LỜI MỞ ĐẦU
Vấn đề Phát triển nông nghiệp nông thôn là một trong những được nhiều quốc gia trên thế giới quan tâm, bởi đây không phải chỉ là phát triển kinh tế một cách đơn thuần mà còn là một vấn đề xã hội rất quan trọng. Việt Nam là nước có tỉ lệ lao động và dân cư trong khu vực nông nghiệp nông thôn lên tới 76% do vậy phát triển nông nghiệp nông thôn được Đảng và nhà nước coi là một trong những vấn đề hàng đầu hiện nay. Mặt khác nền công nghiệp Việt Nam từ lâu đời nay có lợi thế về sản xuất
81 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1892 | Lượt tải: 5
Tóm tắt tài liệu Thực trạng và giải pháp phát triển thị trường rau quả của nông nghiệp Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
rau xanh, cây ăn quả các loại,với số dân gần 80 triệu người một thị trường lớn đang chào đón, chưa kể thị trường trong khu vực và thế giới đòi hỏi ngày càng nhiều về số lượng và chất lượng rau quả, theo tính toán trồng rau quả có hiệu quả kinh tế cao hơn trồng lúa từ 4-5 lần cá biệt có nơi cao gấp 10 lần, tuy nhiên phần lớn rau quả hiện nay có năng suất thấp và không ổn định sản lượng không xứng với tiềm năng, trong khi đó thị trường đã và đang tiêu thụ lại hạn hẹp vì vậy vấn đề đặt ra là hiện nay là phải có biện pháp để phát triển thị trường tiêu thụ rau quả của nông nghiệp Việt Nam
.
Đề tài” Thực trạng và giải pháp phát triển thị trường rau quả của nông nghiệp Việt Nam “ sẽ trình bày về thực trạng thị trường rau quả của Việt Nam hiện nay và đề ra một số biện pháp thúc đẩy tiêu thụ rau quả của Việt Nam. Hy vọng trong tương lai không xa đề án này cùng hàng loạt các dự án về nông nghiệp nói chung và phát triển thị trường rau quả nói riêng sẽ thức dậy tiềm năng sản xuất hàng hoá (rau quả) trong từng vùng của cả nước và tiềm năng tiêu dùng rau quả Việt Nam ngày càng được mở rộng trong nước trong khu vực và trên thế giới, khi đó rau quả sẽ khẳng định vai trò hơn nữa trong sản xuất nông nghiệp Vn và rau quả Việt Nam sẽ khẳng định được vị trí của mình trên thị trường thế giới.
NỘI DUNG
Chương I : Thực trạng của thị trường rau quả của Việt Nam
I. Nguồn cung cấp
1. Nguồn sản xuất trong nước
1.1 sản xuất rau
Diện tích trồng rau của Việt Nam liên tục tăng trong vòng hơn 10 năm qua. Năm 1991 là 346.000 ha rau, năm 1995 là 377.000 ha và đạt 452.900 ha năm 2000. Như vậy trong giai đoạn 1991-2000 diện tích trồng rau đã tăng khoảng 22,05%. Trong những năm gần đây,do áp dụng các tiến bộ khoa học kĩ thuật trong công tác giống và kỉ thuật canh tác năng suất rau không ngừng tăng và đạt 131,4 tạ/ha vào năm 2000.
Tình hình sản xuất rau quả của Việt Nam
Năm
Diện tích
Năng suất
Sản lượng
1998
411.700
127,7
5236,9
1999
459.100
126,2
5792,2
2000
452.900
131,4
5952,1
2001
532.693
116,15
6187,3
Nguồn cung cấp rau của Việt Nam phân bố khá đều, miền Bắc có diện tích trồng rau chiếm trên 50% tổng diện tích trồng rau cả nước,tuy nhiên năng suất trồng rau ở miền Bắc thấp hơn ở miền Nam, do miền Nam trồng được nhiều loại rau ăn, lại có năng suất cao hơn. Các vùng trồng rau lớn bao gồm đồng bằng sông Hồng, khu vực đồng bằng sông Cửu Long, vùng duyên hải miền trung. Chủng loại rau tương đối phong phú, có tới trên 70 loại,trong đó có khoảng 40 loại rau chính, tuy nhiên với gần 80% số dân sống ở nông thôn và miền núi,nên nhiều loại rau chủ yếu được sản xuất nhằm phục vụ nhu cầu tiêu dùng của gia đình, vi vậy giá trị thương mại không được xác định. Sản lượng và giá trị sản xuất rau được hình thành chủ yếu tại hai vùng chính:
-Vùng rau chuyên canh ven thành phố và khu vực công nghiệp.Diện tích chiếm khoảng 43% tổng diện tích rau các loại với chủng loại phong phú, năng suất cao sản phẩm thu được chủ yếu cung cấp cho tiêu dùng nội địa .
- Vùng rau luân canh với hai vụ lúa: la vùng sản xuất hàng hoá có lợi thế cạnh tranh cao về thời điểm thu hoạch (vụ đông)và khả năng mở rộng diện tích , nhưng không ảnh hưởng đến an ninh lương thực. Sản xuất rau làm nguyên liệu cho chế biến và cung cấp hàng hoá cho xuất khẩu được tập trung vào vụ đông tại đồng bằng sông Hồng và vùng rau quả chuyên canh Đà Lạt.
Trong hệ thống trồng rau của cả nước, sản xuất rau ở đồng bằng sông Hồng đóng vai trò quan trọng. Năm 2001 sản lượng rau đậu của vùng đạt 2.120.000 tấn cung cấp cho nhu cầu tiêu dùng của 17,3 tr người trongvùng và các vùng khác, ngoài ra còn cung cấp một phần cho xuất khẩu. Chủng loại rau của đồng bằng sông Hồng rất phong phú (có nguồn gốc ôn đới, á nhiệt đới…)có giá trị dinh dưỡng và dược lý cao, được trồng nhiều vào vụ đông nằm giữa hai vụ lúa, vì thế tiềm năng được mở rộng diện tích rau nhất là rau vụ đông còn rất lớn.Nếu giải quyết được đầu ra của sản phẩm cho vùng này có thể mở rộng diện tích rau thêm hàng chục vạn ha. Trong tám vùng sinh thái của cả nước, diện tích rau của đồng bằng sông Hồng chiếm từ 24,38à 27.38%. Năng suất rau cao hơn năng suất rau bình quân của cả nước từ 15.9 à 26,3%. Sản lượng rau của đồng bằng sông Hồng chiếm tới 28,25 à 39,49 % sản lượng rau của toàn quốc.
Đà Lạt được coi là một nền nông nghiệp đặc sản chuyên sản xuất các loại rau phù hợp với đất đai thời tiết khí hậu ôn đới trong vùng nhiệt đới chung của cả nước .Hiện tại Đà Lạt sản xuất rau theo hướng sạch, sử dụng các giống cây trồng ngắn ngày, chống chịu dược với sâu bệnh bón phân hợp lý và áp dụng kĩ thuật IPM .Nên năng suất và chất lượng nông sản được nâng cao.Năng suất bình quân của rau Đà Lạt năm 2000 đạt 260 tạ/ha (tăng 1,25 lần so với năm 1996 - 1997) . Chủng loại cây rau được sản xuất khá đa dạng.Cải bắp, cải thảo, lơ…
Các loại rau ăn củ, quả. Sản lượng thu hoạch rau năm 2000 đạt khoảng 163.660 tấn rau các loại ,so với năm 1996 đạt 165,85% cung cấp nhu cầu tiêu dùng cho thành phố Hồ Chí Minh (60%), vùng duyên hải miền trung, vùng biển Tây Nam Bộ, Vũng Tàu …(30%) và xuất khẩu sang các nước Singpore, HôngKông, Đài Loan…
1.2 Sản xuất quả
Từ năm 1992 đến nay diện tích trồng cây ăn quả của cả nước không ngừng được tăng lên, bình quân 9,2%/năm. Năm 1992 diện tích là 260.900 ha, năm 1997 là 425200 và năm 2000 là khoảng 544700 ha. Hiện nay sản lượng cây ăn quả đạt trên 4 triệu tấn /năm trong đó sản lượng vải, nhãn ,chôm chôm trên 8000 tấn tăng 30% cam, chanh, quýt đạt trên 500 ngàn tấn tăng 15% so với năm 1999.v.v…Năng suất tăng qua các năm : chối 40tấn/ha, cam 35tấn/ha, xoài 30tấn/ha…
Diện tích trồng cây ăn quả ở nước ta phân bố không đồng đều theo vùng, trồng nhiều nhất ở đồng bằng sông Cửu Long chiếm khoảng 60% diện tích trồng cây ăn quả cả nước, ít nhất là ở tây nguyên chỉ khoảng 3% diện tích cây ăn quả cả nước.
Việt Nam là nước có khí hậu ôn đới bắc bán cầu, nhiệt đới ẩm gió mùa nên thiên nhiên rất phong phú đa dạng có nhiều loại cây ăn quả ngon được thế giới ưa chuộng như: xoài, dứa, măng cụt,sầu riêng…Do đặc điểm đất đai khí hậu khác nhau nên mỗi miền có ưu thế riêng về trồng cây ăn quả. Miền Bắc trồng vải, nhãn, chuối, mận, mơ, một số loại quả có múi, miền Trung trồng thanh long, dứa, miền Nam trồng xoài, dứa, chuối, cam, nhãn, chôm chôm, sầu riêng, măng cụt, một số loại quả có múi khác với vùng quả truyền thống ta có:
-Miền núi và trung du phía bắc: quả chủ yếu là mơ,mận, đào (Lào Cai, Sơn La),xoài(Sơn La),vải(Quảng Ninh, Hà Bắc). Cam quýt ( Hà Giang, Tuyên Quang, Yên Bái, Lạng Sơn, Hoà Bình ),chuối (Vĩnh Phúc, Yên Bái ) dứa ( Lạng Sơn,Lào Cai )
-Đồng bằng sông Hồng: chuối, vải, nhãn,dứa, hồng xiêm,
-Khu 4 cũ : cam, quýt,bưởi, (Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Thừa Thiên Huế ).
-Duyên hải miền trung : thanh long (Ninh Thuận, Bình Thuận, Khánh Hoà…) dưa hấu ( Quảng Nam, Đà Nẵng…) xoài (Nha Trang ) nho (Ninh Thuận) dứa (Quảng Nam Đà Nẵng)
-Tây Nguyên : các loại xoài, chôm chôm (Đà Lạt) bơ (Đắc Lắc)
-Đông Nam Bộ : chuối,xoài, chôm chôm , sầu riêng,măng cụt, và các loại quả nhiệt đới khác (Đồng Nai, Sông Bé, Tây Ninh, Bà Rịa-Vũng Tàu) bưởi (Biên Hoà).
-Đồng Bằng Sông Cửu Long : chuối (các tỉnh) dứa (Kiên Giang, Minh Hải, Tiền Giang), na (Tiền Giang, Bến Tre, Cần Thơ, Vĩnh Long ) nhãn (Tiền Giang) dưa hấu (Tiền Giang và các tỉnh) và nhiều loại cây ăn trái khác
* Vùng quả cho chế biến
Cả nước mới chỉ hình thành 1 số vùng chuyên canh với khối lượng hàng hoá chưa lớn như : vùng bưởi Năm Roi ở Vĩnh Long, vùng xoài cát Hoà Lộc ở Tiền Giang, vùng thanh long ở Bình Thuận, vùng vải Thiều ở Lục Ngạn Hà Bắc, vùng dứa ở Tiền Giang, Long An. Kiên Giang, Ninh Bình…Tổng diện tích khoảng 70.000 ha với sản lượng mới đạt 2tr tấn/năm. Các vùng chuyên canh được hình thành với xu hướng ngày càng được mở rộng và tăng nhanh do trồng cây ăn quả mang lại hiệu quả kinh tế cao hơn trồng lúa,sản phẩm của các khu vực chuyên canh này chủ yếu dùng cho chế biến và xuất khẩu.
2. Nguồn nhập khẩu
Rau quả không chỉ được sản xuất chế biến trong nước mà còn được nhập khẩu từ các nước trên thế giới : rau quả tươi từ Trung Quốc, Mĩ, Inđônêxia , nho dưa táo ,dừa ,lê, quýt… và rau quả chế biến từ Trung Quốc Thái Lan.Việc nhập khẩu rau quả chủ yếu để phục vụ nhu cầu tiêu dùng trong nước
ví dụ : hoa quả được nhập khẩu một lượng lớn từ Trung Quốc thông qua cửa khẩu các tỉnh biên giới phía Bắc theo đường mậu biên, tiểu ngạch thậm chí nhập lậu. Một số loại rau quả được nhập về để phục phụ cho sản xuất chế biến ví dụ: Nhập khẩu dừa từ Inđônêxia về sản xuất cơm dừa và các sản phẩm khác từ dừa.Năm 2000 Việt Nam nhập 2000 tấn hạt giống rau (80trUSD), năm 1999 VN nhập 2,13triệu USD rau quả chế biến từ Mĩ.
II-Sản phẩm rau quả
1.Rau quả không qua chế biến
Sản phẩm rau quả không qua chế biến chủ yếu phục vụ nhu cầu tiêu dùng trong nước vì thời gian sản phẩm còn tươi không lâu như rau quả chế biến nên thường đáp ứng nhu cầu tại chỗ hoặc một số vùng lân cận, nhất là với các sản phẩm rau: cải bắp, su hào, súp lơ… chất lượng rau quả chưa cao,một số loại chưa làm người tiêu dùng yên tâm vì trong quá trình trồng rau quả bảo đảm về vấn đề an toàn khi dùng thuốc trừ sâu dễ gây ra ngộ độc, tuy nhiên hiện nay các địa phương đã đẩy mạnh việc trồng rau hữu cơ, rau an toàn vừa an toàn cho người tiêu dùng, cho môi trường lại có giá trị kinh tế cao: cải bắp, cải xanh, cải ngọt, đậu đũa, dưa chuột. Ngoài tiêu dùng trong nước ta còn xuất khẩu các sản phẩm như dừa trái,thanh long, bưởi…sang nước ngoài bởi các sản phẩm này có chất lượng tương đối tốt, mùi vị thơm ngon nên được các thị trường nước ngoài ưa chuộng.
VD: mỗi năm Bến Tre xuất khẩu hơn 50tr trái dừa
2-Rau quả qua chế biến
Rau quả thực sự có giá trị cao khi đã được chế biến ở nước ta lực lượng chế biến rau quả hộp chủ yếu là 17 doanh nghiệp gồm 12 nhà máy đồ hộp với tổng công suất thiết kế 70.000 tấn/năm và 5 nhà máy đông lạnh với tổng công suất thiết kế là 20.000 tấn/năm, những năm cao nhất các nhà máy trên đã sản xuất được 30.000 tấn đồ hộp rau quả, 20.000 tấn dứa đông lạnh và khoảng 2000 tấn purê quả. Rau quả chế biến Việt Nam hình thành từ những năm 1954 đến nay là sản phẩm của các nhóm công nghệ chủ yếu:
sơ chế, làm sạch và phân phối rau quả cho các bếp ăn gia đình: thông thường nhặt bỏ phần lá già, lá sâu, lá úa,gọt vỏ,cắt miếng, trần trong thuốc sát trùng được phép sử dụng, làm ráo nước, đóng túi PE, bảo quản mát.
Đông lạnh: tất cả các loại rau quả đều có thể sắt miếng cho vào bao bì thích hợp, bảo quản đông lạnh trong thời gian dài và vận chuyển đi xa.
