năng NSNN, trình độ dân trí, yêu cầu cải cách giáo dục... Bảng dưới đây cho thấy mức độ đầu tư cho GD-ĐT ở một số nước trên thế giới qua số liệu công bố của UNDP:
Bảng 1.2: Đầu tư cho GD-ĐT ở một số quốc gia
Các nước
Dân số
(triệu người) 1998
GNP
(Tỷ USD)
1998
GNP/đầu người (USD) 1998
Tỷ lệ chi công cộng cho GD-ĐT trong GNP (%) 1995- 1997
Tổng chi công cộng cho GD-ĐT (tỷ USD)
Chi công cộng cho GD-ĐT trên đầu người dân (USD)
Trung Quốc
1.220
923,6
750
2,3
21,2
17
Hàn Quốc
46,1
398,8
8.600
3,7
14,7
320
Thái Lan
60,3
131,9
2.160
4,8
19,1
288
Malaysia
21,4
81,3
3.670
4,9
4,0
186
Nhật
126,3
4.089,1
32.350
3,6
147,2
1.165
Mỹ
274
7.903
29.240
5,4
426,7
1.557
Anh
58,6
1.264,3
21.410
5,3
67
1.143
Canada
30,6
580,9
19.170
6,9
40
1.309
Úc
18,5
387
20.640
5,5
21,2
1.150
Nga
147,4
331
2.260
3,5
11,6
78,5
Nguồn: Human Development Report 2000(UNDP).
Ở nước ta, cùng thời gian trên theo thống kê của Bộ Tài chính thì tỷ lệ chi cho giáo dục - đào tạo từ ngân sách nhà nước so GNP như sau: năm 1996 là 3,2%, năm 1997 là 3,4%, năm 1998 là 3,46%, năm 1999 là 3,21%, năm 2000 là 3,24%. Như vậy so với một số nước trong khu vực như Trung Quốc, Hàn Quốc, Thái Lan, Malaysia thì tỷ lệ chi NSNN cho giáo dục trong GNP của nước ta đạt mức trung bình, Nhưng do GNP của nước ta còn ở mức quá thấp nên tổng chi ngân sách cho giáo dục - đào tạo về số tuyệt đối còn hết sức nhỏ bé.
- HÀN QUỐC
Ngay từ cuối thập kỷ 60, Hàn Quốc đã xác định phương châm: "Giáo dục - đào tạo là chìa khóa mở cửa tiến vào tương lai" nên đất nước này đã thi hành một loạt các biện pháp và chính sách có hiệu lực để thúc đẩy giáo dục- đào tạo, đẩy nhanh tốc độ ứng dụng khoa học kỹ thuật và bồi dưỡng nhân tài. Chính vì vậy, nền kinh tế liên tục tăng trưởng với tốc độ cao, thu nhập bình quân đầu người khá.
Để đạt được những thành quả về tăng trưởng kinh tế, một trong những biện pháp được Chính phủ sử dụng là cải cách hệ thống giáo dục, ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, bồi dưỡng nhân tài phát triển các ngành sản xuất với khoa học kỹ thuật cao, do đó họ không ngừng tăng đầu tư cho giáo dục và nghiên cứu khoa học. Từ giữa thập kỷ 60, trong nhiều năm liền tốc độ tăng của ngân sách giáo dục đã vượt quá tốc độ tăng của GDP. Căn cứ vào thống kê của Ngân hàng thế giới, tỷ lệ kinh phí giáo dục trong tổng chi ngân sách của Chính phủ Hàn Quốc năm 1985 đứng ở vị trí 11 trong số 91 nước và khu vực mà Ngân hàng thế giới đã tiến hành điều tra [29, 25].
Việc lập kế hoạch cấp phát NSNN cho GD-ĐT theo một quy trình khá chặt chẽ, được tính toán chi tiết trên cơ sở cân đối tất cả nguồn thu và các khoản chi. Bộ Tài chính và Bộ Giáo dục chịu trách nhiệm lập kế hoạch chi và giám sát tài chính đối với mọi nội dung đầu tư của giáo dục - đào tạo. Thông thường Bộ Tài chính ra một văn kiện quan trọng, trong đó nêu ra các mục tiêu giới hạn, thứ tự ưu tiên dựa trên chiến lược phát triển giáo dục - đào tạo, đồng thời đưa ra các giải pháp làm tăng nguồn lực... Chấp hành ngân sách có sự hợp tác của nhiều cơ quan và các cấp chính quyền. Việc cấp phát kinh phí cũng được thực hiện ở cơ quan ngân khố thuộc ngân hàng Chính phủ.
Việc quản lý ngân sách giáo dục được thực hiện bằng một cơ quan giám sát và kiểm tra của Chính phủ với các công cụ pháp lý khá đầy đủ là các đạo luật. Ngày 1/12/1980, Quốc hội Hàn quốc đã thông qua đạo luật là Luật thuế giáo dục, theo luật định thì phải tiến hành thu thuế để đảm bảo cung cấp cho nhu cầu của kinh phí giáo dục- đào tạo. Cùng với việc cải cách giáo dục, cải cách bộ máy hành chính, ngân sách giáo dục - đào tạo được quản lý theo một đầu mối thống nhất là Cơ quan quản lý giáo dục trực thuộc Chính phủ.
- PHILIPPIN
Hàng năm Bộ tài chính đưa ra khung (Số kiểm tra) cùng các hướng dẫn xây dựng kế hoạch chi ngân sách giáo dục - đào tạo. Các quá trình ngân sách được tiến hành rất công phu, xác định đầy đủ cơ cấu nguồn tài chính cho GD-ĐT. Cấp phát kinh phí được tiến hành theo từng quý, đồng thời có cơ quan kiểm toán độc lập có trách nhiệm kiểm tra và thẩm định các báo cáo chi tiêu nguồn NSNN cho giáo dục - đào tạo. Về cơ bản qui trình quản lý ngân sách giáo dục - đào tạo giống Việt Nam.
- SINGAPORE
Bắt đầu từ cuối thập kỷ 60, Singapore bước vào thời kỳ cất cánh. Trong hơn 20 năm, để hiện đại hóa nền kinh tế quốc gia, Singapore đã ra sức phát triển giáo dục mang bản sắc dân tộc. Chính phủ coi trọng phổ cập giáo dục nâng cao trình độ dân trí, ở các cấp tiểu học không thu học phí, ở cấp trung học tuy có thu học phí nhưng mức thu rất thấp. Coi trọng giáo dục kỹ thuật nghề nghiệp.
Chính phủ lập Quỹ phát triển tài năng nhằm khuyến khích các xí nghiệp và các ngành nghề tiến hành đào tạo bồi dưỡng công nhân viên kỹ thuật còn yếu kém thuộc xí nghiệp ngành nghề mình quản lý. Chính phủ cũng phối hợp với các công ty xuyên quốc gia định kỳ mở những trung tâm huấn luyện nhằm bồi dưỡng cho những cán bộ cốt cán, kỹ thuật chuyên ngành. Chính vì vậy kế hoạch NSNN dành cho giáo dục - đào tạo được thực hiện phối hợp giữa các cơ quan quản lý giáo dục.
Để phát triển sự nghiệp giáo dục - đào tạo, Chính phủ Singapore không ngừng tăng đầu tư cho giáo dục - đào tạo, tốc độ tăng này vượt quá tốc độ tăng của tổng sản phẩm quốc dân. Trong thời gian từ 1960 tới 1990, tổng sản phẩm quốc dân từ 2189 triệu đô la Singapore tăng lên đến 35168 triệu (tăng 15,6 lần). Trong thu chi của Chính phủ, chi cho giáo dục bình quân hàng năm trong thập kỷ 70 là 12,7% đến năm 1980 là 15,8%, năm 1985 tăng đến 22,3%, đến nay khoảng 22,9%. Kinh phí giáo dục tính theo đầu người năm 1960 là 69 đô la Singapore, năm 1990 là 335,3. Hiện nay trong chi NSNN thì kinh phí cho giáo dục - đào tạo chiếm vị trí thứ 2 chỉ sau kinh phí cho quốc phòng [8, tr. 11- 14].
- THÁI LAN
Các cơ quan quản lý giáo dục của Thái Lan gồm:
- Bộ Giáo dục chịu trách nhiệm chính về giáo dục tiểu học, giáo dục trung học và đào tạo giáo viên và dạy nghề kỹ thuật đồng thời chịu trách nhiệm các vấn đề liên quan đến tôn giáo văn hóa.
- Bộ Đại học quản lý các trường đại học, học viện, trường cao đẳng của Nhà nước cũng như tư nhân.
- Các trường y tế và các học viện quân sự thuộc sự quản lý của Bộ Y tế và Bộ Quốc phòng.
- Ủy ban giáo dục quốc gia trực thuộc Phủ Thủ tướng và giải quyết toàn bộ các chính sách, kế hoạch dài hạn cho tất cả các cấp giáo dục. Trên cơ sở kế hoạch này, cơ quan tài chính lập kế hoạch cấp phát ngân sách cho giáo dục.
