1Chương 1
Tổng quan về hoạt động tín dụng và rủi ro tín dụng
ngân hàng
1.1 Hoạt động tín dụng
1.1.1 Khái niệm
Tín dụng là một giao dịch về tài sản (tiền hoặc hàng hóa) giữa bên cho vay
(ngân hàng và các định chế tài chính khác) và bên đi vay (cá nhân, doanh nghiệp và
các chủ thể khác), trong đó bên cho vay chuyển giao tài sản cho bên đi vay sử dụng
trong một thời hạn nhất định theo thỏa thuận, bên đi vay có trách nhiệm hoàn trả vô
điều kiện vốn gốc và lãi cho bên cho vay khi đến hạn tha
80 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1377 | Lượt tải: 3
Tóm tắt tài liệu Thực trạng và giải pháp phòng ngừa rủi ro tín dụng tại Ngân hàng Thương mại cổ phần Á Châu, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nh toán.
Căn cứ theo khoản 01 Điều 03 của Quy chế cho vay của Tổ chức Tín dụng đối
với khách hàng (ban hành kèm theo Quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN ngày
31/12/2001 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước) thì “Cho vay là một hình thức cấp
tín dụng, theo đó Tổ chức Tín dụng giao cho khách hàng sử dụng một khoản tiền để
sử dụng vào mục đích và thời gian nhất định theo thỏa thuận với nguyên tắc có
hoàn trả cả gốc và lãi.”
Căn cứ theo Điều 20 của Luật các tổ chức tín dụng số 07/1997/QHX đã được
Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá X, kỳ họp thứ hai thông
qua ngày 12 tháng 12 năm 1997 và có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 10 năm
1998 thì “Hoạt động tín dụng là việc tổ chức tín dụng sử dụng nguồn vốn tự có, vốn
huy động để cấp tín dụng”
Căn cứ theo Điều 49 của Luật này về “Cấp tín dụng” thì Tổ chức tín dụng được
cấp tín dụng cho tổ chức, cá nhân dưới các hình thức cho vay, chiết khấu thương
phiếu và giấy tờ có giá khác, bảo lãnh, cho thuê tài chính và các hình thức khác
theo quy định của Ngân hàng Nhà nước.
21.1.2 Bản chất
Từ khái niệm trên, bản chất của tín dụng là một giao dịch về tài sản trên cơ sở
hoàn trả và có các đặc trưng sau:
- Tài sản giao dịch trong quan hệ tín dụng ngân hàng bao gồm hai hình thức là
cho vay (bằng tiền) và cho thuê (bất động sản và động sản).
- Xuất phát từ nguyên tắc hoàn trả, vì vậy người cho vay khi chuyển giao tài sản
cho người đi vay sử dụng phải có cơ sở để tin rằng người đi vay sẽ trả đúng hạn.
Đây là yếu tố hết sức cơ bản trong quản trị tín dụng.
- Giá trị hoàn trả thông thường phải lớn hơn giá trị lúc cho vay, hay nói cách
khác là người đi vay phải trả thêm phần lãi ngoài vốn gốc.
- Trong quan hệ tín dụng ngân hàng, tiền vay được cấp trên cơ sở bên đi vay
cam kết hoàn trả vô điều kiện cho bên cho vay khi đến hạn thanh toán.
1.1.3 Phân loại hoạt động tín dụng
Phân loại cho vay là việc sắp xếp các khoản cho vay theo từng nhóm dựa trên
một số tiêu thức nhất định. Việc phân loại cho vay có cơ sở khoa học là tiền đề để
thiết lập các quy trình cho vay thích hợp và nâng cao hiệu quả quản trị rủi ro tín
dụng. Phân loại cho vay dựa vào các căn cứ sau đây:
- Dựa vào mục đích của cho vay, hoạt động tín dụng có thể phân chia thành các
loại sau:
+ Cho vay phục vụ sản xuất kinh doanh công thương nghiệp.
+ Cho vay tiêu dùng cá nhân.
+ Cho vay mua bán bất động sản.
+ Cho vay sản xuất nông nghiệp.
+ Cho vay kinh doanh xuất nhập khẩu…
- Dựa vào thời hạn cho vay, hoạt động tín dụng có thể phân chia thành các loại
sau:
3+ Cho vay ngắn hạn: là loại cho vay có thời hạn đến 1 năm. Mục đích của loại
cho vay này thường là nhằm tài trợ cho việc đầu tư vào tài sản lưu động.
+ Cho vay trung hạn: là loại cho vay có thời hạn trên 1 đến 5 năm. Mục đích của
loại cho vay này là nhằm tài trợ cho việc đầu tư vào tài sản cố định.
+ Cho vay dài hạn: là loại cho vay có thời hạn trên 5 năm. Mục đích của loại
cho vay này thường là nhằm tài trợ đầu tư vào các dự án đầu tư.
- Dựa vào mức độ tín nhiệm của khách hàng, hoạt động tín dụng có thể phân
chia thành các loại sau:
+ Cho vay không có bảo đảm: là loại cho vay không có tài sản thế chấp, cầm cố
hoặc bảo lãnh của người khác mà chỉ dựa vào uy tín của bản thân khách hàng vay
vốn để quyết định cho vay.
+ Cho vay có bảo đảm: là loại cho vay dựa trên cơ sở các bảo đảm cho tiền vay
như thế chấp, cầm cố hoặc bảo lãnh của một bên thứ ba nào khác.
- Dựa vào phương thức cho vay, hoạt động tín dụng có thể phân chia thành các
loại sau:
+ Cho vay theo món vay: là loại cho vay mà mỗi lần vay vốn, khách hàng và tổ
chức tín dụng thực hiện thủ tục vay vốn cần thiết và ký kết hợp đồng tín dụng.
+ Cho vay theo hạn mức tín dụng: là loại cho vay mà tổ chức tín dụng và khách
hàng xác định và thỏa thuận một hạn mức tín dụng duy trì trong một khoảng thời
gian nhất định.
+ Cho vay theo hạn mức thấu chi: là việc cho vay mà tổ chức tín dụng thỏa
thuận bằng văn bản chấp thuận cho khách hàng chi vượt số tiền có trên tài khoản
thanh toán của khách hàng.
- Dựa vào xuất xứ tín dụng, hoạt động tín dụng có thể phân chia thành các loại
sau:
+ Cho vay trực tiếp: ngân hàng cấp vốn trực tiếp cho người có nhu cầu, đồng
thời người đi vay trực tiếp trả nợ vay cho ngân hàng.
4+ Cho vay gián tiếp: là khoản cho vay được thực hiện thông qua việc mua lại
các khế ước hoặc chứng từ nợ đã phát sinh và còn trong thời hạn thanh toán như là:
Chiết khấu thương mại; bao thanh toán.
1.2 Rủi ro tín dụng
1.2.1 Khái niệm
Rủi ro tín dụng là loại rủi ro phát sinh trong quá trình cấp tín dụng của ngân
hàng, biểu hiện trên thực tế qua việc khách hàng không trả được nợ hoặc trả nợ
không đúng hạn cho ngân hàng.
Căn cứ vào khoản 01 Điều 02 của Quy định về phân loại nợ, trích lập và sử
dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín
dụng (Ban hành theo Quyết định số 493 /2005/QĐ-NHNN ngày 22/4/2005 của
Thống đốc Ngân hàng Nhà nước) thì “Rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng
của tổ chức tín dụng là khả năng xảy ra tổn thất trong hoạt động ngân hàng của tổ
chức tín dụng do khách hàng không thực hiện hoặc không có khả năng thực hiện
nghĩa vụ của mình theo cam kết.”
Như vậy, có thể nói rằng rủi ro tín dụng có thể xuất hiện trong các mối quan hệ
mà trong đó ngân hàng là chủ nợ, mà khách hàng nợ lại không thực hiện hoặc
không đủ khả năng thực hiện nghĩa vụ trả nợ khi đến hạn. Nó diễn ra trong quá
trình cho vay, chiết khấu công cụ chuyển nhượng và giấy tờ có giá, cho thuê tài
chính, bảo lãnh, bao thanh toán của ngân hàng.
Đây còn được gọi là rủi ro mất khả năng chi trả và rủi ro sai hẹn, là loại rủi ro
liên quan đến chất lượng hoạt động tín dụng của ngân hàng.
1.2.2 Phân loại
Nếu căn cứ vào nguyên nhân phát sinh rủi ro, rủi ro tín dụng được phân chia
thành các loại sau:
- Rủi ro giao dịch (Transaction rish): là một hình thức của rủi ro tín dụng mà
nguyên nhân phát sinh là do những hạn chế trong quá trình giao dịch và xét duyệt
5cho vay, đánh giá khách hàng. Rủi ro giao dịch có ba bộ phận chính là rủi ro lựa
chọn, rủi ro bảo đảm và rủi ro nghiệp vụ.
+ Rủi ro lựa chọn là rủi ro có liên quan đến quá trình đánh giá và phân tích tín
dụng, khi ngân hàng lựa chọn những phương án vay vốn có hiệu quả để ra quyết
định cho vay.
+ Rủi ro bảo đảm phát sinh từ các tiêu chuẩn đảm bảo như các điều khoản trong
hợp đồng cho vay, các loại tài sản đảm bảo, chủ thể đảm bảo, hình thức đảm bảo và
mức cho vay trên giá trị của tài sản đảm bảo.
+ Rủi ro nghiệp vụ là rủi ro liên quan đến công tác quản lý khoản vay và hoạt
động cho vay, bao gồm cả việc sử dụng hệ thống xếp hạng rủi ro và kỹ thuật xử lý
các khoản vay có vấn đề.
- Rủi ro danh mục (Porfolio rish): là một hình thức của rủi ro tín dụng mà
nguyên nhân phát sinh là do những hạn chế trong quản lý danh mục cho vay của
ngân hàng, được phân chia thành hai loại là rủi ro nội tại (Intrinsic rish) và rủi ro
tập trung (Concentration rish).
+ Rủi ro nội tại: xuất phát từ các yếu tố, các đặc điểm riêng có, mang tính riêng
biệt bên trong của mỗi chủ thể đi vay hoặc ngành, lĩnh vực kinh tế. Nó xuất phát từ
đặc điểm hoạt động hoặc đặc điểm sử dụng vốn của khách hàng vay vốn.
+ Rủi ro tập trung là trường hợp ngân hàng tập trung vốn cho vay quá nhiều đối
với một số khách hàng, cho vay quá nhiều doanh nghiệp hoạt động trong cùng một
ngành, lĩnh vực kinh tế; hoặc trong cùng một vùng địa lý nhất định; hoặc cùng một
loại hình cho vay có rủi ro cao.
1.2.3 Nguyên nhân
Hoạt động tín dụng là hoạt động đem lại nguồn thu chủ yếu của các ngân hàng
thương mại nhưng đây cũng chính là lĩnh vực nghiệp vụ phức tạp và ẩn chứa nhiều
rủi ro nhất. Do đó, việc đi sâu nghiên cứu nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng là
6thực sự cần thiết để các ngân hàng thương mại có được các giải pháp cần thiết để
hạn chế rủi ro này và đạt được hiệu quả hoạt động cao nhất
Như chúng ta đã biết, rủi ro tín dụng là loại rủi ro phát sinh trong quá trình cấp
tín dụng của ngân hàng, biểu hiện trên thực tế qua việc khách hàng không trả được
nợ hoặc trả nợ không đúng hạn cho ngân hàng. Rủi ro này có nguyên nhân từ nhiều
phía: từ phía người cho vay, từ phía người đi vay và cả từ môi trường bên ngoài.
1.2.3.1 Nguyên nhân thuộc về năng lực quản trị của ngân hàng
Trước hết phải nói đến các ngân hàng còn thiếu một chính sách tín dụng nhất
quán, chính sách tín dụng ở đây phải bao gồm định hướng chung cho việc cho vay,
chế độ tín dụng ngắn hạn, trung và dài hạn, các quy định về bảo đảm tiền vay, danh
mục lựa chọn khách hàng trong từng giai đoạn,… Nguyên nhân gây ra rủi ro tín
dụng từ phía ngân hàng có thể được khái quát cơ bản dưới đây:
- Ngân hàng không có đủ thông tin về các số liệu thống kê, chỉ tiêu để phân tích
và đánh giá khách hàng,… dẫn đến việc xác định sai hiệu quả của phương án xin
vay, hoặc xác định thời hạn cho vay và trả nợ không phù hợp với phương án kinh
doanh của khách hàng.
- Sự lơi lỏng trong quá trình giám sát trong và sau khi cho vay nên không phát
hiện kịp thời hiện tượng sử dụng vốn sai mục đích.
- Quá tin tưởng vào tài sản thế chấp, bảo lãnh, bảo hiểm, coi đó là vật đảm bảo
chắc chắn cho sự thu hồi cả gốc và lãi tiền vay.
- Chạy theo số lượng (hoặc theo kế hoạch) mà sao lãng việc coi trọng chất lượng
khoản vay, quá lạc quan và tin tưởng vào sự thành công của phương án kinh doanh
của khách hàng.
- Ngân hàng thiếu một bộ phận chuyên trách theo dõi, quản lý rủi ro, quản lý
hạn mức tín dụng tối đa cho từng khách hàng thuộc từng ngành nghề, sản phẩm địa
phương khác nhau để phân tán rủi ro, các dự báo cần thiết trong từng thời kỳ.
7- Năng lực và phẩm chất đạo đức của một số cán bộ tín dụng ngân hàng chưa đủ
tầm và vấn đề quản lý sử dụng, đãi ngộ cán bộ ngân hàng chưa thỏa đáng.
- Ngân hàng không giải quyết hợp lý quan hệ giữa nguồn vốn huy động và
nguồn vốn sử dụng, cụ thể là: dự trữ vốn quá ít so với nhu cầu bảo đảm thanh toán,
từ đó dẫn đến mất khả năng thanh toán nếu khách hàng có nhu cầu rút vốn nhiều;
hoặc dự trữ vốn quá nhiều, gây ứ đọng vốn, lãng phí trong sử dụng vốn; hoặc lấy
vốn ngắn hạn cho vay trung dài hạn quá mức quy định.
- Cạnh tranh giữa các tổ chức tín dụng chưa thực sự lành mạnh, việc chạy theo
quy mô, bỏ qua các tiêu chuẩn, điều kiện trong cho vay, thiếu quan tâm đến chất
lượng khoản vay.
1.2.3.2 Nguyên nhân thuộc về phía khách hàng
- Sử dụng vốn sai mục đích, không có thiện chí trong việc trả nợ vay.
Đa số các doanh nghiệp khi vay vốn ngân hàng đều có các phương án kinh
doanh cụ thể, khả thi. Số lượng doanh nghiệp sử dụng vốn sai mục đích, cố ý lừa
đảo ngân hàng để chiếm đoạt tài sản không nhiều. Tuy nhiên, những vụ việc phát
sinh lại hết sức nặng nề, liên quan đến uy tín của các cán bộ, làm ảnh hưởng xấu đế
các doanh nghiệp khác.
- Năng lực quản lý kinh doanh kém, đầu tư nhiều lĩnh vực vượt quá khả năng
quản lý.
