BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP.HỒ CHÍ MINH
Lê Văn Lộc
Chuyên ngành : Địa lí học
Mã số : 60 31 95
LUẬN VĂN THẠC SĨ ĐỊA LÍ HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. PHẠM THỊ XUÂN THỌ
Thành phố Hồ Chí Minh - 2008
LỜI CẢM ƠN
Bằng tất cả tình cảm chân thành và lòng biết ơn sâu sắc, tôi xin gửi lời cảm
ơn đến TS.PHẠM THỊ XUÂN THỌ - người đã tận tụy hướng dẫn, chỉ bảo và động
viên tôi trong suốt quá trình nghiên cứu và hoàn thiện luận văn.
Tôi cũng xin trân trọng bà
149 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1494 | Lượt tải: 5
Tóm tắt tài liệu Thực trạng và định hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp tỉnh Đồng Tháp theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
y tỏ những tình cảm của mình tới Ban chủ nhiệm
khoa Địa lý cùng với các thầy cô trong khoa, Phòng Khoa học - Công nghệ và sau
Đại học của trường Đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh đã nhiệt tình giúp đỡ
tôi trong suốt quá trình học tập.
Tôi xin bày tỏ lòng tri ân đến UBND tỉnh Đồng Tháp, Sở Nông nghiệp và Phát
triển nông thôn, Sở Kế hoạch và Đầu tư, Chi cục Bảo vệ nguồn lợi Thủy sản và Cục
Thống kê tỉnh Đồng Tháp đã nhiệt tình cung cấp các tư liệu quý giá cho tôi hoàn thành
đề tài.
Tôi xin chân thành cảm ơn Ban Giám hiệu và quý đồng nghiệp trường
THPT Lấp Vò 2, trường THPT Thiên Hộ Dương tỉnh Đồng Tháp cùng các học viên
cao học chuyên ngành Địa lí học khoá 16 đã hết lòng động viên và giúp đỡ tôi hoàn
thành luận văn đúng thời gian qui định.
Cuối cùng xin gửi đến những người thân yêu nhất đã tạo điều kiện thuận lợi
cùng những lời động viên quý báu để bản thân có thêm nghị lực và quyết tâm trong
quá trình nghiên cứu và hoàn thành luận văn.
Tác giả luận văn
LÊ VĂN LỘC
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Đồng Tháp là tỉnh nằm ở ĐBSCL với thế mạnh chủ yếu là sản xuất nông
nghiệp. Trong thời gian qua, thực hiện nghị quyết 09/2000/NQ-CP của Chính phủ
về một số chủ trương và chính sách chuyển đổi cơ cấu kinh tế và tiêu thụ sản phẩm
nông nghiệp, sản xuất nông nghiệp tỉnh Đồng Tháp từng bước có sự chuyển dịch cơ
cấu theo hướng CNH, HĐH đáp ứng nhu cầu thị trường về chất lượng, tính đa dạng
của nông sản, đạt hiệu quả cao về mặt KT-XH và môi trường.
Đồng Tháp là tỉnh có nhiều tiềm năng phát triển nông nghiệp, nhưng việc
khai thác các lợi thế để phát triển nông nghiệp và tạo sự chuyển dịch cơ cấu nông
nghiệp chưa xứng với tiềm năng hiện có. Để góp phần thực hiện và thúc đẩy nhanh
quá trình chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp của tỉnh theo hướng sản xuất hàng hoá,
gắn liền với nhu cầu thị trường, từng bước phát triển nông nghiệp với qui mô lớn,
tập trung theo hướng CNH, HĐH; tạo ra sản phẩm với khối lượng lớn đảm bảo về
số lượng, chất lượng, hạ giá thành sản phẩm, đủ sức cạnh tranh trên thị trường, đáp
ứng được nhu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu trong xu thế hội nhập.
Nghiên cứu đánh giá sự chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp tỉnh để đưa ra các
giải pháp nhằm chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp theo hướng CNH, HĐH đạt hiệu
quả cao trong sản xuất, góp phần nâng cao đời sống KT-XH tỉnh Đồng Tháp. Trong
quá trình học sau đại học, chuyên ngành địa lý học tác giả luận văn luôn mong mỏi
tìm hiểu đóng góp sức mình vào việc nghiên cứu nhằm thúc đẩy sự phát triển KT-
XH tỉnh nhà, chính vì vậy tác giả chọn đề tài:
“Thực trạng và định hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp tỉnh
Đồng Tháp theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá” làm đề tài tốt nghiệp của
mình.
2. Mục đích đề tài
Tổng quan cơ sở lý luận cứu về cơ cấu kinh tế và chuyển dịch cơ cấu nông
nghiệp.
Nghiên cứu thực trạng chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp tỉnh Đồng Tháp
theo hướng CNH, HĐH.
Đưa ra những định hướng và các giải pháp cụ thể góp phần thực hiện sự
chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp của tỉnh nhằm đạt hiệu quả kinh tế cao.
3. Nhiệm vụ và giới hạn nghiên cứu đề tài
3.1. Nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
Nghiên cứu cơ sở lý luận về cơ cấu kinh tế, cơ cấu kinh tế nông nghiệp và
vận dụng vào việc nghiên cứu, phân tích sự chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp tỉnh
Đồng Tháp.
Đánh giá các yếu tố ảnh hưởng đến sự chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp tỉnh
Đồng Tháp từ năm 1995 đến năm 2006.
Tìm hiểu các yếu tố ảnh hưởng đến định hướng phát triển và nghiên cứu
những giải pháp thúc đẩy sự chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp của tỉnh Đồng Tháp
theo hướng CNH, HĐH.
3.2. Giới hạn đề tài
Thời gian nghiên cứu sự chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp của tỉnh từ năm 1995 -
2006; định hướng và giải pháp chuyển dịch đến năm 2020.
Phạm vi lãnh thổ của đề tài tập trung toàn bộ 11 huyện, thị và thành phố của
tỉnh Đồng Tháp.
4. Lịch sử nghiên cứu đề tài
Việt Nam có nhiều tiềm năng để phát triển nông nghiệp, nông nghiệp đã
tập trung khoảng 80% dân số với trên 50% lao động tham gia sản xuất. Nông
nghiệp luôn giữ vị trí quan trọng trong nền kinh tế quốc gia và chiếm 20,4% trong
cơ cấu GDP cả nước (2006). Nền nông nghiệp phát triển mạnh trong những năm
sau Đổi mới, Việt Nam từ một nước hàng năm phải nhập lương thực, nhưng từ năm
1989 đến nay Việt Nam trở thành một trong những quốc gia sản xuất gạo hàng đầu
thế giới. Bên cạnh cây lúa, nông nghiệp nước ta đã sản xuất nhiều loại nông sản với
sự phong phú đa dạng, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu của thị trường trong
nước và xuất khẩu.
Cùng với cả nước, ĐBSCL đã có những bước phát triển vượt bậc để vươn lên
trở thành vùng trọng điểm LTTP của cả nước với những thế mạnh về: sản xuất lúa
gạo, cây ăn trái, nuôi trồng thủy sản, chăn nuôi gia súc, gia cầm… Cơ cấu kinh tế
nông nghiệp từng bước có sự chuyển dịch theo hướng CNH, HĐH; sản phẩm làm ra
ngày càng đa dạng và nâng cao dần chất lượng để tăng mức cạnh tranh trong xu thế
hội nhập.
Đồng Tháp là tỉnh nông nghiệp, hàng năm tỉnh đã sản xuất ra một số sản
phẩm chủ lực như lúa gạo, thủy sản, trái cây, hoa kiểng, gia súc, gia cầm… Số lượng
và chất lượng các sản phẩm hàng hóa cung cấp cho thị trường nội địa và xuất khẩu
ngày càng cao, góp phần thúc đẩy kinh tế tỉnh phát triển và đóng góp đáng kể vào
chương trình an ninh lương thực của quốc gia.
Chính vì vậy, trong những năm gần đây có nhiều công trình nghiên cứu về
sự chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp Việt Nam, ĐBSCL và tỉnh Đồng Tháp như:
Chuyển dịch cơ cấu và xu hướng phát triển của kinh tế nông nghiệp Việt
Nam theo hướng CNH, HĐH từ thế kỉ XX đến thế kỉ XXI trong “Thời đại kinh tế
tri thức” của Lê Quốc Sử.
Phát triển nông nghiệp nông thôn trong giai đoạn CNH, HĐH ở Việt Nam -
Đồng chủ biên PGS.TS. Nguyễn Văn Bích – PTS. Chu Tiến Quang.
Xây dựng cơ cấu sản xuất tiên tiến trong nông nghiệp – TS. Lê Hưng Quốc.
Một số bài tham luận có liên quan trong hội thảo “Vì sự phát triển
ĐBSCL”:
Định hướng và giải pháp chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông – lâm – ngư
vùng ĐBSCL - Bộ NN&PTNT.
Các giải pháp phát triển kinh tế trang trại ĐBSCL – TS. Trương Thị Minh
Sâm - Viện Khoa học xã hội vùng Nam Bộ.
Một số giải pháp trong sản xuất gạo chất lượng cao phục vụ xuất khẩu ở
ĐBSCL – TS. Nguyễn Minh Châu - Viện nghiên cứu cây ăn quả miền Nam.
Định hướng chuyển dịch cơ cấu cây trồng khu vực đồng ĐBSCL – TS.
Dương Văn Chín - Viện lúa ĐBSCL.
Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của gạo và thủy sản – những sản phẩm
chủ lực của ĐBSCL hiện nay - TS. Trần Văn Hiển - Trường chính trị Tôn Đức Thắng,
An Giang.
Nâng cao năng lực cạnh tranh trong sản xuất và tiêu thụ nông sản hàng hóa
ở ĐBSCL - Trần Văn - Bộ phận địa phương, Ban kinh tế Trung ương.
Quá trình chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp ĐBSCL những năm đầu thế kỉ XXI
- Nguyễn Thị Minh Châu - Viện khoa học xã hội vùng Nam Bộ.
Những bước phát triển mới trong kinh tế nông – lâm – ngư nghiệp vùng
ĐBSCL - Một số giải pháp chủ yếu - Nguyễn Thị Vân - Viện Khoa học xã hội vùng
Nam Bộ.
Bên cạnh đó, có các công trình nghiên cứu về nông nghiệp tỉnh Đồng Tháp:
Đề án quy hoạch phát triển nuôi trồng thủy sản tỉnh Đồng Tháp giai đoạn
2001 – 2010 - Sở NN&PTNT.
Quy hoạch nông nghiệp phát triển nông thôn tỉnh Đồng Tháp đến năm 2020
- Sở NN&PTNT.
Quy hoạch tổng thể phát triển KT-XH tỉnh Đồng Tháp đến năm 2020 - Sở
Kế hoạch và Đầu tư.
Nông nghiệp Đồng Tháp - Những thành tựu và định hướng phát triển từ nay
đến 2010 – Lê Văn Thôi - Sở NN&PTNT.
Ngoài ra còn rất nhiều đề tài, các luận văn thạc sĩ, bài viết trong và ngoài
tỉnh liên quan đến vấn đề chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp. Đây là nguồn tài liệu
tham khảo quý báu cho tác giả khi thực hiện luận văn.
5. Quan điểm nghiên cứu
5.1. Quan điểm hệ thống
Cơ cấu nông nghiệp là một hệ thống hoàn chỉnh gồm các hợp phần tạo
thành, đồng thời mỗi hợp phần lại là một hệ thống nhỏ hơn bao gồm nhiều hợp
phần khác. Chính vì vậy, cơ cấu nông nghiệp Đồng Tháp có liên quan chặt chẽ với
cơ cấu nông nghiệp ĐBSCL và cả nước. Hệ thống cơ cấu nông nghiệp Đồng Tháp
gồm hệ thống trồng trọt và hệ thống chăn nuôi, với cơ cấu nông - lâm - ngư nghiệp.
Do vậy, khi nghiên cứu sự chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp tỉnh Đồng Tháp phải
xem xét các nhân tố ảnh hưởng đến sự chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp của tỉnh và
xem xét mối tương quan, sự tác động đối với sự chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp
ĐBSCL và cả nước.
5.2. Quan điểm lãnh thổ
Cơ cấu kinh tế nông nghiệp Đồng Tháp được xem như một thể tổng hợp sản
xuất lãnh thổ tương đối hoàn chỉnh. Trong đó các yếu tố tự nhiên, KT-XH có mối
quan hệ chặt chẽ, tác động và ảnh hưởng qua lại với nhau tạo những thế mạnh riêng
cho tỉnh và cho từng vùng trong tỉnh. Các nhân tố đó tác động đến sự chuyển dịch
cơ cấu nông nghiệp của tỉnh và các vùng trong tỉnh. Trên cơ sở phân tích các yếu tố
tác động đến sự chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp tỉnh, tác giả đưa ra những định
hướng, giải pháp để khai thác các lợi thế của tỉnh và từng vùng trong tỉnh nhằm thúc
đẩy nhanh sự chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp của tỉnh theo hướng CNH, HĐH.
5.3. Quan điểm lịch sử, viễn cảnh
Quá trình phát triển nông nghiệp nói riêng và kinh tế nói chung có sự biến
chuyển theo thời gian và không gian. Khi nghiên cứu sự chuyển dịch cơ cấu nông
nghiệp tỉnh Đồng Tháp cần quán triệt quan điểm lịch sử viễn cảnh để thấy được quá
trình hình thành, phát triển kinh tế nông nghiệp. Từ đó, xác định đúng đắn sự
chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp Đồng Tháp trong hiện tại và định hướng phát triển,
chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp Đồng Tháp trong tương lai.
5.4. Quan điểm tổng hợp
Sự phát triển nông nghiệp chịu sự tác động tổng hợp các nhân tố tự nhiên,
KT-XH. Các nhân tố này có mối quan hệ chặt chẽ, tác động và chi phối lẫn nhau.
Chính vì vậy trong sản xuất nông nghiệp Đồng Tháp, tác giả cần phân tích, đánh giá
các nhân tố có ảnh hưởng đến sự phát triển và chuyển dịch từ đó đưa ra những định
hướng phát triển có tính tổng hợp nhằm khai thác tốt những tiềm năng của địa
phương.
5.5. Quan điểm sinh thái bền vững
Sinh vật tồn tại và phát triển phụ thuộc vào điều kiện sinh thái nhất định.
Tuy nhiên, sự phát triển của sinh vật có giới hạn nếu đến một ngưỡng nào đó, cơ
thể sinh vật thích nghi thì sẽ tiếp tục phát triển về số lượng và chất lượng. Ngược
lại, nếu các chỉ tiêu sinh học thay đổi quá mức, cơ thể sinh vật không thể thích nghi
do đó sẽ bị suy giảm năng suất, chất lượng hoặc sinh vật không thể tồn tại. Ngoài
ra, sự phát triển nông nghiệp có hiệu quả còn nhờ vào sự phát triển nhiều giống loài,
cây con (sự phong phú nguồn gen). Vì vậy, trong sản xuất nông nghiệp cần bảo tồn
độ phì nhiêu của tài nguyên đất, bảo vệ chất lượng nước và giữ gìn sự phong phú
các nguồn gen; đồng thời cần có kỹ thuật canh tác thích hợp; hạn chế đến mức thấp
nhất sự suy thoái môi trường; mang lại hiệu quả cao về mặt KT–XH và môi trường.
