Lời nói đầu
Nền kinh tế Việt Nam qua hơn 15 năm đổi mới đã đạt được nhiều thành tựu và kết quả quan trọng. Tuy vậy,khó khăn và nhiệm vụ phía vẫn còn nhiệu. Để thực hiện tốt quá trình CNH - HĐH đất nước nhiệm vụ đặt ra đối với các doanh nghiệp là huy động và sử dụng vốn một cách có hiệu quả.
Nhận biết rõ vai trò tích cực của vật liệu Thép, Đảng và Nhà nước đã, đang và sẽ có những hoạt động đầu tư thích đáng cho Ngành Thép nhằm đưa Ngành Thép trở thành một trong những ngành công nghiệp hàng đầu
92 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1565 | Lượt tải: 4
Tóm tắt tài liệu Thực trạng huy động vốn & sử dụng vốn ở Tổng Công ty Thép Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
.
Tổng Công ty Thép Việt Nam là một doanh nghiệp Nhà nước, được thành lập theo mô hình Tổng công ty 91. Nhận thức được tầm quan trọng của mình. Ngoài việc hoàn thành tốt những nhiệm vụ mà Nhà nước giao cho là sản xuất Thép, nhập khẩu những mặt hàng Thép mà trong nước chưa sản xuất được,... Tổng công ty còn nghiên cứu tìm ra các giải pháp huy động vốn và sử dụng vốn một cách có hiệu quả.
Xuất phát từ bối cảnh chung của nền kinh tế và thực trạng hoạt động của Tổng Công ty Thép tôi mạnh dạn nghiên cứu đề tài: "Thực trạng huy động và sử dụng vốn ở Tổng Công ty Thép Việt Nam"
Nội dung bài viết gồm:
Chương I: Những vấn đề lý luận chung về đầu tư phát triển - huy động và sử dụng vốn đầu tư.
Chương II: Thực trạng huy động và sử dụng vốn của Tổng Công ty Thép Việt Nam.
Chương III: Những giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư phát triển của Tổng Công ty Thép.
Tôi xin chân thành cảm ơn Thầy giáo Vũ Kim Toản,các thầy cô Bộ môn Kinh Tế Đầu Tư .Cô Hoàng Thị Hồng Hà phó phòng Kế Hoạch Đầu Tư, các cô chú Phòng Kế hoạch Đầu tư thuộc Tổng Công ty Thép Việt Nam đã giúp tôi hoàn thành đề tài này.
Chương I: Những vấn đề lý luận chung về đầu tư phát triển – huy động và sử dụng vốn đầu tư .
I. Đầu tư phát triển trong doanh nghiệp
1.1. Khái niệm đầu tư phát triển
1.1.1Khái niệm đầu tư phát triển
Xuất phát từ phạm vi phát huy tác dụng của các kết quả đầu tư chúng ta có thể có những cách hiểu khác nhau về đầu tư.
Theo nghĩa rộng, đầu tư nói chung là sự hy sinh các nguồn lực ở hiện tại để tiến hành các hoạt động nào đó nhằm thu về cho nhà đầu tư các kết quả nhất định trong tương lai lớn hơn các nguồn lực đã bỏ ra để đạt được các kết qủa đó.
Như vậy, mục đích của việc đầu tư là thu được cái gì đó lớn hơn những gì mình đã bỏ ra. Tuy nhiên, xét trên góc độ nền kinh tế, những hoạt động như gửi tiết kiệm không được xem là hoạt động đầu tư vì nó không làm tăng của cải cho nền kinh tế, mặc dù người gửi vẫn có khoản thu lớn hơn so với số tiền gửi. Từ đó, người ta biết đến một định nghĩa hẹp hơn về đầu tư hay là đầu tư phát triển.
Đầu tư phát triển là hoạt động sử dụng các nguồn lực tài chính, nguồn lực vật chất, nguồn lực lao động và trí tuệ để xây dựng, sửa chữa nhà cửa và cấu trúc hạ tầng, mua sắm trang thiết bị và lắp đặt chúng trên bệ bồi dưỡng đào tào nguồn nhân lực, thực hiện chi phí thường xuyên gắn liền với sự hoạt động của các cơ sở đang tồn tại và tạo tiềm lực mới cho nền kinh tế-xã hội, tạo việc làm và nâng cao đời sống của thành viên trong xã hội.
1.1.2.Đặc điểm của đầu tư phát triển
Hoạt động đầu tư phát triển đòi hỏi một số vốn lớn (tiền vốn, vật tư, lao động,…). Hàng năm vốn chi cho đầu tư xây dựng cơ bản thuộc vốn ngân sách chiếm 20% tổng chi ngân sách. Chính vì sử dụng nguồn vốn lớn như vậy nên việc huy động vốn cho ngân sách các dự án khó khăn và quản lý nguồn vốn phải được đặc biệt quan tâm. Bên cạnh đó, những dự án đầu tư còn đòi hỏi lượng lao động dồi dào nhưng khi dự án kết thúc, vấn đề lao động rất khó giải quyết, làm tăng lượng thất nghiệp trong xã hội gây ra một loạt vấn đề xã hội và tệ nạn xã hội,…
Thời gian cần thiết để tiến hành một công cuộc đầu tư cho đến khi các thành quả của nó phát huy tác dụng thường đòi hỏi nhiều năm tháng (kéo dài 5 năm, 10 năm). Thời gian đầu tư kéo dài dẫn đến độ rủi ro mạo hiểm trong đầu tư cao do không lường trước hết những
yếu tố bất định trong thời gian đầu tư. Đồng thời, đồng vốn từ lúc dự án bắt đầu thực hiện dự án bị ứ đọng, không sinh lời làm cho việc quản lý trong quá trình đầu tư khó khăn hơn, dễ bị lãng phí về vật tư, lao động và nguồn vốn.
Đa số các công trình đầu tư phát triển được tạo ra ở một vị trí cố định, do vậy, nó chịu ảnh hưởng nhiều của điều kiện tự nhiên, xã hội của vùng. Vậy, vấn đề quan trọng là phải làm sao để phát huy được lợi thế của vùng để giảm bớt các chi phí cho quá trình thực hiện đầu tư và vận hành các kết quả đầu tư.
Do thời kỳ đầu tư và vận hành các kết quả đầu tư kéo dài, vốn đầu tư lớn nên đầu tư phát triển có độ rủi ro cao.
Đầu tư phát triển có độ trễ về thời gian.
1.2. Đầu tư phát triển trong doanh nghiệp
Khái niệm ĐTPT trong doanh nghiệp
Theo quan điểm của các nhà kinh tế: Đầu tư là dòng vốn dùng thay đổi qui mô dự trữ đang có.
Đối với các nhà kế toán: Nếu sản phẩm hoặc dịch vụ mà sử dụng trong nhiều chu kỳ sản xuất và nếu doanh nghiệp là chủ sở hữu thì có khái niệm là đầu tư doanh nghiệp.
Đối với các nhà quản lý: đầu tư hay chi phí một doanh nghiệp phải tạo ra được những dòng lợi ích mới.
Như vậy cũng như hoạt động đầu tư, hiện có rất nhiều cách định nghĩa khác nhau về đầu tư phát triển trong các doanh nghiệp. Nhưng tựu trung lại có thể hiểu đó là sự hy sinh các nguồn lực ở hiện tại để duy trì và tăng cường, mở rộng năng lực sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Vai trò của ĐTPT trong doanh nghiệp.
Đầu tư quyết định sự ra đời của các cơ sở
Để tạo dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho sự ra đời của bất cứ cơ sở sản xuất kinh doanh dịch vụ nào thì phải có vốn đầu tư để xây dựng nhà xưởng, cấu trúc hạ tầng, mua sắm và lắp đặt thiết bị máy móc, tiến hành các công tác xây dựng cơ bản và thực hiện các chi phí khác gắn liền với sự hoạt động trong một chu kỳ của các cơ sở vật chất kỹ thuật vừa tạo ra.
Vậy một cơ sở sản xuất kinh doanh dịch vụ muốn ra đời thì phải có vốn đầu tư vào các yếu tố cần thiết thì nó mới đi vào hoạt động.
Đầu tư quyết định sự tồn tại của cơ sở.
Khi doanh nghiệp ta đời và đi vào hoạt động, sau một thời gian các cơ sở vật chất kỹ thuật sẽ bị hao mòn, hư hỏng, lạc hậu. Để duy trì được sự hoạt động bình thường cần phải định kỳ tiến hành sửa chữa lớn hoặc thay mới các cơ sở vật chất kỹ thuật đã hư hỏng hao mòn này hoặc đổi mới để thích ứng với điều kiện hoạt động mới của sự phát triển khoa học-kỹ thuật và nhu cầu tiêu dùng của nền sản xuất xã hội, phải mua sắm các trang thiết bị mới thay thế cho các trang thiết bị cũ đã lỗi thời. Để những công việc trên trở thành hiện thực thì ta phải bỏ tiền ra để đầu tư. Khi đó đồng nghĩa với sự tồn tại của các cơ sỏ sản xuất kinh doanh dịch vụ.
Đối với các cơ sở vô vị lợi (hoạt động không để thu lợi nhuận cho bản thân mình) đang tồn tại để duy trì sự hoạt động ngoài tiến hành sửa chữa lớn định kỳ các cơ sở vật chất kỹ thuật còn phải thực hiện các chi phí thường xuyên. Tất cả các hoạt động và chi phí này đều là những hoạt động đầu tư.
c. Đầu tư quyết định sự phát triển của các cơ sở
Các cơ sở muốn ra đời, tồn tại thì phải cần có vốn đầu tư. Nhưng đối với các doanh nghiệp không chỉ dừng lại đó mà muốn tạo ra sự phát triển tìm chỗ đứng vững chắc trên thị trường vậy thì các doanh nghiệp lại tiếp tục phải có vốn đầu tư vào khoa học công nghệ thích hợp, đào tạo cán bộ quản lý và công nhân lành nghề, mở rộng các hoạt động quảng cáo, tiếp thị,..
Vậy đầu tư quyết định sự ra đời, tồn tại và phát triển của các cơ sở sản xuất kinh doanh dịch vụ.
Phân loại đầu tư trong doanh nghiệp
Để quản lý hoạt động đầu tư trong doanh nghiệp, người ta phân chia theo rất nhiều các tiêu thức khác nhau. Dưới đây là các tiêu thức thường gặp:
Căn cứ vào qui mô vốn và phân cấp quản lý: đầu tư trong doanh nghiệp chia ba nhóm: Dự án đầu tư nhóm A, nhóm B, nhóm C. Sự phân nhóm này được quy định rõ trong Nghị định 52/CP ngày 08/7/1999. Thông thường trong doanh nghiệp ít có dự án thuộc nhóm A.
Căn cứ vào vùng, lãnh thổ theo tỉnh và vùng kinh tế của đất nước. Cách phân loại này phản ánh tình hình đầu tư của từng cơ sở ở từng tỉnh, từng vùng kinh tế và ảnh hưởng của đầu tư đối với tình hình phát triển kinh tế ở từng địa phương.
Căn cứ vào mức độ chu chuyển giá trị: Đầu tư được chia ra thành đầu tư cơ bản vào tài sản cố định và đầu tư vận hành vào hàng tồn trữ (lưu động). Đầu tư cơ bản quyết định đầu tư vận hành. Đầu tư vận hành tạo điều kiện cho các kết quả của đầu tư cơ bản phát huy tác dụng. Không có đầu tư cơ bản thì đầu tư vận hành chẳng để làm gì.
Căn cứ vào hình thái vật chất, chia ra đầu tư vào tài sản vô hình và đầu tư vào tài sản hữu hình.
Căn cứ vào cơ cấu tái sản xuất: đầu tư chiều sâu và đầu tư chiều rộng. Trong đó, đầu tư chiều rộng vốn lớn để khê đọng lâu, thời gian thực hiện đầu tư và thu hồi vốn lâu, tính chất kỹ thuật phức tạp, độ mạo hiểm cao. Còn đầu tư theo chiều sâu đòi hỏi khối lượng vốn ít hơn, thời gian thực hiện không lâu, độ mạo hiểm thấp hơn so với đầu tư theo chiều rộng.
Nội dung của đầu tư trong doanh nghiệp
Đầu tư đổi mới, hiện đại máy móc, thiết bị, nhà xưởng:
Là hoạt động đóng vai trò quan trọng nhất trong đầu tư của doanh nghiệp bởi hai lý do cơ bản:
1, Chi phí cho các hạng mục chiếm tỷ lệ cao trong tổng vốn đầu tư;
2, Đó là bộ phận cơ bản tạo ra sản phẩm-hoạt động chính của mỗi doanh nghiệp.