Để tạo cơ hội học tập cho người nghèo, chính phủ đã mở rộng độ tuổi đi học bắt buộc từ 6- 9 tuổi, đồng thời thông qua một kế hoạch đầu tư khá lớn cho lĩnh vực giáo dục - đào tạo. Chính phủ khuyến khích khu vực tư nhân đầu tư cho hệ thống giáo dục - đào tạo như xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật trang thiết bị dạy học. Mới đây Nội các Chính phủ đã thông qua việc xây dựng một quỹ 20 tỷ Bạt để trợ cấp theo lãi suất ưu đãi cho các nhà đầu tư muốn xây thêm trường học (nhất là ở những vùng xa xôi). Chính phủ sẵn sàng cấp đất với giá thấp và miễn giảm thuế cho các công trình xây dựng cơ sở hạ tầng giáo dục - đào tạo. Các trường tư cũng được Chính phủ giảm thuế, các vật tư thiết bị phục vụ cho xây dựng các công trình ấy nếu phải nhập khẩu thì được miễn thuế.
Về phần mình, các trường phải tuân thủ triệt để các tiêu chuẩn về giáo dục - đào tạo của Nhà nước như: môn học, chương trình giảng dạy, nội dung dạy và số lượng học sinh (phải có ít nhất 80% là người Thái), phải cấp học bổng cho 5% tổng số học sinh... Người ta hy vọng các trường tư sẽ đáp ứng được nhu cầu của thị trường lao động hơn là hệ thống trường công do Nhà nước bao cấp.
Về dạy nghề, Chính phủ sẵn sàng thưởng một khoản tiền không nhỏ cho những chương trình đào tạo dạy nghề cho người lao động mới đến tuổi lao động. Các cơ sở tư nhân phát triển nâng cao tay nghề sẽ không phải đóng thuế và nhập khẩu thiết bị phục vụ đào tạo cũng được miễn thuế.
Những biện pháp về cải cách giáo dục và sử dụng các công cụ tài chính linh hoạt có hiệu quả ở Thái Lan đã tạo cơ hội tốt không những cho tất cả người dân mà còn cho những người nghèo có cơ may học tập. Người học được vay trước một khoản tiền đủ để trả học phí, mua sách vở, học cụ và các chi phí khác liên quan tới học tập, lượng vay đủ để trang trải cho 7 năm: 3 năm trung học và 4 năm cao đẳng, đại học. Sau khi tốt nghiệp 2 năm họ bắt đầu phải hoàn trả số tiền vay gốc cộng 1% lãi hàng năm trong vòng 15 năm.
- Các nước thuộc khối OECD (Organization for Economic Cooperation and Development): Việc lập kế hoạch chi tiêu dựa trên các thông tin cơ sở theo một hệ thống thống nhất được gọi là hệ thống chi tiêu công cộng (Public expenditure System - PES). Hệ thống này kết hợp các yếu tố vào một chu trình ngân sách hàng năm nhằm bổ sung cho quy trình lập kế hoạch và cung cấp dữ liệu cho việc thảo luận NSNN nói chung và NSGD-ĐT nói riêng. Dự báo chi tiêu vẫn là một nhân tố quan trọng trong quản lý chi, các số liệu thống kê và kế hoạch phân bổ được thực hiện tương quan theo một quy trình cho phép kiểm tra bao quát. Hầu hết các nước khối OECD dự báo và lập kế hoạch tài chính nhiều năm, dùng làm cơ sở tính toán dự kiến hàng năm. Những kế hoạch tài chính trung hạn giúp đạt được những mục tiêu tài chính nhanh chóng và có hiệu quả. Các Bộ có một ưu thế tương đối đối với NS, song quyền lực vẫn tập trung ở Bộ Tài chính, trong xu thế dẫn tới một nguyên tắc quản lý tài chính mạnh mẽ thì quyền hạn của Bộ Tài chính không chỉ trong khuôn khổ vĩ mô mà liên quan đến mọi chi phí có tính chất bao trùm các hoạt động kinh tế xã hội.
Để giảm bớt gánh nặng NSNN và phát huy vai trò xã hội đối với giáo dục - đào tạo, các Chính phủ đã tiến hành cải cách giáo dục bằng các biện pháp như:
- Tăng cường giáo dục kỹ thuật nghề nghiệp, cải cách cơ cấu giáo dục phổ thông, lấy học nghề làm mục tiêu chính, đào tạo học sinh cấp 3 giỏi về khoa học kỹ thuật để tuyển vào các trường đại học và đào tạo nhân tài.
- Kết hợp giữa học tập với sản xuất, các trường dạy nghề và doanh nghiệp ký hợp đồng với nhau. Trong thời gian học tập ở trường theo định kỳ học sinh phải đến doanh nghiệp thực tập vừa để ứng dụng kiến thức đã học vừa có thêm thu nhập, nâng cao chất lượng đào tạo. Doanh nghiệp phải cung cấp kinh phí cần thiết cho nhà trường, học sinh tốt nghiệp được doanh nghiệp lựa chọn để làm việc hoặc cho đi học tiếp ở các trường đại học cùng chuyên môn để khi ra trường trở lại phục vụ cho doanh nghiệp [40, tr. 45].
Một số nhận xét về quản lý, cấp phát NSNN cho giáo dục - đào tạo ở các nước.
Mỗi nước có những cách thức cấp phát NSNN khác nhau cho giáo dục - đào tạo tùy thuộc vào điều kiện kinh tế, trình độ dân trí, văn hóa truyền thống... Tỷ trọng chi cho giáo dục - đào tạo ở các nước cũng khác nhau song nhìn chung các nước đều có những biện pháp hữu hiệu để đầu tư phát triển giáo dục - đào tạo. Cụ thể là:
- Cải cách hệ thống giáo dục quốc dân theo hướng thị trường là yêu cầu cấp bách ở hầu hết các nước. Miễn phí cho cấp giáo dục tiểu học, mầm non, vì đây là cấp học bắt buộc đối với mọi người dân. Xã hội hóa triệt để các nguồn kinh phí cho giáo dục - đào tạo. Phân loại học sinh và phân loại trường lớp để có cơ sở cho đầu tư NSNN.
- Kế hoạch chi ngân sách giáo dục - đào tạo được lập rõ ràng, chi tiết, có thể do cơ quan chuyên trách tiến hành hoặc được thực hiện phối hợp giữa các cơ quan của chính phủ. Tùy thuộc vào thể chế hành chính của mỗi nước có những cách thức lập kế hoạch ngân sách nói chung và kế hoạch ngân sách giáo dục nói riêng có những điểm khác nhau nhưng hoàn toàn không bị hành chính hóa, lập kế hoạch theo những trọng tâm trọng điểm, không tập trung chia đều, ưu tiên phổ cập giáo dục cấp 1 và những vùng có khó khăn.
- Đầu tư từ NSNN cho giáo dục - đào tạo ưu tiên tập trung theo chương trình mục tiêu, không dàn trải.
- Phân định rõ ràng giữa cấp phát của ngân sách Trung ương và ngân sách địa phương. Các đơn vị thụ hưởng phải chịu trách nhiệm quản lý và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn tài chính từ NSNN.
- Một số nước xây dựng quỹ phát triển giáo dục - đào tạo nhằm khuyến khích các doanh nghiệp, tổ chức đầu tư cho giáo dục - đào tạo. Phối hợp với các công ty, tập đoàn lớn trong nước và quốc tế để có chương trình đầu tư ứng dụng những thành quả của giáo dục - đào tạo.
- Chính sách rõ ràng, quản lý chặt chẽ, minh bạch là một trong những điểm đáng chú ý cần nghiên cứu và vận dụng trong quản lý ngân sách GD-ĐT ở nước ta.
Chương 2
THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NGÂN SÁCH GIÁO DỤC - ĐÀO TẠO Ở NƯỚC TA TRONG NHỮNG NĂM QUA
2.1. KHÁI QUÁT VỀ TÌNH HÌNH GD- ĐT TRONG NHỮNG NĂM QUA
2.1.1. Về hệ thống giáo dục quốc dân
Hệ thống giáo dục quốc dân ở nước ta, gồm: (Sơ đồ 2.1)
- Giáo dục mầm non - Giáo dục phổ thông
- Giáo dục nghề nghiệp - Giáo dục đại học và sau đại học
Cơ cấu khung của hệ thống giáo dục quốc dân được thể hiện qua sơ đồ sau:
Đào tạo Tiến sĩ
(4 năm)
ĐT Thạc sĩ
(2 năm)
Đào tạo Đại học
(4- 6 năm)
ĐT Cao đẳng
(3 năm)
Trung học chuyên nghiệp
(3- 4 năm)
Dạy nghề dài hạn (1- 3 năm) Dạy nghề ngắn hạn (< 1 năm)
Trung học phổ thông (3 năm)
Trung học cơ sở (4 năm)
Tiểu học (5 năm)
Mẫu giáo
Nhà trẻ
Trẻ dưới 6 tuổi
Giáo dục không chính qui
Sơ đồ 2.1: Hệ thống giáo dục Việt Nam
2.1.2. Về qui mô giáo dục - đào tạo
Qui mô giáo dục - đào tạo không ngừng tăng lên, mạng lưới trường lớp được mở rộng:
Đầu năm học 2001 - 2002, tổng số học sinh, sinh viên trong cả nước là gần 23 triệu, tăng khoảng 24% so với năm học 1995 - 1996. Trong đó, học sinh mầm non: gần 2,5 triệu; học sinh phổ thông: gần 18 triệu; học sinh trung học chuyên nghiệp: 271 nghìn (hơn 76 nghìn trong các trường đại học, cao đẳng); sinh viên đại học, cao đẳng: gần 1 triệu; học sinh học nghề: gần 800 nghìn và học sinh học tập theo phương thức không chính quy (gồm học sinh sau xóa mù chữ, bổ túc văn hóa, giáo dục và đào tạo từ xa): hơn 400 nghìn [5, tr. 1].