Khi các doanh nghiệp vay tiền ngân hàng để mở rộng quy mô kinh doanh, đa
phần là tập trung vốn đầu tư vào tài sản vật chất chứ ít doanh nghiệp nào mạnh dạn
đổi mới cung cách quản lý, đầu tư cho bộ máy giám sát kinh doanh, tài chính, kế
toán theo đúng chuẩn mực. Quy mô kinh doanh phình ra quá to so với tư duy quản
lý là nguyên nhân dẫn đến sự phá sản của các phương án kinh doanh đầy khả thi mà
lẽ ra nó phải thành công trên thực tế.
8- Khách hàng vay vốn tại nhiều tổ chức tín dụng dưới một danh nghĩa hay nhiều
thực thể khác nhau nên thiếu sự phân tích trên tổng thể, khó theo dõi được dòng tiền
dẫn đến việc sử dụng vốn vay chồng chéo và mất khả năng thanh toán dây chuyền.
- Tình hình tài chính doanh nghiệp yếu kém, thiếu minh bạch. Quy mô tài sản,
nguồn vốn nhỏ bé, tỷ lệ nợ so với vốn tự có cao là đặc điểm chung của hầu hết các
doanh nghiệp Việt Nam. Ngoài ra, thói quen ghi chép đầy đủ, chính xác, rõ ràng
các sổ sách kế toán vẫn chưa được các doanh nghiệp tuân thủ nghiêm chỉnh và
trung thực. Do vậy, sổ sách kế toán mà các doanh nghiệp cung cấp cho ngân hàng
nhiều khi chỉ mang tính chất hình thức hơn là thực chất. Do đó, khi cán bộ ngân
hàng lập các bản phân tích tài chính của doanh nghiệp dựa trên số liệu do các doanh
nghiệp cung cấp, thường thiếu tính thực tế và xác thực.
- Chưa thực sự thay đổi quan điểm, còn xem vốn ngân hàng là vốn nhà nước nếu
doanh nghiệp làm ăn không hiệu quả thì ngân hàng chịu, ngân hàng thua lỗ thì nhà
nước chịu.
- Doanh nghiệp cố tình lừa đảo ngân hàng.
1.2.3.3 Nguyên nhân khách quan.
- Sự thay đổi của môi trường tự nhiên như: thiên tai, dịch bệnh, bão lụt gây
tổn thất cho khách hàng vay vốn kinh doanh.
- Sự biến động quá nhanh và không dự đoán được của thị trường thế giới.
Bởi vì nền kinh tế Việt Nam vẫn còn lệ thuộc quá nhiều vào sản xuất nông
nghiệp và công nghiệp phục vụ nông nghiệp (nuôi trồng, chế biến thực phẩm và
nguyên liệu), dầu thô, may gia công,… vốn rất nhạy cảm với rủi ro thời tiết và
giá cả thế giới, nên dễ bị tổn thương khi thị trường thế giới biến động xấu.
- Sự tấn công của hàng nhập lậu
Với hàng trăm km biên giới trên bộ và trên biển cùng địa hình địa lý phức
tạp và tình hình nghèo khó của dân cư vùng biên giới, cuộc chiến đấu với hàng
nhập lậu đã kéo dài dai dẳng từ rất nhiều năm qua mà kết quả là hàng lậu vẫn
9tràn lan tại các thành phố lớn, làm điêu đứng các doanh nghiệp trong nước và
các ngân hàng đầu tư vốn cho các doanh nghiệp này.
- Rủi ro do môi trường pháp lý chưa thuận lợi và sự kém hiệu quả của cơ
quan pháp luật cấp địa phương trong việc triển khai.
Trong những năm gần đây, Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chính
phủ, Ngân hàng Nhà nước và các cơ quan liên quan đã ban hành nhiều luật, văn
bản dưới luật hướng dẫn thi hành luật liên quan đến hoạt động tín dụng ngân
hàng. Tuy nhiên, luật và các văn bản đã có, song việc triển khai vào hoạt động
ngân hàng thì lại hết sức chậm chạp và còn gặp phải nhiều bất cập.
- Sự thanh tra, kiểm tra, giám sát chưa hiệu quả của Ngân hàng Nhà nước.
Bên cạnh những cố gắng và kết quả đạt được, hoạt động thanh tra ngân hàng và
đảm bảo an toàn hệ thống chưa có sự cải thiện căn bản về chất lượng; năng lực
cán bộ thanh tra, giám sát chưa đáp ứng được yêu cầu; nội dung và phương pháp
thanh tra, giám sát còn lạc hậu, chậm được đổi mới; vai trò kiểm toán chưa được
phát huy và hệ thống thông tin chưa được tổ chức một cách hữu hiệu; thanh tra
tại chỗ vẫn là phương pháp chủ yếu, khả năng kiểm soát toàn bộ thị trường tiền
tệ và giám sát rủi ro còn yếu;…
- Hệ thống thông tin quản lý còn bất cập. Hiện nay, trung tâm thông tin tín
dụng ngân hàng (CIC) của Ngân hàng nhà nước đã hoạt động hơn một thập niên
và đã đạt được những kết quả bước đầu rất đáng khích lệ trong việc cung cấp
thông tin tín dụng. Tuy nhiên, thông tin cung cấp còn đơn điệu, thiếu cập nhật,
chưa đáp ứng được đầy đủ yêu cầu tra cứu thông tin.
- Sự thay đổi về lãi suất, tỷ giá hối đoái, lạm phát, chỉ số giá cả tăng, nguyên
vật liệu đầu vào tăng làm ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh của khách hàng,
khó khăn tài chính dẫn đến không có khả năng trả nợ.
1.2.4 Ảnh hưởng của rủi ro tín dụng đến hoạt động kinh doanh của ngân
hàng và nền kinh tế xã hội
10
1.2.4.1 Ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của ngân hàng
Khi rủi ro tín dụng xảy ra, ngân hàng không thu được vốn tín dụng đã cấp và
lãi cho vay, nhưng ngân hàng phải trả vốn và lãi cho khoản tiền huy động khi
đến hạn, điều này sẽ làm cho ngân hàng mất cân đối trong việc thu chi, vòng
quay vốn tín dụng giảm làm cho ngân hàng kinh doanh không hiệu quả, chi phí
của ngân hàng tăng lên so với dự kiến.
Nếu một khoản vay nào đó bị mất khả năng thu hồi thì ngân hàng phải sử
dụng các nguồn vốn của mình để trả cho người gửi tiền, đến một chừng mực
nào đấy, ngân hàng không có đủ nguồn vốn để trả cho người gửi tiền thì ngân
hàng sẽ rơi vào tình trạng mất khả năng thanh toán, có thể dẫn đến nguy cơ gặp
rủi ro thanh khoản. Và kết quả là làm thu hẹp quy mô kinh doanh, năng lực tài
chính giảm sút, uy tín, sức cạnh tranh giảm không những trong thị trường nội
địa mà còn lan rộng ra các nước, kết quả kinh doanh của ngân hàng ngày càng
xấu có thể dẫn ngân hàng đến thua lỗ hoặc đưa đến bờ vực phá sản nếu không
có biện pháp xử lý, khắc phục kịp thời.
1.2.4.2 Ảnh hưởng đến nền kinh tế xã hội
Bắt nguồn từ bản chất và chức năng của ngân hàng là một tổ chức trung gian
tài chính chuyên huy động vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế để cho các tổ chức,
các doanh nghiệp và cá nhân có nhu cầu vay lại. Do đó, thực chất quyền sở hữu
những khoản cho vay là quyền sở hữu của người đã gửi tiền vào ngân hàng. Bởi
vậy, khi rủi ro tín dụng xảy ra thì không những ngân hàng chịu thiệt hại mà
quyền lợi của người gửi tiền cũng bị ảnh hưởng.
Khi một ngân hàng gặp phải rủi ro tín dụng hay bị phá sản thì người gửi tiền
ở các ngân hàng khác hoang mang lo sợ và kéo nhau ồ ạt đến rút tiền ở các ngân
hàng khác, làm cho toàn bộ hệ thống ngân hàng gặp phải khó khăn.
Ngân hàng phá sản sẽ ảnh hưởng đến tình hình sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp, không có tiền trả lương dẫn đến đời sống công nhân gặp khó
11
khăn. Hơn nữa, sự hoảng loạn của các ngân hàng ảnh hưởng rất lớn đến toàn bộ
nền kinh tế. Nó làm cho nền kinh tế bị suy thoái, giá cả tăng, sức mua giảm, thất
nghiệp tăng, xã hội mất ổn định.
Ngoài ra, rủi ro tín dụng cũng ảnh hưởng đến nền kinh tế thế giới vì ngày
nay, nền kinh tế mỗi quốc gia đều phụ thuộc vào nền kinh tế khu vực và thế
giới. Kinh nghiệm cho ta thấy cuộc khủng hoảng tài chính Châu Á (1997) và
mới đây là cuộc khủng hoảng tài chính Nam Mỹ (2001-2002) đã làm rung
chuyển toàn cầu. Mặt khác, mối liên hệ về tiền tệ, đầu tư giữa các nước phát
triển rất nhanh nên rủi ro tín dụng tại một nước ảnh hưởng trực tiếp đến nền
kinh tế các nước có liên quan.
* Tóm lại, rủi ro tín dụng của một ngân hàng xảy ra ở mức độ khác nhau:
nhẹ nhất là ngân hàng bị giảm lợi nhuận khi không thu hồi được lãi cho vay,
nặng nhất khi ngân hàng không thu được vốn lãi, nợ thất thu với tỷ lệ cao dẫn
đến ngân hàng bị lỗ và mất vốn. Nếu tình trạng này kéo dài không khắc phục
được, ngân hàng sẽ bị phá sản, gây hậu quả nghiêm trọng cho nến kinh tế nói
chung và hệ thống ngân hàng nói riêng. Chính vì vậy đòi hỏi các nhà quản trị
ngân hàng phải hết sức thận trọng và có những biện pháp thích hợp nhằm giảm
thiểu rủi ro trong cho vay.
1.2.5 Một số phương pháp quản lý rủi ro tín dụng.
Tín dụng là hoạt động chính yếu của ngân hàng. Nếu quản lý tốt, tín dụng sẽ
góp phần đáng kể trong việc tạo ra lợi nhuận và làm tăng giá trị ngân hàng.
Ngược lại, nếu quản lý kém, tín dụng có thể gây ra tổn thất lớn và làm giảm giá
trị ngân hàng. Một trong những mục tiêu quan trọng của quản lý tín dụng là làm
giảm tối đa rủi ro tín dụng. Muốn vậy, ngân hàng cần phải lượng hóa và đánh
giá được rủi ro tín dụng để từ đó có các biện pháp quản lý hiệu quả.
1.2.5.1 Lượng hóa rủi ro tín dụng.
12
Lượng hóa rủi ro tín dụng là việc xây dựng mô hình thích hợp để lượng hóa
mức độ rủi ro của khách hàng, từ đó xác định phần bù rủi ro và giới hạn tín
dụng an toàn tối đa đối với một khách hàng cũng như để trích lập dự phòng rủi
ro. Sau đây là các mô hình được áp dụng tương đối phổ biến:
* Mô hình chất lượng 6 C:
(1) Tư cách người vay (Character)
Cán bộ tín dụng phải làm rõ mục đích xin vay của khách hàng, mục đích xin
vay của khách hàng có phù hợp với chính sách tín dụng hiện hành của ngân
hàng và phù hợp với nhiệm vụ sản xuất kinh doanh của khách hàng hay không,
đồng thời xem xét lịch sử đi vay và trả nợ đối với khách hàng cũ; còn khách
hàng mới thì cần thu thập thông tin từ nhiều nguồn khác như từ: trung tâm
phòng ngừa rủi ro, từ ngân hàng bạn, từ các cơ quan thông tin đại chúng,…
(2) Năng lực của người vay (Capacity)
Tùy thuộc vào quy định pháp luật của quốc gia. Đòi hỏi người đi vay phải có
năng lực pháp luật dân sự và năng lực hành vi dân sự.
(3) Thu nhập của người đi vay (Cash)
Trước hết, phải xác định được nguồn trả nợ của người vay như luồng tiền từ
doanh thu bán hàng hay thu nhập, tiền từ bán thanh lý tài sản, hoặc tiền từ phát
hành chứng khoán,…
(4) Bảo đảm tiền vay (Collateral)
Đây là điều kiện để ngân hàng cấp tín dụng và là nguồn tài sản thứ hai có thể
dùng để trả nợ vay cho ngân hàng.
(5) Các điều kiện (Conditions)
Ngân hàng quy định các điều kiện tùy theo chính sách tín dụng từng thời kỳ
như cho vay hàng xuất khẩu với điều kiện thâu ngân phải qua ngân hàng, nhằm
thực thi chính sách tiền tệ của ngân hàng Trung ương theo từng thời kỳ.
13
(6) Kiểm soát (Control)
Tập trung vào những vấn đề như sự thay đổi của luật pháp có liên quan và
quy chế hoạt động mới có ảnh hưởng xấu đến người vay hay không? Yêu cầu
tín dụng của người vay có đáp ứng được tiêu chuẩn của ngân hàng hay không?
* Mô hình xếp hạng của Moody và Standard & poor:
Rủi ro tín dụng trong cho vay và đầu tư thường được thể hiện bằng việc xếp
hạng trái phiếu và khoản cho vay. Việc xếp hạng này được thực hiện bởi một số
dịch vụ xếp hạng tư nhân trong đó có Moody và Standard & Poor là những dịch
vụ tốt nhất.
Đối với Moody xếp hạng cao nhất từ Aaa nhưng với Standard & Poor thì cao
nhất là AAA. Việc xếp hạng giảm dần từ Aa (Moody) và AA (Standard & Poor)
sau đó thấp dần để phản ánh rủi ro không được hoàn vốn cao. Trong đó, chứng
khoán (khoản cho vay) trong 4 loại đầu được xem như loại chứng khoán (cho
vay) mà ngân hàng nên đầu tư, còn các loại chứng khoán (khoản cho vay) bên
dưới được xếp hạng thấp hơn thì ngân hàng không đầu tư (không cho vay).
Nhưng thực tế vì phải xem xét mối quan hệ tỷ lệ thuận giữa rủi ro và lợi nhuận
nên những chứng khoán (khoản cho vay) tuy được xếp hạng thấp (rủi ro không
hoàn vốn cao) nhưng lại co lợi nhuận cao nên đôi lúc ngân hàng vẫn chấp nhận
đầu tư vào các loại chứng khoán (cho vay) này.
Mô hình xếp hạng của công ty Moody và Standard & Poor
Nguồn Xếp hạng Tình trạng
Standard & Poor
Aaa Chất lượng cao nhất, rủi ro thấp nhất*
Aa Chất lượng cao*
A Chất lượng trên trung bình*
14
Baa Chất lượng trung bình*
Ba Chất lượng trung bình mang yếu tố đầu
cơ
B Chất lượng dưới trung bình
Caa Chất lượng kém
Ca Mang tính đầu cơ, có thể vỡ nợ
C Chất lượng kém nhất, triển vọng xấu
Moody
AAA Chất lượng cao nhất, rủi ro thấp nhất*
AA Chất lượng cao*
A Chất lượng trên trung bình*
BBB Chất lượng trung bình*
BB Chất lượng trung bình mang yếu tố đầu
cơ
B Chất lượng dưới trung bình
CCC Chất lượng kém
CC Mang tính đầu cơ, có thể vỡ nợ
C Chất lượng kém nhất, triển vọng xấu
* Mô hình điểm số Z (Z – Credit scoring model):
Đây là mô hình do E.I. Altman dùng để cho điểm tín dụng đối với các doanh
nghiệp vay vốn. Đại lượng Z dùng làm thước đo tổng hợp để phân loại rủi ro tín
dụng đối với người đi vay và phụ thuộc vào:
- Trị số của các chỉ số tài chính của người vay.
