Thực trạng huy động vốn trong nền kinh tế

LỜI NÓI ĐẦU Đề tài huy động các nguồn vốn trong nền kinh tế là một đề tài mà em đã chọn để nghiên cứu .Đề tài viết về thực trạng huy động các nguồn vốn trong nền kinh tế nước ta ngững năm gần đây và một số định hướng kinh tế của Nhà Nước cho việc huy động vốn trong thời gian tới . Đây là một đề tài rất rộng, nhưng do hạn chế của đề tài và khả năng có hạn, đề tài được viết làm hai phần : 1, Đặt vấn đề 2, Giải quyết vấn đề Trong phần giải quyết vấn đề, nó đề cập tới : Các nguồn vốn tron

doc60 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1307 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Thực trạng huy động vốn trong nền kinh tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g nền kinh tế thị trường – khái niệm vai trò, khả năng khai thác Các nguồn vốn đã được khai thác ở Việt Nam Một số định hướng cho vấn đề huy động vốn ở nước ta Mặc dù dưới sự giúp đỡ tận tình của thầy giáo, em đã cố gắng thu thập tài liệu để làm bài, song bài viết chắc còn nhiều thiếu sót .Em rất mong được sự chỉ bảo giúp đỡ của thầy giáo . Em xin chân thành cảm ơn thầy PHẦN I : ĐẶT VẤN ĐỀ Trong những năm gần đây nền kinh tế nước ta đã có những bước phát triển đáng mừng .Tốc độ tăng trưởng kinh tế khá cao so với các nước trên thế giới và trong khu vực .Tuy nhiên để trở thành một nước phát triển, một con rồng Châu á thì vẫn còn rất nhiều khó khăn phía trước .Trong vô vàn khó khăn đó thì vốn là một khó khăn cơ bản cần được giải quyết Để tăng trưởng đương nhiên là phải cần đến vốn đầu tư, muốn tăng trưởng càng nhanh thì lượng vốn đầu tư phải càng lớn .Tương quan giữa hai biến số này được xác định bằng hệ số ICOR (tỉ lệ giữa vốn đầu tư và giá trị sản phẩm gia tăng do đầu tư )Trong giai đoạn tới nước ta đang đứng trước một thách thức gay gắt .Điêmt mấu chốt của thách thức đó là làm sao có được sự tăng trưởng kinh tế cao, liên tục .Sức ép tăng từ chính các yêu cầu nội tại (xuất phát điểm thấp, dân số đông, tốc độ tăng trưởng dân số cao, bước vào quỹ đạo phát triển hiện tại muộn ...)từ hoàn cảnh quốc tế của sự phát triển (thời đại tốc độ dịch chuyển nhanh, nằm giữa một khu vực có tốc độ tăng trưởng và mức độ năng động cao nhất thế giới ...)đặt ra những yêu cầu hết sức căng thẳng cho công cuộc tăng trưởng kinh tế nước ta.Có thể nói, thực chất của vấn đề ở nước ta là :tụt hậu là nguy cơ có thật và luôn đe doạ . Các nước phát triển đi trước để lại một kinh nghiệm là: muốn có tốc độ phát triển kinh tế nhanh thì phải chuyển đổi cơ cấu nền kinh tế theo hướng Công nghiệp hoá - hiện đại hoá (CNH-HĐH ). Nước ta hiện nay, quá trình CNH – HĐH đang ở giai đoạn đầu, nhu cầu về vốn để đổi mới công nghệ và phát triển là rất lớn Như vậy vốn trong nền kinh tế nước ta đang là một vấn đề cần thiết và cấp bách .Muốn có được khối lượng vốn đủ để đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế thì vấn đề “ Huy động các nguồn vốn trong nền kinh tế thị trường ở nước ta “ là vấn đề quan trọng đầu tiên .Chiến lược huy động vốn có ý nghĩa quan trọng đối với việc thực hiện thành công các chiến lược kinh tế xã hội . Chúng ta cần phải tìm ra các nguồn vốn có khả năng huy động và xác định được những nguồn vốn chủ đạo .Để giải bài toán về vốn, phải coi trọng cả hai hình thức tạo vốn từ trong nước và ngoài nước . Đứng trước xu thế hội nhập khu vực và thế giới, việc cạnh tranh về vốn ngày một gay gắt .