Sấy khô: sấy bằng không khí nóng với các sản phẩm đặc trưng là chuối,táo, mận, nhãn, vải…Chiên trong dầu:với các sản phẩm đặc trưng là đậu côve, mít, chuối, dứa…Sấy thăng hoa áp lực cao dùng đối với hầu hết các loại rau quả .
Rau quả hộp các loại: dứa,vải, nhãn, dưa chuột…
Nước uống tươi đóng chai, lon, hộp giấy hoặc trong thùng can, hộp lớn để dễ vận chuyển, bảo quản, sau mới đưa vào sử dụng cho gia đình hoặc công việc đông người…
Nước quả cô đặc: thường là dứa, lạc tiên, cam, bưởi, táo,lê, đào… dược cô đặc tới nồng độ cao, dùng làm nguyên liệu cho việc pha chế các loại nước uống trái cây khác.
Sản phẩm muối: có 2 loại muối là muối mặn và muối chua dùng cho rau, hành, kiệu, chanh, cà, ngô, dưa chuột.
Các sản phẩm này đã đang và cố gắng thoả mãn nhu cầu tiêu dùng bằng chủng loại,chất lượng, và giá cả, đảm bảo tiêu chuẩn vệ sinh quốc gia quốc tế để tạo dựng chỗ đứng của mình trên thị trường trong nước và quốc tế.
III-Thực trạng tiêu thụ và điều kiện phát triển
1.Tiêu thụ
1.1Tiêu thụ trong nước
Việt Nam với 80tr dân cộng với trên 2triệu khách nước ngoài là thị trường tiêu thụ rau quả lớn, bình quân đầu người về tiêu dùng các loại rau quả là 40kg/người /năm về tiêu dùng các loại rau quả là 76kg/người/năm, khối lượng sản xuất ra đã đáp ứng được cơ bản nhu cầu trong nước, cả nước tiêu thụ khoảng 80% lượng rau quả sản xuất ra và lượng rau quả tương đối lớn nhập từ nước ngoài. Thị trường rau quả nội địa ( sản phẩm chế biến và sản phẩm tươi ) trên thực tế mới hình thành ở nước ta do sự xuất hiện của những sản phẩm từ nước ngoài vào. Sự xâm nhập này tạo ra nhân tố kích thích làm cho hoa quả được xem là hàng hoá thật sự . Đã hình thành thị trường nội tiêu thụ một cách tự phát:Rau quả được sản xuất để đáp ứng nhu cầu ở địa phương được bán trực tiếp trên thị trường qua hệ thống các chợ nhỏ khắp cả nước. Rau quả ở các vùng chuyên canh được vận chuyển từ Bắc vào Nam ( vải, nhãn…) và từ Nam ra Bắc (xoài , dừa, chôm chôm…) qua thương lái thu mua rồi phân phối cho các cửa hàng chợ nhỏ , chợ lớn. Rau quả chế biến được đưa ra thị trường qua các hệ thống cửa hàng , siêu thị khắp cả nước. Rau quả nhập khẩu ( táo , lê, nho…) thông qua các hợp đồng ngoại thương của các doanh nghiệp nhập khẩu rau quả được bán tại các siêu thị , cửa hàng , chợ.
Hiện nay nhu cầu về rau quả an toàn, rau quả hữu cơ là rất lớn: rau quả an toàn là loại rau quả có sử dụng hoá chất để phòng chống dịch hại nhưng so với sản xuất rau thường khối lượng hoá chất sử dụng rất ít , thích hợp cho giai đoạn phát triển của cây , tình hình bệnh . Rau quả hữu cơ là loại rau quả không có hoá chất nào được sử dụng để bón hay diệt trừ sâu bọ chỉ dùng những sản phẩm tự nhiên như phân xanh được dùng để bón , đồng sunphat được dùng để trừ nấm . Chính vì thế mà rau quả hữu cơ , rau quả an toàn đã đem lại sự yên tâm về sức khoẻ , về chất lượng cho người tiêu dùng nhưng loại rau quả này chưa được nhân rộng , hiện nay mới chỉ có một số địa phương thực hiện việc trồng rau quả hữu cơ , rau quả an toàn như: Hà Nội , Hà Tây , Đà Lạt , Đồng Nai,…Ngay như ở Hà Nội rau an toàn rau hữu cơ chỉ chiếm khoảng 2% tổng rau tiêu thụ trong thành phố với một vài nhà cung cấp ( chủ yếu có 3 hợp tác xã ở ngoại thành Hà Nội cung cấp rau an toàn , 2 hợp tác xã ở Hà Nội và Hà Tây cung cấp rau hữu cơ ) cùng với một vài điểm tiêu thụ ( 22 cửa hàng và quầy bán rau, 13 siêu thị ).Các sản phẩm rau quả an toàn,rau quả hữu cơ bán trên thị trường nội địa nhìn chung chưa có một thông tin chỉ dẫn nào về nguồn gốc của rau quả hay cách thức sản xuất rau quả, điều này có thể gây nghi ngờ cho người tiêu dùng.Sản phẩm bán không được đóng gói và không có nhãn mác, ngoại trừ một số trường hợp như rau từ công ty Golden Garden từ Đà Lạt.Thay vì xuất hiện trên sản phẩm, các thông tin về chỉ dẫn chất lượng rau quả được dán ở cửa hàng bán.Ví dụ :ở Hà Nội điều này sẽ không tạo ra nghi ngờ trong trường hợp đối với rau hữu cơ vì cửa hàng của công ty Hà Nội Organics là nơi duy nhất bán sản phẩm này.Các cửa hàng và siêu thị bán rau an toàn có các thông tin chỉ dẫn về ra an toàn, nhưng có vẻ như rau bán ở các địa điểm này không được sản xuất theo quy trình giành cho rau an toàn: vào các mùa mưa, những cửa hàng này có thể lấy rau từ Đà Lạt(và những nguồn khác của công ty Golden Garden.)Tại những cửa hàng bán lẻ rau của HTX Vân Trì và rau từ Đà Lạt, nơi sản xuất rau được chỉ dẫn rõ.Và duy nhất chỉ có công ty Hà Nội Organics có sự kiểm soát từ bên ngoài và chứng nhận quá trình sản xuất tuân theo những tiêu chuẩn quốc tế của sản xuất rau hữu cơ do Tổ chức sản xuất nông nghiệp hữu cơ Thái Lan cấp. Công ty đã cử nhân viên kiểm tra đột xuất quy trình sản xuất tại các điểm sản xuất của nông dân .Trong những kênh tiêu thụ và sản xuất rau an toàn, kiểm tra chất lượng hầu hết được thực hiện nội bộ và không chính thức, do chính những người nông dân tiến hành hoặc do cán bộ của dự án như trong trường hợp của ADDA.Từ năm 1996 tới năm 2001, sở khoa học công nghệ Hà Nội đã cấp giấy chứng nhận cho các hợp tác xã tham gia vào chương trình sản xuất rau an toàn nhưng hiện tại việc này không thực hiện nữa, còn việc kiểm tra độ an toàn của rau bằng cách thu thập mẫu và phân tích trong phòng thí nghiệm là rất ngoại lệ Công ty Golden Garden đã trình bày một số kết quả phân tích của Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn nhưng điều đó chỉ được thự hiện duy nhất một lần năm 1997.
Như vây việc tiêu thụ rau quả trên thị trường nội địa đã có những khởi sắc nhưng quá nhỏ bé về độ đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm.Cơ cấu tiêu dùng rau của Việt Nam hiện nay là : rau ăn lá – 54% , ăn quả --26% , củ -- 8% bắp thân hoa –6% .Đây là cơ cấu chưa phù hợp với xu hướng tiêu dùng rau quả của thế giới.
1.1.Xuất khẩu
Xuất khẩu rau quả của Việt Nam từ trước đến nay chia làm 2 thời kỳ : năm 1990 trở về trước và từ năm 1991 đến nay.
1.1.1.Thời kỳ 1990 trở về trước :
Trước những năm 1990 rau quả của Việt nam chủ yếu xuất khẩu vào thị trường Liên Xô và các nước XHCN Đông Âu thuộc khối SEV. Thời kỳ này có nhiều thuận lợi : chất lượng sản phẩm yêu cầu ở mức tương đối, không khắt khe nên các doanh nghiệp chủ yếu tập trung lo sản xuất, thu gom, không phải lo tìm kiếm thị trường. Xuất khẩu rau quả của Việt Nam chủ yếu theo hiệp định và ngành hàng này được cung ứng hỗ trợ nhiều loại vật tư quan trọng phục vụ sản xuất như phân bón, thuốc trừ sâu bệnh,… Trong xuất khẩu có đội tàu chuyên dùng của Liên Xô bảo đảm việc vận tải đường biển với giá bao cấp nên chi phí vận chuyển, bốc dỡ, lưu kho, lưu bãi rất thấp. Trong giai đoạn từ năm 1981 dến năm 1989 xuất khẩu rau quả của Vệt Nam sang các nước này tăng lên đáng kể. Xuất khẩu năm 1986 đạt trên 18.000 tấn rau tươi và trên 3.000 tấn rau chế biến các loại. Theo báo cáo của FAO trong các năm từ 1987 dến 1989 xuất khẩu rau tươi của Việt Nam đạt trung bình 10.000 tấn / năm. Năm 1990 khi không còn thị trường này khối lượng rau quả xuất khẩu giảm xuống chỉ còn 3.000 tấn / năm trong đó rau chỉ còn 500 tấn / năm.
1.1.2. Thời kỳ 1991 đến nay .
Năm 1990 do không còn thị trường chủ yếu nên xuất khẩu rau quả của nước ta bị giảm mạnh : kim ngạch xuất khẩu ( tính theo triệu USD ) năm 1991 đạt 33,2 , năm 1992 là 23,6 và năm 1994 xuống còn 20,8.
Sau 4 năm khủng hoảng thị trường các doanh nghiệp xuất khẩu rau quả đã dần thích nghi với cơ chế mới, đã tổ chức lại sản xuất theo yêu cầu mới, tiến hành tìm kiếm thị trường, khách hàng mới và đến năm 1995 xuất khẩu đạt 56,1 triệu USD.
Những năm gần đây xuất khẩu rau quả có những bước phát triển mới. Năm 1998 do có nhiều biến động về kinh tế ở các nước châu Á nên xuất khẩu giảm so với năm 1997, chỉ đạt 33,68 triệu USD, còn năm 1999 đạt gấp đôi năm 1998. Năm 2000 kim ngạch xuất khẩu đạt 205 triệu USD tăng 91% so với năm 1997 ( nếu kể cả xuất khẩu hạt tiêu đạt 37.00 tấn với tổng trị giá 144 triệu USD thì tổng kim ngạch xuất khẩu rau quả đạt 344 triệu USD ) . Năm 2001 kim ngạch xuất khẩu rau quả xấp xỉ 330 triệu USD . Năm 2002 kim ngạch xuất khẩu rau quả là 200 triệu USD , năm 2003 còn 152 triệu USD chỉ bằng 76% năm 2002 do lượng xuất khẩu vào thị trường Trung Quốc giảm. Mặt khác lượng xuất khẩu rau quả của nước ta mớ chiếm khoảng 15 à 20 % giá trị sản lượng và chủ yếu là xuất khẩu các loại trái cây. Rau tươi xuất khẩu hiện nay chiếm khoảng 10 à 15 % kim ngạch xuất khẩu rau quả . Những loại rau tươi xuất khẩu gần đây là : cải bắp, đậu quả, hành tỏi. khoai tây, một số loại gia vị ( xuất khẩu theo đường hàng không ) và nhiều loại rau quả cắt thái sẵn đóng bao nhỏ ướp lạnh xuất khẩu thẳng tới các siêu thị. Ngoài ra còn phải kể đến : nấm, cà chua, khoai lang, khoai mỡ, su su, dưa chuột, mướp đắng, ngô rau, đậu rau, cải xanh, cải bó xôi, bí đỏ vỏ xanh, măng, đậu nành lông. . .hầu như tất cả các loại rau dược xuất khẩu dưới dạng tươi , chỉ một phần nhỏ dưới dạng sơ chế ( muối đóng hộp, sấy khô . . ). Theo số liệu của tổng cục thống kê :năm 1997 kim ngạch xuất khẩu rau quả của Việt Nam đạt khoảng 69,88 triệu USD trong đó tới 43,77 triệu USD là từ rau quả tươi còn lại là rau quả chế biến, bảo quản đông lạnh và sấy khô. Năm 1998 xuất khẩu giảm mạnh kim ngạch xuất khẩu chỉ đạt 33 triệu USD, bằng 55 % so với năm 1997. Năm 1999 xuất khẩu rau quả đã tăng trở lại, tổng kim ngạch xuất khẩu đạt 70 triệu USD trong đó 73 % là rau quả tươi, rau bảo quản đông lạnh và sấy khô, 27% là rau chế biến đóng hộp, lọ các loại. Các loại rau quả xuất khẩu chính của Việt Nam hiện nay là : dưa chuột, cà chua, cà rốt, hành, ngô rau, đậu rau. . .Trong đó dưa chuột và cà chua có nhiều triển vọng vì chúng có thị trường xuấ khẩu tương đối ổn định.
Trong những năm gần đây thị trường xuất khẩu rau quả được mở rộng . Các mặt hàng rau quả của nước ta hiện nay đã có mặt trên 50 nước và vùng lãnh thổ, trong đó chủ yếu là Trung Quốc, Đài Loan, Nhật, Australia, Singapore, Hàn Quốc, Mỹ. . Thị trường ở các khu vực khác chiếm tỉ trọng rất nhỏ : thị trường Nga và Đông Âu tuy được khôi phục đối với một nhóm sản phẩm thuộc nhóm hàng này nhưng tỉ trọng rất nhỏ : năm 1998 chiếm 1,18 % tương đương 1,22/104,2 triệu USD thị trường Tây Nam Á , Châu Phi chiếm 1,16 % tương đương 1,22/104,2 triệu USDứo với năm 1998.