Như vậy hoạt động đầu tư vào tài sản cố định đóng vai trò quan trọng nhất nếu không muốn nói là quyết định đối với phần lợi nhuận thu được những cảu doanh nghiệp. Các hãng thường tăng cường thêm tài sản cố định khi họ thấy trước được những cơ hội có lợi để mở rộng sản xuất, hoặc vì họ có thể giảm bớt chi phí bằng cách chuyển sang những phương pháp sản xuất dùng nhiều vốn hơn. Đầu tư vào máy móc, thiết bị, nhà xưởng gồm các hoạt động đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng (như xây dựng hạng mục công trình nhằm tạo điều kiện và đảm bảo cho dây chuyền thiết bị sản xuất, công nhân hoạt động được thuận lợi, an toàn) và đầu tư vào máy móc thiết bị, dây chuyền công nghệ và tài sản cố định khác (đây là bộ phận chiếm tỷ trọng vốn lớn nhất trong hoạt động đầu tư của doanh nghiệp). Để đạt hiệu quả đầu tư trong hoạt động này, thông thường các doanh nghiệp dùng phương thức đấu thầu.
Đầu tư vào hàng tồn kho
Là đầu tư vào nguyên vật liệu, bán thành phẩm, chi tiết phụ tùng, thành phẩm để tồn trữ trong doanh nghiệp. Nếu như trước đây người ta coi hàng tồn trữ như là một hiện tượng bất thường, không đưa lại kết quả như mong muốn của doanh nghiệp thì đến nay với nền kinh tế thị trường, đầu tư vào hàng tồn trữ là cần thiết trong quá trình hoạt động của doanh nghiệp.
Khi doanh nghiệp có thể dự đoán hoặc khẳng định giá sẽ tăng, họ sẽ mua hàng dự trữ để chi phí sản xuất của họ không tăng hay họ sẽ om hàng thành phẩm không chịu bán với hy vọng sẽ bán được giá cao hơn trong tương lai. Một số hàng dự trữ có vai trò là khâu trung gian của các đầu vào trước khi chúng trở thành sản phẩm. Doanh nghiệp dự trữ hàng nhằm khi nhu cầu về sản phẩm của hãng bất ngờ tăng lên, do không thể thay đổi công suất nhà máy một cách nhanh chóng, hãng có thể phải chịu một khoản lớn cho việc làm ngoài giờ nếu hãng muốn đáp ứng đơn đặt hàng tăng vọt. Đặc biệt, việc đầu tư vào hàng tồn trữ còn có tác dụng đảm bảo cho quá trình sản xuất kinh doanh được diễn ra liên tục hợp lý và hiệu quả, cho phép sản xuất và mua nguyên vật liệu một cách kinh tế.
Chi phí của việc giữ hàng hoá tồn kho chiếm một tỷ lệ tương đối lớn, khoảng 40% tổng vốn đầu tư của doanh nghiệp. Vì vậy, trong qúa trình sử dụng, đòi hỏi phải có kế hoạch hợp lý nhằm sử dụng hiệu quả đồng vốn và đảm bảo sản xuất diễn ra bình thường, liên tục.
Đầu tư phát triển nguồn nhân lực
Lực lượng sản xuất là nhân tố quyết định và thể hiện trình độ văn minh của nền sản xuất xã hội. Mác đã từng nói: “Trình độ sản xuất của nền kinh tế không phải ở chỗ xã hội đó sản xuất ra cái gì mà là xã hội đó dùng cái gì để sản xuất”. Trong quá trình sản xuất kinh doanh tạo ra sản phẩm cho xã hội, người lao động không những là một yếu tố của quá trình đó mà còn là yếu tố quan trọng, tác động có tính chất quyết định vào việc phát huy tính đồng bộ và có hiệu quả các yếu tố khác. Nguồn nhân lực là một tài sản quí giá của lao động. Do đó, trong quá trình phát triển, mỗi doanh nghiệp phải phát huy hiệu quả của nguồn nhân lực của mình, đồng thời ngày càng nâng cao sản lượng cũng như chất lượng nguồn nhân lực. Hoạt động quản lý nhân lực của doanh nghiệp bao gồm các hoạt động tuyển dụng đào tạo, sử dụng, đào tạo lại, đào tạo nâng cao… các kinh doanh này có thể xen kẽ, có thể tách biệt, có thể trước sau, tuỳ theo đặc điểm nghề nghiệp, qui mô của doanh nghiệp.
Đầu tư cho tài sản vô hình khác
Đầu tư cho nguồn nhân lực của doanh nghiệp được coi là một hoạt động đầu tư cho tài sản vô hình của doanh nghiệp. Nhưng trong phần này, chúng ta đề cập chủ yếu là đầu tư cho uy tín và vị thế của doanh nghiệp trên thị trường. Có thể hiểu đó là danh tiếng về tên gọi của doanh nghiệp. Hoạt động này tuy không lượng hoá một cách chính xác nhưng nó góp phần lớn vào sự thành công của doanh nghiệp. Chi phí tiếp thị, quảng cáo, giao dịch của khách hàng,… Ngày nay, các doanh nghiệp có xu hướng khuyếch trương tài sản vô hình của mình. Đây là một xu hướng đúng đắn bởi tăng đầu tư cho tài sản vô hình sẽ làm tăng đáng kể doanh thu của doanh nghiệp và sản xuất luôn được mở rộng. Trung bình các doanh nghiệp sử dụng từ 10-20% chi phí của mình cho hoạt động quảng cáo. Tỷ lệ này còn tiếp tục có chiều hướng gia tăng.
II. Vốn đầu tư của doanh nghiệp
2.1. Khái niệm vốn và vốn đầu tư phát triển trong doanh nghiệp
Vốn là một phạm trù kinh tế mà lý thuyết kinh tế chính trị học từ trường phái cổ điển đến hiện đại đều đề cập nhiều tới vốn dưới góc độ nghiên cứu khác nhau. Tuy vậy, cho đến nay, người ta cũng chưa đưa ra một khái niệm chính thống về vốn.
Chẳng hạn, đại diện trường phái trọng nông đã quan niệm vốn là những khoản tiền ứng trước đầu tư vào nông nghiệp. Đến thời kỳ C.Mác, trong bộ Tư bản, Mác đã khái quát hoá phạm trù vốn thông qua phạm trù Tư bản. Theo Mác, Tư bản là giá trị mang lại giá trị thặng dư quá trình vận động của nó (T-H-SX-H’-T’). Điều này cũng có nghiã là, Mác đã coi vốn là một lượng giá trị mang lại giá trị thặng dư nếu vốn được đưa vào sản xuất kinh doanh. Phần sản phẩm thặng dư biến thành Tư bản trong “bộ Tư bản”, theo Mác là phải biến thành tư liệu sản xuất và tư liệu sinh hoạt. Tư liệu sản xuất như: máy móc, công cụ lao động khác, nguyên vật liệu … để phục vụ sản xuất; tư liệu sinh hoạt chính là tiền lương để tái sản xuất sức lao động của công nhân. Học thuyết của Mác và các trường phái trước Mác đã chỉ ra:
Thứ nhất, vốn được hình thành không chỉ là bộ phận tư bản ứng trước, mà chủ yếu được tích luỹ từ quá trình tư bản hoá giá trị thặng dư. Theo Mác, tư bản ứng trước chỉ là một giọt nước trong dòng sông của tích luỹ mà thôi.
Thứ hai, vốn được biểu diễn bằng giá trị và có thể tồn tại dưới hình thái tiền hoặc bằng hiện vật. Vốn có khả năng tạo ra giá trị mới lớn hơn giá trị ban đầu nếu đưa nó vào sản xuất kinh doanh.
Thứ ba, hàng hoá-sức lao động (thể lực, trí óc) là hàng hoá đặc biệt, là điều kiện cần thiết của quá trình sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên, Mác chưa chỉ rõ sức lao động cũng là một loại vốn.
Ngày nay, trong nền kinh tế thị trường, người ta quan niệm về vốn với phạm vi rộng hơn nhiều. Vốn được hiểu là giá trị tài sản xã hội được hình thành từ các nguồn lực vật chất và phi vật chất (tài sản hữu hình và tài sản vô hình) của xã hội, bao gồm: tài sản tích luỹ, tài nguyên thien nhiên, nhân lực trí lựuc, giá trị văn hoá tinh thần và các lợi thế khác,…
Nhìn nhận một cách tổng thể các quan niệm, phân tích, kết luận của các trường phái kinh tế học, cổ điển hiện đại, chúng ta có thể khái niệm vốn một cách chung nhất như sau: vốn là giá trị tài sản xã hội bao gồm tiền, tài sản hữu hình và tài sản vô hình có thể qui ra giá trị, nó được khai thác và huy động từ các nguồn lực xã hội, nhằm sử dụng vào đầu tư, kinh doanh đưa lại hiệu quả kinh tế-xã hội.
Như vậy, vốn là một phạm trù kinh tế rộng, song đề tài nghiên cứu này chỉ có phạm vi nghiên cứu là vốn bằng tiền trong hoạt động đầu tư. Vậy vốn đầu tư là gì, có sự phân biệt gì với vốn thông thường không?
Hoạt động đầu tư bao gồm nhiều lĩnh vực như ta thường nghe: đầu tư trí tuệ, đầu tư công sức, đầu tư thời gian, đầu tư tiền của ..Nhưng với đề tài này chúng ta tập trung nghiên cứu đầu tư về phương diện vốn.
Về phương diện vốn, đầu tư là hoạt động “bỏ vốn” để thu được lợn ích kinh tế- xã hội qua một thời gian, vốn là yếu tố tiền đề của mọi quá trình đầu tư.
Trước đây, trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung bao cấp, khi nói đến vốn đầu tư là muốn ám chỉ vốn xây dựng cơ bản- một loại vốn do ngân sách Nhà nước cấp phát để hình thành tài sản cố định. Do vận hành của cơ chế này chưa quan tâm đền hiệu quả của đồng vốn đầu tư, nên sự vận động của vốn đầu tư nhìn chung đơn điệum, chủ yếu quy mô hẹp ở khu vực Nhà nước.
Ngày nay , chuyển sang kinh tế thị trường, quan niệm về vốn đầu tư đã đổi mới, phạm vi lớn hơn nhiều. Vốn đầu tư không chỉ bao gồm chu chuyển trong khu vực ngân sách Nhà nước mà bao gồm khu vực doanh nghiệp, tư nhân và toàn xã hội. Vốn đầu tư của Nhà nước được hình thành từ hoạt động ngân sách Nhà nước; vốn đầu tư của Nhà nước được hình thành từ hoạt động và huy động từ các kênh vốn khác; vốn đầu tư của khu vực tư nhân được hình thành từ nguồn tiết kiệm của dân cư. Mặc nhiên, cho dù có hình thành từ các nguồn khác nhau đi chăng nữa, vốn đầu tư trước hết, tự thân là vốn. Bởi thế, khái niệm vốn đầu tư, nội hàm đã mang ý nghĩa của vốn. Song người ta có thể phân biệt vốn đầu tư thông thường là ở chỗ:
Thứ nhất, trong hoạt động đầu tư vốn có thể theo các mục đích cá biệt nhưng đều có mục tiêu cuối cùng là đầu tư phát triển. Do đó, nó mang ý nghĩa dài hạn. Còn hoạt động kinh tế ngắn hạn, việc bỏ vốn vào đó thường có mục đích kinh doanh thu lợi trực tiếp, không nên gọi là vốn đầu tư. Tuy nhiên, sự phân biệt này cũng chỉ là tương đối.
Thứ hai, vốn đầu tư có thể phân biệt với vốn thông thường còn ở chỗ việc sử dụng vốn đầu tư thường có mục tiêu đã được hoạch định. Vốn đầu tư chủ yếu được sử dụng để đầu tư chủ yếu vào các dự án phát triển kinh tế xã hội. Hoạt động sử dụng vốn đầu tư có quá trình từ khâu chuẩn bị dự án, đến triển khai thực hiện dự án và khai thác hiệu quả dự án sau đầu tư. Quá trình này thường tương đối dài, có khi hàng chcụ năm.
Thứ ba, do mục tiêu, công dụng của vốn đầu tư là phục vụ đầu tư phát triển, nên quá trình đầu tư vốn nhằm hình thành chủ yếu cơ sở hạ tầng kinh tế-xã hội- kỹ thuật và các taì sản cố định khác trong nền kinh tế.
Vẫn còn nhiều điểm khác để phân biệt vốn đầu tư với vốn thông thường. Song lẽ ba điểm trên cũng đã bao hàm đủ. Từ những phân tích trên, có thể khái niệm vốn đầu tư một cách tổng quát là: “Vốn đầu tư là loại vốn có thời hạn đầu tư dài hạn, hình thành tài sản cố định, bỏ vào đầu tư nhằm mang lại hiệu quả trong tương lai”.