6. Phương pháp nghiên cứu
Bên cạnh các phương pháp nghiên cứu khoa học chung như phương pháp
thu thập và xử lí tài liệu, phương pháp toán học, phương pháp thống kê, phân tích,
so sánh, phương pháp cân đối, phương pháp chuyên gia. Đề tài còn sử dụng phương
pháp đặc trưng của địa lý học như phương pháp phân tích tổng hợp, phương pháp
bản đồ, phương pháp thực địa. Đặc biệt trong đề tài có sử dụng phần mềm Map Info
để thành lập các bản đồ.
7. Cấu trúc luận văn
Đề tài gồm 3 phần: Phần mở đầu, phần nội dung và phần kết luận. Trong đó
phần nội dung có bố cục 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lí luận chung
Chương 2: Thực trạng chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp tỉnh Đồng Tháp.
Chương 3: Định hướng chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp tỉnh Đồng Tháp
đến năm 2020.
Chương 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN
1.1. Cơ cấu kinh tế
1.1.1. Khái niệm
Cơ cấu kinh tế là một tổng thể hệ thống kinh tế bao gồm nhiều yếu tố có
quan hệ chặt chẽ, tác động qua lại với nhau trong những không gian và thời gian
nhất định, trong điều kiện KT-XH nhất định, được thể hiện cả về mặt định tính, lẫn
định lượng, cả về số lượng lẫn chất lượng, phù hợp với mục tiêu xác định của nền
kinh tế.
Cơ cấu kinh tế của một quốc gia bao gồm cơ cấu ngành, cơ cấu thành phần
kinh tế, cơ cấu lãnh thổ trong đó quan trọng nhất là cơ cấu ngành. Một nền kinh tế
tăng trưởng bền vững không chỉ đòi hỏi nhịp độ phát triển cao mà cần phải có cơ
cấu hợp lí giữa các ngành, các thành phần kinh tế và các vùng lãnh thổ.
1.1.2. Các khía cạnh biểu hiện
1.1.2.1. Cơ cấu ngành
Cơ cấu ngành là bộ phận cơ bản, phản ánh mối liên hệ kinh tế và công nghệ
sản xuất; là yếu tố cốt lõi của chiến lược ổn định và phát triển KT-XH, tạo điều kiện
thực hiện các mục tiêu chiến lược đề ra.
Trong nền kinh tế quốc dân, chia thành hai khu vực sản xuất gồm khu vực
sản xuất vật chất và khu vực phi sản xuất vật chất.
Khu vực sản xuất vật chất là tổng hợp các ngành sản xuất của cải vật chất
phục vụ đời sống con người, tạo ra sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân cho đất
nước.
Khu vực sản xuất phi vật chất là tổng hợp các ngành dịch vụ phục vụ cho
sản xuất, đời sống con người vả xã hội. Ngày nay, trước sự phát triển của KHKT,
năng suất lao động của xã hội ngày càng cao, ngành dịch vụ ngày càng trở thành
ngành kinh tế quan trọng của nền kinh tế quốc dân.
1.1.2.2. Cơ cấu thành phần kinh tế
Về quan hệ KT-XH có các thành phần kinh tế khác nhau: kinh tế Nhà nước,
kinh tế tư nhân và khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Đại hội IX của Đảng
cộng sản Việt Nam khẳng định mô hình kinh tế nước ta trong giai đoạn quá độ là
nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN với nhiều hình thức sở hữu, nhiều
thành phần kinh tế, trong đó kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế Nhà nước
và kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân.
Trong thực tế các thành phần kinh tế có những khả năng và điều kiện tồn
tại, vận động và phát triển theo những quy luật riêng. Song, trong giai đoạn hiện nay
của nước ta các thành phần kinh tế này vừa hợp tác, hỗ trợ lẫn nhau, cạnh tranh
nhau trên cơ sở hướng dẫn của pháp luật, chính sách và kế hoạch của Nhà nước.
Việc phát triển nền kinh tế nhiều thành phần tạo điều kiện huy động mọi nguồn lực
để góp phần phát triển nền kinh tế quốc dân, thúc đẩy nhanh sự phát triển nền kinh
tế theo hướng CNH, HĐH.
1.1.2.3. Cơ cấu lãnh thổ
Cơ cấu lãnh thổ là sản phẩm của sự phân công lao động theo lãnh thổ nhằm
khai thác các nguồn lực phát triển kinh tế để hình thành các vùng kinh tế có đặc
điểm khác nhau, dẫn đến việc hình thành một cơ cấu kinh tế vùng lãnh thổ khác
nhau. Mức độ hình thành, phát triển và hoàn thiện của cơ cấu lãnh thổ hoàn toàn
phụ thuộc vào mức độ phân công lao động, vào trình độ công nghiệp hoá mà động
lực chính của nó là cuộc cách mạng KH & CN. Việc xác định cơ cấu lãnh thổ hợp
lý tạo điều kiện để mỗi vùng phát huy tiềm năng sẵn có để hình thành vùng sản xuất
hàng hoá và phát triển tổng hợp để tiến tới xây dựng vùng kinh tế phát triển của cả
nước tại những nơi có điều kiện thuận lợi.
1.1.3. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế
1.1.3.1. Khái niệm
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế là quá trình thay đổi cấu trúc và các mối liên hệ
của một nền kinh tế theo một chủ đích và phương hướng nhất định. Chuyển dịch cơ
cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH là quá trình làm biến đổi nền kinh tế từ chỗ có
cơ cấu chủ yếu là nông nghiệp lạc hậu sang cơ cấu kinh tế công – nông nghiệp và
dịch vụ hiện đại. Đó là quá trình làm tăng thêm tốc độ của sản xuất công nghiệp
trong nền kinh tế gắn liền với đổi mới căn bản về công nghệ, tạo nền tảng cho sự
tăng trưởng nhanh, hiệu quả cao và lâu bền của toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
1.1.3.2. Yêu cầu khách quan để xây dựng một cơ cấu kinh tế tối ưu
Cơ cấu kinh tế tối ưu được hình thành và phát triển trên cơ sở khách quan
phù hợp với điều kiện tự nhiên và KT-XH, đặc biệt là các quy luật kinh tế : quy luật
quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất; quy
luật của kinh tế thị trường như quy luật giá trị, quy luật lưu thông tiền tệ, quy luật
cung cầu; quy luật tái sản xuất như quy luật tăng năng suất lao động, quy luật tích
luỹ,…
Cơ cấu kinh tế tối ưu đảm bảo khai thác tối đa các tiềm năng, nguồn lực của
lãnh thổ sản xuất kinh doanh. Đồng thời cơ cấu kinh tế tối ưu có khả năng sử dụng ngày
càng nhiều lợi thế tuyệt đối và lợi thế so sánh giữa các vùng và khu vực, giữa trong
và ngoài nước gắn liền với việc hình thành “cơ cấu kinh tế năng động”, với chiến
lược hướng ra xuất khẩu thay thế hàng nhập khẩu, với sự phân công lao động và
thương mại quốc tế.
Cơ cấu kinh tế tối ưu phản ánh được xu hướng phát triển của cuộc cách
mạng KHKT, công nghệ và xu hướng toàn cầu hoá.
Cơ cấu kinh tế tối ưu lấy hiệu quả KT-XH làm thước đo cho sự thành công.
1.1.3.3. Cơ cấu kinh tế với sự hình thành và phát triển của nền kinh tế
thị trường
Kinh tế thị trường có tác động mạnh đối với việc tăng năng suất lao động,
sự thay đổi và phát triển của lực lượng sản xuất; từ đó nó có tác động mạnh mẽ đối
với sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế của nền kinh tế quốc dân. Trong nền kinh tế sản
xuất hàng hoá, thị trường là nơi thực hiện tái sản xuất, là khâu trung gian giữa sản
xuất và tiêu dùng. Do vậy, thị trường là yếu tố quyết định đến sự hình thành và biến
đổi cơ cấu kinh tế. Nói đến thị trường tức là nói đến nhu cầu của con người; trong
xu thế phát triển của xã hội nhu cầu của con người ngày càng cao và đa dạng nên sẽ
tác động đến việc xây dựng nền kinh tế với cơ cấu ngành có sự chuyển dịch phù
hợp với nhu cầu của thị trường.
1.1.4. Cơ cấu kinh tế nông nghiệp
1.1.4.1. Khái niệm
Theo từ điển bách khoa, nông nghiệp là ngành sản xuất vật chất cơ bản của
xã hội; sử dụng đất đai để trồng trọt, chăn nuôi; khai thác cây trồng và vật nuôi làm
tư liệu và nguyên liệu lao động chủ yếu để tạo ra LTTP và một số nguyên liệu cho
công nghiệp. Nông nghiệp là ngành quan trọng trong nền kinh tế quốc dân bao gồm
nhiều ngành như trồng trọt, chăn nuôi, dịch vụ nông nghiệp; theo nghĩa rộng còn
bao gồm cả ngư nghiệp và lâm nghiệp.
Cơ cấu kinh tế nông nghiệp là tổng thể các quan hệ kinh tế bao gồm các
quan hệ tương tác giữa các yếu tố của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong
lĩnh vực nông nghiệp trong khoảng thời gian và điều kiện cụ thể nhất định, nó được
biểu hiện bằng sự tương quan về số lượng và chất lượng của các mối quan hệ trên.
Cơ cấu kinh tế nông nghiệp bao gồm nhiều bộ phận hợp thành, nhưng quan
trọng nhất là cơ cấu ngành, cơ cấu thành phần kinh tế, cơ cấu lãnh thổ. Các bộ phận
này có mối quan hệ tương tác với nhau, cùng với sự phát triển của lực lượng sản
xuất, các mối quan hệ hữu cơ trong nông nghiệp sẽ thay đổi dẫn đến việc tăng năng
suất lao động, thúc đẩy sự phân công lao động và hình thành các hình thức tổ chức
sản xuất mới.
1.1.4.2. Chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp
Chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp là quá trình thay đổi các yếu tố và mối
quan hệ giữa các yếu tố trong cấu trúc kinh tế nông nghiệp. Chuyển dịch cơ cấu
nông nghiệp là chuyển dịch toàn diện cả cơ cấu ngành, cơ cấu thành phần kinh tế và
cơ cấu lãnh thổ.
Chuyển dịch cơ cấu ngành trong nông nghiệp là sự thay đổi tỉ trọng giữa
các ngành, nhóm ngành trong nội bộ từng ngành nông nghiệp. Xu hướng chuyển
dịch cơ cấu ngành nông nghiệp hiện nay là hướng tới một nền nông nghiệp hàng
hoá, sản xuất thâm canh theo hướng sản xuất ra nhiều sản phẩm với chất lượng và
hiệu quả cao.
Ở Việt Nam, ngành trồng trọt có sự chuyển dịch từ hướng độc canh cây lương
thực sang trồng nhiều loại cây công nghiệp, cây thực phẩm có hiệu quả kinh tế cao.
Trong ngành chăn nuôi cũng có sự thay đổi về cơ cấu, chú trọng phát triển những loại vật
nuôi có giá trị dinh dưỡng cao phù hợp với nhu cầu thị trường. Giữa trồng trọt và chăn
nuôi có sự chuyển dịch giảm tỉ trọng ngành trồng trọt tăng tỉ trọng ngành chăn nuôi trong
cơ cấu giá trị sản lượng nông nghiệp.
Chuyển dịch cơ cấu thành phần kinh tế nông nghiệp nước ta từ sau công
cuộc Đổi mới cũng có những chuyển biến tích cực phù hợp với đường lối phát triển
kinh tế chung: giảm khu vực Nhà nước, tăng khu vực ngoài Nhà nước và khu vực
có vốn đầu tư nước ngoài.
Chuyển dịch cơ cấu lãnh thổ nông nghiệp Việt Nam trong những năm gần
đây diễn ra mạnh mẽ, hình thành những vùng chuyên môn hoá có sự ổn định về sản
xuất, qui mô, đảm bảo chất lượng, hiệu quả xã hội và có khả năng xuất khẩu. Các
vùng chuyên môn hóa có qui mô lớn: LTTP ở ĐBSCL, đồng bằng sông Hồng; cây
công nghiệp ở Đông Nam Bộ, Tây Nguyên, núi trung du phía Bắc.
1.1.4.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến sự chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp
Nhân tố tự nhiên: đây là nhân tố tác động trực tiếp đến kinh tế nông
nghiệp, là cơ sở để phát triển và phân bố nông nghiệp. Các nhân tố tự nhiên tác
động đến sự chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp, lựa chọn cơ cấu sản xuất phù hợp với
đặc điểm sinh thái để tạo ra lợi thế trong cơ chế thị trường; xây dựng cơ cấu ngành
phù hợp nhằm góp phần tăng trưởng kinh tế vừa bảo vệ môi trường sinh thái tiến tới
phát triển bền vững; tác động đến quá trình phân công lao động theo lãnh thổ nông
nghiệp.
Đất trồng: là tư liệu sản xuất chủ yếu, là cơ sở để tiến hành trồng trọt và
chăn nuôi. Vốn đất, cơ cấu sử dụng đất, độ phì,…ảnh hưởng tới qui mô, cơ cấu cây
trồng vật nuôi, mức độ thâm canh tăng năng suất và tổ chức lãnh thổ sản xuất nông
nghiệp.
Khí hậu: với các yếu tố nhiệt độ, lượng mưa, ánh sáng, độ ẩm, chế độ gió
và sự bất thường của thời tiết như bão, lũ lụt, hạn hán,…có ảnh hưởng rất lớn đến
việc xác định cơ cấu cây trồng, vật nuôi, cơ cấu mùa vụ, khả năng tăng vụ, xen
canh, gối vụ. Ở những vùng tài nguyên khí hậu dồi dào về nhiệt, ẩm, cường độ bức
xạ mặt trời cho phép trồng nhiều vụ trong năm, với cơ cấu cây trồng vật nuôi đa
dạng. Ngược lại, nếu khí hậu khắc nghiệt: quá khô hạn hoặc quá giá lạnh, có sự biến
động thất thường thì tác động tiêu cực đến sản xuất, ảnh hưởng đến năng suất và
chất lượng sản phẩm. Ví dụ như ĐBSCL nằm trong vùng khí hậu cận xích đạo có
một mùa mưa và một mùa khô kéo dài; nếu có năm mùa mưa đến sớm tạo lũ lớn sẽ
ảnh hưởng tiêu cực đến năng suất và sản lượng lúa trong vụ hè thu.
Nguồn nước: là một trong những nhân tố quan trọng sản xuất nông nghiệp,
nước rất cần thiết cho sự sinh trưởng và phát triển của sinh vật. Tùy từng loại cây
trồng, mức độ cần nước khác nhau; nước là yếu tố quan trọng, là cơ sở cần thiết để
bố trí cơ cấu cây trồng, cơ cấu mùa vụ hợp lý. Chính vì vậy, để sản xuất nông
nghiệp ổn định cần phát triển hệ thống thủy lợi để tưới hoặc tiêu nước vào những
thời điểm thích hợp.