Năm 1999 số thị trường rau quả của Việt Nam đạt kim ngạch xuất khẩu khoảng 10 triệu USD còn rất ít. một số thị trường như : Trung Quốc đạt 36,5 triệu USD , Đài Loan – 11,9 triệu USD , Hàn Quốc – 10 triệu USD , Nhật Bản –9,3 triệu USD và Lào 9,2 triệu USD chủ yếu là đổi hàng. Hiện nay xuất khẩu hoa quả sang Trung Quốc đang tăn mạnh , chỉ từ 1à 15/1/2004 đã có trên 250 tấn hoa quả của Việt Nam được xuất khẩu sang Trung Quốc , chủ yếu là 2 mặt hàng nhãn và thanh long được chuyển từ Miền Nam ra, lượng hoa quả của Việt Nam được xuất khẩu sang Trung Quốc qua cửa khẩu tăng mạnh mặc dù phía Trung Quốc đã bãi bỏ chính sách ưu đãi 50% thuế nhập khẩu và thuế VAT cho hàng hoa quả ( đã gây khó khăn không ít cho các doanh nghiệp kinh doanh tiểu ngạch sang Trung Quốc 2 năm nay tiểu ngạch sang Trung Quốc giảm mạnh, kim ngạch xuất khẩu năm 2003 chỉ bằng 50% năm 2002 và còn thấp rất nhiều so với 14,47 triệu USD trong năm 2001 ) Việt Nam nhập qua đường biên mậu dịch ở các cửa khẩu trừ cửa khẩu Lào Cai. Năm 2003 Việt Nam xuất khẩu rau quả sang Nga hơn 8 triệu USD , trong 2 tháng đầu năm 2004 kim ngạch xuất khẩu rau quả Việt Nam sang Nga đạt hơn 2 triệu USD bằng 25% kim ngạch xuất khẩu của cả năm 2003 theo các chuyên gia thương mại với tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu vào thị trường Nga như hiện nay dự báo kim ngạch xuất khẩu rau quả sang Nga năm 2004 ước đạt 12 triệu USD . Lượng rau quả xuất khẩu của Việt Nam sang Campuchia ngày càng tăng cả
về số lượng lẫn trị giá. Năm 2001 Việt Nam xuất khẩu sang Campuchia 2,3 triệu USD rau quả các loại . Năm 2002 đạt gần 4,5 tỷ USD tăng 95 % . Thời gian này lượng rau quả xuất khẩu sang Campuchia ngày càng tăng với nhiều chủng loại trái cây, rau củ quả các loại như thanh long, chôm chôm, nhãn, hành củ, bắp cải . . .Trong thời gian tới xuất khẩu rau quả của Việt Nam sang thị trường Campuchia có thể sẽ tăng cả về số lượng và kim ngạch xuất khẩu ( do thị trường Campuchia không quá khắt khe về chất lượng cũng như chủng loại ). Tuy nhiên cần lưu ý việc Campuchia gia nhập WTO vào tháng 9 năm 2003 như vậy chính sách quản lý về xuất nhập khẩu cũng sẽ có những thay đổi ( tương tự như trường hợp thị trường Trung Quốc thời gian qua ). Các doanh nghiệp xuất khẩu hàng hoá vào thị trường này cần theo dõi sát thông tin để tránh rơi vào thế bị động.
Trong tiêu thụ nông sản nói chung và trái cây nói riêng đã hình thành khá rõ vai trò của doanh nghiệp tư nhân, của thương lái trong mùa xuất khẩu trái cây tươi còn doanh nghiệp nhà nước chủ yếu lo chế biến đóng hộp. Thực tế trong 9 năm qua phần lớn lượng rau quả xuất khẩu của Việt Nam đều do doanh nghiệp tư nhân đảm trách. Ví dụ : 80% lượng trái cây xuất khẩu sang Trung Quốc do tư nhân thực hiện , 90% lượng hàng rau quả của Việt Nam vào thị trường thế giới phải sử dụng công ty trung gian , điều này phù hợp với tình hình của Việt Nam hiện nay : kinh tế Việt Nam đang phát triển nhanh sẽ tạo ra rất nhiều sản phẩm mới nhãn mác mới và cần nhiều thị trường tiêu thụ mới, bản thân các doanh nghiệp không thể tự tìm và đủ sức quảng bá sản phẩm vào những thị trường mới này . Bằng uy tín mối quan hệ bạn hàng sẵn có các công ty trung gian sẽ làm thay các doanh nghiệp những việc này để đưa nhanh sản phẩm vào thị trường mới , thị trường khó tính.
Theo tổng công ty rau quả Việt Nam dự kiến kim ngạch xuất khẩu rau quả của cả nước trong năm 2004 đạt 146 triệu USD tăng 5,3 % so với năm 2003 , tổng công ty đang nhanh chóng triển khai các biện pháp đẩy mạnh xuất khẩu vào các thị trường chủ yếu như Trung Quốc , Đài Loan , Nhật Bản, Hàn Quốc, Nga, Mỹ.
2. Điều kiện phát triển .
2.1 Thị trường trong nước.
Dân số nước ta là 82 triệu vào năm 2000 và 95 triệu vào năm 2010 tỷ lệ đô thị hoá tăng từ 25%--35% . Cùng với việc tăng dân số lượng khách du lịch quốc tế đến Việt Nam không ngừng tăng lên ( năm 2000 khoảng 3 triệu người, năm 2010 khoảng 8 triệu người ).
Theo chiến lược phát triển nông nghiệp và dự báo của viện dinh dưỡng quốc gia, từ nay đến năm 2010 lượng tiêu thụ bình quân đầu người sẽ đạt khoảng 80-90kg rau, 60-70kg quả, khối lượng rau quả tiêu dùng cả nước từ 7,6-8.6 triêụ tấn,khối lượng quả tiêu dùng của cả nước khoảng 5,7-6,7triêụ tấn. Hiện nay GDP của ta khoảng 500 USD /người/năm dự báo mức tăng trưởng GDP nước ta từ nay đến năm 2010 sẽ đạt từ 7-8%/năm, chất lượng đời sống kinh tế văn hoá không ngừng được tăng nâng cao vì vậy nhu cầu rau quả sạch có chất lượng cao tăng nhanh, nhất là ở các khu vực dân cư tập trung đông (đô thị,khu công nghiệp, khu dich vụ,khu du lịch…)mặt khác thu nhập của người dân tăng lên, khả năng thanh toán cũng được nâng cao, giá cả các loại rau quả được hình thành trên thị trường hiện nay là có lợi cho người trồng rau quả, điều này sẽ thúc đẩy sản xuất rau quả phát triển, họ sẽ đầu tư công nghệ, giống… vào quá trình sản xuất từ cải tạo đất,gieo trồng…đến thu hoạch để nâng cao năng suất chất lượngvà số luợng sản phẩm rau quả .
Dự kiến nhu cầu sẽ tăng theo các hướng sau:
- nhu cầu tiêu thụ rau quả tươi sẽ tăng nhanh, nhiều loại rau quả sẽ được giao lưu giữa 2 miền Nam Bắc và các nước trên thế giới làm phong phú thị trường đặc biệt người tiêu dùng sẽ ưu tiên dùng những loại rau quả an toàn, rau quả hữu cơ.
- Các loại nước giải khát từ quả thiên nhiên sẽ được tiêu thụ ngày càng nhiều do có hương vị tự nhiên và có tác dụng bồi dưỡng sức khoẻ. Cần nâng cao sản lượng, chất lượng và giá cả phù hợp để thay dần các đồ uống công nghiệp, sử dụng hương liệu pha chế.
- Sự biến đổi đời sống xă hội theo hướng công nghiệp kéo theo sự tiêu dùng các loại rau quả chế biến đóng hộp, đóng lọ ngày càng tăng.
2.2 Một số thị trường xuất khẩu tiềm năng
2.2.1 Dự báo thị trường rau quả thế giới
Theo dự báo của tổ chức nông lương thế giới (FAO) trong thời kỳ từ 2001 đến 2010 nhu cầu rau quả thế giới tăng nhanh vì tôc độ tăng dân số thê giới tăng 1,5%/năm, đến năm 2005 đạt 6,5 tỷ người, năm 2010 đạt 7 tỷ người tôc độ phat triển kinh tế thế giới tăng 3-4%/năm, tốc độ phát triển thương mại tăng 6-7%/năm, nhu cầu tiêu thụ rau quả 3,6%/năm, trong khi tốc độ tăng sản lượng rau quả chỉ đạt 2,8%/năm.
Trình dộ phát triển về dân trí và xă hội ảnh hưởng trực tiếp đến sự thay đổi cơ cấu bữa ăn, người dân sẽ giảm tiêu dùng các loại thức ăn nhiều chất béo, chất tinh bột mà tăng tiêu dùng các loại rau quả, rượu, bia và nước giải khát. Nhu cầu tiêu dùng rau quả sạch, có chất lượng cao ngày càng tăng do đời sống của nhân dân các nước không ngừng được cải thiện.
Trong những năm qua, số lượng rau quả nhập khẩu tăng bình quân 1,8%/năm. Theo dự báo của FAO, với tốc độ này dến năm 2010 số lượng rau nhập khẩu toàn thế giới sẽ đạt khoảng 1,7 triệu tấn. Các nước nhập khẩu chủ yếu là Pháp, Đức, Canada khoảng trên 155 ngần tấn mỗi nước: Anh, Hoa kỳ, Bỉ, Hồng Kong, Singapo khoảng trên 120 ngàn tấn mỗi nước: Các tiểu Vương quốc Ả Rập thống nhất và Belaruf khoảng 50 ngàn tấn mỗi nước.
Đến năm 2010 số lượng rau xuất khẩu trên thế giới khoảng 1,8 triệu tấn. Cac nước xuất khẩu rau quả chủ yếu là: Trung Quóc 609 ngàn tấn: Hoa Kỳ trên 244 ngàn tấn; Italia và Hà Lan trên 140 ngàn tấn mỗi nước. Dự báo năm 2010 giá xuất khẩu rau tươi (theo giá USD năm 2001) khoảng 526 USD/ tấn giá nhập khẩu rau tươi khoảng 703 USD/tấn.
Dựa trên tốc độ tăng về nhu cầu xuất khẩu trái cây trong các năm gần đây, dự báo các thị trường nhập khẩu trái cây nhiều nhất đến năm 2010 là :
- Chuối: theo nhận định của các nhà chuyên môn , thương mại chuối thế giới trung bình tăng 1,5 % / năm trong thời kỳ 2001—2010 nhịp độ thương mại có phần giảm xuống so với những thập kỷ trước do nhu cầu nhập khẩu của các nước công nghiệp giảm. Dự đoán các nước công nghệ : Anh, Mỹ, Bỉ ,Nhật Bản , Đức và Trung Quốc… vẫn sẽ là thị trường nhập chuối lớn, đến năm 2010 sẽ chiếm khoảng 81 % khối lượng nhập khẩu của thế giới, các nước Đông Âu, Nga và SNG sẽ tăng nhanh hơn những năm qua, tỷ lệ nhập khẩu của các nước này trên thị trường trên thế giới tăng nhanh hơn những năm qua, tỷ lệ nhập khẩu của các nước naỳ trên thị trường thế giới tăng từ 2% năm 1998 lên 15% năm 2010. Nhập khẩu chuối của Nga, các nước SNG và khu vực Đông Âu cũ sẽ tăng nhanh nhất , do những biến động trong hệ thống kinh tế, nhập khẩu chuối cũng sẽ gia tăng ở các nước Trung Đông và Trung Quốc . Xu thế nhập khẩu chuối của EU sẽ tiếp tục tăng trong thời gian tới nhưng với tốc độ không cao như trước . Nhu cầu nhập khẩu chuối của Hoa kỳ sẽ tiếp tục tăng tuy với nhịp độ thấp do mức tiêu dùng bình quân đầu người đã cao ( khoảng 11,2kg/ người/ năm) và nhịp độ tăng dân số thấp ( 0,7%/năm) . Tóm lại, nhập khẩu chuối trên thế giới sẽ tăng từ 7,9triệu tấn năm 1995 lên 10 triệu tấn năm 2005, bình quân mỗi năm tăng 1,5% so với 2,3% của thập kỷ trước.
- Dứa: sản lượng dứa toàn thế giới là 11,5 triệu tấn . Tổng lượng dứa nhập khẩu hàng năm trên thị trường thế giới dao động khoảng 700- 850 ngàn tấn với trị giá 450-500 triệu USD . Năm 1998 nước nhập khẩu dứa tươi chủ yếu la` : Hoa kỳ 253 ngàn tấn trị giá 103 triệu USD ; Pháp 140 ngàn tấn trị giá 95 triệu USD; Nhật Bản 100 ngàn tấn trị giá 45 triệu USD ... giá nhập khẩu bình quân 588 USD/ tấn .
- Xoài : sản lượng toàn thế giới là CAPut!’ triệu tấn. Tổng lượng xoài nhập khẩu hàng năm trên thị trường thế giới là 351 ngàn tấn ( năm 1998) với trị giá tăng từ 405 triệu USD lên 445 triệu USD . Năm 1998 các thị trường nhập khẩu xoài tươi chủ yếu là: Hoa Kỳ 197 ngàn tấn trị giá 147 triệu USD ; Hồng Kông 40 ngàn tấn trị giá 43 triệu USD ; Hà Lan 31 ngàn tấn trị giá 41 triệu USD … giá nhập kh._.ẩu bình quân là 974 USD/ tấn.
- Dừa: năm 1998 tổng lượng dừa quả nhập khẩu trên thị trường thế giới khoảng 22 ngàn tấn với trị giá 82 triệu USD . Những nước nhập khẩu chủ yếu là : Trung Quốc 85,5 ngàn tấn trị giá 22,9 triệu USD ; Hoa kỳ 23,4 ngàn tấn trị giá 10,6 triệu USD ; Hồng kông 16,4 ngàn tấn trị giá 8,8 triệu USD ; Singapore 10,874 tấn trị giá 1,9 triệu USD ; Hà Lan 8,502 tấn trị giá 3 triệu USD … giá xuất khẩu bình quân trên thị trường thế giới là 291 triệu USD / tấn , giá nhập khẩu bình quân 370 USD / tấn .
- Dưa hấu: tổng lượng dưa hấu quả nhập khẩu hàng năm trên thế giới khoảng 1,3 – 1,6 triệu tấn , với trị giá khoảng 415-518 triệu USD . Năm 1998 , các nước nhập khẩu chủ yếu là : Hoa Kỳ 220 ngàn tấn trị giá 62 triệu USD ; Đức 165 ngàn tấn trị giá 70 triệu USD ; Canada 452 ngàn tấn trị giá 122 triệu USD ; Pháp , Ý , Côoet , Hồng Kông, Singapore và tiểu vương quốc Ả Rập thống nhất , BaLan … giá nhập khẩu bình quân trên thế giới 332 USD/ tấn , giá xuất khẩu bình quân 252 USD/ tấn .
- Do nhu cầu về các loại trái cây tăng ổn định phù hợp với khả năng sản xuất của các nước sản xuất , việc áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất thâm canh trái cây giúp đạt năng suất cao nên giá trái cây hầu như không tăng đột biến trong những năm tới
2.2.2 . Thị trường khu vực Châu Á- Thái Bình Dương
. Đây là khu vực thị trường rất rộng lớn và gần Việt Nam . Nằm trong khu vực này gồm một số nước phát triển và rất nhiều nước đang phát triển . Nhiều nước có hàng rau quả xuất khẩu nhưng cũng nhiều nước có nhu cầu nhập khẩu rau quả .
2.2.2.1. Thị trường Trung Quốc
Trung Quốc là một thị trường lớn đông dân nhất1.273.111.290 (7/2001) và nằm bên cạnh Việt Nam. Nhiều chuyên gia trên thế giới nhận xét về Trung Quốc những năm gần đây cho rằng: với tốc độ tăng trưởng kinh tế như hiện nay cao hơn mức tăng trưởng bình quân trên thế giới, nền kinh tế Trung Quốc có thể trở thành một nền kinh tế lớn nhất hành tinh,vượt cả Mĩ. Tốc độ tăng trưởng xuất nhập khẩu của Trung Quốc từ năm 1990-2000 đạt 15%/năm, nhanh gấp 2 lần mức tăng trưởng xuất nhập khẩu bình quân thế giới (6,8%). Trung Quốc là một trong những nước sản xuất rau quả hàng đầu thế giới, tổng sản lượng rau Trung Quốc cao gấp 4 lần so với Mĩ đạt khoảng 405tr tấn/năm chủ yếu là khoai tây, khoai lang, cải bắp, dưa chuôt,cà tím, hành tỏi va rau diếp. Sản lưọng quả hàng năm đạt khoảng 62tr tấn cao gấp đôi Mĩ, nhưng loại quả chính là táo( 21tr tấn) bưởi chùm( 8tr tấn) chuối(4tr tấn) và nho (3tr tấn). Trung Quốc xuất khẩu rau và quả và sản xuất dưói 1% tổng sản lượng rau quả thế giới , sản lượng rau quả lại tăng nhanh nhưng rau quả của Trung Quốc chủ yếu được tiêu thụ ở nội địa, theo dự đoán trong vòng 5 năm tới sản lượng rau quả Trung Quốc mới vượt nhu cầu trong nước. Mặt khác ngành rau quả Trung Quốc cũng có một số một số yếu điểm, chẳng hạn như chỉ một số ít loại rau quả được sản xuất trên quy mô lớn vì mục đích xuất khẩu, ngoài ra cho đến nay ngành này vẫn chưa đưa ra một tiêu chuẩn nào về sản lượng, việc marketing và đón gói chưa được chuẩn hoá, chất lượng sản phẩm còn chưa rõ ràng. Chính vì vậy mà hiện nay Trung Quốc vẫn thường xuyên nhập khẩu rau quả từ các nước trên thế giới trong đó có Việt Nam-nước láng giềng của Trung Quốc .