2.2. Vai trò của vốn trong đầu tư phát triển của doanh nghiệp
Từ xa xưa các nhà kinh tế đã đánh giá cao vai trò của vốn đối với sự phát triển kinh tế của một quốc gia. Từ các nhà kinh tế học cổ điển, A.S trong cuốn “Của cải của các dân tộc” đã cho rằng vốn đầu tư là yếu tố quyết định chủ yếu của số lực lượng lao động hữu dụng và hiệu quả việc tích tụ vốn đầu tư cho phép dân số và lực lượng lao động gia tăng, cuối cùng người lao động với trang thiết bị tốt hơn, có thể tạo ra việc phân công lao động một cách rộng rãi hơn. Việc tăng vốn đầu tư sẽ làm tăng cả tổng sản lượng bình quân một lao động.
Nurkse càng nhấn mạnh vai trò của vốn đầu tư đến sự phát triển nền kinh tế, cho rằng việc thiếu vốn đầu tư là một nguyên nhân gây ra nghèo đói.
Hầu hết các mô hình tăng trưởng từ mô hình Harrod Domar (mô hình một khu vực) hay mô hình Lewis(mô hình hai khu vực) đều thể hiện một mối quan hệ chặt chẽ và rõ ràng giữa sự gia tăng của đầu tư và thu nhập của nền kinh tế. Quan điểm cho rằng tích tụ vốn cho đầu tư là chìa khoá cho sự tăng trưởng kinh tế được thể hiện trong các chiến lược và chính sách phát triển tại nhiều quốc gia.
Theo J.Keynes, mỗi sự gia tăng về vốn đầu tư đều kéo theo sự gia tăng nhu cầu bổ sung về nhân công và nhu cầu về tư liệu sản xuất. Từ đó, làm tăng việc làm và nhu cầu tiêu dùng của nền kinh tế, dẫn đến tăng thu nhập của nền kinh tế. Đến lượt mình tăng thu nhập lại làm tăng đầu tư mới theo qui tắc số nhân đầu tư.
Ngoài ra, nói về nguồn huy động vốn lý thuyết quĩ đầu tư nội bộ khẳng định đầu tư phụ thuộc vào lợi nhuận. Doanh nghiệp có thể huy động vốn đầu tư từ nhiều nguồn: từ thu nhập giữ lại, từ khấu hao tài sản cố định, từ vay nợ và từ việc phát hành các cổ phiếu. Trong đó, thu nhập giữ lại và khấu hao là các nguồn nội bộ của doanh nghiệp, còn việc vay nợ, phát hành cổ phiếu là huy động từ bên ngoài. Doanh nghiệp nên ưu tiên nhiều cho việc huy động vốn nội bộ để tăng mức đầu tư.
Kế thừa tư tưởng của các nhà kinh tế cổ điển, Mác đã trình bày quan điểm của mình về vai trò của vốn qua các học thuyết: tích luỹ, tuần hoàn và chu chuyển, tái sản xuất tư bản xã hội… Đặc biệt Mác đã chỉ ra nguồn gốc chủ yếu của vốn tích luỹ là lao động thặng dư do người lao động tạo ra. Khi nghiên cứu nền sản xuất tư bản chủ nghĩa, Mác đã tìm thất những quy luật vận động của tư bản mà quy luật được thể hiện qua công thức: H-T-H’ đã chỉ ra: bất kỳ môt nhà kinh doanh muốn thực hiện quá trình sản xuất kinh doanh đều trải qua ba giai đoạn và điều quan trọng cho mỗi người sản xuất, mỗi doanh nghiệp phải biết tìm cấu trúc một cách khôn ngoan các yếu tố của tiền vón đầu tư nhằm tạo ra nhiều của cải nhất cho cá nhan, doanh nghiệp, xã hội. Đồng thời, nó cũng chỉ ra trong dòng chảy liên tục của dòng vốn đầu tư nếu như hình thái nào trong ba hình thái trên chưa đi vào chu trình vận động liên tục của sản xuất kinh doanh, thì đồng vốn đó vẫn ở dạng tiềm năng, chưa đem lại lợi ích thiết thực. Từ những phân tích khoa học chặt chẽ, những luận cứ xác đáng Mác chỉ ra bản chất của tích luỹ vốn trong doanh nghiệp TBCN “Một khi kết hợp được với sức lao động, đất đai tức hai nguồn vốn đầu tiên của của cải thì tư bản có một sức bành trướng cho phép nó tăng những yếu tố tích luỹ của nó lên những giới hạn mà bề ngoài hình như là do lượng của bản thân tư bản quyết định nghĩa là do giá trị và khối lượng của những tư liệu sản xuất (trong đó có cả vốn) đã được sản xuất ra quyết định”.
Cũng như trong tác phẩm tư bản, Mác đã nghiên cứu về cân đối nền kinh tế, mối quan hệ giữa hai khu vực của nền sản xuất xã hội để đảm bảo quá trình tái sản xuất, tái sản xuất mở rộng. Với những giả định về nền kinh tế đóng, Mác chia nền kinh tế thành hai khu vực: khu vực 1: sản xuất tư liệu sản xuất. Khu vực 2: sản xuất tư liệu tiêu dùng. Để có dư thừa về tư liệu sản xuất, một mặt phải tăng cường sản xuất tư liệu sản xuất ở khu vực 1 và sử dụng tiêt kiệm tư liệu sản xuất ở cả hai khu vực. Để có dư thừa về tư liệu tiêu dùng một mặt phải tăng cường sản xuất tư liệu tiêu dùng ở khu vực 2, thực hiện tiết kiệm tiêu dùng trong sinh hoạt ở cả hai khu vực. Hay có thể nói: Con đường cơ bản và quan trọng về lâu dài để tái sản xuất mở rộng là phát triển sản xuất và thực hành tiết kiệm ở cả trong sản xuất và tiêu dùng.
Cùng quan niệm về vốn, các nhà kinh tế học hiện đại mà tiêu biểu là Paul A. Samuelson, David Begg và Mi;ton Fredman cũng đã nghiên cứu về vốn và nguồn vốn. Paul A. Samuelson đã chỉ ra hai lực lượng thúc đẩy việc tích luỹ: thứ nhất, mức cầu về vốn có cơ sở trong việc những quy định sản xuất gián tiếp hoặc đi đường vòng là có hiệu qủa; và việc bằng cách nhịn tiêu dùng hôm nay, xã hội có thể tăng tiêu dùng trong tương lai. Thứ hai, người ta phải sẵn sàng nhịn tiêu dùng, sẵn sàng tích luỹ tài sản, cho các doanh nghiệp vay vốn để họ tiến hành đầu tư có hiệu quả vào những quy trình sản xuất đuờng vòng.
2.3. Phân loại vốn đầu tư của doanh nghiệp
a. Căn cứ vào nội dung của đầu tư phát triển trong doanh nghiệp
Vốn đầu tư được chia thành vốn đầu tư tạo ra tài sản cố định, vốn tạo ra tài sản lưu động, vốn chuẩn bị đầu tư, vốn dự phòng. Trong đó:
Vốn tạo ra tài sản cố định bao gồm toàn bộ chi phí ban đầu về đất đai, xây dựng, sửa chữa nhà cửa, cấu trúc hạ tầng, mua sắm thiết bị máy móc, các khoản chi khác.
Vốn tạo ra tải sản lưu động bao gồm vốn lưu động nằm trong giai đoạn sản xuất như mua nguyên vật liệu, trả lương lao động, chi phí về điện nước và vốn lưu động nằm trong lưu thông như sản phẩm dở dang tồn kho, hàng hoá bán chịu.
Vốn chuẩn bị đầu tư là những chi phí cho nghiên cứu cơ hội đầu tư, nghiên cứu tiền khả thi, nghiên cứu khả thi, thẩm định các dự án đầu tư.
Vốn dự phòng là khoản chi phí dự phòng các trường hợp rủi ro trong suốt quá trình thực hiện dự án.
b. Căn cứ vào nguồn vốn hình thành
Vốn đầu tư được chia ra vốn sở hữu của doanh nghiệp và vốn đầu tư do doanh nghiệp huy động.
Vốn sở hữu của doanh nghiệp bao gồm: vốn tự có (từ quĩ đầu tư phát triển của doanh nghiệp), vốn khấu hao tài sản cố định, vốn có nguồn gốc từ Ngân sách Nhà nước (đối với doanh nghiệp Nhà nước).
Vốn đầu tư cho doanh nghiệp huy động gồm vốn tín dụng ĐTPT của Nhà nước, vốn tín dụng thương mại, phát hành cổ phiếu trái phiếu, hùn vốn liên doanh dài hạn, huy động vốn của cán bộ công nhân viên đóng góp, các tổ chức trong và ngoài nước.
III. Lý luận về huy động vốn cho ĐTPT trong doanh nghiệp
3.1. Xác định nhu cầu vốn đầu tư
ý nghĩa của việc dự đoán nhu cầu vốn trong doanh nghiệp
Thực tiễn quản lý vốn của doanh nghiệp luôn nảy sinh nhu cầu “ước định”để định hướng những bước đi chiến lược, xây dựng kế hoạch sản xuất làm căn cứ cho việc huy động vốn đầu tư sản xuất kinh doanh trong chu kỳ sản xuất kinh doanh tiếp theo. Việc dự đoán chính xác nhu cầu vốn có ảnh hưởng lớn đến kết quả hoạt động đầu tư của doanh nghiệp. Nếu đầu tư vốn dư thừa sẽ làm tăng chi phí một cách không cần thiết. Nếu mức đầu tư dưới mức nhu cầu doanh nghiệp sẽ gặp khó khăn hoặc là tài sản không đủ chất lượng để cạnh tranh, hoặc thiếu hụt khả năng sản xuất. Vì thế, việc dự đoán chính xác nhu cầu vốn đầu tư là việc làm tất yếu của mọi doanh nghiệp trong ngành thép.
Các phương pháp dự đoán nhu cầu vốn
Hiện nay, các doanh nghiệp thường áp dụng nhiều phương phsản phẩm xác định nhu cầu vốn đầu tư khác nhau. Mỗi doanh nghiệp tuỳ theo đặc điểm của mình mà cần xác định nhu cầu vốn cần thiết tương ứng với quy mô sản xuất kinh doanh, quy mô của dự án nhất định; trên cơ sở đó có kế hoạch huy động các nguồn vốn để thoả mãn nhu cầu về vốn.
Xác định nhu cầu vốn lưu động
Phương pháp sản phẩm trực tiếp xác định nhu cầu vốn lưu động
Căn cứ vào các yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến việc dự trữ vật tư, sản xuất và tiêu thụ sản phẩm để xác định nhu cầu từng khoản vốn lưu động trong từng khâu rồi tổng hợp laị toàn bộ nhu cầu vốn lưu động của doanh nghiệp. Ưu điểm của phương pháp này là xác định nhu cầu cụ thể của từng loại vốn trong từng khâu của dự án. Do đó tạo điều kiện cho việc quản lý, sử dụng vốn theo từng loại trong từng khâu sử dụng. Tuy nhiên, do vật tư sử dụng có nhiều loại, quá trình đầu tư thường qua nhiều khâu vì thế việc tính toán nhu cầu vốn theo phương pháp sản phẩm này tương đối phức tạp, mất nhiều thời gian.
Phương pháp gián tiếp
Dựa vào kết quả thống kê kinh nghiệm về vốn lưu động của các dự án trước và khả năng tốc độ luân chuyển vốn lưu động của dự án xác định để xác định nhu cầu vốn lưu động của dự án đang xem xét, nghiên cứu.
Ưu điểm của phương pháp này là tương đối đơn giản, giúp doanh nghiệp ước điịnh nhanh chóng nhu cầu vốn lưu động của dự án để xác định nguồn tài trợ phù hợp.
Phương pháp hồi quy
Phương pháp này dựa trên lý thuyết tương quan trong toán học, thường được ứng dụng để dự đoán nhu cầu dài hạn.
Có ba dạng thường đuợc sử dụng:
Phương pháp hồi qui biến đường thẳng
Phương pháp hồi quy biến đường cong
Phương pháp hồi quy đa biến
Hai phương pháp sau cùng phức tạp nên chủ yếu chỉ sử dụng phương pháp hồi quy đơn biến đường thẳng. Điều kiện áp dụng phương pháp này là:
Phải thu thập được số liệu quá khứ càng nhiều càng tốt, nếu ít quá thì mức sai lệch càng lớn.
Các số liệu phải được xử lý sát với thực tế trên cơ sở loại bỏ những nhân tố bất thường làm sai lệch mối quan hệ giữa các đại lượng tương quan.
Phương pháp này sẽ chính xác với những doanh nghiệp có tình hình kinh doanh ổn định.