Cùng với việc tăng quy mô, mạng lưới trường lớp và các loại hình đào tạo tiếp tục được củng cố, phát triển rộng khắp trong cả nước kể cả ở vùng sâu, vùng xa, miền núi, hải đảo và vùng dân tộc, góp phần đáp ứng tốt hơn nhu cầu học tập của con em nhân dân. Hiện nay, cả nước có 35.239 trường học, bao gồm 9.530 trường mầm non, mẫu giáo; 13.934 trường tiểu học, 9.362 trường trung học cơ sở, 1.966 trường trung học phổ thông, 252 trường trung học chuyên nghiệp, 114 trường cao đẳng, 109 trường đại học.
Nguồn: Trung tâm thông tin quản lý giáo dục, Văn phòng Bộ Giáo dục và Đào tạo.
2.1.3 Về chất lượng giáo dục - đào tạo
Trong những năm qua, chất lượng giáo dục - đào tạo đã có những chuyển biến tích cực.
Tỷ lệ lưu ban, bỏ học giảm dần (ở tiểu học, giảm từ 4,81% và 7,16% xuống 2,29% và 3,67%; ở trung học cơ sở giảm từ 2,37% và 9,42% xuống 1,48% và 7,30%; ở trung học phổ thông giảm từ 1,39% và 8,97% xuống 1,18% và 6,35%).
Nguồn: Trung tâm thông tin quản lý giáo dục, Văn phòng Bộ GD-ĐT.
Hệ thống trường chuyên được duy trì, phát triển và đạt chất lượng cao trong giảng dạy, học tập. Nhiều học sinh đoạt giải cao trong các kỳ thi chọn học sinh giỏi quốc gia và quốc tế. Tính đến năm 2001 tổng số học sinh dự các kỳ thi quốc tế ở các môn: toán, lý, hóa, sinh, tin học, tiếng Nga là 354, tổng số đạt giải các loại là 280, đạt tỷ lệ khá cao - trên 75%. Riêng kỳ thi học sinh giỏi quốc gia lớp 12 năm 2002, với 4686 học sinh dự thi đã có 2193 học sinh đạt giải các loại, chiếm 47%. Các kỳ thi tốt nghiệp phổ thông được tổ chức ngày càng nghiêm túc [5, tr. 5].
* Các điều kiện đảm bảo chất lượng giáo dục: (bao gồm đội ngũ giáo viên, giảng viên; cơ sở vật chất kỹ thuật, trường lớp, thiết bị dạy học) không ngừng được củng cố, tăng cường và ngày càng hoàn thiện.
Hiện nay, tổng số giáo viên, giảng viên toàn ngành là 865.485, tăng 24% so với năm học 1995 - 1996. Trong đó, số giáo viên mầm non và phổ thông là 823.091, tăng 32%. Số giáo viên trung học chuyên nghiệp là 10.189 người, tăng 15%. Số giảng viên đại học, cao đẳng là 32.205 người, tăng 45%.
Nguồn: Trung tâm thông tin quản lý giáo dục, Văn phòng Bộ Giáo dục và Đào tạo
Nguồn: Trung tâm thông tin quản lý giáo dục, Văn phòng Bộ Giáo dục và Đào tạo.
Đến đầu năm học 2001 - 2002, tổng số phòng học của các trường phổ thông là 436.281, tăng 18.451 phòng so với năm học trước. Trong đó, số phòng học cấp 4 và kiên cố là 363.417, tăng 27.625 phòng. Tỷ lệ phòng học cấp 4 và kiên cố tính chung toàn quốc ở các bậc học đều trên 80%. Số phòng học 3 ca ở giáo dục phổ thông là 1072 phòng, giảm 381 phòng so với cùng thời gian này năm học trước. Những vùng còn nhiều phòng học 3 ca là đồng bằng sông Cửu Long, Đông Nam Bộ, Tây Nguyên. Số phòng học tranh tre, nứa lá vẫn còn trên 7.000 phòng, chủ yếu tập trung ở vùng núi, vùng sâu, vùng xa trên địa bàn toàn quốc.
Mặc dầu cơ sở vật chất kỹ thuật đã được cải thiện, nhưng nhìn chung, giáo dục nước ta vẫn chưa thoát khỏi tình trạng nghèo nàn, lạc hậu. Cơ sở vật chất trường, lớp ở nhiều địa phương vẫn rất thiếu thốn do tác động của thiên tai. Trang thiết bị, phòng thí nghiệm phục vụ giảng dạy và học tập mới đáp ứng khoảng 20% yêu cầu. Tình trạng dạy chay còn phổ biến. Việc chuẩn hóa, hiện đại hóa cơ sở vật chất kỹ thuật vẫn đang là một thách thức lớn, cần có sự chỉ đạo của ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố. Để giải quyết, cần tiếp tục cải tiến công tác kế hoạch và tài chính, xây dựng hệ thống tiêu chí và định mức, nâng cao hiệu quả đầu tư, thực hiện công khai, minh bạch về tài chính, xác định cơ chế quản lý đối với nguồn đầu tư do nhân dân đóng góp, nhất là việc quản lý tài chính ở các trường ngoài công lập [5, tr. 8- 9].
2.1.4 Về đầu tư cho GD-ĐT những năm qua
Với quan điểm giáo dục là quốc sách hàng đầu, Bộ Kế hoạch - Đầu tư và Bộ Tài chính đã giúp Chính phủ tăng ngân sách cho giáo dục, bảo đảm yêu cầu định mức do Nghị quyết TW2 đề ra. Năm 1996, phần ngân sách nhà nước chi cho giáo dục chiếm 11%, đến năm 2000, chiếm 15%. Về con số tuyệt đối, phần ngân sách nhà nước chi cho giáo dục năm 2000 so với năm 1996 gấp 1,6 lần (Tính theo tỷ giá hối đoái chuyển đổi ra USD thì gấp 1,14 lần).
Bảng 1.1: Ngân sách chi thường xuyên cho giáo dục từ năm 1996- 2000
(Không kể XDCB)
Đơn vị: tỷ đồng
Năm
Tổng chi NSNN
Ngân sách chi cho sự nghiệp GD-ĐT
Tỷ lệ % so với tổng chi NSNN
1996
71.550
6.935
9,69%
1997
76.640
7.856
10,25%
1998
89.976
10.153
11,28%
1999
91.457
10.060
11,00%
2000
94.535
10.956
11,59%
Nguồn: Vụ Kế hoạch và Tài chính- Bộ Giáo dục và Đào tạo
Trong điều kiện nguồn kinh phí còn hạn hẹp, các địa phương đã có nhiều cố gắng cải tiến việc phân bổ, điều hành ngân sách; đầu tư thêm cho giáo dục từ nguồn ngân sách địa phương (khoảng 20 - 30% ngân sách địa phương); đồng thời huy động sự đóng góp của nhân dân để tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật nhà trường, nâng cao chất lượng dạy và học. Đặc biệt là các trường dạy nghề, THCN, CĐ, ĐH đã thông qua con đường lao động sản xuất, dịch vụ tư vấn, ứng dụng và chuyển giao công nghệ đã tự xây dựng được nguồn vốn tự có; nguồn vốn này đã góp phần kinh phí đầu tư xây dựng nhà trường và cải thiện đời sống cho cán bộ giáo viên.
2.1.5. Về tình hình thực hiện xã hội hóa GD-ĐT
Trong những năm qua, chủ trương xã hội hóa giáo dục đã phát huy tác dụng và đã góp phần quan trọng làm cho giáo dục thực sự trở thành sự nghiệp của toàn dân, toàn Đảng.
Trong điều kiện ngân sách nhà nước còn hạn hẹp, một nội dung quan trọng của xã hội hóa giáo dục là huy động sự đóng góp của nhân dân nhằm tăng cường cơ sở vật chất nhà trường, trợ giúp những học sinh nghèo vượt khó, chia sẻ trách nhiệm với Nhà nước trong việc xây dựng, phát triển giáo dục. Ước tính, phần kinh phí do nhân dân đầu tư, trang trải cho các hoạt động giáo dục trong một vài năm gần đây chiếm khoảng 30 - 35% và ngày càng tăng, riêng năm 2001 vào khoảng hơn 600 tỷ đồng. Các nguồn lực được huy động thông qua con đường xã hội hóa, cùng với nguồn lực của Nhà nước, tạo nên sức mạnh tổng hợp thúc đẩy sự nghiệp giáo dục - đào tạo, phục vụ yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và nhu cầu học tập của các tầng lớp nhân dân [12, tr. 14].
