Thực trạng thị trường logistics cho triển lãm, hội chợ vào Việt Nam của Công ty Translink Express

Tài liệu Thực trạng thị trường logistics cho triển lãm, hội chợ vào Việt Nam của Công ty Translink Express: Giải thích các thuật ngữ và các chữ viết tắt Logistics: quá trình tối ưu hoá về địa điểm, tối ưu hóa việc lưu chuyển và dự trữ tài nguyên từ đầu vào nguyên thuỷ cho đến tay người tiêu dùng, nhằm đáp ứng tốt nhất nhu cầu của người tiêu dùng với chi phí thích hợp, thông qua hàng loạt các hoạt động kinh tế. TLIAP – The Logistics Institude Asia Pacific: Viện Logistics châu Á – Thái Bình Dương LCL - Less than Container Loading : Hàng lẻ FCL – Full of Container Loading: Hàng nguyên container MTO ... Ebook Thực trạng thị trường logistics cho triển lãm, hội chợ vào Việt Nam của Công ty Translink Express

doc95 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 2364 | Lượt tải: 3download
Tóm tắt tài liệu Thực trạng thị trường logistics cho triển lãm, hội chợ vào Việt Nam của Công ty Translink Express, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
– Multimodal Transport Operator: nhà kinh doanh dịch vụ vận tải đa phương thức Offical Forwarder: nhà giao nhận chính thức (cho một Triển lãm) IATA – International Air Transport Association: Hiệp hội vận tải hàng không quốc tế VISABA – Vietnam Shipbroker and Agent Association: Hiệp hội đại lý và môi giới hàng hải Việt Nam VIFFAS – Vietnam Freight Forwarder Association: Hiệp hội giao nhận vận tải Việt Nam DN: Doanh nghiệp POS: điểm bán hàng EDI: hệ thống chia sẻ và trao đổi dữ liệu điện tử FIATA – International Federation of Freight Forwarder Association : Liên đoàn quốc tế về các hiệp hội giao nhận VCCI – Phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam AFFA: Hiệp hội giao nhận các nước ASEAN Danh mục các bảng, biểu và sơ đồ Trang Sơ đồ 1: Quy trình nhập khẩu hàng hoá của công ty VINAFCO 11 Sơ đồ 2: Quy trình xuất khẩu hàng hoá của công ty Translink Express 12 Bảng 1: Hệ thống kho bãi của công ty Vietrans 20 Bảng 2. Hệ thống trang thiết bị của công ty Vietrans 20 Sơ đồ 3: Chuỗi cung ứng giá trị trong doanh nghiệp 28 Hình 1: Logo của công ty Agility 42 Hình 2: Logo của công ty Translink 42 Bảng 3: Doanh thu và lợi nhuận các năm của công ty Translink Express 44 Bảng 4: Doanh thu theo thị trường của công ty Translink Express 44 Bảng 5: Doanh thu theo sản phẩm của công ty Translink Express 45 Sơ đồ 4: Kênh phân phối hiện tại của công ty Translink Express 54 Bảng 6: Phân tích SWOT về tình hình công ty Translink Express 59 Sơ đồ 5: Mô hình lực lượng bán hàng dự kiến cho công ty Translink Express 66 Sơ đồ 6: Quy trình cung ứng dịch vụ dự kiến cho công ty Translink Express 68 Sơ đồ 7: Kênh phân phối dự kiến cho công ty Translink Express 76 LỜI MỞ ĐẦU Sự cần thiết, ý nghĩa của việc nghiên cứu đề tài Logistics là một lĩnh vực không mới trên thị trường quốc tế tuy nhiên lại mới trên thị trường Việt Nam. Trước đây hầu như các doanh nghiệp Việt Nam chỉ đảm nhiệm từng phần riêng biệt trong các khâu của cung ứng dịch vụ. Hiện nay các doanh nghiệp sản xuất hàng hoá đang thay đổi dần trong nhận thức và hoạt động kinh doanh về chuỗi cung ứng, do đó ngành logistics sẽ được chuyên nghiệp hơn, và phát triển hơn. Hàng hoá cho Triển lãm, hội chợ là những hàng hoá đặc biệt và cần sự vận chuyển, giao nhận,.. đặc biệt trong logistíc không giống như những hàng hoá thông thường. Và đây là một phân khúc thị trường vô cùng tiềm năng tại Việt Nam hiện nay. Xu hướng vận động và phát triển đi lên của thị trường này sẽ là một điều tất yếu và các doanh nghiệp Việt Nam có thể tận dụng để cải thiện và nâng cao hoạt động kinh doanh của mình. Nhất là trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, triển lãm, hội chợ, tổ chức sự kiện là các vấn đề quan trọng trong xúc tiến thương mại ở nước ta. Đây cũng là một lĩnh vực kinh doanh đầy tiềm năng. Để tồn tại trong điều kiện cạnh tranh ngày càng gia tăng, các doanh nghiệp tham gia thị trường tất yếu phải áp dụng lý thuyết marketing vào quá trình kinh doanh. Công ty Translink Express là đơn vị chuyên về lĩnh vực logistic cho hàng triển lãm và hội chợ tại Việt Nam, đặc biệt là các hoạt động in-bound (đưa hàng hóa quốc tế vào các triển lãm tại Việt Nam). Xu hướng vận động của thị trường này đã tác động rất lớn đến hoạt động kinh doanh của đơn vị và việc áp dụng marketing vào các giái pháp để cạnh tranh trong thời gian tới là vô cùng cần thiết đối với đơn vị. Mục tiêu nghiên cứu Quá trình nghiên cứu hướng vào hai mục đích chính sau đây: Thứ nhất là nghiên cứu nhằm phân tích những đặc điểm của thị trường dịch vụ logistics cho triển lãm, hội chợ tại Việt Nam hiện nay và xu hướng vận động, phát triển trong thời gian tới. Thứ hai là phân tích về đặc điểm vận dụng marketing vào lĩnh vực kinh doanh đặc thù và rất mới này ở thị trường Việt Nam Thứ ba; kiến nghị các giải pháp marketing cho công ty Translink Express. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của chuyên đề là xu hướng vận động của thị trường logistics cho hàng triển lãm, hội chợ tại Việt Nam và hoạt động marketing của công ty Translink Express. Phạm vị nghiên cứu: về mặt không gian: thị trường Việt Nam Về mặt thời gian: Từ năm 2003 trở lại đây. Phương pháp nghiên cứu Để hoàn thành chuyên đề, các phương pháp nghiên cứu sau đây đã được áp dụng: Phương pháp duy vật biện chứng, tư duy logic, hệ thống Phương pháp thu thập dữ liệu sơ cấp và thứ cấp. Trong đó, các phương pháp thu thập dữ liệu sơ cấp chủ yếu được áp dụng là: phương pháp điều tra quan sát, thống kê. Dựa trên những thông tin về doanh nghiệp, đặc điểm dịch vụ, thị trường để khái quát hoá những đặc tính khách quan của đối tượng nghiên cứu. Phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh đối chiếu: được thực hiện để nêu lên những đánh giá, nhận định, từ đó nêu lên các kiến nghị. Dự kiến kết quả nghiên cứu Mô tả, phân tích để nêu lên xu hướng vận động khách quan của dịch vụ logistic cho triển lãm, hội chợ tại Việt Nam hiện nay Nêu lên những đặc điểm của việc vận dụng lý thuyết marketing vào một lĩnh vực kinh doanh rất mới tại Việt Nam Kiến nghị các giải pháp marketing trong kinh doanh của doanh nghiệp Translink Express. Nội dung của chuyên đề được trình bày theo thứ tự sau đây: Lời nói đầu Chương 1: Tổng quan về thị trường logistics cho hàng triển lãm, hội chợ Việt Nam Chương II. Thực trạng thị trường logistics cho triển lãm, hội chợ vào Việt Nam của công ty Translink Express Chương III. Các giải pháp marketing trong kinh doanh dịch vụ logistics cho triển lãm, hội chợ cho công ty Translink Express Phần kết CHƯƠNG I TỔNG QUAN VỀ THỊ TRƯỜNG LOGISTIC CHO HÀNG TRIỂN LÃM, HỘI CHỢ THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ TẠI VIỆT NAM 1. Đặc điểm của dịch vụ logistics cho hàng triển lãm, hội chợ thương mại quốc tế tại Việt Nam 1.1. Khái quát về Logistics và giao nhận – vai trò của các nhà cung cấp dịch vụ 1.1.1. Khái quát về Logistics Một vài thập kỷ gần đây, Logistics đã phát triển nhanh chóng và mang lại những kết quả tốt nhất ở nhiều nước trên thế giới, như Hà Lan, Thuỵ Điển, Đan Mạch, Mỹ,… Trong những năm cuối thế kỷ 20, đầu thế kỷ 21, thuật ngữ Logistics được nhắc đến nhiều ở các nước Đông Nam Á, Đông Á và đặc biệt phát triển ở Singapore. Trong lịch sử, Logistic đã xuất hiện từ rất lâu đời, ban đầu chỉ với hoạt động vận chuyển hàng hoá, ngày nay, Logistics phát triển rất nhanh chóng và được ghi nhận như một chức năng kinh tế chủ yếu, một công cụ hữu hiệu mang lại thành công cho các doanh nghiệp cả trong khu vực sản xuất lẫn trong khu vực dịch vụ. Có nhiều định nghĩa về Logistics, theo hội đồng quàn trị Logistics của Mỹ ( Council ò Logistics Management – CLM) thì “Quản trị Logistics là quá trình hoạch định, thực hiện và kiểm soát một cách hiệu quả chi phí lưu thông, dự trữ nguyên vật liệu, hàng tồn kho trong quá trình sản xuất sản phẩm cùng dòng thông tin tương ứng từ điểm xuất phát đầu tiên đến điểm tiêu dùng cuối cùng nhằm mục đích đáp ứng yêu cầu của khách hàng”. Theo quan điểm “5 Right” thì :” Logistcs là quá trình cung cấp đúng sản phẩm đến đúng vị trí, vào đúng thời điểm với điều kiện và chi phí phù hợp cho khách hàng tiêu dùng sản phẩm.” Tại Việt Nam, theo quy định của Luật Thương mại, tại Mục 4 (Dịch vụ Logistics). Điều 233 quy định: Dịch vụ logistics là hoạt động thương mại, theo đó thương nhân tổ chức thực hiện một hoặc nhiều công việc bao gồm nhận hàng, vận chuyển, lưu kho, lưu bãi, làm thủ tục hải quan, các thủ tục giấy tờ khác, tư vấn khách hàng, đóng gói bao bì, ghi ký mã hiệu, giao hàng hoặc các dịch vụ khác có liên quan đến hàng hoá theo thoả thuận với khách hàng để hưởng thù lao. Dịch vụ logistics được phiên âm theo tiếng Việt là dịch vụ lô-gi-stíc. Như vậy, Logistics là quá trình tối ưu hoá về địa điểm, tối ưu hoá việc lưu chuyển và dự trữ nguồn tài nguyên từ đầu vào nguyên thủy cho đến tay người tiêu dùng cuối cùng, nhằm đáp ứng tốt nhất nhu cầu của người tiêu dùng với chi phí thích hợp, thông qua hàng loạt các hoạt động kinh tế. Trong mỗi ngành, lĩnh vực, logistics sẽ có những đặc thù riêng. Có thể nghiên cứu logistics trên hai giác độ: vi mô và vĩ mô. Ở tầm vi mô, logistics là việc tối ưu hoá mọi thao tác, hoạt động trong quá trình sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh, mang lại hiệu quả kinh tế cao hơn. Ở tầm vĩ mô, logistics là một ngành dịch vụ giúp tối ưu hoá quá trình phân phối, vận chuyển, dự trữ các nguồn lực, giúp các quốc gia phát triển bền vững và hiệu quả. Theo ước tính của Viện Logistics châu Á – Thái Bình Dương ( The Logistics Institude – Asia Pacific – TLIAP), trị giá của dịch vụ Logistics chiếm 10-15% tổng trị giá hàng hoá toàn cầu, tương đương 2.000 tỷ USD/năm. Logistics được phân loại theo nhiều tiêu chí khác nhau, nếu theo hình thức tổ chức hoạt động thì cho đến nay có các hình thức sau: - Logistics bên thứ nhất (1PL) - người chủ sở hữu hàng hoá tự mình tổ chức và thực hiện các hoạt động Logistics để đáp ứng nhu cầu của bản thân - Logistics bên thứ hai (2PL) - người cung cấp dịch vụ logistics bên thứ 2 là người cung cấp dịch vụ cho một hoạt động đơn lẻ của logistics (vận tải, kho bãi, thanh toán,... ) để đáp ứng nhu cầu của chủ hàng, chưa có tích hợp hoạt động Logistics - Logistics bên thứ ba (3PL) – là người thay mặt cho chủ hàng quản lý và thực hiện các dịch vụ Logistics, do đó 3PL tích hợp các dịch vụ khác nhau, kết hợp chặt chẽ việc luân chuyển, tồn trữ hàng hóa, xử lý thông tin,... trong dây chuyền cung ứng - Logistics bên thứ tư (4PL) là người tích hợp (integrator), chịu trách nhiệm quản lý dòng lưu chuyển logistics, cung cấp giải pháp chuỗi cung ứng, hoạch định, tư vấn logistics, quản trị vận tải,... 