Thời gian dự đoán nhu cầu không quá xa (3-5 năm) nếu càng xa thì mức độ chính xác càng kém đi.
Phương pháp tỷ lệ phần trăm trên doanh thu
Đây là một phương pháp dự đoán ngắn hạn đơn giản nhưng đòi hỏi phải hiểu rõ quy trình đầu tư, kinh doanh của doanh nghiệp, đồng thời phải hiểu rõ tính qui luật của mối quan hệ giữa doanh thu với tài sản, vốn, phân phối lợi nhuận của doanh nghiệp. Phương pháp này đươc xây dựng trên nguyên lý cho rằng muốn tăng doanh thu thì phải tăng nguồn vón kinh doanh.
Ưu điểm của phương pháp này là đơn giản dễ tính toán, chi phí tính toán thấp, kết quả cũng khá chính xác khi dự đoán ngắn hạn và doanh nghiệp đang trong thời kỳ sản xuất kinh doanh ổn định. Nhưng phương pháp này không dùng được cho dự đoán dài hạn hoặc cho doanh nghiệp làm ăn bất ổn định hoặc mới có thay đổi lớn như mở rộng hay thu hẹp quy mô doanh nghiệp, doanh nghiệp mới đầu tư thay đổi kỹ thuật, quy trình sản xuất, thay đổi cơ cấu tổ chức.
Phương pháp sử dụng các nhóm chỉ tiêu tài chính
Người ta thường sử dụng các chỉ tiêu sau: Hiệu suất sử dụng vốn, hệ số nợ, hệ số nợ dài hạn, hệ số thanh toán tạm thời, hệ số thanh toán nhanh, kỳ thu tiền trung bình, vòng quay hàng tồn kho…
Dựa vào các thông số đó người ta có thể tính toán ra các chỉ tiêu cho bảng cân đối kế toán mẫu như: tổng nhu cầu vốn, nợ phải trả, vốn chủ sở hữu, nợ dài hạn, nợ ngắn hạn, tài sản lưu động, vốn bằng tiền, các khoản phải thu, tổng tài sản lưu động khác,…
3.1.3. Xác định nhu cầu vốn cố định
Thông thường thì các doanh nghiệp dựa vào kế hoạch trang bị, dựa vào nhu cầu tài sản cố định để xác định nhu cầu vốn cố định. Trong đó căn cứ để lập kế hoạch trang bị và nhu cầu tài sản cố định của dự án bao gồm:
Nhu cầu của thị trường về sản phẩm của dự án.
Nhu cầu đổi mới trang thiết bị hiện có của doanh nghiệp.
Dự báo tương lai sản lượng tiêu thụ và sản xuất sản phẩm thép của đất nước, khu vực trong thời gian tới.
Nhu cầu về vốn cố định được tính theo số lượng và giá mua của từng loại nhu cầu tài sản cố định. Giá mua các loại thiết bị bao gồm chi phí sản xuất, chi phí mua bằng sáng chế, bí quyết kỹ thuật, tên thương mại, chi phí huấn luyện chuyên môn, chi phí lắp ráp, vận chuyển.. Giá này có thể sử dụng bảng hiện giá hoặc tham khảo các thông tin qua các cơ quan đại diện, các chuyên gia kỹ thuật.
Việc mua sắm tài sản cố định phải dựa trên cơ sở tính toán cân nhắc hiệu quả kinh tế giữa việc mua sắm hay thuê mướn sử dụng. Nếu trang thiết bị tài sản quá nhiều mà không sử dụng, phát huy hết công suất thì doanh nghiệp._. sẽ bị thiệt hại do ứ đọng vốn. Nếu trang bị tài sản không đúng mức thì sẽ không đảm bảo tiến độ công việc.
3.2. Các nguồn vốn tài trợ:
3.2.1. Nguồn vốn bên trong doanh nghiệp
Là nguồn vốn có thể huy động từ hoạt động của bản thân doanh nghiệp gồm tiền khấu hao tài sản cố định, lợi nhuận để lại và các khoản dự trữ dự phòng, các khoản phải thu từ nhượng bán, thanh lý tài sản cố định.
Nguồn vốn bên trong của doanh nghiệp được hình thành từ các nguồn chủ yếu sau:
+ Vốn ngân sách Nhà nước cấp: là số vốn Nhà nước giao cho doanh nghiệp quản lý, sử dụng phục vụ nhiệm vụ sản xuất. Doanh nghiệp phải có nhiệm vụ bảo toàn số vốn này.
+ Quỹ khấu hao cơ bản: là một nguồn tự tài trợ rất quan trọng của doanh nghiệp, một mặt quỹ này phản ánh dung lượng các khoản trích khấu hao cơ bản của tài sản cố định mặt khác còn cho thấy kỳ vọng để đổi mới tài sản cố định.
Khi doanh nghiệp muốn nâng cao sức cạnh tranh trên thương trường, thì một yếu tố cực kỳ quan trọng có thể giúp doanh nghiệp thắng được các đối thủ cạnh tranh là yếu tố công nghệ. Do vậy, nếu mức khấu hao thấp các doanh nghiệp khó có khả năng đầu tư để đổi mới tài sản cố định bởi vì tài sản cũ chưa khấu hao hết, nguồn tích luỹ từ khấu hao thấp không đủ để mua máy móc thiết bị mới. Vì vậy, rất cần thiết phải áp dụng phương pháp tính khấu hao phù hợp nhằm tạo ra nguồn đầu tư mới để thay đổi tài sản cố định phù hợp đòi hỏi của quá trình đầu tư.
+ Quỹ đầu tư phát triển: quỹ này được hình thành từ nguồn lợi nhuận hàng năm được trích lập theo quy định của Bộ Tài chính đối với doanh nghiệp. Đối với các công ty cổ phần hay công ty trách nhiệm hữu hạn, nguồn vốn này do Hội đồng quản trị doanh nghiệp quyết định.
+ Nguồn vốn do điều chỉnh cơ cấu tài sản
Trong quá trình hoạt động của doanh nghiệp có thể có những tài sản đầu tư sai mục đích hoặc không phát huy được tác dụng do sai lầm trong cơ cấu đầu tư giữa tài sản cố định và tài sản lưu động dẫn đến những chênh lệch bất hợp lý. Theo NĐ số 27/1997/NĐ-CP ngày 9/4/1999 của Chính phủ cho phép các doanh nghiệp được bán, thanh lý tài sản trước thời hạn hoặc trường hợp doanh nghiệp có nhu cầu cần thiết về vốn lưu động thì có thể áp dụng phương pháp bán và tái thuê tài sản cố định đang sử dụng để điều chỉnh cơ cấu đầu tư và có nguồn tài chính cần thiết. Đồng thời cũng có thể sử dụng tạm thời các khoản nợ tích luỹ của nội bộ doanh nghiệp như nợ lương cán bộ công nhân viên, lợi tức cổ phần của các cổ đông. Nguồn vốn này giúp cho doanh nghiệp chủ động hơn để đầu tư cho sản xuất kinh doanh.
3.2.2. Huy động vốn từ bên ngoài
Các nguồn vốn tài trợ từ bên ngoài được chia làm 2 loại: Tài trợ dài hạn và tài trợ ngắn hạn.
Hình thức huy động vốn ngắn hạn:
Tín dụng thương mại: Một doanh nghiệp có thể dựa vào nguồn tín dụng mở rộng do mua hàng hoá của nhà cung cấp dựa trên “tài khoản mở” như một hình thức chiếm dụng vốn ngắn hạn. Hình thức này khác với các hình thức tín dụng khác vì nó không thông qua các định chế tài chính tài trợ.
Vay ngắn hạn các doanh nghiệp khác:
Đây là hình thức vay mượn giữa các doanh nghiệp để điều hoà trực tiếp tiền vốn thừa thiếu. Trong thực tế tại một thời điểm có một số doanh nghiệp đang ở trong tình trạng thiếu vốn nhưng có một số doanh nghiệp thiếu vốn sẽ đi vay các doanh nghiệp kia. Hình thức này có những ưu điểm sau: Phương thức này rất linh hoạt, có thể vay trong một vài ngày cũng có thể vay trong cả tuần hay tháng, có lợi cho việc giải quyết nhu cầu cấp bách tạm thời; không cần vật thế chấp, không chịu sự ràng buộc của lưu thông cấp bách tạm thời; không cần vật thế chấp, không chịu sự ràng buộc của lưu thông hàng hoá, có thể thoả mãn được nhiều yêu cầu của người vay vốn; có thể giảm bớt những qui định tài chính khắt khe. Vì vậy, nó trở thành một phương thức điều hoà vốn ngắn hạn có hiệu quả. Tuy nhiên, nhược điểm của phương pháp này là dễ dẫn đến tình trạng công nợ dây dưa,khó đòi.
Vay ngắn hạn ngân hàng và các tổ chức tài chính
Đây là một hình thức huy động cho phép doanh nghiệp có được nguồn vốn bổ sung tạm thời để đáp ứng yêu cầu sản xuất kinh doanh. Trong cơ chế thị trường, các doanh nghiệp có thể vay ngắn hạn ngân hàng và các tổ chức tài chính dưới nhiều hình thức khác nhau. Có thể phân biệt thành 2 loại:
c.1) Các hình thức vay ngắn hạn không có đảm bảo
+ Hạn mức tín dụng: là một thoả thuận giữa doanh nghiệp và ngân hàng mà theo đó ngân hàng đồng ý tạo sẵn một khoản tín dụng nào đó cho doanh nghiệp. Loại tín dụng này thường được thiết lập trên cơ sở từng năm. Tại thời điểm kết thúc một năm, ngân hàng sẽ xem xét lại tình hình tài chính của doanh nghiệp để dựa trên cơ sở đó có thể gia hạn hay điều chỉnh thêm tổng mức tín dụng cho doanh nghiệp trong năm kế tiếp. Tiền lãi của hình thức vay này tuỳ thuộc vào tổng tín dụng mà doanh nghiệp đã sử dụng, các doanh nghiệp được phép tính khoản lãi này vào chi phí hàng ngày. Nhìn chung, đây là hình thức tài trợ có chi phí thấp nhất đối với các doanh nghiệp. Song, điều bất lợi của hình thức này là nếu công ty vay tiền theo thoả thuận này thì phải duy trì đảm bảo khả năng tài chính, đề phòng có thể phải trả lại những khoản vay này khi ngân hàng yêu cầu, tức ngân hàng có thể từ chối thực hiện hạn mức tín dụng đã thoả thuận.
+ Tín dụng tuần hoàn: Là một công cụ do ngân hàng thương mại tạo ra để phục vụ các doanh nghiệp. Nội dung tương tự như hạn mức tín dụng, ngoại trừ những cam kết chính thức mang tính pháp lý do Ngân hàng đưa ra để tài trợ cho doanh nghiệp theo tổng mức tín dụng tối đa đã thoả thuận.
Theo hình thức này doanh nghiệp có nghĩa vụ trả cho ngân hàng một khoản chi phí sử dụng nguồn vốn quỹ trên toàn bộ hạn mức tín dụng đã thoả thuận. Đổi lại ngân hàng dành cho doanh nghiệp đặc quyền sử dụng nguồn tín dụng đã được tạo ra tuỳ theo nhu cầu của họ.
+ Cho vay theo hợp đồng: Khi doanh nghiệp nhận được đơn đặt hàng của một khách hàng, doanh nghiệp có thể tiếp xúc với một ngân hàng nào đó yêu cầu cho vay một khoản tiền tài trợ cho hợp đồng mua nguyên vật liệu và thanh toán các khoản chi phí khác nhằm hoàn thành hợp đồng. Thời gian cho vay theo hợp đồng thường là 3 tháng hoặc 6 tháng, hoặc 9 tháng tuỳ theo từng ngân hàng và uy tín của doanh nghiệp. Tỷ lệ lãi suất của các khoản vay không có bảo đảm thường thay đổi phụ thuộc vào từng doanh nghiệp, ngân hàng; tuỳ thuộc vào mức độ rủi ro và vị thế tín dụng của công ty đi vay. Một công ty có uy tín tín dụng cao sẽ phải trả lãi suất vay với tỷ lệ thấp hơn công ty không có danh tiếng.
c.2. Các hình thức vay có bảo đảm
+ Vay thế chấp bằng các khoản phải thu
Một doanh nghiệp xây dựng giao thông muốn nhận được một khoản vay ngắn hạn có thể tiếp xúc với ngân hàng hay công ty tài chính và đề nghị sử dụng các hoá đơn thu tiền làm vật bảo đảm cho khoản vay. Nếu ngân hàng đồng ý họ sẽ đánh giá chất lượng các loại hoá đơn thu tiền làm vật thế chấp và sau đó xác định khoản cho vay tương ứng với giá trị các khoản phải thu. Giá trị các khoản cho vay phụ thuộc vào mức đọ rủi ro của các hoá đơn có thể dao động từ 20%-90% giá trị danh nghĩa của các khoản phải thu.