Mức nhập khẩu rau quả của Trung Quốc trong các năm gần đây khoảng 300-400tr USD/năm.Năm 2000,trong những mặt hàng nhập khẩu chính của Trung Quốc thì 7,6% là mặt hàng hoa quả. Đây cũng chính là thị trường mà Việt Nam xuất khẩu được nhiều rau quả nhất hiện nay, năm 1999 Việt Nam xuất khẩu được 35,7tr USD rau quả chiếm 36% tổng kim ngạch xuất khẩu rau quả, năm 2000 chỉ riêng 10 tháng đầu năm đã xuất được 85,9tr USD chiếm 53,1% tổng kim ngạch xuất khẩu rau quả của cả nước.
Hiện nay Trung Quốc đang nhập khẩu chủ yếu rau quả tươi và chế biến của Việt Nam theo con đường biên mậu ( mậu dịch biên giới ) dọc theo 3 tỉnh có biên giới chung với Việt Nam như Quảng Đông, Quảng Tây,Vân Nam. Tuy số lượng nhập khẩu này còn ít, nhưng nếu mở rộng hình thức xuất nhập khẩu theo con đường chính ngạch chắc chắn trao đổi buôn bán rau quả giữa hai nước sẽ tăng lên nhanh chóng và ổn định hơn. Trong việc xuất khẩu rau quả vào Trung Quốc quan trọng là cách tiếp cận thị trường :
- Do vị trí địa lý thuận lợi, chi phí vận chuyển thấp, yêu cầu về quy cách, kiểm dịch thực vật, thực phẩm không quá khắt khe, đối tượng tiêu dùng lại rất đa dạng, nhiều mặt hàng không được chấp nhận ở các thị trường khó tinh có thể chuyển hướng bán sang thị trường Trung Quốc bởi sự dễ tính của thị trườg này.Trướcmắt chúng ta khai thác thế mạnh theo con đường biên mậu, sau đó xuất khẩu theo con đường chính ngạch.
- Xây dựng các kho ngoại quan ( chủ yếu là các kho lạnh nhằm bảo quản hàng hoá tránh hư hỏng ) ở các tỉnh biên giới Việt Nam –Trung Quốc để chủ động hơn trong xuất khẩu rau quả sang Trung Quốc .
- Tổ chức khai thác và cung cấp thông tin về thị trường (tiền thương mại ) và các doanh nghiệp Trung Quốc kinh doanh mặt hàng rau quả đểcác doanh nghiệp Việt Nam chon lựa đối tác thích hợp. Vì Trung Quốc là nước có kim ngạch xuất khẩu rau quả gấp 10 lần nhập khẩu nên đây cũng là trở ngại và thách thức lớn đối việc trao đổi buôn bán của các doanh nghiệp Việt Nam.
* Chính sách thuế và phi thuế của Trung Quốc
Trung Quốc áp dụng các mức thuế nhập khẩu tương đối cao và chính sách thuế quan khá chặt chẽ. Thuế suất trung bình đối với rau khoảng 70%(thuế suất MFN tương ứng là 13%), trừ một số mặt hàng như nấm, măng, hành khô hoạc sơ chế có thuế suất cao hơn khoảng 80-90%(nhưng thuế suất MNF vẫn là 13%) các loại hạt giống rau có thuấ suất MNF khoảng từ 0-8%, các loại đậu, lạc thuế MNF khoảng 30%, hiện nay Trung Quốc đã xoá bỏ thuế ưu đãi 50% cho thuế nhập khẩu và thuế VAT cho hàng hoa quả nhập qua các cửa khẩu trừ cửa khẩu Lào Cai.
Về chính sách phi thuế, Trung Quốc đang áp dụng chủ yếu các hình thức hạn ngạch hoặc chế độ đăng kí đặc định nhập khẩu. Trên thực tế chính sách phi thuế của Trung Quốc hiện nay không cản trở lớn đến sự xâm nhập thị trường của các nước mà cản trở lớn nhất vẫn là mức thuế nhập khẩu đối với rau quả còn cao.
Vì vậy chúng ta phải tận dụng các lợi thế, tạo điều kiện về cơ sở vật chất và các điều kiện pháp lý trên cơ sở các thông lệ quốc tế thì chắc chắn Trung Quốc sẽ là một trong những thị trường chiến lược quan trọng của ta.
2.2.2.2- Thị trường Hông Kông.
Hồng Kông là một khu tự trị của Trung Quốc có nhu cầu tiêu dùng về rau quả khá lớn.Nhu cầu tiêu dùng trực tiếp vào loại khá,nhưng quan trọng hơn đây là thị trường trung gian để xuất khẩu tiếp sang các nước thứ ba.Những mặt hàng chủ yếu được Hồng Kông nhập khẩu là: Bí xanh, dưa chuột tươi…Để đáp ứng được các yêu cầu và tập quán buôn bán của các mặt hàng rau quả tại Hồng Kông, các nước có hàng xuất khẩuphải chú ý ngay từ khâu sản xuất, phải thành lập các vùng chuyên canh để đảm bảo chất lượng cao và sự ổn định, chấp nhận tập quán buôn bán của các thương nhân Hồng Kông đang áp dụng với các đối tác gửi hàng bán,chuyển trả tiền hàng trên cơ sở khấu trừ 8% hoa hồng và phần hư hỏng do người gửi bán phải chịu. Năm 1999 Việt Nam xuất sang thị trường này khoảng 2,5triệu USD và năm 2000 là 3,2triệu USD rau quả. Hồng Kông không phải là thị trường quá “khó tính” nhưng vì là khu tự trị thuộc Trung Quốc nên thị trường nhập khẩu chính của Hồng Kông vẫn là Trung Quốc, việc trao đổi buôn bán giữa Trung Quốc lục địa với đặc khu này rất thuận tiện. Đây là một thách thức đối với các doanh nghiệp xuất khẩu rau quả của Việt Nam. Tuy nhiên các doanh nghiệp Việt Nam vẫn có thể vươn tới thị trường này với những mặt hàng rau và gia vị như: Bí xanh, ớt, gừng, tỏi, giềng, nghệ vì Hồng Kông là thị trường trung gian nhiều hơn, mặt khác vị trí địa lý không quá cách xa. Cách thâm nhập vào thị trường này là liên doanh, liên kết với các doanh nghiệp Trung Quốc lục địa, các doanh nghiệp Hồng Kông để tiến hành sản xuất,chế biến, bảo quản và tiêu thụ rau tại Hồng Kông. Hơn nữa đây là thị trường tự do, không thuế quan , do đó sức mạnh cạnh tranh là phương tiện chủ yếu để hàng hoá có thể xâm nhập và tiêu thụ được trên thị trường này
.
2.2.2.3 Thị trường Nhật Bản
Đối với Việt Nam ,Nhật Bản vẫn là một thị trường chủ yếu.Mặc dù đây là một thị trường “khó tính” đặc biệt là các tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm, chất lượng và mẫu mã, nhưng Việt Nam vẫn có thể xuất khẩu sang thị trường này các sản phẩm: cải bắp,dưa chuột, khoai tây, đậu quả các loại, măng tây, măng ta, cà chua, nấm,hạt tiêu, ớt, gừng,nghệ, tỏi. Hiện nay tuy Nhật Bản nhập rau của ta chưa nhiều (năm 1999 là 9,31trUSD, 10 tháng đầu năm 2000 là 8,9tr USD và cả năm là 9,7tr USD nhưng đây vẫn là thị trường tiềm năng lớn của ta. Hàng năm Nhật Bản tiêu dùng khoảng 16 triệu tấn rau quả ,nhập khẩu khoảng 602000 tấn chủ yếu từ Mỹ, Austalia, Nam Phi, Thái Lan năm 1998 Nhật Bản nhập khẩu rau quả tươi tới 1298,6tr USD. Người Nhật Bản thích ăn rau quả trong nước sản xuất và giá thường cao hơn từ 2-3 lần giá rau nhập khẩu.Vào những thời kì giáp hạt giá rau ở Nhạt Bản rất cao. Dù vậy nếu biết khai thác triệt để các sản phẩm rau quả nhiệt đới Việt Nam có thể đạt kim ngạch lên tới 100-150trUSD/năm, tương đương với số lượng xuất khẩu của Thái Lan vào thị trường này.
Vấn đề quan trọng đối với các doanh nghiệp làm nhiệm vụ xuất khẩu rau quả của Việt Nam là cách tiếp cận thị trường “khó tính” này như thế nào. Điều mà các doanh nghiệp cần quan tâm thực hiện là:
- Các doanh nghiệp Việt Nam phải mở rộng công tác tiếp thị, xúc tiến thương mại để cho khách hàng Nhật Bản yên tâm với các sản phẩm rau quả của Việt Nam đang lưu thông trên thị trường : đây là những sản phẩm đã qua công tác kiểm dịch theo luật an toàn thực vật và vệ sinh thực phẩm của Nhật Bản, vì thói quen ăn uống của người Nhật Bản là ăn các sản phẩm rau quả tươi. Để tiếp cận thị trường một cách toàn diện các doanh nghiệp Việt Nam nên mở các công ty con hoặc các văn phòng đại diện tại Nhật Bản.
- Các doanh nghiệp khi muốn thâm nhập vào thị trường Nhật Bản cũng như các thị trường khác cần nắm vững chính sách thuế và phi thuế. Đặc biệt với thị trường Nhật Bản cần quan tâm nhiều đến luật an toàn thực phẩm vàvệ sinh thực phẩm.
- Khi các doanh nghiệp Việt Nam kí kết hợp đồng với các doanh nghiệp bán lẻ, các siêu thị phải xây dựng mối quan hệ bạn hàng tốt đẹp. Các doanh nghiệp Việt Nam nên cung ứng rau quả của mình cho các công ty xí nghiệp chế biến, vì các tổ chức này quan tâm nhiều đến yếu tố giá thành, giá rẻ họ dễ chấp nhận hơn là nguồn gốc suất xứ của các loại rau quả nhập khẩu này.
- Các doanh nghiệp phải nâng sức cạnh tranh của các sản phẩm chào bán bằng cách nâng cao độ an toàn của rau quả: hạn chế sử dụng các chế phẩm hoá học trong bảo vệ thực vật và bảo quản chế biến, nếu có, tất cả phải nằm dưới ngưỡng cho phép. Điều mà các doanh nghiệp Việt Nam cần chú ý là nên lựa chọn thời điểm giao hàng thích hợp, như rau quả trái vụ-giáp vụ rau quả của Nhật Bản. Lúc này các sản phẩm sẽ có giá trị bán cao hơn rât nhiều.
- Một hình thức có tính khả thi cao là các doanh nghiệp Việt Nam nên tìm các đối tác của Nhật Bản để tiến hành sản xuất, bảo quản, chế biến từ hạt giống và các quy trình sản xuất, chế biến, bảo quản theo các công nghệ của Nhật Bản để phù hợp vốithí quen, tập quán ăn uống của người Nhật Bản .
- Một điều quan trọng không thể bỏ qua đó là khâu bao bì đóng gói sản phẩm. Các doanh nghiệp khi xuất sang Nhật Bản cần đóng gói sản phẩm của mình với cùng một kích thước, chất liệu và kiểu dáng bao bì giống nhau. Bộ nông lâm ngư nghiệp Nhật Bản đã đưa ra tiêu chuẩn 26 mặt hàng để việc phân phối hàng hoácó hiệu quả. Khi xếp hàng vào bao bì không nên để có khoảng trống, tránh sự va chạm trong quá trình vận chuyển, bốc dỡ làm hư hỏng sản phẩm.
* Chính sách thuế và phi thuế quan
Hệ thống thuế quan của Nhật Bản tương đối phức tạp bao gồm nhiều loại thuế suất khác nhau. Thuế MNF của Nhật Bản thường thương cao hơn thuế phổ thông 3-5%,thuế GSP khá thấp thường dưới 5%hoạc khôngcó nhưng chỉ áp dụng với một số ít mặt hàng.Nhật Bản áp dụng thuế MNF nhập khẩu bình quân đối với rau quả từ 5-20%. Hệ thống phi thuế quan của Nhật Bản cũng rất chặt chẽ, chủ yếu là các quy định về tiêu chuẩn chất lượng và vệ sinh kiểm dịch. Đối với mặt hàng rau, quả được áp dụng theo các biện pháp sau:
- Giấy phép và hạn ngạch nhập khẩu: những mặt hàng nhập khẩu theo hạn ngạch nếu đáp ứng được các yêu cầu cần thiết sẽ được cấp giấy hạn ngạch có giá trị trong vòng 4 tháng. Ngoài ra, khi nhập khẩu phải xin thêm giấy phép nhập khẩu tại một ngân hàng ngoại thương được chỉ định.
- Hàng rau quả muốn nhập khẩu vào Nhật Bản phải được cấp giấy chứng nhận chất lượng theo các tiêu chuẩn của hệ thống JAS và cứng nhận của cơ quan về bảo vệ sinh thái(Ecomark). Các giấy chứng nhận này phải do các phòng thí nghiệm của Nhật Bản cấp hoặc nếu cơ quan kiểm định nước khác cấp thì phải tuân thủ các quy trình kiểm định sản phẩm của Nhật Bản. Những thủ tục giấy phép này nhìn chung thường tốn kém và mất nhiều thời gian ảnh hưởng đến thời hạn giao hàng.
- Rau quả tươi sống vào thị trường Nhật Bản còn phải tuân thủ luật Bảo vệ cây trồng và luật Vệ sinh thực phẩm.Thời gian làm thủ tục nhập khẩu các hàng rau quả tươi sống thường lâu dài và không rõ ràng. Theo đánh giá của nhiều chuyên gia, các tiêu chuẩn của Nhật Bản về độ phân giải thuốc trừ sâu trong rau quả tươi, phụ gia thực phẩm,dư lượng thuốc trừ sâu… thường rất cao, thậm chí cao hơn cả EU, Hoa Kì và các tiêu chuẩn quốc tế.