Sinh vật: là cơ sở để thuần dưỡng tạo nên các giống cây trồng và vật nuôi,
sự đa dạng về hệ động, thực vật là tiền đề để hình thành và phát triển các giống cây
trồng vật nuôi, tạo điều kiện thuận lợi cho việc chuyển đổi cơ cấu nông nghiệp phù
hợp với điều kiện sinh thái cụ thể của từng nơi. Đây cũng là yếu tố quan trọng ảnh
hưởng đến năng suất và chất lượng nông sản.
Nhân tố KT-XH
Dân cư và lao động: vừa là lực lượng sản xuất trực tiếp vừa là thị trường
tiêu thụ các nông sản. Trong lĩnh vực nông nghiệp, con người là nhân tố quan trọng
vì trong quá trình sản xuất có nhiều khâu khó áp dụng tự động hoá bằng máy móc
mà thường phải thực hiện bằng sức lao động của con người. Số lượng và chất
lượng lao động ảnh hưởng trực tiếp đến việc đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp theo
chiều rộng lẫn chiều sâu. Qui mô dân số ảnh hưởng khả năng tiêu thụ sản phẩm
nông nghiệp, nếu kinh tế phát triển, chất lượng cuộc sống dân cư được nâng lên thì
nhu cầu tiêu thụ nông sản ngày càng cao và đa dạng. Từ đó, tác động sâu sắc đến sự
chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp của địa phương, vùng lãnh thổ và quốc gia.
Tiến bộ của KHKT và công nghệ: tạo khối lượng nông sản, tạo sự chuyển
dịch cơ cấu, giá trị nông nghiệp, ảnh hưởng mạnh mẽ đến sự chuyển dịch cơ cấu
nông nghiệp, con người chủ động được các hoạt động trong nông nghiệp từ khâu
cung ứng giống với năng suất, hiệu quả cao. Việc áp dụng các thành quả của KH &
CN vào sản xuất như điện khí hoá, cơ giới hoá, thủy lợi hoá, sinh học hoá làm cho
năng suất lao động trên một đơn vị diện tích tăng. Vì vậy, dưới tác động của KHKT,
công nghệ góp phần nâng cao năng suất lao động, giảm bớt lao động chân tay. Sản
xuất ngày càng phát triển sẽ giảm khả năng sử dụng nguồn lao động có tay nghề
thấp, đòi hỏi người lao động phải có trình độ chuyên môn nhất định để sử dụng các
công cụ hiện đại, góp phần phân công lại nguồn lao động theo hướng giảm tỉ trọng
lao động trong nông nghiệp và tăng tỉ trọng lao động trong lĩnh vực phi nông
nghiệp.
Nguồn vốn: ảnh hưởng đến việc phát triển, phân bố và chuyển dịch cơ cấu
nông nghiệp, thông qua nguồn vốn đầu tư tạo điều kiện giúp cho nhà nông áp dụng
tiến bộ KHKT, nâng cao kỹ năng cho người lao động, góp phần nâng cao năng suất
và hiệu quả lao động. Đặc biệt, để tạo điều kiện cho sự chuyển dịch cơ cấu nông
nghiệp theo hướng CNH, HĐH thì nhu cầu nguồn vốn là điều kiện cần và đủ vì nếu
thiếu vốn việc đầu tư trang bị CSVCKT&CSHT sẽ gặp khó khăn.
Thị trường: chính là mục tiêu của sản xuất hàng hoá, sản xuất cái gì? sản
xuất cho ai? sản xuất bằng công nghệ gì? Từ đó, người sản xuất hàng hoá phải tạo
ra các sản phẩm mà thị trường cần. Thị trường được hiểu theo hai khía cạnh, nếu thị
trường cần sẽ kích thích sản xuất phát triển, nếu thị trường không cần hoặc cần ít thì
sẽ hạn chế sản xuất. Như vậy, thị trường có biến động sẽ tác động tiêu cực đến sản
xuất, nếu công tác dự báo thị trường được thực hiện đúng hướng thì sẽ tác động có
lợi cho người sản xuất. Trong sự chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp, thị trường có tác
động điều tiết đối với sự hình thành và phát triển của các vùng nông nghiệp theo
hướng sản xuất hàng hoá với qui mô tập trung và chuyên môn hoá cao.
Quan hệ sở hữu và chính sách nông nghiệp: có ảnh hưởng rất lớn đối với
con đường phát triển và các hình thức tổ chức sản xuất nông nghiệp. Nếu xác định
và phát huy đúng vị trí, vai trò của các mối quan hệ sở hữu, cùng với hệ thống chính
sách phù hợp sẽ kích thích được sự chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp theo hướng có
lợi và ngược lại.
Ngoài ra, nhân tố CSVCKT&CSHT có tác dụng tích cực đến sự chuyển
dịch cơ cấu nông nghiệp theo hướng CNH, HĐH thể hiện qua việc đẩy mạnh vận
chuyển hàng hoá đến thị trường tiêu thụ, tạo điều kiện cần và đủ để sản xuất hàng
hoá đạt chất lượng cao, giá thành hạ, tăng sức cạnh tranh trên thị trường.
1.1.4.4. Ý nghĩa của sự chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp trong sự
chuyển dịch cơ cấu kinh tế chung
Sự chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp theo hướng tích cực góp phần xây dựng
một cơ cấu kinh tế nông nghiệp hợp lí thúc đẩy nền kinh tế phát triển nhanh chóng
tạo điều kiện thực hiện các mục tiêu KT-XH đã vạch ra trong chiến lược phát triển
kinh tế của cả nước, vùng lãnh thổ hoặc từng địa phương. Chuyển dịch cơ cấu kinh
tế góp phần khai thác có hiệu quả cao nhất các nguồn lực phát triển nông nghiệp tạo
ra nhiều sản phẩm hàng hoá đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu của thị trường trong
và ngoài nước, thúc đẩy nhanh sự tăng trưởng giá trị sản xuất nông nghiệp.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất,
đáp ứng đòi hỏi khách quan của nền kinh tế trong mối quan hệ sản xuất phù hợp,
đồng thời là nền tảng cho nền kinh tế quốc dân phát triển hài hoà, phù hợp với điều
kiện của từng vùng để tăng số lượng, chất lượng, giá trị sản phẩm nông nghiệp xuất
khẩu, nhanh chóng hội nhập với nền kinh tế thế giới.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế thúc đẩy tốc độ phát triển kinh tế của các vùng,
tạo những vùng chuyên môn hóa sản xuất nông nghiệp. Đảm bảo và tăng cường sức
mạnh về an ninh lương thực, góp phần giữ vững đất nước đồng thời tăng giá trị
nông sản xuất khẩu và hiệu quả kinh tế cao.
1.2. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá
1.2.1. Khái niệm
Theo báo cáo Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng đã xác định:
“Nhiệm vụ đề ra cho chặng đường đầu của thời kì quá độ là chuẩn bị tiền đề cho
công nghiệp hoá đã cơ bản hoàn thành cho phép chuyển sang thời kì mới đẩy mạnh
CNH, HĐH đất nước”. Công nghiệp hoá được hiểu theo nhiều quan điểm khác
nhau:
Công nghiệp hoá: đem lại một tính công nghiệp cho một hoạt động nào đó1.
CNH: là hoạt động mở rộng tiến bộ kỹ thuật với sự lùi dần tính thủ công trong
sản xuất hàng hoá và cung cấp dịch vụ2.
Công nghiệp hoá là một quá trình mà các xã hội chuyển từ một nền kinh tế
chủ yếu dựa vào nông nghiệp với các đặc điểm năng suất thấp và tăng trưởng cực kì
thấp hay bằng không sang một nền kinh tế cơ bản dựa trên công nghiệp với các đặc
điểm năng suất cao và tăng trưởng tương đối cao3.
Công nghiệp hoá là một quá trình được đánh dấu bằng sự chuyển từ một
nền kinh tế chủ yếu là nông nghiệp sang một nền kinh tế được gọi là công nghiệp4.
Từ những quan niệm trên, chúng ta có thể rút ra khái niệm công nghiệp hoá như
sau:
1. Petit Larousse IIlustré, 1990-p. 52
2. Encyclo pedi Fransaise, 1973-p.6298
3. Lad rière J.les enjeux de la rationalite: Le défi de la Science et de la technologie aux culture, Aubier
Montaigne, UNESCO, 1977
4. Mazlish B. The Breakdown of Connection and Mordern Development, World Development, 1991, Vol. 19,
No.3, p.31 - 44
Công nghiệp hoá là giai đoạn phát triển, là một sự biến đổi cơ cấu của nền
kinh tế từ nền kinh tế nông nghiệp và thủ công nghiệp sang nền kinh tế công nghiệp
và dịch vụ. Giai đoạn phát triển này đánh dấu sự thay đổi cơ bản về tính hiệu quả,
tính công nghiệp, tính bền vững của sự phát triển. Trong quá trình phát triển KT-
XH trên thế giới, các nước phát triển đã trải qua quá trình CNH từ thế kỉ 18, 19 để
nâng vị trí trở thành các quốc gia công nghiệp, còn các nước đang phát triển hiện
nay đang tiến hành CNH.
Hiện đại hoá theo từ điển tiếng Việt là “Làm cho mang tính chất của thời
đại ngày nay” hoặc “Làm cho công nghiệp trở thành ngành công nghiệ._.p tiên tiến có
đầy đủ mọi trang bị, thiết bị của nền công nghiệp hiện đại”
Xét về góc độ kinh tế, có thể hiểu khái niệm này theo J.W.HALL5: thực chất
của hiện đại hoá là công cuộc cơ khí hoá và công nghiệp hoá nền kinh tế.
Việt Nam là nước nông nghiệp còn khá lạc hậu, sản xuất chủ yếu bằng sức
người và sức động vật, năng suất thấp. Cần phải tiến hành CNH để cải tạo nền kinh
tế, áp dụng KHKT tiên tiến, sử dụng máy móc hiện đại để nâng cao năng suất lao
động tăng tính cạnh tranh của sản phẩm tránh tụt hậu. Do vậy, CNH, HĐH là tất
yếu khách quan đối với Việt Nam cũng như các nước có nền kinh tế kém phát triển.
Mục tiêu CNH, HĐH ở nước ta là xây dựng một nước công nghiệp có CSVCKT
hiện đại, có cơ cấu kinh tế hợp lí. Trong lĩnh vực nông nghiệp CNH, HĐH nông
nghiệp Việt Nam là chủ trương mà Đảng ta đã xác định từ Đại hội Đảng lần VI năm
1986.
1.2.2. Định hướng về sự chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp theo hướng
CNH, HĐH
Chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp nước ta theo hướng CNH, HĐH cần thực
hiện cụ thể những nội dung sau:
Phát triển nông nghiệp, hình thành các vùng tập trung chuyên canh có cơ cấu
hợp lí về cây trồng vật nuôi, tăng sản phẩm hàng hoá về số lượng, tốt về chất lượng;
5 . Đại học Shiller
đảm bảo vấn đề an toàn về lương thực của xã hội, đáp ứng nguồn nguyên liệu cho công
nghiệp chế biến, phục vụ ngày càng tốt hơn nhu cầu của thị trường trong nước và xuất
khẩu.
Sự chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp đạt hiệu quả kinh tế cao, cần kết hợp
với ngành công nghiệp chế biến nông - lâm - ngư nghiệp để tạo ra sản phẩm đa
dạng về mẫu mã, với chất lượng cao, giá thành hạ và tăng cường sức cạnh tranh thị
trường, tăng cường hội nhập vào nền kinh tế thế giới và khu vực.
Chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp gắn với CNH, HĐH nông nghiệp nông
thôn: áp dụng KHKT, sử dụng giống cây trồng vật với năng suất chất lượng cao. Sử
dụng kỹ thuật tiên tiến tiến: thủy lợi hoá, cơ giới hoá, điện khí hoá, hoá học hoá.
Phát triển đa dạng hóa sản phẩm nông nghiệp: phát triển các ngành nghề
truyền thống và các ngành nghề mới góp phần đa dạng hoá sản phẩm nông nghiệp
và các loại hình sản xuất phi nông nghiệp ở nông thôn nhằm nâng cao thu nhập và
cải thiện đời sống dân cư nông thôn.
Phát triển nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa qui mô lớn trên cơ sở
tận dụng các lợi thế của từng vùng, đẩy nhanh tiến độ ứng dụng các thành tựu
KHKT vào sản xuất, tạo ra nhiều loại nông sản chất lượng cao đáp ứng ngày càng
tốt hơn nhu cầu trong nước và xuất khẩu.
Phát triển tạo tăng trưởng kinh tế nông nghiệp, đồng thời bảo vệ môi trường
sinh thái hướng tới phát triển bền vững.
Để chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp theo hướng CNH, HĐH cần xây dựng
nâng cấp CSHT như xây dựng, mở rộng mạng lưới giao thông vận tải, hoàn thiện
mạng lưới điện nhằm góp phần đắc lực phục vụ cho nhu cầu sản xuất và sinh hoạt,
HĐH ngành thông tin liên lạc để cung cấp thông tin kịp thời phục vụ cho nhu cầu
sản xuất và sinh hoạt đa dạng của nhân dân.
Như vậy, bước vào thế kỉ XXI sự chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp phải tạo
ra những chuyển biến mạnh mẽ theo hướng sản xuất hàng hoá với cơ cấu ngành đa
dạng, vừa để xuất khẩu với sức cạnh tranh cao, vừa khai thác các lợi thế tiềm năng
của từng vùng sinh thái và nâng cao hiệu quả. Trong sản xuất nông nghiệp không
những chỉ coi trọng tính hiệu quả về mặt kinh tế mà còn phải chú ý đến việc bảo vệ
môi trường sinh thái để tiến dần tới một nền nông nghiệp theo hướng bền vững.
1.2.3. Mối quan hệ giữa sự chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp với vấn đề
CNH, HĐH
Quá trình CNH, HĐH ứng dụng tiến bộ KHKT, tiến hành CNH trong sản
xuất nông nghiệp tất yếu dẫn đến sự thay đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp. Chính
trong quá trình CNH nông nghiệp nông thôn, cơ cấu kinh tế nông nghiệp có sự
chuyển dịch hợp lí gắn liền với những bước tiến của CSVCKT phục vụ cho sản
xuất. Sự chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp từ cơ cấu mất cân đối giữa trồng trọt và
chăn nuôi, hiệu quả thấp sang một cơ cấu kinh tế nông nghiệp hợp lí về cơ cấu
ngành, cơ cấu thành phần kinh tế và cơ cấu lãnh thổ; tạo nên sự đa dạng về sản
phẩm nông nghiệp với chất lượng và hiệu quả cao, từng bước gắn liền với sự phát
triển của CSVCKT nhờ tiến hành CNH, HĐH.