Điều đó đòi hỏi phải đưa ra những phương pháp thích hợp để huy động một cách có hiệu quả các nguồn vốn phục vụ cho nền kinh tế .Vấn đề “ Huy động các nguồn vốn trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam “ là một vấn đề đòi hỏi sự quan tâm không ngừng của Đảng, Nhà nước cũng như tất cả các cấp các nghành PHẦN II :GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ CHƯƠNG I Các nguồn vốn trong nền kinh tế thi trường và các nhân tố ảnh hưởng tới khả năng huy động các nguồn vốn trong nền kinh tế. Trong chương này ta sẽ xem xét tới kháI niệm cơ bản về vốn, nguồn vốn nói chung; vai trò của vốn trong nền kinh tế; việc phân loại nguồn vốn; và từng nguồn vốn cụ thể. Trong từng nguồn vốn cụ thể, chúng ta sẽ phân tích về đặc đIểm, nội dung của nguồn vốn đó, đồng thời cũng sẽ phân tích khả năng khai thác và các nhân tố ảnh hưởng tới khả năng huy động từng nguồn vốn này I Khái niệm, vai trò của vốn và nguồn vốn. 1.Khái niệm về vốn và nguồn vốn *)Vốn là một khối lượng tiền tệ nào đó được đưa vào lưu thông với mục đích kiếm lời .Số tiền đó được sử dụng muôn hình muôn vẻ, nhưng suy cho cùng là để mua sắm tư liệu sản xuất và trả công cho người lao động, nhằm hoàn thành công việc sản xuất kinh doanh hoặc dịch vụ nào đó với mục đích là thu về số tiền lớn hơn hoặc số tiền ban đầu . *)Nguồn vốn chính là nơi mà từ đó có thể khai thác được một số lượng vốn nào đó để phục vụ cho nhu cầu của các hoạt động kinh tế xã hội . 2.Vai trò của vốn trong nền kinh tế Trước hết, ta có thể nói rằng, vốn là một trong năm yếu tố quan trọng nhất trong mọi quá trình sản xuất đó là :nhân lực, vật lực, tài lực (vốn ), thông tin và sự quản lý .Nếu thiếu vốn thì quá trình sản xuât sẽ không thể được tiến hành Vốn cũng là một yếu tố vô cùng quan trọng đối vơi các nước đang phát triển nói chung, và Việt Nam nói riêng để các nước này có thể tiến hành đổi mới nền kinh tế, đưa nền kinh tế tiến kịp với các nước phát triển .Việt Nam là một nước tiến hành CNH – HĐH muộn so với thế giới, mặt khác lại có xuất phát điểm thấp, đó là những khó khăn cản trở sự phát triển kinh tế .Để khắc phục những khó khăn này thì vốn đóng vai trò rất quan trọng .Nước ta cần phải có một lượng vốn lớn để xây dựng và nâng cấp cơ sở hạ tầng, đào tạo nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và đôi rmới thiết bị công nghệ cho quá trình sản xuất .Nền kinh tế không thể phát triển được nếu thiếu một cơ sở hạ tầng thuận lợi, đồng bộ .Cơ sở hạ tầng của nước ta hiện nay tuy đã có những tiến bộ song vẫn đang ở mức thấp kém .Đó là một yếu tố làm giảm tính hấp dẫn của các nhà đầu tư nước ngoài .Nguồn nhân lực nước ta có rất nhiều lợi thế song tay nghề lại thấp .Máy móc thiết bị sử dụng trong quá trình sản xuất phần lớn là lạc hậu so với các nước phát triển ...Tất cả những điều đó đòi hỏi Nhà Nước phải có các giảI pháp thích hợp để huy động được một lượng vốn đủ lớn để, thực hiện việc “đi trước đón đầu “. 3 .Phân loại nguồn vốn Có một số cách đẻ phân loại nguồn vốn dựa vào tính chất của chúng cũng như nội dung, mục đích nghiên cứu .Xét về mặt định lượng, có ba nguồn vốn chủ yếu có thể huy động cho đầu tư phát triển là : 3.1Nguồn vốn Nhà Nước Nguồn này bao gồm : Ngân sách Nhà Nước Vốn trong các doanh nghiệp Nhà Nước Vốn tài sản công, tài sản quốc gia 3.2Nguồn vốn trong dân cư 3.3Nguồn vốn nước ngoài :gồm bốn bộ phận cấu thành chủ yếu là: Nguồn ODA Nguồn vay thương mại Nguồn kiều hối Nguồn vốn FDI Dưới đây, ta sẽ đi vào xem xét về đặc điểm, khả năng khai thác và các yếu tố ảnh hưởng của từng nguồn vốn cụ thể II Các nguồn vốn từ trong nước Nguồn vốn Nhà nước Nguồn này bao gồm : Ngân sách Nhà nước *) Về hình thức NSNN là một bảng tổng hợp các khoản thu và các khoản chi của Nhà nước trong một năm tài chính theo dự toán ngân sách đã duyệt ( thông thường một năm tài chính được tính từ 1/1-31/12 ) *)Về bản chất kinh tế thì NSNN thể hiện các quan hệ kinh tế giữa Nhà nước với các doanh nghiệp, các đơn vị hành chính sự nghiệp, các tầng lớp dân cư, các tổ chức trung gian tài chính, thị trường tài chính . Vai trò của NSNN: Huy động nguồn tài chính, đảm bảo nhu cầu chi tiêu của Nhà nước .Nó thông qua các nguồn thu từ thuế, lệ phí, vay nợ, viện trợ để hình thành nên quỹ NSNN và từ quỹ này Nhà nước dùng để chi tiêu, để thực hiện các chức năng của mình .