2.2.2.4 Thị trường Đài Loan.
Đài Loan là thị trường nhiều tiềm năng với thị hiếu đa dạng,không đòi hỏi cao về chất lượng và là thị trường trung gian cho rất nhiều loại sản phẩm trước khi chuyển sang nước thứ ba như thị trường châu Âu, Mĩ, Đông Á.Tuy nhiên Đài Loan không phải là thị trường dễ thâm nhập do vùng lãnh thổ này chủ trương duy trì các tập quán thị trường trong nước và buôn bán với các bạn hàng truyền thống.Mặt khác Đài Loan chủ yếu áp dụng hạn ngạch và giấy phép, nước này thưcj hiện chính sách phân biệt trong nhập khẩu, từ nhập khẩu từ một số nước nhất định. Điểm khó trong chính sách phi thuế của Đài Loan là các biện pháp hạn chế chỉ được quy định một cách chung chung mà không chi tiết hoá từng mặt hàng cụ thể như nhiều nước khác dẫn đến sự không minh bạch khi áp dụng. Tuy vậy trong thời gian tới Đài Loan vẫn là một trong những thị trường chính của Việt Nam. Mặt hàng rau gồm: Cải bắp, dưa chuột,khoai tây, đậu quả các loại, cà rốt, măng tây, măng ta,cà chua,nấm. Nhóm gia vị gồm: hạt tiêu, gừng, ớt, nghệ, giềng, tỏi. Lượng rau quả của Việt Nam xuất khẩu vào thị trường này thời gian qua cũng khá cao, năm 1999 là 11,9tr USD; 10 tháng đầu năm 2000 là 15,57tr USD.
Để thâm nhập và đi sâu mở rộng thị trường này :
- Các doanh nghiệp Việt Nam cần liên doanh với các doanh nghiệp nhập khẩu Đài Loan để tiến hành sản xuất bảo quản chế biến và tiêu thụ trên thị trường Đài Loan .
- Các tuỳ viên thương mại, các cơ quan nghiên cứu về thị trường như phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam cần cung cấp các thông tin về thị trường, về các doanh nghiệp nhập khẩu rau quả của Đài Loan để các doanh nghiệp Việt Nam nghiên cứu,chọn lựa các đối tác phù hợp với mình để tiến hành kinh doanh.
Các doanh nghiệp Việt Nam cần phải tích cực tham gia các hội chợ, triển lãm quốc tế tại Đài Loan, nghiên cứu kỹ nhu cầu thị hiếu và văn hoá ảm thực của họ để kinh doanh đúng hướng. Nhanh chóng tiếp cận, mở rộng công tác tiếp thị xúc tiến thương mại và tìm đối tác kiên doanh, liên kết.
2.2.2.5- Thị trường khối ASEAN.
Việt Nam là thành viên của khối này, nhất là hiện nay khi hiệp định AFTA có hiệu lực vào năm 2006 việc mở rộng quan hệ buôn bán giữa các nước thành viên sẽ rất thuận lợi. Mỗi nước trong khối đều có thể phát huy được các lợi thế của mình để thúc đẩy mạnh xuất khẩu sang thị trường của nhau.
Những năm qua các nước thuộc khối ASEAN nhập khá lớn rau quả của Việt Nam. Cơ cấu chủng loại rau quả nhập của các nước thuộc khối này có nhiều điểm tương đồng, tuy vậy cũng có những điểm khác nhau nhất định về chủng loại, chất lượng, giá cả, thời vụ thu hoạch… nên vẫn có thể khai thác thị trường của nhau. Thị trường này sẽ còn mở rộng hơn đối với Việt Nam khi hiệp định AFTA có hiệu lực, có thể tăng kim ngạch xuất khẩu lên gấp đôi trong những năm tới nếu chúng ta làm tốt công tác tiếp thị và xúc tiến thương mại.
2.2.2.5.1Thị trường Singapore
Trong khối thị trường ASEAN , thị trường có ý nghĩa quan trọng nhất đối với rau quả Việt Nam là thị trường Singapore. Đây là quốc đảo ít dân nhưng có lợi thế to lớn về điều kiện tự nhiên là nơi ra vào của thuyền bè thế giới, bốc xếp, lưu chuyển hàng hoá ra thế giới vì vậy mà Singapore từ lâu luôn là địa bàn xuât-nhập khẩu trung chuyển hàng hoá quan trọng của Việt Nam.
* Đặc điểm thị trường:
Hàng năm Singapore nhập 1,2-1,35 triệu tấn rau, quả các loại với giá trị khoảng550-600 triệu USD.Trong đó rau quả tươi chiếm khoảng 80%, rau quả khô và chế biến chiếm khoảng 20%.Hàng năm sản xuất trong nưóa chỉ đáp ứng được khoảng 15000-18000 tấn rau quả. Nhu cầu của người dân Singapre về chất lượng rau quả nhập khẩu rất cao với tập quán tiêu dùng rau quả tươi là chủ yếu. Đối với rau quả chế biến, sínapore nhập khẩu chủ yếu từ các nước có nền công nghiệp thực phẩm phát triển cao như Tây ÂU, Mĩ.. với chất lượng tin cậy và đảm bảo vệ sinh công nghiệp.
Singapore là thị trường có dung lượng trung bình, nguồn cung cấp rau quả tươi, khô và chế biến chủ yếu là nguồn nhập khẩu, mức tiêu dùng bình quân đầu người khá cao: 175-185 kg/năm.
Những năm qua nhu cầu tiêu thu jcác sản phẩm có nguồn gốc rau quả của người dân Singapore tăng lên nhanh chóng : năm 1997 mức tiêu dùng rau tươi là 72,8 kg/người và tăng lên 78kg/người vào năm 1999.Ngoài ra, một phần quan trọng làm nguyên liệu cho các xí nghiệp chế biến thực phẩm, nước giải khát phục vụ tiêu dùng nội địa và một phần để tái xuất khẩu.
Nhập khẩu rau quả của Singapore không chỉ để phục vụ cho 4 triệu dân trong nước mà còn đáp ứng cho khoảng 10 triệu lượt khach du lịch/năm và trên 120000 lượt tàu thuyền/năm qua lại các cảng của Singapore và cho cả những mục đích khác.
Các doanh nghiệp nhập khẩu rau quả của Việt Nam cần nắm hết những lợi thế phân biệt rõ tích chất của 2 kênh tiêu thụ mà hàng hoá xuất nhập khẩu của ta thông qua ở Singapore đó là: Kênh tiêu thụ nội địa ( gồm cả hàng hoá tái xuất khẩu ) và kênh trung chuyển, từ thị trường Singapore và thông qua kênh trung chuyển đưa rau quả của ta thâm nhập vào thị trường thế giới –thị trường mới-thị trường “ khó tính”.
Năm 2001 rau quả của Việt Nam xuất sang thị trường Singapore là 18tr USD theo kênh tiêu thụ nội địa, năm 2003 khoảng 25tr USD,rau quả của ta cần được cải thiện về mặt chất lượng, bao gói, bảo quản…,các doanh nghiệp xuất nhập khẩu cần hìng thành tốt mối quan hệ với bạn hàng ở Singapore để thâm nhập vào kênh trung chuyển.Ngoài ra các doanh nghiệp cần nắm vững các chính sách thuế và phi thuế của Singapore
* Chính sách thuế và phi thuế:
Từ năm 1985, Singapore đã ban hành luật Kinh doanh thực phẩm, quy định rõ thực phẩm tiêu thụ trên thị trường là hàng thật, nghiêm cấm mọi hình thức hàng giả, hàng nhái, hàng không có nhãn mác rõ ràng. Hàng tiêu thu jphải nghi rõ phẩm chất, các thành phần cấu thành và nếu có các thành phần phụ phẩm, các chất pha chế…phải nằm trong giới hạn được phép sử dụng.Nghiên cấm việc sử dụng nhãn mác gây sự nhầm lẫn cho người tiêu dùng. Mọi hàng hoá không đúng phẩm chất tiêu dùng cho phép đều phải tiêu huỷ, nếu vi phạm sẽ bị xử lí theo pháp luật.
Đối với thực phẩm, rau quả các dạng tự do nhập khẩu và tiêu thụ trên thị trường phải tuân thủ nghiêm ngặt các quy định của luật trên, nhà nhập khẩu phải chịu trách nhiệm về chất lượng hang hoá nhập khẩu và tiêu thụ trên thị trường.
Hàng rau quả nhập khẩu không bị hạn chế, chỉ chịu thêm thuế GST ( Good and Sevice Tax) là 3% trên giá CIF. Tuy nhiên, để bảo đảm cho việc quản lí chất lượng rau quả các dạng nhập khẩu và tiêu thu jtrên thị trường, chính phủ Singapore đã giao cho 2 cơ quan là Cục nguyên liệu cơ bản (Primery Production Deparment-PPD) nà Bộ môi trường (MOE).
PPD chịu trách nhiệm chính về kiểm soat chất lượng, xây dựng và ban hành các quy chế, chính sách tiêu thụ hàng thực phẩm nói chung trên thị trường và các biện pháp nhằm bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.
Cấp chứng chỉ chất lượng : trên thực tế, chính phủ Singapore coi việc cấp chứng chỉ của PPD cho việc buôn bán, cung cấp, tiêu thụ các sản phẩm thực phẩm, các sản phẩm có nguồn gốc rau quả nhằm kiểm soát chất lượng, giám sát tình hình vệ sinh, an toàn thực phẩm, bả đảm sực khoẻ cho người tiêu dùng và bảo vệ môi trường mà không coi đây là biện pháp phi thuế quan. Những loại chứng chỉ này bao gồm: Chứng chỉ cho các sản phẩm thịt gia cầm, thịt đông lạnh, cá, rau quả, thực phẩm chế biến, thuỷ hải sản.
Hình thức chưéng chỉ của loại chứng chỉ này là giấy hứng nhận về mặt chất lượng, vệ sinh thực phẩm, chứng nhận các cơ sở sản xuất rau đủ điều kiện để cung ứng vào thị trường Singapore và chỉ những cơ sở nào được cấp giấy chứng nhận này mới được nhập khẩu. Ngoài ra, các nhà nhập khẩu cũng muốn thông qua các cơ sở này chịu trchs nhiệm về chất lượng hàng nhập khẩu và tiêu thụ trên thị trường. Khi hàng hoá được nhập về, PPD kiểm tra lần cuối trước khi cho tiêu thụ ( kiểm tra mẫu, hoá chất, thuốc trừ sâu bệnh được phép sử dụng theo mức độ cho phép trong thực phẩm rau quả).
Các biện pháp của PPD được thực hiện thường xuyên và định kì về an toàn thực phẩm đối với hàng nhập khẩu và tiêu thụ bao gồm:
+) Đánh giá hệ thống, thực tiễn nơi sản xuất, chế biến ( trong và ngoài nước).
+) Kiểm nghiệm và cấp chứng chỉ cho các nhà sản xuất, chế biến ( trong và ngoài nước).
+) Gắn nhãn mác cho từng lô hàng để truy cứu nguồn gốc.
+) Kiểm tra chất lượng hàng nhập khẩu tại cửa khẩu.
+) Kiểm tra tại các nơi bán buôn, bán lẻ về điều kiện chất lượng, vệ sinh.
Các nhà xuất khẩu ở các nước muốn có giấy chứng nhận cung cấp sản phẩm các dạng, trong đó có mặt hàng rau quả vào thị trường Singapore phải được PPD đến khảo sát tại chỗ và cấp giấy chứng nhận trước khi xuất khẩu. Ngoài ra, nếu nhà cung cấp không cấp hàng liên tục trong 2 năm thì giấy chứng nhận cung cấp sẽ hết hiệu lực, muốn được cấp lại nhà cung cấp lại phải làm lại các bước tuần tự từ đầu.
2.2.2.5.2 Thị trường Malaysia
* Đặc điểm thị trường
Trong quá trình đánh giá phục hồi và phát triển kinh tế, chinh phủ Malaysia nhận thấy một số lĩnh vực trong ngành nông nghiệp chưa được phát triển, đặc biệt là lĩnh vực lương thực thực phẩm, rau quả. Do điều kiện khí hậu, đất đai nên phần lớn đất đai của Malaysia tập trung phần lớn trồng cây công nghiệp. Hàng năm Malaysia phải nhập khẩu với giá trị khá lớn khoảng 3-4 tỷ USD( khoảng 12 tỷ RM) trong đó giá trị nhập rau tới hàng trăm triệu mỗi năm phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng trong nước.Các doanh nghiệp Việt Nam cần thâm nhập sâu rộng vào thị trường này.
* Chính sách thuế và phi thuế
- Các doanh nghiệp được tự do nhập khẩu, không cần có giấy phép nhập khẩu.
- Malaysia không yêu cầu chặt chẽ về chất lượng, vệ sinh an toàn thực phẩm đối với mặt hàng rau quả nhập khẩu, chỉ đảm bảo theo những tiêu chuẩn nhất định.
2.2.2.6 Thị trường Australia.
Australia là nước có nền nông nghiệp rất phát triển, có công nghệ giống và chế biến rất tiên tiến nhưng vẫn có nhu cầu nhập khẩu rau quả. Thuận lợi lớn nhất cho các nước xuất khẩu rau quả vào thị trường Australia là nhiều loại rau quả không phải đóng thuế và những sản phẩm phải đóng thuế thì mức thuế không cao, cao nhất cũng chỉ 5%.
Tuy nhiên đây không hoàn toàn là thị trường “ dễ tính “ vì các loại sản phẩm nhập vào Australia lại chịu sự kiểm dịch rất khắt khe, nhất là những loại rau quả,mặt khác lại phải cạnh tranh với các mặt hàng chủng loại của Trung Quốc với giá rẻ hơn.Trong những năm qua Việt Nam dã xuất được một số mặt hàng rau quả sang Australia, năm 1999 đạt 918,4 ngàn USD, 10 tháng đầu năm 2000 đạt 1733,3 ngàn USD
Mặc dù có những khó khăn nhưng nếu có phương pháp tiếp cận, xúc tiến thương mại tốt, kết hợp chặt chẽ với cộng đồng người Việt Nam ở Australia từ khâu giống đén các công nghệ chế biến nhằm đáp ứng các yêu cầu về chủng loại, chất lượng kể cả bao bì đóng gói theo thói quen tiêu dùng của người Australia chắc chắn kim ngạch xuất khẩu sang thị trường này sẽ tăng lên.
* Chính sách thuế và phi thuế
Phần lớn các hàng hoá có nguồn gốc từ rau quả nhập khẩu vào Australia đều được miễn thuế. Australia không áp dụng quota để hạn chế hàng hoá nhập khẩu.. Ngoài ra nước này còn áp dụng các biện pháp phi thuế khác:
- Giấy phép: khá nhiều mặt hàng rau quả phải có giấy phép nhập khẩu.
- Tiêu chuẩn kĩ thuật:
+ Các yêu cầu về nhãn mác, bao bì:
Nhìn chung , các yêu cầu về nhãn mác bao bì hàng hoá của Australia cũng tương tự như các nước công nghiệp phat triển khác, nhung yêu cầu ngặt nghèo hơn nhiều việc tuân thủ các quy định này, không chấp nhận sai sót dù chỉ là một lỗi nhỏ.
Không chỉ chú trọng vào hàng hoá, cơ quan kiểm dịch của Australia còn quan tâm đến các bao bì làm bằng chất liệu gì bằng gỗ hay bằng bao đay, sợi.. nhằm đảm bảo an toàn về môi trường, không có mối mọt hoặc các mầm bệnh khác lan truyền.
+ Vệ sinh - kiểm dịch:
Các yêu càu vệ sinh - kiểm dịch rất chặt chẽ, đạc biệt là đối với các mặt hàng thực phẩm. Trên thực tế, các quy định về vệ sinh kiểm dịch đã hạn chế việc nhập khẩu hàng nông sản - thực phẩm vào Australia như quy định về phân tích rủi ro nhập khẩu(IRA – Import Risk Analyse ) với thời gian kiểm tra bất thường liên tục 18 tháng trong những trường hợp đặc biệt.