Sự chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp phản ánh sự thay đổi về chất của nền
kinh tế theo hướng CNH, HĐH; tạo tiền đề vật chất cho sự tăng trưởng ổn định của
kinh tế nông nghiệp, góp phần tăng trưởng và ổn định nền kinh tế chung của quốc
gia. Cơ cấu kinh tế nông nghiệp hợp lí phải đảm bảo được 3 mục tiêu:
Ngành: sản xuất các sản phẩm nông nghiệp chủ yếu đáp ứng cho nền kinh
tế quốc dân và vươn ra xuất khẩu để tích luỹ vốn.
Vùng: hoàn thành những nhiệm vụ kinh tế quốc dân, nhằm nâng cao hiệu
quả sử dụng tài nguyên và nguồn lực của vùng.
Nền kinh tế: thực hiện đúng chiến lược quốc gia về mục tiêu phát triển nông
nghiệp.
1.3. Kinh nghiệm của một số nước châu Á về CNH, HĐH nông nghiệp.
Trong quá trình CNH, HĐH nông nghiệp; tùy theo điều kiện của mỗi quốc
gia, một số nước khu vực châu Á đã thực hiện chiến lược phát triển nông nghiệp với
các chủ trương, chính sách phù hợp cho từng giai đoạn cụ thể và đạt được những
thành công nhất định. Đây là những bài học kinh nghiệm quý báu cho Việt Nam vận
dụng trong quá trình thực hiện chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp theo hướng CNH,
HĐH.
1.3.1. Thái Lan
Đến giữa những năm 1980, nông nghiệp vẫn là ngành quan trọng nhất trong
nền kinh tế của Thái Lan với năm mặt hàng xuất khẩu chủ lực là gạo luôn đứng đầu
thế giới với sản lượng xuất khẩu chiếm 30 – 40% sản lượng xuất khẩu của thế giới,
sắn cung cấp 95% nhu cầu sắn trên thị trường thế giới, ngô hàng năm xuất khẩu 4 –
5 triệu tấn, cao su luôn đứng hàng thứ ba trên thế giới về sản lượng xuất khẩu, rau
quả xuất khẩu đứng hàng thứ hai ở khu vực châu Á – Thái Bình Dương sau Trung
Quốc. Từ năm 1990 đến những năm đầu thế kỷ XXI, tỉ trọng ngành nông nghiệp
giảm còn 8,77%, công nghiệp tăng 41,44% và dịch vụ tăng 49,79% trong cơ cấu
GDP năm 2003.
Trong tiến trình thực hiện CNH, HĐH nông nghiệp, Thái Lan đã tập trung
vào các lĩnh vực sau:
Đầu tư xây dựng CSVCKT & CSHT đạt nhiều thành tựu đáng kể. Tính đến
năm 2005, hoàn thiện hệ thống thủy lợi đảm bảo tưới tiêu cho toàn bộ diện tích
canh tác, hệ thống giao thông đường bộ tỏa đi khắp vùng miền trong cả nước và đã
hoàn thành chương trình điện khí hóa toàn quốc.
Đẩy mạnh công tác nghiên cứu khoa học phục vụ cho CNH nông nghiệp gồm:
nghiên cứu cải tạo đất đai, áp dụng công nghệ sinh học để lai tạo giống vật nuôi, cây
trồng; tiến hành thụ tinh nhân tạo; thực hiện chuyển giao công nghệ nuôi cấy phôi,
nghiên cứu công nghệ bảo quản sau thu hoạch. Các hoạt này đã góp phần nâng cao năng
suất, chất lượng của sản phẩm nông nghiệp và tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường
quốc tế.
Phát triển HTXNN với loại hình đa dạng như HTX tín dụng để giúp nông
dân nghèo sản xuất, HTX dịch vụ, HTX thủy sản, HTX đất đai. Với mục tiêu chung
là hỗ trợ vốn cho nông dân sản xuất, khuyến khích nông dân gửi tiền tiết kiệm, cung
cấp hàng hóa cho xã viên với giá thấp hơn thị trường và giúp xã viên tiêu thụ nông
sản xuất khẩu một cách có lợi.
Như vậy, để tiến hành CNH nông nghiệp cần xây dựng HTXNN kiểu mới
tạo điều kiện cho sự tập trung hóa đất đai, phát triển nông nghiệp qui mô lớn. Phân
vùng nông nghiệp để phát triển sản xuất chuyên môn hóa, sử dụng những máy móc
thiết bị, KHKT: cung cấp các loại giống có chất lượng cao cho nông dân, chú trọng
hiệu quả quản lý sau thu hoạch, đẩy mạnh nghiên cứu khoa học nhằm xuất khẩu
nông sản đã chế biến. Tăng cường thu hút sự đầu tư vốn trong và ngoài nước để
phát triển nông nghiệp. Ngoài ra, Nhà nước còn có chính sách bảo hộ giá nông sản
trong tiến trình hội nhập để phát triển mở rộng sản xuất nông nghiệp bền vững có
hiệu quả lâu dài.
1.3.2. Malaysia
Trong thời gian qua, Malaysia đã đạt được nhiều thành quả trong việc
chuyển dịch cơ cấu kinh tế giảm tỉ trọng nông nghiệp, tăng tỉ trọng công nghiệp và
dịch vụ. Malaysia đã cung cấp nhiều sản phẩm và nguyên liệu có nguồn gốc từ nông
nghiệp như dầu cọ, ca cao, cao su.
Nhà nước đã thực hiện chính sách phát triển nông nghiệp theo hướng CNH,
HĐH từ những năm 1960 như cải tạo và trồng mới ở các đồn điền cao su, dầu cọ,
phát triển công nghiệp cơ khí chế tạo máy phục vụ nông nghiệp, phát triển công
nghiệp chế biến nông sản. Để phát triển nông nghiệp theo hướng CNH, HĐH;
Malaysia đã chú trọng các dịch vụ tín dụng để cung cấp vốn cho nông dân, tập trung
áp dụng biện pháp KHKT tăng năng suất và hiệu quả của ngành trồng trọt: hướng
dẫn kỹ thuật canh tác, tăng cường marketing và tiêu thụ sản phẩm. Để giải quyết
đầu ra cho nông nghiệp, Nhà nước đã thành lập các tổ chức thương mại, marketing
và tiêu thụ rau quả đặc biệt là marketing rau, hoa quả xuất khẩu.
Chính sách phát triển thị trường và mở rộng địa bàn tiêu thụ nông sản như
mở rộng thị trường tiêu thụ cao su, dầu cọ đã hướng nông nghiệp chuyển dịch cơ
cấu sản xuất, tăng tỉ trọng xuất khẩu ngành trồng trọt, hình thành các vùng sản xuất
hàng hóa với giá trị xuất khẩu cao, tạo thành vùng nguyên liệu, thúc đẩy công
nghiệp chế biến nông sản, phát triển nông nghiệp nông thôn.
Nhà nước đã triển khai nhiều chương trình hỗ trợ vốn để phát triển nông nghiệp
nông thôn như chương trình tín dụng trung hạn cấp vốn đến tận tay nông dân, chương
trình phát triển doanh nghiệp công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp, chương trình xóa đói
cho dân nghèo bằng vốn vay ưu đãi và chương trình huy động vốn trợ giúp cho sản xuất
nông nghiệp.
Nhà nước đã cấp vốn vào việc nâng cấp và xây dựng CSHT nông thôn, đảm
bảo điều kiện cho phát triển nông nghiệp và nông thôn phát triển theo hướng bền
vững. Nhà nước đầu tư phát triển hệ thống đường giao thông, các công trình như
điện, nước đến xã; người dân đóng góp xây dựng hệ thống CSHT nội bộ xã, thôn.
Ngoài ra, Nhà nước còn cho dân nghèo vay vốn xây dựng nhà cửa, CSHT với vốn
ưu đãi đặc biệt và sẽ hoàn vốn trở lại khi đời sống đã ổn định.
1.3.3. Indonesia
Indonesia là một nước có dân số lớn nhất Đông Nam Á, nên Indonesia rất
chú trọng đến việc phát triển nông nghiệp để đảm bảo an ninh lương thực quốc gia.
Nhà nước đã tăng cường đầu tư vào phát triển CSHT như các công trình giao thông,
hệ thống thủy lợi, đẩy mạnh việc nghiên cứu ứng dụng các giống cao sản vào sản
xuất. Nông dân với tinh thần tự lực, nhạy bén với cơ chế thị trường, áp dụng công
nghệ và vận dụng nhanh, có hiệu quả những chính sách hỗ trợ của chính phủ. Kết
quả Indonesia đã tự túc được lương thực từ năm 1984.
Để ổn định giá cả và đảm bảo lương thực cho quốc gia, Nhà nước đã thành
lập quỹ bình ổn giá và cơ quan thu mua lương thực với nguồn chi ngân sách hàng
năm khoảng 5% GDP.
Chính phủ Indonesia đã thành lập nhiều ngân hàng nông thôn với qui mô nhỏ
ở khắp nơi trên lãnh thổ nhằm tạo điều kiện cung cấp vốn đến tận tay nông dân và
người nghèo. Ưu tiên tín dụng cho phát triển nông nghiệp, phát triển thủy lợi, điện,
giao thông nông thôn vùng sâu, xa, hải đảo.
Mặc khác, Indonesia cũng ưu tiên phát triển với qui mô lớn những loại cây
trồng xuất khẩu như cọ dầu, ca cao, chè, cà phê, cao su. Hiện nay, Indonesia trở
thành một trong những nước xuất khẩu chủ yếu trên thế giới về các loại nông sản
trên.
Indonesia còn chú trọng ứng dụng các thành tựu của KHKT và công nghệ
vào sản xuất nông nghiệp, chế biến nông sản, đẩy mạnh xuất nhập khẩu các sản
phẩm nông nghiệp. Sự phát triển nông nghiệp đa dạng góp phần tạo thêm việc làm,
tăng thu nhập cho người lao động, giảm tỉ trọng đói nghèo, đảm bảo an ninh lương
thực quốc gia.
1.3.4. Trung Quốc
Trung Quốc có diện tích canh tác lớn chiếm khoảng 7% thế giới nhưng phải
đảm bảo nuôi sống 20% dân số toàn cầu nên Trung Quốc còn gặp nhiều khó khăn
trong việc đáp ứng nhu cầu nông sản cho người trong nước. Do vậy, Trung Quốc đã
áp dụng nhiều chính sách, biện pháp phát triển nông nghiệp đạt hiệu quả cao. Hiện
nay, Trung Quốc là quốc gia đứng đầu thế giới về sản lượng lương thực, bông, hạt
có dầu, rau quả và thịt để cung ứng cho thị trường trong nước và xuất khẩu. Sự
thành công về kinh tế nông nghiệp Trung Quốc là do các nguyên nhân sau:
Đổi mới và hoàn thiện hệ thống pháp luật, chính sách của Nhà nước trong
quá trình cải cách phát triển nông nghiệp và nông thôn. Trong đó, chú trọng phát
huy tính tích cực của nông dân, áp dụng tiến bộ của KHKT và công nghệ mới, đầu
tư hợp lí vào các lĩnh vực hỗ trợ nông nghiệp. Nhà nước đã tập trung phát triển
CSHT nông thôn như hệ thống giao thông, thủy lợi, điện, nước; phát triển rừng đầu
nguồn để đảm bảo cân bằng sinh thái, giảm thiểu tác hại do lũ lụt gây ra; khuyến
khích nông dân tiết kiệm và tích lũy để đầu tư vào sản xuất.
Trong sản xuất nông nghiệp, Nhà nước chủ trương phát triển một nền nông
nghiệp hiện đại dựa trên cơ sở nền kinh tế thị trường, ứng dụng các thành tựu của
KHKT và công nghệ, quốc tế hóa thị trường hàng hóa nông sản và hiện đại hóa hệ
thống quản lý.
Nhà nước còn thực hiện chính sách khoán đến từng hộ nông dân dựa theo
điều kiện cụ thể của địa phương; tổ chức hệ thống khuyến nông để chuyển giao
công nghệ sản xuất, đào tạo nâng cao trình độ chuyên môn cho người sản xuất.
Thực hiện từng bước tự do hóa giá nông sản, Nhà nước thu mua 10 – 20%
sản lượng lương thực, các nông sản còn lại đều dựa trên quy luật cung – cầu của thị
trường.
Trung Quốc đã chủ trương phát triển công nghiệp nông thôn theo mô hình
xí nghiệp hương trấn gồm các loại hình sản xuất công nghiệp, chế biến nông sản,
sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ và thương mại – dịch vụ. Mô hình sản xuất này
nhằm góp phần tạo việc làm, giảm đói nghèo, góp phần vào sự tăng trưởng kinh tế
chung và giảm sức ép do di dân từ nông thôn ra thành thị.
Bên cạnh việc phát triển kinh tế, Trung Quốc còn chú trọng phát triển xã
hội với mục tiêu chung là ổn định xã hội, thúc đẩy tiến bộ xã hội thông qua phát
triển khoa học, giáo dục và xây dựng xã hội công bằng, văn minh và lành mạnh, thể
hiện trong văn kiện số 1 – 2006 là “sản xuất phát triển, đời sống sung túc, thôn
làng văn minh, thôn xã gọn gàng, quản lý dân chủ”. Đó chính là nội dung và yêu
cầu chính trong kế hoạch xây dựng nông thôn mới XHCN.
1.3.5. Nhật Bản
Nhật Bản là quốc gia đầu tiên của châu Á thực hiện chủ trương phát triển
nông nghiệp theo hướng CNH, HĐH. Với một nền nông nghiệp thủ công, truyền
thống Nhật Bản đã xây dựng được một nền nông nghiệp với trình độ khoa học công
nghệ cao và vươn lên thành nước phát triển có nền kinh tế phát triển đứng thứ hai
trên thế giới.
Nhật Bản đã thực hiện chính sách phát triển nông nghiệp dựa theo điều kiện
cụ thể từng giai đoạn. Để đảm bảo lương thực cho người dân, từ thập niên 1950 Nhà
nước đã tiến hành cải cách ruộng đất, hình thành kinh tế trang trại, xây dựng HTXNN
kiểu mới. Qua thập niên 1960, Nhà nước đã đẩy mạnh cơ giới hóa nông nghiệp ở
mức độ cao; phát triển các ngành công nghiệp, dịch vụ nông thôn để nâng cao năng
suất, tăng thu nhập cho nông dân tương đương với thu nhập của các lĩnh vực khác.
Từ thập niên 1970 đến nay, Nhật Bản thực hiện chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông
nghiệp như giảm diện tích trồng lúa, tăng diện tích rau quả, phát triển nền nông
nghiệp sinh thái; HĐH việc nuôi trồng, khai thác, chế biến thủy hải sản; kết hợp kinh
tế nông - lâm - ngư với dịch vụ du lịch; xuất khẩu vốn, công nghệ, thiết bị, vật tư
nông nghiệp ra nước ngoài để sản xuất nông sản nhập khẩu vào Nhật Bản và xuất
khẩu sang các nước khác.
Nhà nước thực hiện các chính sách bảo hộ nông nghiệp như bảo hộ thị
trường trong nước, trợ giá cho người sản xuất, trợ cấp và đầu tư cho sản xuất nông
nghiệp. Các chính sách này làm tăng chi phí xã hội, lãng phí tài nguyên, tăng mâu
thuẫn mậu dịch với các nước; nhưng vấn đề đạt được là đảm bảo việc làm và ổn
định đời sống nông dân.
