Thực trạng huy động vốn tại chi nhánh Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Phúc Thọ

Lời mở đầu Hòa vào xu hướng chung của nền kinh tế thế giới. Đất nước ta đang bước vào giai đoạn mới của nền kinh tế thị trường - hội nhập. Từ một nước có nền kinh tế kém phát triển, thu nhập bình quân đầu người ở mức thấp, cơ sở hạ tầng còn lạc hậu.... Để cải thiện tình hình trên cả nước đang phấn đấu thực hiện mục tiêu chiến lược đến năm 2020 của Đảng và Chính phủ: CNH - HĐH đất nước, về cơ bản nước ta là một nước công nghiệp. Để thực hiện thành công nhiệm vụ - chiến lược này nhu cầu về vốn đ

doc48 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1342 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Thực trạng huy động vốn tại chi nhánh Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Phúc Thọ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ầu tư là tối cần thiết và quan trọng. Trong điều kiện, hoàn cảnh đất nước như trên vốn được coi là nguồn lực vô cùng quan trọng, vốn là chìa khóa, là yếu tố hàng đầu của mọi quá trình phát triển. Do chủ trương "Vốn trong nước là nhân tố quyết định" luôn được quán triệt trong quản lý kinh tế, quản lý đầu tư và đặc biệt trong hoạt động tín dụng ngân hàng. Qua bốn năm học tập và nghiên cứu tại trường Đại học KD & CN Hà nội. nhà trường đã tạo điều kiện cho sinh viên được đi thực tập và thực hành ở những cơ sở kinh doanh áp dụng những kiến thức cơ bản về lý thuyết đã dược học thành công việc thực tế. Sau thời gian thực tập và nghiên cứu tại chi nhánh NHNo&PTNT Phúc Thọ - huyện Phúc Thọ - tỉnh Hà Tây. Dưới sự chỉ bảo tân tình của cô Ths. Hoàng Yến Lan, cùng tập thể cán bộ công nhân viên tại chi nhánh NHNo&PTNT Phúc Thọ, em đã tìm hiểu nắm bắt nội dung thực tập và hoàn thành bài luận văn theo yêu cầu của nhà trường. Bài luận văn của em gồm 3 chương: Chương I. ý nghĩa việc mở rộng hoạt động huy động vốn của các Ngân hàng thương mại. ChươngII: Thực trạng huy động vốn tại chi nhánh NHNo&PTNT Phúc Thọ. ChươngIII: Một số giải pháp nâng cao hiệu quả huy động vốn tại chi nhánh NHNo&PTNT Phúc Thọ. Do kinh nghiệm, nghiệp vụ còn có hạn cũng như thực tiễn bản thân còn hạn chế vì vậy bài luận văn không tránh khỏi những thiếu xót. Em mong nhận được sự đóng góp ý kiến của cô Ths. Hoàng Yến Lan, các thầy cô giáo khoa TC-NH, cùng cán bộ tại chi nhánh NHNo&PTNT Phúc Thọ, để bài luận văn của em được hoàn thiện nhất. Em xin chân thành cảm ơn! Chương I cơ sở lý luận về nguồn vốn kinh doanh trong ngân hàng thương mại 1.1. Vai trò của nguồn vốn trong sự nghiệp phát triển kinh tế. 1.1.1.Vai trò của nguồn vốn với sự phát triển kinh tế. * Tạo vốn cho việc phát triển các ngành kinh tế. - Đối với ngành nông nghiệp: Đổi mới và phát triển kinh tế nông nghiệp nông thôn theo hướng CNH-HĐH luôn có ỹ nghĩa chiến lược trong sự nghiệp đổi mới, được Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm. Để đạt được mục tiêu này cần phải tăng cường nguồn vốn đầu tư cho nông nghiệp, đầu tư cho cơ sở hạ tầng nông thôn, giúp phát triển sản xuất để tăng thu nhập cho người dân. - Đối với ngành công nghiệp: Nguồn vốn đầu tư tập trung vào phát triển các ngành sử dụng nhiều lao động, ưu tiên phát triển các ngành công nghiệp chế biến nông, lâm, thủy sản, may mặc, da dày, điện tử, công nghệ thông tin và một số sản phẩm cơ khí, khoáng sản, vật liệu xây dựng. Mở rộng tín dụng cho các doanh nghiệp sản xuất, chế biến hàng xuất khẩu, nhất là những sản phẩm xuất khẩu có cạnh tranh cao có ỹ nghĩa cực kỳ quan trọng. Ngoài ra còn đầu tư cải tiến trang thiết bị, thực chất đây là việc đầu tư vốn vào việc đổi mới tài sản cố định. Việc làm này có liên quan tới qui mô,cách thức sắp xếp, bố trí lao động, mua sắm xây dựng nhà xưởng, khu sản xuất....Vì thế nguồn vốn có vai trò rất quan trọng. - Đối với các ngành kinh tế khác: Chủ trương của Đảng và Nhà nước là xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần. Ngoài khu