4PL hướng đến quản trị cả quá trình logistics. Gần đây, cùng với sự phát triển của thương mại điện tử, người ta đã nói tới khái niệm logistics bên thứ 5 (5PL) phát triển nhằm phục vụ cho Thương mại điện tử, các nhà cung cấp dịch vụ này chính là các 3 PL và 4PL, đứng ra quản lý toàn chuỗi cung ứng trên nền tảng thương mại điện tử. Cũng có thể phân loại dịch vụ logistics theo quy định tại Điều 233 Luật Thương mại như sau: * Các dịch vụ logistics chủ yếu, bao gồm: a) Dịch vụ bốc xếp hàng hoá, bao gồm cả hoạt động bốc xếp container; b) Dịch vụ kho bãi và lưu giữ hàng hóa, bao gồm cả hoạt động kinh doanh kho bãi container và kho xử lý nguyên liệu, thiết bị; c) Dịch vụ đại lý vận tải, bao gồm cả hoạt động đại lý làm thủ tục hải quan và lập kế hoạch bốc dỡ hàng hóa; d) Dịch vụ bổ trợ khác, bao gồm cả hoạt động tiếp nhận, lưu kho và quản lý thông tin liên quan đến vận chuyển và lưu kho hàng hóa trong suốt cả chuỗi lô-gi-stíc; hoạt động xử lý lại hàng hóa bị khách hàng trả lại, hàng hóa tồn kho, hàng hóa quá hạn, lỗi mốt và tái phân phối hàng hóa đó; hoạt động cho thuê và thuê mua container. * Các dịch vụ logistics liên quan đến vận tải, bao gồm: a) Dịch vụ vận tải hàng hải; b) Dịch vụ vận tải thuỷ nội địa; c) Dịch vụ vận tải hàng không; d) Dịch vụ vận tải đường sắt; đ) Dịch vụ vận tải đường bộ. e) Dịch vụ vận tải đường ống. * Các dịch vụ logistics liên quan khác, bao gồm: a) Dịch vụ kiểm tra và phân tích kỹ thuật; b) Dịch vụ bưu chính; c) Dịch vụ thương mại bán buôn; d) Dịch vụ thương mại bán lẻ, bao gồm cả hoạt động quản lý hàng lưu kho, thu gom, tập hợp, phân loại hàng hóa, phân phối lại và giao hàng; đ) Các dịch vụ hỗ trợ vận tải khác. Logistics bao gồm 4 dòng chảy chính, dòng chảy hàng hoá, nguyên liệu, dòng chảy thông tin, dòng chảy tài chính, và dòng chảy chứng từ, tài liệu (có thể gộp vào dòng chảy thông tin). Logistics hiện nay đã tiến lên một giai đoạn phát triển mới đó là chuỗi cung ứng (supply chain). Tuy nhiên, tại Việt Nam, các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ này chủ yếu mới chỉ dừng lại ở cấp độ 2PL, 3PL tại các doanh nghiệp lớn, và thường làm nhiệm vụ của người giao nhận (Forwarder, Freight Forwarder) 1.1.2. Giao nhận Người kinh doanh dịch vụ giao nhận gọi là Người giao nhận ( Forwarder/ Freight Forwarder/ Forwarding Agent), có thể là chủ hàng, chủ tàu, công ty xếp dỡ, hay chủ kho hàng. Ngày nay, người giao nhận đóng vai trò quan trọng trong thương mại và vận tải quốc tế, không chỉ làm các thủ tục hải quan, hoặc thuê tàu mà còn cung cấp dịch vụ trọn gói về toàn bộ quá trình vận tải và phân phối hàng hoá. Những dịch vụ mà người giao nhận thường tiến hành đó là: + Môi giới hải quan (Customs Broker) Làm thủ tục hải quan đối với hàng nhập khẩu, xuất khẩu, dành chỗ chở hàng trong vận tải quốc tế hoặc lưu cước với các hãng tàu theo sự uỷ thác của người xuất khẩu hoặc người nhập khẩu. + Đại lý (Agent): Cầu nối giữa người gửi hàng và người chuyên chở như là một đại lý, nhận uỷ thác từ chủ hàng hoặc từ người chuyên chở để thực hiện các công việc khác nhau như: nhận hàng, giao hàng, lập chứng từ, làm thủ tục hải quan, lưu kho,… trên cơ sở hợp đồng uỷ thác + Người gom hàng (Cargo Consolidator): Trong vận tải hàng hoá container, dịch vụ gom hàng là không thể thiếu nhằm biến các lô hàng lẻ ( LCL – Less than Container Loading) thành lô hàng nguyên (FCL – Full of Container Loading) từ các khách hàng khác nhau để tận dụng sức chở của container và giảm cước phí vận tải. + Người chuyên chở (Carrier) Là người giao nhận trực tiếp ký kết hợp đồng vận tải với chủ hàng và chịu trách nhiệm chuyên chở hàng hoá từ một nơi này đến một nơi khác. Người giao nhận đóng vai trò là người thầu chuyên chở (Contracting Carrier) nếu ký hợp đồng mà không trực tiếp chuyên chở hoặc là người chuyên chở thực tế (Performing/ Actual Carier) nếu trực tiếp chuyên chở. + Người kinh doanh vận tải đa phương thức (MTO – Multimodal Transport Operator): Trong trường hợp cung cấp dịch vụ đi suốt, trọn gói “door-to-door services”, MTO là người chuyên chở và chịu trách nhiệm đối với hàng hoá trong suốt quá trình vận tải. Người giao nhận cần phải tổ chức quá trình vận tải, phối hợp giữa các phương tiện một các tốt nhất, an toàn nhất và tiết kiệm nhất. * Điểm khác biệt giữa logistics và Giao nhận: Logistics tồn tại ở hai mảng: nhà sản xuất và nhà cung cấp dịch vụ logistics, Forwarding có thể xếp vào cung cấp dịch vụ logistics, là một mảng nhưng cũng rất quan trọng trong chuỗi logistics. Có thể hiểu Logistics = giao nhận + kho bãi + vận tải ở mức độ cao (giao nhận kho vận ở mức độ cao) là sự phát triển ở giai đoạn cao của các khâu dịch vụ giao nhận kho vận, trên cơ sở tận dụng các ưu điểm của công nghệ để điều phối hàng hoá từ khâu tiền sản xuất tới tận tay người tiêu dùng cuối cùng qua các công đoạn: dịch chuyển, lưu kho và phân phối hàng hoá. Còn Forwarding, hay frieght forwarding là giao nhận. Có hai yếu tố khác biệt đó là: Forwarding không bao gồm kho vận và phân phối hàng hoá. 1.1.3. Quá trình cung ứng và đặc điểm dịch vụ Các mô hình cung ứng chủ yếu hiện nay Dưới đây trình bày hai mô hình cung ứng dịch vụ logistics phổ biến Mô hình 1 của công ty VINAFCO LOGISTICS, về việc nhập hàng hoá từ nước ngoài, làm thủ tục hải quan, chuyển hàng, lưu kho,… Mô hình 2 của công ty Translink Express về việc xuất hàng hoá ra nước ngoài, bao gồm cả lấy hàng, đóng gói, lưu kho, vận chuyển,… Sơ đồ 1. Quy trình nhập khẩu hàng hoá của công ty VINAFCO. Giới thiệu và tìm hiểu nhu cầu của khách hàng Đề nghị sử dụng sản phẩm Không Có Mở các file tài liệu Kiểm tra dữ liệu Hoàn thiện Xác nhận lại cho khách hàng Gửi đề nghị tới nhà tổ chức Liên hệ với hãng bảo hiểm Đóng gói, nhận, lưu kho Theo dõi các báo cáo từ nhà tổ chức, khách hàng, các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ Chưa hoàn thiện kiểm tra các tài liệu gửỉ hoá đơn cho khách hàng Đặt phương tiện vận chuyển (tàu hoặc máy bay) chuẩn bị hồ sơ, tài liệu cho đại lý, trung gian Vận chuyển hàng đi, thông báo cho cảng đến và khách hàng Liên hệ lại với khách hàng Xác nhận hàng cập bến Đóng file dữ liệu Sơ đồ 2. Quy trình xuất hàng hoá ra nước ngoài của công ty Translink Express. 1.2. Đặc điểm của hàng hoá cho triển lãm, hội chợ quốc tế 1.2.1. Có yếu tố nước ngoài, liên quan tới xuất nhập khẩu Hàng hoá trong triển lãm, hội chợ quốc tế gồm có 2 loại, nếu phân loại theo khách hàng tham gia triển lãm, đó là hàng của các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân Việt Nam, và hàng hoá của các tổ chức quốc tế. Yếu tố “quốc tế” trong “triển lãm, hội chợ quốc tế” ở đây chính là việc có sự tham gia của các tổ chức, doanh nghiệp nước ngoài. Do đó, các hoạt động trong triển lãm, hội chợ, từ tổ chức cho đến vận chuyển, giao nhận hàng hoá đều phải có tính chuyên nghiệp và mang tiêu chuẩn quốc tế. Điều này không những ảnh hưởng lớn tới hoạt động của triển lãm, mà còn là vấn đề quan trọng trong xúc tiến thương mại trong thời kỳ hội nhập hiện nay, hoặc liên quan tới vấn đề ngoại giao của các nước bạn với Việt Nam. Mặt khác, khác với hàng triển lãm của Việt Nam hoặc các sản phẩm tiêu dùng, Thường là hàng tạm nhập, tái xuất (hoặc ngược lại) khác với các sản phẩm nhập khẩu hay xuất khẩu vĩnh viễn hay sản phẩm tiêu dùng tại Việt Nam Phần lớn hàng hóa của triển lãm, hội chợ quốc tế đều là hàng tạm nhập - tái xuất, do đó được miễn thuế hàng hoá xuất nhập khẩu phi mậu dịch, chỉ phải nộp lệ phí hải quan bằng một phần trăm giá tính thuế (theo giá tính thuế hàng hoá xuất khẩu phi mậu dịch của cơ quan thuế tỉnh, thành phố, đặc khu trực thuộc trung ương ấn định thời gian) Tuy nhiên, một số sản phẩm có thể được bán tại triển lãm, hoặc biếu, tặng ở Việt Nam, hoặc bỏ đi, không tái xuất. Các sản phẩm này cần phải được làm thủ tục, tờ khai khai báo cụ thể số lượng, tính chất,... trước khi nhập khẩu vào Việt Nam và được sự cho phép của cơ quan hải quan. Riêng hàng hoá để bán, mục đích bán cho các tổ chức chuyên doanh tại Việt Nam sẽ khác với bán lưu niệm tại triển lãm, trong hồ sơ xin phép cần phải có bản sao hợp đồng ký kết giữa chủ hàng với các tổ chức chuyên doanh tại Việt Nam, và phải nộp thuế hàng hoá xuất nhập khẩu phi mậu dịch cho Hải quan tại địa điểm triển lãm. Các sản phẩm đem triển lãm, hội chợ cũng có thể dùng xong tại một nơi và được chuyển đi tiếp cho các triển lãm, hội chợ tại các thành phố, tỉnh thành khác cũng tại Việt Nam. Từ triển lãm tại thành phố này đến thành phố khác, cần phải được làm toàn bộ thủ tục hải quan lại. Riêng các vật phẩm dùng để tiếp tân và phục vụ cho triển lãm, như thực phẩm, nước ngọt, bia, thuốc lá,... kể cả việc tiếp tế cho chủ hàng và các nhu yếu phẩm khác, không kể hàng cấm, với số lượng hợp lý sẽ được nhập khẩu miễn thuế (tuy nhiên vẫn phải nộp lệ phí hải quan). Và các vật phẩm nói trên không được phép bán hoặc chuyển nhượng tại Việt Nam. Trong thời hạn lâu nhất là 6 tháng kể từ khi kết thúc triển lãm, hàng thuộc loại tạm nhập – tái xuất sẽ phải xuất lại sang nước của chủ hàng, nếu không có lý do xác đáng, cơ quan hải quan sẽ thanh lý các loại hàng này theo luật lệ hiện hành của nước ta. Các quy định về nhập khẩu hàng hoá cho triển lãm, hội chợ thương mại quốc tế trong nước đã được thể hiện rõ trong Quy chế Hải quan đối với hàng của nước ngoài đưa vào Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam để Triển lãm, ban hành kèm theo Quyết định số 1592-TCHQ/PC ngày 25-10-1986 của Tổng cục Hải quan về việc ban hành quy chế hải quan đối với hàng của nước ngoài đưa vào Việt Nam. 1.2.2. Thuộc nhiều lĩnh vực và dùng cho nhiều mục đích Phần lớn các triển lãm, hội chợ quốc tế đều dành cho các sản phẩm của công nghệ mới, các sản phẩm mới hoặc chưa xuất hiện trên thị trường, nhằm quảng bá sản phẩm và từ đó tìm kiếm đối tác, ký kết hợp đồng cho sản phẩm mới. Vì vậy, hàng hoá dành cho triển lãm có thể thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau, công nghệ cao, hoặc hàng hoá thông thường, và dùng cho nhiều mục đích khác nhau, như trưng bày, hoặc bán tại triển lãm, tuỳ vào tính chất và mục đích của các cuộc triển lãm. Triển lãm dành cho các sản phẩm sinh thái (Eco-products Int’l Fair) là triển lãm về các sản phẩm mang tính tiết kiệm, gần gũi với môi trường, các sản phẩm này có từ các loại xăng, nguyên liệu tiết kiệm và ít khí thải cho môi trường, đến các loại bồn cầu hoặc nhà vệ sinh công cộng thiết kế rất mới mẻ và độc đáo, có quy trình xử lý nhanh và hiện đại, không làm hại môi trường. Hoặc triển lãm về công nghệ đóng tàu và hàng hải Vietship, có sự tham gia của hơn 200 doanh nghiệp trong đó có 70% là nước ngoài, đã đưa ra được rất nhiều công nghệ mới trong lĩnh vực đóng tàu, thiết bị, hoá chất, thiết bị kiểm tra, trang trí nội thất tàu thuỷ,... Trong triển lãm này, đã có 18 hợp đồng được ký kết trị giá hơn 400 triệu USD, ngoài ra còn tổ chức thành công các cuộc hội nghị, hội thảo chuyên ngành trong đợt triển lãm. Đây là một trong những cuộc triển lãm về công nghệ mà thuần tuý là trưng bày sản phẩm. Các triển lãm vừa mang tính chất trưng bày vừa mang tính chất thương mại, giao dịch có thể kể đến như Hội chợ thương mại quốc tế Việt Nam (Vietnam Expo) tổ chức vào tháng 4 hàng năm (Vietnam Expo 2008 được tổ chức từ ngày 9/4 đến 13/4/2008. Hoặc Hội chợ quốc tế Hà Nội (Hanoi Expo) được tổ chức vào tháng 10 hàng năm. Trong khuôn khổ của hội chợ, triển lãm, có các khu vực dành để trưng bày các thành tựu thương mại, đầu tư, khoa học, văn hoá xã hội, có các khu vực khác nhau dành cho các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác nhau, và có khu vực dành riêng cho giao dịch bất động sản, ngân hàng,... tại triển lãm. Hội chợ Hanoi Expo năm 2007 có các hoạt động lớn diễn ra như diễn đàn doanh nghiệp các nước ASEAN và các đối tác, tuần lễ văn hoá Bangkok, hội thảo thương mại Hà Nội - Tứ Xuyên Trung Quốc, và nhiều cuộc toạ đàm mang tính chất quốc tế khác. 2. Đặc điểm thị trường logistic in-bound cho hàng Triển lãm, hội chợ thương mại quốc tế tại Việt Nam 2.1. Những đặc tính tổng quát về thị trường - Quy mô và cơ cấu: Những thành phần chính tham gia vào thị trường gồm có: + Các nhà tổ chức triển lãm, hội chợ + Các doanh nghiệp kinh doanh trong ngành logistics + Các doanh nghiệp, tổ chức là khách hàng, tham gia vào triển lãm, hội chợ Ngoài ra, còn có sự tham gia của các cơ quan Hải quan, các đại sứ quán hoặc các tổ chức thương mại, tổ chức phi chính phủ có liên quan tới từng triển lãm, hội chợ…. Do đó, khách hàng của các doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực logistics dành cho hàng Triển lãm, hội chợ này chủ yếu là các doanh nghiệp hoặc tổ chức, hay nói cách khác, đó là các khách hàng công nghiệp trên phạm vi địa lý Việt Nam. Hiện nay, nước ta có khoảng 245000 doanh nghiệp đăng ký hoạt động theo Luật doanh nghiệp 1999. trong đó 96% là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, sử dụng 2,6 triệu lao động. Số lượng doanh nghiệp sẽ ngày càng tăng do cơ chế mở cửa tự do kinh doanh của nước ta hiện nay. - Các chỉ tiêu phát triển kinh tế Việt Nam năm 2007 đạt được: + Tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt mức cao nhất trong vòng 10 năm qua (8,5%). + Dự trữ ngoại tệ tăng, tổng dư nợ nước ngoài của Việt Nam bằng 30,3% GDP + Tổng vốn đầu tư toàn xã hội so với GDP đạt 40,6% + Mức thu nhập bình quân đầu người năm nay là 715USD, tăng 80USD so với năm trước + Tốc độ tăng trưởng khu dịch vụ cao hơn tốc độ tăng trưởng chung của GDP + Kim ngạch xuất khẩu cũng tăng cao (20,5%). + Lạm phát cao: 12,63%, giá cả không ổn định à Việc ổn định giá cả là vô cùng cần thiết do giá cả các yếu tố đầu vào tăng, giá dịch vụ lại không thể tăng nhanh do cạnh tranh. Mặt khác, cơ hội kinh doanh của các doanh nghiệp trong lĩnh vực dịch vụ đang được người tiêu dùng và các khách hàng công nghiệp chú ý tới. Sự tăng trưởng nhanh này hứa hẹn một vị thế mới cho lĩnh vực dịch vụ trong tương lai. 2.2. Các đặc điểm về hành vi của khách hàng Các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình quyết định mua của khách hàng Đặc thù của thị trường này đó là cung cấp dịch vụ cho các khách hàng công nghiệp. Mục đích nhằm thoả mãn nhu cầu hậu cần dành cho trưng bày, quảng bá và giao dịch thương mại xung quanh sản phẩm của khách hàng công nghiệp đó. Không phải mục đích mua nguyên liệu đầu vào hay mua sản phẩm hữu hình cho doanh nghiệp. Những người tham gia vào quá trình quyết định mua gồm có - Người định hướng - Người quyết định - Người phê duyệt - Người mua (ký hợp đồng) - Người đánh giá Những người liên quan đến quá trình mua chủ yếu gồm có: ban lãnh đạo, trưởng phòng, ban phụ trách về xúc tiến hỗn hợp, marketing, trưởng phòng/ban phụ trách về kinh doanh - giao dịch thương mại, các kỹ sư chịu trách nhiệm về các vấn đề kỹ thuật cho hàng hoá, sản phẩm, phòng/ban phụ trách về logistics đầu vào đầu ra cho sản phẩm. Ngoài ra còn có các cá nhân, phòng ban có chức năng khác như kế toán – tài chính, phòng kế hoạch, về các vấn đề kỹ thuật. + Các yếu tố mà khách hàng cân nhắc khi lựa chọn nhà cung cấp dịch vụ này: - Chất lượng dịch vụ và tính chuyên nghiệp: luôn đi kèm với uy tín của thương hiệu. Do đó, một khi đã giành được khách hàng, giữ họ lại và biến họ thành khách hàng trung thành là điều không mấy khó khăn đối với các doanh nghiệp đã có thương hiệu và ấn tượng tốt. - Quy mô của doanh nghiệp cung cấp dịch vụ: điều này sẽ đảm bảo cho hàng hoá của khách hàng luôn đến đúng giờ, được đóng gói và bảo quản tốt,… dựa trên hệ thống trang thiết bị, kho bãi, phương tiện vận chuyển,… của doanh nghiệp. - Giá dịch vụ: không phải là vấn đề quan trọng nhất đối với các khách hàng, do đặc thù của dịch vụ là vận chuyển, giao nhận quốc tế, và là hàng hoá để triển lãm, nên khách hàng sẵn sàng bỏ ra một khoản chi hợp lý nhằm đảm bảo cho hoạt động xúc tiến thương mại diễn ra hiệu quả. - Bảo hiểm cho hàng hoá: vấn đề này có thể do bên cung cấp dịch vụ logistics chịu trách nhiệm hoặc khách hàng tự mua lấy bảo hiểm cho hàng hoá của mình, đề phòng trường hợp hàng trong quá trình vận chuyển bị đổ, vỡ, hỏng , gẫy,… + Quá trình diễn ra quyết định mua của khách hàng Diễn ra chủ yếu qua các bước sau: Bước 1: Xác định nhu cầu. Thông qua các kế hoạch kinh doanh, kế hoạch marketing và xúc tiến hỗn hợp phát hiện ra sự cần thiết phải đưa sản phẩm đi triển lãm và đồng thời với điều đó là nhu cầu về nhà cung cấp dịch vụ logistics cho Triển lãm, hội chợ. Hoặc qua các thông báo mời tham dự triển lãm của các ban tổ chức triển lãm, cũng như thư mời, quảng cáo của Offical Forwarder (các nhà giao nhận chính thức) của các triển lãm giới thiệu về dịch vụ. Bước 2: Tìm kíêm thông tin: Các nhà giao nhận sẽ gửi hướng dẫn về vận chuyển cho triển lãm cho doanh nghiệp (Shipping manual) trong đó có ghi rõ giá cả, thời gian, hoặc lịch tàu, máy bay, các vấn đề cần chú ý… đối với từng loại hàng hoá được vận chuyển đi. Kèm theo các thư mời, bản đăng ký (Quotation, Acception…) Ngoải ra, các khách hàng cũng có thể dễ dàng được cung cấp thông tin từ nhà tổ chức, các websites, đại sứ quán, các tổ chức phi chính phủ có liên quan. Bước 3: Đánh giá các phương án: Việc đánh giá này có thể có mặt của tất cả những người tham gia vào quá trình quyết định mua hoặc chỉ một bộ phận nào đó hiểu rõ về dịch vụ. Bước 4: quyết định mua: sau khi đánh giá các phương án, việc quyết định mua chủ yếu là của ban lãnh đạo của doanh nghiệp khách hàng làm chủ. Bước 5: đánh giá sau mua: các nhà cung cấp dịch vụ logistics chuyên nghiệp có những phiếu điều tra đi kèm dành cho khách hàng để đo mức độ hài lòng của khách. Thông thường, nếu như không có phiếu điều tra, các doanh nghiệp luôn đính kèm theo các bản hướng dẫn (Shipping Manual, Quotation,… ) phiếu ghi những phàn nàn của khách hàng. Vì điều này là vô cùng quan trọng đối với các nhà cung cấp dịch vụ, để điều chỉnh dịch vụ của mình cho hợp lý, nhằm làm vừa lòng các khách hàng, khuyến khích họ thực hiện những lần mua tiếp theo. 3. Tình hình cung ứng và cạnh tranh của các doanh nghiệp tham gia vào thị trường 3.1. Các doanh nghiệp tham gia vào thị trường và đặc điểm 3.1.1. Các doanh nghiệp Việt Nam * Cty giao nhận kho vận ngoại thương (Vietrans) Địa chỉ:13 Đường Lý Nam Đế, Thành phố Hà Nội Điện thoại: (84 - 4) 8 456 444 Fax: (84 - 4) 8 455 829 E-mail: vietrans@hn.vnn.vn Được thành lập năm 1970 tại Hải Phòng. Hiện nay Vietrans có trụ sở chính tại Hà Nội và các chi nhánh tại TP Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Quy Nhơn, Nghệ An, Nha Trang, Vladivostock, Oddessa – Ukcraine (văn phòng đại diện). Là thành viên sáng lập hiệp hội VIFFAS - hiệp hội Giao nhận kho vận Việt Nam. Các dịch vụ cung cấp: ·         Vận tải đường hàng không, đường biển, đường bộ đường sắt và vận tải đa phương thức. ·         Giao nhận hàng công trình. ·         Giao nhận hàng triển lãm. ·         Giao nhận hành lý cá nhân. ·         Hàng thu gom, hàng chia lẻ. ·         Đại lý tàu biển & môi giới thuê tàu. ·         Kinh doanh kho, kho ngoại quan. ·         Dịch vụ thủ tục hải quan. ·         Chuyển tải. ·         Xuất nhập khẩu. ·         Dịch vụ chuyển phát nhanh. ·         Dịch vụ xây dựng. ·         Khai thác cầu cảng. ·         Dịch vụ giao hàng từ cửa tới cửa. Một số số liệu về cơ sở vật chất và trang thiết bị của Vietrans: Hệ thống kho của Vietrans Thành Phố Kho Bãi Hà Nội 10.000 m2 7.500 m2 Hải Phòng 120.000 m2 bao gồm 20.000 m2  kho ngoại quan 85.000 m2 Nghệ An 1.500 m2 1.000 m2 Đà Nẵng 19.000 m2 bao gồm 5.000 m2 kho ngoại quan 18.000 m2 Quy Nhơn 8.000 m2 18.000 m2 Hồ Chí Minh 9.200 m2 91.000 m2 Bảng 1. Hệ thống kho bãi của công ty Vietrans Trang thiết bị bốc xếp Xe tải 150 cái Xe Container 100 cái Cần cẩu 16 cái Xe nâng 25 cái Xe chở Pallet 40 cái Cân 15 cái Cẩu cont chuyên dụng 6 cái Xe kéo 20 cái Xe mooc 30 cái Xe tải nhỏ 300 cái Bảng 2. Hệ thống trang thiết bị của công ty Vietrans Công ty Vinatrans Địa chỉ: Số 2 Bích Câu, Đống Đa, Hà Nội.  Tel:  (84-4) 7322784  -  (84-4) 7322864 Fax: (84-4) 7322107 PIC: Mr. Phan Viet Huy –  Manager Mobile : (84-91) 3087548 Email   : huypv@vinatranshn.com.vn Vinatrans là doanh nghiệp 100% vốn nhà nước, trong đó vốn pháp định là 3 000 000 USD và vốn lưu động là 6000000 USD. Thành lập năm 1975, hiện nay hệ thống CFS của doanh nghiệp (cho cả hàng biển và hàng không) là 2500m2, kho ướp lạnh liên doanh với công ty TNHH Konoike Transportation 2800 Mts. Hệ thống kho bãi gồm có 40000 m2 dành cho kho kín 50000 m2 dành cho kho bãi chứa vật tư lộ thiên Máy kéo, khung container : 40 Xe nâng, cẩu: 10 Hiện đã được chia tách thành các công ty Vinalink có vốn 36 tỷ, Vinafreight có vốn 27 tỷ, Vinatrans Hà Nội vốn 22 tỷ, Vinatrans Đà Nẵng vốn 4,5 tỷ. Hiện nay mạng lưới VinaGroup đã rộng khắp toàn quốc. Vinatrans Hanoi sau khi trở thành thành viên chín._.h thức của IATA năm 1998 đã nhanh chóng mở rộng, phát triển dịch vụ của mình trong nước và quốc tế. Có hệ thống kho bãi tại Hà Nội và văn phòng làm việc tại sân bay Nội Bài. Vận chuyển phối hợp đường biển và hàng không, trung chuyển qua Singapore và Dubai. Là tổng đại lý hàng hoá (GSA) của British Airway, Malaysia Airline, China Southern Airline.       Các dịch vụ cung cấp: - Giao nhận từ kho chủ hàng hoặc sân bay đến sân bay hoặc kho người nhận với đa dạng các mặt hàng: dày dép, may mặc thời trang, hàng máy móc thiết bị, hàng thủ công mỹ nghệ, hàng rau quả. - Vận chuyển kết hợp đường biển và đường hàng không - Dịch vụ phát chuyển nhanh (chứng từ, hàng mẫu, hàng thương phẩm) - Gom hàng lẻ xuất khẩu và chia lẻ hàng nhập khẩu - Dịch vụ khai quan và giao nhận nội địa - Dịch vụ đại lý hải quan - Đại lý bán cước và hợp đồng vận chuyển với nhiều hãng hàng không lớn trên thế giới cam kết tại Việt Nam : SQ, TG, VN, BA... - Dịch vụ hậu cần cho triển lãm và dự án (Exhibition & Project handling) - Trung chuyển cho Lào và Campuchia (cargo transit to Laos & Cambodia) * Công ty SAFI (Sea & Air Freight International) Số 39, đường Đoàn Như Hải, Quận 4, tp Hồ Chí Minh Tel: 08 8253560 Fax: 08 8253610 Email: info.sgn@safi.com.vn Thành lập tháng 10/1992 theo quyết định 05/TCCB của Tổng cục Hàng Hải Việt Nam, bộ Giao thông - vận tải. Hiện nay đã là thành viên của nhiều hiệp hội, tổ chức trên thế giới như IATA (International Air Transport Association – 1993), VISABA (Vietnam Shipbroker and Agent Association) năm 1994, VIFFAS (Vietnam Frieght Forwarder Association) năm 1997,… SAFI hiện đang có 7 chi nhánh và văn phòng đại diện đó là SAFI Hà Nội, Hải Phòng, Vũng Tàu, Đà Nẵng, Quy Nhơn, Quảng Ninh, Cần Thơ. SAFI thời gian đầu là đại lý chính thức cho hãng DONGNAMA Logistics Service (trụ sở chính tại Seoul, Hàn Quốc), sau đó là đại lý cho COSCO (China Ocean Shipping Company ) và YAS, hiện nay có hai công ty liên doanh thuộc SAFI đó là COSFI JV giữa SAFI và COSCO, và Yusen Air & Sea Service Vietnam Co., Ltd, giữa SAFI và YAS. Các dịch vụ chủ yếu: - Vận chuyển đa phương thức: giao nhận qua đường biển, hàng không, tàu hoả, đường bộ, dịch vụ gom hàng - Dịch vụ logistics: trọn gói (door – to – door service), môi giới hải quan, kho vận và phân phối hàng hoá, trung gian vận chuyển, vận chuyển hàng cho các triển lãm và dự án. - Dịch vụ cho thuê và đại lý tàu - Dịch vụ vận chuyển, đóng gói nội địa - Xúc tiến thương mại, xuất, nhập khẩu Một số số liệu về thiết bị, phương tiện: Equipments Ô tô kéo trên 400 Tấn 01 Ô tô kéo trên 150 Tấn 01 Ô tô kéo trên 50 Tấn 02 Ô tô kéo trên 45 Tấn 04 Ô tô kéo trên 25 Tấn 04 đầu máy kéo 450 CV 01 Đầu máy kéo 300 CV 02 Đàu máy kéo 250 CV 20 Xe tải Lorry 20 Ô tô tải 40 Cẩu 60 TấnMobile crane 60 tonnes 01 Cẩu 45 TấnMobile crane 45 tonnes 01 Cẩu 25 tấn Mobile crane 25 tonnes 01 Cẩu 16 TấnMobile crane 16 tonnes  02 Tàu bốc dỡ 600 TấnBarge 500 tonnes 01 Tàu bốc dỡ 200 TấnBarge 200 tonnes  02 Tàu bốc dỡ 300 TấnBarge 300 tonnes 02 Jack 100 tonnes 12 Jack 70 tonnes 06 Jack 50 tonnes 06 Máy nâng 08 Máy lăn 100 tấnRoller 100 tonnes 06 