- Tầm quan trọng của các chỉ số này trong việc xác định xác suất vỡ nợ của
người vay trong quá khứ.
Từ đó Altman đã xây dựng mô hình điểm như sau:
15
Z = 1,2X1 + 1,4X2 + 3,3X3 + 0,6X4 + 1,0X5
Trong đó:
X1 = Hệ số vốn lưu động / tổng tài sản
X2 = Hệ số lãi chưa phân phối / tổng tài sản
X3 = Hệ số lợi nhuận trước thuế và lãi / tổng tài sản
X4 = Hệ số giá trị thị trường của tổng vốn sở hữu / giá trị hạch
toán của nợ
X5 = Hệ số doanh thu / tổng tài sản
Trị số Z càng cao, thì xác suất vỡ nợ của người đi vay càng thấp. Ngược lại,
khi trị số Z thấp hoặc là một số âm thì đó là căn cứ xếp khách hàng vào nhóm có
nguy cơ vỡ nợ cao.
Theo mô hình cho điểm Z của Altman, bất cứ công ty nào có điểm số thấp
hơn 1,81 phải được xếp vào nhóm có nguy cơ rủi ro tín dụng cao.
* Mô hình điểm số tín dụng tiêu dùng:
Các yếu tố quan trọng liên quan đến khách hàng sử dụng mô hình cho điểm
tín dụng bao gồm: Hệ số tín dụng, tuổi đời, trạng thái tài sản, số người phụ
thuộc, sở hữu nhà, điện thoại cố định, số tài khoản cá nhân, thời gian công tác.
Bảng dưới đây là những hạn mục và điểm thường được sử dụng ở các ngân
hàng của Hoa Kỳ.
STT Các hạng mục xác định chất lượng tín dụng Điểm
1 Nghề nghiệp của người vay
- Chuyên gia hay phụ trách kinh doanh
- Công nhân có kinh nghiệm
- Nhân viên văn phòng
- Sinh viên
- Công nhân không có kinh nghiệm
10
8
7
5
4
16
- Công nhân bán thất nghiệp 2
2 Trạng thái nhà ở
- Nhà riêng
- Nhà thuê hay căn hộ
- Sống cùng bạn hay người thân
6
4
2
3 Xếp hạng tín dụng
- Tốt
- Trung bình
- Không có hồ sơ
- Tồi
10
5
2
0
4 Kinh nghiệm nghề nghiệp
- Nhiều hơn 1 năm
- Từ 1 năm trở xuống
5
2
5 Thời gian sống tại địa chỉ hiện hành
- Nhiều hơn 1 năm
- Từ một năm trở xuống
2
1
6 Điện thoại cố định
- Có
- Không có
2
0
7 Số người sống cùng (phụ thuộc)
- Không
- Một
- Hai
- Ba
- Nhiều hơn ba
3
3
4
4
2
8 Các tài khoản tại ngân hàng
17
- Cả tài khoản tiết kiệm và phát hành Sec
- Chỉ tài khoản tiết kiệm
- Chỉ tài khoản phát hành Sec
- Không có
4
3
2
0
Khách hàng có điểm số cao nhất theo mô hình với 8 mục tiêu trên là 43
điểm, thấp nhất là 9 điểm. Giả sử ngân hàng biết mức 28 điểm là ranh giới giữa
khách hàng có tín dụng tốt và khách hàng có tín dụng xấu, từ đó ngân hàng hình
thành khung chính sách tín dụng theo mô hình điểm số như sau:
Tổng số điểm của khách hàng Quyết định tín dụng
Từ 28 điểm trở xuống Từ chối tín dụng
29 - 30 điểm Cho vay đến 500 USD
31 - 33 điểm Cho vay đến 1.000 USD
34 – 36 điểm Cho vay đến 2.500 USD
37 – 38 điểm Cho vay đến 3.500 USD
39 – 40 điểm Cho vay đến 5.000 USD
41 – 43 điểm Cho vay đến 5.000 USD
1.2.5.2 Đánh giá rủi ro tín dụng.
Các chỉ số thường được sử dụng để đánh giá rủi ro tín dụng là:
* Tỷ lệ nợ quá hạn
Dư nợ quá hạn
Tỷ lệ nợ quá hạn = x 100%
Tổng dư nợ cho vay
18
Quy định hiện nay của Ngân hàng Nhà nước cho phép dư nợ quá hạn của các
Ngân hàng thương mại không được vượt quá 5%, nghĩa là trong 100 đồng vốn
ngân hàng bỏ ra cho vay thì nợ quá hạn tối đa chỉ được phép là 5 đồng.
Nợ quá hạn (non performing loan – NPL) là khoản nợ mà một phần hoặc
toàn bộ nợ gốc và / hoặc lãi đã quá hạn.
Một cách tiếp cận khác, nợ quá hạn là những khoản tín dụng không hoàn trả
đúng hạn, không được phép và không đủ điều kiện để được gia hạn nợ. Để đảm
bảo quản lý chặt chẽ, các khoản nợ quá hạn trong hệ thống ngân hàng thương
mại Việt Nam được phân loại theo thời gian và được phân chia theo thời hạn
thành các nhóm sau:
+ Nợ quá hạn dưới 90 ngày – Nợ cần chú ý.
+ Nợ quá hạn từ 90 đến 180 ngày – Nợ dưới tiêu chuẩn.
+ Nợ quá hạn từ 181 đến 360 ngày – Nợ nghi ngờ.
+ Nợ quá hạn trên 361 ngày – Nợ có khả năng mất vốn.
* Tỷ trọng nợ xấu trên tổng dư nợ cho vay
Nợ xấu (hay nợ có vấn đề, nợ không lành mạnh, nợ khó đòi, nợ không thể
đòi,…) là khoản nợ mang các đặc trưng sau:
+ Khách hàng đã không thực hiện nghĩa vụ trả nợ với ngân hàng khi các
cam kết này đã hết hạn.
+ Tình hình tài chính của khách hàng đang và có chiều hướng xấu dẫn
đến có khả năng ngân hàng không thu hồi được cả vốn lẫn lãi.
+ Tài sản đảm bảo (thế chấp, cầm cố, bảo lãnh) được đánh giá là giá trị
phát mãi không đủ trang trải nợ gốc và lãi.
+ Thông thường về thời gian là các khoản nợ quá hạn ít nhất là 90 ngày.
Theo Quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/4/2005, nợ xấu của tổ
chức tín dụng bao gồm các nhóm nợ như sau:
19
- Nhóm nợ dưới tiêu chuẩn: các khoản nợ được tổ chức tín dụng đánh giá là
không có khả năng thu hồi nợ gốc và lãi khi đến hạn và có khả năng tổn thất
một phần nợ gốc và lãi. Bao gồm: Các khoản nợ quá hạn từ 90 đến 180 ngày;
Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ quá hạn dưới 90 ngày theo thời hạn đã
cơ cấu lại.
- Nhóm nợ nghi ngờ: các khoản nợ được tổ chức tín dụng đánh giá là khả
năng tổn thất cao. Bao gồm: Các khoản nợ quá hạn từ 181 đến 360 ngày; Các
khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ quá hạn từ 90 ngày đến 180 ngày theo thời
hạn đã cơ cấu lại.
- Nhóm nợ có khả năng mất vốn: các khoản nợ được tổ chức tín dụng đánh
giá là không còn khả năng thu hồi, mất vốn. Bao gồm: Các khoản nợ quá hạn
trên 360 ngày; Các khoản nợ khoanh chờ Chính phủ xử lý; Các khoản nợ đã cơ
cấu lại thời hạn trả nợ quá hạn trên 180 ngày theo thời hạn đã cơ cấu lại.
Theo quy định hiện nay, tỷ lệ này không được vượt quá 3%.
* Hệ số rủi ro tín dụng
Tổng dư nợ cho vay
Hệ số rủi ro tín dụng = x 100%
Tổng tài sản có
Hệ số này cho ta thấy tỷ trọng của khoản mục tín dụng trong tài sản có,
khoản mục tín dụng trong tổng tài sản càng lớn thì lợi nhuận sẽ lớn nhưng đồng
thời rủi ro tín dụng cũng rất cao. Thông thường, tổng dư nợ cho vay của ngân
hàng được chia thành 3 nhóm:
- Nhóm dư nợ của các khoản tín dụng có chất lượng xấu: là những khoản
cho vay có mức độ rủi ro lớn nhưng có thể mang lại thu nhập cao cho ngân
hàng. Đây là khoản tín dụng chiếm tỷ trọng thấp trong tổng dư nợ cho vay của
ngân hàng.
20
- Nhóm dư nợ của các khoản tín dụng có chất lượng tốt: là những khoản cho
vay có mức độ rủi ro thấp nhưng có thể mang lại thu nhập không cao cho ngân
hàng. Đây cũng là những khoản tín dụng chiếm tỷ trọng thấp trong tổng dư nợ
cho vay của ngân hàng.
- Nhóm dư nợ của các khoản tín dụng có chất lượng trung bình: là những
khoản cho vay có mức độ rủi ro có thể chấp nhận được và thu nhập mạng lại
cho ngân hàng là vừa phải. Đây là khoản tín dụng chiếm tỷ trọng áp đảo trong
tổng dư nợ cho vay của ngân hàng.
* Tỷ lệ xóa nợ
Các khoản xóa nợ ròng
Tỷ lệ xóa nợ = x 100%
Tổng tài sản có
1.2.5.3 Phương pháp quản lý rủi ro tín dụng.
Thực hiện đúng các quy định của pháp luật về cho vay, bảo lãnh, cho thuê tài
chính, chiết khấu, bao thanh toán và bảo đảm tiền vay. Xem xét và quyết định
việc cho vay có bảo đảm bằng tài sản hoặc không có bảo đảm bằng tài sản, cho
vay có bảo đảm bằng tài sản hình thành từ vốn vay, tránh các vướng mắc khi xử
lý tài sản bảo đảm để thu hồi nợ vay. Đặc biệt chú trọng thực hiện các giải pháp
nâng cao chất lượng tín dụng, không để nợ xấu gia tăng.
Phải tăng cường kiểm tra, giám sát việc chấp hành các nguyên tắc, thủ tục
cho vay và cấp tín dụng khác, tránh xảy ra sự cố gây thất thoát tài sản; sắp xếp
lại tổ chức bộ máy, tăng cường công tác đào tạo cán bộ để đáp ứng yêu cầu kinh
doanh ngân hàng trong điều kiện hội nhập quốc tế.
Xây dựng hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ phù hợp với hoạt động kinh
doanh, đối tượng khách hàng, tính ._.chất rủi ro của khoản nợ của tổ chức tín
dụng.
21
Thực hiện chính sách quản lý rủi ro tín dụng, mô hình giám sát rủi ro tín
dụng, phương pháp xác định và đo lường rủi ro tín dụng có hiệu quả, trong đó
bao gồm cách thức đánh giá về khả năng trả nợ của khách hàng, hợp đồng tín
dụng, các tài sản bảo đảm, khả năng thu hồi nợ và quản lý nợ của tổ chức tín
dụng
Thực hiện các quy định bảo đảm kiểm soát rủi ro và an toàn hoạt động tín
dụng:
+ Xây dựng và thực hiện đồng bộ hệ thống các quy chế, quy trình nội
bộ về quản lý rủi ro; trong đó đặc biệt chú trọng việc xây dựng chính sách khách
hàng vay vốn, sổ tay tín dụng, quy định về đánh giá, xếp hạng khách hàng vay,
đánh giá chất lượng tín dụng và xử lý các khoản nợ xấu.
+ Mở rộng tín dụng trung và dài hạn ở mức thích hợp, đảm bảo cân
đối thời hạn cho vay với thời hạn của nguồn vốn huy động.
+ Thực hiện đúng quy định về giới hạn cho vay, bảo lãnh, cho thuê tài
chính, bao thanh toán đối với một khách hàng và các tỷ lệ an toàn hoạt động
kinh doanh.
Đối với các trường hợp chây ỳ nhận nợ và trả nợ vay, các tổ chức tín dụng
cần áp dụng các biện pháp kiên quyết, đúng pháp luật để thu hồi nợ vay, kể cả
việc xử lý tài sản thế chấp, cầm cố và bảo lãnh, khởi kiện lên cơ quan tòa án.
Phân tán rủi ro trong cho vay: không dồn vốn cho vay quá nhiều đối với một
khách hàng hoặc không tập trung cho vay quá nhiều vào một ngành, lĩnh vực
kinh tế có rủi ro cao.
Thực hiện tốt việc thẩm định khách hàng và khả năng trả nợ trước khi quyết
định tín dụng.
Mua bảo hiểm cho các khoản tiền gửi, tiền vay.
Phải có chính sách tín dụng hợp lý và duy trì các khoản dự phòng để đối phó
với rủi ro.
22
Trước khi cho một khách hàng vay, ngân hàng phải xem xét các điều kiện cơ
bản như là: Khả năng trả nợ của khách hàng so với mức cho vay; Trị giá tài sản
đảm bảo so với mức cho vay; Giới hạn tổng dư nợ cho vay một khách hàng, một
nhóm khách hàng có liên quan;….
1.2.6 Kinh nghiệm quản lý rủi ro tín dụng của các nước
* Quản trị rủi ro tín dụng bằng biện pháp trích lập dự phòng.
Trích lập dự phòng là cách thức hữu hiệu để quản trị rủi ro do tổn thất tín
dụng. Việc trích lập dự phòng phải căn cứ vào thực tế trả nợ vay thay vì căn cứ
vào khả năng trả nợ trong quá khứ của khách hàng. Các nước chia sẻ kinh
nghiệm rằng họ áp dụng các nguyên tắc dự phòng khác nhau dựa theo việc phân
loại nợ vay có khả năng gây tổn thất ở mức độ khác nhau.
- Hồng Kông: xếp loại rủi ro cho khách hàng và trích lập dự phòng tương
ứng.
- Hàn Quốc: các nguyên tắc dự phòng phân lập theo loại tín dụng.
- Singapore: dự phòng tổn thất khoản vay ước tính từ danh mục vay được áp
dụng cho các khoản vay tiêu dùng.
- Thái Lan: phân loại khoản vay được đưa vao luật. Các cơ quan giám sát
ngân hàng có quyền yêu cầu trích lập dự phòng cho các khoản vay cần chú ý.
- Columbia: dự phòng cho tín dụng tiêu dùng, thương mại, cầm cố thế chấp
và tín dụng nhỏ theo thời hạn khoản vay từ 1-18 tháng.
* Quản trị rủi ro tín dụng bằng biện pháp tuân thủ những nguyên tắc tín
dụng thận trọng.
- Hồng Kông: giới hạn cho vay các đối tác ở mức 5%giá trị ròng doanh
nghiệp. Tổng dư nợ vay cho các đối tác không vượt quá 10% vốn tự có Ngân
hàng.
23
- Hàn Quốc: giới hạn cho vay cổ đông ở mức 25% vốn tự có Ngân hàng
hoặc tỷ lệ mà họ sở hữu. Giới hạn cho vay các đối tác liên quan ở mức 10% vốn
tự có Ngân hàng.