Trong quá trình thực hiện chủ trương xã hội hóa giáo dục, các loại hình trường lớp cũng được đa dạng hóa. Các trường ngoài công lập phát triển, tạo điều kiện phát triển quy mô giáo dục một cách hợp lý, giảm bớt sức ép đối với các trường công lập, góp phần quan trọng để điều chỉnh mối quan hệ giữa quy mô và các điều kiện bảo đảm chất lượng, tạo thêm cơ hội học tập cho thế hệ trẻ. Đến nay, số trường mầm non, mẫu giáo ngoài công lập là 5.995 (chiếm 62%); số trường tiểu học ngoài công lập là 77 (chiếm 0,5 %); số trường trung học cơ sở ngoài công lập là 246 (chiếm 2,7%), số trường trung học phổ thông ngoài công lập là 514 (chiếm 33%).
Nguồn: Trung tâm thông tin quản lý giáo dục, Văn phòng Bộ Giáo dục và Đào tạo
Cả nước có 23 trường đại học và cao đẳng ngoài công lập (18 trường dân lập, 5 trường bán công) với gần 100.000 sinh viên chiếm khoảng 11% tổng số sinh viên trong cả nước. Một số trường ngoài công lập (có cả dân lập, tư thục và bán công) hoạt động có nề nếp, đào tạo có chất lượng, được xã hội đánh giá tốt.
Về quy mô, tỷ lệ học sinh ngoài công lập so với tổng số học sinh tăng lên đáng kể, ở mẫu giáo: năm học 1996 - 1997 là 41%; năm học 2001 - 2002 gần 60%; ở trung học phổ thông: năm học 1996 - 1997 là 25%; năm học 2001 - 2002 là 34%; trung học chuyên nghiệp, năm học 1995 - 1996 chưa có, đến năm 2000 đã có gần 5000 học sinh; ở đại học và cao đẳng, năm học 1995 - 1996 là 3,6%, năm 2000 tăng lên gần 11,35%
Nguồn: Trung tâm thông tin quản lý giáo dục, Văn phòng Bộ Giáo dục và Đào tạo
Những đổi mới và phát triển của hệ thống GD-ĐT ở nước ta trong những năm qua đã và đang đòi hỏi sự đổi mới tương ứng trong quản lý ngân sách GD-ĐT, đảm bảo phù hợp với yêu cầu của cơ chế thị trường.
2.2 THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NGÂN SÁCH GIÁO DỤC - ĐÀO TẠO Ở NƯỚC TA TRONG NHỮNG NĂM QUA
2.2.1. Thực trạng công tác xây dựng dự toán ngân sách GD-ĐT
2.2.1.1. Những căn cứ xây dựng dự toán NS GD-ĐT
- Căn cứ thứ nhất: Định hướng phát triển kinh tế xã hội dài hạn và trung hạn của đất nước. Đây là những định hướng lớn nhằm thực hiện mục tiêu phát triển giáo dục - đào tạo theo hướng nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài đáp ứng sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Những chỉ tiêu phát triển giáo dục và đào tạo được xây dựng dựa trên cơ sở của tốc độ tăng trưởng kinh tế, tỷ lệ lạm phát, tốc độ tăng sản lượng của ngành, quy mô giáo dục - đào tạo... tương quan với các chỉ tiêu khác trong nền kinh tế quốc dân.
- Căn cứ thứ hai: Căn cứ vào chiến lược phát triển giáo dục - đào tạo, vào yêu cầu, mục tiêu và nhiệm vụ phát triển giáo dục - đào tạo ở từng giai đoạn. Những năm gần đây thực tế cho thấy cơ cấu đầu tư của ngành giáo dục - đào tạo được bố trí chưa hợp lý, mạng lưới trường lớp còn phân tán, chưa được qui hoạch, đặc biệt là đầu tư phát triển dạy nghề, dẫn đến tình trạng "thừa thày, thiếu thợ".
- Căn cứ thứ ba: Căn cứ vào kế hoạch phát triển giáo dục - đào tạo hàng năm, đây là căn cứ quan trọng nhất đối với ngành giáo dục - đào tạo. Kế hoạch phát triển giáo dục được xây dựng nhằm giúp các nhà quản lý, các cơ quan giáo dục, tài chính cũng như các cấp chính ._. GDP
4,5%
5,8%
6,9%
3.2 GIẢI PHÁP CHỦ YẾU TIẾP TỤC ĐỔI MỚI QUẢN LÝ NGÂN SÁCH GIÁO DỤC - ĐÀO TẠO Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
3.2.1 Đổi mới công tác xây dựng dự toán ngân sách GD-ĐT
3.2.1.1. Các căn cứ mới để xây dựng dự toán chi ngân sách cho giáo dục - đào tạo
+ Căn cứ vào chiến lược phát triển giáo dục 2001- 2010 của Đảng và Nhà nước, (đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt kèm theo Quyết định số 201/2001/QĐ- TTg ngày 28/12/2001) trong đó có chia ra các nhiệm vụ cụ thể cần phải thực hiện trong những giai đoạn nhất định. Các nhiệm vụ cụ thể này được chi tiết hóa trong các kế hoạch phát triển giáo dục - đào tạo trung hạn và ngắn hạn. Đây là căn cứ không thể thiếu được trong xây dựng dự toán chi NSNN cho giáo dục - đào tạo. Chẳng hạn, giai đoạn 2001- 2005 phấn đấu 30 tỉnh, thành phố trong cả nước hoàn thành phổ cập bậc trung học cơ sở; hoặc năm học 2002- 2003, cả nước triển khai giảng dạy đại trà chương trình và sách giáo khoa lớp 1 và lớp 6...Đây là những nhiệm vụ đồng thời là những căn cứ để xây dựng dự toán chi ngân sách cho giai đoạn 2001- 2005 và dự toán chi ngân sách cho từng năm. Ở đây muốn nhấn mạnh đến yếu tố xây dựng dự toán phải xuất phát từ yêu cầu thực tế của ngành giáo dục, tránh dự toán bình quân, dàn trải.
+ Căn cứ vào việc phân cấp ngân sách, trách nhiệm chi cho giáo dục - đào tạo. Việc phân cấp ngân sách chi cho giáo dục - đào tạo hiện nay là hết sức cần thiết nhằm tạo điều kiện chủ động trong kế hoạch thu chi cho ngân sách địa phương đồng thời huy động được sự đóng góp của nhân dân và các thành phần kinh tế chăm lo cho sự nghiệp giáo dục - đào tạo. Phân cấp ngân sách hiện nay nên theo hướng:
. Ngân sách Trung ương đảm nhiệm chi thường xuyên, chi XDCB và chi chương trình mục tiêu quốc gia cho các trường đào tạo do các cơ quan Trung ương quản lý;
. Ngân sách tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đảm nhiệm chi thường xuyên, chi XDCB và chi chương trình mục tiêu cho khối giáo dục và các trường đào tạo của địa phương (bao gồm cả các trường đại học do địa phương đề nghị thành lập như: Đại học Hồng Đức - Thanh Hóa, Đại học Hải Phòng, Đại học An Giang...)
. Ngân sách huyện chỉ đảm nhiệm chi cho sự nghiệp giáo dục - đào tạo theo phân cấp của cấp tỉnh.
. Ngân sách xã, thị trấn hỗ trợ kinh phí cho bổ túc văn hóa, nhà trẻ, mẫu giáo do xã, thị trấn quản lý.
+ Căn cứ cơ cấu chi hợp lý để xây dựng dự toán chi ngân sách, cụ thể như sau:
. Đối với khối giáo dục: Dành tối đa 70% dự toán để chi lương và các khoản chi có tính chất lương như phụ cấp ưu đãi cho giáo viên, học bổng, sinh hoạt phí, chi bảo hiểm xã hội, công tác phí, dạy vượt giờ...(Nhóm I); tối thiểu 30% dự toán để chi cho hoạt động nghiệp vụ, giảng dạy, học tập, hành chính quản lý và sửa chữa nhỏ (Nhóm II)
Đối với khối đào tạo: Dành tối đa 50% dự toán để chi lương và các khoản chi có tính chất lương như phụ cấp ưu đãi cho giáo viên, học bổng, sinh hoạt phí, chi bảo hiểm xã hội, công tác phí, dạy vượt giờ...(Nhóm I); tối thiểu 50% dự toán để chi cho hoạt động nghiệp vụ, giảng dạy, học tập, hành chính quản lý và sửa chữa nhỏ (Nhóm II)
3.2.1.2. Đổi mới qui trình lập, thẩm tra, phê duyệt dự toán chi ngân sách GD-ĐT
Yêu cầu đối với dự toán chi ngân sách Giáo dục - Đào tạo của các đơn vị thụ hưởng ngân sách là phải xác định được các chỉ tiêu tài chính và các ưu tiên đầu tư trong từng thời kỳ; có thể nói xây dựng dự toán chi ngân sách theo kiểu truyền thống là xây dựng dự toán theo kiểu "tăng thêm" - có nghĩa là năm sau cao hơn năm trước. Đổi mới qui trình soạn lập ngân sách lần này là xây dựng dự toán ngân sách trên cơ sở "đầu ra" của "công nghệ" giáo dục - đào tạo nhằm sử dụng một cách hợp lý nguồn lực tài chính vốn rất hạn hẹp. Nhất thiết phải lập dự toán trung hạn và dài hạn, tránh tình trạng "ăn đong" như hiện nay. Bộ Giáo dục - Đào tạo tổng hợp dự toán trung hạn và dài hạn của các Bộ, ngành và các địa phương thành dự toán trung và dài hạn của toàn ngành.
Qui trình lập dự toán ngân sách Giáo dục - Đào tạo hàng năm như sau:
Bước 1: Hàng năm, căn cứ vào Chỉ thị của Thủ tướng chính phủ, Bộ Tài chính thông báo số kiểm tra về thu chi NS GD-ĐT và ra văn bản hướng dẫn về yêu cầu, nội dung, thời hạn lập dự toán ngân sách, thông báo các tiêu chuẩn định mức, chế độ... làm căn cứ để xây dựng dự toán ngân sách nói chung (ngân sách cho Giáo dục - Đào tạo nói riêng) cho các bộ và địa phương; trên cơ sở đó các bộ, ngành, tỉnh, thành phố hướng dẫn và thông báo số kiểm tra cho các đơn vị trực thuộc để lập dự toán NS GD-ĐT.
Bước 2: Trên cơ sở số kiểm tra do Bộ Tài chính thông báo: Các Bộ, Ngành, Trung ương tổ chức xây dựng dự toán ngân sách giáo dục của các đơn vị trực thuộc Bộ gửi Bộ Tài chính và Bộ Giáo dục - Đào tạo. Các tỉnh, thành phố (theo phân cấp của cấp tỉnh cho các cấp huyện, cấp xã về Giáo dục - Đào tạo) tổ chức xây dựng dự toán ngân sách Giáo dục - Đào tạo của cấp mình, tổng hợp kết quả xây dựng dự toán ngân sách Giáo dục - Đào tạo của các cấp dưới thành dự toán ngân sách Giáo dục - Đào tạo của địa phương trình HĐND quyết định, báo cáo Chính phủ và gửi Bộ Tài chính, Bộ Giáo dục - Đào tạo.
Bước 3: Bộ Giáo dục - Đào tạo căn cứ vào dự toán thu, chi ngân sách giáo dục - đào tạo của các Bộ, cơ quan TW và các địa phương tổng hợp, lập dự toán NS toàn ngành giáo dục - đào tạo trình Chính phủ và gửi Bộ Tài chính.
Bước 4: Bộ Tài chính chủ trì làm việc với Bộ Giáo dục - Đào tạo rà soát lại dự toán NS giáo dục - đào tạo toàn ngành, để tổng hợp vào dự toán NSNN báo cáo Chính phủ, trình ủy ban thường vụ Quốc hội, trình Quốc hội quyết định.
3.2.1.3. Đổi mới công tác phân bổ và giao kế hoạch
Bước 1: Căn cứ vào dự toán ngân sách cho giáo dục, đào tạo đã được Quốc hội quyết định, Bộ Tài chính chủ trì phối hợp với Bộ Kế hoạch - Đầu tư, Bộ Giáo dục và Đào tạo lập phương án phân bổ NS giáo dục - đào tạo cho các Bộ, địa phương trình Chính phủ, trình ủy ban Thường vụ Quốc hội quyết định. Trách nhiệm cụ thể của từng cơ quan như sau:
- Bộ Tài chính chủ trì phối hợp với Bộ KH - ĐT, Bộ Giáo dục và Đào tạo phân bổ chi thường xuyên về giáo dục - đào tạo cho các Bộ, ngành trung ương và các địa phương.
- Bộ Giáo dục - Đào tạo chủ trì phối hợp với Bộ Tài chính và Bộ KH - ĐT phân bổ chi các chương trình quốc gia về giáo dục - đào tạo cho các Bộ, địa phương,gửi kết quả phân bổ cho Bộ Tài chính.
- Bộ KH- ĐT chủ trì phối hợp với Bộ Tài chính, Bộ GD-ĐT phân bổ chi đầu tư XDCB cho các Bộ, địa phương, gửi kết quả phân bổ cho Bộ Tài chính.
- Bộ Tài chính tổng hợp kết quả phân bổ chi NS giáo dục - đào tạo.
Bước 2: Các Bộ, ngành, địa phương nhận được chỉ tiêu ngân sách giáo dục - đào tạo, sẽ tiến hành phân bổ chi tiết cho các đơn vị trực thuộc cấp I, II (đối với các Bộ, ngành trung ương), cho các cấp ngân sách (đối với các địa phương) theo từng nội dung chi: Chi thường xuyên, Chi chương trình mục tiêu, Chi xây dựng cơ bản mà không giao chi tiết theo mục lục NSNN. Quá trình phân bổ chi tiết của các Bộ, ngành, địa phương đều có sự tham gia của cơ quan tài chính cùng cấp.
Bước 3: Sau khi phân bổ chi tiết NS giáo dục - đào tạo, các Bộ có trường, địa phương gửi cho cơ quan tài chính kết quả phân bổ ngân sách của đơn vị mình, trên cơ sở đó Chính phủ sẽ giao số thu, chi tổng hợp; Bộ Tài chính tiến hành giao nhiệm vụ thu, chi chi tiết đến các đơn vị thụ hưởng ngân sách. Bộ Tài chính sẽ gửi các hồ sơ giao kế hoạch chi tiết cho Kho bạc nhà nước để làm căn cứ cấp phát đồng thời gửi cho Bộ Giáo dục - Đào tạo để theo dõi, kiểm tra.
3.2.1.4. Trách nhiệm và sự phối hợp giữa các Bộ trong việc lập dự toán chi giáo dục, đào tạo
* Bộ Giáo dục và Đào tạo:
+ Xây dựng định hướng chiến lược phát triển giáo dục, đào tạo cho từng giai đoạn
+ Xác định và giao các chỉ tiêu tuyển sinh của cả TW và ĐP
+ Phối hợp với Bộ Tài chính xây dựng định mức chi tiêu và dự toán ngân sách hàng năm cho giáo dục - đào tạo.
+ Tham gia với Bộ Tài chính lập dự toán NS toàn ngành và phân bổ dự toán chi giáo dục - đào tạo cho các Bộ, địa phương.
* Bộ Kế hoạch và Đầu tư:
+ Chủ trì phối hợp với Bộ Giáo dục - Đào tạo xây dựng qui mô phát triển ngành giáo dục - đào tạo, xác định các chỉ tiêu hiện vật làm căn cứ xây dựng dự toán.
+ Chủ trì, phối hợp với Bộ Tài chính và Bộ Giáo dục và Đào tạo phân bổ chi đầu tư XDCB thuộc lĩnh vực Giáo dục - Đào tạo.
+ Tham gia với Bộ Tài chính, Bộ Giáo dục và Đào tạo phân bổ chi thường xuyên và chi chương trình quốc gia về giáo dục - đào tạo.
* Bộ Tài chính:
+ Chủ trì phối hợp với Bộ Giáo dục và Đào tạo xây dựng định mức chi tiêu, lập dự toán ngân sách toàn ngành giáo dục - đào tạo.
+ Tổng hợp dự toán ngân sách giáo dục - đào tạo vào NSNN trình các cấp có thẩm quyền phê duyệt.
+ Chủ trì phối hợp với Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Kế hoạch và Đầu tư phân bổ chi giáo dục - đào tạo cho các Bộ, địa phương.
* Ở địa phương:
- Sở Tài chính:
+ Chủ trì phối hợp với Sở Giáo dục - Đào tạo lập dự toán chi thường xuyên và phương án phân bổ thuộc NSĐP trình UBND tỉnh
+ Phối hợp với Sở KH- ĐT lập dự toán chi đầu tư XDCB.
+ Phối hợp với Sở Giáo dục - Đào tạo lập dự toán chi chương trình quốc gia.
- Sở Giáo dục - Đào tạo:
+ Xây dựng dự toán NS giáo dục - đào tạo hàng năm gửi Sở Tài chính để thống nhất trình UBND.
+ Tham gia với Sở Tài chính để phân bổ NS cho các trường trên địa bàn.
+ Tham gia với Sở KH - ĐT và Sở Tài chính lập dự toán chi XDCB thuộc lĩnh vực giáo dục - đào tạo ở địa phương.
3.2.2. Đổi mới quy trình cấp phát kinh phí cho GD-ĐT
Việc cấp phát kinh phí NSNN chi cho giáo dục - đào tạo thời gian qua còn phân tán, kinh phí cấp mang tính chất chia đều, còn có hiện tượng chồng chéo giữa các ngành trong khi đó việc quản lý còn thiếu chặt chẽ, thiếu kiểm tra, kiểm soát.
Đổi mới cấp phát kinh phí cho giáo dục - đào tạo theo nguyên tắc sau đây:
- Cấp phát và thanh toán cho các khoản chi thường xuyên, chi chương trình mục tiêu và chi xây dựng cơ bản nhất thiết phải qua hệ thống Kho bạc nhà nước để kiểm soát chi.