Máy lăn 50 tấn Roller 50 tonnes 06 * Công ty Cổ phần Logistics Tân Thế Giới - Vinashin New World Logistics (từ đây xin được viết tắt là VNW) Là doanh nghiệp mới trong lĩnh vực logistics dành cho triển lãm và hội chợ tại Việt Nam. Công ty được thành lập trực thuộc tập đoàn kinh tế Vinashin và nhằm khai thác và củng cố thêm những lợi thế về tàu biển, kho bãi, hoạt động xuất nhập khẩu… sẵn có của tập đoàn kinh tế. Logistics là một hướng đi quan trọng song song với nền công nghiệp đóng tàu và các hoạt động kinh tế khác của tập đoàn Vinashin. Năm 2008, VNW được chọn làm official forwarder cho triển lãm Vietship 2008 – là triển lãm quốc tế lớn được tổ chức 2 năm một lần. Triển lãm diễn ra rất quy mô, giới thiệu về các sản phẩm liên quan đến công nghệ đóng tàu, hàng hải, vận tải, thiết kế nội thất tàu thuỷ, các thiết bị, hoá chất liên quan,… Việc trở thành nhà giao nhận chính thức cho một triển lãm lớn đã giúp làm thay đổi vị thế của VNW trên thị trường logistics dành cho hàng Triển lãm, hội chợ quốc tế tại Việt Nam hiện nay. Các dịch vụ chính mà VNW tham gia Dịch vụ giao nhận và hậu cần: đặc biệt là các dịch vụ dành cho Xuất- nhập khẩu. Khách hàng chính hiện nay của VNW là các doanh nghiệp thuộc tập đoàn Vinashin như Huyndai Vinashin Shipyard Co., Ltd, Soai Rap Shipbuilding Company,… hoặc các doanh nghiệp thuộc các ngành công nghiệp nặng hoặc nhẹ như thép, xe tải, dệt may,… Trong dịch vụ này, VNW cung cấp kho bãi, phân phối, vận chuyển, nâng hạ hạng nặng, làm thủ tục hải quan,… và nhiều vấn đề khác Dịch vụ tàu thuỷ: cho thuê tàu, đại lý, cung cấp thiết bị, nguyên vật liệu,… Dịch vụ Triển lãm, hội chợ quốc tế: bao gồm các công đoạn chuẩn bị trước, trong và sau triển lãm, đóng gói, vận chuyển, liên hệ ban tổ chức cho các hàng hoá xuất ra nước ngoài để triển lãm, hoặc dịch vụ trọn gói dành cho hàng hóa nhập vào Việt Nam để triển lãm. Trụ sở chính 40 Lê Hồng Phong, Thành phố Nha Trang Tel: +84 58 877 637 Fax: +84 58 877 638 Email: infovnw@vinashinnewworld.vn Website: Ngoài ra, VNW hiện nay có các chi nhánh và văn phòng đại diện tại Hà Nội, Tp Hồ Chí Minh, Quảng Ngãi, và Hải Phòng. 3.1.2.. Các doanh nghiệp nước ngoài * Translink Express Là doanh nghiệp đầu tiên và duy nhất hiện nay chuyên về logistics cho hàng Triển lãm và hội chợ quốc tế tại Việt Nam. Chiếm đến 70% thị phần của thị trường này. Ngoài vấn đề Triển lãm và hội chợ quốc tế, Translink còn kinh doanh các dịch vụ vận chuyển hàng hoá thông thường, đóng gói và vận chuyển hành lý cá nhân, và nhiều dịch vụ khác liên quan đến logistics. Chi tiết về hoạt động của Translink sẽ được trình bày rõ nét hơn tại chương II. * Nissin Logistic Tập đoàn Nissin (Nissin Corporation) là một trong 4 đơn vị kinh doanh trong lĩnh vực giao nhận và logistics lớn nhất Nhật Bản. Có số vốn pháp định là 6.1 tỷ yen, 921 nhân viên và lao động, với trung bình 132.8 tỉ Yên doanh thu hàng năm. Có 281 chi nhánh và văn phòng đại diện tại 23 quốc gia trên khắp thế giới. Được thành lập 14/12/1938 tại Onoe-cho, Naka-ku, thành phố Yokohama, hiện nay trụ sở chính của tập đoàn tại số 5, Sanban-cho, Chioyada-ku, Tokyo. Văn phòng đại diện tại Việt Nam (công ty Nissin Logistics VN) được thành lập 3/2006, với số vốn 500 000 USD. Mặc dù còn khá mới mẻ trên thị trường tuy nhiên đã đảm nhận được nhiều hợp đồng từ phía công ty mẹ và một số triển lãm, sự kiện tổ chức tại Việt Nam. Trong đó Nissin Logistics tham gia vào các triển lãm như Triển lãm về các sản phẩm sinh thái, hay làm nhà vận chuyển, giao nhận chính cho triển lãm của Toyota tại Việt Nam,… Các dịch vụ mà Nissin Logistics VN cung cấp : xuất nhập khẩu hàng không, hàng biển Dịch vụ hải quan Hậu cần cho Triển lãm, hội chợ Dịch vụ chuyển nhà, chuyển văn phòng Kho bãi và phân phối hàng hoá Các dịch vụ vận chuyển, giao nhận bằng xe tải và container Vận tải đa phương thức Trụ sở công ty Nissin Logistics VN Công ty NISSIN LOGISTICS (VN) Phòng 403, toà nhà OCEAN PARK, số 1 Đào Duy Anh, Quận Đống Đa, Hà Nội Ngoài ra, Nissin Logistic VN có chi nhánh tại Tp HCM 3.1.3. Kết luận chung về tình hình thị trường, khách hàng Hiện nay, trên thị trường Việt Nam có khoảng 600 doanh nghiệp đăng ký hoạt động kinh doanh các vấn đề liên quan tới logistics. Trong đó VIFFAS có 97 hội viên (77 chính thức và 20 hội viên liên kết). Thời gian hoạt động trung bình của các doanh nghiệp là 5 năm với vốn đăng ký trung bình khoảng 1.5 tỷ đồng/doanh nghiệp, như vậy, các doanh nghiệp này hầu như đều còn trẻ và quy mô loại vừa và nhỏ. 80% trong số này là các doanh nghiệp tư nhân. Chi phí cho ngành logistics của Việt Nam hàng năm chiếm khoảng 15% GDP. Theo kết quả nghiên cứu của viện Numura (Nhật Bản), dịch vụ logistics trong vận tải hàng hải của các doanh nghiệp trong nước hiện nay mới cung cấp được 25% nhu cầu. Với quy mô vốn như thế, các doanh nghiệp sẽ gặp khó khăn trong việc gia nhập thị trường logistics thế giới, hơn nữa, tính chuyên sâu của các doanh nghiệp Việt Nam chưa cao, phần lớn chỉ đáp ứng được một vài công đoạn đơn giản trong cả khâu cung ứng logistics. Hơn nữa, vấn đề logistics hiện nay là toàn cầu, nhiều hãng nước ngoài đã đặt chân vào đến Việt Nam, tuy nhiên các doanh nghiệp Việt Nam hầu như đều chưa có văn phòng đại diện tại nước ngoài. Theo nhận xét của ông Nguyễn Việt Hoà, Giám đốc Công ty Cổ phần Container Việt Nam (Viconship Vietnam), ngành công nghiệp logistics của Việt Nam hiện vẫn đang ở thời kỳ phôi thai, phần lớn của hệ thống logistics chưa được thực hiện ở một cách thức thống nhất, đa phần các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực này đều nhỏ bé về địa bàn hoạt động và hạn chế về vốn cũng như về công nghệ thông tin. Về thị trường Logistics cho hàng Triển lãm, hội chợ thương mại quốc tế tại Việt Nam hiện nay, là một thị trường mới, chuyên biệt và có nhiều đặc thù. Ngoài Translink Express hay Vinashin New World Logistics, chưa có các doanh nghiệp chuyên sâu vào thị trường này, mà chỉ coi Triển lãm, hội chợ quốc tế là một phần trong những hoạt động logistics của họ. Vì thê, chưa xây dựng được những tiêu chí, tiêu chuẩn riêng phục vụ cho Triển lãm, hội chợ, cũng như chưa đủ điều kiện để các nhà tổ chức lựa chọn làm nhà giao nhận chính thức (Official Forwarder). Do đó, thị trường này hiện nay vẫn còn rất nhiều tiềm năng cho các doanh nghiệp Việt Nam khai thác và mang lại nhiều cơ hội. 4. Xu hướng vận động của thị trường Logistíc in-bound cho hàng Triển lãm, hội chợ thương mại quốc tế tại Việt Nam. 4.1. Những yếu tố tác động đến nhu cầu trên thị trường dịch vụ 4.1.1. Sự phát triển của triển lãm, hội chợ tại Việt Nam Thống kê từ website Vietnam Trade Fair, của công ty cổ phần phát triển Thương mại điện tử Việt Nam: Năm 2007, có 149 cuộc Trỉên lãm, hội chợ quy mô lớn, trong đó có 75 cuộc Triển lãm, hội chợ quốc tế, chiếm tỷ lệ 50.33%. Năm 2008, tại Việt Nam có 167 cuộc Triển lãm hoặc hội chợ với quy mô lớn, trong đó có 89 cuộc Triển lãm, hội chợ quốc tế. Chiếm tỷ lệ 53.29%. Như vậy, trong hai năm qua, số lượng các cuộc Triển lãm, hội chợ đang có xu hướng tăng, số lượng các cuộc Triển lãm, hội chợ quốc tế cũng tăng (18,67%) và tỷ trọng trong số tất cả các cuộc triển lãm, hội chợ diễn ra trong nước cũng tăng lên từ 50.33% tới 53.29%. Trong quá trình mở cửa, hội nhập kinh tế và gia nhập WTO của Việt Nam, vấn đề xúc tiến thương mại luôn luôn được quan tâm hàng đầu. Các Hội chợ, triển lãm hay Sự kiện, quan hệ công chúng (PR) được tổ chức chuyên nghiệp, và có quy mô đang ngày càng được mở ra nhiều hơn. Điều này sẽ kết nối các doanh nghiệp Việt Nam lại với nhau gần hơn, cũng như kết nối với các đối tác nước ngoài hay tạo nên hình ảnh tốt đẹp về Việt Nam và nền kinh tế mới hiện nay đối với các quốc gia khác trên thế giới. 4.1.2.Chuỗi cung ứng và nhận thức của các doanh nghiệp Hệ thống cung ứng giá trị (VDS – Value Delivery System) được phát triển dựa trên lý thuyết về chuỗi giá trị (Value Chail). Chuỗi giá trị được coi là công cụ tìm kiếm các giải pháp tạo giá trị lớn hơn cho khách hàng Sơ đồ 3. Chuỗi cung ứng giá trị trong doanh nghiệp Trong đó: Mỗi công ty là một tập hợp các hoạt động cung ứng giá trị gia tăng, gồm 9 hoạt động mang tính chiến lược: + 5 hoạt động chủ chốt: Hậu cần đầu vào Sản xuất Hậu cần đầu ra Marketing và bán hàng Dịch vụ + 4 hoạt động hỗ trợ: cơ sở hạ tầng và vận tải, nguồn nhân lực, phát triển công nghệ, cung ứng đầu vào cho các hoạt động chủ chốt - Các quá trình kinh doanh cốt lõi bao gồm: + Quá trình thực hiện sản phẩm mới + Quá trình quản trị hàng dự trữ + Quá trình xử lý đơn hàng và thanh toán + Quá trình phục vụ khách hàng - Hoạt động tạo ra giá trị gia tăng hay giá trị cạnh tranh phục thuộc vào hiệu quả hoạt động của mỗi bộ phận nói trên và sự phối hợp của tất cả các bộ phận hướng vào lợi ích chung của tổ chức. Như vậy, logistics là một phần quan trọng thuộc về chuỗi cung ứng giá trị, hay nói cách khác chuỗi cung ứng là tầm cao hơn và rộng hơn của logistics. Có tác dụng quản trị các dòng chảy trong hàng hoá vật chất, thông tin, đơn hàng, thanh toán,… và kết nối các doanh nghiệp lại với nhau trong một nền kinh tế, thậm chí xa hơn đó là kết nối các nền kinh tế trên thế giới. Tiến sĩ Nguyễn Thị Hồng Minh, Tổng Giám đốc Công ty CP Đầu tư và Phát triển hệ thống phân phối VN – VDA, cũng cho rằng: Nếu quản trị chuỗi cung ứng tốt, chi phí thấp sẽ dẫn đến giá sản phẩm thấp, tạo thế mạnh cạnh tranh. Nếu như chi phí cung ứng của Mỹ năm 2005 là 1.183 tỉ USD (chiếm 9,5% GDP), tại Nhật là 11% GDP, Trung Quốc là 21,6% GDP thì theo thống kê chưa chính thức tại VN, chi phí cung ứng dao động từ khoảng 19% - 25% GDP. chính vì vậy giá sản phẩm đến tay người tiêu dùng còn rất cao. Các công ty áp dụng một chuỗi cung ứng hoàn thiện có lợi nhuận cao hơn 12 lần so với các công ty có chuỗi cung ứng không hoàn thiện. Theo ông Nguyễn Anh Huy, Giám đốc cung ứng khu vực châu Á - Thái Bình Dương và Trung Đông của Tập đoàn Shell Chemicals: “Hiện nay, để tập trung nguồn lực vào các lĩnh vực chính, các DN sản xuất thường có xu hướng thuê các dịch vụ cung ứng bên ngoài”. Tuy nhiên, DN trong nước hoạt động trong lĩnh vực cung cấp dịch vụ cung ứng còn ít, rời rạc và thiếu tính chuyên nghiệp. Bà Nguyễn Thị Hồng Minh cũng phân tích: Hạ tầng vận tải lạc hậu, hạ tầng kho bãi thiếu, sự tham gia của công nghệ thông tin còn mờ nhạt... là vấn đề thách thức đối với quản trị chuỗi cung ứng hiệu quả. Việc nhận thức được rằng mỗi doanh nghiệp, tổ chức là một tập hợp các hoạt động mang lại giá trị gia tăng cho khách hàng, và chuỗi cung ứng giá trị sẽ kết nối mọi thứ lại với nhau, là một điều quan trong trong các doanh nghiệp, tổ chức. 4.1.3. Kinh tế hàng hải, hàng không và vận tải đa phương thức *) Kinh tế hàng hải Vận tải đường biển chiếm vai trò quan trọng nhất trong việc vận chuyển hàng hoá ngoại thương, chiếm tới 80% khối lượng hàng hoá trong buôn bán quốc tế. Sản lượng hàng hoá vận chuyển hàng năm đạt 6000 Tấn/hải lý. Ưu điểm: + thích hợp với việc vận chuyển hầu hết các loại hàng hoá trong thương mại quốc tế. Đặc biệt thích hợp và hiệu quả là các loại hàng rời có khối lượng lớn và giá trị thấp như than đá, quặng, ngũ cốc, phốt phát và dầu mỏ. + chi phí xây dựng các tuyến đường hàng hải thấp , hầu hết là những tuyến đường giao thông tự nhiên không đòi hỏi nhiều vốn, nguyên vật liệu, sức lao động để duy trì, bảo quản ,trừ việc xây dựng các kênh đào và hải cảng. + giá thành vận tải biển rất thấp: giá thành vận tải biển vào loại thấp nhất trong tất cả các phương thức vận tải do trọng tải tàu biển lớn, cự ly vận chuyển trung