- Singapore: Ngân hàng không được phép tham gia vào các hoạt động phi tài
chính. Cũng không được phép đầu tư hơn 10% vốn vào các công ty hoạt động
phi tài chính. Mức đầu tư vốn vào một công ty đơn lẻ giới hạn ở 2% vốn tự có
Ngân hàng. Tổng vốn đầu tư giới hạn ở 10% vốn tự có Ngân hàng.
- Thái Lan: giới hạn đầu tư ở mức 10% vốn khách vay và 20% vốn của Ngân
hàng. Giới hạn cho vay cho nhóm khách hàng ở mức 5% vốn ngân hàng, 50%
giá trị ròng của doanh nghiệp và 25% giá trị nợ.
- Columbia: giới hạn cho vay cho nhóm khách hàng liên quan 10% vốn tự
có. Mở rộng tới 25% nếu có tài sản đảm bảo tốt.
* Quản trị rủi ro tín dụng bằng biện pháp đặt ra hạn mức cho vay
Phòng ngừa rủi ro do tập trung tín dụng là hoạt động được xem là thường
xuyên của Ngân hàng các nước trong việc quản lý danh mục tín dụng của mình.
Biện pháp sử dụng là đặt ra các hạn mức cho vay dựa trên vốn tự có của Ngân
hàng đối với khách hàng vay riêng lẻ hay nhóm khách hàng vay:
- Hồng Kông: giới hạn cho vay khách hàng đơn lẻ ở mức 25% vốn tự có của
Ngân hàng.
- Hàn Quốc: giới hạn cho vay khách hàng đơn lẻ ở mức 20% vốn tự có của
Ngân hàng và giới hạn cho vay nhóm khách hàng ở mức 25% vốn tự có của
ngân hàng.
- Singapore: giới hạn cho vay khách hàng đơn lẻ ở mức 25% vốn tự có của
Ngân hàng.
- Thái Lan: giới hạn cho vay khách hàng đơn lẻ ở mức 25% vốn tự có của
Ngân hàng.
- Columbia: giới hạn vay ở mức 40% giá trị ròng của khách hàng vay.
24
* Quản trị rủi ro tín dụng bằng biện pháp kiểm tra, giám sát
Kiểm tra và giám sát là các hoạt động thường xuyên được thực hiện trước
khi cho vay, trong khi cho vay và sau khi cho vay:
- Hồng Kông: sử dụng mô hình CAMEL (vốn, tài sản, quản lý, thu nhập,
thanh khoản) để đánh giá.
- Hàn Quốc: sử dụng mô hình CAMELS (vốn, tài sản, quản lý, thu nhập,
thanh khoản và thử nghiệm chịu đựng cực điểm). (Capital, Assets, Management,
Earnings, Liquidity and Stress testing)
- Singapore: kiểm tra trong quá trình phát vay, báo cáo hàng tháng và hàng
quý.
- Thái Lan: kiểm tra trong quá trình phát vay và sau khi cho vay. Giám sát hệ
số đủ vốn dự báo. Có hệ thống báo cáo định kỳ.
- Columbia: kiểm tra trong quá trình phát vay, kiểm tra bởi Ủy ban giám sát
Ngân hàng.
* Quản trị rủi ro tín dụng bằng biện pháp quản trị hệ thống thông tin tín
dụng
Tổ chức tốt hệ thống thông tin tín dụng sẽ hỗ trợ đắc lực cho công tác thẩm
định khách hàng vay, giúp hạn chế phòng ngừa rủi ro ngay từ khâu thẩm định
hồ sơ vay:
- Singapore: Hiệp hội Ngân hàng tổ chưc và quản lý thông tin tín dụng từ các
thành viên. Hỗ trợ thông tin về các khoản tín dụng lớn.
- Thái Lan: Cục thông tin tín dụng được quản lý bởi công ty tư nhân, tất cả
các Ngân hàng báo cáo thông tin về Cục, sau đó Cục thông tin kết xuất báo cáo
về khách hàng vay và lịch sử trả nợ vay hàng tháng, không cung cấp thông tin
thẩm định tín dụng.
25
- Columbia: Ngân hàng báo cáo các khoản vay cho cơ quan giám sát theo
định kỳ hàng tháng. Sau đó thông tin về giá trị khoản vay, lãi suất vay, chất
lượng khoản vay và tư cách khách hàng vay sẽ được tập hợp lại.
26
Chương 2
Thực trạng rủi ro tín dụng tại Ngân hàng thương mại cổ
phần Á Châu
2.1 Giới thiệu khái quát về Ngân hàng thương mại cổ phần Á Châu
2.1.1 Quá trình hình thành và phát triển
Ngân hàng thương mại cổ phần Á Châu (ACB) được thành lập theo Giấy phép
số 0032/NH-GP do Ngân hàng Nhà nước (NHNN) cấp ngày 24/4/1993, và Giấy
phép số 533/GP-UB do Ủy ban Nhân dân TP.HCM cấp ngày 13/5/1993. Ngày
04/6/1993 ACB chính thức đi vào hoạt động, là một trong những ngân hàng thương
mại cổ phần đầu tiên của Việt Nam được thành lập trong bối cảnh đất nước đang
chuyển sang nền kinh tế thị trường và trụ sở chính được đặt tại 442 Nguyễn Thị
Minh Khai, Quận 3 TP.HCM.
- Về Quy mô hoạt động:
+ Năm 2006: Vốn chủ sở hữu là 1.630 tỷ đồng; Tổng tài sản là 44.346 tỷ đồng;
Về mạng lưới kênh phân phối, tính đến cuối năm 2006, toàn hệ thống ACB có 80
chi nhánh và phòng giao dịch với tổng số nhân viên là 2.892, trong đó 90% số nhân
viên có trình độ Đại học và Sau đại học.
+ Năm 2007: Vốn chủ sở hữu là 6.258 tỷ đồng; Tổng tài sản là 85.392 tỷ đồng;
Về mạng lưới kênh phân phối, tính đến cuối năm 2007, toàn hệ thống ACB có 111
chi nhánh và phòng giao dịch tại những vùng kinh tế phát triển trên toàn quốc với
tổng số nhân viên là 4.600, trong đó 93% số nhân viên có trình độ Đại học và Sau
đại học.
- Quá trình phát triển và một số sự kiện đáng chú ý:
+ Năm 1996, ACB là ngân hàng thương mại cổ phần đầu tiên của Việt Nam
phát hành thẻ tín dụng quốc tế ACB-MasterCard.
27
+ Năm 1997, ACB phát hành thẻ tín dụng quốc tế ACB-Visa. Và cũng trong
năm này, ACB bắt đầu tiếp cận nghiệp vụ ngân hàng hiện đại dưới hình thức của
một chương trình đào tạo nghiệp vụ ngân hàng toàn diện kéo dài hai năm do giảng
viên nước ngoài trong lĩnh vực ngân hàng thực hiện. Thông qua chương trình này,
ACB đã nắm bắt một cách hệ thống các nguyên tắc vận hành của một ngân hàng
hiện đại, các chuẩn mực và thông lệ trong quản lý rủi ro, đặc biệt trong lĩnh vực
ngân hàng bán lẻ, và nghiên cứu ứng dụng trong điều kiện Việt Nam.
+ Năm 1999, ACB triển khai chương trình hiện đại hóa công nghệ thông tin
ngân hàng, xây dựng hệ thống mạng diện rộng, nhằm trực tuyến hóa và tin học hóa
hoạt động giao dịch. Và cuối năm 2001, ACB chính thức vận hành hệ thống công
nghệ ngân hàng lõi là TCBS (The Complete Banking Solution: Giải pháp ngân
hàng toàn diện), cho phép tất cả chi nhánh và phòng giao dịch nối mạng với nhau,
giao dịch tức thời, dùng chung cơ sở dữ liệu tập trung.
+ Năm 2000, sau những bước chuẩn bị từ năm 1997, ACB đã thực hiện tái cấu
trúc như là một bộ phận của chiến lược phát triển trong nửa đầu thập niên 2000. Cơ
cấu tổ chức được thay đổi theo định hướng kinh doanh và hỗ trợ. Các khối kinh
doanh gồm có: Khối khách hàng cá nhân, Khối khách hàng doanh nghiệp và Khối
ngân quỹ. Các đơn vị hỗ trợ gồm có: Khối công nghệ thông tin; Khối giám sát điều
hành; Khối phát triển kinh doanh, Khối quản trị nguồn lực và một số phòng ban do
Tổng Giám đốc trực tiếp chỉ đạo. Hoạt động kinh doanh của Hội sở được chuyển
giao cho Sở giao dịch (TPHCM). Việc tái cấu trúc nhằm đảm bảo tính chỉ đạo
xuyên suốt toàn hệ thống, sản phẩm được quản lý theo định hướng khách hàng và
được thiết kế phù hợp với từng phân đoạn khách hàng, quan tâm đúng mức việc
phát triển kinh doanh và quản lý rủi ro.
+ Năm 2003, ACB xây dựng hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO
9001:2000 và được công nhận đạt tiêu chuẩn trong các lĩnh vực: Huy động vốn;
28
Cho vay ngắn hạn và trung - dài hạn; Thanh toán quốc tế; và cung ứng các nguồn
lực tại Hội sở.
+ Năm 2005, ACB và Ngân hàng Standard Chartered (SCB) ký kết thỏa thuận
hỗ trợ kỹ thuật toàn diện. Và SCB trở thành cổ đông chiến lược của ACB. ACB
triển khai giai đoạn hai của chương trình hiện đại hóa công nghệ ngân hàng bao
gồm các cấu phần: nâng cấp máy chủ, thay thế phần mềm xử lý giao dịch thẻ ngân
hàng bằng một phần mềm mới có khả năng tích hợp với công nghệ lõi hiện nay và
lắp đặt hệ thống máy ATM.
+ Năm 2006, ACB được Trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội chấp thuận
cho đăng ký giao dịch tại trung tâm kể từ ngày 31/10/2006 theo Quyết định số
21/QĐ-TTGDHN ngày 31/10/2006.
+ Năm 2007, ACB mở rộng mạng lưới hoạt động, thành lập mới 31 chi nhánh
và phòng giao dịch, thành lập Công ty cho thuê tài chính ACB, hợp tác với các đối
tác như Open Solutions (OSI) - Thiên Nam, hợp tác với Microsoft về việc áp dụng
công nghệ thông tin vào vận hành và quản lý, hợp tác với Ngân hàng Standard
Chartered về việc phát hành trái phiếu. ACB phát hành 10 triệu cổ phiếu và thu
được hơn 1.800 tỷ.
- Trong hoạt động, ACB luôn tuân thủ pháp luật, thực hiện đầy đủ nghĩa vụ với
ngân sách nhà nước, bảo toàn và phát triển vốn. Và ACB cũng đã khẳng định được
vị trí là một thương hiệu mạnh trong và ngoài nước. Tại Việt nam, ACB xếp hạng
là “1 trong 500 thương hiệu nổi tiếng tại Việt nam” (do VCCI bình chọn năm
2005); và là nhà cung cấp sản phẩm, dịch vụ xuất sắc trong lĩnh vực tài chính ngân
hàng (Chương trình “Tin & Dùng Việt Nam 2006” do Thời báo kinh tế Việt Nam tổ
chức). Liên tiếp trong hai năm 2005 và 2006, ACB là ngân hàng đầu tiên của Việt
Nam nhận được 3 giải thưởng quốc tế danh giá do các tổ chức và tạp chí uy tín
trong ngành ngân hàng trao tặng: The Banker, the Asean banker và Euromoney. Và
trong năm 2007, ACB là đơn vị đầu tiên và duy nhất trong ngành ngân hàng Việt
29
Nam được Hội đồng tư vấn doanh nghiệp (BAC) của Hiệp hội ASEAN tặng giải
thưởng “Doanh nghiệp ASEAN xuất sắc nhất” trong lĩnh vực phát triển đội ngũ lao
động.
- Song song với các thành tích đạt được trong kinh doanh, ACB còn được công
nhận là doanh nghiệp tích cực hoạt động xã hội và có nhiều đóng góp cho sự phát
triển chung của cộng đồng. Điển hình là công tác ủng hộ đồng bào bị thiên tai, hỗ
trợ phẫu thuật cho 600 người mù nghèo, đóng góp xây dựng trường học và tài trợ
học bổng cho học sinh, sinh viên nghèo…Trong năm 2007, ACB đã chi tổng cộng
trên 10 tỷ đồng cho các hoạt động quan hệ cộng đồng. Đồng thời, ACB còn thực
hiện tốt công tác chăm lo đời sống cho cán bộ công nhân viên, phát huy công tác
Đảng, Đoàn thể tại đơn vị.
- Về kế hoạch phát triển trong tương lai, ACB đã đề ra chiến lược 5 năm 2008 –
2010 và tầm nhìn 2015 khẳng định việc ACB sẽ tiếp tục giữ vị thế hàng đầu trong
hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam trên các mặt: tăng trưởng cao, chỉ số tài
chính duy trì ở mức an toàn cao trong đó ROE cần đạt 25% đến 30%, chất lượng tài
sản có, quản lý rủi ro theo thông lệ tốt nhất, các chỉ tiêu tăng trưởng bền vững, hệ
thống sản phẩm và kênh phân phối đa dạng, chất lượng dịch vụ cao. Và để thực
hiện chiến lược trên, ACB sẽ tiếp tục tích cực phát triển hệ thống kênh phân phối
không chỉ là các chi nhánh và phòng giao dịch mà còn là hệ thống máy ATM và
kênh ngân hàng điện tử để nâng cao năng lực phục vụ khách hàng và thu hút khách
hàng mới, nâng cao chất lượng dịch vụ và cho ra đời nhiều sản phẩm gắn với nhu
cầu của người dân, xây dựng phong cách phục vụ của nhân viên theo hướng chuyên
nghiệp và áp dụng hệ thống công nghệ hiện đại cho hoạt động ngân hàng.
2.1.2 Kết quả hoạt động kinh doanh trong thời gian qua
Sau 14 năm hoạt động, ACB luôn giữ vững sự tăng trưởng mạnh mẽ và ổn định.
Và điều này được thể hiện bằng các chỉ số tài chính qua các năm như sau:
30
Đơn vị tính: Tỷ đồng
Chỉ tiêu 2004 2005 2006 2007 Quý 1/2008
Tổng tài sản 15,417 24,247 44,346 85,392 99,409
Vốn huy động 14,359 22,332 39,548 74,943 81,064
Dư nợ cho vay 6,760 9,382 17,114 31,974 40,694
Lợi nhuận trước thuế 278 385 658.8 2,127 513
(Nguồn: Báo cáo thường niên 2007 và Báo cáo tài chính hợp nhất giữa niên độ tại
ngày 31/03/2008 của Ngân hàng TMCP Á Châu)
0
10,000
20,000
30,000
40,000
50,000
60,000
70,000
80,000
90,000
100,000
2004 2005 2006 2007 Đến Q1/08
Tổng tài sản
Vốn huy động
Dư nợ cho vay
Lợi nhuận trước thuế
31
Qua bảng số liệu và biểu đồ trên, chúng ta có thể nhận thấy tình hình kinh
doanh khá hiệu quả và ổn định qua các năm.