- Không cấp kinh phí cho các đơn vị trực tiếp chi tiêu thông qua cơ quan tài chính trung gian
- Tăng quyền chủ động và chịu trách nhiệm về các nội dung chi tiêu của các cơ sở giáo dục - đào tạo bằng cách cấp kinh phí chi thường xuyên hàng quí bằng 1 Mục chi duy nhất (Mục 134- Chi khác)
Đối với các khoản chi thường xuyên của Giáo dục - Đào tạo được thực hiện theo các bước sau:
Bước 1: Căn cứ vào chỉ tiêu ngân sách được giao cả năm, các cơ sở giáo dục - đào tạo lập dự toán chi (có phân chia theo quí) gửi đến cơ quan quản lý giáo dục - đào tạo (Bộ Giáo dục - Đào tạo, Sở Giáo dục - Đào tạo), cơ quan này tổng hợp, lập dự toán chi hàng quý gửi cơ quan tài chính cùng cấp.
Bước 2: Cơ quan tài chính thẩm tra dự toán chi và căn cứ vào khả năng ngân sách, cấp hạn mức kinh phí cho các cơ sở giáo dục - đào tạo theo 1 Mục chi duy nhất, đồng thời thông báo cho Kho bạc Nhà nước nơi giao dịch để thực hiện.
Bước 3: Căn cứ vào hạn mức chi được phân phối, Thủ trưởng các cơ sở giáo dục - đào tạo ra lệnh chuẩn chi, kèm theo hồ sơ thanh toán gửi Kho bạc Nhà nước nơi giao dịch.
Bước 4: Kho bạc Nhà nước nơi giao dịch kiểm tra tính hợp pháp của hồ sơ thanh toán, đối chiếu với các điều kiện chi, hạn mức, lệnh chuẩn chi để thực hiện việc cấp phát hoặc thanh toán cho đơn vị thụ hưởng.
- Đối với kinh phí chương trình mục tiêu: Bộ Tài chính cấp phát theo hình thức bổ sung có mục tiêu. Báo cáo và thanh quyết toán được thực hiện theo Quyết định số 42/2002/QĐ- TTg ngày 19 tháng 3 năm 2002 của Thủ tướng Chính phủ về quản lý và điều hành các chương trình mục tiêu quốc gia.
- Việc cấp phát và cho vay vốn đầu tư xây dựng cơ bản được thực hiện theo cơ chế hiện hành, việc thanh toán cho người nhận thầu cũng thực hiện qua Kho bạc nhà nước.
- Các nguồn thu ngoài ngân sách nhà nước (như học phí, tiền xây dựng theo Quyết định số 248/TTg) sẽ được Kho bạc Nhà nước cấp lại theo qui định của Liên Bộ Giáo dục - Đào tạo và Tài chính.
3.2.3. Đổi mới quy trình quyết toán NS GD-ĐT
Quyết toán là công cụ quan trọng trong quản lý chi tiêu ngân sách nhà nước, việc quyết toán thu chi tài chính (bao gồm cả ngân sách và ngoài ngân sách) hàng quý, năm là nhiệm vụ bắt buộc đối với từng cơ sở giáo dục - đào tạo (dù là đơn vị dự toán hay đơn vị thanh toán, dù qui mô nhỏ hay qui mô lớn). Báo cáo quyết toán phải phản ánh trung thực và phân tích nội dung thu chi cho các công việc theo đúng Mục lục ngân sách nhà nước. Thực chất đây chỉ là những thao tác nghiệp vụ kế toán không có gì khó khăn đối với các cơ sở trường học, song đối với các cơ quan quản lý giáo dục và cơ quan tài chính thì báo cáo quyết toán hết sức quan trọng và cần thiết vì căn cứ vào đó mới phân tích được việc sử dụng tài chính vào từng nội dung, mục đích chi ở trường học.
Kiểm tra và phê duyệt báo cáo quyết toán là trách nhiệm của các cơ quan quản lý giáo dục phối hợp với cơ quan tài chính cùng cấp, không nhất thiết cơ quan cấp kính phí phải làm nhiệm vụ duyệt quyết toán.
Quy trình quyết toán NS giáo dục - đào tạo được thực hiện theo các bước sau:
Bước 1: Thủ trưởng các đơn vị thụ hưởng NS giáo dục - đào tạo (các trường) phải lập quyết toán thu - chi NS đơn vị mình theo biểu mẫu qui định gửi cơ quan quản lý cấp trên.
Bước 2: Thủ trưởng các đơn vị dự toán cấp trên (Bộ GD-ĐT, Sở GD-ĐT) có trách nhiệm kiểm tra và duyệt quyết toán thu, chi của các đơn vị thụ hưởng, đồng thời lập quyết toán thu, chi thuộc phạm vi quản lý gửi cơ quan tài chính cùng cấp.
Bước 3: Đối với ngân sách địa phương, cơ quan tài chính địa phương xét duyệt quyết toán thu, chi ngân sách giáo dục - đào tạo do cơ quan giáo dục gửi sang, đồng thời thẩm tra quyết toán ngân sách cấp dưới, tổng hợp, lập quyết toán ngân sách địa phương trình UBND tỉnh.
Bước 4: Bộ Tài chính xét duyệt quyết toán thu, chi ngân sách giáo dục - đào tạo do Bộ Giáo dục - Đào tạo gửi sang, đồng thời thẩm tra quyết toán ngân sách địa phương, tổng hợp thành quyết toán NSNN trình Chính phủ xem xét để trình Quốc hội.
Cũng như quy trình lập kế hoạch, quy trình quyết toán cũng phải có sự phối hợp đồng bộ giữa các cơ quan quản lý giáo dục và cơ quan tài chính. Đối với các cơ quan quản lý giáo dục và cơ quan tài chính cùng cấp phải coi việc phối hợp duyệt quyết toán hàng năm của từng trường học là nhiệm vụ bắt buộc và bản quyết toán có giá trị pháp lý khi liên ngành cùng cấp phê duyệt. Làm được như vậy thì mọi thông tin về cấp phát, sử dụng và thanh quyết toán tài chính đều nắm được chính xác và thống nhất giữa cơ quan quản lý chuyên ngành với cơ quan tài chính, sẽ không có tình trạng đùn đẩy trách nhiệm trong quản lý sử dụng tài chính ở các trường học, nhất là khối giáo dục phổ thông và mầm non.
Tóm lại: Những đổi mới quan trọng trong quản lý ngân sách giáo dục - đào tạo mà luận văn đề xuất là:
+ Nhất thiết phải xây dựng được dự toán trung hạn và dài hạn; trên cơ sở đó xây dựng dự toán hàng năm theo kết quả đầu ra, căn cứ vào chiến lược phát triển của ngành, có xác định mục tiêu ưu tiên nhằm đảm bảo sử dụng các nguồn tài chính đạt hiệu quả cao nhất.
+ Việc giao chỉ tiêu ngân sách cho các Bộ, địa phương tổng hợp theo từng nội dung, nhiệm vụ chi tạo điều kiện cho các bộ, ngành, địa phương chủ động phân bổ kinh phí, tổ chức lồng ghép các chương trình mục tiêu trên cùng địa bàn.
+ Việc cấp phát trực tiếp kinh phí chi thường xuyên từ cơ quan tài chính qua kho bạc cho các cơ sở giáo dục - đào tạo hàng quí (không cấp qua cơ quan quản lý giáo dục) theo một Mục chi duy nhất (Mục 134) đã giảm được 1 cấp trung gian, đồng thời tạo điều kiện cho các cơ sở giáo dục - đào tạo chủ động và tăng cường tính chịu trách nhiệm trong việc phân bổ và sử dụng kinh phí cho các hoạt động giáo dục - đào tạo.
3.3. CÁC ĐIỀU KIỆN ĐỂ THỰC HIỆN CÓ HIỆU QUẢ CÁC GIẢI PHÁP
3.3.1 Quy định rõ chức năng quản lý NS GD-ĐT
- Bộ Tài chính thực hiện chức năng quản lý nhà nước về mọi nguồn tài chính trong ngân sách và ngoài ngân sách (Vay nợ, viện trợ, quà tặng, các nguồn thu hợp pháp khác ở các cơ sở GD-ĐT). Phối hợp với Bộ Giáo dục và Đào tạo kiểm tra việc thực hiện kế hoạch chi tiêu ngân sách dành cho giáo dục - đào tạo đối với các ngành, các địa phương.
- Sở Tài chính thực hiện chức năng quản lý nhà nước về tất cả các nguồn tài chính đầu tư cho sự nghiệp giáo dục - đào tạo (cả ngân sách và kinh phí ngoài NSNN) các nguồn quốc tế viện trợ...trên địa bàn toàn tỉnh.
- Bộ Giáo dục - Đào tạo và Sở Giáo dục - Đào tạo thực hiện việc quản lý nhà nước trong lĩnh vực tài chính bằng việc kiểm tra, giám sát các khoản chi tiêu của đơn vị; phối hợp với cơ quan tài chính để khai thác các nguồn vốn khác hỗ trợ cho ngân sách giáo dục - đào tạo.