+ Mua bán công nợ:
Theo hình thức này, doanh nghiệp có thể mang những khoản phải thu đem bán cho một ngân hàng hay các tổ chức tài chính nào đó. Sau khi việc mua bán hoàn tất, bên mua nợ sẽ có trách nhiệm thu hồi các khoản nợ theo chứng từ và chịu mọi rủi ro khi gặp những khoản nợ khó đòi.
Hình thức này có ưu điểm là doanh nghiệp có được nguồn tài chính như mong muốn và ít chịu rủi ro không đòi được nợ. Tuy nhiên, chi phí theo hình thức huy động vốn này khá cao bởi vì nó bao gồm nhiều loại chi phí khác nhau như: chi phí kiểm tra tư cách tín dụng của khách hàng hay những rủi ro không đòi được nợ.
+ Vay có bảo lãnh:
Theo hình thức này doanh nghiệp có thể vay những khoản tiền ngắn hạn nếu như được các cổ đông chính hay một bên thứ ba có tư cách tín dụng tốt bảo đảm với ngân hàng, đồng ý làm người bảo đảm cho các khoản nợ. Những người bảo lãnh sẽ viết một bản cam kết gửi ngân hàng khẳng định trách nhiệm trả khoản nợ cho người vay trong trường hợp người vay không có khả năng chi trả.
+ Vay có thế chấp bằng tài sản:
Theo hình thức này doanh nghiệp sử dụng các loại hàng hoá, tài sản của mình làm vật thế chấp cho những khoản vay ngắn hạn. Giá trị của nó tuỳ thuộc vào mức độ rủi ro, khả năng chuyển đổi nhanh và tính ổn định về mặt giá cả của các loại hàng hoá hoặc tài sản thế chấp. Nếu những tài sản, hàng hoá này không có rủi ro, có thể bán nhanh trên thị trường và có giá ổn định thì khoản tiền vay mượn sẽ chiếm một tỷ lệ khá cao với giá trị ghi trên chứng từ.
Nhận tiền đặt trước của khách hàng
Khi nhận được đơn đặt hàng hoặc hợp đồng của khách hàng (bên A) doanh nghiệp sẽ thoả thuận với bên A ứng trước một số vốn nhất định để doanh nghiệp có tiền mua nguyên vật liệu và thanh toán các khoản chi phí khác nhau nhằm thực hiện hợp đồng. Đây là hình thức tài trợ vốn ngắn hạn rất có lợi vì doanh nghiệp không phải trả lãi cho việc sử dụng vốn.
Các hình thức huy động vốn ngắn hạn khác
Doanh nghiệp có thể sử dụng các nguồn vốn ngắn hạn tạm thời như: Các khoản nợ tích luỹ gồm nợ luân chuyển, các khoản nợ tiền lương của công nhân viên, tiền thuế chưa đến hạn phải nộp,… Đây là giải pháp tình thế mà các doanh nghiệp đã và đang áp dụng, là hình thức huy động vốn tạo điều kiện cho doanh nghiệp thu hút được vốn nhàn rỗi trong công ty thực hiện nhiệm vụ sản xuất kinh doanh. Mặt khác, cán bộ công nhân viên cũng sẽ tự giác hơn, có trách nhiệm hơn bởi vì họ cũng được hưởng một phần lợi tức nhất định từ số vốn góp vào. Tuy nhiên, hình thức này chỉ là tình thế nên không được lạm dụng nó quá mức.
3.3 Hình thức huy động vốn dài hạn
Là khoản vốn có thời gian đáo hạn trên một năm kể từ ngày nhận được vốn. Sau đây là một số hình thức huy động vốn dài hạn:
Vay có kỳ hạn: Là hình thức doanh nghiệp vay vốn của ngân hàng, các tổ chức tín dụng một khoản vay có thời gian đáo hạn trên một năm. Đó là khoản vay trung hạn, dài hạn và thường được trả cả vốn lẫn lãi theo định kỳ trong suốt thời gian cho vay. Để được vay doanh nghiệp phải thế chấp một số tài sản của mình như quyền sử dụng tài sản, máy móc,.. Theo hình thức này ngân hàng thường chỉ cho vay từ (70-90%) nhu cầu, phần còn lại doanh nghiệp phải tự lo bằng nguồn vốn tự có của doanh nghiệp.
Ưu điểm của hình thức này là nó bảo đảm một thời hạn khá lâu và sẽ có vốn cho người vay lýc cần đến. Tuy nhiên lãi suất vay cao và có thể thay đổi theo giá trị của tiền vay, vị thế tài chính của người vay.
Thuê mua trả góp: Là hình thức mà doanh nghiệp mua máy móc thiết bị của chủ tài sản và trả dần tiền mua. Theo hình thức này doanh nghiệp tiến hành thoả thuận và ký hợp đồng với chủ tài sản. Thoả thuận này cho phép doanh nghiệp trả ngay một phần giá trị tài sản và phần còn lại được thanh toán trong nhiều chu kỳ vào những thời điểm ấn định trước và mỗi lần trả một phần giá trị của tài sản cùng tiền lãi nếu doanh nghiệp đồng ý tuân theo những điều khoản và điều kiện của huy động vốn thuê mua trả góp. Trong thời gian thực hiện hợp đồng, quyền sở hữu tài sản thuộc về người bán, nó sẽ đuợc chuyển giao cho người mua khi kết thúc hợp đồng.
Với hình thức này doanh nghiệp có thể nhận được tài sản ngay mà không cần thương lượng với một ngân hàng hay một tổ chức tài chính để vay tiền và cũng không phải cầm cố bất kỳ một loại tài sản nào. Doanh nghiệp có thể được phép áp dụng phương pháp khấu hao nhanh đối với những tài sản đó.
Tuy nhiên, hạn chế của hình thức huy động vốn này là: chi phí mua tài sản cao vầ doanh nghiệp không được hưởng phần chiết khấu mà các nhà cung cấp thường áp dụng đối với nhũng tài sản được mua trả tiền ngay; nếu không thực hiện đúng tiến độ thanh toán, doanh nghiệp có nguy cơ bị mất quyền sở hữu tài sản vào thời điểm kết thúc hợp đồng.
c)Vay dự phần;
Là hình thức người cho vay không chỉ là chủ nợ thuần tuý mà còn là người góp vốn liên doanh. Vì vậy ngoài tỷ lệ lãi suất cố định, chủ nợ còn được dự phần trên lợi nhuận cho doanh nghiệp vì rủi ro chủ nợ không gánh chịu nhưng lại là hình thức đầu tư rất phù hợp với doanh nghiệp nhỏ có quy mô vốn hạn chế lại mong muốn chóng đầu tư phát triển mà không đủ điều kiện tham gia thị trường chứng khoán.
Ưu điểm của hình thức này: Doanh nghiệp không chỉ huy động được vốn từ ngân hàng chuyên doanh mà còn có thể huy động từ các tổ chức tài chính khác vì thế tạo khoản vay lớn hơn; doanh nghiệp chủ động hơn với vốn vay ở chỗ doanh nghiệp có thể thanh toán nợ trước thời hạn khi kinh doanh phát đạt, kéo giãn nợ, giảm nguy cơ phá sản.
Nhược điểm:
Doanh nghiệp phải chấp nhận phân chia quyền kiểm soát cho chủ nợ.
Doanh nghiệp vừa phải trả lãi suất vay, vừa phải chia lợi nhuận cho chủ nợ, do đó phải dự đoán được hiệu quả sản xuất kinh doanh cao.
d)Tín dụng thuê mua:
Thay vì mua tài sản theo hình thức mua trả góp, doanh nghiệp có thể sử dụng hình thức thuê mua tài chính hay thuê mua vận hành để thuê tài sản của công ty thuê mua hay công ty tài chính. Khi công ty tiến hành thuê một tài sản, họ sẽ được quyền sử dụng tài sản đó nhưng khi thoả thuận và thanh toán tiền thuê định kỳ cho người chủ tài sản. Hợp đồng được thiết lập giữa công ty và chủ tài sản có thể quy định rằng công ty không được quyền trả lại tài sản và cũng không được từ chối thanh toán tiền thuê trong thời hạn thuê cơ bản hoặc cũng có thể cho phép công ty được quyền trả lại tài sản sau khi đã được thực hiện nghĩa vụ thông báo với chủ sở hữu. Ưu điểm của tín dụng thuê mua là: Tín dụng thuê mua là một phương thức tài trợ hữu hiệu, không cần có bảo lãnh như khi vay mua và nó không làm tăng hệ số nợ của doanh nghiệp, là hình thức tăng vốn mà doanh nghiệp có thể sử dụng rộng rãi, giúp cho doanh nghiệp tránh được sự lạc hậu về kỹ thuật công nghệ. Tuy nhiên, nó có nhược điểm là chi phí thuê mua thường cao hơn chi phí vay vốn; doanh nghiệp phải chịu mọi rủi ro liên quan đến hợp đồng và tài sản thuê mua.
e)Huy động vốn bằng phát hành kỳ phiếu, trái phiếu: Các doanh nghiệp muốn đầu tư mở rộng sản xuất, đổi mới tài sản cố định, tiếp nhận công nghệ mới thì phải huy động vốn thông qua thị trường chứng khoán, tức là bằng cách phát hành kỳ phiếu phải có uy ítn, tình hình tài chính lành mạnh, xu hướng phát triển tốt. Doanh nghiệp phải chịu trách nhiệm với số vốn có được từ phát hành trái phiếu như là một khoản nợ và chịu trách nhiệm về khoản nợ đó (trả lãi vay với một tỷ lệ nhất định).
g) Huy động vốn bằng phát hành cổ phiếu: Trong cơ chế thị trường có một hình thức cho phép huy động vốn lớn đó là cổ phần hoá doanh nghiệp. Các doanh nghiệp được cổ phần hoá sẽ chuyển thành các công ty cổ phần, các công ty cổ phần này huy động vốn thông qua phát hành cổ phiếu. Nhờ hình thức này mà qui mô tập trung vốn nhanh, cổ phần hoá góp phần thu hút một phần nguồn vốn trong xã hội tham gia sản xuất kinh doanh, góp phần thúc đẩy sự hình thành và phát triển của thị trường vốn, thị trường chứng khoán. Khi cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước, Nhà nước tạo điều kiện cho người lao động có một tỷ lệ đóng góp cổ phần nhất định vào doanh nghiệp và bảo vệ lợi ích của họ bằng pháp luật.
Huy động vốn từ nước ngoài: là hình thức huy động vốn từ hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) và đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI).
Các căn cư lựa chọn hình thức huy động vốn cho các doanh nghiệp
Lựa chọn nguồn và hình thức huy động vốn là việc làm cần thiết của mỗi doanh nghiệp khi có nhu cầu huy động thêm vốn cho phù hợp với doanh nghiệp có thể dựa vào các căn cứ sau:
Mục tiêu đầu tư kinh doanh của doanh nghiệp
Trong nền kinh tế thị trường hiện nay có đặc điểm là sự cạnh tranh bình đẳng và các doanh nghiệp được quyền chủ động trong việc duy trì các nguồn lực, chủ động trong việc hoạch định mục tiêu kinh doanh của mình trên cơ sở các nguồn lực huy động được. Gắn với mỗi mục tiêu đầu tư kinh doanh được hoạch định. Doanh nghiệp sẽ quyết định phương án huy động vốn, sử dụng vốn để đạt những mục tiêu đề ra.
Tình hình tài chính hiện có và khả năng cải thiện tình hình tài chính của doanh nghiệp
Tình hình tài chính của doanh nghiệp thể hiện ở các chỉ tiêu tài chính của doanh nghiệp. Các chủ nợ, các nhà đầu tư thường căn cứ vào đó để xem xét có cung ứng vốn cho các doanh nghiệp hay không. Nếu doanh nghiệp có các tỷ số về khả năng thanh toán thấp thì khó có thể huy động được nguồn vốn ngắn hạn, hoặc tỷ số nợ của doanh nghiệp quá cao thì không hy vọng vay thêm tiền của ngân hàng. Vì vậy, khi chọn nguồn và hình thức huy động vốn của doanh nghiệp cần phải:
Xem xét tình trạng tài chính của doanh nghiệp tại thời điểm cần huy động vốn bằng việc phân tích lại toàn bộ các chỉ tiêu tài chính có liên quan.
Phân tích nghiên cứu kỹ luận chứng kinh tế kỹ thuật đối với khoản vốn cần huy động và tính đến các rủi ro có liên quan.
Phân tích khả năng cải thiện tình hình của doanh nghiệp như tăng cường nỗ lực thu hồi các khoản phải thu nhằm cải thiện các tỷ số về khả năng thanh toán.