vực kinh tế quốc doanh, ngoài quốc doanh, kinh tế cá thể, tư nhân luôn được chú ý đầu tư và phát triển. Do đó, nhu cầu về vốn đầu tư cho khu vực này cũng rất lớn và quan trọng. * Góp phần xây dựng cơ sở hạ tầng cho nền kinh tế quốc dân. Đất nước ta đang trong quá trình đổi mới và hội nhập mạnh mẽ với các quốc gia trong khu vực và trên toàn thế giới. Để theo kịp với tiến độ chung, thu ngắn khoảng cách tụt hậu, chúng ta phải đẩy mạnh đầu tư vào cơ sở hạ tầng, giao thông, điện, nước... tạo điều kiện thuận lợi cho các ngành sản xuất kinh doanh trong việc vận chuyển nguyên liệu, hàng hóa từ nơi sản xuất đến nơi tiêu dùng, giúp quan hệ buôn bán thương mại ngày càng mở rộng và phát triển. * Góp phần chống lạm phát và ổn định tiền tệ. Nguyên nhân chính của lạm phát là do mức giá tăng, tiền tệ mất cân đối với hàng, gây ra sự tăng giá tương đối của hàng hóa, dẫn đến sự mất giá của tiền. Bằng hoạt động huy động vốn trung và dài hạn, tức quá trình thực hiện thu hút tiền lưu thông, tạo sự cân đối, ổn định sức mua của đồng tiền, kiềm chế lạm phát. 1.1.2.Các nguồn vốn. 1.1.2.1.Nguồn vốn từ ngân sách nhà nước. Trên thực tế, nguồn vốn từ Ngân sách Nhà nước chỉ ở mức 20%-22% GDP, có nghĩa là nguồn vốn do Ngân sách Nhà nước cung cấp chỉ bằng tỷ lệ đó. Khả năng, trong những năm tới nguồn vốn Ngân sách Nhà nước - nguồn vốn rất quan trọng, có tính chiến lược đối với nhu cầu phát triển kinh tế đất nước, có thể tiếp tục tăng nhưng không thể đáp ứng đầy đủ nhu cầu cho việc xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế- xã hội phục vụ cho sự phát triển kinh tế đất nước. 1.1.2.2. Nguồn vốn tín dụng. Lâu nay, bằng nhiều giải pháp hữu hiệu cả về tổ chức quản lý, chính sách, kinh tế, kỹ thuật... hệ thống ngân hàng đã nỗ lực rất nhiều trong việc khai thác nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư, các tổ chức kinh tế, nhằm đáp ứng một phần to lớn yêu cầu về vốn cho đầu tư và phát triển. Tuy vậy, hiện nay ngân hàng mới đáp ứng khoảng 30% vốn so với nhu cầu đầu tư trong nước và 8% so với tổng mức đầu tư toàn xã hội. Trên lĩnh vực tiền tệ, ngân hàng tiếp tục triển khai công tác huy động vốn. 1.1.2.3.Nguồn vốn từ nước ngoài ( bao gồm cả FDI và ODA). Tính chung từ năm 1996 đến nay vốn đầu tư nước ngoài chiếm trên 20% tổng nguồn vốn đầu tư toàn xã hội. Việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài hướng mạnh vào xuất khẩu đã tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp Việt nam tiếp cận thị trường, nâng cao năng lực xuất khẩu, chủ động hội nhập kinh tế thế giới. Vì vậy các NHTM đã tích cực sử dụng hai kênh ODA và FDI, coi đó là chiếc cầu nối giữa nền kinh tế nước ta với thị trường quốc tế, thúc đẩy thị trường trong nước. Đồng thời phải đảm bảo cơ chế hữu hiệu về khả năng trả nợ, xác định rõ trách nghiêm và thời hạn nợ. Ngoài ra, chúng ta phải tranh thủ nguồn vốn từ các tổ chức tài chính quốc tế, các tổ chức phi chính phủ và ngân hàng các nước nhằm đáp ứng nhu cầu đầu tư, góp phần đẩy nhanh quá trình hội nhập kinh tế, thực hiện đẩy mạnh CNH-HĐH. 1.1.2.4.Thị trường chứng khoán. Việc thu hút vốn trên thị trường tài chính khá phổ biến ở các nước phát triển. Hầu hết các trái phiếu ngân hàng đều được đưa vào giao dịch chính thức hay giao dịch tự do trên một hay nhiều sở giao dịch chứng khoán. Do đó, vốn đầu tư vào trái phiếu ngân hàng có thể thu hồi vốn ngay cả khi chưa đến ngày đáo hạn. Điều này không những thuận lợi cho ngân hàng trong việc thu hút nguồn vốn, mà còn có lợi cho khách hàng trong việc đầu tư ở Việt nam. Thị trường chứng khoán đã ra đời và đi vào hoạt động nhưng mới chỉ ở bước sơ khai, còn nhiều hạn chế trong tổ chức thực hiện, nên việc huy động vốn qua kênh này chưa thực sự hiệu quả đối với nền kinh tế trong giai đoạn hiện nay. 1.1.2.5.Khu vực doanh nghiệp nhà nước. Hiện nay trong cơ cấu kinh tế của nước ta, có rất nhiều thành phần kinh tế khác nhau cùng tồn tại và phát triển. Tuy nhiên khu vực doanh nghiệp Nhà nước với vai trò chủ đạo của mình vẫn giữ vai trò trong việc phát triển kinh tế nói chung và lĩnh vực huy động vốn nói riêng. Về lâu dài, hệ thống doanh nghiệp nhà nước là nguồn tái tạo vốn trong đầu tư phát triển. Do đó, nhà nước cần có những biện pháp quan tâm để giúp đỡ các doanh nghiệp nhà nước hoạt động hiệu quả. 1.2.vốn và vai trò của vốn trong kinh doanh của nnhtm. 