Một ngân hàng thương mại hoạt động hiệu quả là một ngân hàng huy động được
nguồn vốn cần thiết cho hoạt động của mình. Trong tình hình cạnh tranh về lãi suất
và thị trường có nhiều kênh thu hút vốn (cổ phiếu, trái phiếu,..) như hiện nay thì
việc huy động vốn gặp không ít khó khăn, nhưng qua bảng số liệu trên cho thấy khả
năng huy động vốn của Ngân hàng Á châu vẫn giữ tốc độ tăng dần qua các năm:
cuối năm 2007 đạt 74.943 tỷ đồng, tăng 89,5% so với năm 2006, vượt chỉ tiêu kế
hoạch năm 2007 là 46,2% (kế hoạch 2007 là 51.261 tỷ đồng), đến cuối Quý 1/2008
đạt 81.064 tỷ đồng, tăng 8,17% so với năm 2007, trong đó huy động tiền gửi thanh
toán và tiết kiệm từ dân cư tăng đáng kể. Điều này đã chứng tỏ sự tin tưởng của
khách hàng vào ACB ngày càng cao. Nguyên nhân là do ngân hàng đã duy trì nhiều
hình thức huy động đa dạng, áp dụng chính sách lãi suất linh hoạt cho từng địa bàn
và tăng cường công tác quảng bá hình ảnh.
Sau khi đã huy động được nguồn vốn cần thiết, đòi hỏi các ngân hàng thương
mại phải tìm được khách hàng để cấp tín dụng nhằm giải phóng nguồn vốn và tìm
kiếm lợi nhuận. Trong năm 2007 đạt 31.974 tỷ đồng, tăng 86,8% so với năm 2006
và đến cuối Quý 1/2008 đạt 40.694 tỷ đồng, tăng 27,27% so với năm 2007. Đây là
thành quả của sự năng động tìm kiếm khách hàng, chuyên nghiệp trong phong cách
phục vụ và liên tục đa dạng hóa các sản phẩm tín dụng.
Tổng tài sản của ACB cao hơn so với các ngân hàng đối thủ cạnh tranh cả về số
tuyệt đối và tốc độ tăng trưởng. Cụ thể, tổng tài sản năm 2007 tăng 92,6% so với
năm 2006, đạt 85.392 tỷ đồng và đến cuối Quý 1/2008 đạt 99.409 tỷ đồng, tăng
16,41% so với năm 2007. Quy mô tổng tài sản hiện nay đang mang lại ưu thế cạnh
tranh về vốn hoạt động cho ACB so với các ngân hàng thương mại cổ phần khác.
32
Với định hướng chiến lược tăng trưởng cao, quản lý chi phí tốt và duy trì nợ quá
hạn ở mức thấp đã giúp nâng cao lợi nhuận của ACB. Lợi nhuận trước thuế năm
2007 đạt 2.127 tỷ đồng, tăng 222,9% so với năm 2006 và là ngân hàng có mức lợi
nhuận trước thuế đứng đầu trong toàn hệ thống ngân hàng thương mại mặc dù xét
về mặt quy mô tổng tài sản, ACB chỉ xếp vị trí thứ 5 (sau 4 ngân hàng thương mại
Nhà nước). Và sang Quý 1/2008, lợi nhuận trước thuế đạt 513 tỷ đồng.
2.2 Rủi ro tín dụng tại Ngân hàng TMCP Á Châu
Trước khi đi sâu phân tích tình hình rủi ro tín dụng tại Ngân hàng Á Châu,
chúng ta sẽ xem xét phân tích về cơ cấu cho vay và chất lượng tín dụng trong thời
gian qua.
2.2.1 Tín dụng chung
Qua bảng số liệu 1, nhìn chung hoạt động tín dụng của Ngân hàng Á Châu trong
thời gian qua tăng trưởng nhanh và khá cao. Tổng dư nợ tín dụng cuối năm 2007
đạt 127,8% so với kế hoạch và tăng 86,8% so với năm 2006 và đến cuối Quý
1/2008 đạt 40.694 tỷ đồng, tăng 27,27% so với năm 2007
Nếu phân tích theo thời hạn cho vay, thì tỷ trọng dư nợ tín dụng ngắn hạn cao,
năm 2007 chiếm 55% và đến cuối Quý 1/2008 chiếm 56% so với tổng dư nợ cho
vay, trong khi đó tỷ trọng dư nợ tín dụng trung và dài hạn chỉ đạt 45% trong năm
2007 và đến cuối Quý 1/2008 đạt 44% . Bởi vì về khía cạnh thời hạn thì những món
vay có thời hạn càng dài thì càng ẩn chứa nhiều rủi ro. Cho nên ngân hàng luôn có
xu hướng dịch chuyển tăng tỷ trọng nợ vay ngắn hạn để mau thu hồi, quay vòng
vốn nhanh đặc biệt là trong điều kiện kinh tế phát triển nhanh, có nhiều biến động
và cạnh tranh như hiện nay.
Nếu phân tích theo loại tiền tệ cho vay thì hình thức cho vay bằng đồng Việt
Nam chiếm tỷ trọng cao trong tổng dư nợ cho vay năm 2007 chiếm 67,6%, và đến
cuối Quý 1/2008 chiếm 68,6% tổng dư nợ cho vay. Tỷ lệ giải ngân bằng ngoại tệ và
33
vàng cũng tăng đáng kể, năm 2007 tăng 141,4% so với năm 2006, chiếm 32,4% và
đến cuối Quý 1/2008 tăng 24%, chiếm 31,4% tổng dư nợ cho vay.
Cơ cấu dư nợ nếu phân loại theo thành phần kinh tế thì đến cuối Quý 1/2008
cho thấy: chiếm tỷ lệ cao nhất là khách hàng thể nhân, chiếm 48,5%, kế đến là các
doanh nghiệp ngoài quốc doanh, chiếm 45,7% và phần còn lại là 5,8% dư nợ cho
vay các doanh nghiệp Nhà nước. Danh mục cho vay theo nhóm khách hàng của
Ngân hàng Á Châu tiếp tục thay đổi tích cực theo hướng giảm dần tỷ trọng cho vay
các doanh nghiệp Nhà nước, tăng dần tỷ trọng cho vay đối với thành phần kinh tế
phi Nhà nước nhằm hỗ trợ mạnh nhu cầu về vốn cho sự phát triển. Khách hàng của
ngân hàng mở rộng và phát triển đến mọi thành phần kinh tế. Với chính sách hợp
lý, Ngân hàng Á Châu đã và đang xây dựng cho mình một đội ngũ khách hàng đa
dạng, đông đảo, vững mạnh và gắn bó với ngân hàng.
Tình hình dư nợ nhìn chung qua các năm đều tăng cao, sự tăng trưởng này là có
cơ sở và gắn liền với các yếu tố thúc đẩy như: nhu cầu vốn từ khách hàng, từ nền
kinh tế nói chung và kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh nói riêng.
Và chất lượng tín dụng thì quan trọng hơn việc mở rộng tín dụng. Phần phân
tích chỉ tiêu dư nợ tín dụng ở trên cho thấy sự tăng trưởng khá cao của chỉ tiêu này
trong thời gian qua. Tuy nhiên, hoạt động tín dụng có hiệu quả hay không lại phụ
thuộc rất lớn vào chất lượng tín dụng.
2.2.2 Rủi ro tín dụng
Dù đã đạt được những kết quả đáng khích lệ trong hoạt động tín dụng, nhưng
trên thực tế, vấn đề nợ quá hạn cũng là một vấn đề mà Ngân hàng Á Châu cần phải
quan tâm vì đây là nhân tố ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả hoạt động kinh doanh
của ngân hàng.
34
ĐVT: Triệu đồng
Năm 2006 Năm 2007 Quý 1/2008
Chỉ tiêu
Giá trị
So với
tổng
dư nợ
(%)
Giá trị
So với
tổng
dư nợ
(%)
So vơi
2006
(%)
Giá trị
So với
tổng
dư nợ
(%)
So vơi
2007
(%)
TỔNG DƯ NỢ 17,014,419 100.00 31,974,000 100.00 187.00 40,694,275 100.00 127.00
NỢ QUÁ HẠN (NQH) 188,961 1.11 97,524 0.31 51.61 134,787 0.33 138.21
Trong đó:
NQH đến 180 ngày 13,041 0.08 9,167 0.03 70.29 18,410 0.05 200.83
NQH đến 360 ngày 9,006 0.05 7,078 0.02 78.59 12,205 0.03 172.44
NQH trên 360 ngày 11,115 0.07 10,320 0.03 92.85 10,493 0.03 101.68
(Nguồn: Báo cáo thường niên 2007 và Báo cáo tài chính hợp nhất giữa niên độ tại
ngày 31/03/2008 của Ngân hàng TMCP Á Châu)
0
5,000
10,000
15,000
20,000
25,000
2005 2006 2007 Đến Q1/08
- NQH đến 180 ngày
- NQH đến 360 ngày
- NQH trên 360 ngày
Theo bảng số liệu trên, ta thấy tỷ lệ nợ quá hạn chiếm một tỷ lệ rất nhỏ so với
tổng dư nợ cho vay. Năm 2007 tỷ lệ nợ quá hạn chiếm 0,31% và đến cuối Quý
35
1/2008 chiếm 0,33% so với tổng dư nợ cho vay. Phần lớn, các khoản nợ quá hạn
đều có khả năng thu hồi là do được đảm bảo bằng tài sản có tính khả mại cao, chủ
yếu là bất động sản.
Ngày 31/12/2007 dự phòng cho các khoản cho vay khách hàng đạt 134.537 triệu
đồng, tăng 139,4% so với năm 2006. Ngày 31/03/2008 dự phòng cho các khoản cho
vay khách hàng đạt 244.873 triệu đồng, tăng 175,9% so với cùng kỳ năm 2007.
Đồng thời, hệ số an toàn vốn của Ngân hàng Á Châu tính đến ngày 31/12/2007 là
16,19%, tăng 48,53% so với năm 2006 (10,9%) và nằm trong mức an toàn cao thể
hiện sự chủ động của ngân hàng trong vấn đề cân đối giữa rủi ro và lợi nhuận mà
vẫn đảm bảo nguyên tắc thận trọng cần thiết. Và điều này chứng tỏ rằng Ngân hàng
Á Châu đã có chính sách kiểm soát chất lượng tín dụng tốt.
Như vậy, trong giai đoạn vừa qua, chất lượng tín dụng của Ngân hàng Á Châu vẫn
khá ổn định và có xu hướng tốt hơn đi đôi với tăng trưởng quy mô tín dụng. Đặc
biệt, tỷ lệ nợ quá hạn vào cuối năm 2007 là một tín hiệu đáng mừng cho việc quản
lý rủi ro trong hoạt động tín dụng. Trong tương lai sắp tới, để có thể xử lý nợ xấu
tốt hơn thì việc tìm hiểu những nguyên nhân và đề ra những giải pháp quản lý rủi ro
tín dụng hiệu quả hơn là điều rất cần thiết.
2.2.3 Đánh giá chung về hoạt động tín dụng và rủi ro tín dụng
Trong thời gian qua, hoạt động tín dụng tại Ngân hàng Á Châu đã đạt được
những kết quả đáng kể. Cụ thể:
Dư nợ cho vay tăng trưởng ở mức cao, quản lý rủi ro tốt và kinh doanh hiệu
quả, trong đó ưu tiên cho mục tiêu tăng trưởng. Mặc dù chịu áp lực cạnh tranh khá
lớn trên thị trường nhưng Ngân hàng Á Châu vẫn đạt được tốc độ tăng trưởng khá
cao cả về huy động vốn và cấp tín dụng. Ngân hàng đã tận dụng hệ thống giao dịch
ngân hàng trực tuyến và danh mục sản phẩm huy động và cho vay phong phú, đa
dạng của mình để tập trung thực thi chiến lược thâm nhập thị trường tại hai địa bàn
36
trọng yếu là Thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội, cùng với chiến lược phát triển thị
trường tại các vùng kinh tế phát triển.
Ngân hàng đã có kế hoạch và nỗ lực chuyển đổi cơ cấu cho vay. Cụ thể, cho vay
đối với khách hàng thể nhân và các doanh nghiệp ngoài quốc doanh chiếm tỷ trọng
cao; tỷ trọng cho vay ngắn hạn, trung hạn và dài hạn được điều chỉnh hợp lý.
Ngân hàng đã tích cực phát triển hệ thống kênh phân phối, không chỉ là các chi
nhánh và phòng giao dịch mà còn là hệ thống máy ATM và kênh ngân hàng điện tử
để nâng cao năng lực phục vụ khách hàng và thu hút khách hàng mới, nâng cao chất
lượng dịch vụ và cho ra đời nhiều sản phẩm gắn với nhu cầu của người dân, từ đó
nâng cao hiệu quả kinh doanh và khả năng cạnh tranh của ngân hàng.
Ngân hàng đã chú trọng đến công tác phòng ngừa và quản lý rủi ro tín dụng.
Quản lý tín dụng được đặc biệt kiện toàn, cụ thể là: xây dựng chính sách tín dụng
trong đó thực hiện nghiêm túc quy định, chế độ, quy trình nghiệp vụ tín dụng của
ngân hàng, xác định rõ các giới hạn cho vay để định hướng cho việc tăng trưởng tín
dụng trong tầm kiểm soát. Và nhiệm vụ này sẽ tiếp tục được đẩy mạnh nhưng
không chỉ dừng ở chỗ phát hiện và yêu cầu khắc phục mà còn phải phân tích
nguyên nhân, đề xuất biện pháp giải quyết thích hợp và triệt để.
Với những kết quả trên, có thể kết luận rằng những biện pháp mà Ngân hàng Á
Châu đã áp dụng trong thời gian qua nhằm hạn chế và ngăn ngừa rủi ro tín dụng đã
có những tác dụng nhất định, chất lượng tín dụng phần nào cũng được cải thiện và
quan trọng nhất là đã được nhìn nhận và đánh giá đúng hướng, đúng bản chất.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được, vẫn còn nhiều tồn tại cần được
khắc phục để nâng cao hơn nữa hiệu quả hoạt động kinh doanh ngân hàng nói
chung và hiệu quả hoạt động tín dụng nói riêng. Cụ thể là tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng
dư nợ có xu hướng tăng vào cuối Quý 1/2008, đồng thời việc xử lý nợ xấu, thu hồi
lãi và gốc còn gặp nhiều khó khăn, nguy cơ gia hạn nợ và phát sinh nợ quá hạn vẫn
lớn, ngay cả đối với một số món nợ chưa đến hạn nhưng chất lượng không cao.
37
Tóm lại, với mọi nỗ lực nhằm hạn chế rủi ro trong hoạt động tín dụng cho thấy
công tác tín dụng tại Ngân hàng Á Châu trong thời gian qua đã đạt được những kết
quả đáng kể: quy mô tăng trưởng dư nợ tín dụng ở mức cao, tỷ trọng nợ quá hạn
chiếm tỷ lệ thấp so với tổng dư nợ, tuy nhiên có xu hướng tăng vào cuối Quý
1/2008. Và do hoạt động này vẫn luôn ẩn chứa nhiều rủi ro vì vậy cần có biện pháp
kiểm soát và ngăn ngừa.
2.3 Chính sách và quy trình cho vay của Ngân hàng thương mại cổ phần Á
Châu nhằm hạn chế rủi ro tín dụng.
Để thực hiện được mục tiêu rút ngắn thời gian làm thủ tục cho vay nhằm phục
vụ khách hàng nhanh chóng và đảm bảo an toàn vốn vay đòi hỏi phải tuân thủ một
cách nghiêm ngặt quy trình tín dụng đã đề ra.