Chính sách sử dụng vốn của doanh nghiệp
Trong doanh nghiệp vốn được biểu diễn bằng tài sản. Tài sản của doanh nghiệp được chia làm 2 bộ phận: tài sản cố định và tài sản lưu động.
Tài sản lưu động lại được chia thành: Tài sản lưu động thường xuyên và tài sản lưu động tạm thời. Tài sản lưu động thường xuyên chính là phần tài sản sự trữ thường xuyên cần thiết để đảm bảo cho quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh diễn ra bình thường liên tục. Tài sản lưu động tạm thời là phần tài sản lưu động có thể tránh biến động khách quan như: trượt giá, khan hiếm vật tư theo mùa, các khoản dự trữ bảo hiểm…Các tài sản này được hình thành từ hai nguồn vốn chủ yếu: Nguồn vốn dài hạn và nguồn vốn ngắn hạn.
Trong nền kinh tế tập trung trước đây các doanh nghiệp xây dựng thường xuyên dùng nguồn vốn ngắn hạn tài trợ cho tài sản lưu động và dùng nguồn vốn dài hạn tài trợ cho tài sản cố định. Chính sách này doanh nghiệp xây dựng giao thông phải chịu một mức độ mạo hiểm khá lớn vì tỷ trọng tài sản lưu động trong tổng tài sản thường rất lớn. Trong điều kiện nền kinh tế thị trường các doanh nghiệp xây dựng giao thông đều có những đổi mới trong chính sách sử dụng vốn để không gặp khó khăn trong việc huy động vốn, đảm bảo được khả năng thanh toán, doanh nghiệp không chỉ dùng nguồn tài trợ cho tài sản cố định mà còn dùng để tài trợ cho phần vốn lưu động.
Hiện nay có các chính sách sử dụng vốn để không gặp khó khăn trong việc huy động vốn, đảm bảo được khả năng thanh toán, doanh nghiệp không chỉ dùng nguồn vốn tài trợ cho tài sản cố định mà còn dùng để tài trợ một phần cho vốn lưu động.
Hiện nay có các chính sách sử dụng vốn mà các doanh nghiệp có thể áp dụng là chính sách sử dụng vốn an toàn, chính sách sử dụng vốn vững chắc, chính sách sử dụng vốn mạo hiểm.
Mức độ sẵn sàng cung ứng vốn và khả năng vốn của các nhà tài trợ
Mặc dù tình hình tài chính của doanh nghiệp lành mạnh nhiều khi vẫn khó huy động được vốn vè đó chỉ là một trong những điều kiện. Trước khi chọn các nhà tài trợ vốn nào, doanh nghiệp cần tìm hiểu họ về mức độ cung ứng vốn và khả năng vốn của họ. Đây là một vấn đề quan trọng có tác động đến hoạt động đầu tư kinh doanh của doanh nghiệp. Nếu chọn các ngân hàng, các tổ chức tài chính khả thì khả năng kéo dài các khoản nợ của doanh nghiệp sẽ dễ dàng hơn vì các tổ chức này có tiềm lực tài chính hơn. Hơn nữa, cần xem xét động cơ tham gia vào nguồn tài chính doanh nghiệp của họ. Các nguồn vốn dự kiến huy động phải được đảm bảo chắc chắn có cơ sở pháp lý và cơ sở thực tế. Chẳng hạn, nếu nguồn tài trợ là Ngân sách cấp hoặc Ngân hàng cho vay thì phải có sự cam kết của các cơ quan này bằng vốn góp cổ phần hoặc liên doanh phải có sự cam kết về tiến độ và số lượng vốn góp. Nếu là vốn tự có thì phải có bản giải trình về tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của cơ sở trong ba năm trước đây và hiện tại chứng tỏ rằng cơ sở đã, đang và sẽ tiếp tục hoạt động có hiệu quả, có tích luỹ và do đó đảm bảo có vốn để thực hiện được dự án.
3.3.5.Kế hoạch huy động tài chính cho chi trả và khả năng giải quyết các hậu quả xảy ra khi huy động vốn
Nguồn vốn đầu tư huy động hôm nay sẽ phải thành toán chi trả khi đáo hạn (đối với những khoản vay) do đó doanh nghiệp càn phải có kế hoạch huy động thanh toán, chi trả đúng số lượng và thời hạn để duy trì và góp phần nâng cao uy tín, khả năng vay vốn trong những lần sau.
Hơn nữa, khi doanh nghiệp huy động vốn bên cạnh việc có vốn để sử dụng còn có các hậu quả xảy ra như:
Nếu vay ngắn hạn hoặc dài hạn thì sẽ làm tăng tỷ số nợ, gay sức ép phải trả nợ.
Nếu tự tài trợ sẽ gây sức ép thu nhập.
Phát hành trái phiếu: Chịu chi phí phát hành, thời hạn trả nghiêm ngặt.
Phát hành cổ phiếu: Sẽ phân chia quyền kiểm soát.
Tín phiếu thương mại không được giảm giá.
Do đó, doanh nghiệp cần lường trước các hậu quả xảy ra đối với từng hình thức huy động và khả năng giải quyết các hậu quả đó của doanh nghiệp. Trên cơ sở đó lựa chọn hình thức huy động vốn cho phù hợp, bởi lẽ trong những hoàn cảnh kinh tế và điều kiện tài chính khác nhau thế mạnh của doanh nghiệp trong việc khắc phục các hậu qủa cũng rất khác nhau.
Cơ cấu tài chính của doanh nghiệp
Cơ cấu tài chính của doanh nghiệp biểu hiện cách thức kết cấu vốn của doanh nghiệp được thể hiện bằng tương quan giữa hai nhóm vốn chủ sở hữu là: Vốn thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp và vốn vay là vốn doanh nghiệp được sử dụng nhưng không thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp. Hai nhóm vốn chủ sở hữu và vốn vay có những đặc tính khác biệt chủ yếu là:
+ Khác biệt về quyền sở hữu vốn: Vốn chủ sở hữu thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp, còn vốn vay thì không,
+ Khác biệt về phương thức xác định thu nhập của người sở hữu vốn. Đối với vốn vay, chủ sở hữu được quyền hưởng một tỷ lệ thu nhập cố định tính theo lượng vốn cho doanh nghiệp sử dụng trong khoảng thời gian thoả thuận mà không phụ thuộc vào kết quả kinh doanh của doanh nghiệp. Còn nếu là vốn chủ sở hữu thì hưởng thu nhập dao động theo kết quả thu nhập của doanh nghiệp mình.
+ Khác biệt về thứ tự chi trả thu nhập về lãi và gốc. Trong bất kỳ tình huống nào đặc biệt có khó khăn về tài chính, ưu tiên hàng đầu về chi trả được dành cho vốn vay, tiếp theo là vốn cổ phần ưu đãi và cuối cùng mới đến vốn cổ phần thường.
Khi huy động vốn doanh nghiệp cần phải xác định cho mình một cơ cấu tài chính phù hợp để từ đó có quyết định huy động vốn vay hay vốn chủ sở hữu. Thông thường các doanh nghiệp muốn tối đa hoá lợi ích của vốn chủ sở hữu bằng cách tăng tỷ lệ vốn vay trong tổng số vốn, doanh nghiệp có thể dự tính một mức thu nhập cao hơn cho vốn chủ sở hữu. Tuy nhiên, doanh nghiệp sẽ phải đương đầu với một mức độ rủi ro lớn hơn,rủi ro bao gồm rủi ro tài chính xuất phát từ sự lựa chọn tài chính của doanh nghiệp và rủi ro xuất phát từ sự lựa chọn hình thức đầu tư kinh doanh của doanh nghiệp.
Chi phí huy động vốn và lãi suất
Chi phí huy động vốn là toàn bộ chi phí phải bỏ ra để phục vụ cho viẹc huy động vốn như chi phí hợp đồng, chi phí phát sinh. Xác định chi phí sử dụng vốn có vai trò quan trọng đối với công tác quản lý tài chính của doanh nghiệp. Chi phí sử dụng vốn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau như lãi suất của các khoản nợ, chính sách tiền lời phải chia…
Đối với các nguồn vốn huy động nhỏ vay nợ ngân hàng, vay các tổ chức tài chính, phát hành trái phiếu, chi phí vốn biểu hiện ở mức lãi suất mà doanh nghiệp phải gánh chịu.
Cơ chế chính sách của Nhà nước
Thông qua các chính sách về kinh tế, văn hoá, xã hội… Nhà nước tạo ra môi trường, hành lang pháp lý lành mạnh cho các doanh nghiệp hoạt động đồng thời cũng giới hạn khuôn khổ cho từng loại hình doanh nghiệp để các doanh nghiệp không vi phạm pháp luật, không gây ảnh hưởng xấu tới môi trường. Chính sách ưu tiên khuyến khích hay hạn chế phát triển đối với một số ngành nghề nào đó cũng ảnh hưởng tới chính sách huy động vốn của doanh nghiệp. Như vậy, yếu tố vĩ mô này ảnh hưởng rất lớn tới chính sách huy động vốn của doanh nghiệp.
Như vậy, trong nền kinh tế thị trường hiện nay, cơ hội huy động vốn của cá doanh nghiệp nói chung từ các nguồn khác nhau là rất lớn. Tuy nhiên, để đảm bảo cho công tác huy động vốn của cá doanh nghiệp được tốt thì các doanh nghiệp cần quán triệt những quan điểm sau:
Các doanh nghiệp cần ưu tiên khai thác tối đa tiềm năng vốn từ nội bộ doanh nghiệp.
Phải đa dạng các hình thức huy động vốn, phải xuất phát từ đặc điểm sản xuất kinh doanh và thực trạng vốn của doanh nghiệp mình để lựa chọn hình thức huy động vốn cho thích hợp.
Các doanh nghiệp chỉ huy đông vốn theo những hình thức pháp luật cho phép.
Việc huy động vốn phải gắn chặt với việc quản lý và sử dụng vốn có hiệu quả để đảm bảo việc hoàn trả vốn và có lãi đồng thời có tích luỹ để tái sản xuất và mở rộng quy mô doanh nghiệp.
Trong nền kinh tế thị trường, doanh nghiệp có thể lựa chọn nhiều hình thức huy động vốn khác nhau nhưng doanh nghiệp phải biết lựa chọn hình thức huy động nào phù hợp với mình, chỉ ra ưu điểm, khuyết điểm và khả năng vận dụng của nó. Từ đó, doanh nghiệp tìm ra cơ cấu mỗi loại nguồn vốn phù hợp với chi phí huy động trung bình thấp nhất và đem lại hiệu quả cao nhất trong đầu tư kinh doanh.
3.4. Cân đối cung cầu vốn:
Xác định đầy đủ nhu cầu vốn mà không xác định phương thức huy động, cũng như các nguồn tài trợ vốn và khả năng cung ứng vốn từ tất cả các nguồn đó thì vẫn chưa đủ. Doanh nghiệp cần so sánh nhu cầu với khả năng đảm bảo vốn cho dự án từ các nguồn về số lượng và tiến độ.
Nếu nhu cầu về vốn tương đối nhỏ so với cung ứng vốn từ tất cả các nguồn mà doanh nghiệp có khả năng huy động, thì dự án được chấp nhận. Khi đó doanh nghiệp cần lựa chọn đối tác, nguồn cung vốn ưu. Đó là những nguồn tài trợ vốn với lãi suất thấp hơn, điều kiện thanh toán phù hợp với hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
Nếu khả năng nhỏ hơn nhu cầu thì việc đầu tiên cần làm là doanh nghiệp xác định lại cầu thông qua xem xét việc tính toán nhu cầu vốn đã chính xác chưa, có khoản nào có thể tiết kiệm hơn đượckhông, ví dụ có thẻ mua xe sang trọng đăt tiền bằng xe với giá rẻ hơn vẫn đáp ứng được yêu cầu về vận chuyển mà chi phí thấp hơn so với dự kiến ban đầu. Tại một thời điểm, doanh nghiệp có rất nhiều công việc khác nhau có nhu cầu sử dụng vốn, với qui mô nguồn vốn có hạn đòi hỏi doanh nghiệp cần xem xét sắp xếp thứ tự ưu tiên các công việc, cần xem hạng mục nào cần tiến hành trước, hạng mục nào có thể hoãn lại để giảm căng thẳng về vốn. Các hoạt động này vẫn chưa được cân giảm qui mô đầu tư, trong trường hợp này phải tính lại hiệu quả đầu tư vì với mỗi dự án đều qui mô hợp lý. Khi qui mô quá nhỏ có thể dự án không đạt hiệu quả. Vả lại, xem xét lại các yếu tố của dự án như kỹ thuật, lao động sẽ đảm bảo tính đồng bộ trong việc giảm quy mô dự án. Trường hợp cuối cùng là không thể thu xếp đủ vốn thì doanh nghiệp cần bác bỏ dự án.