Để thực hiện tốt các vai trò naỳ thì yêu cầu đặt ra đối với thu NSNN là : Thứ nhất :mức động viên các nguồn tài chính từ các đơn vị cơ sở để hình thành nguồn thu của NSNN phải phù hợp . Thứ hai: các công cụ được sử dụng tạo nguồn thu cho NSNN và thực hiện các khoản chi NSNN phải phù hợp Thứ ba: tỉ lệ động viên của NSNN trên tổng sản phẩm quốc dân phải hợp lý .NSNN còn có vai trò quản lý, điều tiết vĩ mô nền kinh tế xã hội .Nó được thể hiện trong ba nội dung cơ bản sau Thứ nhất: kích thích sự tăng trưởng kinh tế .Nhà nước sẽ sử dụng thuế và chi đầu tư để hướng dẫn, kích thích và tạo sức ép đối với các chủ thể của các hoạt động kinh tế .Vận dụng một thuế suất hợp lý sẽ có tác dụng hướng dẫn, khuyến khích các thành phần kinh tế mở rộng hoạt động kinh doanh tạo ra môi trường cạnh tranh lành mạnh, thu hút vốn đầu tư và định hướng đầu tư của khu vực doanh nghiệp . Thứ hai: điều tiết thi trường giá cả, chống lạm phát .Nhà nước sẽ sử dụng các chính sách Ngân sách để can thiệp vào thị trương thông qua các khoản chi của NSNN dưới hình thức tài trợ vốn, trợ gía và sử dụng các quỹ dự trứ Nhà nước về hàng hoá và dự trữ tài chính . Thứ ba :điều tiết thu nhập để thực hiện công bằng xã hội, Để thực hiện vai trò này, NSNN sẽ áp dụng một mức thuế thu nhập hợp lý để đánh vào những người có thu nhập cao, lamf giảm bớt chênh lệch, rút ngắn khoảng cách giữa người giàu và người nghèo trong xã hội . NSNN được hình thành trên tất cả các khoản thu mà có .Để quản lý các nguồn thu tốt người ta phải tiến hành phân loại các nguồn thu . Nếu dựa vào nguồn hình thành thì phân thành : Nguồn thu trong nước Nguồn thu ngoài nước Nếu dựa vào hình thức thu thì phân thành : Thu trong cân đối (thu tích cực ): đây là các khoản thu từ thuế, lợi tức cổ phần của Nhà nước, từ việc Nhà nước kinh doanh, từ bán tài sản của Nhà nước, ... Thu để bù đắp thiếu hụt (thu để cân đối ): đây là khoản thu từ nợ, viện trợ, phát hành giấy bạc . Chi NSNN có thể đựoc chia làm 5 loại chi chính Chi cho đầu tư phát triển kinh tế Chi cho văn hoá xã hội Chi cho quốc phòng Chi để quản lý hành chính Nhà nước Chi cho việc dự trữ và trả nợ Khi chính phủ chi tiêu nhiều hơn thu sé phát sinh thâm hụt NSNN .Thâm hụt NS không nhất thiết là một điều xấu .Thực tế nhiều kinh tế gia khuyến khích chính phủ can thiệp mỗi khi nền kinh tế suy sụp vì chính phủ mua hàng hoá và dịch vụ thì nạn thất nghiệp sẽ không trầm trọng như khi chính phủ không làm gì cả . Ngược với thâm hụt NS là thặng dư NS .Có quan điểm cho rằng: trong thời kỳ kinh tế tốt lành, chính phủ phải kiêm chế chi tiêu, không phải chi vì nền kinh tế có thể tự phát triển mà còn do chi tiêu dư thừa của chính phủ sẽ có thể gây lạm phát . Do thuế là một nguồn thu chủ yếu của NSNN ( chiếm hơn 90 % )cho nên việc huy động vốn NSNN phu thuộc rất nhiều vào chính sách thuế .Cải cách thuế có tác động trực tiếp tới NSNN, việc miễn giảm thuế cần đi đôi với việc mở rộng phạm vi và đối tượng nột thuế nhằm bào đảm quy mô của NSNN .Nói chung, có rất nhiều nhân tố làm ảnh hưởng tơí NSNN, nó bao gồm tất cả những hoạt động mà từ đó Nhà nước có thể thu được các khoản thuế, lệ phí, hay tất cả các khoản thu bằng tiền khác Vốn trong các DNNN và vốn tài sản công, tài sản quốc gia . Đây là nguồn lực vật chất to lớn nhất của Nhà nước, nguồn vốn này do các doanh nghiệp Nhà nứoc quản lý .Ngoài ra nguồn tài sản công ở dạng tiềm năng là tài sản Nhà nứoc do các cơ quan hành chính sự nghiệp, đơn vị lực lượng vũ trang, cơ quan Đảng, đoàn thể quản lý Những tài nguyên quốc gia ở trên, dưới mặt đất, mặt nước là không thể ước tính đựoc hết do được khảo sát tường tận và chưa có đinhj giá trị chính xác, đầy đủ . Để huy động được nguồn vốn này thì đòi hỏi phải có sự quản lý hiệu quả ở các doanh nghiệp Nhà nước .Tiếp tục thực hiện việc sắp xếp lại các DNNN .Quản lý tốt các tài sản công, tài sản quốc gia .Mặt khác cần đâỷ nhanh công tác thăm dò tìm kiếm và khai thác các tài nguyên thiên nhiên sẵn có. Nguồn vốn này chịu ảnh hưởng chủ yếu từ sự quản lý của Nhà nước, của bộ máy cán bộ Nhà nước có liên quan, có thẩm quyền quyết định 2 .Nguồn vốn trong dân cư Đây là nguồn vốn tích kiệm trong các hộ gia đình dưới dạn tiền hoặc các tài sản có giá :vàng, bạc, đá quý .