1.2.1.Vốn kinh doanh của NHTM. 1.2.1.1. Khái niệm vốn kinh doanh của NHTM. Vốn của NHTM là phương tiện tiền tệ mà ngân hàng huy động, hay tạo lập được dùng để cho vay, đầu tư hoặc thực hiện những mục đích kinh doanh khác của ngân hàng. Vốn được thể hiện dưới dàng thành tiền, hàng hóa, tài sản, các giấy tờ có giá, kim quý , đá quý. 1.2.1.2. Thành phần vốn kinh doanh của NHTM. Vốn của NHTM bao gồm các loại sau: Vốn tự có, vốn huy động, vốn đi vay, vốn khác. Mỗi loại vốn đều có tính chất và vai trò riêng trong tổng nguồn vốn hoạt động của NHTM. * Vốn tự có: Là những giá trị tiền tệ do ngân hàng tạo lập được, thuộc sở hữu của ngân hàng.Vốn này chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng vốn của ngân hàng. Song lại là điều kiện pháp lý bắt buộc khi thành lập một ngân hàng. Do tính chất thường xuyên ổn định của vốn tự có ngân hàng có thể chủ động sử dụng vào các mục đích khác nhau như: Trang bị cơ sở vật chất, tạo tài sản cố định( Văn phòng, kho tàng, trang thiết bị...) phục vụ cho bản thân ngân hàng, cho vay và đặc biệt là tham gia đầu tư, góp vốn liên doanh. Mặt khác với chức năng bảo vệ, vốn tự có coi như tài sản đảm bảo gây lòng tin đối với khách hàng, duy trị khả năng thanh toán trong trường hợp ngân hàng gặp thua lỗ. Nó còn là một trong những căn cứ quyết định đến khả năng và khối lượng vốn huy động của ngân hàng. Vốn tự có của NHTM có các thành phần sau: - Vốn pháp định và vốn điều lệ: trong đó vốn pháp định là mức vốn tối thiểu phải có để thành lập ngân hàng do pháp luật quy định. Khác với vốn pháp định vốn điều lệ là vốn do các cổ đông góp phần và được ghi vào điều lệ hoạt động của ngân hàng, và theo quy định tối thiểu bằng vốn pháp định. Trong nền kinh tế thị trường, với sự gia tăng của các loại hình ngân hàng, vốn điều lệ cũng được hình thành theo rất nhiều cách khác nhau tùy thuộc vào đặc trưng từng hình thức sở hữu. - Vốn tự bổ sung: Vốn tự có của NHTM không ngừng được tăng lên theo thời gian nhờ có nguồn vốn bổ sung. Vốn tự có bổ sung bao gồm: + Quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ, có mục đích tăng cường số vốn từ ban đầu. + Quỹ dự trữ đặc biệt để dự phòng bù đắp rủi ro trong quá trinh hoạt động kinh doanh của ngân hàng nhằm bảo toàn vốn điều lệ. + Ngoài các quỹ trên vốn tự có bổ sung còn bao gồm phần lợi nhuận chưa phân bổ hoặc các quỹ đặc biệt như các ; quỹ phúc lợi, quỹ khen thưởng, quỹ khấu hao TSCĐ. Tóm lại: Vốn tự có của ngân hàng đóng vai trò quan trọng. Nó quyết định việc điều chỉnh giá đầu vào trong hoạt động kinh doanh. Thể hiện năng lực tài chính của một ngân hàng. Vốn tự có quyết định khả năng mở rộng, khẳng định chố đứng của ngân hàng. * Nguồn vốn huy động: Là những giá trị tiền tệ mà ngân hàng huy động được từ các tổ chức kinh tế và các cá nhân trong xã hội thông qua quá trình thực hiện các nghiệp vụ tín dụng, thanh toán, các nghiệp vụ kinh doanh khác và được dùng làm vốn để kinh doanh. Bản chất của huy động là tài sản thuộc các chủ cơ sở khác nhau. Ngân hàng chỉ có quyền sử dụng mà không có quyền sở hữu và có trách nhiệm hoàn trả đúng hạn cả gốc lẫn lãi khi đến kỳ hạn ( tiền gửi có kỳ hạn) hoặc khi có nhu cầu rút vốn ( tiền gửi không kỳ hạn). Vốn huy động đóng vai trò rất quan trọng đối với mọi hoạt động kinh doanh của NHTM. Vốn huy động luôn biến đông, nên ngân hàng không được sử dụng hết vốn đó vào kinh doanh mà phải dự trữ với một tỷ lệ hợp lý để đảm bảo khả năng thanh toán. * Vốn vay: Là quan hệ vay vốn giữa NHTM và NHTW, hoặc giữa các NHTM với nhau hay