Quy trình cho vay tại Ngân hàng Á Châu được thực hiện thông qua 15 bước cơ bản
sau:
2.3.1 Hướng dẫn thủ tục vay vốn và tiếp nhận hồ sơ
Tại Sở Giao dịch, các chi nhánh và phòng giao dịch, khi khách hàng có nhu cầu
vay vốn sẽ được tiếp nhận và hướng dẫn về thủ tục, điều kiện và các loại giấy tờ, hồ
sơ cần thiết. Và việc này được thực hiện bởi nhân viên quản lý và phát triển khách
hàng (A/O) hoặc nhân viên dịch vụ tín dụng (Loan CSR).
2.3.2 Thẩm định hồ sơ vay và lập tờ trình
Sau khi nhận đầy đủ hồ sơ vay vốn từ khách hàng, nhân viên A/O sẽ tiến hành
gửi hồ sơ tài sản đảm bảo cho nhân viên định giá tài sản (A/A) (tại trung tâm định
giá tài sản trực thuộc Hội sở) để định giá tài sản thế chấp, cầm cố. Nhân viên A/A
sẽ lập tờ trình thẩm định tài sản sau khi đã thẩm định tài sản đảm bảo. Và nhân
viên A/O cũng sẽ tiến hành lập tờ trình thẩm định về tư cách và khả năng tài chính
của khách hàng bao gồm : việc kiểm tra hồ sơ pháp lý (chứng minh nhân dân, hộ
khẩu, giấy phép kinh doanh, giấy chứng nhận đăng ký thuế, quyết định bổ nhiệm
người đại diện pháp nhân,…), kiểm tra lịch sử vay - trả của khách hàng kể cả với
38
các ngân hàng khác qua Trung tâm thông thông tin tín dụng của Ngân hàng Nhà
nước (CIC) để đánh giá uy tín của khách hàng, đồng thời kiểm tra năng lực tài
chính của khách hàng thông qua các số liệu trên các báo cáo tài chính do khách
hàng cung cấp (những thông tin này sẽ được phân tích và tính toán thành các nhóm
chỉ tiêu như: Khả năng tạo ra lợi nhuận, Khả năng khai thác và sử dụng tài sản, Cơ
cấu nguồn vốn tài trợ và cuối cùng là Khả năng thanh toán của khách hàng) để từ
đó đánh giá một cách chính xác năng lực tài chính của khách hàng, đồng thời tiến
hành phân tích phương án vay vốn trên các mặt: phương án sản xuất kinh doanh có
phù hợp với nhiệm vụ sản xuất kinh doanh đã đăng ký không?, tính khả thi và hiệu
quả dự kiến của phương án trên, nguồn trả nợ cho phương án vay đó có phù hợp và
đảm bảo không? Việc thẩm định phương án vay vốn để đạt được hiệu quả cao đòi
hỏi nhân viên A/O phải có nghiệp vụ chuyên môn vững vàng và có kiến thức nhất
định trong nhiều lĩnh vực sản xuất kinh doanh khác nhau để có được những nhận
định chính xác về tính khả thi cũng như hiệu quả của mỗi phương án. Ngoài ra nhân
viên A/O còn phải cập nhật những thông tin về khách hàng vô phần mềm chấm
điểm tín dụng nhằm để đảm bảo tính khách quan trong việc xem xét tư cách khách
hàng.
2.3.3 Quyết định cho vay và thông báo cho khách hàng
Sau khi hoàn thành tờ trình thẩm định khách hàng, nhân viên A/O sẽ tiến hành
trình cấp có thẩm quyền xem xét và ký vào tờ trình thẩm định khách hàng. Sau đó,
nhân viên A/O sẽ tiến hành photo hồ sơ gởi cho thư ký Ban tín dụng/Hội đồng tín
dụng (để Thư ký gửi đến các thành viên Ban tín dụng/Hội đồng tín dụng). Tại buổi
họp Ban tín dụng/Hội đồng tín dụng, nhân viên A/O sẽ trình bày với các thành viên
về nội dung thẩm định hồ sơ vay vốn của khách hàng, phân tích, đánh giá và đưa ra
quan điểm của mình về khoản vay mà khách hàng đã đề nghị. Các thành viên Ban
tín dụng/Hội đồng tín dụng sẽ trực tiếp phỏng vấn các vấn đề có liên quan đến
khách hàng vay đối với nhân viên A/O. Sau khi các thành viên đã trao đổi và thống
39
nhất ý kiến cho vay hay không cho vay và các điều kiện cần thiết khi được cho vay,
Thư ký sẽ lập Biên bản họp ghi nhận lại các ý kiến thống nhất của các thành viên
Ban tín dụng/Hội đồng tín dụng và sau đó sẽ lập phúc đáp thông báo kết quả xét
duyệt khoản vay cho nhân viên A/O. Tối đa hai ngày làm việc kể từ ngày Ban tín
dụng/Hội đồng tín dụng quyết định cho vay hoặc không cho vay, nhân viên A/O
hoặc nhân viên Loan CSR phải thông báo kết quả cho khách hàng.
2.3.4 Hoàn tất thủ tục pháp lý về tài sản đảm bảo
Căn cứ vào kết quả phê duyệt cho vay của Ban tín dụng/Hội đồng tín dụng,
nhân viên A/O chuyển giao toàn bộ hồ sơ cho nhân viên Loan CSR để chuẩn bị hồ
sơ giải ngân. Nhân viên Loan CSR tiến hành chuyển hồ sơ tài sản đảm bảo kèm
phúc đáp thông báo kết quả xét duyệt khoản vay cho Nhân viên pháp lý chứng từ và
quản lý tài sản (LDO). Nhân viên LDO chịu trách nhiệm hoàn tất các thủ tục pháp
lý về tài sản đảm bảo cho khoản vay.
2.3.5 Nhận và quản lý tài sản đảm bảo
Khi khách hàng đã hoàn tất thủ tục pháp lý về tải sản đảm bảo nợ vay, nhân viên
LDO sẽ tiến hành thủ tục nhận và quản lý tài sản thế chấp, cầm cố theo quy định.
2.3.6 Lập Hợp đồng tín dụng/Khế ước nhận nợ
Khi khách hàng có nhu cầu rút tiền vay, căn cứ nhu cầu thực tế của khách hàng
và nội dung phê duyệt của Ban tín dụng/Hội đồng tín dụng đã được thực hiện hoàn
t._.ảm thiểu rủi ro cho mình nhất thiết phải có
một hệ thống giải pháp chủ động ngăn ngừa và hạn chế rủi ro từ những nguyên
nhân chủ quan nội bộ cũng như hạn chế sự ảnh hưởng từ phía khách hàng. Sự chủ
động này được thể hiện ngay từ khi xây dựng chính sách cho vay, quy trình cho
vay, thực hiện quy trình và kể cả các biện pháp kỹ thuật để ngăn chặn gian lận từ
phía khách hàng cũng như đảm bảo an toàn vốn cho ngân hàng khi khách hàng gặp
rủi ro. Sau đây, chúng ta sẽ đi sâu phân tích việc áp dụng và hiệu quả áp dụng của
các giải pháp theo trình trình tự trên.
3.2.1 Xây dựng và thực hiện chính sách cho vay thích hợp
66
Hiện nay, chính sách cho vay với các quy định cơ bản về nguyên tắc chung,
điều kiện cho vay, các tỷ lệ an toàn trong cho vay vẫn đang được Ngân hàng Á
Châu thực hiện theo quy định chung của Ngân hàng Nhà nước cũng như quy định
cụ thể của Ngân hàng Á Châu. Quyền chủ động trong xây dựng chính sách cho vay
nhằm phòng ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng là việc xây dựng các chính sách về lãi
suất, chính sách khách hàng, quy mô và cơ cấu tín dụng phù hợp với đặc điểm
nguồn vốn, khả năng quản lý và nhân lực. Cụ thể, chính sách cho vay nên được xây
dựng theo hướng sau:
- Về chính sách lãi suất: trong môi trường cạnh tranh hiện nay thì chính sách lãi
suất của một ngân hàng thương mại sẽ được xây dựng tùy thuộc vào uy tín của
khách hàng, tính khả thi của hoạt động vay vốn và độ an toàn của món vay. Trên cơ
sở đó, chính sách lãi suất ưu đãi hoặc lãi suất linh hoạt cần được áp dụng cho những
khách hàng có lịch sử vay – trả sòng phẳng, có hoạt động sản xuất kinh doanh hiệu
quả, có dự án sử dụng vốn vay khả thi cũng như có tài sản đảm bảo thích hợp.
Trong chính sách về lãi suất, các ngân hàng thương mại vẫn chấp nhận cho vay
những món vay có rủi ro cao (ví dụ thiếu hoặc không có tài sản đảm bảo,…) với
mức lãi suất cao vượt trội để nâng cao lợi nhuận. Tuy nhiên, cần phải giới hạn hình
thức này trong một tỷ lệ nhất định để tránh rủi ro quá lớn.
- Về chính sách khách hàng: việc xây dựng một chính sách khách hàng là điều
cần thiết nhất là trong tình hình cạnh tranh khốc liệt giữa các ngân hàng với nhau
như hiện nay nhằm giữ chân khách hàng cũ, thu hút khách hàng mới theo hướng đa
dạng hóa thành phần từ cá nhân đến tổ chức kinh tế để vừa mở rộng thị phần, vừa
phân tán rủi ro. Để thực hiện tốt chính sách khách hàng, có thể sử dụng một số biện
pháp sau:
+ Chuyển đổi cơ cấu khách hàng theo hướng tích cực để xóa bỏ tình trạng bị
động vào một số lượng khách hàng nhất định. Cần tiến hành phân loại khách hàng
67
theo các tiêu chí như: tiền gửi thanh toán, chất lượng tiền vay,…để áp dụng giá vốn
huy động phù hợp, có chính sách động lực đối với khách hàng lớn.
+ Tổ chức nghiên cứu, tìm hiểu tâm lý của từng nhóm khách hàng để hoàn thiện
chính sách huy động vốn kết hợp lãi suất và chính sách chăm sóc khách hàng cho
phù hợp với từng nhóm đối tượng nhằm tăng tính ổn định của nguồn vốn.
+ Thường xuyên tiến hành trao đổi, tham khảo, đóng góp ý kiến giữa ngân hàng
và khách hàng để có thể tạo ra mối quan hệ tốt đẹp giữa khách hàng và ngân hàng
cũng như giúp ngân hàng ngày càng hoàn thiện hơn.
+ Xây dựng chính sách giá khép kín nhằm khuyến khích khách hàng sử dụng
kết hợp nhiều sản phẩm dịch vụ tại Ngân hàng Á Châu như: dịch vụ thanh toán
trong nước, dịch vụ thanh toán quốc tế, dịch vụ chi hộ lương, dịch vụ ngân quỹ,…
+ Không ngừng nâng cao chất lượng phục vụ và dịch vụ ngân hàng. Đây là biện
pháp hiệu quả trong việc thu hút và sử dụng vốn của ngân hàng, qua đó cũng nâng
cao năng lực của ngân hàng. Chất lượng phục vụ bao gồm nhiều lĩnh vực có liên
quan đến khách hàng chẳng hạn như là: thủ tục giấy tờ gọn nhẹ, thời gian xử lý
nghiệp vụ nhanh chóng, tư vấn cho khách hàng hiệu quả, phong cách, thái độ giao
tiếp tốt để làm vừa lòng khách hàng, nơi giao dịch sạch sẽ, thuận tiện,…
- Về chính sách sản phẩm tín dụng: sự đa dạng của sản phẩm tín dụng góp phần
nâng cao hiệu quả hoạt động nói chung của ngân hàng thương mại, vừa mở rộng, đa
dạng khách hàng, lĩnh vực đầu tư, mở rộng quy mô tín dụng sẽ góp phần phân tán
và hạn chế rủi ro tín dụng nếu hệ thống sản phẩm được thiết kế chặt chẽ.
- Về chính sách đối với tài sản đảm bảo: tài sản đảm bảo là nguồn thu thứ cấp để
thu hồi vốn khi có rủi ro xảy ra, vì vậy cần phải có quy định cụ thể hơn về việc định
giá tài sản đảm bảo chẳng hạn như là việc xác định giá trị tài sản đảm bảo cần
khách quan, có khả năng chuyển nhượng, có đủ điều kiện pháp lý và tính khả mại.
Ngân hàng cần thường xuyên theo dõi tài sản đảm bảo, nắm bắt thông tin về tài sản
đảm bảo, nếu có biến động lớn thì cần xem xét định giá lại tài sản. Đồng thời, cần
68
thường xuyên thu thập thông tin về tài sản cùng loại qua thị trường và trung tâm
bán đấu giá để có cơ sở định giá. Ngoài ra, ngân hàng cũng nên kết hợp với nhiều
cơ quan ban ngành khác trong việc xử lý tài sản đảm bảo và kết hợp các biện pháp
bảo hiểm tài sản thế chấp mà người thụ hưởng là ngân hàng.
3.2.2 Hoàn thiện và tuân thủ nghiêm ngặt quy trình cho vay
Quy trình cho vay đang được áp dụng tại Ngân hàng Á Châu được xây dựng khá
khoa học và chặt chẽ. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện từ khâu tiếp nhận hồ sơ,
thẩm định hồ sơ, quyết định cho vay và kiểm tra sử dụng vốn, thu hồi vốn sau khi
cho vay vẫn còn lỏng lẻo. Để quy trình này đạt được hiệu quả thì cần phải thực hiện
chặt chẽ ở các giai đoạn sau:
- Giai đoạn kiểm tra hồ sơ thông tin khách hàng
Việc kiểm tra các thông tin liên quan đến hồ sơ pháp lý, năng lực tài chính, năng
lực quản lý, uy tín tín dụng chủ yếu dựa trên hai nguồn thông tin là từ khách hàng
và từ thông tin nội bộ trên mạng của ngân hàng. Nhân viên tín dụng cần phải tận
dụng toàn bộ nguồn thông tin này để có được nhận định chính xác về khách hàng
vay.
Vì nguồn thông tin do chính khách hàng cung cấp có thể tính chính xác không
cao, đặc biệt trong trường hợp khách hàng cố ý làm sai nên để tránh gặp phải rủi ro
thông tin, ngân hàng cần có sự kết hợp với một số cơ quan ban ngành có đủ chức
năng để đối chiếu thông tin do khách hàng cung cấp (ví dụ: cơ quan thuế,…) và áp
dụng phương pháp phỏng vấn trực tiếp chủ doanh nghiệp, khách hàng vay và một
số đối tượng có liên quan, đồng thời sử dụng triệt để nguồn thông tin từ trung tâm
thông tin tín dụng của Ngân hàng Nhà nước (CIC) để nắm bắt tính xác thực của
thông tin.
Một rủi ro khác có thể xảy ra ở giai đoạn này là sự chủ quan hoặc cố ý đưa ra
nhận định chủ quan của cán bộ tín dụng trong việc nhận xét về năng lực tài chính
của khách hàng. Do đó, hiện nay Ngân hàng Á Châu đang áp dụng một phần mềm
69
chấm điểm để xếp loại doanh nghiệp và cá nhân vay vốn để có cơ sở cho vay cũng
như quyết định lãi suất. Tuy nhiên, hiện nay phần mềm này vẫn chưa thực sự đạt
được hiệu quả như mong muốn vì biểu chấm điểm cũng như xử lý thông tin còn
hẹp, cho ra những kết quả xếp loại chưa thực sự thuyết phục. Hệ thống chấm điểm
tín dụng, xếp loại doanh nghiệp, cá nhân vay vốn này cần được cải tiến mở rộng
thang điểm, tăng chỉ tiêu thông tin để đạt được hiệu quả sử dụng cao hơn.