Phát triển nông nghiệp luôn gắn với các chính sách bảo vệ môi trường tiến
tới phát triển một nền nông nghiệp theo hướng bền vững trên cơ sở áp dụng kỹ thuật
thích hợp để duy trì độ màu của đất, đảm bảo môi trường canh tác thuận lợi, chú
trọng an ninh lương thực bằng cách nhập khẩu nông sản và dự trữ lương thực.
Nhìn chung, trong xu hướng phát triển nông nghiệp theo hướng CNH, HĐH
của các nước châu Á đã tạo nên một số bài học kinh nghiệm quí báu cho Việt Nam
như có chính sách phát triển nông nghiệp với nội dung cụ thể nhằm đạt các mục tiêu
từng giai đoạn phát triển kinh tế; phát huy vai trò của các tổ chức, cá nhân trong quá
trình phát triển kinh tế nông nghiệp; có chính sách đồng bộ để nghiên cứu ứng dụng
các thành tựu của công nghệ sinh học trong việc lai tạo giống vật nuôi cây trồng
năng suất chất lượng cao; phát triển CSVCKT & CSHT nông thôn; để tiến tới xây
dựng một nền nông nghiệp hiệu quả cao, hiện đại và phát triển theo hướng bền
vững.
Những bài học kinh nghiệm trên có ý nghĩa quan trọng trong giai đoạn
thực hiện chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp theo hướng CNH, HĐH đối với nước ta
nói chung và khu vực ĐBSCL nói riêng. Đặc biệt đây là những kinh nghiệm thiết
thực để Đồng Tháp vận dụng trong giai đoạn trước mắt và lâu dài nhằm thúc đẩy sự
chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp theo hướng tích cực, đạt hiệu quả kinh tế cao.
1.4. Một số vấn đề chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp ĐBSCL
Đồng bằng sông Cửu Long nằm ở hạ lưu sông Mê Công, có một vị trí rất
thuận lợi cho việc phát triển KT-XH. Vùng gồm 13 tỉnh, thành phố với diện tích
hơn 40.000 km2, dân số 17,4 triệu người (2006) chiếm 12% diện tích và 20,7% dân
số cả nước, với một số ưu thế nổi bật:
- Nằm tiếp giáp và có biên giới chung với Campuchia trên hành lang kinh
tế Đông – Tây, nằm trong tiểu vùng sông Mê Công; có bờ biển dài trên 700 km, có
nhiều lợi thế về khí hậu, đất đai, nguồn nước, thị trường,…để phát triển một nền
nông nghiệp theo hướng CNH, HĐH có khả năng cung cấp nông sản cho thị trường
trong nước và xuất khẩu.
- ĐBSCL có thế mạnh lớn nhất là sản xuất nông nghiệp, trong đó
ngành trồng trọt giữ vai trò chủ yếu. Trung bình hàng năm, vùng sản xuất hơn
50% sản lượng lúa, 90% lượng gạo xuất khẩu, 70% lượng trái cây và 65%
lượng thủy sản của cả nước. ĐBSCL chính là vựa lúa lớn nhất và cũng là
vùng sản xuất thực phẩm hàng đầu của nước ta. Việc sản xuất LTTP ở đây
không những có ý nghĩa quan trọng đối với vùng mà còn có ý nghĩa lớn đối
với cả nước và ảnh hưởng đến thị trường. Trong xu thế hội nhập, ĐBSCL trở
thành vùng kinh tế quan trọng trong việc sản xuất LTTP và từng bước có sự
chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp theo hướng CNH, HĐH. Nông sản của vùng
ĐBSCL ngày càng đa dạng, phong phú, ứng dụng được tiến bộ của KHKT và
công nghệ, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu thị trường.
1.4.1. Chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp ở ĐBSCL
Trong những năm qua, cùng với chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp của cả
nước, ĐBSCL đã có chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp theo hướng CNH, HĐH. Định
hướng sản xuất nông nghiệp đến năm 2010 tập trung theo hướng: nhịp độ tăng
trưởng ngành nông nghiệp ở ĐBSCL đạt 5%/năm, phát triển chăn nuôi thành
ngành sản xuất chính, tăng tỉ trọng hàng hóa nông sản xuất khẩu, mở rộng thị
trường.
Phát triển nông nghiệp tạo nguồn nguyên liệu cho công nghiệp chế biến;
chuyển đổi cơ cấu cây trồng theo hướng thâm canh. Cần phát triển nuôi trồng thủy
sản có giá trị như tôm, cua và các loại đặc sản có giá trị xuất khẩu cao. Khuyến
khích phát triển các mô hình sản xuất phù hợp với điều kiện của vùng ĐBSCL để
góp phần chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp đáp ứng yêu cầu sản xuất và đời sống của
nhân dân. Về lâm nghiệp, thực hiện giao đất, giao và khoán rừng kết hợp với làm
vườn và sản xuất lâm, ngư kết hợp nuôi tôm và trồng rừng.
Ngư nghiệp
Lâm nghiệp
Nông nghiệp
2006 2005 2000
100%
90%
80%
70%
60%
50%
40%
30%
20%
10%
0%
1995
Biểu đồ 1.1: Giá trị sản xuất nông – lâm – ngư nghiệp ĐBSCL qua các năm
Cùng với chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp cả nước trong những năm qua
cơ cấu giá trị sản xuất nông – lâm – ngư của vùng ĐBSCL có sự chuyển biến đáng
kể; từ năm 1995 đến năm 2006, giá trị sản xuất nông nghiệp giảm từ 78,3% xuống
62,4% (giảm 15,9%), giá trị lâm nghiệp giảm chút ít, từ 1,7% xuống 1,3% (giảm
0,4%), giá trị sản lượng ngư nghiệp tăng mạnh từ 20% lên 36,3% (tăng 16,3%). Sự
chuyển dịch trên nhằm góp phần đa dạng hóa sản phẩm, đáp ứng nhu cầu LTTP
ngày càng tăng của thị trường trong và ngoài nước.
Ngành nông nghiệp với cơ cấu cây trồng, vật nuôi phát triển theo hướng
tập trung chủ yếu vào cây lương thực có hạt nhằm đảm bảo an ninh lương thực cùng
với phát triển cây trồng vật nuôi theo hướng sản xuất hàng hóa, đem lại hiệu quả
kinh tế cao và hướng tới phát triển bền vững.
Diện tích gieo trồng cây lương thực có hạt ở ĐBSCL đạt gần 4 triệu ha
chiếm hơn 46% diện tích cây lương thực có hạt của cả nước năm 2006. Trong cơ
cấu cây lương thực có hạt, lúa chiếm ưu thế tuyệt đối với hơn 99% diện tích cây
lương thực có hạt của vùng. Do đẩy mạnh khai hoang, mở rộng diện tích đất canh
tác, chủ yếu thuộc vùng trũng Đồng Tháp Mười và Tứ giác Long Xuyên, diện tích
lúa tăng từ 3.191 nghìn ha năm 1995 lên 3.946 nghìn ha năm 2000. Nhưng từ năm
2000 đến nay diện tích lúa có khuynh hướng giảm còn 3.773,2 nghìn ha năm 2006
do chủ trương tập trung sản xuất nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa với cơ
cấu cây trồng vật nuôi đa dạng nhằm phục vụ nhu cầu ngày càng cao của thị trường.
Biểu đồ 1.2. Cơ cấu diện tích lúa cả năm nước ta phân theo vùng (%)
Năm 2006 so với năm 1995 tỉ trọng diện tích lúa của ĐBSCL có tăng từ
47,2% lên 51,5%; ĐBSH giảm từ 17,6% xuống 15,3%; các vùng khác giảm 35,2%
xuống 33,2% so với cả nước. Xét trên bình diện chung, cả nước và các vùng kinh tế
đều giảm diện tích trồng lúa, trong đó ĐBSCL có tỉ trọng diện tích trồng lúa so với
cả nước còn cao, mặc dù diện tích có giảm do vùng có khả năng mở rộng diện hơn
so với các vùng khác.
Bảng 1.1. Tốc độ tăng trưởng diện tích và sản lượng lúa ĐBSCL.
(Lấy năm 1995 = 100%)
Năm 1995 2000 2005 2006
Diện tích 100 123,7 119,9 118,3
Sản lượng 100 130,2 150,4 141,8
(Nguồn: Niên giám Thống kê cả nước 2006)
Tốc độ tăng trưởng diện tích và sản lượng lúa vùng ĐBSCL, từ năm 1995
đến năm 2006 diện tích tăng 18,3%, sản lượng tăng 41,8%. Gần đây, diện tích lúa
vùng ĐBSCL giảm và sản lượng tăng do sản xuất nông nghiệp có sự chuyển đổi cơ
cấu gắn với nhu cầu thị trường ứng dụng thành tựu KHKT vào sản xuất, đẩy mạnh
thâm canh, tăng vụ, tăng năng suất góp phần nâng cao chất lượng và sản lượng lúa.
Bên cạnh đó, vùng ĐBSCL còn tập trung sản xuất một số sản phẩm làm
nguyên liệu cho ngành công nghiệp chế biến có thị trường tiêu thụ trong nước, thay
thế nguyên liệu nhập khẩu. Từ năm 1995 đến năm 2006 diện tích ngô tăng từ 20,2
nghìn ha lên 35,6 nghìn ha (tăng 76,2%); sản lượng tăng từ 84,0 nghìn tấn lên 191,8
nghìn tấn (tăng 128,3%). Ngoài ra vùng còn trồng một số loại cây công nghiệp ngắn
ngày như đậu tương, mía, lạc, sắn,…để cung cấp nguyên liệu cho ngành công
nghiệp chế biến thực phẩm, chế biến thức ăn gia súc.
Vùng ĐBSCL còn tập trung phát triển các vườn cây ăn trái với nhiều giống
đặc sản như xoài cát Chu, xoài cát Hòa Lộc, bưởi Năm Roi, bưởi Da Xanh, vú sữa
Lò Rèn, quýt hồng, nhãn da bò, nhãn “xuồng cơm vàng”,… Nhờ kỹ thuật canh tác
tiến bộ, áp dụng kỹ thuật chăm sóc và xử lý ra hoa trái vụ nên nhiều nhà vườn thu
hoạch với hiệu quả cao; giá trị sản lượng bình quân đạt 75 – 150 triệu đồng/ha/năm.
Vùng còn là nơi sản xuất rau thực phẩm tăng mạnh về diện tích và sản
lượng.
Trong thời gian gần đây việc sản xuất hoa, cây cảnh được chú trọng để
cung cấp cho nhu cầu trong nước và xuất khẩu với 2 vùng sản xuất nổi tiếng là Cái
Mơn (Bến Tre); Sa Đéc (Đồng Tháp), giá trị bình quân đạt 250 triệu đồng/ha/năm.
Ngành chăn nuôi từng bước có sự tăng trưởng khá, đáp ứng ngày càng cao
nhu cầu trong nước và xuất khẩu. Do nhu cầu thịt, sữa, trứng ngày càng tăng; nguồn
thức ăn cho chăn nuôi dồi dào, đặc biệt là nguồn thức ăn được chế biến được sản
xuất ngày càng nhiều; nguồn cung ứng giống gia súc, gia cầm ngày càng được chú
trọng đã tạo cơ sở thuận lợi thúc đẩy sự phát triển ngành chăn nuôi trong khu vực.
Lơn
Bò
Trâu
%
Năm 2006 200520001995
500
450
400
350
300
250
200
150
100
50
0
167.5 161.1
453.5
358.8
113.6125.2
31.1 31.1
51.1
100
Biểu đồ 1.3: Tốc độ tăng trưởng chăn nuôi vùng ĐBSCL
Năm 2006 so năm 1995 chăn nuôi trâu có khuynh hướng giảm từ 124,6
nghìn con xuống còn 38,8 nghìn con (giảm 68,9%) do trước đây trâu được nuôi để
lấy sức kéo, gần đây do cơ giới hóa trong nông nghiệp nên việc nuôi trâu ít được
chú trọng.
* Chăn nuôi bò phát triển khá nhanh; tốc độ tăng trưởng năm 2006 so với
năm 1995 đạt 353,5% chiếm 10,4% so với cả nước. Bò được nuôi nhiều để lấy thịt,
sữa nhằm cung ứng cho nhu cầu thực phẩm ngày càng tăng của nhân dân.
* Đàn lợn có tốc độ tăng trưởng khá nhanh và ổn định. Năm 2006 so với năm
1995 tăng 67,5% và chiếm 14,8% so với cả nước. Sản lượng lợn nuôi của vùng phát
triển do việc ổn định về nguồn thức ăn, cùng với xu hướng sản xuất hàng hóa phục vụ
cho nhu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu, góp phần nâng cao thu nhập và cải
thiện đời sống người dân.
* Gia cầm được chú trọng phát triển và phân bố rộng khắp. Năm 2000
vùng có 44.011 nghìn con chiếm 22,4% so với cả nước; năm 2005 do dịch cúm gia
cầm nên số lượng gia cầm giảm còn 31.347 nghìn con chiếm 14,3% so với cà nước;
qua năm 2006 số lượng gia cầm được khôi phục và tăng lên 36.378 nghìn con
chiếm 17,0% so với cả nước. Gia cầm được nuôi để lấy thịt, trứng phục vụ cho nhu
cầu trong và ngoài vùng; gia cầm chính là gà được nuôi dưới hình thức gia đình,
bán công nghiệp; vịt được nuôi dưới hình thức chăn thả theo đàn ở các ruộng trũng.
Ngành lâm nghiệp vùng ĐBSCL có sự chuyển biến tích cực theo hướng
xã hội hóa. Công tác trồng rừng, chăm sóc và bảo vệ rừng ngày càng được chú
trọng. Rừng được trồng tại các vùng phòng hộ xung yếu ven biển hoặc trên các
vùng trũng chua phèn thuộc vùng Đồng Tháp Mười, Tứ giác Long Xuyên, phía tây
sông Hậu và bán đảo Cà Mau. Tổng diện tích rừng hiện nay của vùng có 295.447
ha, độ che phủ khoảng 7,3%. Trong thời gian qua, nhờ ứng dụng KHKT mới trong
khâu tuyển chọn và nhân giống nên chất lượng rừng trồng và rừng sản xuất được
nâng cao.
Ngành thủy sản ĐBSCL có nhiều lợi thế trong việc nuôi, trồng và khai
thác thủy sản. Để thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng bền vững, bên
cạnh việc khai thác thủy sản, vùng chú trọng mở rộng diện tích nuôi thủy sản nước
ngọt, nước lợ và nước mặn. Một số nơi đã chuyển mục đích sử dụng đất từ trồng lúa
sang nuôi trồng thủy sản, đặc biệt là tôm và cá da trơn. Vùng đã trở thành vùng
trọng điểm số một của cả nước về thực phẩm. Từ năm 1995 đến năm 2006, trong cơ
cấu sản lượng thủy sản của vùng so với cả nước tăng từ 51,7% lên 54,3%.