tổ chức tín dụng khác. NHTM sẽ đi vay vốn để bổ sung vào vốn hoạt động của mình khi ngân hàng đã sử dụng hết vốn khả dụng mà vẫn không đủ hoạt động hay nói cách khác là thiếu vốn khả dụng. Trong trường hợp vốn vay trên tiếp tục không đáp ứng được đủ việc sử dụng thì NHTM sẽ đi vay của NHTW. Tùy theo mụch đích sử dụng và hình thức vay vốn, vay vốn NHTW được chia thành các loại: Vay vốn ngắn hạn bổ sung, vay để thanh toán và tái cấp vốn. 1.2.2. Các hình thức huy động vốn. 1.2.2.1. Các nguyên tắc trong huy động vốn của NHTM. An toàn: Việc giữ tiền ở nhà có thể bị rủi ro do bị mất cắp, hỏa hoạn... nhưng khi gửi tiền vào ngân hàng thì trong mọi trường hợp ngân hàng sẽ đảm bảo thanh toán toàn bộ số tiền đã gửi. Bảo toàn: Trong nền kinh tế thị trường lạm phát là một hiện tượng phổ biến, do vậy đồng tiền luôn có khả năng mất giá. Khi gửi tiền vào ngân hàng khách hàng sẽ được đảm bảo vốn gốc và được hưởng một mức lãi suất nhất định. Sinh lời: Vì lãi suất áp dụng đối với các khoản tiết kiệm là lãi suất hưởng bằng tỷ lệ lạm phát cộng với một mức lãi suất thực dương. Như vậy, ngoài phần vốn người gửi tiền được đảm bảo, họ còn được hưởng một tỷ lệ lãi suất ngày càng cao. Thuận tiện: Ngoài lãi suất, đây là một chỉ tiêu mà người gửi tiền quan tâm vì ai cũng muốn được phục vụ một cách đơn giản, nhanh chóng và thuận lợi. Đó là khi người gửi tiền cần tiền mà món tiền chưa đến hạn, họ có thể mang sổ này đến ngân hàng để thế chấp, vay hoặc chiết khấu, hoặc ngân hàng đóng vai trò là người thanh toán hộ (khi khách hàng mở tài khoản ở ngân hàng), hoặc ngân hàng có thể trả trước thời hạn cho người gửi tiền. 1.2.2.2.Các hình thức huy động vốn của NHTM. 1.2.2.2.1. Hoạt động từ việc nhận tiền gửi của khách hàng. * Tiền gửi tổ chức kinh tế. + Tiền gửi có kỳ hạn: Là tiền gửi vào ngân hàng trên cơ sở thỏa thuận giữa khách hàng và ngân hàng về thời gian rút tiền. Về nguyên tắc khách hàng chỉ được rút tiền ra khi đến hạn và được hưởng số tiền lãi trên số tiền gửi đó. Nhưng hiện nay, để thu hút vốn, các NHTM cho phép khách hàng trong trường hợp cần thiết được rút tiền trước thời hạn. Trong trường hợp này khách hàng chỉ được hưởng theo lãi suất của tiền gửi không kỳ hạn. + Tiền gửi không kỳ hạn: Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn là khoản tiền gửi vào ngân hàng không có sự thỏa thuận về thời gian rút tiền, khách hàng có thể gửi vào hay rút ra bất kỳ lúc nào, rút ra một phần hay toàn bộ theo yêu cầu và ngân hàng phải đáp ứng yêu cầu. Thực chất đây là khoản tiền gửi dùng để đảm bảo trong thanh toán. Đối với loại này chủ tài khoản được toàn quyền sử dụng số tiền trên tài khoản trong phạm vi tiền gửi. Họ có quyền đẩy ra hoặc chuyển nhượng cho bất kỳ ai, Bất kỳ thời gian nào. Khách hàng được sử dụng số tiền của mình bằng các phương tiện thanh toán, dùng để chi trả như séc, ủy nhiệm chi, thư chuyển tiền.... Ngân hàng thực hiện trích tài khoản, trừ trường hợp chủ tài khoản vi phạm các quy định của pháp luật có liên quan. Với các tài khoản này, mục đích chính của người gửi tiền là để thanh toán, chi trả. * Tiền gửi các tầng lớp dân cư. + Tiền gửi thanh toán: Là các khoản tiền gửi không kỳ hạn trước hết được sử dụng để tiến hành thanh toán, chi trả cho các hoạt động hàng hóa dịch vụ và các khoản chi khác phát sinh trong qúa trình kinh doanh một cách thường xuyên, an toàn và thuận tiện. Tiền gửi thanh toán thường được bảo quản tại ngân hàng trên hai loại tài khoản: Tài khoản tiền gửi thanh toán và tài khoản vãng lai. + Tiền gửi tiết kiệm: Xét về bản chất đây là một phần thu nhập của cá nhân người lao động chưa sử dụng cho tiêu dùng. Họ gửi vào ngân hàng với mục đích tích lũy tiền một cách an toàn và hưởng một phần lãi suất từ số tiền đó. Tiền gửi tiết kiệm là một dạng đặc biệt để tích lũy tiền tệ trong tiêu dùng cá nhân. Trên thực tế trong nền kinh tế thị trường được phát triển dưới hai loại hình tiết kiệm