3.3.2. Sắp xếp lại hệ thống các trường, lớp
Bộ Giáo dục và Đào tạo chủ trì, phối hợp với các cơ quan chức năng của Nhà nước khẩn trương hoàn thành qui hoạch mạng lưới trường lớp theo hướng sau:
- Qui hoạch các trường đại học cao đẳng theo vùng, miền: đảm bảo các vùng, các miền khác nhau có đủ cơ sở đào tạo để đáp ứng nhu cầu đào tạo cán bộ tại chỗ, phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế, văn hóa xã hội của từng vùng, miền lãnh thổ.
- Xây dựng và qui hoạch các trường đại học cao đẳng phải đáp ứng yêu cầu đào tạo các ngành nghề, phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế của các vùng đất nước, tập trung nguồn vốn cho các cơ sở đào tạo những ngành nghề mũi nhọn cho nền kinh tế. Kết hợp 3 hoạt động trong mỗi trường: Đào tạo - Nghiên cứu - Sản xuất.
- Giữ vững cơ cấu 2 đại học Quốc gia và 3 đại học vùng, trên cơ sở đảm bảo qui mô đào tạo, đội ngũ cán bộ giảng viên và cơ sở vật chất trường học. Hướng sắp xếp này vừa thống nhất được chương trình đào tạo nâng cao chất lượng đào tạo, vừa tập trung được các nguồn lực tài chính phục vụ cho sự nghiệp đào tạo, giảm bớt bộ máy hành chính ở các trường.
- Giữ nguyên số lượng và cơ cấu các trường đại học, cao đẳng trực thuộc Bộ Giáo dục và Đào tạo, không chia, tách hoặc giao cho các Bộ khác quản lý. Đối với các trường thuộc Tổng công ty, Công ty, Xí nghiệp thì NSNN không đài thọ kinh phí. Chi phí đào tạo của các Tổng công ty, Công ty, Xí nghiệp này được tính vào giá thành hoặc phí lưu thông của đơn vị.
- Đảm bảo xây dựng tại mỗi huyện có ít nhất 1 trường phổ thông trung học, tiến tới xây dựng các trường phổ thông trung học cho các cụm xã, đáp ứng yêu cầu nâng cao dân trí của xã hội.
3.3.3. Đa dạng hóa các nguồn tài chính đầu tư cho GD-ĐT
Đầu tư cho giáo dục - đào tạo là đầu tư cho phát triển, trong đó nguồn ngân sách nhà nước giữ vai trò chủ đạo, tăng cường công tác xã hội hóa giáo dục - đào tạo nhằm huy động tối đa nguồn đóng góp của nhân dân và mở rộng quan hệ hợp tác với các nước trên thế giới và khu vực. Cần thực hiện tốt các giải pháp sau đây:
- Khuyến khích phát triển các trường bán công, dân lập, tư thục, thực hiện phương châm Nhà nước và nhân dân cùng chăm lo sự nghiệp giáo dục - đào tạo.
- Điều chỉnh tăng mức thu học phí, thu đóng góp xây dựng trường sở. có phân biệt mức thu cho từng miền và các đối tượng khác nhau. Cho phép các tỉnh, thành phố có điều kiện được thu tiền hỗ trợ giáo dục tiểu học; Nghiên cứu lại chính sách miễn thu học phí học sinh các ngành sư phạm.
- Thành lập quỹ hỗ trợ phát triển giáo dục - đào tạo trên cơ sở các nguồn sau:
. Khoản nộp bắt buộc của các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế khi sử dụng lao động đã qua đào tạo.
. Tài trợ trực tiếp của các cá nhân và các tổ chức quốc tế.
. Vốn đóng góp tự nguyện của các cá nhân, tổ chức kinh tế xã hội trong nước.
. Vốn thu hồi từ hoạt động nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ...
3.3.4. Đổi mới phương pháp tính toán và phân bổ kinh phí cho giáo dục - đào tạo
- Đối với khối giáo dục: Cần tính toán và phân bổ ngân sách theo đầu học sinh có tính hệ số vùng, miền. Việc phân bổ ngân sách theo cách này sẽ khắc phục được những nhược điểm của việc phân bổ ngân sách giáo dục theo dân số, trước hết tạo nên động lực cho sự phát triển giáo dục ở các địa phương, tạo nên sự đồng bộ trong qui trình quản lý, sử dụng ngân sách giáo dục và đào tạo phù hợp với các phương pháp tính toán và phân bổ ngân sách của các nước trong khu vực.
- Đối với khối đào tạo: Tính toán và phân bổ ngân sách theo đầu sinh viên có tính hệ số thích hợp đối với những ngành nghề đào tạo (ngành ưu tiên mũi nhọn, ngành nghề khó tuyển sinh, những ngành có chi phí đào tạo cao...)
- Đầu tư có trọng tâm, trọng điểm, không dàn đều, ưu tiên đầu tư cho giáo dục ở những vùng khó khăn, hỗ trợ cơ sở vật chất cho các trường, hỗ trợ người nghèo, đào tạo những ngành nghề quan trọng có thể làm thay đổi cơ cấu kinh tế, trong đó tập trung vào các trường Đại học đa ngành, trường khu vực, trường đặc thù...
3.3.5. Hoàn thiện và đổi mới hệ thống định mức ngành GD-ĐT
Hoàn thiện hệ thống định mức tiêu chuẩn có ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc quản lý ngân sách GD-ĐT, vì đây là những căn cứ cơ bản để phân bổ nguồn lực một cách hợp lý và chính xác. Hiện nay, nhiều định mức GD-ĐT quá lạc hậu, không sát thực tế và chậm được sửa đổi. Để tăng cường công tác quản lý ngân sách giáo dục - đào tạo nhất thiết phải thay đổi sớm những định mức tối thiểu như:
+ Định mức chi cho các bậc học từ mẫu giáo - nhà trẻ đến giáo dục phổ thông, giáo dục nghề nghiệp và đào tạo sau đại học.
+ Định mức chi cho học sinh các trường chuyên biệt: trường phổ thông dân tộc nội trú, trường phổ thông chất lượng cao, các trường khuyết tật thiểu năng.
(Hiện đang áp dụng theo công văn số 562TC/HCSN ngày 3/3/1998).
+ Định mức giáo viên/lớp (QĐ 243/CP ngày 28/6/1979 của Hội đồng Chính phủ)
+ Định mức học sinh/lớp (Thông tư liên Bộ số 27/TT- LB ngày 27/8/1988 liên Bộ GD- UBKHNN)
3.3.6. Hoàn thiện và đổi mới công tác cán bộ nghiệp vụ
+ Nhất thiết phải có đủ đội ngũ cán bộ làm công tác kế hoạch tài chính được đào tạo cơ bản và được bồi dưỡng nghiệp vụ thường xuyên đối với các cơ quan quản lý giáo dục - đào tạo từ cấp Phòng GD-ĐT trở lên; đồng thời phải có đủ đội ngũ kế toán chuyên nghiệp tại mỗi cơ sở giáo dục - đào tạo. Nhanh chóng ban hành và thống nhất áp dụng kế toán bằng máy vi tính.
KẾT LUẬN
Thực hiện Nghị quyết Trung ương 2 (khóa VIII) và Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IX, toàn ngành giáo dục - đào tạo đã nỗ lực phấn đấu, quyết tâm đổi mới nhằm tạo ra chuyển biến rõ nét cả về quy mô, chất lượng và hiệu quả, từng bước đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Những kết quả đạt được trong việc duy trì hoạt động giáo dục, từng bước khắc phục những yếu kém về chất lượng và hiệu quả trong điều kiện hết sức hạn hẹp về tài chính và cơ sở vật chất là rất đáng kể. Tuy nhiên, sự hạn chế về điều kiện kinh tế - xã hội, về năng lực giáo viên và cơ sở vật chất của ngành giáo dục, về thu nhập và chất lượng cuộc sống của các tầng lớp nhân dân tác động mạnh mẽ, tạo ra khoảng cách về chất lượng giáo dục giữa các vùng miền, giữa các loại hình, giữa các phương thức giáo dục. Nhìn chung, đối chiếu với yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và so sánh với trình độ giáo dục - đào tạo của các nước có nền kinh tế phát triển trong khu vực và trên thế giới, chất lượng và hiệu quả giáo dục nước ta vẫn có phần yếu kém. Nâng cao chất lượng và hiệu quả vẫn đang là yêu cầu bức xúc, là thách thức chủ yếu mà ngành giáo dục phải cố gắng vượt qua.
Với quan điểm giáo dục là quốc sách hàng đầu, Bộ Kế hoạch - Đầu tư và Bộ Tài chính đã giúp Chính phủ tăng ngân sách cho giáo dục, bảo đảm yêu cầu định mức do Nghị quyết TW2 đề ra. Năm 1996, phần ngân sách nhà nước chi cho giáo dục chiếm 11%, đến năm 2000, chiếm 15%. Về con số tuyệt đối, phần ngân sách nhà nước chi cho giáo dục năm 2000 so với năm 1996 gấp 1,6 lần Mặc dầu vậy, ngân sách nhà nước chỉ mới đáp ứng khoảng 70% nhu cầu tối thiểu của giáo dục. Phần lớn ngân sách dùng để trả lương và các khoản phụ cấp theo lương (có nơi tới 90%).