Biểu đồ 1.4. Cơ cấu sản lượng thủy sản vùng ĐBSCL so với cả nước
1.4.2. Những khó khăn, thách thức
Chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp một số tỉnh còn mang tính tự phát, nảy
sinh nhiều vấn đề cần phải xử lý. Kinh tế nông nghiệp đã có bước phát triển vượt
bậc, song vẫn chưa khai thác hết tiềm năng sẵn có của vùng như tiềm năng nuôi
trồng thủy sản; chăn nuôi gia súc, gia cầm. Do công tác quy hoạch còn chậm, tính
pháp lý chưa cao, định hướng mang tính chủ trương, khâu thực hiện thiếu đồng bộ,
chưa đáp ứng yêu cầu thực tiễn.
Tốc độ tăng trưởng nông nghiệp khá cao nhưng chất lượng sản phẩm nông
nghiệp chưa cao, chưa đủ sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Sản xuất còn nặng
về số lượng, ít chú trọng đến chất lượng; chưa xây dựng được nhiều thương hiệu
nên làm hạn chế đến khả năng tiêu thụ sản phẩm trên thị trường, giá nông sản xuất
khẩu thường thấp hơn so với sản phẩm cùng loại khoảng 10% so với khu vực và thế
giới. Nguyên nhân chủ yếu là do sản xuất chưa gắn với chế biến và thị trường, giá
cả nông sản không ổn định nên nông dân chưa yên tâm khi chuyển sang nuôi, trồng
các cây con mới; KHKT và công nghệ chưa được tận dụng triệt để nhằm nâng cao
năng suất, chất lượng nông sản, chưa thực sự là “đòn bẩy” phục vụ cho sự chuyển
dịch cơ cấu nông nghiệp của vùng. Công tác khuyến nông, khuyến ngư, khuyến lâm
tại các địa phương chưa phát huy hết vai trò trong việc hướng dẫn người dân sản
xuất; việc thực hiện chưa đồng bộ và hiệu quả chưa cao.
Cơ sở hạ tầng tuy đã được đầu tư và từng bước có sự phát triển nhưng vẫn
chưa đáp ứng được yêu cầu sản xuất, sản xuất nông nghiệp luôn bị đe dọa bởi lũ lụt.
Hệ thống các công trình thủy lợi được xây dựng chưa đồng bộ, hiệu quả thấp. Hệ
thống các công trình thủy lợi, giao thông, điện, nước tại các vùng sâu, vùng xa,
vùng ngập lũ vẫn còn khó khăn, bất cập, chưa có điều kiện phát triển, thiếu CSHT
và kỹ thuật khó khăn lớn làm hạn chế đến sự phát triển kinh tế nông nghiệp của
vùng theo hướng CNH, HĐH.
Ở ĐBSCL vốn đầu tư cho sản xuất nông nghiệp còn hạn chế, tình trạng
thiếu vốn cho sản xuất cho vùng ĐBSCL luôn là vấn đề cần quan tâm vì trong thực
tế có nhiều chương trình cho vay vốn nhưng vẫn chưa đáp ứng nhu cầu sản xuất.
Cùng với cả nước, sản xuất vùng ĐBSCL thực hiện chuyển dịch cơ cấu
theo hướng CNH, HĐH, tăng cường ứng dụng các thành tựu của KHKT và công
nghệ sinh học vào sản xuất với máy móc và các trang thiết bị hiện đại trong khi
trình độ dân trí còn thấp. Đây chính là hạn chế lớn nhất của vùng trong việc đào tạo
nguồn nhân lực phục vụ cho sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế nói chung và cơ cấu
nông nghiệp nói riêng.
Bên cạnh đó, vùng còn gặp những khó khăn do thiên nhiên tạo ra như sự
phân mùa rất rõ rệt: mùa mưa vùng thường bị ngập lũ, mùa khô thiếu nước cùng với
sự gia tăng diện tích đất nhiễm phèn, nhiễm mặn làm cho việc cải tạo và sử dụng
đất gặp nhiều khó khăn. Do đó cần phát triển CNH nông nghiệp, giảm tính phụ
thuộc vào thiên nhiên của sản._.i huyện Cao Lãnh,
Thanh Bình và TP. Cao Lãnh; nuôi tôm trên ruộng ở Thanh Bình, Tháp Mười và
huyện Cao Lãnh...
Vùng Hồng Ngự đây là vùng ngập sâu vào mùa lũ với lợi thế trồng lúa và
khai thác thủy sản vào mùa lũ.
Vùng sản xuất lúa năm 2010 chiếm 89,5%, 2020 chiếm 82,3% diện tích đất
nông nghiệp của vùng, với cây lúa là cây trồng chủ yếu. Ngoài ra, vùng còn sản xuất
hoa màu, lúa – tôm – cá, tràm, nuôi cá tra trên ruộng thuộc huyện Hồng Ngự, Tân
Hồng, Tam Nông.
Vùng chuyên rau màu, cây công nghiệp ngắn ngày, xen lúa – màu tập trung
vùng ven sông Tiền hoặc trên các cù lao của huyện Hồng Ngự, Tam Nông.
Vùng lúa – tôm, lúa – cá, khả năng phát triển năm 2010 là 150 ha ở Hồng
Ngự, 200 ha ở Tân Hồng, 1.000 ha ở Tam Nông; năm 2020 đạt 500 ha ở Hồng Ngự,
500 ha ở Tân Hồng và 3.000 ha ở Tam Nông.
Cây ăn trái như ổi, xoài, nhãn ở Tân Hồng.
Vùng chăn nuôi gia cầm chủ yếu là vịt đàn, trâu bò với qui mô lớn.
Vùng phát triển mạnh như cá trên các ao hầm, nuôi cá bè, ươm cá giống.
Vùng Sa Đéc đây là vùng có diện tích canh tác ít hơn hai vùng Cao Lãnh và
vùng Hồng Ngự và có khuynh hướng thu hẹp tập trung phát triển các ngành phi nông
nghiệp.
Vùng sản xuất có diện tích nhỏ hơn so với các vùng khác, năm 2010 chiếm
42,9%, 2020 chiếm 31,5% so với diện tích đất nông nghiệp của vùng, tập trung ở
huyện Lấp Vò, Lai Vung, Châu Thành.
Vùng chuyên rau màu, cây công nghiệp ngắn ngày hoặc xen lúa – màu tập
trung vùng ven sông Tiền, sông Hậu và các sông rạch như chuyên canh màu ở
huyện Lấp Vò, Châu Thành, Lai Vung; rau sạch ở các vùng ven TX Sa Đéc và các
thị trấn.
Vùng lúa – tôm, lúa – cá: nuôi trên ruộng trong mùa lũ ở huyện Lấp Vò.
Vùng chuyên canh cây ăn trái ven sông Tiền, sông Hậu ở các huyện thị của
vùng.
Vùng trồng nấm rơm tập trung các xã phía Nam ven sông Hậu thuộc huyện
Lai Vung, Lấp Vò với diện tích 500 – 800 ha.
Vùng hoa kiểng tập trung tại thị xã Sa Đéc thuộc xã Tân Quy Đông, Tân
Quy Tây và Tân Khánh Đông; hình thành khu công nghệ cao chuyên sản xuất hoa
kiểng cung cấp cho thị trường trong nước và vươn ra xuất khẩu.
Vùng phát triển mạnh chăn nuôi heo, bò, gia cầm, trong đó nuôi heo gắn
với nghề sản xuất bột gạo truyền thống ở Sa Đéc, Châu Thành.
Vùng phát triển nuôi trồng thủy sản trên các bãi bồi ven sông, ao hầm với
hình thức nuôi công nghiệp thuộc các huyện Lấp Vò, Châu Thành, TX Sa Đéc, Lai
Vung.
3.3.7. Định hướng chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp theo hướng CNH,
HĐH và theo hướng sản xuất hàng hoá
Trong ngành trồng trọt cần tạo điều kiện thúc đẩy cơ giới hoá vào sản xuất
từ khâu làm đất, gieo xạ, tưới tiêu, công nghệ sau thu hoạch, phơi sấy; tuỳ từng
khâu phấn đấu đạt từ 80 – 100%. Theo các nhà nghiên cứu khoa học thì tổn thất
trong khâu thu hoạch và sau thu hoạch ở Đồng Tháp khoảng 10% sản lượng lúa (vụ
Đông Xuân là 9,1%, vụ Hè Thu 10,7% và vụ Thu Đông là 10,5%), gây thiệt hại sau
thu hoạch từ khâu gặt lúa, gom lúa, suốt lúa, phơi sấy, tồn trữ vào xây xát. Hiện tại
toàn tỉnh có 385 lò sấy, 392 máy gặt đập xếp dãy phục vụ 10% diện tích. Kế hoạch
2006 – 2008 tỉnh đầu tư thêm 247 máy gặt xếp dãy, 18 máy gặt đập liên hợp, 110
máy sấy, tổng vốn 10 tỷ đồng trong đó tỉnh cho vay 60% lãi suất 0%, còn 40% vốn
nhà đầu tư.
Bên cạnh đó cần cơ giới hoá khâu vận chuyển sơ chế, bảo quản và chế biến
nông sản là khâu thiết yếu trong giai đoạn trước mắt và tương lai. Có như vậy thì sản
phẩm nông nghiệp đảm bảo được chất lượng và cung cấp cho thị trường trong thời
gian lâu dài. Đối với Đồng Tháp, về định hướng chung thì công nghiệp chế biến giữ
vị trí chủ yếu cho ngành công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp, từng bước đầu tư theo
chiều sâu thay thế dần các thiết bị lạc hậu, với các ngành mũi nhọn của tỉnh là chế
biến nông – thủy – súc sản, đồ uống từ trái cây, …. Phấn đấu 2020 ngành công
nghiệp chế biến LTTP chiếm 49,5% trong cơ cấu ngành công nghiệp của tỉnh. Duy trì
và phát triển các làng nghề truyền thống, đăng ký thương hiệu cụ thể như: nem Lai
Vung, chiếu Định Yên, làm bột Sa Đéc,….
Để phục vụ cho ngành chăn nuôi theo hình thức công nghiệp và nuôi trồng
thủy sản, cần tiếp tục đầu tư xây dựng các cơ sở chế biến thức ăn công nghiệp dựa
trên nguồn nguyên liệu có sẵn tại địa phương như: ngô, đậu nành, nhưng điều quan
trọng là có sự phối hợp chặt chẽ giữa nhà sản xuất – nhà cung ứng nguyên liệu và
nhà tiêu thụ.
Từng bước phấn đấu xây dựng khu nông nghiệp kỹ thuật cao ở TP. Cao
Lãnh để cung ứng giống cây trồng, vật nuôi; khu nông nghiệp công nghệ cao
chuyên sản xuất cung ứng hoa, cây kiểng ở thị xã Sa Đéc. Nhà nước cần có chính
sách hỗ trợ các cơ sở sản xuất giống tư nhân về quy trình kỹ thuật, nguồn giống có
chất lượng, vốn, … để phát huy vai trò của thành phần kinh tế này cung cấp nguồn
giống cho nhu cầu sản xuất của địa phương.
Nhìn chung, trong quá trình sản xuất nông nghiệp nếu được chú trọng từ
các khâu: cung cấp giống tốt, quy trình sản xuất được ứng dụng tiến bộ KHKT,
giảm chi phí sản xuất, đảm bảo chất lượng nông sản; sơ chế hoặc chế biến sản phẩm
với mẫu mã đa dạng về hình thức, phù hợp với nhu cầu ngày càng cao của người
tiêu dùng thì sản phẩm nông nghiệp của Đồng Tháp sẽ đáp ứng được nhu cầu ngày
càng đa dạng của thị trường trong và ngoài nước. Đặc biệt, cần quan tâm đến việc
đăng ký thương hiệu, quảng bá thương hiệu qua mạng lưới công nghệ thông tin và
công tác dự báo thị trường. Có như vậy, sản xuất nông nghiệp của Đồng Tháp thực
sự chuyển dịch theo hướng CNH, HĐH phục vụ ngày càng tốt hơn cho nhu cầu của
thị trường.
3.4. Một số giải pháp:
3.4.1. Quy hoạch tổng thể và vùng nông nghiệp ổn định
Dựa trên định hướng phát triển kinh tế chung của tỉnh Đồng Tháp đến năm
2020 là “phát triển kinh tế với tốc độ nhanh, bền vững, có hiệu quả, nâng cao, năng
lực cạnh tranh trên thị trường trong nước và quốc tế, chuyển dịch nhanh cơ cấu
kinh tế theo hướng công nghiệp – thương mại dịch vụ và nông nghiệp kỹ thuật cao,
góp phần quan trọng trong sự nghiệp phát triển KT-XH vùng ĐBSCL”; cùng với lợi
thế của từng vùng kinh tế của tỉnh, công tác quy hoạch tổng thể và vùng nông
nghiệp cần dựa trên cơ sở tăng hiệu quả sản xuất trên một đơn vị diện tích; không
chỉ đa dạng hóa, chuyên môn hoá sản xuất mà còn phải tiến hành theo chiều sâu
trong sản xuất nông nghiệp. Trên cơ sở quy hoạch tổng thể và vùng sản xuất nông
nghiệp, Đồng Tháp được quy hoạch thành ba vùng:
Vùng Cao Lãnh là vùng kinh tế trọng điểm của tỉnh và được chia thành hai tiểu
vùng:
Khu vực phía Tây là vùng ven sông Tiền, các cù lao trên sông với nhiều lợi
thế phát triển nông nghiệp đa dạng gồm lúa, rau màu, trái cây, phát triển mạnh thủy
sản trên các bãi bồi; hình thành vùng chuyên canh với qui mô tập trung tạo sản
phẩm hàng hóa chất lượng cao. Khu vực này có khu công nghiệp Trần Quốc Toản,
đô thị trung tâm TP. Cao Lãnh, TT Thanh Bình, Mỹ Thọ; Siêu thị Đồng Tháp, chợ
đầu mối trái cây Mỹ Hiệp, chợ đầu mối gạo Thanh Bình. Đây là cơ sở quan trọng để
thúc đẩy sản xuất nông nghiệp.
Khu vực phía Đông chủ yếu là chuyên canh lúa, chuyên canh sen, chăn
nuôi; phát triển lâm nghiệp; với đô thị tập trung là TT Mỹ An là cửa ngỏ của tỉnh
hướng vào Đồng Tháp Mười, có các điểm du lịch Gò Tháp, Xẻo Quýt, Gáo Giồng
cùng với tuyến đường N2 – đường Hồ Chí Minh khi hoàn thành sẽ tác động tích cực
đến việc cung ứng sản phẩm nông nghiệp cho du khách, cho thị trường trong và
ngoài tỉnh.
Vùng Hồng Ngự là vùng có thế mạnh về nông nghiệp và dịch vụ thương
mại với hai tiểu vùng:
Khu vực phía Tây dọc theo sông Tiền và các vùng cù lao chủ yếu phát triển
lúa màu, nuôi cá bè, nuôi cá ven các bãi bồi, khai thác thủy sản trong mùa lũ. Đô thị
Hồng Ngự đang được nâng cấp, TT An Long, cửa khẩu Thường Phước, cảng Hồng
Ngự là điều kiện thuận lợi cho hoạt động thương mại – dịch vụ, là động lực thúc đẩy
sản xuất nông nghiệp.