sau: Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn: Là khoản tiền gửi có thể rút ra bất cứ lúc nào song không được sử dụng các công cụ thanh toán để chi trả cho người khác. Tiết kiệm có kỳ hạn: là khoản tiền có sự thỏa thuận về thời hạn và rút tiền, có mức lãi suất cao hơn tiền gửi không kỳ hạn. 1.2.2.2.2. Huy động vốn bằng cách phát hành giấy tờ có giá. a. Kỳ phiếu có mục đích. Kỳ phiếu ngân hàng là một loại giấy nhận nợ ngắn hạn do ngân hàng phát hành nhằm huy động vốn trong dân, chủ yếu thực hiện những kế hoạch doanh nghiệp của ngân hàng như một dự án, một chương trình kinh tế. Kỳ phiếu ngân hàng được phát hành theo từng đợt và còn được gọi là kỳ phiếu có mục đích. Kỳ phiếu có mục đích gồm các loại có ghi tên, không ghi tên, có thể chuyển nhượng bằng VNĐ và USD với các loại mệnh giá khác nhau. Đây là hình thức huy động có hiệu quả vì nó có lãi suất ưu đãi, thường cao hơn lãi suất tiết kiệm. Hơn nữa nó biến động theo thời gian và hình thức cụ thể về nguồn vốn của ngân hàng. b.Phát hành trái phiếu. Trái phiếu là công cụ nợ dài hạn của ngân hàng, là hình thức huy động vốn trực tiếp của Nhà nước vào doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường. Thời gian, chủng loại, phương thức phát hành rất đa dạng, phụ thuộc vào nhu cầu vay và thị trường. lãi suất của trái phiếu thường cao hơn lãi suất của tiền gửi tiết kiệm và kỳ phiếu. Trong hệ thống ngân hàng, trái phiếu thường được phát hành với quy mô lớn và đồng loạt trong cả hệ thống. Trái phiếu gồm các loại có nghi tên, không nghi tên, trả lãi trước, trả lãi sau, có thể chuyển nhượng và thừa kế, có thể ngân hàng mua lại theo thể thức chiết khấu, mua bằng VND hoặc USD với các loại mệnh giá khác nhau. 1.2.2.2.3. Nguồn vốn đi vay từ các tổ chức tín dụng và NHTW. a.Vay từ các ngân hàng khác Để đảm bảo khả năng thanh toán của mình, các NHTM cá thể huy động bằng cách vay các tổ chức tín dụng khác thông qua thị trường nội - ngoại tệ liên ngân hàng. Việc thực hiện quan hệ tín dụng giữa các NHTM phải được tiến hành theo nguyên tắc " Đi vay để cho vay" và phải đảm bảo bằng thế chấp, cầm cố ( tiền mặt tại quỹ và các giấy tờ có giá ). Các NHTM đi vay phải chấp hành đầy đủ các nguyên tắc đự trữ bắt buộc và an toàn vốn, phải có tài khoản tiền gửi thanh toán hoạt động thường xuyên tại NHTW. b.Vay từ ngân hàng Trung ương. Khi các NHTM đã vay mượn được của nhau mà vẫn thiếu vốn hoặc khả năng thanh toán bị đe dọa, các NHTM thực hiện vay vốn tại NHTW để tạo thêm nguồn vốn bổ xung cho hoạt động kinh doanh của mình. Nguồn vốn của NHTW là nguồn vốn cuối cùng đảm bảo khả năng thanh toán bình thường cho các NHTM. 1.2.3. ý nghĩa của hoạt động huy động vốn. 1.2.3.1. Vốn là cơ sở để ngân hàng tổ chức mọi hoạt động kinh doanh. Đối với bất kỳ một doanh nghiệp nào muốn hoạt động kinh doanh được thì phải có vốn, bởi vì vốn phản ánh năng lực chủ yếu để quyết định khả năng kinh doanh. Riêng đối với ngân hàng, vốn là cơ sở để NHTM tổ chức mọi hoạt động kinh doanh của mình. Nói cách khác, ngân hàng không có vốn thì không thể thực hiện được các nghiệp vụ kinh doanh. Bởi vì đặc trưng của hoạt động ngân hàng, vốn không chỉ là phương tiện kinh doanh chính mà còn là đối tượng kinh doanh chủ yếu của NHTM. Ngân hàng là tổ chức kinh doanh loại hàng hóa đặc biệt trên thị trường tiền tệ ( Thị trường vốn ngắn hạn) và thị trường chứng khoán ( Thị trường vốn dài hạn). 