bình lớn, biên chế ít nên năng suất lao động trong ngành vận tải biển cao. Nhiều tiến bộ khoa học - kỹ thuật trong vận tải và thông tin được áp dụng nên giá thành vận tải biển có xu hướng ngày càng hạ hơn. + tiêu thụ nhiên liệu trên 1 tấn trọng tải thấp, chỉ cao hơn vận tải đường sông một ít Nhược điểm: + phụ thuộc nhiều vào điều kiện thiên nhiên, điều kiện hàng hải. Các tàu biển thường gặp rất nhiều rủi ro hàng hải như mắc cạn, đắm, cháy, đâm va nhau, đâm va phải đá ngầm, mất tích… Theo thống kê của các công ty bảo hiểm, trung bình hàng tháng trên thế giới có khoảng 300 tàu biển bị các tai nạn trên biển, trong đó có nhiều trường hợp tổn thất toàn bộ. + tốc độ của các loại tàu biển tương đối thấp. Tốc độ của các tàu biển chỉ khoảng 14 – 20 hải lý/giờ. Tốc độ này là thấp so với tốc độ của máy bay, tàu hoả. Về mặt kỹ thuật, người ta có thể đóng các tàu biển có tốc độ cao hơn nhiều. Tuy nhiên, đối với các tàu chở hàng người tả phải duy trì một tốc độ kinh tế nhằm giảm giá vận tải. *) Vận tải hàng không: Vận tải hàng không có vị trí quan trọng đối với nền kinh tế thế giới nói chung và buôn bán quốc tế nói riêng + vận tải đường hàng không (từ đây viết tắt là VTĐHK) chiếm 20-30% tổng kim ngạch của buôn bán quốc tế, nhưng chỉ chiếm khoảng 1% tổng khối lượng hàng hoá chuyên chở quốc tế + VTĐHK chiếm vị trí số 1 trong chuyên chở hàng hoá cần giao khẩn cấp, hàng giao ngay như: hàng mau hỏng, dễ thối, hàng cứu trợ khẩn cấp, súc vật sống và các loại hàng nhạy cảm với thời gian + VTĐHK có vị trí quan trọng trong giao lưu kinh tế giữa các nước, là cầu nối giữa các nền văn hoá của các dân tộc, là phương tiện chính trong du lịch quốc tế + VTĐHK là mắt xích quan trọng trong quy trình tổ chức vận tải đa phương thức quốc tế. Đặc điểm của VTĐHK: + Tuyến đường trong VTĐHK là không trung và hầu như là đường thẳng, k0 phụ thuộc vào địa hình mặt đất, mặt nước, không phải đầu tư xây dựng. Thông thường, tuyến đường hàng không bao h cũng ngắn hơn tuyến đường sắt và đường ô tô khoảng 20% và tuyến đường sông khoảng 10% + Tốc độ VTĐHK cao, thời gian vận chuyển ngắn. Nếu chúng ta so sánh trên 1 quãng đường vận chuyển dài 500km, thì máy bay mất 1 tiếng đồng hồ, còn tàu hoả đi mất 8.3 tiếng, ô tô chạy mất khoảng 10 tiếng, sông 27 tiếng + VTĐHK an toàn nhất, so với các phương thức vận tải khác thì vận tải đường hàng k0 ít tổn thất nhất, vì do thời gian vận chuyển ngắn, trang thiết bị phục vụ vận chuyển hiện đại, nên trừ lúc cất cánh, hạ cánh, máy bay hầu như k0 bị tác động bởi các điều kiện thiên nhiên như sét, mưa, bão, …trong hành trình chuyên chở. + VTĐHK luôn đòi hỏi sử dụng công nghệ cao: do có tốc độ cao, phục vụ chuyên chở hành khách, một số hàng hoá có giá trị cao, hàng cứu trợ khẩn cấp… là chính, nên đòi hỏi phải an toàn tuyệt đối trong quá trình chuyên chở. Vận tải đường hàng k0 k0 cho phép sai sót dù là nhỏ nhất, vì thế vận tải đường hàng k0 đòi hỏi những tiêu chuẩn rất khắt khe về công nghệ kỹ thuật. + VTĐHK cung cấp các dịch vụ có tiêu chuẩn chất lượng cao hơn hẳn so với các phương thức vận tải khác và được đơn giản về thủ tục, giấy tờ do máy bay bay thẳng, ít qua các trạm kiểm soát, kiểm tra… Nhược điểm: + Cước VTĐHK cao nhất, do chi phí trang thiết bị hiện đại, chi phí sân bay, chi phí khấu hao máy bay, chi phí dịch vụ khác rất cao. Nếu so sánh cước phí vận chuyển 1kg hàng hoá trên cùng 1 tuyến đường đi từ Nhật Bản đến Luân Đôn thì cước phí bằng máy bay mất 5,5 USD, trong khi đó bằng tàu biển chỉ mất 0,7. Cước phí vận tải đường k0 vẫn cao gấp từ 2 đến 4 lần so với cước phí vận tải đường sắt và ô tô. + VTĐHK bị hạn chế đối với việc chuyên chở hàng hoá có khối lượng lớn, hàng hoá cồng kềnh, do máy bay có trọng tải và dung tích k0 lớn. + VTĐHK đòi hỏi đầu tư lớn về cơ sở vật chất kỹ thuật, phương tiện máy bay, sân bay, đào tạo nhân lực, xây dựng hệ thống kiểm soát k0 lưu, đặt chỗ toàn cầu, chi phí tham gia các tổ chức quốc tế về hàng k0… *) Vận tải đa phương thức Khái niệm: Mutimodal Transport hay còn gọi là vận tải liên hợp quốc tế là phương pháp vận tải hàng hoá bằng ít nhất hai phương thức vận tải khác nhau trở lên, trên cơ sở một hợp đồng vận tải đa phương thức từ một điểm ở một nước này tới một điểm chỉ định ở một nước khác để giao hàng. Người kinh doanh vận tải đa phương thức (MTO – Multimodal Transport Operator) phải chịu trách nhiệm đối với hàng hoá trong suốt quá trình chuyên chở kể từ khi nhận hàng cho tới khi giao xong hàng cho người nhận, có thể coi đó là một hợp đồng vận chuyển đơn nhất, một chứng từ đơn nhất và một giá cước đơn nhất với một chế độ trách nhiệm nhất định. Vận tải đa phương thức ra đời là kết quả tất yếu của quá trình vận tải, vào cuối những năm 20, đầu những năm 30 của thế kỷ 20 trên thế giới, do nhu cầu hoàn thiện hệ thống phân phối vật chất của các đơn vị sản xuất, kinh doanh trong xã hội. Và cũng là do yêu cầu của cuộc cách mạng container, diễn ra trong những năm 60 với sự ra đời của nhiều container chuyên dụng, các công cụ xếp dỡ container có năng suất cao,… giải quyết được tình trạng ùn tàu, ùn container ở các cảng biển, đầu mối giao thông. Điều này đòi hỏi phải tìm ra một phương pháp vận tải mới để đưa hàng hoá từ nơi gửi đến nơi nhận một các thông suốt, trọn gói (door- to- door) Ở Việt Nam hiện nay chưa có cơ quan Trung ương quản lý về vận tải đa phương thức, chỉ có các công ty hoạt động trong lĩnh vực logistics đang áp dụng như Vietfrach, Vietrans, Transimex, Viconship, Vosa,… trong mấy năm gàn đây, tuy nhiên còn lẻ tẻ, chưa phát triển thành một ngành kinh doanh hoàn chỉnh. 4.1.4. Xu hướng phát triển của Logistics trên thế giới Một xu thế tất yếu của thời đại ngày nay là toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới. Bất kỳ một quốc gia hay ngành nghề nào, không phân biệt lớn hay nhỏ, mới hay cũ, muốn tồn tại và phát triển thì phải chấp nhận và tích cực tham gia vào xu thế mới này. Toàn cầu hoá làm cho giao thương giữa các quốc gia, các khu vực trên thế giới phát triển mạnh mẽ và đương nhiên sẽ kéo theo những nhu cầu mới về vận tải, kho bãi, các dịch vụ phụ trợ… Xu thế mới của thời đại sẽ dẫn đến bước phát triển tất yếu của Logistics - Logistics toàn cầu (Global Logistics).Theo dự báo, trong vài thập niên đầu thế kỷ 21 Logistics sẽ phát triển theo 3 xu hướng chính sau: - Ứng dụng công nghệ thông tin, thương mại điện tử ngày càng phổ biến và sâu rộng hơn trong các lĩnh vực của Logistics, như: hệ thống thông tin quản trị dây truyền cung ứng toàn cầu, công nghệ nhận dạng bằng tần số vô tuyến,... vì thông tin được truyền càng nhanh và chính xác thì các quyết định trong hệ thống Logistics càng hiệu quả. - Phương pháp quản lý Logistics kéo (Pull) ngày càng phát triển mạnh mẽ và dần thay thế cho phương pháp Logistics đẩy (Push) theo truyền thống. - Thuê dịch vụ Logistics từ các công ty Logistics chuyên nghiệp ngày càng phổ biến. Toàn cầu hoá nền kinh tế càng sâu rộng thì tính cạnh tranh lại càng gay gắt trong mọi lĩnh vực của cuộc sống. Trong lĩnh vực Logistics cũng vậy, để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của khách hàng, thì ngày càng có nhiều nhà cung cấp dịch vụ Logistics ra đời và cạnh tranh quyết liệt với nhau. Để đáp ứng nhu cầu cung ứng nguyên vật liệu, phân phối sản phẩm người ta luôn phải cân nhắc: Tự làm hay đi mua dịch vụ? và Mua của ai? Do đó, bên cạnh những hãng sản xuất có uy tín đã gặt hái được những thành quả to lớn trong hoạt động kinh doanh nhờ khai thác tốt hệ thống Logistics của chính mình, như: Hawlett - Packard, Spokane Company, Ladner Buiding Products, Favoured Blend Coffee Company, Sun Microsystems, SKF, Procter & Gamble… thì tất cả các công ty vận tải, giao nhận cũng nhanh chóng chớp thời cơ phát triển và trở thành những nhà cung cấp dịch vụ Logistics hàng đầu thế giới với hệ thống Logistics toàn cầu như: TNT, DHL, Maersk Logistics, NYK Logistics, APL Logistics, MOL Logistics, Kuehne & Nagel, Schenker, Birkart, Ikea,… Để tối ưu hoá, tăng sức cạnh tranh của các doanh nghiệp, nếu như trước đây, các chủ sở hữu hàng hóa lớn thường tự mình đứng ra tổ chức và thực hiện các hoạt động Logistics để đáp ứng nhu cầu của bản thân, thì giờ đây việc đi thuê các dịch vụ Logistics ở bên ngoài ngày càng trở nên phổ biến 4.2. Những yếu tố tác động đến cung dịch vụ 4.2.1. Cơ sở hạ tầng: Việt Nam nằm tại khu vực Đông Nam Á, Biển Đông trải dài khắp 3 miền với các cảng cửa ngõ ở ba miền Bắc – Trung – Nam và 2 cảng trung chuyển của quốc gia là Cảng Vân Phong (Khánh Hòa) và Cảng quốc tế tại đảo Cát Hải (Hải Phòng).Điều này làm giúp cho các doanh nghiệp kinh doanh thuận lợi khá lớn với việc phát triển logictic thông qua các hệ thống cảng biển tại Việt Nam. Các doanh nghiệp có thể dễ dàng khai thác cảng và vận chuyển container có công suất lớn. Việt Nam có bờ biển dài, có biên giới với Trung Quốc, Lào và Campuchia thuận lợi cho việc kết hợp nhiều phương thức vận tải, vận tải quá cảnh, trong đó vận tải đa phương thức là một nhân tố rất quan trọng để thiết lập chuỗi cung ứng dịch vụ logistics; nguồn nhân lực cho ngành logistics trong nước có thể đáp ứng được, không cần nhập khẩu. Với 3 sân bay đặt tại trung tâm 3 miền Bắc Trung Nam có thể vận chuyển hàng hoá sang các nước khu vực Asean ,Châu Á ,Châu Âu một cách dề dàng .Với sự gia nhập vào tổ chức kinh tế WTO thì các hãng hàng không nước ngoài đã xâm nhập vào hệ thống luân chuyển và có thể trực tiếp chuyên chở đến các nước không cần phải quá cảnh các nước trung gian như trước đây Trong chiến lược phát triển kinh tế của chính phủ Việt Nam thì ngày càng nhiều các trung tâm ,các khu vực công nghiệp ,các khu chế xuất lớn nhận được nguồn vốn đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng như Bình Dương,Dung Quất ....Điều này giúp cho nguồn cung cho dịch vụ logictic được phát triển .Cùng với việc phát triển của các khu công nghiệp này thì hệ thống đường cao tốc cũng đang được mở rộng và hình thành, làm cho hệ thống mạng lưới đường bộ,các đường cao tốc ,quốc lộ sẽ phát triển theo kịp đà phát triển của sự phát triển của các khu kinh tế Dịch vụ logictic yêu cầu một hệ thống mạng lưới vận tải tại chỗ, các mối quan hệ với hải quan ,các trung tâm phân phối hàng hoá đạt tiêu chuẩn cao. Vì vậy, điều này đã tác động trực tiếp đến cung của dịch vụ logistics cho hàng triển lãm và hội chợ quốc tế tại Việt Nam. 4.2.2. Hệ thống truyền thông dữ liệu Trong logistics hiện đại, hệ thống thông tin được sử dụng rộng rãi bao gồm POS (điểm bán hàng), hệ thống thông quan tự động, hệ thống phân và theo dõi luồng hàng, hệ thống EDI (hệ thống chia sẻ và trao đổi dữ liệu điện tử). Sự tiến bộ nhanh chóng của công nghệ thông tin trong thời gian qua đã giúp cho quá trình hoàn thiện logistics, quản trị kinh doanh và dịch vụ khách hàng phát triển mạnh mẽ. Trong logistics các hoạt động mua hàng, sản xuất, phân phối và tiêu dùng, cùng với những phế thải phát sinh trong quá trình diễn ra các hoạt động trên sẽ gây tác động xấu ở mức độ khác nhau đến môi trường. Điều này yêu cầu phải có sự kiểm tra trong việc lựa chọn nguyên liệu, sự phù hợp trong khâu mua hàng, tính hiệu quả trong việc giao hàng và xử lý rác thải. Để có thể phát triển logistic thì yêu cầu một hệ thống mạng lưới đại lý dày đặc, hệ thống kho hàng chuyên dụng, dịch vụ khép kín trên toàn thế giới, mạng lưới thông tin rộng khắp, trình độ tổ chức quản lý cao, các yêu cầu này phải được phối hợp đồng bộ với nhau tạo nên một hệ thống truyền thống dữ liệu có quy mô lớn. 4.2.3. Các vấn đề vĩ mô Để ngành logistic phát triển thì đòi hỏi phải có sự hỗ trợ từ chính phủ, các ban ngành chức năng, hiệp hội... để đầu tư nâng cấp cơ sở hạ tầng, tăng năng lực vận tải biển, hàng không, đường sắt, đường bộ để phát triển ngành logistics và xóa bỏ những rào cản về mặt pháp luật nhằm thúc đẩy sự liên kết giữa các doanh nghiệp logistics trong nước tạo nên những doanh nghiệp mạnh đủ sức cạnh tranh với các đối thủ lớn đến từ nước ngoài. Luật doanh nghiệp sửa đổi có hiệu lực từ ngày 1-1-2000 với việc dở bỏ rất nhiều rào cản trong việc thành lập và đăng ký doanh nghiệp. Hiện nay, đối với doanh nghiệp làm dịch vụ giao nhận, logistics tại Việt Nam, vốn và trang thiết bị, cơ sở hạ tầng, ngay cả các điều kiện kinh doanh tiêu chuẩn của ngành cũng không còn là rào cản nữa và lợi nhuận biên (profit margin), lợi nhuận trên vốn tương đối cao (theo các thống kê ở mức trung bình ngành vào khoảng 18-20%). . Ngoài ra , cần một cầu nối giữa nhà sử dụng dịch vụ và nhà cung cấp dịch vụ logistics mà ở đây vai trò của nhà nước và hiệp hội là vô cùng quan trọng. Hiện nay mới có VIFFAS (Hiệp hội giao nhận kho vận Việt Nam có 97 hội viên, 77 hội viên chính thức và 20 hội viên liên kết, là đại diện cho những nhà cung cấp dịch vụ logistics Việt Nam. Theo VIFFAS, có 4 thuận lợi cơ bản để kinh doanh dịch vụ logistics hiện nay: +Pháp luật đang được điều chỉnh dần để phù hợp với tiến trình hội nhập và phát triển kinh tế; +Gia nhập WTO, khu vực mậu dịch tự do ASEAN +Bình thường hoá quan hệ với Hoa Kỳ tạo nhiều cơ hội cho phát triển kinh tế, trong đó có dịch vụ logistics +Thuận lợi với bờ biển dài, có biên giới với Trung Quốc, Lào và Campuchia thuận lợi cho việc kết hợp nhiều phương thức vận tải, vận tải quá cảnh Do đó, cần phải tận dụng các lợi thế trong chính sách hiện nay vào kinh doanh dịch vụ, tạo môi trường kinh doanh và cạnh tranh công bằng, lành mạnh, hợp tác cùng phát triển. 4.3. Xu hướng vận động, phát triển của thị trường Qua các nghiên cứu trên, xu hướng vận động, phát triển của thị trường logistics cho hàng Triển lãm, hội chợ tại Việt Nam trong thời gian tới có thể được quan sát thấy như sau: 4.3.1.Sự phát triển của cơ sở hạ tầng + Vận tải hàng không đang có xu hướng tự do hoá và liên minh toàn cầu ngày càng rõ rệt. Qua quá trình thực hiện chính sách tự do hoá bầu trời, các hãng hàng không đã khai thác nhau mở rộng mạng bay của mình. Với số lượng hành khách vận chuyển hàng năm khoảng 1,5 tỷ người, khối lượng hàng hoá gần 30 triệu tấn và khai thác trên 10000 máy bay, ngành hàng không cần phải có một cơ sở hạ tầng lớn mạnh hơn rất nhiều. Tại Việt Nam, hiện có 4 doanh nghiệp vận tải hàng không, đó là Hãng hàng không quốc gia Việt Nam (VietnamAirline), hãng hàng không cổ phần Pacific Airline, Công ty bay dịch vụ Việt Nam (VASCO – Vietnam Aviation Service Company) và Tổng công ty bay dịch vụ Việt Nam (SFC – Service Fly Corporation), hiện đang trên đà đổi mới, phát triển mạnh cả về số lượng và chất lượng các chuyến bay, tuyến bay. + Vận tải biển và tàu biển đang có xu hướng tăng trọng tải trung bình các loại tàu, trẻ hoá đội tàu buôn, hiện đại hoá và chuyên môn hoá đội tàu. Định hướng đến năm 2020 phát triển đội tàu tương ứng đạt 7100000 DWT, 14 tuổi và năng suất 20T/DWT, tỷ trọng vận chuyển hàng hoá xuất nhập khẩu đạt 35%. Về cảng biển: hiện nay Việt Nam có 91 cảng biển lớn nhỏ với tổng chiều dài 24.000 mét cầu cầu càng và 10 khu chuyển tải, hàng năm các cảng biển Việt Nam xếp dỡ khoảng 100 triệu tấn hàng hoá. Theo quy hoạch phát triển hệ thống cảng biển Việt Nam sẽ có 114 cảng, 61 cảng tổng hợp, 53 cảng chuyên dụng, đảm bảo xếp dỡ 210 triệu tấn hàng hoá. Theo kế hoạch, trong giai đoạn 2006 - 2010, Cục Hàng hải Việt Nam sẽ được Chính phủ, Bộ GTVT giao cho làm chủ đầu tư một số dự án trọng điểm và xây dựng đề án phát triển cảng biển hướng tới phát triển toàn diện trên lĩnh vực kinh doanh dịch vụ logistics hàng hải. Theo đó, trước mắt tập trung vào 2 giải pháp chính: Nâng cao chất lượng dịch vụ cung ứng cho khách hàng và mở rộng, đa dạng hoá các loại hình dịch vụ vận tải giao nhận để dần hướng tới phát triển toàn diện mô hình logistics Việc ._.m được nhiều cảm tình trong mắt khách hàng trong nước và quốc tế. 2.2. Chiến lược phát triển thị trường 2.2.1. Khái quát Đây là chiến lược sản phẩm dịch vụ mới đối với doanh nghiệp. ● Phân tích cơ hội thị trường Đó là việc cung cấp dịch vụ logistics cho các doanh nghiệp vừa vả nhỏ tại Việt Nam và cho các Triển lãm, hội chợ không có tính chất quốc tế mà hiện nay Translink chưa tham gia. Việc thực hiện dịch vụ không có nhiều điểm khác biệt so với dịch vụ vận chuyển hàng hoá thông thường, tuy nhiên, doanh nghiệp có lợi thế là đã chuyên nghiệp với việc vận chuyển cho Triển lãm, hội chợ và sẽ đạt được nhiều lợi ích sau đây: + Có thêm các mối quan hệ với các nhà tổ chức sự kiện, tổ chức Triển lãm, hội chợ, hoặc các tổ chức phi chính phủ khác có liên quan + Việc trở thành nhà giao nhận chính thức cho nhiều Triển lãm, hội chợ cho dù không mang tính chất quốc tế, cũng sẽ là một hình thức quảng bá cho doanh nghiệp + Các Triển lãm, hội chợ trong nước có rất nhiều khả năng sẽ được mở rộng, phát triển thành các Triển lãm,hội chợ quốc tế khi nhà tổ chức mời thêm một hoặc nhiều hơn các đơn vị nước ngoài tham gia. + Các doanh nghiệp của Việt Nam đang lớn mạnh sẽ có nhu cầu quảng bá sản phẩm ra ngoài phạm vi Việt Nam, sẽ là khách hàng mới cho dịch vụ out-bound của doanh nghiệp + Đem lại thêm doanh thu cho doanh nghiệp Ngoài ra, doanh nghiệp cần phải cân nhắc một vấn đề đó là thị trường này có tính cạnh tranh cao, do dịch vụ này về bản chất không khác nhiều so với dịch vụ vận chuyển hàng hoá thông thường, nên đã có những doanh nghiệp logistics tham gia vào thị trường như một dịch vụ vận chuyển hàng hoá thông thường trong danh mục sản phẩm của họ, kể cả các hãng lớn lẫn các đơn vị vận tải nhỏ, tuy chưa hình thành một dịch vụ “logistics cho hàng Triển lãm, hội chợ” hoàn thiện. ● Chiến lược về lựa chọn thị trường mục tiêu - Về địa lý: mở rộng ra các tỉnh miền Bắc và miền Trung, ngoài hai trung tâm triển lãm chủ yếu hiện nay là Hà Nội và Hải Phòng. Các thị trường này có xu hướng xúc tiến thương mại về các sản phẩm nông lâm sản, lương thực, thực phẩm chế biến, thuốc và các sản phẩm hoá học. - Về quy mô của đối tượng khách hàng tổ chức: tấn công vào mảng thị trường là các doanh nghiệp vừa và nhỏ của Việt Nam, nguồn lực tài chính không lớn, và rất chặt chẽ trong việc lựa chọn nhà cung cấp dịch vụ cho phù hợp và đáng với số tiền họ bỏ ra. ● Mục tiêu marketing của doanh nghiệp - Mở rộng danh mục sản phẩm, dựa vào các lợi thế hiện tại của doanh nghiệp (uy tín, chất lượng sản phẩm) để tấn công và xâm nhập dần vào thị trường mới - Mở rộng thị phần tại thị trường logistics Việt Nam nói chung, và thị trường logistics cho Triển lãm, hội chợ tại Việt Nam nói riêng - Kích thích nhu cầu cho khách hàng tiềm năng của thị trường Logistics cho Triển lãm, hội chợ quốc tế (cả in-bound và out-bound) - Tạo thêm các mối quan hệ cho chuỗi cung ứng giá trị của doanh nghiệp. ● Phương hướng cho các kế hoạch marketing: - Hoàn thiện về các dịch vụ kinh doanh - Đặt giá cả phù hợp với các doanh nghiệp vừa và nhỏ, có thể chịu hoà vốn hoặc lợi nhuận thấp trong thời gian trước mắt - Tập trung vào các chiến lược truyền thông và xúc tiến hỗn hợp 2.2.2. Các giải pháp marketing mix Tập trung vào các kế hoạch marketing truyền thông – xúc tiến hỗn hợp, sản phẩm, giá cả, quy trình giống với hàng hoá thông thường, còn lại về thực chất là giống chiến lược kia. ♦ Sản phẩm – quy trình Sản phẩm dịch vụ mới mà doanh nghiệp hoàn toàn có thể áp dụng đó là dịch vụ logistics cho hàng Triển lãm, hội chợ không mang tính quốc tế tại Việt Nam, với đối tượng khách hàng là các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Việt Nam, nhằm kích thích nhu cầu tham gia Triển lãm, hội chợ để quảng bá sản phẩm, hình ảnh, xúc tiến thương mại. Về bản chất và quá trình thực hiện cung ứng dịch vụ, sản phẩm mới này tương tự như dòng sản phẩm vận chuyển hàng hoá thông thường của doanh nghiệp. Do không có yếu tố nước ngoài nên không liên quan tới xuất nhập khẩu, vận tải quốc tế,… nên việc thực hiện có nhiều phần không phức tạp. Mặt khác, sản phẩm mới này lại có nhiều liên quan như đều sử dụng các mối quan hệ với các nhà tổ chức Triển lãm, các doanh nghiệp, và đều phải vận chuyển hàng hoá hai chiều: vào Triển lãm và ra khỏi triển lãm, đó cũng là điều khác biệt với hàng hoá thông thường khi chỉ phải vận chuyển một chiều. Quy trình có thể bao gồm các khâu bên trong như sau: Marketing trước bán Đăng ký gian hàng triên lãm và giấy phép Đóng gói, vận chuyển và lưu kho (có thể không lưu kho) Vận chuyển ra triển lãm, làm thủ tục đưa hàng vào Triển lãm Giao hàng tại các gian hàng và trực tại Triển lãm Liên hệ với khách hàng để biết khối lượng hàng cần phải đưa về doanh nghiệp hoặc bán, huỳ, biếu, tặng tại triển lãm Đóng gói, vận chuyển hàng về kho rồi chuyển về doanh nghiệp, hoặc không qua giai đoạn lưu kho Đây là một sản phẩm hoàn toàn mới mà công ty sẽ cung cấp, vì vậy trước khi tung ra thị trường, cần phải nghiên cứu kỹ, và thử nghiệm để đưa ra những quyết định phù hợp. Quy trình của dịch vụ cần phải đơn giản và nhanh chóng, thuận tiện. Mặt khác cũng phải đảm bảo đuợc chất lượng, và sự chuyên nghiệp của một doanh nghiệp mang tầm cỡ quốc tế. ♦ Giá cả *) Phương pháp định giá Chủ yếu là phương pháp định giá theo giá hiện hành (giá cạnh tranh) và định giá dựa vào chi phí theo cách “cộng lãi vào giá thành”: Giá dự kiến = Giá thành sản phẩm + Lãi dự kiến Về việc định giá theo giá hiện hành, đây là một vấn đề rất quan trọng mà doanh nghiệp phải chú trọng hơn là việc định giá dựa vào chi phí. Do đặc điểm doanh nghiệp mới tấn công vào thị trường nên cần phải tham khảo giá của các đối thủ cạnh tranh, có thể đặt ngang bằng họ hoặc thấp hơn để lôi kéo được khách hàng, và xâm nhập vào thị trường này. *) Chiến lược giá Ảnh hưởng chính đến phương pháp định giá ở đây là mục tiêu marketing của doanh nghiệp “xâm nhập vào thị trường mới” và đặc điểm của đoạn thị trường này gồm các đối tượng không có nhiều nguồn lực tài chính, thị trường lại có mức độ cạnh tranh không nhỏ, vì thế: Chiến lược giá cho sản phẩm mới này đó là chiến lược giá “Bám chắc thị trường”. Nội dung: Ấn định mức giá sản phẩm dịch vụ thấp nhằm đeo đuổi mục tiêu giành được thị phần. Lý do: Sản phẩm dịch vụ này có tuổi thọ dài, do việc xúc tiến thương mại trong nội địa là điều không thể thiếu trong nền kinh tế thị trường, lại không bị ảnh hưởng bởi các yếu tố quốc té, chính trị, ngoại giao như các Triển lãm, hội chợ quốc tế. Nếu bán với giá ban đầu thấp, giành được một phần của thị trường, thì sau này thị phần sẽ tăng nhanh và có thể tăng giá hoặc khai thác “hiệu quả theo quy mô” cho giai đoạn sau. Chiến lược này thích hợp với thị trường hiện tại: nhạy cảm về giá cả, có xuất hiện “hiệu quả theo quy mô”, và doanh nghiệp đang tìm cách xâm nhập vào thị trường Ngoài ra, còn có các chiến lược giá hỗ trợ khác như Định giá khuyến mãi, bằng cách khuyến mãi cho những dịp đặc biệt hoặc giảm bớt tiền mặt,… Định giá từng phần chứ không định giá trọn gói, để khách hàng có thể thấy được chi tiết và rõ ràng những khoản họ phải trả và lợi ích của họ. Công ty cũng nên tăng cường hợp tác với các doanh nghiệp logistic vừa và nhỏ khác để tạo điều kiện cho họ có thể tham gia vào một hoặc vài khâu trong chuỗi logistic, hoặc trở thành đại lý chính thức cho công ty nhằm giảm chi phí một số khâu mà công ty có tỷ trọng chi phí khá cao so với các đối thủ cạnh tranh. ♦ Phân