Ngoài ra, doanh nghiệp có thể giảm bởt căng thẳng về vốn bằng phương pháp như thuê mua tài chính, thuê mua máy móc thiết bị, tận dụng khoản vốn trả trước của khách hàng.
3.5. Biện pháp nâng cao khả năng huy động vốn
Khả năng huy động vốn chịu ảnh hưởng của rất nhiều yếu tố ràng buộc khác nhau. Các doanh nghiệp cần tìm ra những yếu tố đó để thường xuyên nâng cao hoàn thiện và nâng cao năng lực huy động cuả mình. ở đây chúng ta sẽ kể đến 5 yếu tố cơ bản quyết định khả năng huy động vốn của doanh nghiệp, đó là:
Tư cách của người, tổ chức đi vay(Character):
Tư cách phản ánh trong những lần huy động vốn, vay vốn từ bất kỳ các tổ chức cho vay nào thì người đi vay có nghiêm túc trả nợ không, nếu trả nợ thì có đúng thời hạn và thực hiện các điều kiện đã cam kết vay không. Một tổ chức trung gian tài chính, ngân hàng khi cho doanh nghiệp vay vốn đều phải xem xét đến tư cách pháp nhân của doanh nghiệp đó cũng như tính đại diên theo pháp luật của người được đại diện cho doanh nghiệp. Một doanh nghiệp Nhà nước khi huy động vốn phải chịu sự ràng buộc của các văn bản quản lý Nhà nước về tỷ lệ huy động vốn tối đa có thể.
Khả năng thanh toán (Capacity):
Sự vững vàng về tình hình tài chính nói chung và có khả năng thanh toán nói riêng sẽ là các điều kiện mà chủ nguồn tài chính chú ý khi xem xét bỏ vốn cho dm. Họ đặc biệt chú ý vào số lượng tiền và các tài sản khác có thể chuyển đổi thành tiền nhanh, từ đó so sánh với số nợ ngắn hạn để biết được khả năng thanh toán tức thời của doanh nghiệp. Đối với các doanh nghiệp đi mua hàng hóa cho hoạt động đầu tư các nhà cung cấp vật tư, hàng hoá, dịch vụ… cũng phải quyết định xem có cho phép khách hàng sắp tới được mua chịu hay không, họ cũng cần phải biết khả năng thanh toán của khách hàng. Ngoài khả năng về tài chính, doanh nghiệp đi vay cần có phương án đầu tư hiệu quả, được quản lý tốt, đảm bảo dự án có lãi, từ đó có kế hoạch trả nợ rõ ràng, thể hiện rõ khả năng thực hiện đầy đủ những thoả thuận dự định sẽ ký kết với đối tác tài chính.
Tỷ lệ góp vốn của chủ đầu tư (Capital):
Đồng thời việc xem xét các yếu tố trên các tổ chức cho vay cũng rất quan tâm tới số lượng vốn của chủ sở hưũ vì số vốn chủ sở hữu này là khoản bảo hiểm cho họ trong trường hợp doanh nghiệp gặp rủi ro. Sẽ là thuận lợi khi vay vốn nếu doanh nghiệp có tỷ lệ vốn tự có so với tổng nguồn vốn lớn hơn 50%, thể hiện sự đảm bảo khi có rủi ro xảy ra.
Thế chấp (Collateral):
Một doanh nghiệp không dễ dàng gì nhận được nguồn tài trợ vốn của một ngân hàng hoặc các nguồn khác khi không có đảm bảo, vì các hình thức tài trợ vốn đó đem lại rất nhiều rủi ro cho người cho vay. Tuy nhiên, nếu doanh nghiệp cung cấp đủ sự đảm bảo đối với khoản tiền vay theo yêu cầu, họ sẽ dễ dàng nhận được khoản tín dụng cần thiết từ một nhà tài trợ nào đó. Việc đảm bảo an toàn nhằm đảm bảo thanh toán cả tiền vốn và lãi của khoản cho vay là hình thức “thế chấp”. Tài sản thế chấp để đảm bảo cho các hình thức vay vốn thường bao gốm các khoản phải thu, giấy hẹn nợ, các loại hàng hoá, các loại chứng khoán… Đặc biệt gần đây, để khuyến khích các doanh nghiệp vay vốn đầu tư, nhiều ngân hàng đã chấp nhận một dự án có hiệu quả thay cho những tài sản thế chấp quen thuộc trước đây.
Điều kiện kinh tế, ngành liên quan.(Condition):
Để có khả năng huy động vốn, nhà đầu tư phải có chiến lược đầu tư, dự án đầu tư có hiệu quả, đảm bảo có lãi, đã hoàn thành các thủ tục đầu tư theo qui định của Nhà nước và có tính khả thi thể hiện ở kế hoạch tổ chức thực hiện, môi trường pháp lý của dự án.
Như vậy, để huy động đủ vốn cung ứng cho công cuộ._.uả kinh tế và được trả nợ.
Thứ hai, về cơ chế tài chính khi tham gia thị trường vốn, thị trường chứng khoán. ở nước ta hiện nay, thị trường chứng khoán đã bắt đầu chuyển động nhưng nhìn chung “hàng hóa” tham gia chủ yếu vẫn thuộc phía nhà nước (trái phiếu, tín phiếu kho bạc, trái phiếu chính phủ…) còn quá ít “hàng hóa” từ phía các doanh nghiệp. Vì vậy, để phát huy và sử dụng tối đa những tích cực của thị trường vốn, thị trường chứng khoán đòi hỏi VSC:
Một mặt cần phải đẩy nhanh tốc độ cổ phần hoá một số bộ phận kinh doanh của TCTy để tăng thêm nguồn vốn cho TCTy. Biện pháp này không những huy động được lượng vốn không nhỏ của đội ngũ lao động trong doanh nghiệp mà còn tăng cường gắn bó quyền lợi của lao động với doanh nghiệp.
Mặt khác, VSC cần phải xúc tiến mạnh mẽ việc tìm kiếm thị trường đầu tư để tiến hành bán cổ phiếu, trái phiếu doanh nghiệp, kể cả trái phiếu quốc tế. Dịch vụ cổ phần hóa giao cho Công ty tài chính thuộc TCTy đảm nhận.
Trong hai hình thức nói trên, hình thức thú nhất diễn ra ở giai đoạn phát triển ban đầu của TCTy khi mà hình thức sở hữu của TCTy hiện nay chủ yếu là sở hữu nhà nước. Khi mà thị trường chứng khoán phát triển mạnh thì hình thức thứ hai diễn ra chủ yếu. đó cũng là con đường để chuyển các TCTy từ hình thức đơn sở hữu sang hình thức đa sở hữu
Thứ ba, VSC cần có cơ chế gọi vốn liên doanh trong và ngoài nước hiệu quả: Liên doanh là giải pháp cho phép giải phóng các nguồn vốn ở dạng tiềm năng của mỗi doanh nghiệp; phát huy lợi thế riêng có của từng doanh nghiệp; tổng hợp và nhân lên sức mạnh của công nghệ và kỹ năng, kinh nghiệm quản lý của các bên liên doanh. để có thể thực hiện các dự án liên doanh đúng hướng có hiệu quả, TCTy nhất thiết phải có “hội đồng thẩm định các dự án đầu tư” ( thẩm định các dự án liên doanh chỉ là một trong những chức năng của hội đồng này). Việc liên doanh phải đảm bảo nguyên tắc hiệu quả, bảo toàn và phát triển vốn, tăng thu nhập. Lợi nhụân thu được từ hoạt động liên doanh sau khi làm nghĩa vụ tài chính với ngân sách nhà nước, hoàn trả lãi vay vốn, các chủ thể liên doanh và tổng Công ty bát kể là tổng Công ty hoặc Công ty thành viên cần được toàn quyền chủ động phân phối và sử dụng theo quy định tài chính hiện hành. Tuy nhiên về lâu dài, VSC cần chuyển dần từ liên doanh là chủ yếu sang vay vốn tự đầu tư là chính với sự hỗ trợ của nhà nước, bởi lý do đã được nêu trên trong phần đầu tư liên doanh, phần thực trạng của chuyên đề này.
Tóm lại, trong việc thu hút vốn đầu tư, chúng ta thấy, vốn đầu tư được đáp ứng từ nhiều nguồn khác nhau. Nhưng đối với mỗi loại nguồn vốn đều có nghĩa vụ tài chính và pháp lý khác nhau. Việc đánh giá ưu nhược điểm của từng loại vốn là hết sức quan trọng, các doanh nghiệp của VSC cần phải có những biện pháp hợp lý, hữu hiệu trong việc sử dụng khai thác các loại nguồn vốn sao cho có hiệu quả nhất.
Thông thường vốn do ngân sách nhà nước cấp không đủ nhu cầu cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. vì thế, các doanh nghiệp phải huy động vốn từ nhiều nguồn như: Đi vay ngân hàng, vay cán bọ công nhâ viên, vay các nguồn khác, phát hành trái phiếu đầu tư …Khi đã phải đi vay như vạy thì thường lãi suất đi vay bao giờ cũng cao hơn chi phí sử dụng vốn (thuế vốn) do nhà nước cấp, vì vậy trong các dự án đầu tư, nếu nguồn vốn tự có và vốn pháp định có khả năng phát huy hiệu quả tôt thì rất hạn chế các khoản vay vốn.
Ngoài ra, VSC còn có cơ hội tận dụng, chiếm dụng được các khoản vốn không phải chịu bất cứ một chi phí nào khác như: Các khoản phải trả nhưng chưa đến hạn trả, các khoản phải nộp ngân sách nhưng chưa đến kỳ trả…Đối với những khoản vốn này, doanh nghiệp cần phải lưu tâm sử dụng, khai thác triệt để, tránh được lãi vay làm giảm giá thành, tăng hiệu quả cho doanh nghiệp, góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp
2.2.Về sử dụng vốn:
2.2.1 Hoàn thiện các công tác trong quá trình thực hiện các dự án đầu tư:
Quy trình xây dựng quy hoạch, kế hoạch đầu tư phát triển ngành thép
Môt bản quy hoạch chi tiết sẽ chỉ ra định hướng phát triển ngành, các mục tiêu định lượng, các giải pháp tổng thể. Với một quy hoạch tin cậy và công khai cùng với các chính sách huy động vốn tích cực, các nhà đầu tư thuộc các thành phần kinh tế khác nhau yên tâm bỏ vốn đầu tư, triển khai dự án sản xuất thép ơ quy mô thích hợp đem lại hiệu quả sản xuất kinh doanh. Một phương án phân bổ tối ưu tổng thể vốn đầu tư sẽ là tài liệu tư vấn cho các nhà đầu tư, cho các thành phần kinh tế, các doanh nghiệp tham khảo. Khâu quan trọng nhất mà các nhà quản lý ngành( thuộc VSC) có thể đóng góp một cách tích cực là “xây dựng quy hoạch kế hoạch triển khai dự án chương trình gắn liền với việc phân bổ tối ưu tổng lượng vốn đầu tư có thể huy động trong tòan xã hội”. Đây là khâu mở đầu của quá trình đầu tư phát triển có tác động chi phối tất cả các giai đoạn tiếp theo. Cần hoàn chỉnh quy hoạch phát triển ngành thép dựa trên những thông tin mới về công nghệ, tập trung lượng vốn có thể huy động, sử dụng, các kế hoạch chỉ dừng ở mức định hướng
Trước hết, TCTy phải xây dựng chiến lược đầu tư phát triển trên cơ sở xác định các lơi thế so sánh, thị trường tiềm năng, công nghệ sắn có. đây là điều kiện tiền đè để phát huy hiệu quả của đồng vốn đầu tư, là căn cứ để TCTy cũng như các thànhviên lập kế hoạch đầu tư phát triển hàng năm. Quy trình xây dựng chiến lược quy hoạch kế hoạch của đầu tư phát triển phải được thực hiện hai chiều “dưới lên, trên xuống”. Nhất thiết kế hoạch đầu tư phải được xây dựng từ cơ sở vì cơ sở là nơi xuất hiện các nhu cầu đầu tư chiều dưới lên phải được thực hiện trước, chiều trên xuống chính là chiều tổng hợp kế hoạch đầu tư của toàn TCTy. Nội dung của kế hoạch đầu tư tối thiểu phải có các giá trị hạng mục công trình, bảng cân đối vốn, các chỉ tiêu hiệu quả đầu tư.