- Giai đoạn thẩm định phương án vay vốn và khả năng trả nợ
Khi thẩm định phương án vay vốn, nhân viên tín dụng cần xem xét tính xác thực
của phần vốn tự có của khách hàng tham gia vào phương án, dự án xin vay. Yêu
cầu khách hàng chứng minh nguồn cụ thể của vốn tự có này vì đây là một vấn đề
rất quan trọng ảnh hưởng đến việc thực hiện phương án, dự án. Vì nếu vốn tự có
tham gia vào càng lớn thì doanh nghiệp sử dụng vốn sẽ hiệu quả hơn, họ sẽ thận
trọng hơn trong việc đầu tư vào kế hoạch kinh doanh sắp tới. Để dự án mang lại
hiệu quả và có nguồn trả nợ cho ngân hàng thì:
+ Tỷ lệ vốn tự có /vốn vay > 1
+ Lãi ròng sau thuế và khấu hao > Tổng nợ đến hạn phải trả
Ngoài ra, khi thẩm định phương án vay vốn, nhân viên tín dụng cần phải đánh
giá năng lực tài chính, khả năng sản suất kinh doanh của khách hàng vay để xem
xét hiệu quả vốn tín dụng. Quá trình này phải kết hợp với nguyên nhân khách hàng
vay, đánh giá được các phương diện: rủi ro do ngành, rủi ro do kinh doanh,…và
nên được thực hiện dựa trên các chỉ tiêu như: khả năng sinh lời, khả năng khai thác
và sử dụng tài sản, tình hình sử dụng nguồn vốn và khả năng thanh toán.
Khi đánh giá khả năng trả nợ của khách hàng vay vốn, nhân viên tín dụng cần
phải nắm rõ nguồn trả nợ chính, tức là khả năng sinh lời của phương án xin vay và
các nguồn thu khác mà khách hàng cam kết trả nợ cho ngân hàng khi nguồn trả nợ
chính có sự cố, đồng thời xem xét kèm theo những rủi ro tiềm tàng có thể mà bước
đầu tín dụng chưa thẩm định được nhằm điều chỉnh thời hạn cho vay và thu hồi nợ
70
hợp lý. Có thể nói trong bất kỳ trường hợp nào thì nguồn vốn tự có phải được coi là
nguồn lý tưởng để trả nợ. Nhân viên tín dụng phải cố gắng tránh quan điểm cho vay
hoàn toàn dựa vào tài sản đảm bảo trực tiếp hoặc của bên thứ ba bảo lãnh vì khi xử
lý tài sản thế chấp để thu hồi nợ vay thì quá trình này diễn ra lâu dài, mất nhiều thời
gian và thiệt thòi luôn nghiêng về phía người cho vay. Đồng thời, ngân hàng nên
yêu cầu doanh nghiệp vay phải có số liệu báo cáo hàng tháng, hàng quý về tình
hình hoạt động kinh doanh với những nguồn vốn vay của ngân hàng trong thời hạn
đang vay vốn nhằm phát hiện những thay đổi có chiều hướng xấu của doanh nghiệp
để có biện pháp xử lý kịp thời.
Ngoài ra, ngân hàng cũng có thể tăng cường thuê đội ngũ thẩm định chuyên
nghiệp trong những phương án xin vay lớn, mang tính kỹ thuật sâu để có thể phân
tích chính xác tính khả thi trước khi quyết định cho vay.
- Giai đoạn quyết định cho vay
Trước khi cán bộ tín dụng đề xuất cho vay và lãnh đạo ngân hàng quyết định
cho vay thì cần phải tập hợp một số thông tin về thị trường, chính sách kinh tế,… để
có cái nhìn hệ thống về rủi ro có thể xảy ra trong một bối cảnh cụ thể trước khi ra
quyết định.
Việc ra quyết định cho vay cần phải có sự kiểm tra kỹ lưỡng thay vì kiểm tra sơ
sài và quyết định theo đề nghị của cán bộ tín dụng thì hiệu quả phòng ngừa rủi ro sẽ
cao hơn.
Đối với những khoản vay phải thông qua Hội đồng tín dụng để xét duyệt thì
càng ẩn chứa rủi ro cao, hoạt động của Hội đồng tín dụng vẫn mang tính hình thức,
các thành viên không có đủ thời gian cần thiết để nghiên cứu hồ sơ và đa phần vẫn
quyết định theo đề nghị của cán bộ tín dụng trực tiếp xử lý hồ sơ. Chính vì vậy,
hoạt động của Hội đồng tín dụng cần quy định thời gian nghiên cứu hồ sơ cụ thể và
phải có ý kiến bằng văn bản của tất cả thành viên hội đồng trước khi họp để ra
quyết định.
71
- Giai đoạn kiểm tra sử dụng vốn sau khi cho vay
Một khoản vay có hiệu quả sẽ phụ thuộc không ít vào việc kiểm tra tín dụng.
Ngay cả đối với các khoản vay tốt nhất cũng cần có một số kiểm tra nhất định, định
kỳ để đảm bảo nó đang hoạt động theo dự kiến, tình trạng của khoản vay không xấu
đi. Vì vậy, giai đoạn này mang ý nghĩa rất quan trọng trong việc phòng ngừa rủi ro
và giảm thiểu rủi ro trước khi nó xảy ra, gây hậu quả nặng nề với phần vốn vay.
Tuy nhiên, hiện nay công tác này vẫn còn được thực hiện một cách đối phó cho đủ
thủ tục quy định nên hiệu quả kiểm tra không cao. Các vấn đề cần phải xem xét sau
khi cho vay:
+ Nắm vững và theo dõi sát sao tình hình sử dụng vốn vay của khách hàng
xem việc sử dụng vốn vay có đúng mục đích hay không? Nêu rõ nguyên nhân gây
ra sai lệch.
+ Mô tả thực tế sử dụng vốn vay so với các chứng từ đã xuất trình hoặc dự
kiến ban đầu.
+ Ngân hàng phải quản lý được nguồn doanh thu của khách hàng. Trong hợp
đồng tín dụng phải thỏa thuận được với khách hàng việc chuyển doanh thu và sử
dụng các dịch vụ tại Ngân hàng Á Châu, qua đó vừa kiểm soát được nguồn trả nợ,
vừa tăng thêm phí dịch vụ thu được.
+ So sánh thực tế dự án so với dự kiến ban đầu: tình hình các yếu tố đầu vào,
thị trường tiêu thụ, tình hình cơ sở vật chất, sự hiện hữu và tình trạng của tài sản thế
chấp/cầm cố tại thời điểm kiểm tra.
+ Những thay đổi trong hoạt động kinh doanh, bộ máy quản lý, tình hình tài
chính của khách hàng (khách hàng doanh nghiệp) hoặc sự thay đổi về tình trạng gia
đình và nguồn thu nhập (khách hàng cá nhân). Đánh giá ảnh hưởng của các thay đổi
này đến khả năng trả nợ.
Việc kiểm tra tình hình sử dụng vốn sau khi cho vay cần phải được thực hiện
một cách nghiệm ngặt và cán bộ tín dụng cần phải thực hiện tốt giai đoạn này trong
72
quy trình để có thể cảm nhận được môi trường, hiệu quả công việc của doanh
nghiệp. Nếu có các dấu hiệu bất thường nào của khách hàng ảnh hưởng đến khả
năng thanh toán khoản vay thì cán bộ tín dụng phải có trách nhiệm báo cáo kịp thời
cho lãnh đạo để có hướng giải quyết kịp thời và thích hợp.
Ngoài việc trực tiếp kiểm tra tình hình sử dụng vốn vay, nên có một cơ chế kiểm
tra chéo trong giai đoạn này để bảo đảm tính khách quan trong kiểm tra, nếu có
điều kiện, có thể thành lập một bộ phận kiểm tra sử dụng vốn chuyên biệt cho
những món vay lớn, có tầm quan trọng đặc biệt để nhận diện rủi ro ngay từ khi mới
phát sinh.
Ngoài ra, khi có sự thay đổi về nhân sự trong việc chuyển giao hồ sơ từ cán bộ
tín dụng này sang cán bộ tín dụng khác thì cần phải quy định cụ thể trách nhiệm
bàn giao, nội dung bàn giao. Có thể quy định việc lập sổ nhật ký tín dụng về các lần
phát vay, thu nợ, biến động tài sản đảm bảo, tình hình kinh doanh và tài chính để
đảm bảo sự liên tục, thuận tiện trong việc theo dõi và chuyển giao hồ sơ giữa các
cán bộ tín dụng.
3.2.3 Thành lập bộ phận nghiên cứu, phân tích và dự báo kinh tế vĩ mô
Như đã trình bày ở các nội dung trước, một phần khá lớn rủi ro trong hoạt động
tín dụng xuất phát từ việc thiếu thông tin hoặc tiếp nhận thông tin không chính xác
từ khách hàng, xử lý thông tin thị trường còn sơ sài. Tất cả phần việc trên hiện đều
đặt trách nhiệm vào cán bộ tín dụng nên việc xảy ra thiếu sót và xử lý sai lệch là
điều khó tránh khỏi. Ngoài ra, hệ thống cung cấp thông tin tín dụng của Ngân hàng
Á Châu và của Ngân hàng Nhà nước đang hoạt động hiệu quả chưa cao vì thông tin
cung cầp chỉ thuần túy là những con số mà thiếu những nhận định chuyên môn,
những dự báo đáng tin cậy.
Để tránh được rủi ro từ nguyên nhân này, Ngân hàng Á Châu nên thành lập Bộ
phận nghiên cứu, phân tích và dự báo kinh tế vĩ mô, bộ phận này sẽ dựa trên tất cả
các kênh thông tin, các nguồn nghiên cứu và dự báo khác để làm định hướng cho
73
hoạt động tín dụng, chiến lược quản lý rủi ro tín dụng, chiến lược khách hàng và
chiến lược đầu tư vốn tín dụng của mình. Bộ phận này sẽ tiến hành phân tích, đánh
giá quy mô, cơ cấu và hiệu quả tín dụng của các ngành kinh tế, thành phần kinh tế,
địa bàn nông thôn và thành thị để trên cơ sở đó ngân hàng có thể thực hiện các gải
pháp mở rộng tín dụng an toàn - hiệu quả - bền vững.
3.2.4 Nâng cao vai trò của công tác kiểm soát nội bộ ngân hàng
Công tác kiểm soát nội bộ trong hoạt động tín dụng là một công cụ vô cùng
quan trọng, thông qua hoạt động kiểm soát có thể phát hiện, ngăn ngừa và chấn
chỉnh những sai sót trong quá trình thực hiện nghiệp vụ tín dụng. Bên cạnh đó, hoạt
động kiểm soát cũng phát hiện, ngăn chặn những rủi ro đạo đức do cán bộ tín dụng
gây ra.
Để nâng cao vai trò của công tác kiểm soát nhằm hạn chế rủi ro tín dụng, Ngân
hàng Á Châu cần thực hiện một số biện pháp sau:
- Tăng cường những cán bộ có trình độ, đã qua nghiệp vụ tín dụng để bổ sung
cho phòng kiểm soát. Và tiêu chuẩn đối với người làm công tác kiểm toán nội bộ
cần phải có là: có phẩm chất trung thực, ý thức chấp hành pháp luật và sự nhìn nhận
khách quan; có kiến thức, hiểu biết chung về pháp luật, về quản trị kinh doanh và
các nghiệp vụ ngân hàng; có khả năng thu thập, phân tích, đánh giá và tổng hợp
thông tin; có kiến thức, kỹ năng về kiểm toán nội bộ; và có kinh nghiệm làm việc
trong lĩnh vực ngân hàng tối thiểu là 02 năm.
- Trong quá trình kiểm tra hoạt động tín dụng, có thể tăng cường cán bộ làm
trực tiếp từ bộ phận tín dụng hoặc thẩm định và quản lý tín dụng cùng phối hợp
kiểm tra.
- Thường xuyên đào tạo, nâng cao trình độ nghiệp vụ, luật pháp cho cán bộ
phòng kiểm soát. Vì hiện nay, có những cán bộ thực hiện kiểm tra mà chưa hề được
đào tạo hoặc chưa có kinh nghiệm làm tín dụng. Trong đó, phải đào tạo đạo đức
74
nghề nghiệp để cán bộ kiểm toán nội bộ trong quá trình tác nghiệp phải thực hiện
vô tư, tránh tình trạng cả nể và chưa thực sự góp ý thẳng.
- Cần quy định trách nhiệm đối với cán bộ kiểm soát, có chế độ khuyến khích
thưởng phạt để nâng cao tinh thần trách nhiệm trong hoạt động kiểm soát.
- Không ngừng hoàn thiện và đổi mới phương pháp kiểm tra, áp dụng linh hoạt
các biện pháp kiểm tra tùy thuộc vào từng thời điểm, từng đối tượng và mục đích
của kiểm tra.
- Bên cạnh đó, hệ thống kiểm soát nội bộ cần được thường xuyên tự đánh giá
bởi vì việc này sẽ có tác dụng phòng ngừa rủi ro và hỗ trợ đắc lực cho công tác
quản lý rủi ro của ngân hàng.
3.2.5 Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực
Yếu tố con người là yếu tố quan trọng nhất quyết định đến sự thành bại của bất
cứ hoạt động nào trên mọi lĩnh vực. Đối với hoạt động tín dụng thì yếu tố con người
lại càng đóng một vai trò quan trọng, nó quyết định đến chất lượng tín dụng, chất
lượng dịch vụ và hình ảnh của ngân hàng và từ đó quyết định đến hiệu quả tín dụng
của ngân hàng. Vì vậy, giải pháp nâng cao chất lượng nguồn nhân lực được đưa ra
tập trung vào một số nội dung sau:
Ngân hàng Á Châu cần quan tâm đúng mức việc đào tạo từ cơ bản đến chuyên
sâu về từng nghiệp vụ cụ thể, từng đối tượng khách hàng có đặc điểm đặc thù về
sản xuất kinh doanh cụ thể. Tổ chức các buổi hội thảo chuyên đề trao đổi các bài
học kinh nghiệm liên quan đến tín dụng. Cập nhật kiến thức nghiệp vụ và tập huấn
các quy định pháp luật mới. Ngoài ra, cần tổ chức đội ngũ giảng dạy là các chuyên
gia bên ngoài, các cán bộ chuyên viên tín dụng có kinh nghiệm của ngân hàng, biên
soạn và cập nhật giáo trình giảng dạy mang tính thực tiễn, trang bị tốt cơ sở vật
chất, phương tiện giảng dạy, tổ chức kiểm tra nghiêm túc, khuyến khích tinh thần
học tập bằng cơ chế khen thưởng đề bạt.
75
Hiện nay, thực tế cho thấy cường độ làm việc của cán bộ tín dụng trong thời
gian qua là khá căng thẳng, thậm chí việc làm thêm ngoài giờ cũng khá phổ biến.