đồ cổ ...chưa được huy động vào quá trình sản xuất . Theo điều tra và ước tính của bộ Kế hoạch đầu tư và Tổng cục thống kê, nguồn vốn trong dân hiện có từ 6-8 tỷ $ trong đó 44% của dân là để dành mua vàng ngoại tệ 20% là mua nhà đất, cải thiện điều kiện sinh hoạt 17% là gửi tích kiệm chủ yếu là ngắn hạn 19% là được dùng trực tiếp cho các dự án đầu tư .chủ yếu là ngắn hạn . Như vậy chỉ có khoảng 36 % vốn hiện có trong dân là được huy động cho đâu tư phát triển .Vốn trong dân cư hiện vẫn là nguồn vốn có tiềm năng vốn và khả năng khai thác cao . Khi thu nhập quốc dân trên đầu người tăng lên thì lượng vốn trong dân cũng tăng theo. Như vậy, cùng với sự tăng lên của thu nhập quốc dân thì nguồn vốn trong dân cư cũng ngày một lớn .Trong tương lai đây cũng là nguồn vốn quan trọng để phát triển kinh tế . Nhân tố ảnh hưởng tới khả năng huy động nguồn vốn này chủ yếu là các chính sách khuyến khích đầu tư tư nhân phù hợp từ phía Nhà nước; lòng tin của người dân đối với Nhà nước; các chính sách vĩ mô của Nhà nước; đồng thời phải có sự hiểu biết của người dân đối với công việc kinh doanh, làm kinh tế… .Nguồn vốn sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn . Đây thực chất cũng là một nguồn vốn mà chúng ta cần phải chú ý .sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn sẽ đem lại các mối lợi như :tích kiệm chi phí ;làm tăng tốc độ quay vòng vốn ;tạo ra niềm tin và sự hào hứng cho các nhà đầu tư từ đó sẽ có khả năng tiếp tục huy động được các luồng vốn lớn ...Ngoài ra nó còn đem lại nhiều lợi ích về mặt xã hội khác mà không thể tính được hết .Huy động vốn là một việc cần thiết và cấp bách, song sử dụng một cách có hiệu quả các nguồn vốn lại là một vấn đề quan trọng nhất đối với mọi quôc gia .Nó là một vấn đề hết sức khó khăn đòi hỏi phải có sự quản lý thống nhất của Nhà nước, các cấp, các ngành và cả tinh thần trách nhiệm của mỗi người lao động .Nó đòi hỏi phải có đầy đủ các chuyên gia am hiểu những vấn đề về kinh tế, xây dựng, đầu tư Trong điều kiện hiện nay sử dụng hiệu quả các nguồn vốn là một nguồn vốn quan trọng .Nó vừa làm tăng lượng vốn do những lợi ích nó đem lại, vừa tạo uy tín để thu hút các nguòn vốn khác. Việc huy động có hiệu quả nguồn vốn này là rất khó khăn. Nó là kết quả của việc quản lý và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn trong nền kinh tế. Như vậy việc quản lý vốn nói riêng và quản lý kinh tế nói chung là nhân tố quan trọng nhất tác động tới việc huy động nguồn vốn này. Nguồn vốn này có được huy động hay không là phụ thuộc rất lớn vào yếu tố khoa học kết hợp với yếu tố nghệ thuật trong công việc quản lý. III. Các nguồn vốn từ nước ngoài Nguồn vốn từ nước ngoài đưa vào các nước đang phát triển được thực hiện qua nhiều hình thức Nguồn tài trợ phát triển chính thức (ODF). Đây là nguồn vốn phát triển do các tổ chức quốc tế, chính phủ (hoặc các cơ quan đại diện chính phủ )cung cấp .Các tổ chức quốc tế như :chương trình phát triển liên hợp quốc (UNDP)Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), nhóm ngân hàng thế giới (WB) -bao gồm các ngân hàng tái thiết và phát triển kinh tế ( IBRD), Hiệp hội phát triển quốc tế (IDA), ngân hàng phát triển Châu Phi (AFDB), Quỹ xuất khẩu dầu lửa của khối OPEC, các quỹ và hiệp hội phát triển khác nhau như :quỹ phát triển nông nghiệp quốc tế (IFAD), uỷ ban hỗ trợ phát triển (DAC)...cùng các chính phủ là các đối tượng cung cấp chủ yếu . Đặc điểm của các loại vốn này là mức ưu đãi về lãi suất, thời hạn vay dài, khối lượng vốn vay tương đối lớn . Nguồn ODF bao gồm: viện trợ phát triển chính thức (ODA) và các hình thức ODF khác nhau .ODA chiếm tỉ trọng chủ yếu trong nguồn ODF . Nguồn ODA –Với mục tiêu trợ giúp các nước đang phát triẻn nó mang tính ưu đãi cao hơn bất cứ nguồn tài trợ nào khác .Thông thường trong ODA có một phần là viện trợ không hoàn lại .Phần này khoảng dưới 25%tổng số .Yếu tố cho không được xác định dựa vào việc so sánh mức lãi suất viện trợ với mức lãi suất tín dụng thương mại . Mục tiêu tổng quát của ODF là hỗ trợ các nước nghèo thực hiện những chương trình phát triển và tăng phúc lơị của mình. Tuy nhiên, tính ưu đãi dành cho loại vốn này thường đi kèm các điều kiện ràng buộc tương đối khắt khe(tính hiệu quả của dự án, thủ tục chuyển giao vốn và thanh toán ...). Đôi khi ODA nhất là các khoản do chính phủ cung cấp thường đi kèm các ràng buộc nào đó về chính trị, xã hội, quân sự...với những điều kiện đó, không phải nước nào cũng có thể nhận được viện trợ hoặc sử dụng có hiệu quả cao trong hoàn cảnh riêng của mình. Vốn để là chỗ trong một số trường hợp, các điều kiện, về thực chất là yêu sách của các nước cung cấp viện trợ mà các nhận viện trợ không thể đáp ứng ..Chẳng hạn như các vấn đề về nhân quyền, về định hướng xã hội hoặc thoả mãn các lợi ích cục bộ về kinh tế và an ninh của nước cung cấp viện trợ .Ngay cả về mặt kinh tế, nhiều dự án tài trợ do đi tìm một số ràng buộc như phải mua hàng hoá, thiết bị công nghệ kỹ thuật hay thuê chuyên gia từ chính nơi cung cấp viện trợ, có giá trị thực tế lớn hơn nhiều so với gía trị thưcj tế trong hiệp định và được thực hiện mà không kèm theo những ràng buộc đó . Nhận xét về tình hình này, một số chuyên gia kinh tế học phát triển của trường đại học Havert (Mỹ )viết “...bên cấp viện trợ và các nguồn vốn chính thức khác thường cố gắng lợi dụng sự tương hợp của mình như một đòn bẩy để đạt được các mục tiêu chính sách riêng .Họ gắn quỹ viện trợ với việc mua hàng hoá và dịch vụ ở nước họ như một biện pháp nhằm tăng cường khả năng làm chủ thị trường xuất khẩu và giảm bớt tác động của viện trợ đối với cán cân thanh toán ... các nước cấp viện trợ cả đa phương và song phương đều sử dụng viện trợ làm công cụ buộc các nước đang phát triển phải thay đổi chính sách phát triển cho phù hợp với lợi ích của bên cấp viện trợ ‘ Như vậy để nhận được loại tài trợ hấp dẫn này với thiệt thòi ít nhất, cần phải xem xét dự án tài trợ trong điều kiện tài chính tổng thể .Nếu không, việc tiếp nhận viện trợ có thể trở thành gánh nặng nợ nần lâu dài trong nền kinh tế .Điều đó còn hàm ý rằng ngoài những yếu tố thuộc nội dung dự án tài trợ, còn cần có nghệ thuật thoả thuận để vừa có nghệ thuật thoả thuận vừa có thể chấp nhận được vốn, vừa bảo tồn được các mục tiêu có tính nguyên tắc của mình . Nguồn vốn ODA chiêm sphần chủ yếu trong ODF và ODA là một nguồn vốn rất quan trọng để phát triển kinh tế .Cơ cấu ODA theo ngành và lĩnh vực của từng nước tài trợ có khác nhau, song nhìn chung các nhà tài trợ cũng đều quan tâm tới giáo dục, y tế, vận tải, , viễn thông, hỗ trợ chương trình ... các nhà tài trợ cũng không quên dành một phần đáng kể trong ODA để xoá nợ .ODA là nguồn vốn chỉ dành riêng cho các nước đang phát triển, vì mục tiêu phát triển . Với mục tiêu trợ giúp các nước đang phát triển, ODA mang tính ưu đãi cao hơn bất cứ hình thức tài trợ nào khác .Tuy nhiên mỗi nước cung cấp viện trợ đều có chính sách riêng của mình, tập chung vào một số lĩnh vực mà họ quan tâm hay có khả năng (về công nghệ, kinh nghiệm quản lý ...)