phối Trong trường hợp sản phẩm mới này, bên cạnh việc sử dụng kênh trực tiếp, doanh nghiệp nên sử dụng kênh gián tiếp. Công ty có thể cho phép đại lý cung ứng của mình một số quyền sở hữu và đàm phán nhất định để có thể marketing và bán được sản phẩm dịch vụ tới tay khách hàng, hoặc mở các văn phòng đại diện. Trong mục tiêu về bao phủ thị trường hiện nay của doanh nghiệp, nên tăng về chiều dài cũng như chiều rộng của kênh, với điều kiện trong tầm điều khiển của doanh nghiệp và tổng chi phí phân phối. Translink Express Đại lý, văn phòng đại diện Khách hàng công nghiệp Sơ đồ 7: Kênh phân phối dự kiến cho công ty Translink Express Việc sử dụng kênh gián tiếp tại ngay các đại lý cung ứng hoặc mở các văn phòng đại diện khác sẽ có tính linh hoạt cao, thích ứng với những thay đổi của thị trường, bởi vì các thành viên kênh này hoàn toàn có thể không cam kết lâu dài trong tham gia vào kênh. Khi doanh nghiệp không sử dụng đại lý hiện tại làm cung ứng thì cũng có thể ngừng sử dụng với tư cách là thành viên kênh phân phối. Việc liên kết với các công ty logistics nhỏ tại Việt Nam có thể giúp làm giảm chi phí và khối lượng công việc. Tuy nhiên phải mất thời gian đào tạo, kiểm tra, và có thể sẽ bị lợi dụng về công nghệ và cách thức làm việc, cũng như quy trình, các mối quan hệ,… Do đó, có thể có biện pháp tốt hơn đó là doanh nghiệp mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh và trực tiếp mở các đại lý trực thuộc, cũng như xây dựng hệ thống kho bãi, đầu tư các phương tiện vận tải hạng nặng,… và liên kết với các hãng tàu tại Việt Nam. ♦ Xúc tiến hỗn hợp Đây là vấn đề mà doanh nghiệp nên tập trung vào nhất trong số các giải pháp cho yếu tố marketing mix của chiến lược. Đề tài xin được đưa ra một chiến lược truyền thông đối với doanh nghiệp khi tấn công vào thị trường logistics cho hàng Triển lãm, hội chợ Việt Nam với sự tham gia là các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Trong đó, công cụ truyền thông đắc lực là quảng cáo rộng rãi, ngoài ra còn có khuyến mại và các hoạt động PR. ▲Chiến lược truyền thông đối với doanh nghiệp Công chúng mục tiêu. Công chúng mục tiêu hay người nhận tin chính là khách hàng mục tiêu của công ty. Trong trường hợp này là các doanh nghiệp vừa và nhỏ của Việt Nam. Cụ thể hơn, người nhận tin là những người tham gia vào quá trình quyết định mua của các khách hàng đó, có ảnh hưởng tới việc các doanh nghiệp này có hay không sử dụng sản phẩm, dịch vụ của công ty Translink Express. Đặc điểm chung của công chúng mục tiêu là nguồn lực về tài chính không lớn, khắt khe trong việc chi ngân sách cho các hoạt động xúc tiến hỗn hợp hay quảng bá hình ảnh, ít quan tâm đến các hoạt động mang tầm cỡ lớn, ngoài hoạt động kinh doanh chính của mình. Hình ảnh hiện tại của công ty trong mắt nhóm khách hàng này hiện tại chưa được tốt, do công ty trước đây chỉ chú trọng vào các doanh nghiệp nước ngoài tham gia vào Triển lãm, hội chợ quốc tế tại Việt Nam hoặc các doanh nghiệp lớn trong nước có nhu cầu mang hàng hoá, sản phẩm ra thị trường nước ngoài để Triển lãm. Do đó, nếu không có tác động của truyền thông, thì các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Việt Nam khó có thể biết đến công ty cũng như các dịch vụ chất lượng cao hay uy tín của công ty. Mục tiêu truyền thông Về phản ứng đáp lại mong muốn của công chúng, các khách hàng ở đây khắt khe về việc lựa chọn sản phẩm hay nhà cung cấp, nên có thể sẽ tìm hiểu kỹ trước khi quyết định mua, và hành động, theo như mô hình AIDA: Chú ý à Quan tâm à Mong muốn à Hành động (Attention) (Interest) (Desire) (Action) Tuy nhiên, cũng có thể do nguồn lực tài chính, nên khách hàng sẽ lưỡng lự hoặc không tìm hiểu về dịch vụ của doanh nghiệp, vì thế phải tác động bằng truyền thông nhằm chiếm cảm tình của khách hàng, điều này sẽ dẫn tới việc dùng thử, sử dụng xong một lần rồi mới đánh giá và ưa thích. Đó là mô hình “chấp nhận đổi mới” Biết đến à Quan tâm à Đánh giá à Dùng thử à Chấp nhận Do đó, doanh nghiệp cần phải đề ra các mục tiêu như: Sau thực hiện chiến lược truyền thông, sẽ có ít nhất 80% thị trường mục tiêu hiểu biết nhãn hiệu, 68% sử dụng dịch vụ hoặc dùng thử một vài khâu, trong đó 35% ưa thích, 21% bàng quan và nhiều nhất là 12% không ưa thích dịch vụ. Nắm bắt lấy những khách hàng ưa thích và khiến họ trở thành khách hàng trung thành của công ty. Lựa chọn kênh truyền thông và phương tiện truyền thông Kênh truyền thông trong trường hợp này được sử dụng chủ yếu nên là kênh truyền thông gián tiếp. Do số lượng các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Việt Nam là không nhỏ, hơn nữa nguồn lực tài chính họ không cao đủ để công ty tập trung thu hút sự chú ý của từng khách hàng một, ngoài ra nguồn lực của công ty hiện nay cũng chưa lớn để đủ trang trải cho hoạt động marketing trực tiếp, hay kênh truyền thông trực tiếp cho thị trường này tương đương như với thị trường khách hàng lớn và ngoài nước. Do đặc điểm khách hàng là các doanh nghiệp, tổ chức, hiệp hội, nên kênh truyền thông tỏ ra hiệu quả trong trường hợp này là các tạp chí chuyên ngành, báo và website. Đối với báo và tạp chí, nên đăng tải thông điệp trong từng đợt diễn ra Triển lãm về một lĩnh vực nào đó, trên tạp chí chuyên ngành của lĩnh vực đó, ví dụ như Triển lãm về thiết bị xây dựng, thiết kế nội thất Vietbuild có thể được quảng cáo trên tạp chí Nhà đẹp, hoặc các tạp chí về kiến trúc khác,… Ngoài ra, có thể đăng thư mời tham dự trên các tờ báo, hoặc đính kèm giới thiệu về nhà giao nhận chính thức trên các thông báo của nhà tổ chức Triển lãm, hội chợ quốc tế. Hơn thế nữa, có thể đặt một số điện thoại, hộp thư thoại miễn phí trên các tạp chí, báo để khách hàng biết đến, gọi đến để tìm hiểu cũng như đặt hàng sử dụng dịch vụ. Đối với website trên internet: cần xây dựng website bằng tiếng Việt hoặc song ngữ, là nơi để quảng bá và để các khách hàng liên hệ, nên có thêm các tin tức về ngành, trao đổi trực tuyến,… Lựa chọn và thiết kế thông điệp - Nội dung của thông điệp: đề cập tới lợi ích của người mua, điều mà công ty muốn khách hàng cảm nhận được đó là “Chất lượng dịch vụ mang tầm quốc tế, nhưng giá cả phải chăng.” - Cấu trúc của thông điệp: Nên đưa ra kết luận dứt khoát về thông điệp chứ không dành phần đó cho người nhận tin, do các doanh nghiệp không có nhiều thời gian để giải mã quá phức tạp về thông tin quảng cáo. Trình bày lập luận “nên”, khuyến khích sử dụng dịch vụ, hơn là phân tích cả hai mặt nên hay không nên. Ngoài ra, nên đưa ra luận cứ có sức thuyết phục ngay từ đầu, do trình bày thông điệp trên trang báo, tạp chí, hay website, khác với truyền hình hay radio, nên sẽ giảm nguy cơ bị thiếu chú ý hay quên lãng sau khi đã nhận các luận cứ trên. - Hình thức của thông điệp: Trên một mặt trang báo, tạp chí, tuỳ thuộc vào từng khách hàng của từng lĩnh vực doanh nghiệp hướng tới sẽ có hình thức khác nhau. Nếu là các hiệp hội, tổ chức, doanh nghiệp nhà nước, các ngành công nghiệp nặng,… nên là các hình ảnh đơn giản, màu sắc đẹp, dễ chịu, nghiêm túc, ví dụ như hình ảnh về một Triển lãm mà doanh nghiệp đã từng cung ứng dịch vụ, hay hình ảnh về đội ngũ công nhân viên của công ty, cơ sở hạ tầng,… Nếu là các doanh nghiệp về nhiều lĩnh vực nhỏ khác như mỹ phẩm, thực phẩm, hàng tiêu dùng,… có thể sử dụng hình ảnh sinh động, màu sắc ấn tượng, tiêu đề lôi cuốn. Ví dụ như hình ảnh ngoài trời mưa gió, nhưng trong nhà, một người đàn ông nhận được điện thoại thông báo hàng đã đến nơi an toàn,… Và thông điệp nhấn mạnh về chất lượng dịch vụ, và không thể thiếu được đó là vấn đề giá cả. Slogan có thể là “ Chất lượng quốc tế - giá cả phải chăng”,… Có thể sử dụng các nhân vật nổi tiếng hoặc những người chuyên trách tại các doanh nghiệp lớn đã từng sử dụng dịch vụ để xuất hiện và phát ngôn trong thông điệp quảng cáo, sẽ tăng phần hiệu quả hơn về độ tin cậy cho thông điệp cũng như gây được chú ý hơn của khách hàng. Nên thay đổi thường xuyên các hình ảnh, hình thức của thông điệp trên các tờ báo và tạp chí, nhưng giữ nguyên nội dung và cấu trúc thông điệp. Xây dựng tổng ngân sách Các yêu tố cần xem xét khi xây dựng ngân sách quảng cáo: Giai đoạn trong chu kỳ sống của sản phẩm: hiện nay dịch vụ này đang ở giai đoạn đầu của chu kỳ sống, do dó cần phải chi nhiều cho truyền thông để quảng bá về dịch vụ và nhà cung ứng. Thị phần và cơ sở tiêu dùng: để tạo thị phần bằng cách xâm nhập và tăng quy mô thị trường thì cần phải có chi phí cao, hơn nữa nhãn hiệu lại chưa được nhiều khách hàng mục tiêu biết đến Cạnh tranh: đã có những doanh nghiệp cung cấp dịch vụ này như một dịch vụ vận chuyển hàng hóa thông thường, và do xu hướng vận động của thị trường sẽ phát triển mạnh, nên hứa hẹn sẽ có nhiều đối thủ cạnh tranh khi công ty bước chân vào thị trường, do đó cần phải xúc tiến hỗn hợp nhiều hơn nữa. Khả năng thay thế của sản phẩm: hiện tại là chưa có khả năng lớn về việc thay thế sản phẩm này. Do đó chưa cần phải quảng cáo với tần suất lớn. Doanh nghiệp có thể xác định ngân sách cho quảng cáo dựa vào các phương pháp: Dựa vào doanh thu: dựa vào doanh thu kỳ trước và doanh thu dự kiến trong kỳ mới, cân nhắc thêm về mục tiêu của chiến dịch, ngân sách các đối thủ cạnh tranh bỏ ra và tình hình chung của ngành trong thời gian tới. Ví dụ như, doanh nghiệp có thể chi ra trung bình 5-10 % doanh thu của năm 2007 (12 tỷ đồng Việt Nam) và doanh thu dự kiến năm 2008 (16 tỷ đồng Việt Nam) cho chiến dịch xúc tiến hỗn hợp này, trong khoảng 700 triệu - 1,5 tỷ đồng trong năm 2008 cho chiến dịch trên mà công cụ chủ yếu là quảng cáo và phương tiện là báo và tạp chí chuyên ngành, websites. Đo lường và đánh giá kết quả Trong các quảng cáo, công ty nên để riêng một phần dành cho phản hồi của những người nhận tin, đặc biệt là trên website điều này sẽ rất dễ dàng. Có thể để lại số điện thoại, địa chỉ email trên trang quảng cáo, liên hệ thường xuyên với ban biên tập nếu có phàn nàn hay nhận xét của người đọc về quảng cáo, hoặc gửi phiếu điều tra cho các đối tượng nhận tin mục tiêu,… Việc khảo sát cần phải rút ra được kết luận về việc họ có nhìn thấy thông điệp không? Có ghi nhớ thông điệp không? Họ ghi nhớ được những điểm nào? Thái độ trước kia và hiện nay của họ về sản phẩm của công ty sau khi nhận thông điệp?... Từ đó có thể rút ra được kết luận về chiến dịch truyền thông đạt hiệu quả được như thế nào so với kế hoạch, mục tiêu đặt ra, đã đem lại những thành công gì, giúp doanh nghiệp phát hiện ra được vấn đề gì còn tồn tại trong sản phẩm dịch vụ,… Nếu như chiến dịch truyền thông chưa hiệu quả, hoặc còn có thể phát huy hơn nữa, cần nghiên cứu kỹ và thay đổi lại chiến dịch. ● Ngoải ra, doanh nghiệp có thể có những định hướng khác hoặc tiến hành song song cùng với marketing trực tiếp như: + Quan hệ công chúng (PR) : tài trợ cho một số sự kiện, cuộc thi, chương trình truyền hình, hoặc tham gia vào các cuộc bình chọn được nhiều khách hàng mục tiêu biết đến. + Kích thích tiêu thụ bằng các biện pháp khuyến mại, tặng quà, chăm sóc khách hàng,… + Liên hệ với một doanh nghiệp, hãng khác để cùng thực hiện chiến dịch xúc tiến hỗn hợp. (co-branding: liên kết thương hiệu). Các doanh nghiệp này có thể là các hãng bao gói, hãng tàu, hàng không,… hoặc các lĩnh vực ít liên quan hơn. ♦ Con người và bằng chứng vật chất Về yếu tố con người: luôn đóng vai trò quan trọng trong kinh doanh dịch vụ. Do mục tiêu của doanh nghiệp là phát triển thị trường, nhất là bề rộng của danh mục sản phẩm và thị trường, nên trước mắt doanh nghiệp rất cần phải phát triển lực lượng nhân sự cũng như lực lượng bán hàng để