Khu vực phía Đông chủ yếu là vùng chuyên canh lúa, chăn nuôi đại gia súc,
nuôi tôm cá trong mùa lũ và phát triển lâm nghiệp. Ở đây có vườn quốc gia Tràm
Chim, Giồng Găng; cửa khẩu Dinh Bà; TT Sa Rài; là cơ sở để phát triển thương mại
– dịch vụ và du lịch cho vùng
Vùng Sa Đéc với cơ cấu nông nghiệp đa dạng như lúa, rau màu, trái cây,
hoa kiểng, phát triển thủy sản trên các bãi bồi. Vùng có khu công nghiệp Sa Đéc,
khu công nghiệp Sông Hậu; cảng Sa Đéc, Cảng Tân Thành, Siêu thị Vinatex, chợ
đầu mối gạo Sa Đéc, đô thị Sa Đéc, Lấp Vò, Lai Vung, Châu Thành. Đây là điều
kiện quan trọng để chế biến nông sản, cung cấp sản phẩm nông nghiệp cho thị
trường trong và ngoài tỉnh vươn ra xuất khẩu.
3.4.2. Phát triển cơ sở hạ tầng phục vụ nông nghiệp
Về mặt thủy lợi cần bổ sung, nâng cấp, cải tạo hệ thống kênh nội đồng, quy
hoạch mạng lưới thủy lợi cho từng vùng nhằm phục vụ kịp thời cho sản xuất và sinh
hoạt của người dân. Hoàn chỉnh hệ thống các công trình đầu mối kiểm soát lũ. Xây
dựng các trạm bơm điện tại các chốt quan trọng để phục vụ cho việc tưới và tiêu
nước. Kiên cố hóa mạng lưới kênh mương, bờ bao chống lũ để đảm bảo cho sản
xuất của các nhà vườn. Công tác thủy lợi được coi là cơ sở quan trọng phục vụ cho
sự chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp của tỉnh. Vì vậy, công tác quy hoạch mạng lưới
thủy lợi phải tiến hành song song với quy hoạch sản xuất nông nghiệp; chính sự
đồng bộ này sẽ tạo điều kiện tưới, tiêu nước, tạo môi trường mặt nước cần thiết cho
việc nuôi trồng thủy sản.
Bên cạnh đó việc đầu tư nâng cấp, cải tạo mở rộng mạng lưới giao thông
thuộc các tuyến giao thông thủy - bộ, tại các đầu mối giao chính của tỉnh là một yêu
cầu cấp thiết được ngành giao thông tỉnh đầu tư trong giai đoạn trước mắt và lâu
dài. Trong tương lai, với sự đầu tư của Trung ương hoàn thành tuyến đường N1, N2 -
đường Hồ Chí Minh, cầu Bắc Cao Lãnh, cầu Vàm Cống sẽ tạo cơ hội thuận lợi cho
sự phát triển kinh tế của tỉnh nói chung và sản xuất nông nghiệp nói riêng thu hút
vốn đầu tư, nâng cao hiệu quả sản xuất, góp phần nâng cao đời sống người dân đặc
biệt là dân cư nông thôn.
Ngành điện lực của tỉnh phấn đấu nâng cao tổng dung lượng để đáp ứng
cho nhu cầu sản xuất và sinh hoạt của người dân. Đây là giải pháp cần thực hiện
đồng bộ với sự chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp của tỉnh theo hướng CNH, HĐH.
Ngành thông tin liên lạc hoàn thiện và hiện đại hóa, phát triển mạng lưới
thông tin kinh tế kỹ thuật, thị trường trên mạng internet, tăng cường city web cho
tỉnh và ngành kinh tế quan trọng, tạo điều kiện thuận lợi cho nhà sản xuất nông
nghiệp nhanh chóng tiếp cận với tiến bộ KHKT, ứng dụng cộng nghiệ mới trong
sản xuất và quảng bá sản phẩm trên mạng để có cơ hội tìm kiếm thị trường.
3.4.3. Chính sách về vốn
Dự báo giai đoạn 2006 - 2020 vốn đầu tư vào lĩnh vực nông - lâm - ngư lên
tới 18.605 tỉ đồng, trong đó nguồn vốn chủ yếu quy động từ các thành phần kinh tế
chiếm 96, 4%. Chính vì vậy, tỉnh cần có chính sách thu hút các thành phần kinh tế
đặc biệt là đầu tư nước ngoài vào những ngành kinh tế mà địa phương có tiềm năng
và lợi thế như nông ngư nghiệp các công nghiệp chế biến LTTP, công nghiệp chế
biến thức ăn gia súc, thức ăn thủy sản, các ngành công nghiệp cơ khí chế tạo các
loại máy móc phục vụ cho sản xuất nông nghiệp như máy bơm nước, máy gặt đập,
lò sấy. Trong đó, chính sách cung ứng và đào tạo lao động, xây dựng CSHT, xây
dựng nhà ở cho công nhân, chính sách tháo gỡ khó khăn cho các nhà đầu tư, chính
sách xúc tiến đầu tư, trên cơ sở phù hợp với các quy định luật pháp và trong thẩm
quyền của tỉnh.
Có chính sách đầu tư tập trung hoàn chỉnh nhanh hệ thống CSHT, đầu tư
mới và nâng cấp mở rộng mạng lưới giao thông vận tải, điện, thông tin liên lạc.
Thực hiện “chính sách 7 sẵn sàng” cho mọi trường hợp huy động vốn trong và
ngoài nước như sẵn sàng về thông tin, về đất, về lao động, về viễn thông, về giao
thông – điện - nước, về nhà ở cho công nhân và về hỗ trợ vốn - thuế.
3.4.4. Đào tạo nguồn nhân lực
Trong xu hướng chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp theo hướng CNH, HĐH;
tỉnh cần có chính sách cụ thể để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong nông
nghiệp như nâng cao trình độ văn hóa, trình độ chuyên môn kỹ thuật, trình độ quản
lý theo nền kinh tế thị trường, hiểu biết về pháp luật,…Phát triển mạnh mạng lưới
khuyến nông để kịp thời cung cấp những thông tin cần thiết về kỹ thuật nuôi trồng,
thu hoạch, bảo quản, sơ chế hoặc chế biến sản phẩm nông nghiệp cho người sản
xuất. Nhà nước cần có chính sách ưu đãi nhằm thu hút nhân tài trong lĩnh vực nông
nghiệp, xây dựng đội ngũ lao động có trình độ chuyên môn làm lực lượng nồng cốt
cho các cơ sở nông nghiệp tại các địa phương.
Cần chú trọng công tác hướng nghiệp, dạy nghề đặc biệt là các ngành nghề
nông - lâm - ngư nghiệp, các ngành nghề truyền thống chế biến các sản phẩm nông
nghiệp của địa phương tại các trường phổ thông hoặc các tầng lớp thanh niên. Bên
cạnh đó, tỉnh còn có một hệ thống các cơ sở dạy nghề tại các huyện thị, trường Cao
đẳng nghề, trường Cao đẳng Cộng đồng, trường Đại học Đồng Tháp; là điều kiện quan
trọng để đào tạo đội ngũ lao động trong nông nghiệp đảm bảo về số lượng, chất lượng,
năng động với cơ chế thị trường.
3.4.5. Đẩy mạnh công tác nghiên cứu khoa học công nghệ phục vụ cho
nông nghiệp
Phát huy năng lực hoạt động của các trung tâm kỹ thuật nông nghiệp tại các
huyện, thị trên cơ sở lai tạo, nhân giống nhằm cung cấp giống cây trồng, vật nuôi,
thủy sản với năng suất, chất lượng cao.
Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ vốn, kiểm soát các cơ sở nhân giống của
tư nhân để cung ứng cho người sản xuất đảm bảo về chất lượng với năng suất và
hiệu quả cao; liên kết với các trung tâm giống tại các tỉnh lân cận, khu vực, quốc gia
hoặc nhập giống ngoại với năng suất chất lượng cao để cung ứng cho nông dân. Bên
cạnh đó, tỉnh còn chú trọng việc thành lập trung tâm công nghệ cao sản xuất giống
cây, con tại TP. Cao Lãnh, sản xuất giống hoa kiểng tại TX Sa Đéc.
Tăng cường công tác nghiên cứu, ứng dụng các đề tài nghiên cứu khoa
học phục vụ cho sản xuất nông nghiệp như sản xuất các loại giống cây, con có chất
lượng cao; các tiến bộ KHKT trong sản xuất, thu hoạch, chế biến và bảo quản nông
sản; xử lý các chất thải để đảm bảo môi trường cho nuôi trồng thủy sản; các kỹ
thuật phòng trị các dịch bệnh, sâu bệnh cho sản xuất nông, ngư.
3.4.6. Phát triển nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa, phục vụ
thị trường
Nhà nước cần có những chính sách giúp đỡ, hỗ trợ nông dân về giống, vốn,
kỹ thuật canh tác, đẩy mạnh khâu chế biến để tạo ra sản phẩm đa dạng có chất
lượng cao đáp ứng cho nhu cầu thị trường trong và ngoài nước. Trong xu hướng
chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp tỉnh theo hướng CNH, HĐH thị trường là vấn đề
cần được quan tâm của nông dân, họ sản xuất “ cái mà thị trường cần”. Nếu giải
quyết tốt vấn đề thị trường bao gồm thị trường đầu vào và thị trường đầu ra, thị
trường trong nước và thị trường ngoài nước, ổn định và mở rộng thị trường là yếu tố
quyết định đối với việc sản xuất theo hướng sản xuất hàng hóa. Tuy nhiên, vấn đề
quan trọng là làm sao thực hiện tốt công tác dự báo thị trường, ước đoán được nhu
cầu của thị trường trong hiện tại và tương lai. Có như vậy, sẽ giúp cho người sản
xuất chủ động sản xuất để đáp ứng nhu cầu thị trường, hạn chế đến mức thấp nhất
những biến động của thị trường làm ảnh hưởng sản xuất.
3.4.7. Phát triển nông nghiệp theo hướng bền vững
Thực hiện sự chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp theo hướng bền vững chính
là mục tiêu vươn tới của tỉnh Đồng Tháp nói riêng mà còn là tiêu chí phấn đấu của
khu vực ĐBSCL, của Việt Nam và toàn thế giới. Song để xây dựng nền nông
nghiệp theo hướng bền vững, trước mắt địa phương cần tập trung khai thác các tiềm
năng và sử dụng nguồn lao động nông thôn đạt hiệu quả kinh tế cao, quan tâm
thường xuyên đến việc gìn giữ và bảo vệ môi trường, khôi phục những cảnh quan
truyền thống vốn có tiêu biểu cho hệ sinh thái của vùng.
Phát triển kinh tế nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa tạo ra nhiều
sản phẩm có giá trị kinh tế, phù hợp với hệ sinh thái đặc trưng từng vùng, hình
thành vùng sản xuất tập trung chuyên môn hóa cao gắn liền với công nghệ sau thu
hoạch và công nghệ chế biến. Sản phẩm làm ra đảm bảo vấn đề an toàn thực phẩm
và đa dạng hóa sản phẩm, tăng cường sức cạnh tranh trên thị trường trong và ngoài
nước.
Phát triển đồng bộ CSVCKT & CSHT để phục vụ ngày càng cao nhu cầu
sản xuất và sinh hoạt, từng bước cải thiện và nâng cao mức sống của người dân
nông thôn.
Muốn tiến tới một nền nông nghiệp bền vững, điều trước mắt là phải nâng
cao trình độ dân trí, trình độ sản xuất gắn kết với ý thức sản xuất “các sản phẩm
sạch” hiệu quả cao và ý thức bảo vệ môi trường trong cộng đồng dân cư. Đây chính
là vấn đề cốt lõi mà địa phương cần thực hiện trong giai đoạn trước mắt và lâu dài.
KẾT LUẬN
Đồng Tháp là tỉnh có nhiều tiềm năng, lợi thế để phát triển một nền nông
nghiệp với các sản phẩm chủ lực như lúa, gạo, cây ăn quả, thủy sản, hoa kiểng, rau
đậu,…Số lượng và chất lượng của sản phẩm nông nghiệp ngày càng giữ vị trí cao
trong việc đáp ứng nhu cầu thị trường trong nước và xuất khẩu. Đây chính là kết
quả tất yếu của sự chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp theo hướng CNH, HĐH.
Tuy nhiên, trong thực tế sự chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi, thủy
sản, có sự chuyển biến còn chậm do sự thiếu đồng bộ về cơ chế, chính sách, nguồn
vốn đầu tư, tư tưởng của một bộ phận nông dân chưa thực sự đổi mới theo hướng
sản xuất hàng hoá tập trung với qui mô lớn và biến động về giá cả thị trường.
Nhận thấy rõ vai trò, tiềm năng sản xuất nông nghiệp của tỉnh trong hiện tại
và tương lai, Đại hội Đảng lần VIII của tỉnh đã xác định “Tiếp tục nâng cao chất
lượng, hiệu quả nền sản xuất nông nghiệp và phát triển kinh tế nông thôn theo
hướng CNH, HĐH”. Cần nhanh chóng chuyển đổi, cơ cấu cây trồng vật nuôi theo
hướng tăng hiệu quả kinh tế trên cơ sở giảm diện tích trồng lúa, tăng diện tích hoa
màu, cây công nghiệp ngắn ngày, cây ăn quả, phát triển chăn nuôi, nuôi trồng thủy
sản.
Trên cơ sở áp dụng đồng loạt các giải pháp về giống, vốn, chuyển giao công
nghệ từ khâu sản xuất, thu hoạch, chế biến nông sản, phát triển CSVCKT&CSHT,
về cơ cấu chính sách, về bảo vệ môi trường, nhằm đảm bảo nâng cao chất lượng sản
phẩm, hạ giá thành và tăng sức cạnh tranh trong xu thế hội nhập với nền kinh tế thế
giới và khu vực. Đây là chủ trương đúng đắn, tác động sâu sắc đến sự chuyển dịch
cơ cấu nông nghiệp của tỉnh theo hướng CNH, HĐH.
Nhưng muốn đạt được mục tiêu trên đòi hỏi phải có sự nỗ lực của Nhà
nước và nhân dân tỉnh Đồng Tháp cùng với việc ban hành những chủ trương, giải
pháp phù hợp. Hy vọng rằng đến năm 2020, nền nông nghiệp tỉnh Đồng Tháp sẽ
phát triển với tốc độ nhanh, bền vững, có hiệu quả, nâng cao năng lực cạnh tranh
trên thị trường trong và ngoài nước, góp phần quan trọng trong việc xây dựng vùng
trọng điểm LTTP ĐBSCL trở thành vùng sản xuất hàng hoá chất lượng cao của cả
nước.
Để thúc đẩy nhanh sự chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp tỉnh Đồng Tháp theo
hướng CNH, HĐH tác giả có một số kiến nghị cụ thể:
- Nhà nước cần tổ chức sản xuất nông nghiệp thành những vùng tập trung
với qui mô lớn, phát triển mô hình HTXNN, kinh tế trang trại tạo điều kiện ứng
dụng các thành tựu KHKT và công nghệ: cơ khí hóa, thủy lợi hóa, hóa học hóa,
điện khí hóa, sinh học hóa, công nghệ bảo quản sau thu hoạch và chế biến nông sản
để nâng cao giá trị sản phẩm và tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường.