Đồng thời mục tiêu ưu tiên của các nước cung cấp ODA cũng có thể cung cấp theo từng giai đoạn cụ thể .Vì vậy nắm được hướng ưu tiên và tiềm năng của các nước, các tổ chức cung cấp ODA cũng có thể thay đổi trong từng giai đoạn cụ thể .Vì vậy nắm được các hướng ưu tiên và tiềm năng của các nước, các tổ chức cung cấp ODA là một điều rất cần thiết . Kể từ khi gia đời đến nay viện trợ luôn chữa đựng hai mục tiêu cùng tồn tại song song Thứ nhất :thúc đẩy tăng trưởng bền vững và giảm nghèo đói ở những nước đang phát triển Thứ hai :tăngcường lợi ích chính trị của các nước tài trợ .Các nước phát triển sử dụng ODA như một công cụ chính trị, xác định vị trí và ảnh hưởng của mình tại các nước và khu vực tiếp nhận ODA Đánh giá bản chất ODA phải ghi nhớ rằng đó là nguồn vốn có khả năng gây nợ .Khi tiếp nhận và sử dụng vốn ODA, do tính chất ưu đãi nên gánh nặng nợ nần thường không thấy ngay .Sự phức tạp chính là ở chỗ vốn ODA không có khả năng đầu tư trực tiếp cho sản xuất, nhất là cho xuất khẩu, trong việc trả nợ lại dựa vào xuất khẩu thu ngoại tệ .Do đó khi hoạch định chính sách phải phối hợp các loại nguồn vốn để tăng cường sức mạnh kinh tế và khả năng sản xuất . Nguồn vốn ODA đối với nước ta hiện nay vẫn có một sức hấp dẫn thậm chí còn hơn cả FDI .Tuy nhiên tài trợ phát triển chính thức là thị trường vốn đặc biệt căng thẳng về nguồn cung và mang tính cạnh tranh cao .Để có thể tiếp tục nhận được khối lượng ODA mong muốn, có những chính sách kịp thời phù hợp để giải quyết các vấn đề như: nâng cao tốc độ giải ngân, chuẩn bị tốt vốn đối ứng, tăng cường năng lực của nhóm dự án ODA ...Đó cũng là những yếu tố nhằm nâng cao lòng tin của các nước, tổ chức cung cấp ODA cho nước tiếp nhận ODA và là những yếu tố trực tiếp tác động đến khả năng huy động nguồn vốn này. Ngoài ra, những mối quan hệ ngoại giao hữu nghị, tăng cường tình bạn với các quốc gia trong xu hướng khu vực hoá, toàn cầu hoá cũng là một yếu tố nhằm nâng cao khả năng huy động nguồn vốn ODA trong thời gian tới. 2.Nguồn vay tư nhân . Đây là nguồn vốn mà bên cho vay là cá nhân hoặc tổ chức người nước ngoài .Các điều kiện ưu đãi dành cho loại vốn này không dễ dàng như ODF .Song bù lại, nó có ưu diểm rõ ràng là hầu như không gắn với các ràng buộc chính trị xã hội .Tuy vậy thủ tục khắt khe, thời hạn trả nợ nghiêm ngặt mức lãi suất cao là những trở ngại không nhỏ đối với các nước nghèo . Bộ phận lớn nhất của vốn vay này là từ các NHTM trên thế giới .Do mức lãi suất cao cũng như sự thận trọng trong kinh doanh NH (tránh rủi ro do tình hình bất ổn định ở nước đi vay, của thị trường thế giới hoặc của xu hướng lãi suất quốc tế ) vốn được sử dụng chủ yếu để đáp ứng các nhu cầu xuất nhập khẩu và thường là ngắn hạn . Một bộ phận quan trọng khác của loại vốn vay này được dùng để đầu tư phát triển và mang tính dài hạn .Tỉ trọng cua vốn dài hạn trong tổng số có thể tăng lên đáng kể nếu triển vọng phát triển lâu dài, đặc biệt là tăng trưởng xuất khẩu của nước đi vay là sáng sủa . Cũng như ODF, nguồn vốn vay tư nhân sẽ phát sinh các khoản nợ cho nước đi vay .Trong không ít trờng hợp các khoản nợ này tạo thành gánh nặng khủng khiếp cho các nước đang phát triển .Nhiều nứoc đang phát triển đang lâm vào cảnh nợ nước ngoài chồng chất và ngày càng mất khả năng trả nợ .Tình trạng này, ở những thời điểm gay cấn có thể gây ra khủng hoảng nợ tonà cầu, đe doạ sự tồn tại của hệ thống tài chính quốc tế . Cuộc khủng hoảng tài chính năm 1997 Châu A là một ví dụ mới nhất .Đây là một cuộc khủng hoảng tài chính bắt đầu từ Thái Lan, sau đố nhanh chóng lan ra các nước trong khu vực và trên thế giới .Nguyên nhân của cuộc khủng hoảng này là do Thái Lan nói riêng và các nươc trong khu vực Đông Nam A nói chung đã quá dễ dãi, không kiểm soát các nguồn vốn ngắn hạn đổ vào nước mình. Đó là những “đồng tiền nóng " rất nguy hại đối với nước đang phát triển qúa nôn nóng với việc tăng tỉ lệ tăng trưởng kinh tế . Nguồn vay tư nhân là nguồn vay quan trọng để đáp ứng các yêu cầu về xuất-nhập khầu .Tuy nhiên, nó thường là ngắn hạn do đó Nhà nước cần kiểm soat nguồn vốn này một cách chặt chẽ .Tuy nhiên nếu nền kinh tế có triển vọng phát triển trong dài hạn thì bộ phận vay dài hạn trong nguồn vốn này sẽ được tăng lên, lúc đó nó không chỉ dùng cho yêu cầu về xuất nhập khẩu mà còn dùng để phát triển sản xuất .Nếu tình hình xuất nhập khẩu tăng lên thì loại vốn này sẽ được đổ vào nhiều hơn . Nếu mức lãi suất