Và điều này đã dẫn đến những hạn chế các hoạt động tiếp xúc với khách hàng, kiểm
tra và kiểm soát các khoản cho vay. Vì vậy, để đảm bảo an toàn tín dụng, đủ nhân
lực để đón bắt các cơ hội kinh doanh mới thì việc tăng cường cả về số lượng và chất
lượng sẽ giúp cho ngân hàng đảm bảo nhịp độ tăng trưởng tín dụng đồng thời đảm
bảo được chất lượng tín dụng.
Ngân hàng cũng cần phải chú trọng nhiều hơn, đòi hỏi cao hơn và có thái độ rõ
ràng hơn đối với cán bộ tín dụng nhằm để hạn chế rủi ro trong cho vay như là:
- Về năng lực công tác: đòi hỏi những cán bộ có liên quan đến hoạt động cho
vay phải thường xuyên nghiên cứu, học tập, nắm vững, thực hiện đúng các quy định
hiện hành và phải không ngừng nâng cao năng lực công tác, nhất là khả năng phát
hiện, ngăn chặn những thủ đoạn lợi dụng khách hàng.
- Về phẩm chất đạo đức, ý thức trách nhiệm: yêu cầu mỗi cán bộ ngân hàng phải
luôn tu dưỡng về phẩm chất đạo đức, nêu cao ý thức trách nhiệm. Cán bộ ở cương
vị càng cao thì càng phải gương mẫu.
Và ngân hàng cần phải có chế độ đãi ngộ, khen thưởng hợp lý, công bằng: đối
với cán bộ có thành tích xuất sắc thì nên được biểu dương, khen thưởng cả về mặt
vật chất lẫn tinh thần tương xứng với kết quả mà họ mang lại, kể cả việc nâng
lương trước thời hạn hoặc đề bạt lên vị trí cao hơn; đối với cán bộ có sai phạm thì
tùy theo mức độ mà có thể giáo dục thuyết phục hoặc xử lý kỷ luật. Có như vậy thì
kỷ cương trong hoạt động tín dụng, uy tín của ngân hàng sẽ ngày càng được nâng
cao và chất lượng tín dụng chắc chắn sẽ được cải thiện đáng kể.
Ngoài ra, ngân hàng phải thường xuyên liên kết, tổ chức các khóa đào tạo về
chuyên môn nghiệp vụ để nâng cao trình độ. Nếu chưa gửi người đi đào tạo kịp thời
thì có thể đào tạo tại chỗ, các giảng viên là các lãnh đạo phòng hay các chuyên viên
có kinh nghiệm. Và ngân hàng cũng cần mở các lớp học bồi dưỡng về ngoại ngữ
76
nhằm rèn luyện và nâng cao khả năng ngoại ngữ cho nhân viên để phục vụ cho
nhóm khách hàng có vốn đầu tư nước ngoài.
Đồng thời, ngân hàng không thể bỏ qua việc xây dựng chính sách đãi ngộ nhân
sự, thực hiện cơ chế tài chính thông thoáng nhằm thu hút được nhân tài và duy trì
đủ nhân lực chất lượng có thể đảm trách các hoạt động tín dụng của ngân hàng. Vì
việc tăng trưởng tín dụng hàng ngày không đồng bộ với số lượng và chất lượng của
cán bộ tín dụng phụ trách nên dễ dẫn đến những rủi ro tiềm ẩn trong hoạt động tín
dụng. Số lượng cán bộ tín dụng có kinh nghiệm hiện nay tại các chi nhánh, phòng
giao dịch của Ngân hàng Á Châu luôn thiếu, trong khi đó các ngân hàng mới thành
lập lại thu hút nhân sự với chính sách đãi ngộ tốt hơn đã dẫn đến tình trạng “chảy
máu chất xám” nhất là trong tình hình khan hiếm nhân lực trong ngành tài chính
ngân hàng như hiện nay. Đứng trước tình hình như vậy, việc xây dựng chính sách
đãi ngộ để thu hút nhân sự là vấn đề bức thiết và cấp bách.
3.3 Một số kiến nghị với Ngân hàng Nhà nước và Chính Phủ
3.3.1 Kiến nghị đối với Ngân hàng Nhà nước
3.3.1.1Nâng cao chất lượng quản lý, điều hành
Nâng cao vai trò định hướng trong quản lý và tư vấn cho các ngân hàng thương
mại thông qua việc thường xuyên tổng hợp, phân tích thông tin thị trường, đưa ra
các nhận định và dự báo khách quan, mang tính khoa học, đặc biệt là liên quan đến
hoạt động tín dụng để các ngân hàng thương mại có cơ sở tham khảo, định hướng
trong việc hoạch định chính sách tín dụng của mình sao cho vừa đảm bảo phát triển
hợp lý, vừa phòng ngừa được rủi ro.
Tiếp tục hoàn thiện quy chế cho vay, đảm bảo tiền vay trên cơ sở bảo đảm an
toàn cho hoạt động tín dụng, bảo vệ quyền lợi hợp pháp của các ngân hàng thương
mại, quy định chặt chẽ về trách nhiệm của các ngân hàng thương mại về việc tuân
thủ quy chế cho vay và bảo đảm tiền vay, hạn chế bớt các thủ tục pháp lý phức tạp,
gây khó khăn cho các ngân hàng thương mại.
77
Ngân hàng Nhà nước cần phối hợp với các bộ ngành có liên quan trong quá
trình xử lý nợ xấu, tập trung tháo gở những khó khăn vướng mắc trong thủ tục phát
mãi tài sản. Nên có những hướng dẫn cụ thể về trình tự, thủ tục, trách nhiệm của Tổ
chức Tín dụng, của cơ quan Công an, của Chính quyền cơ sở, của Sở Tài nguyên
Môi trường làm cơ sở pháp lý để đi đến ban hành thông tư liên ngành hướng dẫn
thêm nhằm nâng cao hiệu quả công tác phối hợp đẩy nhanh tiến độ, cụ thể hóa từng
công việc trong thi hành án.
Nghiên cứu, ban hành các quy định cụ thể để các ngân hàng thương mại áp dụng
chuẩn xác, kịp thời các công cụ bảo hiểm cho hoạt động tín dụng như: bảo hiểm
tiền vay, quyền chọn và các công cụ tài chính phái sinh khác. Đồng thời, tổ chức
đào tạo, hướng dẫn các nghiệp vụ trên để giúp các ngân hàng thương mại vừa đa
dạng hóa các sản phẩm tín dụng, vừa phòng ngừa và phân tán rủi ro trong hoạt động
tín dụng.
3.3.1.2 Tăng cường công tác thanh tra, kiểm soát
Thực hiện thường xuyên công tác thanh tra, kiểm soát dưới nhiều hình thức để
kịp thời phát hiện và ngăn chặn những vi phạm tiêu cực trong hoạt động tín dụng
nhằm đưa hoạt động tín dụng của ngân hàng vào đúng quỹ đạo luật pháp.
Chương trình thanh tra cần được xây dựng chi tiết, khoa học, thông tin được thu
thập cần phân tích kỹ lưỡng, tránh mang tính hình thức, nội dung thanh tra nên
được cải tiến sao cho chương trình thanh tra đảm bảo kiểm soát được ngân hàng
thương mại, thể hiện được vai trò của mình là cảnh báo, ngăn chặn và phòng ngừa
rủi ro và không gây ảnh hưởng đến các hoạt động của các ngân hàng thương mại.
Cần xây dựng phương án bổ sung hoặc hoán đổi cán bộ thanh tra giữa các chi
nhánh Ngân hàng Nhà nước để đảm bảo tính khách quan và tạo môi trường hoạt
động đa dạng cho cán bộ thanh tra, kiểm tra trau dồi nghiệp vụ.
Cần phải xây dựng đội ngũ thanh tra, giám sát chuẩn về nghiệp vụ ngân hàng,
nghiệp vụ kiểm tra, có phẩm chất đạo đức tốt, được cập nhật thông tin về chính
78
sách, pháp luật, thị trường để một mặt thực hiện công tác thanh tra, giám sát hoạt
động của các ngân hàng thương mại, mặt khác có thể đưa ra các nhận định, kết luận
giúp ngân hàng thương mại nâng cao hiệu quả hoạt động.
Ngân hàng Nhà nước phải theo dõi chặt chẽ việc sửa đổi, bổ sung những kiến
nghị của Thanh tra Ngân hàng Nhà nước nhằm đảm bảo hiệu lực và hiệu quả của
công tác thanh tra.
Hiện nay hoạt động thanh tra ngân hàng của Ngân hàng Nhà nước chủ yếu là
kiểm tra tính tuân thủ pháp luật trong hoạt động của ngân hàng và đánh giá về sự an
toàn của ngân hàng thương mại. Về việc đánh giá hệ thống kiểm soát rủi ro của các
ngân hàng thương mại thì Thanh tra Ngân hàng Nhà nước chưa thực hiện việc này
một cách có hệ thống, chưa có tiêu chí để thực hiện việc đánh giá này và chưa thực
sự đánh giá toàn diện, kiến nghị cụ thể về hệ thống kiểm soát rủi ro của các ngân
hàng thương mại qua các cuộc thanh tra. Vì vậy, để thanh tra Ngân hàng Nhà nước
thực hiện được vai trò đánh giá hệ thống kiểm soát rủi ro của ngân hàng thương
mại, cần phải xây dựng tiêu chí cụ thể về đánh giá rủi ro khi thực hiện thanh tra, nội
dung hoạt động ngoài thanh tra tuân thủ cần có sự giám sát, theo dõi rủi ro và tiến
tới xây dựng hệ thống giám sát từ xa của Thanh tra ngân hàng thông qua mạng
thông tin trực tuyến với các ngân hàng thương mại. Tuy nhiên, điều này đòi hỏi
công nghệ cao và quy chế nghiêm ngặt về bảo mật thông tin để bảo vệ bí mật kinh
doanh của các ngân hàng thương mại.
3.3.1.3 Nâng cao chất lượng của Trung tâm thông tin tín dụng (CIC)
Một trong những bộ phận được ngân hàng thương mại sử dụng là Trung tâm
thông tin tín dụng (mạng CIC). Và một trong những điều kiện cần thiết để thực hiện
quản trị rủi ro tốt là hệ thống thông tin phải đầy đủ, cập nhật, chính xác. Chất lượng
thông tin càng cao thì rủi ro trong kinh doanh tín dụng của các Tổ chức Tín dụng
càng giảm. Vì vậy, việc hoàn thiện hoạt động của Trung tâm thông tin tín dụng là
rất cần thiết chẳng hạn như là: thông tin tín dụng phải bao hàm tất cả các thông tin
79
về tình hình vay vốn của khách hàng tại các Tổ chức Tín dụng, phải có sự phân tích
thông tin tổng hợp về khách hàng để lưu ý các ngân hàng thương mại. Bên cạnh đó,
cần chú trọng đổi mới và hiện đại hóa các trang thiết bị, thiết lập hệ thống sao cho
việc thu thập cũng như cung cấp thông tin tín dụng được thông suốt, kịp thời.
Ngoài ra, Ngân hàng Nhà nước cần phải có chính sách tuyển chọn và đào tạo
cán bộ làm công tác quản lý mạng CIC không chỉ am hiểu về công nghệ thông tin
như khai thác thông tin qua mạng và các công cụ hỗ trợ khác mà còn phải có khả
năng thu thập thông tin, phân tích, tổng hợp và đưa ra những nhận định, cảnh báo
thích hợp thay vì những con số báo cáo thống kê khô khan cho các ngân thương
mại tham khảo.
Hiện nay, các ngân hàng chưa có sự hợp tác tích cực với CIC chủ yếu là do
muốn giữ bí mật thông tin về khách hàng để cạnh tranh. Vì vậy, Ngân hàng Nhà
nước nên có những biện pháp thích hợp để các ngân hàng nhận thức đúng đắn về
quyền lợi và nghĩa vụ trong việc báo cáo và khai thác thông tin tín dụng từ CIC
nhằm góp phần ngăn ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng. Ngân hàng Nhà nước cần
phải có biện pháp khuyến khích và đi dần đến quy định bắt buộc các ngân hàng
thương mại hợp tác, cung cấp thông tin một cách đầy đủ cho trung tâm. Thanh tra
Ngân hàng Nhà nước nên kiểm tra việc báo cáo, khai thác thông tin của các ngân
hàng, đồng thời có biện pháp xử lý kiên quyết, kịp thời đối với những ngân hàng vi
phạm chế độ báo cáo thông tin tín dụng như: báo cáo thiếu, báo cáo thông tin sai
lệch. Đồng thời, Ngân hàng Nhà nước cần phải có biện pháp khuyến khích các ngân
hàng sử dụng thông tin tín dụng từ CIC như là một tài liệu bắt buộc phải có trong
quá trình thẩm định cho vay.
3.3.2 Kiến nghị đối với Chính phủ
Trong việc hoạch định chính sách, cần cân đối một cách thích hợp giữa các mục
tiêu đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế, ổn định tiền tệ và sự phát triển bền vững của
hệ thống ngân hàng thương mại, tránh tình trạng thắt chặt hoặc thả lỏng quá mức,
80
thay đổi định hướng quá đột ngột gây ảnh hưởng đến hoạt động của ngân hàng
thương mại.
Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật cũng là một đòi hỏi cấp bách. Nhà nước
phải không ngừng tạo ra môi trường pháp lý lành mạnh để khuyến khích sản xuất
kinh doanh, tạo hành lang pháp lý vững chắc để các thành phần kinh tế yên tâm bỏ
vốn ra đầu tư. Bên cạnh đó, Nhà nước cũng cần tiếp tục hoàn thiện, đổi mới môi
trường kinh tế, coi đó là giải pháp tổng thể và cơ bản nhất trong quá trình đổi mới
mọi lĩnh vực kinh doanh nói chung và lĩnh vực kinh doanh tiền tệ nói riêng, chẳng
hạn như:
- Trong việc ban hành và thực hiện các cơ chế chính sách pháp luật cần nắm bắt
nhanh và kịp thời mọi sự phát triển của nền kinh tế xã hội, cần phải thu thập ý kiến
đầy đủ, khách quan từ các cơ quan ban ngành, doanh nghiệp để đảm bảo việc thực
thi được chính xác, hiệu quả, công bằng và phù hợp với điều kiện thực tế;
- Hoàn thiện hơn nữa các quy định pháp lý liên quan đến đảm bảo tiền vay, làm
thế nào để trong trường hợp ngân hàng đã thực hiện đúng các quy định về thế chấp,
cầm cố tài sản khi cho vay thì khi xử lý nợ, ngân hàng được toàn quyền trong việc
thanh lý tài sản nhận làm đảm bảo đó để thu nợ nhằm khắc phục các khó khăn về
quy trình, thủ tục và thời gian xử lý tài sản đảm bảo thu hồi vốn vay như hiện nay;
- Thúc đẩy thị trường tài chính, trước hết là thị trường liên ngân hàng và thị
trường tiền tệ nhằm xác định khuôn khổ hoạt động của các ngân hàng, tạo thêm
nhiều cơ hội đầu tư nhằm phân tán rủi ro, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn và đa
dạng hóa các công cụ thanh toán nhằm giảm thiểu rủi ro trong hoạt động ngân hàng.
- Hoàn thiện cơ sở hạ tầng kỹ thuật như hệ thống thông tin, kiểm toán, kế toán
theo chuẩn mực quốc tế,…để thúc đẩy nền kinh tế phát triển ổn định, tạo điều kiện
cho hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp nói chung và ngân hàng
thương mại nói riêng phát triển an toàn, bền vững và hội nhập quốc tế.
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LA0133.pdf