có thể đảm nhận được các kế hoạch sắp tới. Các việc mà doanh nghiệp cần phải làm đó là tuyển mộ và sử dụng các công nhân viên mới, cử nhân viên đi đào tạo tại các khoá học cần thiết, có các chính sách ưu đãi nhằm ổn định lực lượng lao động của công ty. Về bằng chứng vật chất: Những bằng chứng vật chất hiện tại công ty đang có như những thế mạnh đó là các chứng nhận, chứng chỉ, giải thưởng từ các tổ chức, hiệp hội quốc tế chửng minh cho chất lượng và uy tín của công ty. Công ty cần tiếp tục phát huy truyền thống này, gặt hái thêm nhiều thành tích, và đặc biệt là nên tham gia vào các cuộc bình chọn, các cuộc thi có đánh giá của các khách hàng, chứ không chỉ ý kiến của các chuyên gia. Ngoài ra, công ty cũng cần chú trọng xây dựng hình ảnh, hình thức của mình trước khách hàng ví dụ như mở rộng cơ sở vật chất, trang bị thêm các phương tiện, trang thiết bị, quy định mặc đồng phục có gắn logo và slogan cho tất cả nhân viên, đào tạo lực lượng lao động về giao tiếp, thái độ phục vụ 3. Các kiến nghị khác 3.1. Các kiến nghị cho công ty 3.1.1. Các kiến nghị chung Các vấn đề về quản trị mà doanh nghiệp cần quan tâm như: tài chính, nhân sự,… là những điều không thể thiếu. Công ty có thể có một số chú ý sau: + Xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt có trình độ cao, tâm huyết làm nòng cốt cho sự phát triển của Công ty, mạnh dạn bố trí cán bộ trẻ có năng lực vào các vị trí chủ chốt. + Tuyển dụng, đào tạo đội ngũ công nhân lành nghề, nắm vững về về logistic. + Có chính sách lương, thưởng hợp lý góp phần thu hút nhân tài đồng thời kích thích sáng tạo và sự đóng góp tích cực của người lao động. + Tổ chức các khoá huấn luyện đào tạo cho cán bộ nhân viên về chuyên môn với sự hỗ trợ của các tổ chức chuyên nghiệp trong và ngoài nước. + Thường xuyên phát động và tổ chức các phong trào thi đua, phát huy sáng tạo, cải tiến tăng năng suất, tiết kiệm để nâng cao hơn nữa hiệu quả kinh doanh của Công ty và thu nhập người lao động. - Đào tạo đội ngũ cán bộ nhân viên có đầy đủ năng lực chuyên môn nghiệp vụ, am hiểu kinh doanh, luật pháp quốc tế. Phát huy tính năng động, nâng cao năng suất chất lượng công việc đáp ứng nhu cầu phát triển của Công ty. Đào tạo về nhân lực cho ngành logistics, đặc biệt là quản trị về chuỗi cung ứng và nhân sự có tay nghề kỹ thuật cao Tăng cường mối quan hệ với các đại lý trong hoạt động phân phối, chú trọng vào việc phối hợp giữa các doanh nghiệp Việt Nam . 3.1.2. Xử lý nguồn thông tin Hoạt động logistics hàng hải không đơn thuần chỉ là giao nhận vận chuyển mà thực tế phải đảm nhận các khâu liên quan đến quá trình sản xuất hàng hoá như gia công, chế biến, lắp ráp, đóng gói, gom hàng, xếp hàng, lưu kho và giao nhận. . Xu hướng đó không những đòi hỏi phải phối hợp liên hoàn tất cả những phương thức vận tải mà còn đòi hỏi kiểm soát được các luồng thông tin, luồng hàng hoá và luồng tài chính Hoạt động trong môi trường cạnh tranh quyết liệt, muốn đứng vững không có giải pháp hữu hiệu nào hơn là các doanh nghiệp phải nâng cao chất lượng dịch vụ cung cấp cho khách hàng. Tiếp đó, doanh nghiệp cần hoàn thiện các loại hình dịch vụ đang cung cấp cho khách hàng, mà phổ biến hơn cả là dịch vụ vận tải giao nhận hàng hoá bằng container. Cụ thể, nhanh chóng cải tạo và nâng cấp theo hướng hiện đại hoá hệ thống kho bãi hiện có, phát triển kho bãi mới ở vị trí thuận lợi đảm bảo cho được triển khai nghiệp vụ gom hàng, bảo quản, đóng gói, giao nhận và vận chuyển Trong điều hành, củng cố hệ thống máy tính ghi lại toàn bộ thông tin liên quan đến container cũng như hàng hoá trong container (hệ thống CCMS quốc tế). Đây là hệ thống quản lý của các hãng vận tải giao nhận nước ngoài thường sử dụng, nay Việt Nam áp dụng để chuyển dần sang cung cấp dịch vụ logistics. Xu hướng đa dạng hoá các sản phẩm dịch vụ cung ứng của doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ vận tải giao nhận cần tập trung vào 3 khâu chính là: Đảm nhận việc đóng gói, phân loại hàng hoá cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu, đồng thời cung cấp dịch vụ kiểm kê, phân phối hàng hoá đến đúng địa chỉ tiếp nhận; cuối cùng, đầu tư, xây dựng hợp lý, có hiệu quả hệ thống kho bãi của doanh nghiệp... 3.2. Các kiến nghị dành cho chính phủ và các cơ quan hữu quan Mục tiêu cần đạt được của logistics trên bình diện quốc gia là khai thác tốt nhất, hiệu quả nhất mọi nguồn lực quốc gia trong các hoạt động vận tải, giao nhận, lưu trữ hàng hoá và những hoạt động khác có liên quan. Để làm được điều này Nhà Nước Việt Nam cần xây dựng và hoàn thiện cơ sở hạ tầng logistics và một hệ thống các văn bản luật – kinh tế phù hợp điều chỉnh các hoạt động có liên quan đến logistics và dịch vụ logistics, tạo ra một môi trường thuận lợi cho sự hoạt động và phát triển logistics cũng như dịch vụ logistics. Hệ thống giao thông vận tải là cơ sở hạ tầng quan trọng trong việc phát triển dịch vụ logistics. Với tư cách nhà khai thác cảng biển lâu năm trên thị trường quốc tế , chúng tôi nhận thấy cơ sở hạ tầng giao thông vận tải của Việt Nam còn yếu kém, kể cả đường sắt, đường bộ, đường hàng không, đường sông và đường biển. Điều này đã làm cho chi phí của dịch vụ logistics cao lên, làm ảnh hưởng đến sự phát triển cũng như hiệu quả của dịch vụ logistics ở Việt Nam. Nhà nước cần đầu tư hợp lý cho các cảng, sân bay, cảng thông quan nội địa (ICD), đường bộ, đường sắt, đường sông, kho bãi, trang thiết bị, ngân hàng, bảo hiểm... theo một kế hoạch tổng thể có khả năng tương tác và hỗ trợ qua lại lẫn nhau một cách có hiều quả đồng thời đầu tư và nâng cấp hạ tầng giao thông vận tải, khuyến khích vận tải container đường sắt, chú trọng đầu tư xây dựng cảng nước sâu trung chuyển khu vực Phát triển cảng biển bao gồm việc phát triển hệ thống cầu cảng, kho bãi, cảng thông quan nội địa (ICD), đầu tư các phương tiện xếp dỡ, phương tiện vận chuyển hàng hoá trong cảng cũng như phương tiện vận chuyển hàng hoá từ ICD đến cảng và ngược lại, áp dụng các công nghệ thông tin. Phát triển logistics cũng gắn với quá trình phát triển hàng hải, với sự phát triển của phương thức vận chuyển bằng container, đáp ứng yêu cầu nhanh chóng, an toàn và hiệu quả. Các cảng cần đầu tư, hiện đại hóa để đủ sức tiếp nhận các tàu container thế hệ mới phù hợp với xu hướng phát triển hàng hải của thế giới. Vấn đề nhân lực cho ngành dịch vụ cung ứng cũng cần được quan tâm, nhu cầu những năm tới cần khoảng hàng ngàn tổng giám đốc (CEO) cho ngành quản trị chuỗi cung ứng và lực lượng lao động trong ngành này ước chừng khoảng 7%-9% tổng lực lượng lao động VN nên cần thiết phải có chính sách đào tạo và tái đào tạo ngay từ bây giờ.Chuẩn hóa các quy trình dịch vụ logistics –thống kê logistics và xây dựng hành lang, khung pháp lý mở và chọn lọc; đẩy mạnh công tác đào tạo nhân lực chuyên ngành về logistics tại các trường đại học và cao đẳng…là những vấn đề cần được chú trọng đẻ ngành này phát triển Ngoài ra Chính phủ cần có chính sách và biện pháp hướng dẫn, thúc đẩy sự liên kết các doanh nghiệp giao nhận kho vận với nhau để có những doanh nghiệp có đủ quy mô, đủ điều kiện cạnh tranh với các doanh nghiệp cùng loại trong khu vực và trên thế giới. xây dựng hành lang, khung pháp lý mở và chọn lọc, đảm bảo tính nhất quán, thông thoáng và hợp lý trong các văn bản, quy định liên quan đến lĩnh vực logistics với mục đích tạo cơ sở cho một thị trường logistics minh bạch.Cải tiến quy trình thủ tục hải quan -xuất nhập khẩu. Ngoài ra cần thúc đẩy và phát triển phát triển công nghệ thông tin, chuẩn trao đổi dữ liệu điện tử trong thương mại/ khai quan điện tử (EDI) để tận dụng ưu thế của công nghệ thông tin nhằm mang lại năng suất lao động cao, tiết kiệm chi phí, giảm thiểu tình trạng tiêu cực, gian lận trong thương mại ,xuất nhập khẩu và hải quan. Về vấn đề Triển lãm và hội chợ thương mại quốc tế, nhà nước cần phải có thông tin rộng rãi và công khai cho các khách hàng nước ngoài, đẩy mạnh xúc tiến thương mại nhằm lôi kéo được nhiều khách hàng, nhiều quốc gia tới Việt Nam để tham gia triển lãm. Đồng thời tạo điều kiện tối đa cho quá trình thông quan, vận chuyển hàng hoá được thông suốt. KẾT LUẬN Ngành Logistics tại Việt Nam hiện nay đang bắt đầu phát triển với nhiều tiềm năng to lớn. Thị trường Logistics cho hàng Triển lãm, hội chợ quốc tế tại Việt Nam là một thị trường có nhiều nét đặc thù và khá mới mẻ. Trong thời gian tới, thị trường này sẽ phát triển về cơ sở hạ tầng, số lượng và quy mô các Triển lãm, hội chợ quốc tế, các doanh nghiệp chuyên về logistics cho hàng Triển lãm, hội chợ quốc tế sẽ tăng cả về số lượng và chất lượng, và có xu hướng gia nhập vào các hiệp hội liên quan tới Logistics cũng như liên kết với nhau. Với mục tiêu nghiên cứu nhằm nổi bật các đặc điểm của thị trường dịch vụ Logistics cho Triển lãm, hội chợ tại Việt Nam, xu hướng vận động, phát triển, và việc vận dụng marketing trong vấn đề kinh doanh của công ty Translink Express cùng với việc đưa ra các giải pháp, đề tài đã đi sâu vào phân tích và đánh giá các đặc điểm marketing trong hoạt động kinh doanh của công ty. Từ đó đưa ra một số kiến nghị cho việc áp dụng các yếu tố của marketing vào việc nắm bắt các cơ hội trong xu hướng vận động phát triển sắp tới của thị trường. Các kiến nghị này gồm có các vấn đề về chiến lược marketing, phân đoạn và lựa chọn thị trường mục tiêu, phương hướng và hệ thống marketing mix có thể vận dụng vào. Cụ thể đó là hai chiến lược marketing dành cho việc phát triển thị trường và thâm nhập sâu vào thị trường, cùng với đó là hai hệ thống marketing mix cụ thể dành cho các kế hoạch, mục tiêu marketing cần đạt được. Ngoài ra, đề tài còn đề xuất một số giải pháp khác không thuộc phạm trù marketing dành cho công ty và các cơ quan hữu quan, nhằm tạo ra môi trường và điều kiện kinh doanh tốt để có thể thực hiện được các giải pháp về marketing cho doanh nghiệp. Trong quá trình nghiên cứu và thực hiện, mặc dù rất cố gắng để hoàn thiện, nhưng đề tài không thể tránh khỏi những thiếu sót do các tác động khách quan và chủ quan. Vì vậy, rất mong có được sự đóng góp ý kiến của cá thầy cô giáo và các độc giả. Em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn tận tình của thầy giáo TS. Nguyễn Hữu Lai, sự giúp đỡ và tạo điều kiện từ phía tập thể công ty Translink Express để cho em có thể hoàn thành được chuyên đề tốt nghiệp này. Danh mục tài liệu tham khảo Giáo trình marketing căn bản – PGS.TS. Trần Minh Đạo – Nhà xuất bản Giáo dục – 2002 Quản trị Marketing – Philip Kotler – NXB Thống kê, 1997 Giáo trình nghiên cứu Marketing – TS Nguyễn Viết Lâm, NXB Thống kê - 2004 Quản trị kênh phân phối – TS Trương Đình Chiến, NXB Thống kê – 2004 Quảng cáo – Lý thuyết và thực hành, Bộ môn Marketing - Trường đại học kinh tế quốc dân , 1991 Brand Failures – Matt Haig - Nhà xuất bản tổng hợp TP HCM -2005 Giáo trình Marketing quốc tế - GS.TS. Trần Minh Đạo, PGS. TS. Vũ Trí Dũng – Nhà xuất bản ĐH Kinh tế quốc dân – 2007 Đặc san thời báo kinh tế Việt Nam, tháng 3-2008. Thời báo kinh tế Việt Nam; Báo Thương mại; Tạp chí Visaba Tài liệu công ty Báo cáo kết quả kinh doanh Catalogue, sách quảng cáo (brochures), bảng báo giá, Quotation, Shipping Manual Hồ sơ về khách hàng Các files dữ liệu của các lô hàng nhập khẩu Các trao đổi về mục tỉêu, tình hình thị trường, chỉ đạo của công ty mẹ Translink Group Singapore Điều tra nghiên cứu thị trường của công ty PWC Logistics Tạp chí hàng tháng của Agility Các nguồn dữ liệu từ các websites: MỤC LỤC ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc10034.doc
Tài liệu liên quan