của nước tiếp nhận vốn nước ngoài so với lãi suất quốc tế càng cao thì sức hút đôí với dòng vốn vay này chảy vào càng mạnh. Ngoài ra sư giảm thấp tương đối của lãi suất quốc tế còn đồng nghĩa với sự giảm xuống tương ứng cuả khối lượng lãi phải trả cho nước ngoài. Trong điều kiện toàn cầu hoá và mở cửa, mức lãi suất trong nước tương đối cao hơn còn là vũ khí hiệu nghiệm để chính phủ có thể bảo vệ đưọc nguồn lực khan hiếm vào bậc nhất của các nước nghèo, đó là vốn Tỷ giá hối đoái là một yếu tố quan trọng bậc nhất đối với việc thu hút vốn từ nguồn vay tư nhân. Cả nguyên tắc lý thuyết lẫn kinh nghiệm thực tiễn đều xác nhận rằng: khi tỷ giá hối đoái càng mềm, tức là khả năng sinh lợi từ xuất khẩu càng lớn thì sức hấp dẫn với vốn nước ngoài càng lớn .Vấn đề là ở chỗ một nước có tăng trưởng xuất khẩu cao thì khả năng trả nợ của nó cũng sẽ bảo đảm hơn. Khi đó đối với bên cho vay ( cũng như với các nhà đầu tư ), độ mạo hiểm sẽ giảm xuống.Hơn thế, trong mô thức tăng trưởng kinh tế hiện đại, tăng trưởng xuất khẩu cũng đồng nghĩa với tăng trưởng kinh tế nói chung. Một tỷ giá hối đoái phù hợp với tình hình phát triển kinh tế của đất nước sẽ tạo ra khả năng thúc đẩy xuất khẩu, vì thế có vai trò trực tiếp to lớn đối với việc huy động thật hiệu quả nguồn vốn Trong những hoàn cảnh cụ thể, việc tăng hay giảm lãi suất hay làm tỷ giá hối đoái cứng hoặc mềm hơn nhằm mục tiêu mở rộng dòng vốn nươc ngoài chảy vào phải đặt trong giới hạn không được phá vỡ các mục tiêu cơ bản khác của chính sách tiền tệ và sự ổn đinh vĩ mô .Ngoài ra, vốn vay tư nhân còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác như: mức độ ổn định của tiền ;tỉ lệ lạm phát ;môi trường pháp lý ;năng lực tăng trưởng của nền kinh tế ;tình hình nợ nước ngoài ... Nguồn vốn vay tư nhân ở nước ta hiện nay chưa được khai thác một cách có hiệu quả .Trong giai đoạn tới, với sự ổn định và phát triển của nền kinh tế cũng như tình hình chính trị xã hội, việc huy động nguồn vốn nay sẽ được nâng cao hơn nữa một cách đùng mức 3, Đầu tư nước ngoài trực tiếp ( Foreign Direct Investment-FDI ) Đây là hình thức đầu tư trong đó người bỏ vốn đầu tư và người sử dụng vốn đầu tư là một chủ thể . Nguồn vốn FDI là nguồn vốn do chủ thể người nước ngoài bỏ vốn vào đầu tư và họ trực tiếp sử dụng vốn này, tức là họ trực tiếp tham gia vào quá trình quản lý, sử dụng vốn đầu tư vào vận hành các kết quả đầu tư nhằm thu hồi đủ số vốn đã bỏ ra . Nguồn vốn FDI có những điểm khác biệt cơ bản với các nguồn vốn vay nước ngoài mà ta đã nói ở trên Thứ nhất: FDI không chỉ đưa vốn vào nước tiếp nhận mà còn đi kèm với vốn là cả kỹ thuật, công nghệ, bí quyết kinh doanh và năng lực Marketing . Thứ hai: việc tiếp nhận FDI không làm phát sinh nợ cho nước tiếp nhận .Thay cho lãi suất, nứơc đầu tư được nhận phần lợi nhuận thích đáng khi công trình đầu tư hoạt động có hiệu quả . Do đầu tư trực tiếp mang theo toàn bộ tài nguyên kinh doanh nên nó thúc đẩy sự phát triển về các nghề mới, đặc biệt là những nghề đòi hỏi cao về kỹ thuật-công nghệ, hay những ngành nghề cần nhiều vốn.Vì thế FDI có tác dụng cực kỳ quan trọng với quá trình CNH, chuyển dịch cơ cầu và tăng trưởng nhanh ở nước ta .Kinh nghiệm phát triển hiện đại của một số nước Đông Nam A cho thây: FDI là nguồn lực đóng vai trò rất quan trọng trong quá trình tăng trưởng thần kỳ của nó .Các nhân tố chủ yếu tác động tới việc thu hút FDI : Sự ổn định về kinh tế và chính trị xã hội, luật pháp đầu tư Sự mềm dẻo, hấp dẫn của hệ thống chính sách khuyến khích đầu tư nước ngoài Sự phát triển cơ sở hạ tầng Sự phát triển của đội ngũ lao động, của trình độ khoa hoc công nghệ và hệ thống DN trong nước và trên địa bàn Hiện nay, nguồn vốn FDI vẫn là nguồn vốn nước ngoài quan trọng nhất ở nước ta. Song bản thân FDI chưa đựng tính hai mặt mà ta cần phải hiểu rõ để từ đó tận dụng, khai thác triệt để những lợi thế và hạn chế tối đa mặt trái của nó *) Những lợi thế của FDI đối với các nước nhận đầu tư Một là: FDI là một trong những nguồn quan trọng để bù đắp sự thiều hụt về vốn-ngoại tệ của các nước nhận đầu tư đặc biệt là các nước kém phát triển .Hầu hết các nước kém phát triển đều bị rơi vào " vòng luẩn quẩn " là: thu nhập thấp dẫn tới tiết kiệm thấp, vì vây đầu tư thấp và rồi hậu quả lại là thu nhập thấp . Điểm nút quan trọng nhất trong vòng luẩn quẩn này đó là vốn đầu tư và kỹ thuật .Vồn đầu tư là cơ sở để tạo ra công ăn việc làm trong nước .