1.2.3.2. Vốn quyết quy mô hoạt động tín dụng và khả năng mở rộng hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Vốn của ngân hàng quyết định đến việc mở rộng hay thu hẹp khối lượng tín dụng. Thông thường, nếu so với các ngân hàng lớn thì ngân hàng nhỏ có khoản đầu tư kém đa dạng hơn. Trong khi các ngân hàng lớn cho vay được thị trường trong vùng, thậm chí trong nước và cả quốc tế. 1.2.3.3. Vốn quyết định khả năng thanh toán và đảm bảo tín dụng của ngân hàng trên thị trường. Thật vậy, trong nền kinh tế thị trường, để tồn tại và ngày càng mở rộng quy mô hoạt động, đòi hỏi các ngân hàng phải có uy tín lớn trên thị trường và điều trọng yếu. Uy tín đó phải được thể hiện trước hết khả năng sẵn sàng thanh toán, chi trả cho khách hàng của ngân hàng. Khả năng thanh toán của ngân hàng càng cao thì vốn khả dụng của ngân hàng càng lớn. Vì vậy, loại trừ những nhân tố khác, khả năng thanh toán của ngân hàng tỷ lệ thuận với vốn của ngân hàng nói chung và với vốn khả dụng của ngân hàng nói riêng. Với tiềm năng vốn lớn, ngân hàng có thể hoạt động kinh doanh với quy mô ngày càng mở rộng, tiến hành các hoạt động cạnh tranh có hiệu quả nhằm vừa giữ chữ tín, vừa nâng cao vị thế trên thị trường. 1.2.3.4. Vốn quyết định năng lực cạnh tranh của ngân hàng. Thực tế chứng minh: Quy mô, trình độ nghiệp vụ, phương tiện kỹ thuật hiện đại của ngân hàng là tiền đề cho việc thu hút vốn. Đồng thời khả năng vốn lớn là điều kiện thuận lợi đối với ngân hàng trong việc mở rộng quan hệ tín dụng với các thành phần kinh tế xét cả về quy mô, khối lượng tín dụng, chủ động về thời gian, thời hạn cho vay, thậm chí quyết định mức lãi suất vừa phải cho khách hàng. Điều đó sẽ thu hút ngày càng nhiều khách hàng, phát triển hoạt động kinh doanh cho ngân hàng. Đồng thời, vốn của ngân hàng lớn sẽ giúp cho ngân hàng có đủ khả năng tài chính để kinh doanh đa năng trên thị trường, không chỉ đơn thuần là cho vay mà còn mở rộng các hình thức liên doanh liên kết, kinh doanh dịch vụ thuê mua ( leasing), mua bán nợ ( factoring), kinh doanh trên thị trường chứng khoán. Chính các hình thức kinh doanh đa năng này sẽ góp phần phân tán rủi ro trong hoạt động kinh doanh và tạo thêm nguồn vốn cho ngân hàng, đồng thời tăng sức cạnh tranh của ngân hàng trên thương trường. 1.2.4.Các nhân tố ảnh hưởng tới công tác huy động vốn. 1.2.4.1.Sự tác động của các chính sách kinh tế vĩ mô. - Chính sách tài chính . Chính sách tài chính thực hiện kiểm soát và điều chỉnh giữa tích luỹ và tiêu dùng, cả vấn đề thuế của chính phủ cũng ảnh hưởng đến quyết định thực hiện chiến lược huy động vốn và sử dụng vốn. Thực hiện chính sách tài chính có liên quan đến việc chấp hành bội chi Ngân sách ở mức cho phép đối với tổng sản phẩm quốc nội (GDP). Bởi vì nếu tỷ lệ bội chi quá cao làm suất hiện một lượng tiền thừa trong lưu thông, gây tình trạng lạm phát, dẫn đến sự mất giá của tiền tệ. Đây chính là nguyên nhân làm cho việc huy động vốn của NHTM gặp khó khăn, vì tiền mất giá. Ngân hàng sẽ không thực hiện được việc thu hút tiền gửi (nhất là các khoản vốn dài hạn). Mặt khác do lúc này người dân cũng không thích trữ tiền mặt, họ sử dụng tiền để mua hàng hoá hoặc đầu cơ vàng, kim loại quỹ, ngoại tệ mạnh.... Nên công tác huy động vốn của NHTM bị ảnh hưởng. Khi tiến hành điều chỉnh cơ cấu giữa tích tuỹ và tiêu dùng phải tiến hành những biện pháp hữu hiệu, vừa khuyến khích tiêu dùng trong nước vừa tăng cường tích luỹ, đảm bảo thực hiện tốt chính sách Nhà nước về lãi suất, chính sách tín dụng, chính sách giá cả... Điều này sẽ tạo ra môi trường kinh tế ổn định, khuyến khích mọi người gửi tiền vào ngân hàng, giúp ngân hàng thực hiện tốt việc huy động vốn. - Chính sách tiền tệ. Chính sách tiền tệ Quốc gia là một bộ phận quan trọng đối với việc ổn định tiền tệ và phục vụ đắc lực cho tăng trưởng kinh tế. Ví vậy, khi thực hiện chính sách tiền tệ tích cực có hiệu quả, sẽ có tác dụng mở rộng nguồn vốn đầu tư cho đất nước. Bởi khi đó sẽ quyết định được những vấn đề giữa tích luỹ và tiêu dùng, khuyến khích tiết kiệm, tập trung vốn nhàn rỗi cho đầu tư phát triển. Tạo tích luỹ trong nước thông qua việc thực hiện cơ chế lãi suất cơ bản linh hoạt, có lợi cho các doanh nghiệp thúc đẩy các tổ chức tín dụng cạnh tranh sôi nổi trên thị trường, tự chủ, năng động trong kinh doanh. Từ đó sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các NHTM. Các tổ chức tín dụng tăng nhanh, tốc độ thu hút nguồn vốn hoạt động kinh doanh. Chính sách tiền tệ Quốc gia kiểm soát