Với nguồn kinh phí đầu tư cho giáo dục - đào tạo còn hạn hẹp, để sử dụng một cách có hiệu quả hơn nữa thì tiếp tục đổi mới quản lý ngân sách là một khâu hết sức quan trọng, luận văn này đã tập trung phân tích thực trạng quản lý ngân sách giáo dục - đào tạo ở nước ta trong thời gian qua, từ đó đề xuất các giải pháp nhằm góp phần đổi mới khâu quản lý ngân sách.
Đổi mới quản lý ngân sách giáo dục - đào tạo cần được thực hiện đồng bộ các giải pháp đã được nêu ra sau đây:
- Đổi mới quy trình kế hoạch hóa ngân sách GD-ĐT: trong đó phân tích các căn cứ mới để xây dựng dự toán chi ngân sách cho giáo dục - đào tạo; Đổi mới qui trình lập, thẩm tra, phê duyệt dự toán chi ngân sách GD-ĐT và phân định rõ trách nhiệm và sự phối hợp giữa các Bộ trong việc lập dự toán chi giáo dục- đào tạo.
- Đổi mới công tác phân bổ và giao kế hoạch
- Đổi mới quy trình cấp phát kinh phí cho GD-ĐT.
- Đổi mới quy trình quyết toán ngân sách GD-ĐT.
Tóm lại: Những giải pháp quan trọng nhất trong quản lý ngân sách giáo dục - đào tạo mà luận văn đề xuất là:
+ Nhất thiết phải xây dựng được dự toán trung hạn và dài hạn; trên cơ sở đó xây dựng dự toán hàng năm theo kết quả đầu ra, căn cứ vào chiến lược phát triển của ngành, có xác định mục tiêu ưu tiên nhằm đảm bảo sử dụng các nguồn tài chính đạt hiệu quả cao nhất.
+ Việc giao chỉ tiêu ngân sách cho các Bộ, địa phương tổng hợp theo từng nội dung, nhiệm vụ chi tạo điều kiện cho các bộ, ngành, địa phương chủ động phân bổ kinh phí, tổ chức lồng ghép các chương trình mục tiêu trên cùng địa bàn.
+ Việc cấp phát trực tiếp kinh phí chi thường xuyên từ cơ quan tài chính qua kho bạc cho các cơ sở giáo dục - đào tạo hàng quí (Không cấp qua cơ quan quản lý giáo dục) theo một Mục chi duy nhất (Mục 134) đã giảm được 1 cấp trung gian, đồng thời tạo điều kiện cho các cơ sở giáo dục - đào tạo chủ động và tăng cường tính chịu trách nhiệm trong việc phân bổ và sử dụng kinh phí cho các hoạt động giáo dục - đào tạo phù hợp với cơ chế quản lý mới, với điều kiện mới.
Từ những giải pháp nói trên, luận văn đã chỉ rõ 6 điều kiện để thực hiện có hiệu quả các giải pháp đã đề xuất.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Đặng Quốc Bảo (1997), Kinh tế giáo dục, Viện Khoa học Giáo dục, Hà Nội.
Đặng Quốc Bảo (1996), Ngân sách giáo dục, Giáo dục và Thời đại, (43).
Đặng Quốc Bảo (1996), Chỉ số phát triển giáo dục, Giáo dục và Thời đại, (44).
Báo cáo của nhóm công tác về Tài chính công cộng (1996), Bộ Tài chính, Hà Nội.
Báo cáo kiểm điểm việc thực hiện NQTƯ 2 (Khóa VIII) và phương hướng phát triển giáo dục từ nay đến năm 2005 và đến năm 2010, Tổ văn kiện về GD-ĐT, tiểu ban văn kiện Hội nghị TW6 (khóa IX), Hà Nội, tháng 5/2002.
Ban soạn thảo chiến lược phát triển giáo dục (1998), Tài chính cho giáo dục Việt Nam đến năm 2000- 2005- 2010- 2020, Hà Nội.
Báo cáo đánh giá tình hình tài chính phục vụ 10 năm đổi mới giáo dục đào tạo 1986- 1996, Bộ Tài chính.
Báo cáo khảo sát tại Malaysia và Singapore. Bộ Tài chính - Dự án VIE/96/028.
Chiến lược phát triển giáo dục 2001- 2010 (2002), Nxb Giáo dục, Hà Nội.
Lê Vinh Danh (2002), Chính sách công của Hoa Kỳ giai đoạn 1935- 2001, Nxb Thống kê.
Đánh giá thực trạng đầu tư tài chính phục vụ sự nghiệp phát triển lĩnh vực văn hóa, giáo dục- đào tạo, y tế xã hội, nông lâm nghiệp và quản lý Nhà nước giai đoạn 1991- 2000 (2001), Bộ Tài chính.
Đề án Xã hội hóa giáo dục và đào tạo (1998), Bộ GD-ĐT, Hà Nội.
Trần Thị Thu Hà (1993), Đổi mới và hoàn thiện cơ chế quản lý ngân sách hệ thống giáo dục quốc dân, Luận án Phó tiến sĩ trường Đại học Kinh tế quốc dân.
Trần Thị Thu Hà (1992), "Công tác kế hoạch hóa ngân sách giáo dục - đào tạo toàn ngành", Tài chính.
Phạm Minh Hạc (1992), Dự án quốc gia nghiên cứu tổng thể ngành giáo dục và phân tích nguồn nhân lực VIE/89/022, tập I, Hà Nội.
Trần Xuân Hải (2000), Giải pháp tạo vốn đầu tư phát triển sự nghiệp đào tạo trong giai đoạn hiện nay ở Việt Nam, Luận án tiến sĩ kinh tế Trường Đại học Tài chính Kế toán, Hà Nội.
Võ Đình Hảo (1993), Đổi mới chính sách và cơ chế quản lý tài chính, Nxb Chính trị quốc gia.
Hệ thống mục lục ngân sách nhà nước (1993), Bộ Tài chính, NxbTài chính.
Hoàn thiện qui trình ngân sách Việt Nam, Dự án chi tiêu công giai đoạn II, VIE/96/028.
Nguyễn Ngọc Hùng (1999), Lý thuyết Tài chính- Tiền tệ, Nxb Thống kê.
Hướng dẫn thực hiện Luật NSNN (1998), Nxb Tài chính.
Kế hoạch phát triển giáo dục - Đào tạo 5 năm 2001- 2005 (2000), Bộ Giáo dục và Đào tạo.
Nguyễn Quang Kính (1993), "Một số đề xuất về đầu tư cho sự nghiệp giáo dục và Đào tạo", Nghiên cứu giáo dục, (3).
Mai Hữu Khuê (1997), Giáo trình quản lý kinh tế, Học viện Hành chính Quốc gia, Hà Nội.
Luật Giáo dục (1998), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Đỗ Mười (1993), "Giáo dục và Đào tạo là quốc sách hàng đầu, là chìa khóa để mở cửa tiến vào tương lai", Nghiên cứu giáo dục, (2).
Nguyễn Công Nghiệp (1996), Xây dựng qui trình lập kế hoạch và cơ chế điều hành ngân sách giáo dục - đào tạo, Bộ Tài chính.
Tài chính giáo dục Việt Nam (1999), Nhóm nghiên cứu Tài chính Giáo dục - WB.
Nguyễn Duy Tạo (2000), Hoàn thiện quản lý tài chính các trường đào tạo công lập ở nước ta hiện nay, Luận văn Thạc sĩ Kinh tế, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh.
Tài chính Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử (2001), Nxb Tài chính, Hà Nội.
Tào Hữu Phùng- Nguyễn Công Nghiệp (1992), Đổi mới ngân sách nhà nước, Nxb Thống kê, Hà Nội.
Trần Hồng Quân (1997), "Những đặc điểm cơ bản về nội dung của dự thảo Luật giáo dục", Nghiên cứu giáo dục, (6).
Số liệu thống kê giáo dục, Bộ Giáo dục và Đào tạo - Trung tâm Thông tin 1998, 1999, 2000, 2001.
Trần Văn Tá - Bạch Thị Thu Hiền (1996), Đổi mới chính sách và cơ chế quản lý tài chính phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa, Nxb Tài chính, Hà Nội.
Tài liệu nghiên cứu Nghị quyết Trung ương 2 khóa VIII của Đảng, Nxb Chính trị quốc gia, tháng 3/1997.
Tập đề cương bài giảng quản lý kinh tế (1999), Khoa Quản lý kinh tế, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
Văn bản Pháp qui về quản lý Tài chính hành chính sự nghiệp, Tập II, III, IV, V, Nxb Tài chính, tháng 5/1999, 2000, 2001.
ĐCSVN (1996) Văn kiện đại biểu đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
ĐCSVN (2001) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Xây dựng qui trình lập kế hoạch và cơ chế điều hành ngân sách giáo dục và Đào tạo (1996), Đề tài NCKH cấp Bộ, Bộ Tài chính.
UNDP Human Development Report, 1998, 1999.
The Economics of Education, Macmillan Press 1993.
HARVEY.S.ROSEN, Tài chính công cộng, tháng 12/1994.
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LVTS002.DOC