đổi mới công nghệ, kỹ thuật, tăng năng suất lao động ...từ đó tao điều kiện để tăng thu nhập, tăng tích luỹ cho sự phát triển của xã hội .Tuy nhiên để tạo vốn cho nền kinh tế nếu chỉ trông vào tích luỹ nội bộ thì hậu quả khó tránh khỏi là sự tụt hậu trong sự phát triển chung của thế giới .Do đó vốn nước ngoài đặc biệt là FDI là một nguồn quan trọng để khắc phục tình trạng thiếu vốn mà không gây nợ cho nước nhận đầu tư .FDI góp phần làm tăng khả năng khả năng cạnh tranh và mở rộng khả năng xuất khẩu của nước nhận đầu tư, thu một phần lợi nhuận từ công ty nước ngoài, thu ngoại tệ từ các hoạt động dịch vụ phục vụ cho FDI . Hai là :lợi ích quan trọng mà FDI đem lại đó là công nghệ kỹ thuật hiện đại, kỹ xảo chuyên môn và trình độ quản lý của nước đi trước . Về lâu dài thì đây chính là lợi ích căn bản nhất đôi với các nước nhận đầu tư .FDI có thể thúc đẩy sự đổi mới kỹ thuật trong các nước nhận đầu tư như :góp phần tăng năng suất của các yếu tố sản xuất, thay đổi cấu thành của sản phẩm và suất khẩu, thúc đẩy phát triển các nghề mới đặc biệt là những nghề đòi hỏi hàm lượng công nghệ cao .Vì thế nó có tác dụng lớn đối với quá trình công nghiệp hoá, chuyển dịch cơ cấu tăng trưởng nhanh ở các nước nhận đầu tư . FDI đem lại kinh nghiệm quản lý, kỹ năng kinh doanh và trình độ kỹ thuật cho các đỗi tác trong nước nhận đầu tư thông qua những chương trình đào tạo và quá trình vừa học vừa làm .Trong thực tế, hầu hết các nước thu hút FDI đã cải thiện đáng kể trình độ kỹ thuật, công nghệ của mình . Ba là :lợi ích về tạo ra công ăn việc làm .Thực ra đây là một tác động kép :tạo thêm công ăn việc làm cũng có nghĩa là tăng thu nhập cho người lao động .Từ đó tao điều kiện tăng tích luỹ trong nước FDI ảnh hưởng trực tiếp tới cơ hội tạo ra công ăn việc làm thông qua việc cung cấp việc làm trong các hãng có vốn đầu tư nước ngoài .FDI cần tạo ra việc làm cho các tổ chức khác khi các nhà đầu tư nước ngoài mua hàng hoá, dịch vụ từ các nhà sản xuất trong nước hoặc thuê họ thông qua những hợp đồng ra công chế biến .Thực tiễn ở một số nước cho thấy: FDI đã góp phần tích cực tạo ra công ăn việc làm cho các ngành sử dụng nhiều lao động như ngành may mặc, điện tử, chế biến .Tuy nhiên sự đóng góp của FDI đối với việc làm trong các nước nhận đầu tư phụ thuộc rất nhiều vào chính sách và khả năng kỹ thuật của nước đó Bốn là; thông qua FDI, các nươc nhận đầu tư có thể tiếp cận với thị trường thế giới . Các nước đang phát triển nếu có khả năng sản xuất ở mức chi phí có thể cạnh tranh được thì lại rất khó khăn trong việc thâm nhập vào thị trường nước ngoài .Trong khi đó thông qua FDI, các nước này có thể tiếp cận đến thị trường thế giới vì: hầu hết các hoạt động FDI đều do các công ty đa quốc gia thực hiện, các công ty này có lợi thế trong việc tiếp cận với khách hàng bằng những hợp đồng dài hạn dựa trên cơ sở những thanh thế và uy tín của họ về chất lượng, kiểu dáng của sản phẩm và việc giữ đúng thời hạn . Như vậy ta có thể thấy rằng việc tiếp nhận FDI là lợi thế hiển nhiên mà thời đại tạo ra cho các nước đi sau. Tuy nhiên cần xác định rõ: vốn nước ngoài dù quan trọng đến đầu cũng không thể đóng vai trò quyết định sự phát triển của môt quốc gia Bên cạnh những lợi thế nói trên, FDI cũng có những mặt trái của nó Những mặt trái của FDI đố._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docC0193.doc
Tài liệu liên quan