và điều tiết lượng tiền trong lưu thông, góp phần ổn định tiền tệ, thực hiện linh hoạt cơ chế lãi suất hợp lý, tạo ra tâm lý an tâm cho người dân khi có tiền gửi tại ngân hàng. Những nhân tố trên ổn định thì công tác huy động vốn mới có hiệu quả. - Chính sách đầu tư trong nước. Để khuyến khích đầu tư trong nước, ngân hàng thực hiện vai trò cung ứng tín dụng dưới hình thức các khoản đầu tư, tài trợ dự án làm tăng doanh số của ngân hàng. Để đáp ứng nhu cầu đó các NHTM buộc phải có những biện pháp và tìm mọi cách tăng cường vốn của mình. Nếu chính sách đầu tư vốn trong nước tạo điều kiện cho các ngành chú trọng và quan tâm đến công tác này, cùng với các chính sách ưu đãi bảo hộ đầu tư của các ngành hữu quan (Về thuế, phí đăng ký, cấp giấy phép, quản lý đầu tư nước ngoài, xuất nhập khẩu...). Để nâng cao sự cạnh tranh từ thị trường quốc tế vào Việt nam. Từ những yếu tố trên, ngân hàng tìm cách khai thác, huy động được các nguồn tiền tệ tạm thời, nhàn rỗi cả trong và ngoài nước để thực hiện tốt chính sách đầu tư trong nước. Mức độ phát triển và ổn định của nền kinh tế: Nền kinh tế ổn định đóng vai trò rất quan trọng trong công tác huy động vốn của ngân hàng. Vì kinh tế trong nước ổn định thì đồng tiền trong nước mói có thể ổn định, như vậy người dân mới yên tâm gửi tiền mà không lo lắng về sự mất giá của tiền tệ khi gửi trong ngân hàng.VD: Khi nền kinh tế không ổn định dẫn đến lạm phát, khi đó đồng tiền bị mất giá, giá cả hàng hóa tăng vọt... Trong tình hình này người dân sẽ không thể yên tâm cất giữ tiền vì đồng tiền khi đó sẽ ngày càng mất đi giá trị. Lúc này, thay vì gửi tiền họ sẽ dùng tiền mua hàng hóa, mua vàng, kim quý, đá quý dự trữ hoặc mua đất đai. 1.2.4.2. Sự hoạt động của thị trường vốn. Thị trường này là thị trường mua bán các loại chứng khoán như cổ phiếu, trái phiếu của các công ty cổ phần, các loại trái phiếu của Nhà nước và các doanh nghiệp. Thị trường chứng khoán là công cụ giúp nhà nước thực hiện chương trình phát triển kinh tế- xã hội, tăng cường huy động vốn cho đầu tư bằng cách phát hành các trái phiếu. Thị trường chứng khoán tạo điều kiện đẩy nhanh chu chuyển vốn trong nước. Các loại cổ phiếu, trái phiếu tượng trưng cho một hình thức đầu tư được mua đi bán lại trên thị trường chứng khoán như một thứ hàng hoá. nhờ vậy các hoạt động kinh tế luôn sôi nổi, vốn tiền tệ được lưu thông, không bị tồn đọng gây hiện tượng thừa vốn ngắn hạn và thiếu vốn cho đầu tư phát triển. 1.2.4.3. Chất lượng hoạt động kinh doanh của NHTM. Quy mô, chất lượng hoạt động của NHTM thể hiện được kết quả cuối cùng là lợi nhuận đạt được của ngân hàng. Nói về tác động của chất lượng hoạt động kinh doanh của ngân hàng đến việc huy động vốn chính là tác động đến lợi nhuận thu được. Khi quy mô và chất lượng hoạt động của ngân hàng được củng cố sẽ tạo điều kiện cho ngân hàng thu hút khách hàng và phát triển nguồn vốn đầu tư cho ngân hàng. Chất lượng hoạt động kinh doanh ngân hàng cũng biểu hiện qua mối quan hệ giữa khách hàng và ngân hàng. NHTM càng củng cố phát triển và hoàn thiện mọi quan hệ này thông qua các sản phẩm dịch vụ cung ứng cho khách hàng thì càng thu hút được nhiều khách hàng về với ngân hàng. 1.2.4.4.Mức thu nhập của dân cư. Mức thu nhập của dân cư là một trong những nhân tố trực tiếp quyết định lượng tiền gửi vào ngân hàng. Nhìn chung, thu nhập của người dân càng cao thì nhu cầu giao dịch và đầu tư của họ càng tăng nên tương đối so với nhu cầu tiêu dùng, do vậy nhu cầu mở tài khoản tại ngân hàng cũng như gửi tiền vào ngân hàng sẽ tăng lên. Trong những năm ngần đây, nền kinh tế nước ta tuy tăng trưởng ở mức độ ổn định, một bộ phận dân cư được cải thiện về thu nhập và mức sống, nhưng tỷ lệ gia đình có thu nhập thấp còn cao. Bình quân thu nhập GDP trên đầu người còn thấp so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Lý do đó cũng đã hạn chế trực tiếp khả năng huy động vốn trung và dài hạn của mình. Chương