- Nhà nước cần có những chính sách hữu hiệu để thu hút sự đầu tư vốn
trong và ngoài nước trong lĩnh vực nông - lâm - ngư nghiệp nhằm huy động mọi
nguồn lực tập trung cho sự chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp theo hướng CNH,
HĐH.
- Nhà nước cần có chính sách quản lý việc tiêu thụ nông sản thông qua việc
thu mua, chế biến bảo quản, ưu đãi vốn vay để người dân an tâm trong sản xuất.
- Tạo điều kiện liên kết chặt “bốn nhà”: nhà nông, nhà khoa học, nhà nước,
nhà kinh doanh trong khâu sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ban Tư tưởng-văn hoá Trung ương (2006), Tài liệu học tập Nghị quyết Đại hội X
của Đảng, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội
2. Ban Tư tưởng-văn hoá Trung ương (2002), Tài liệu nghiên cứu các Nghị quyết
Hội nghị lần V Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá IX - NXB Chính trị
Quốc gia, Hà Nội.
3. Báo điện tử Đảng Cộng Sản Việt Nam (31/1/2007), Nông nghiệp nông thôn Việt
Nam 20 năm đổi mới và phát triển – Email: dangcongsan@.cpv.org.vn.
4. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (11/2004), “Tham luận tại Hội thảo khoa
học vì sự phát triển của vùng đồng bằng sông Cửu Long”, Định hướng và
giải pháp chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông-lâm nghiệp vùng đồng bằng
sông Cửu Long, Cần Thơ.
5. Nguyễn Văn Bích, PTS. Chu Tiến Quang (1999), Phát triển nông nghiệp nông
thôn trong giai đoạn công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam, NXB Nông
nghiệp, Hà Nội.
6. Nguyễn Minh Châu (11/2004), “Tham luận tại Hội thảo khoa học vì sự phát triển
của vùng đồng bằng sông Cửu Long”, Các giải pháp quy hoạch và sản xuất
hoa quả chất lượng cao phục vụ cho xuất khẩu, Cần Thơ.
7. Nguyễn Thị Minh Châu, “Tham luận tại Hội thảo khoa học vì sự phát triển của
vùng đồng bằng sông Cửu Long”, Quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế
nông nghiệp đồng bằng sông Cửu Long những năm đầu thế kỷ XXI, Cần
Thơ.
8. Dương Văn Chín (11/2004), “Tham luận tại Hội thảo khoa học vì sự phát triển
của vùng đồng bằng sông Cửu Long”, Định hướng chuyển dịch cơ cấu cây
trồng khu vực đồng bằng sông Cửu Long, Cần Thơ.
9. Cục thống kê Đồng Tháp (2000), Niên giám thống kê Đồng Tháp 2000, TP.Hồ
Chí Minh
10. Cục thống kê Đồng Tháp (2005), Niên giám thống kê Đồng Tháp 2005, TP.Hồ
Chí Minh
11. Cục thống kê Đồng Tháp (2006), Niên giám thống kê Đồng Tháp 2006, TP.Hồ
Chí Minh
12. Châu Ngọc Hà (2004), Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn,
vùng ngoại ô thành phố Hồ Chí Minh hiện trạng và những định hướng, luận
văn thạc sĩ khoa học, trường Đại học Sư phạm Tp.Hồ Chí Minh.
13. Mai Hà (1999), Hỏi và đáp về công nghiệp hoá, hiện đại hoá – NXB Thanh
niên, Bến Tre.
14. Phạm Xuân Hậu, Nguyễn Kim Hồng, Đặng Văn Phan (1995), Địa lý kinh tế xã
hội Việt Nam (tập 1) – NXBGD.
15. Nguyễn Kim Hồng (chủ biên), Phạm Xuân Hậu, Đào Ngọc Cảnh, Phạm Thị
Xuân Thọ (1997), Địa lý kinh tế xã hội đại cương, Đại học Sư phạm Tp. Hồ
Chí Minh.
16. Trần Kiều Hương (2005), Cơ cấu và sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nhiệp,
nông thôn tỉnh Hưng Yên theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, luận
văn thạc sĩ khoa học địa lý, trường Đại học Sư phạm Hà Nội, Hà Nội.
17. Bùi Chí Hữu (11/2004), “Tham luận tại Hội thảo khoa học vì sự phát triển của
vùng đồng bằng sông Cửu Long”, Một số giải pháp trong sản xuất lúa gạo
chất lượng cao phục vụ xuất khẩu ở đồng bằng sông Cửu Long, Cần Thơ.
18. Phạm Chí Năng (12/2004), Điều tra nghiên cứu, biên soạn tài liệu giảng dạy
lịch sử và địa lý địa phương tỉnh Đồng Tháp, Đồng Tháp
19. Đặng Văn Phan (chủ biên), PGS. TS. Nguyễn Kim Hồng (2006), Địa lý kinh tế
xã hội Việt Nam thời kỳ hội nhập, NXB Giáo dục, Tp. Hồ Chí Minh.
20. Nguyễn Viết Phổ, Vũ Văn Tuấn (1995), Thiên nhiên đồng bằng sông Cửu Long,
NXB Nông nghiệp, Hà Nội.
21. Lê Hưng Quốc (2003), Xây dựng cơ cấu sản xuất tiên tiến trong nông nghiệp,
NXB Nông nghiệp, Hà Nội.
22. Trần Thành Quang (2000), Những cơ hội đầu tư ở Đồng Tháp đồng bằng sông
Cửu Long đón chào thế kỉ XXI, NXB Văn nghệ Tp.Hồ Chí Minh, Tp.Hồ Chí
Minh.
23. Trương Thị Minh Sâm (11/2004), “Tham luận tại Hội thảo khoa học vì sự phát
triển của vùng đồng bằng sông Cửu Long”, Các giải pháp kinh tế trang trại
ở đồng bằng sông Cửu Long, Cần Thơ.
24. Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (9/2007), Báo cáo tóm tắt Quy hoạch
và Phát triển nông thôn tỉnh Đồng Tháp đến năm 2020, Đồng Tháp.
25. Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (2000), Đề án quy hoạch phát triển
nuôi trồng thuỷ sản tỉnh Đồng Tháp giai đoạn 2001 – 2010, Đồng Tháp.
26. Sở Kế hoạch và Đầu tư (8/2007), Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế-xã hội
tỉnh Đồng Tháp đến năm 2020, Đồng Tháp.
27. Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (các số 1, 2, 3, 4 năm 2005, 2006; số 1
năm 2007), Bản tin Nông nghiệp và nông thôn Đồng Tháp, Đồng Tháp.
28. Đặng Kim Sơn (2001), Công nghiệp hoá từ nông nghiệp lý luận thực tiễn và
triển vọng áp dụng ở Việt Nam, NXB Nông nghiệp, Hà Nội.
29. Lê Quốc Sử (2001), Chuyển dịch cơ cấu và xu hướng phát triển kinh tế nông
nghiệp Việt Nam theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá từ thế kỷ XX đến
thế kỷ XXI trong “thời đại kinh tế tri thức”, NXB Thống kê, Hà Nội.
30. Trung tâm xúc tiến Thương mại và Đầu tư Đồng Tháp (2005), Đồng Tháp tiềm
năng và cơ hội đầu tư, Đồng Tháp, Email: tmdldt@.hcm.vnn.vn
31. Lê Thông chủ biên (2006), Địa lý các tỉnh và thành phố Việt Nam-tập 6, NXB
Giáo dục, Hà Nội.
32. Thời báo tài chính (2004), Phát triển công nghiệp nông thôn.
33. Tỉnh Ủy Đồng Tháp (28/11/2005), Báo cáo chính trị của Ban chấp hành Đảng
bộ tỉnh trình Đại hội đại biểu lần VIII của Đảng bộ tỉnh, Đồng Tháp.
34. UBND tỉnh Đồng Tháp (30/12/2005), Báo cáo tình hình phát triển kinh tế-xã
hội 5 năm 2001 – 2005, phương hướng nhiệm vụ 5 năm 2006 – 2010, Đồng
Tháp.
35. UBND tỉnh Đồng Tháp (14/3/2007), Báo cáo sơ kết 5 năm (2001-2005) thực
hiện Nghị quyết số 15 – NQ/TW Hội nghị trung ương 5 (khoá IX) về việc đẩy
nhanh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn tỉnh Đồng
Tháp thời kì 2001 – 2010.
36. Nguyễn Thị Vân (2004), “Tham luận tại Hội thảo khoa học vì sự phát triển của
vùng đồng bằng sông Cửu Long”, Những bước phát triển mới trong kinh tế
nông-lâm-ngư nghiệp vùng đồng bằng sông Cửu Long, một số giải pháp chủ
yếu, Cần Thơ.
37.
Phụ lục 1. Số đơn vị hành chính diện tích và dân số tỉnh Đồng Tháp năm 2006
Đơn vị Số xã Số phường,
thị trấn
Diện tích
(km2)
Dân số
(người)
Toàn tỉnh
TP. Cao Lãnh
TX Sa Đéc
Huyện Tân Hồng
Huyện Hồng Ngự
Huyện Tam Nông
Huyện Thanh Bình
Huyện Tháp Mười
Huyện Cao Lãnh
Huyện Lấp Vò
Huyện Lai Vung
Huyện Châu Thành
119
7
3
8
15
11
12
12
17
12
11
11
23
8
6
1
1
1
1
1
1
1
1
1
3 374
107
60
311
332
474
341
528
491
246
238
246
1 667 804
151 027
103 211
81 473
224 619
99 047
162 444
128 184
206 194
181 502
164 552
165 551
(Nguồn: Niên giám Thống kê tỉnh Đồng Tháp năm 2006)
Phụ lục 2. Cơ cấu vốn đầu tư xây dựng cơ bản tỉnh Đồng Tháp
Chỉ tiêu 2000 2005 2006
Tổng số (triệu đồng)
Cơ cấu (%)
Tổng số
- Ngân sách Nhà nước
- Vốn tín dụng
- Vốn tự có của doanh nghiệp Nhà nước
- Vốn khác
360.138
100
81,6
13,3
0,0
5,1
938.680
100
69,7
13,3
12,7
4,3
1.001.054
100
78,4
12,9
6,9
1,8
(Nguồn: Niên giám Thống kê tỉnh Đồng Tháp 2006)
Phụ lục 3: Lượng nhiệt, mưa tỉnh Đồng Tháp năm 2006
8 0.3
55.3 65.7
145.2
190.4 200.6 189.9
358.8
274.3
12.8
30.6
24.3
25
25.6
26.4
28.1
27.6
27.1 27.1
27.3 27.4
26.7 26.6
0
50
100
150
200
250
300
350
400
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12
22
23
24
25
26
27
28
29
lượng mưa
Nhiệt độ
mm 0C
Phụ lục 4. Kim ngạch xuất nhập khẩu Đồng Tháp giai đoạn 1995 – 2006
Đơn vị: 1000 USD
Năm Tổng kim ngạch
XNK
Xuất khẩu Nhập khẩu
1995
2000
2005
2006
114 200
174 278
394 818
554 194
49 106
87 218
167 403
234 582
65 094
87 060
227 415
319 612
(Nguồn: Niên giám Thống kê Tỉnh Đồng Tháp 1995 -2006)
Phụ lục 5. Danh mục các dự án trọng điểm phát triển sản xuất nông
nghiệp tỉnh Đồng Tháp
STT Tên dự án Địa điểm Quy mô
1 Nông nghiệp phát triển quýt hồng (sản phấm đạt tiêu chuẩn GAP)
Huyện Lai Vung,
huyện Châu Thành 2200 - 2500 ha
2 Phát triển xoài chất lượng cao (xoài cát chu, xoài cát Hòa lộc,…)
Huyện Cao Lãnh,
TP.Cao Lãnh 4000 - 5000 ha
3 Đầu tư nâng cao hiệu quả kinh tế vườn “VAC”
Huyện Châu Thành,
Lai Vung, Lấp Vò,
Cao Lãnh, Tháp
Mười, TP.Cao Lãnh
10000 – 15000 ha
4 Đầu tư các cơ sở nhân giống cây trồng (cây ăn quả, lúa…)
Trại giống thuộc
trung tâm giống nông
nghiệp tại các huyện
thị
Trại giống
5 Vùng sản xuất sen tập trung Huyện Tháp Mười, Cao Lãnh 500- 1000 ha
6 Phát triển vùng hoa kiểng tập trung TX Sa Đéc và TP. Cao Lãnh 750- 100ha
7 Phát triển rau sạch
TX Sa Đéc, Lai Vung,
Châu Thành, TP.Cao
Lãnh
1500 - 2000 ha
8 Sản xuất lúa thơm và gạo sạch
Huyện Tân Hồng
Tháp Mười, Cao
Lãnh, Thanh Bình,
Hồng Ngự, Tam
Nông
25000 - 30000 ha
9 Phát triển đa dạng hóa cây trồng trên đất trồng lúa
Huyện, thị và thành
phố của tỉnh 20000 - 25000 ha
10 Mô hình trồng trọt của trung tâm khuyến nông
11 huyện, thị thành
phố của tỉnh 150 – 200 mô hình
11 Vùng chăn nuôi vịt trang trại khép kín an toàn sinh học
Huyện Tháp Mười,
Thanh Bình, Hồng
Ngự, Tam Nông, Tân
Hồng
1,0 – 1,5 triệu con
12 Cơ sở sản xuất giống gia cầm, gia súc
Trại giống trực thuộc
trung tâm giống của
tỉnh
13 Xây dựng cơ sở vật chất - trang thiết bị cho hệ thống cơ sở thú y
Các cơ sở trạm thú y
các huyện thị
14 Mô hình chăn nuôi gia súc, gia cầm
11 huyện thị và thành
phố tỉnh Đồng Tháp 100 – 120 mô hình
15 Cơ sở giết mổ gia súc, gia cầm tập trung 1 - 2 điểm huyện, thị 15 – 20 điểm
Thuỷ sản
16 Vùng nuôi cá tra tập trung bằng công nghệ sinh học ven sông Tiền
Huyện Hồng Ngự,
Tam Nông, Thanh
Bình, Lấp Vò
500 – 600 ha
17 Nuôi cá đồng (cá lóc, cá rô,…)
Huyện Tân Hồng,
Tam Nông, Thanh
Bình, Tháp Mười,
Cao Lãnh
9000 – 1000 ha
18 Cơ sở sản xuất giống cá nước ngọt
Huyện Hồng Ngự,
Tam Nông, Tháp
Mười, Thanh Bình
15 – 20 cơ sở
19 Mô hình nuôi thuỷ sản thích hợp từng thuỷ lực
Các huyện, thị, thành
phố của tỉnh 100 – 200 mô hình
20 Nuôi thuỷ sản trong mùa lũ
Các huyện thị thuộc
vùng trũng Đồng
Tháp Mười (Đồng
Tháp)
1500 – 2000 ha
(Nguồn: Quy hoạch phát triển nông thôn tỉnh Đồng Tháp đến 2020)
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LA7325.pdf