- Lệnh giữ hàng (Holding Order)
Ở Australia, lệnh giữ hàng thuộc cơ chế hành chính , lệnh này là một văn bản pháp lý được đặt ra để quản lý toàn bộ thực phẩm nhập vào Australia theo Luật quản lý thực phẩm năm 1992. Các tiêu chuẩn áp dụng để quản lý được ghi trong hệ thống thực phẩm Australia (được gọi tắt là FSC ). Cơ quan kiểm dịch của Australia thực hiện việc này và theo chương trình kiểm dịch kiểm tra thực phẩm nhập khẩu (gọi tắt là IFIP ).
Những nguyên nhân dẫn đến có Lệnh giữ hàng
+ Sau khi nhân viên IFIP kiểm tra và phân tích phat hiện ra lô hàng thực phẩm không đạt yêu cầu, họ chủ động lập biên bản giữ hàng và gửi lên Cơ quan trung tâm ( Canberra ) để phân tích và quyết định.
+ Do việc lấy mẫu vật bất kì nên nhiều thực phẩm nhập vào Australia không được kiểm định. Nhưng không phải vì thế mà dễ dàng hơn cho nhà nhập khẩu, vì tiếng nói cuối cùng của người tiêu dùng mới đóng vai trò quan trọng. Đối với những nhà nhập khẩu và những nhà sản xuất đã có những sai phạm về chất lượng thực phẩm nhập khẩu vào Australia thì các chuyến hàng tiếp sau của họ càng chú trọng, kiểm soát chặt chẽ hơn ít nhất là 5 chuyến hàng tiếp theo.
Có hai hình thức kiểm tra:
- Kiểm tra bằng cách lấy tỷ lệ mẫu cao: lấy 10% số hàng nhập theo nước xuất xứ.
- Kiểm tra theo kiểu lấy mẫu bất kì: lấy mẫu 5% số hàng nhập.
Lô hàng bị giữ phải chịu kiển tra 100%. Hàng đã bị giữ một lần, lần sau không được nhập vào Australia nữa . Nếu là lỗi nhỏ, lần đầu tiên thuộc về nhãn mác bao bì và đã được sửa chữa nghiêm chỉnh, lô hàng đó có thể tiếp tục được lưu thông trên thị trường. Nếu tái phạm lỗi cũ cũng sẽ phải chịu kiểm tra chặt chẽ trong 5 chuyến hàng tiếp theo.
2.2.3Thị trường Châu Âu
Từ Đông Âu ( cộng hoà Sec, Ba Lan…) đến Tây Âu ( Pháp, cộng hoà liên bang Đức, Hà Lan, Thụy Sỹ…) và Bắc Âu, (Đan Mạch, Phần Lan…) mặt hàng rau quả thông dụng là sản phẩm chế biến( nhất là các loại quả như: táo, lê, mận…đóng hộp và vải, nhãn… sấy khô). Với rau quả tươi trong những tháng mùa đông việc lưu thông và bán lẻ rất khắc nghiệt. Hiện nay tại thị trường Châu Âu rau quả tươi phần lớn nhập khẩu từ Châu Á, Châu Phi và Châu Mĩ La Tinh qua cảng Rotterdam của Hà Lan. Các công ty bán buôn rau quả tươi thường vận chuyển từ Hà Lan, Bỉ bằng các container chạỵ thẳng sang Đông âu bằng đường bộ. Xe chạy thông suốt đêm ngày xuyên các quốc gia trên dưới 2000km. Các container loại 20 feet và 40 feet thường giao hàng tại các điểm kho lớn theo khu vực. Từ đó rau quả tươi được giao đến các siêu thị quanh khu vực trong phạm vi bán kính 100-200km
. Các chủ hàng bán lẻ thường tự đem xe đến các kho lớn chon mua rau quả tươi về bán tại cửa hàng mình hoặc lưu động tại các chợ. Tại Cộng hoà liên bang Đức bán lẻ rau quả tươi thường dưới 3 hình thức: Quầy rau quả trong siêu thị, cửa hàng rau quả tại các phố và sạp rau quả tại các chợ ( họp trên các khu đất rộng đã quy định).
Dù là mùa đông khắc nghiệt vẫn đủ loại rau quả tươi nhập khẩu như :chuối,táo, nho, cải bắp, súp lơ, cà rốt, hành tỏi… và rau thìa là. Đặc điểm và yêu cầu từ kho bán buôn đến quầy bán lẻ sản phẩm này là luôn đảm bảo độ cần thiết. Nếu cửa hàng bán lẻ hoặc quầy trong siêu thị có đặt lò sưởi cho khách hàng cũng không thể để lò sưởi ảnh hưởng đến chất lượng rau quả. Chính vì vậy, rau quả tươi bán lẻ theo giá thay đổi rất nhanh. Giá bán lẻ ban đầu có khi gấp 2- 3 lần giá mua. Sau 2 ngày, giá bán chỉ còn ½ giá bán ban đầu, thậm chí phải bỏ đi vì quá trình vận chuyển, bán chậm nên rau quả bị dập nát như dưa chuột, tỏi củ… hành tây và nhất là xà lách, mùi tây, mùi tầu…Bao bì đóng gói cũng tuỳ loại:chuối nhập khẩu phải đựng trong các thùng cactông, dưa chuột được bọc từng quả bằng nilon mỏng trước khi đóng thùng. Nguồn hàng nhập khẩu rất đa dạng: các loại chuối, na, dưa chuột, bắp cải, xu hào ớt quả tươi( cay và không cay), nho, táo, nhãn, và vải quả… mang tên nhiều hãng buôn khác nhau của Bỉ, Hà Lan, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha… dưa hấu nhập khẩu từ Mỹ La Tinh.
2.2.3.1 Tại thị trường Tây và Bắc Âu
Là khối thị trường chung(EEC) thuộc các nước EU đang có quan hệ thương mại khá phát triển với nước ta, quan hệ này không ngừng được củng cố và ngày càng phát triển, gồm các nước Pháp, Anh, Đức, Italia, Thuỵ Sỹ…Hiện nay Việt Nam đã xuất khẩu vào 15 nước và lãnh thổ của khu vực này, năm 19999 đạt kim ngạch khoảng 30 triệu USD, năm 2000: 10,4 triệu USD.
* Thị trường Pháp
+ Đặc điểm thị trường
Pháp là thị trường có dung lượng lớn và tương đối ổn định, đặc biệt là trong những năm tới khi mà nền kinh tế Pháp vẫn đang phát triển thuận lợi.Tuy nhiên xuất khẩu của Việt Nam sang Pháp vẫn còn rất thấp so với tiềm năng.
Pháp là cường quác kinh tế đứng thứ tư về ._.ích cực và cơ bản tạo thị trường lớn và ổn định cho ngành nông nghiệp nói chung và ngành rau quả nói riêng. Khi giải quyết vấn đề này sẽ gặp phải vấn đề liên quan đến quan điểm về đầu tư cho phát triển nông nghiệp nông thôn.Đầu tư vào đâu và sử dụng nguồn vốn nào là chủ yếu không phải là những vấn đề dơn giản và dễ giải quyết. Việc đầu tư vào phát triển nông nghiệp nông thôn không có nghĩa chỉ là tăng đầu tư trực tiếp vào nông nghiệp mà cần chú trọng thoả đáng đến những đầu tư không trực tiếp vào nông nghiệp nông thôn nhưng có tác động trực tiếp đến phát triển nông nghiệp và nông thôn. Theo tinh thần đó công nghiệp chế biến nông sản và cụ thể là công nghiệp chế biến rau quả cần được ưu tiên đầu tư nhằm khắc phục những yếu kếm về trình độ công nghệ, năng lực thị trường, mở rộng quy mô. Trong việc hợp tác liên doanh với nước ngoài cần dành ưu đãi thoả đáng cho các dự án đầu tư vào sản xuất chế biến nông sản rau quả.
Về thị trường nước ngoài:
Cùng với việc mở rộng hợp tác liên doanh với nước ngoài, ưu đãi các dự án chế biến nông sản rau quả xuất khẩu và tăng cường công tác marketing quốc tế , cần đanh giá đúng thực chất lợi thế phát triển nông nghiệp để có định hướng thị trường và sản xuất phù hợp với nhu cầu thị trường. So với nhiều nước trong khu vực, tài nguyên sinh học đa dạng và nhân công dồi dào, giá nhân công rẻ không phải là lợi thế riêng có ở nước ta, mà cũng là lợi thế của một số nwcs trong khu vực, hơn nữa họ lại có điều kiện hơn nước ta trong việc khai thác các lợi thế ấy ( trình độ công nghệ cao hơn, vốn dồi dào hơn, có kinh nghiệm thị trường hơn).Để tham gia có hiệu quả vào thị trường quốc tế đòi hỏi chi phí sản xuất nông sản hàng hoá phải ngang bằng với những nước có điều kiện sinh học tương tự. Điều đó lại liên quan đến các giải pháp nâng cao năng suất ruộng đất, và năng suất lao động,đồng thời trong cơ cấu sản phẩm xuất khẩu, kể cả sản phẩm chế biến, phải tạo được những sản phẩm chủ lực có khả năng đáp ứng toàn diện nhu cầu cuả thị trường, trong đó chú trọng những thị trường có yêu cầu đặc biệt khắt khe như: Nhật Bản, Tây Âu và Bắc Mĩ. Chỉ có vậy mới có quyết tâm chiến lược với những bước đi thích hợp taạocho hàng nông sản rau quả nước ta có thể cạnh tranh trên thị trường khu vực và trên thế giới.
Như vậy chính sách thị trường tiêu thụ nông sản rau quả phải được quan niệm như một loại chính sách có tính tổng hợp liên quan đến nhiều loại chính sách cụ thể của phát triển nông nghiệp rau quả, công nghiệp chế biến và nâng cao sức mua của thị trường.
2.1.3 chính sách hỗ trợ và bảo hộ nông dân trong trao đổi hàng hoá.
Phát huy tính chủ động và tự chịu trách nhiệm của các chủ thể nông nghiệp trong các hoạt động trên thị trường là yêu cầu tất yếu, nhưng điều đó không có nghĩa là phó mặc cho họ tự xoay xở trên thị trường. Sự hỗ trợ và bảo hộ của nhà nước đối với nông dân phải được xác định như một tất yếu khách quan. Ngay cả những nước có nền kinh tế phát triển như Mĩ, Nhật, Pháp…,chính phủ vẫn có những chính sách hỗ trợ và bảo hộ nông dân trên thị trường.
Sự hỗ trợ và bảo hộ nông dân trong trao đổi hàng hoá trên thi jtrường bao gồm những nội dung cơ bản sau:
- Thiết lập tổ chức nghiên cứu dự báo thị trường nông sản rau quả, đặc biệt chú trọng những dự báo trung và dài hạn theo chu kỳ kinh doanh của các loaị cây con. Tổ chức này có trách nhiệm cung cấp những thông tin thị trường trong và ngoài nước để nông dân và các nhà kinh doanh nông sản có những quyết sách kinh doanh thích hợp,để chính phủ có cơ sở điều chỉnh chính sách kịp thời phù hợp với những biến động của tình hình thị trường.
- Trợ giúp nông dân và những người kinh doanh nông sản những kiến thức kĩ năng hoạt động trên thị trường. Khuyến khích mở rộng quan hệ liên kết giữa các hộ nông dân với các doanh nghiệp chế biến và các tổ chức thương mại thuộc các thành phần kinh tế trong sản xuất và lưu thông hàng hoá nông sản rau quả.
- Bảo hộ hàng hoá nông sản trên thị trường nội địa bằng hàng rào thuế quan và hạn chế nhập khẩu những loại nông sản rau quả tươi sống và chế biến trong nước có khả năng sản xuất là cần thiết. Cũng vưói cách đặt vấn đề tương tự, việc nhà nước hỗ trợ xuất khẩu nông sản hàng hóa bằng các chính sách thích ứng ( thuế quan, tín dụng ưu đãi,chính sách tỷ giá hối đoái…)cũng cần được đặt ra một cách phù hợp. Vấn đề quan trọng ở đây là xác định đúng mức độ bảo hộ và tiến trình giảm dần mức độ bảo hộ nhằm tạo ra các trợ lực ban đầu cho sự vươn lên, không gây ra sự ỷ lại vào sự bảo hộ của nhà nước.
- Thiết lập quỹ bảo hiểm nông sản hàng hoá, giúp nông dân đối phó với những bất trắc trong sản xuất kinh doanh và những biến động của thị trường. Quỹ này cfó thể do nguuuuươì nông dân trực tiếp tạo lậpvà quản lí, hoặc nhà nước thiết lập từ sự đóng góp tự nguyện của nông dân, cảu các tổ chức kinh doanh nông sản và tài trợ của ngân sách. Quỹ này được sử dụng để trợ giúp tài chính cho nông dân, bảo đảm cho họ có thêm năng lực tài chính để đối phó với biến động của môi trường kinh doanh, bảo đảm lợi ích kinh doanh.
- Phát huy vai trò chủ động của người sản xuất hàng hoá nông sản rau quả trong việc tự tổ chức thị trường tiêu thụ, khắc phục tư tưởng trông chờ ỷ lại vào nhà nước.
2.2 Chính sách đầu tư
Nhà nước cần có sự quản lí sử dụng vốn đầu tư hợp lí, có hiệu quả, tránh đầu tư dàn trải, phân tán gây lãng phí, thất thoát vốn đầu tư dẫn đến hiệu quả đầu tư thấp. Trong những năm tới nhà nước cần chú trọng những vấn đề sau để phát triển thị trường tiêu thị rau quả:
- Tiếp tục tăng năng suất, mở rộng diện tích trồng để tăng nguồn rau quả, tăng nhanh sản lượng rau quả hàng hoá, hình thành rộng rẵi thị trường hàng hoá ở nông thôn.
- Đầu tư cho công nghệ chế biến rau quả để cải thiện trình độ công nghệ, mở rộng tăng quy mô sản xuất chế biến rau quả đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng về rau quả chế biến trên thị trường trong nước và thế giới. Tạo diều kiện thoả đáng cho những dự án sản xuất chế biến rau quả có liên doanh với nước ngoài.
- Đầu tư cho công tác nghiên cứu khoa học thông qua Bộ nông nghiệp chỉ đạo xuống các viện nghiên cứu, đặc biệt phát triển các giống mới có năng xuất chất lượng cao cũng như nghiên cứu các biện pháp bảo vệ cây trồng.
- Đầu tư cho sản xuất chủ yếu do nông dân thực hiện để khuyến khích họ bỏ vốn đầu tư. Nhà nước cần có chính sách kinh tế hiệu quả, mở rộng thị trường giao lưu hàng hoá, phát triển các công trình thuỷ lợi tưới tiêu cho rau quả có hiệu quả cao, phòng chống bão lụt , quản lí nguồn nước, xây dựng các cơ sở hạ tầng phục vụ thương mại gồm: đường xá, hệ thống thông tin liên lạc, các chợ, trung tâm buôn bán hàng nông sản, kho tàng bến cảng, phương tiện vận tải chuyên dùng, hhệ thống vật chất kĩ thuật phục vụ công tác quản lí chất lượng rau quả.
- Triên khai tốt chương trình của chính phủ về phát triển rau quả theo quyết định số 182/1999/QĐ-TTg của thủ tướng chính phủ về việc phê duyệt đề án phát triển rau, hoa , quả cây cảnh thời kì 1999-2010 do bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn đảm nhận chính hay dự án phát triển thị trường tiêu thụ nông sản hàng hoá do phòng công nghiệp và thương mại chủ trì.