II Tổng quan về hoạt động huy động vốn tại chi nhánh NHNo&PTNT Phúc Thọ - huyện Phúc Thọ - tỉnh Hà Tây 2.1. Đặc điểm hoạt động kinh doanh của NHNo&PTNT Phúc thọ: 2.1.1. Khái quát chung về NHNo&PTNT Phúc THọ 2.1.1.1.Lịch sử hình thành. Chi nhánh NHNo&PTNT Phúc Thọ - huyên Phúc Thọ - tỉnh Hà Tây là một đơn vị trực thuộc của NHNo&PTNT tỉnh Hà Tây, thành lập ngày 30 tháng 8 năm 1991 có hội sở chính tại thị trấn Phúc Thọ huyên Phúc thọ tỉnh Hà Tây. Hiện nay NHNo&PTNT Phúc Thọ có 5 phòng, tổ và 4 ngân hàng cấp 3 (NHC3): Ngọc Tảo; Thị Trấn; Vân Phúc; Võng Xuyên. Với tổng số 45 cán bộ, nhân viên. Đa số cán bộ trong ngân hàng đều có trình độ Đại học và đang tiếp tục sau Đại học. Tuy nhiên, thời gian thành lập chưa lâu, lại nằm trên địa bàn huyện nông nghiệp, trình độ phát triển kinh tế còn hạn chế, NHNo&PTNT Phúc thọ gặp không ít khó khăn trong quá trình triển khai nghiệp vụ kinh doanh tiền tệ, tín dụng. Năng lực SXKD trên địa bàn huyện còn ở mức thấp, dẫn đến sức sản xuất sức mua trên thị trường còn chưa cao, đã ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động kinh doanh của chi nhánh NHN0&PTNT Phúc Thọ. Trong điều kiện như vậy, với phương châm hoạt động "luôn đem lại sự vững mạnh về phát triển kinh tế cho địa phương" NHNo&PTNT Phúc Thọ không ngừng đẩy mạnh hoạt động huy động vốn, mở rộng tín dụng, nâng cao trình độ nghiệp vụ của cán bộ, nhân viên, tạo lòng tin cho khách hàng, từ đó tăng thu nhập cho ngân hàng. NHNo&PTNT Phúc Thọ đã nhiều năm được Nhà nước trao tặng huân chương lao động hạng 3, liên tục đạt thành tích đơn vị xuất sắc trên toàn tỉnh. 2.1.1.2.Chức năng - nhiệm vụ. Giống như các NHTM khác, chức năng của NHNo&PTNT Phúc Thọ là huy động vốn nhàn rỗi trong dân cư và các thành phần kinh tế để cho vay. Cùng sự tăng trưởng kinh tế chung toàn tỉnh và cả nước, NHNo&PTNT Phúc Thọ đã không ngừng hoàn thiện và mở rộng các lĩnh vực hoạt động. Hiện nay các hoạt động cơ bản của ngân hàng gồm: - Huy động nội tệ - ngoại tệ. - Cho vay các thành phần kinh tế. - Làm dịch vụ thanh toán, chuyển tiền điện tử qua mạng vi tính trong toàn quốc và quốc tế. - Mua bán ngoại tệ, nhận chuyển và chi trả kiểu hối. 2.1.1.3. Cơ cấu tổ chức. * Sơ đồ tổ chức chi nhánh NHNo&PTNT Phúc Thọ. Ban giám đốc Phòng ngân quỹ Phòng HC-NS Tổ thẩm định NHC3 Ngọc Tảo NHC3 Thị Trấn NHC3 Vân Phúc NHC3 Võng Xuyên Phòng kế toán Phòng NVKD * Nhiệm vụ của các phòng ban: - Ban lãnh đạo: Gồm (1 giám đốc và 2 phó giám đốc) chức năng lãnh đạo và điều hành mọi hoạt động kinh doanh của chi nhánh và các NHC3. - Phòng Kế toán: Thực hiện các nghiệp vụ kế toán ngân hàng và hạch toán tiền gửi, tiền vay, thanh toán chuyển tiền cho các đơn vị, làm nghiêm vụ hạch toán nội bộ và làm công tác huy động vốn. - Phòng Ngân quỹ: Có chức năng chủ yếu là thu chi tiền mặt, đáp ứng yêu cầu tiền mặt cho các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế, cá nhân, đảm bảo an toàn kho quỹ. - Phòng nghiệp vụ kinh doanh: Với nhiệm vụ là cho vay các doanh nghiệp quốc doanh, ngoài quốc doanh, doanh nghiệp tư nhân và cho vay kinh tế hộ gia đình. Huy động vốn, thực hiện các dịch vụ cầm cố, bảo lãnh cho các đơn vị kinh tế. - Phòng HC-TC: Có nhiệm vụ theo dõi nhân sự tiếp nhận và tổ chức đào tạo các bộ, làm công tác văn phòng, hành chính văn thư và lưu trữ phục vụ hậu cần. - Tổ thẩm định: Chịu trách nghiệm giám sát và kiểm tra mọi hoạt động liên quan đến thu chi của ngân hàng. Đặc biệt là công tác thẩm định trước khi cho vay đối với hộ sản xuất hay tổ chúc kinh tế để đảm bảo khả năng chi tra sau khi vay vốn ngân hàng. - Bốn chi nhánh NHC3: Với các chức năng tổng hợp của phòng Kinh doanh và phòng Kế toán - Ngân quỹ. Thực hiện nhiệm vụ của ngành theo sự chỉ đạo của ngân hàng cấp trên. 2.2: Tình hình hoạt động kinh doanh tại chi nhánh NHNo&PTNT Phúc Thọ. 2.2.1. Kết quả kinh doanh tại chi nhánh NHN._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docC0186.doc
Tài liệu liên quan