Việc đầu tư phải được thực hiện một cách đồng bộ, thực hiện triệt để phương châm phát huy nội lực là chủ yếu, động viên nhân dân tiết kiệm, bỏ vốn đầu tư phát triển kinh tế nông nghiệp đặc biệt là phát triển mô hình kinh tế trang trại có hiệu quả.
2.3 Chính sách tín dụng
Cho đến nay, tín dụng nông thôn vẫn là tín dụng ngắn hạnvà lượng vốn nhỏ.Hơn nữa, thủ tục cho vay của các ngân hàng tương đối phức tạp, sách nhiễu, kể cả các chương trình tín dụng xoá đói giảm nghèo. Người nông dân rất khó khăn trong việc tìm kiếm nguồn vốn để thực thi các kế hoạch sản xuất quy mô lớn và mang tính chất dài hạn (từ 5 năm trở lên). Người sản xuất cung rất cần sắm các thiết bị sơ chế nhằm bảo đảm chất lượng trong sản phẩm trong thời gian chờ được thu mua. Nhưng do hạn chế về vốn đầu tửan xuất nên khối lượng làm ra không thể có thu nhập đủ lớn để mua sắm những thiết bị đó. Những người thu mua đầu mối tiêu thụ đến vụ thu hoạch cũng rất cần một lượng vốn tương đối lớn để mua sản phẩm và thanh toán kịp thời cho người sản xuất. Nhưng với cơ chế tín dụng như hiện nay thì khó có thể đáp ững nhu cầu vay mấy trăm triệu đến hàng tỷ đồng ngay sau khi đề xuất yêu càu trong vòng vài ba ngày. Các hộ kinh doanh thường phải tích luỹ vốn tự có hoặc đi vay trước từ 15 ngày đến một tháng trước vụ thu hoạch đến và phải chịu một khoản chi phí lãi suất không nhỏ. Điều này đã khiến cho nhiều nhà thu mua nản chí hoặc chuyển sang thủ đoạn ép giá, chậm trễ thanh toán gây thiệt hại cho người sản xuất.
Cũng như mọi ngành khác việc trồng và chế biến rau quả, nhất là ra uquả xuất khẩu rất cần có sự “bảo hộ”ban đầu của nhà nước. Sự “bảo hộ”này được thể hiện ở việc nhà nước có chính sách cho hộ trồng rau quả trong vùngquy hoạch được vay vốn. Thời hạn cho vay dài hay ngắn tuỳ theo chu kì kinh doanh của từng loại rau quả. Với diện tích trồng cây ăn quả phối hợp với chương trình 5 triệu ha rừng, đây là các loại cây ăn quả dài ngày có tán che phủ như cây rừng, trồng xen kẽ với những ccây trồng trong rừng phòng hộ đầu nguồn xung yếu và rất xung yếu nên được tính là cây phòng hộ và được hưởng chính sách hỗ trợ 2,5 triệu đồng/ha theo quyết định số 661/1998/QĐ-TTg ngày 29/7/1998, tiền hỗ trợ lấy từ ngân sách trồng rừng phòng hộ.Với các cơ sở bảo qoản chế biến cần được vay vốn tín dụng đầu tư theo kế hoạch nhà nước sau khi dự án được cấp có thẩm quyền xét duyệt.
Để giải quyết các khó khăn về vốn cho nông dân, chính sách tín dụng cần được đơn giản hoá thủ tục, vốn cung cấp kịp thời cho người sản xuất và thu mua. Cụ thể là cần giảm bớt số lượng loại giấy tờ kiểm tra khi cho vay và tăng tỉ trọng vốn cho vay trung và dài hạn.
- Làm rõ cơ chế tín dụng của nhà nước nhằm thực hiện các thành phần kinh tế đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh trong đó có kinh doanh rau quả, hướng dẫn cụ thể để nông dân và các doanh nghiệp vừa và nhỏ tiếp cận các nguồn tín dụng thương mại, ưu tiên cho vay kinh doanh nông sản và vật tư nông nghiệp.
- Xúc tiến việc thành lập các quỹ : quỹ hỗ trợ đầu tư về nông nghiệp, quỹ bảo llãnh tín dụng cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ và quỹ bảo hiểm ngành hàng đối với một số loại hàng có kim ngạch xuất khẩu lớn gắn với các hiệp hội.
2.4 Hỗ trợ chế biến
Đến nay xuất khẩu rau quả của Việt Nam vẫn là rau quả tươi và sơ chế, vì vậy để nâng cao chất lượng và giá trị rau quả xuất khẩu Việt Nam đã coi ngành công nghiệp chế biến nông sản là ngành kinh tế mũi nhọn, nhưng vốn đầư tư và quy mô hoạt động vẫn chưa tương xứng với vị trí đó. Cần thực hiện các biện pháp hỗ trợ chế biến nông sản theo hướng:
- Ngoài việc thực hiện tốt chính sách tín dụng, chính sách đầu tư thì thuế và chính sach thuế phải được điều chỉnh: thuế lợi tức và thuế nhập khẩu cần áp dụng chế độ miễn giảm ưu đãi đối với các doanh nghiệp chế biến nông sản nhất là đối với những doanh nghiệp mới thành lập hoặc nhập khẩu máy móc thiết bị trong nước chưa có khả năng chế tạo hoặc nhập khẩu đầu vào: phân bón, giống cây trồng.Áp dụng mức thuế VAT ở mức 0% để khuyến khích xuất khẩu,đánh thuế những mặt hàng rau quả nhập nội cung như không cho phép nhập những laoi jrau quả mà trong nước đã có và đang chú trọng phát triển...
- Nhanh chóng hiệp hội tổ chức kinh doanh rau quả để giúp các đơn vị nắm bắt thông tin, cạnh tranh hiệu quả cả ở trong và ngoài nước.
- Đổi mới đào tạo lại đội ngũ cán bộ quản lí chuyên môn kĩ thuật và công nhân lành nghề cho các doanh nghiệp hteo phương thức vừa học vừa làm hoặc cử đi học tại các cơ sở đào tạo.
2.5 Phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng nông thôn:
Mạng lưới giao thông ( đường vá, cầu ) trong khu vực nông thon nước ta phần lớn còn mang tính chắp vá, mới chỉ giải quyết nhu cầu tạm thời trước mắt, chưa đáp ứng được yêu cầu sản xuất hàng hoá lớn trong nông nghiệp.Đường nông thôn Việt Nam phổ biến có chiều rộng từ 2,5m đến 4m phần lớn bằng đất đá hoặc trải sỏi trên bề mặt nên chỉ sau vài mùa mưa lớn lại hư hỏng nặng, khó khăn đối với việc đi lại của nhân dân. Vì vậy, phần lớn sản phẩm làm ra của nông dân đều được đưa đến nơi tiêu thụ hoặc tập kết để tiêu thụ bằng các phương tiện thô sơ như xe đạp, xe công nông hoặc xuồng nhỏ (đối với vùng sông nước) khó đảm bảo chất lượng nông sản, nhất là rau quả tươi sống, gây tốn kém chi phí cho người sản xuất. Nhiều trường hợp sau khi tính toán và so sánh giữa giá bán với chi phí sản xuất cộng với chi phí vận chuyển thấy lỗ vốn, các hộ đành để các lô cà chua, mận, vải…bị hỏng, bỏ đi rồi thu hẹp quy mô sản xuất ở vụ sau. Để khắc phục tình trạng trên mạng lưới giao thông nông thôn cần tăng dần tỉ trọng đường kiên cố có mặt đường rộng hơn ( từ 4 → 6m ) với chất lượng kết cấu cao hơn, đặc biệt là các tuyến đường nối từ đường quốc lộ các đầu mối tập kết và đến các vùng sản xuất quy mô lớn.
Cải thiện giao thông nông thôn nên thực hiện theo các phương thức:
Hợp tác nhà nước và tư nhân cùng làm, nhất là các tuyến đường nội bộ trong các xã thông qua hình thức các hộ nông dân đóng góp một phần kinh phí hoặc tham gia lao động trực tiếp; mở các cuộc tuyên truyền vận động chương trình tín dụng xây dựng giao thông nông thôn thông qua các ngân hàng ở địa phương. Vốn được giao cho đơn vị chuyên môn thực hiện đầu tư dưới sự giám sát và quản lý chặt chẽ của chính quyền và hội nông dân địa phương; Xây dựng quy hoạch và kế hoạch cụ thể để thu hút các nguồn vốn tài trợ dưới hình thức ODA hoặc vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Cùng với việc nâng cấp xây dựng hệ thống giao thông, vấn đề kho tạm giữ sản phẩm vào vụ thu hoạch tập trung cũng đang rất cần được giải quyết. Đối với những sản phẩm có thể lữu trữ từ 3- 4 ngày trở lên, sau khi thu hoạch nên đưa sản phẩm tập kết vào các kho với điều kiện đảm bảo vệ sinh. Muốn bảo đảm việc cất trữ trước khi đưa đi tiêu thụ ở các thanhhf phố lớn hay địa phương khác, hoặc đưa đến nơi chế biến xuất khẩu, nhà nước cần có các biện pháp trợ giúp như đứng ra bao tiêu sản phẩm, hỗ trợ vốn cho các đầu mối tiêu thụ, tránh hiện tượng ép giá vào mùa thu hoạch. Hệ thống kho tạm lưu trữ rất phù hợp và cần thiết đối với những vùng chuyên canh, có quy mô sản xuất lớn. Vốn xây dựng cơ sở kho nên được phối hợp từ ngân sách và các mối tiêu thụ, ngoài ra có thể vận động người sản xuất đóng góp thêm.
Bên cạnh đó mạng lưới điện nông thôn đang ở trong tình trạng nguy hiểm, hệ thống cột, dây biến áp không đúng quy cách, lắp đặt không theo hệ thống đồng bộ, không đảm bảo an toàn ổn định cho nhu cầu sử dụng diện trong sinh hoạt và sản xuất của nông đân. Hiện nay vốn đầu tư cho điện ở nông thôn phổ biến vẫn theo phương thức nhà nước và nhân dân cùng làm. Do chưa được quản lý, sử dụng tốt nên thường xảy ra tình trạng chất lượng công trình rất thấp so với kế hoạch. Cần tăng cường điện nông thôn dưới sự phối hợp chặt chẽ giữa chính quyền địa phương, hội nông dân, đồng thời trong quá trình triển khai xây dựng cần có sự giám sát hướng dẫn của cán bộ kỹ thuật chuyên môn về điện để tránh tình trạng lãng phí khi mua sắm lắp đặt thiết bị không đúng quy cách.
3- Công tác marketing đối với hàng hoá nông sản rau quả và việc đẩy mạnh phát triển thương hiệu rau quả.
Cho đến nay hàng nông sản ở nước ta chủ yếu được tiêu thụ dựa trên những quan hệ vốn đã có từ xưa ( với những sản phẩm truyền thống như: nhãn lồng Hưng yên, xoài Nha Trang, dừa Bến Tre…), các hoạt động marketing để trợ giúp việc tiêu thụ sản phẩm rau quả hầu như chưa được quan tâm đầu tư. Số đông người sản xuất, dù với khối lượng sản phẩm lớn đều thiếu thông tin thị trườngnên thường xảy ra tình trạng “ sản xuất theo phong trào “. Chính vì vậy, không ít hộ nông dân đã phải gánh chịu hậu quả là sản phẩm làm ra không biết bán cho ai, bán rẻ như cho đành quay về với cây lúa là chủ đạokết hợp với ngô, khoai, sắn. Để rau quả của ta có điều kiện cạnh tranh trên thị trường, nhằm khai thác có hiệu quả lợi thế vốn có của Việt Nam về đất đai, khí hậu, công tác marketing cần đặc biệt lưu ý những vấn đề sau: mỗi địa phương( từ cấp xã trở lên đối với nhữngvùng chuyên canh sản xuất lớn ) cần tổ chức một nhóm cán bộ marketing đã qua đào tạo hoặc bồi dưỡng kiến thức chuyên môn hoá một cách bài bản, nhóm cán bộ này sẽ làm nhiệm vụ tìm hiểu, nghiên cứu thị trường để cung cấp thông tin và tư vấn cho người sản xuất điều chỉnh cơ cấu cây trồng sao cho có lợi nhất. Đồng thời họ cũng là cầu nối cung cấp thông tin về tình hínhản xuất, chất lượng sản phẩm đến các đầu mối tiêu thụ sao cho khi có sản phẩm thì người sản xuất và khách hàng tiêu thụ nhanh chóng gặp gỡ nhau, tiêu thụ sản phẩm kịp thời. Chính quyền, Hội nông dân địa phương cùng phối hợp với các cơ quan nhà nước như Bộ Thương Mại, Bộ Nông Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn nên tổ chức các cuộc thi, triển lãm giới thiệu sản phẩm nông nghiệp hàng năm của các vùng trong nước. Khuyến khích các phương tiện thông tin đại chúng như đài phát thanh truyền hình trung ương và địa phương, các tờ báo phổ thông dành những góc quảng cáo giới thiệu sản phẩm của người nông dân. Khi đó nông sản rau quả rất cần có thương hiệu của mình để sản phẩm rau quả của họ gần gũi với người tiêu dùng, tạo niềm tin cậyan toàn để tiêu thụ nhanh trong một khoảng thời gian tương đối ngắn. Vì vậy phát triển thương hiệu là nội dung quan trọng trong biện pháp tiêu thụ rau quả. Dưới đây là các giải pháp phát triển thương hiệu cho rau quả:
Một là: Xây dựng thương hiệu: hiểu một cách rộng rãi là toàn bộ các hoạt động nhằm tạo ra các hình ảnh quen thuộc, sự nhận biết này được hình thành từ 3 nhân tố chủ chốt: Nhãn hiệu, xúc tiến thương mại, giữ gìn chất lượngđộc đáo.
- Xây dựng nhãn hiệu rau quả tươi: Khác biệt bởi đại đa số sản phẩm tươi đều không đóng bao bì nên việc xây dựng nhãn hiệu chủ yếu nhằm vào nhãn hiệu công ty. Tuy nhiên, nhãn hiệu công ty không thể “nói” với người tiêu dùng nhiều như là nhãn hiệu sản phẩm, do đó người ta cần dùng đến nhiều công cụ hỗ trợ khác. Từ năm 2000 Organrnics vào Việt Nam và kí hợp đồng với nông dân huyện Từ Liêm xây dựng cánh đồng rau, củ hưu cơ. Nhằm tạo sự cảm nhận an toàn về rau củ trồng theo phương pháp hữu cơ, công ty đã thiết kế nhãn hiệu công ty mình là một chùm 3 lá màu trắng trong hình tròn màu xanh mạ. Nhưng sau một thời gian tung hàng ra thị trường, nhãn hiệu Organrnics vẫn chua gây được sự chú nào với người tiêu dùng và sản lượng tiêu thụ vẫn không tăng đáng kể. Công ty mở cuộc điều tra và biết được rằng trên 78% không hiểu 3 lá màu trắng có ý nghĩa gì, số còn lại suy luận rằng đó là rau sạch. Ở một câu hỏi khác 90% cho rằng ở Việt Nam, cảm nhận về sự an toàn hợp vệ sinh là màu xanh, màu đỏ hoặc màu da cam là nguy hiểm, còn màu trắng là trung tính ( không gợi lên suy luận nào nếu như không được hỏi ). Từ đó công ty mở chiến dịchtuyên truyền về nhãn hiệu công ty bằng cách gửi các Cactalo đến các đối tượng là khách sạn, nhà hàng, trường học bán trú, các công ty có tổ chức ăn ca …Trong đó giải thích biểu tượng 3 chiếc lá màu trắng tượng trưng cho 3 không của rau hữu cơ: Không dùng phân bón hoá học, không phun thuốc trừ sâu, không dùng nguồn nước ô nhiễm ( nước sông có chứa nước thải từ các nhà máy công nghiệp ) Tiếp đó công ty lại mở cuộc thi tìm hiểu về khái niệm rau hữu cơ, cũng nhằm các đối tượng kể trên. Lần này thì 100% số người dự thi đã phân biệt được rau hữu cơ ưu việt hơn rau sạch ở điểm nào và đã cảm nhận được sự an toàn tuyệt đối từ 3 chiếc lá mau trắng. Từ đó ở các địa điểm bán rau, hay trên xe lạnh chuyên chở rau củ của Organrnics bên cạnh 3 chiếc lá màu trắng bên trong vòng tròn màu xanh mạ còn những dòng giải thích “ 3 không”. Kết quả là lượng rau củ bán trung bình một ngày của 10 tháng đầu năm 2003 gấp 5,6 lần năm 2001. Điều có thể rút ra là công ty thường mờ hơn nhãn hiệu sản phẩm, vì nhãn hiệu sáp thường được gắn lên sản phẩm có bao bì do đó bên cạnh nhãn hiệu nhà sản xuấtcó thể dùng chữ để làm “ sáng tỏ “ nhãn hiệu chẳng hạn nhãn hiệu A+ của hãng sữa Abbot ( Hoa Kỳ). Tuy nhiên, việc làm sáng tỏ nhãn hiệu, kể cả nhãn hiệu công ty ( thường được áp dụng cho nông sản tươi không đóng bao bì ) có rất nhiều con đường mà cách làm kể trên của Organrnics chỉ là một ví dụ.
- Xúc tiến thương mại: Với nông sản rau quả tươi cũng rất khác biệt với hàng công nghiệp. Có một điểm người tiêu dùng rất quan tâm mà nhà sản xuấtnông sản tươi cần nhằm đến: Độ an toàn vệ sinh thực phẩm. Ở điểm này, các nhà sản xuất có thể tham khảo kinh nghiệm của Jitech. Giữa năm 2003, Jitech đã mời một số khách hàng tiềm năng đi thăm “điểm trình diễn” sản xuất rau, củ tại Đông Anh (Hà Nội). Mấu chốtcủa cuộc thăm quan la Jitech đã hé mở cho mọi người thấy: Tất cả các hộ sản xuất muốn kí hợp đồng bao tiêu sản phẩm với Jitech phải có sổ ghi nhật kí sản xuất, thí dụ như lần cuối cùng phun thuốc trừ sâu trước khi thu hoạch ( tối thiểu cách 20 ngày) phải giữ hoá đơn mua và bỏ bao thuốc trừ sâu (để kiểm tra xem thành phần của thuốc có nằm trong danh mục cấm sử dụng không). Đồng thời, mỗi hộ sản xuất được cấp một mã số để dễ dàng truy nguòn gốc nếu xảy ra vụ việc gì. Cuối cùng Jitech đã công bố đã mua bảo hiểm trách nhiệm mỗi một năm lên tới 960tr đồng, số tiền đền bù cho một vụ ngộ độc là 10tr đồng. Những hoạt động trên là nằm trong chiến lược xúc tiến thương mại, quảng bá cho nhãn hiệu Jitech. Tất nhiên còn nhiều cách quảng bá khác như mời du khách tham quan quy trình lên men tự nhiên của “vang Đà Lạt” hoặc kết hợp với công ty du lịch để đưa khách tới thăm vườn cây ăn trái ở tỉnh Vĩnh Long…
- Giữ gìn chất lượng độc đáo: Chúng ta có một số nông phẩm rau quả đặc sản do cac yếu tố khí hậu thổ nhưỡng bồi đắp nên có thể kể Bưởi năm roi, xoài Cát Lộc, cam Vinh, quýt Hà Giang, thanh long Bình Thuận, vú sữa Chợ Gạo (Vĩnh Long)… Để biến chúng thành những nhãn hiệu nổi tiếng, ngoài việc xây dựng nhãn hiệu, tăng cường xúc tiến thương mại còn phải có kế hoạch giữ gìn chất lượng độc đáo nói cách khác là phải giữ gìn nguyên trạng giống, thổ nhưỡng và quy trình sản xuất ( thí dụ với cây ăn trái phải trồng theo phương pháp cổ truyền là ươm từ hạt, tránh ghép, lai cành, không dùng phân bón hoá học, thuốc kích thích tăng trưởng hoặc các biện pháp kích thích vật lí.
Hai là: Hỗ trợ phát triển thương hiệu quốc gia
Thương hiệu quốc gia ( hay còn gọi là nhãn sản phẩm quôc gia) là nhãn hiệu dùng cho sản phẩm của 1 nước, thường do tổ chức xúc tiến thương mại của nước đó chủ trì phát hành, nhằm quảng bá hình ảnh quốc gia thông qua sản phẩm hàng hoá và dịch vụ. Về bản chất đây là một “ nhãn hiệu chứng nhận”(Certification trade mark).
Khách hàng khi đến Việt Nam thường than phiền rằng họ muốn mua hàng nhưng không biết lựa chọn thế nào giữa một rừng các sản phẩm đề của Việt Nam, các mặt hàng đều đẹp, ngon, phong phú đa dạng nhưng hầu hết không có nhãn mác gắn với thương hiệu nào cả. Đây là một trong những trở ngại làm giảm tính hấp dẫn của sản phẩm Việt Nam, nhiều sản phẩm nông sản rau quả của ta có chất lượng và uy tín rất cao trên thị trường thế giới như thanh long Bình Thuận, cam Vinh…được các chuyên gia đánh giá rất cao, không thua kém chất lượng nhưng giá bán luôn bị thấp. Đó không hẳn là do sự yếu kém của công nghiệp chế biến trong nước hay do thế giới dư thừa. Do không có thương hiệu và thiếu quan tâm về vấn đề này nên các tên gọi trên thị trường bị các công ty nước ngoài sử dụng tên những sản phẩm không hề có xuất xứ tại Việt Nam. Do vậy: các doanh nghiệp cần xây dựng ấn tượng từ văn hoá Việt Nam: đó là kinh nghiệm xây dựng thương hiệu cà fê Trung Nguyên, dày dép Bitis…, nông sản rau quả Việt Nam không thiếu những truyền thuyết đẹp, li kì về trái cây: Câu chuyện An Tiêm “tiếp thị” trên đảo hoang ( dưa hấu), chuyện hiến lễ của hoàng tử Lang Liêu ( gạo nếp), hay câu chuyện bi thảm tại Lệ Chi Viên ( Trái vải)… Đất nướcta hào phóng cho ta rất nhiều loại nông sản ngon, lịch sử và truyền thuyết văn hoá thổi hồn vào cây trái, nên việc đưa nông sản rau quả Việt Nam vào thị trường thế giới dưới cái tên quen thuộc cùng với nét văn hoá của Việt Nam không phải là quá khó khăn.
- Các báo đài hỗ trợ mở chuyên mục riêng về xây dựng quảng bá và bảo vệ thương hiệu giúp doanh nghiệp. Đồng thời phê phán hàng nhái, hàng giả, cổ động hàng Việt Nam chất lượng cao… phân tích cho công chúng biết sản phẩm của doanh nghiệp trong nước không thua kém hàng ngoại mà giá lại rẻ hơn hàng ngoại.
- Nhà nước thực thi nghiêm minh, xử lý thích đáng nạn hàng lậu, hàng giả, hàng nhái thương hiệu, bởi vì không tạo dựng được thương hiệu nếu không chống được nạn hàng lậu, hàng giả, hàng nhái nhất là hàng kém chất lượng tràn ngập thị trường.
- Cục xúc tiến thương mại lựa chọn một số doanh nghiệp lớn trong ngành có khả năng cạnh tranh, có kim ngạch xuất khẩu từ 500.000USD/năm trở lên. Những doanh nghiệp được lựa chọn này sẽ được trợ giúp50% chi phí quảng cáo trên các phương tiện thông tin đại chúng và được ưu tiên trong bảo vệ thương hiệu, trong quá trình lựa chọn tài trợ tham gia các hội trợ trong nước và quốc tế, các chương trình xúc tiến thương mại trọng điểm quốc gia…Chương trình này sẽ được quảng bá rộng rãi thương hiệu tại triển lãm các nước ASEAN và Thế Giới.
Ba là: Đầu tư chiều sâu cho thương hiệu :
Xác định được chiến lược thương hiệu và bền bỉ đầu tư cho chiến lược này. Bởi vì nhãn hiệu hàng hoá là yếu tố đầu tiên đập vào mắt, là cầu nối tạo dựng thói quen giữa sản phẩm với người tiêu dùng, là giấy thông hành đi vào thị trường. Tuy nhiên để xây dựng thương hiệu cần hội đủ 3 yếu tố: môi trường truyền thông tiếp thị, nhận thức về thương hiệu và kế hoạch cho truyền thông tiếp thị. Cả 3 yếu tố này đều thiếu và yếu ở Việt Nam. Tuy nhiên không phải ra đời thương hiệu hay nhãn hiệu hàng hoá là doanh nghiệp có tất cả mà cùng với việc coi trọng nhãn hiệu, doanh nghiệp phải đa dạng hoá sản phẩm ổn định và nâng cao chất lượng hàng hoá, làm tốt việc tiếp thị nghiên cứu, hạ giá thành sản phẩm cũng như triển khai mạnh mạng lưới phân phối sao cho tiêu thụ nhanh nhất. Quá trình hình thành thương hiệu còn là quá trình đầu tư đổi mới thiết bị nhiều năm, làm ra các sản phẩm có giá trị được người tiêu dùng tín nhiệm.
Bốn là: Củng cố và bảo vệ thương hiệu :
Mặt hàng nào có khả năng tăng kim ngạch xuất khẩu, mặt hàng nào có lợi thế cạnh tranh sẽ tập trung đầu tư tạo cơ chế chính sách ưư đãi, chúng ta tìm mọi cách thúc đẩy mặt hàng đó, nhanh chóng đăng ký thương hiệu trên thế giới và có chính sách bảo vệ thương hiệu:
- Ở những thị trường mà việc phải dành lại thương hiệu không phù hợp với nhu cầu lắm và chi phí cho việc giành lại thương hiệu là rất tốn kém, chúng ta sẽ nhượng quyền sở hữu thương hiệu để có điều kiện ( chủ yếu là tài chính) bảo vệ thương hiệu ở những thị trường quan trọng hơn.
- Đối với các thị trường là các nước láng giềng hoặc thị trường có chỗ đứng, thị trường chính thì việc đăng kí nhãn hiệu ở nước ngoài là nhiệm vụ bắt buộc đối với tất cả các doanh nghiệp, nếu không từ đây các sản phẩm bị đánh cắp thương hiệu hàng nhái, hàng giả có thể tràn về Việt Nam nên dù tốn bao nhiêu tiền, công sức của các doanh nghiệp và nhà nước chúng ta cũng phải bằng mọi cách dành lại thương hiệu.
Nhà nước cũng cần coi thương hiệu là tài sản quốc gia. Như vậy, vì lợi ích lâu dài, doanh nghiệp cần có chiến lược xây dựng và bảo vệ, phát triển và quảng bá thương hiệu, nhất là trong bối cảnh :
- Trên thị trường trong nước, thời điểm hội nhập theo khuôn khổ AFTA(1/1/06) và tương lai là WTO đang ngày càng đến gần, cạnh tranh giữa các thương hiệu Việt Nam và thương hiệu nước ngoài sẽ ngày càng gay gắt, khốc liệt.
- Trên thị trường thế giới, cạnh tranh đang trở thành cuộc chiến giữa các thương hiệu chứ không đơn thuần chỉ là chiến tranh giữa giá cả và chất lượng. Chừng nào chưa xây dựng được thương hiệu thì đa số hàng Việt Nam trong đó có mặt hàng rau quả vẫn tiếp tục phải vào thị trường thế giới thông qua trung gian hoặc dưới dạng gia công cho các thương hiệu nổi tiếng nước ngoài. Do đó, việc thiếu quan tâm đầu tư vào thương hiệu - một tài sản vô hình của doanh nghiệp đi đôi với việc chưa định rõ tư tưỏng, kế hoạch mục tiêu và thiếu niềm tin vào giá trị gia tăng do thương hiệu tạo ra sẽ ảnh hưởng xấu tới sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp.
KẾT LUẬN
Nhu cầu tiêu dùng rau quả cho nội tiêu và xuất khẩu ngày một tăng. Việc sản xuất và chế biến rau quả và tiêu thụ chúng thật sự mang lại lợi ích kinh tế xã hội to lớn: đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của nhân dân, giải quyết công ăn việc làm, thu ngoại tệ về cho đất nước
Tuy vậy do những đặc điểm của rau quả Việt Nam về số lượng, chủng loại, chất lượng…và khả năng chế biến bảo quản hiện nay, việc tiêu thụ rau quả đòi hỏi tổ chức tốt, có hệ thống chính sách phát triển, thiết lập các kế hoạch sản xuất chế biến bảo quản, tiêu thụ đồng bộ thì mới mong đạt hiệu quả cao và đạtt được các mục tiêu đề ra.
Với những chính sách kinh tế mới của Đảng nhằm đẩy mạnh CNH-HĐH đất nước mà trước hết là trong nông nghiệp và nông thôn đã mở ra những triển vọng mới cho thị trường rau quả về nhiều mặt, đặc biệt là trong xu thế hiện nay – xu thế hội nhập( 1/1/2006 Việt Nam gia nhập AFTA và không lâu sau đó sẽ là WTO) sẽ làm thị trường rau quả Việt Nam sôi động hơn, tạo ra nhiều cơ hội và thách thức cho ngành và các công ty kinh doanh rau quả VIệt Nam
Mặc dù có rất nhiều cố gắng song do còn những hạn chế trong thu thập tài liệu, tầm nhìn và trình độ, trông quá trình viết đề tài “ Thực trang và giải pháp phát triển thị trường rau quả của VIệt Nam” em không thể tránh khỏi những thiếu sót, mong thầy thông cảm và góp ý hoàn thiện cho đề tài này.
Em xin cảm ơn thầy!
Tài Liệu Tham Khảo
Tạp chí Kinh tế và phát triển
Tạp chí Thương mại
Tạp chí nghiên cứu kinh tế
Tạp chí Nông nghiệp và phát triển nông thôn
Tạp chí Nghiên cứu lí luận
Tạp chí Thương nghiệp và thị trường Việt Nam
Tạp chí Thị trường giá cả
Báo Kinh tế Sài Gòn
Đề tài KC.06.10NN ( Nghiên cứu các giải pháp khoa học công nghệ và thị trường để phục vụ chương trình xuất khẩu rau và hoa)
Chương trình 10 triệu tấn quả đến năm 2010 của Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn
Đề tài “ Tổ chức và quản lí chất lượng rau ở các kênh tiêu thụ tại Hà Nội ” của SUSPER và MALICA, 17/06/03
Một số trang Web như:
www.mot.gov.vn Bộ thương mại Việt Nam
www.agroviet.gov.vn Bộ NN&PTNT
www.vcci.gov.vn Phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam
MỤC LỤC
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 33783.doc