Công tác chuẩn bị đầu tư :
-Việc lập hồ sơ dự án: Theo phần lý luận cho thấy mỗi dự án được soạn thảo tốt sẽ là kim chỉ nam là tiền đề cho việc thực hiện các công cuộc đầu tư đt hiệu quả, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư. Tuy vậy, việc lập hồ sơ dự án ở một số đơn vị thành viên còn nhiều thiếu xót, trình bày không thông nhất gây khó khăn cho công tác thẩm định, ảnh hưởng đến tiến độ dự án làm tăng chi phí đầu tư. Để hoàn thiện công tác lập dự án nhằm nâng cao hiệu quả đầu tư, hiệu quả sử dụng vốn, theo tôi TCTy có thể áp dụng hồ sơ dự án ở dạng câu hỏi để nhà đầu tư trả lời như nhiều nước khác đã, đang áp dụng. Bởi theo quy định hành tất cả các dự án đều phải làm luận chứng kinh tế kỹ thuật theo cùng một mấu. Công việc này đối với nhiều dự án chỉ là hình thức, làm mất thời gian va tiền bạc của nhà đầu tư mà lại thiếu thông tin cần thiết cho người làm công tác thẩm định. Nâng cao chât lượng lập dự án bằng các quy định chế độ trách nhiêm với các Công ty tư vấn thiết kế hoặc đơn vị nhận hợp đồng thiết kế đối với các dự án cần thuê lập các báo cáo chuẩn bị đầu tư.
-Về công tác thẩm định quyết định dự án : việc đánh giá tính khả thi của dự án sẽ thiếu tính khách quan nếu chỉ thẩm định, nghiên cứu xử lý thông tincủa chủ đầu tư gửi lên mà không có sự khảo sat thự tế. Mặt khác, trên thực tế tất các hồ sơ dự án đầu tư người lập dự án bao giờ cũng chỉ nêu những ưu điểm và đôi khi cả những kết luận còn mang tính chủ quan. Vì vậy để có thể xem xet hêt các khía cạnh của dự án cũng như tính chính xác của các thông tin trong dự án bao giờ cũng phải có sự xác minh, thu thập thông tin trên thực tế. Quyết định cuối cùng của công tác này cần chọn ra những dự án đầu tư đảm bảo có thị trường chắc chắn và nhu cầu lớn hơn công suất dự kiến; đối với các nhà máy mới xây dựng phải đạt năng suất cao giá thành hạ,. chất lượng sản phẩm theo kịp trình độ quốc tế; kiên quyết dẹp bỏ hoặc chuyển hướng sản xuất tại các cơ sở kém hiệu quả, trì hoãn việc triển khai các dự án mới nếu chưa đủ sức cậnh tranh hoặc có nguy cơ lạc hâu so với các nước trong khu vực; cần lựa chọn dự án sản xuất các sản phẩm có khả năng cạnh tranh cao.
Quá trình thẩm định dự án và dự toán thiết kế phải bám sát các định mức kinh tế kỹ thuật của nhà nước, giá cả thực tế trên địa bàn, giá nhập khẩu... để đánh giá. Tổng Công ty cần có những văn bản hướng dẫn chuyên ngành với việc thẩm định dự án, chú trọng bổ sung những chuyên gia giỏi về lĩnh vực thẩm định chuyên môn như: kỹ thuật, tài chính, đồng thời nghiên cứu các tiêu chuẩn thẩm định nước ngoài để nâng cao chất lượng thẩm định
Về công tác thực hiện đầu tư:
-Hoàn thiện tổ chức thực hiện dự án, thành lập ban quản lý dự án đảm bảo mỗi ban quản lý có trách nhiệm và quyền hạn đầy đủ trong quá trình thực hiện.
-Về công tác đấu thầu:
Với xây dựng: trừ các dự án đầu tư chiều sâu phần lớn các dự án đầu tư mới quy mô khá lớn sẽ được áp dụng hình thức chìa khóa trao tay qua đấu thầu tư vấn và xây dựng để đảm bảo tiến đọ và chất lượng công trình. Quản lý chặt chẽ việc thực hiện cảu các nhà thầu, tránh việc kéo dài tiến đọ và phát sinh chi phí không đảm bảo chất lượng công trình dự án, ảnh hưởng đến kêt quả việc thực hiện vốn và hoạt động của các công trình sau này. Quy định rõ trong hợp đồng giao thầu chỉ tính khối lượng phát sinh khi có sửa đổi bản vẽ thiết kế để các cấp quản lý theo dõi tình hình thực hiện của các công trình được thuận lợi.
Với mua sắm máy móc thiết bị:
-Tổ chức đấu thầu trong phạm vi nhà nước cấp tín dụng.
-Các thiết bị phụ trong nước có thể đáp ứng thì cần được ưu tiên đấu thầu trong nước.
-Đảm bảo thiết bị phải đồng bộ hiện đại, giá cả hợp lý, chuyển giao công nghệ đầy đủ, dễ nắm bắt sử dụng.
Các đơn vị thực hiện nhận thầu từng công việc của dự án cần tuân thủ thống nhất sự giao nhiệm vụ của cấp trên và có mối liên hệ chặt chẽ với các phòng chức năng và ban quản lý dự án. Đối với các công việc mang tính đặc thù của ngành thì có thể áp dụng hình thức chỉ định thầu để giảm bớt các thủ tục, chi phí cho đấu thầu và đảm bảo chất lượng.
Phối kết hợp chặt chẽ với các cơ quan chức năng quản lý cơ sở hạ tầng nơi thực hiện đầu tư để làm thủ tục thực hiện đầu tư được nhanh chóng như cơ sở cung cấp điện, cơ quan quản lý đất đai…
Quản lý chặt chẽ giai đoạn bàn giao và nghiệm thu công trình, chỉ những công trình đạt yêu cầu mới nghiệm thu và tiếp nhận, nếu không đạt thì chủ đầu tư phải yêu cầu các nhà thầu làm lại đến khi đạt yêu cầu như trong dự án và dự toán thiết kế được duyệt.
Công tác giai đoạn vận hành kết quả đầu tư:
Cần quan tâm hơn nữa đến các hoạt động quản lý sau khi thực hiện dự án vì nhiều khi thẩm định dự án thì tương đối chặt chẽ nhưng đến khi dự án hoàn thành thì lại buông lỏng đẫn đến tình trạng tiết kiệm trên danh nghĩa nhưng vẫn llãng phí trên thực tế. Không những chỉ quan tâm đến khâu tổ chức đấu thầu hay thực hiện dự án mà còn phải quản lý cả giai đoạn đưa công trình vào khai thác sử dụng và phát huy hiệu quả. để đạt được hiệu quả trong quá trình vận hành này doanh nghiệp phải tăng cường quản lý từng yếu tố của quá trình kinh doanh, bao gồm quản lý việc sử dụng tài sản cố định và quản lý vốn lưu động.
* Đối với tài sản cố định : TCTy phải thường xuyên quan tâm đến việc bảo toàn vốn cố định bằng cách quản lý chặt chẽ tài sản cố định về mặt hiện vật, không để hư hỏng trước thời hạn khấu hao , phải tính đúng, tính đủ mức khấu hao , điều chỉnh trượt giá kịp thời để bảo toàn vốn. Muốn vậy, VSC phải thường xuyên :
- Sắp xếp lại các tài sản cố định để sử dụng các tài sản này một cách hợp lý và đánh giá lạ các tài sản cố định.dddanhs giá chính xác giá trị của tài sản là căn cứ để tính khấu hao và có biện pháp điều chỉnh thích hợp như thanh lý, nhượng bán tài sản để giải phóng vốn…
Phân lọai tài sản cố định xem xét phân loại các tài sản cố định chính xác để xem tài sản nào có thể dùng được, tài sản nào có thể thanh lý để thu hồi vốn .
Một điều hiển nhiên là vốn cố định sẽ không được bảo toàn, nếu như tài sản cố định bị hư hỏng , phải sa thải trước thời hạn phục vụ nó. Vì thế, chi phí cho sửa chữa nâng cấp nhằm duy trì năng lực hoạt động bình thường của tài sản cố định trong cả thời kỳ hoạt động của nó để đảm bảo bảo toàn vốn cố định.
Đầu tư chiều sâu tài sản cố định phải được xem xét dự án nào nên đầu tư và dự án nào không nên đầu tư tránh tình trạng đầu tư tràn lan phí phạm vốn và không hiệu quả. Còn đối với với đầu tư mở rộng nhằm tăng quy mô sản xuất để tăng doanh số bán cần đảm bảo tốc độ tăng thêm cho lợi nhuận doanh nghiệp
Các chỉ tiêu tiêu hao kinh tế kỹ thuật tính toán chính xác nâng cao chất lượng máy móc giảm các chỉ tiêu tiêu hao.
Đối với vốn lưu động:
Hiệu quả sử dụng vốn lưu động phụ thuộc rất nhiều vào việc sử dụng hợp lí và tăng nhanh tốc độ luân chuyển vốn lưu động. Như vậy các biện pháp quản lý là rất cần thiết và quan trọng.
Tổng công ty phải xác định nhu cầu vốn lưu động cho từng thời kỳ kinh doanh.
Tổ chức tốt quá trình thu mua trong nước nhằm hạ giá thành xuất khẩu giữa tỉ giá đồng nội tệ và đồng ngoại tệ.
Tổng công ty cần phải tiết kiệm chi phí lưu thông, chi phí quản lý để góp phần giảm giá thành, tăng lợi nhuận.
Đầu tư táo bạo và toàn diện, đồng bộ cho công nghệ và thiết bị sản xuất để giảm chi phí và hạ giá thành sản phẩm:
Với các cơ sở sản xuất hiện có cần đầu tư đổi mới, thay thế dần thiết bị cũ bằng những thiết bị có trình độ tương đối hiện đại, phù hợp với công nghệ đang sản xuất, để đảm bảo tính đồng bộ. Cần nhất là thiết bị phù hợp với nguồn nguyên liệu và với trình độ lao động hiện có để sử dụng tốt những lợi thế hiện có, tránh lãng phí.
Với đầu tư mới lựa chọn thiết bị công nghệ tiên tiến đồng bộ đạt trình độ chung trong khu vực và trên thế giới. Để tận dụng triệt để các nguồn năng lượng, ưu tiên lựa chọn công nghệ có nguồn gốc từ các nước Tây Âu, Nhật Bản.
2.2.2. Thực hiện tiết kiệm ở tất cả các doanh nghiệp, tất cả các khâu của dự án:
Việc thành lập đánh giá hiệu quả sử dụng vốn trong doanh nghiệp phải quán triệt chủ trương tiết kiệm trong sản xuất, tiêu dùng của Nhà nước. Tiết kiệm là biện pháp chung nhất để tăng hiệu quả sử dụng vốn. Từ đó tăng lợi nhuận, tăng tích luỹ cho mở rộng sản xuất, tái đầu tư; nâng cao trình độ công nghệ, kỹ thuật sản xuất để nâng cao khả năng cạnh tranh của Tổng công ty trên thị trường. Đương nhiên để thực hiện mục tiêu trên cần đổi mới chế độ kiểm toán để nhanh chóng tạo ra hệ thống các công cụ phản ánh chính xác tình hình và hiệu quả sử dụng vốn góp phần nâng cao hiệu quả vốn đầu tư phát triển của Tổng công ty. Tăng cường hiệu quả các hoạt động thanh tra , giám sát nhằm ngăn chặn phát hiện các tiêu cực trong quá trình đầu tư, tăng cường hệ thống giám sát nội bộ của các đơn vị trực thuộc và của Tổng công ty, phân rõ quyền hạn và trách nhiệm với từng đơn vị. Tăng cường thực hiện các biện pháp chống lãng phí trong thực hiện đầu tư: Cắt giảm mạnh những dự án, hạng mục không cần thiết; kiểm tra chặt chẽ đầu thầu xây lắp, thiết bị, tư vấn; thẩm định các định mức kinh tế xã hội, đặc biệt thẩm định quyết toán đầu tư.
2.3. Các giải pháp chung khác
2.3.1.Giải pháp về nguồn nhân lực.
Lực lượng lao động dư thừa 30-40% hiện nay là cản trở lớn nhất của Tổng công ty so với các đơn vị bên ngoài. Vì vậy Tổng công ty cần giải quyết số lao động dôi dư trong thời gian gần nhất. Một mặt, Tổng công ty cần tích cực đầu tư phát triển sản xuất và tìm kiếm thị trường để tạo thêm nhiều việc làm trực tiếp mặt khác cần mở rộng lĩnh vực hoạt động, tham gia liên kết với các ngành sử dụng nhiều lao động như dệt may, giày dép… để giải quyết lao động. Thực hiện cắt giảm nhân lực sẽ giảm chi phí sản xuất đáng kể.
Một số vấn đề cần thực hiện:
Tăng cường công tác đào tạo và tái đào tạo đội ngũ lao động hiện có, tổ chức nhiều loại hình đào tạo, bồi dưỡng như tổ chức lớp huấn luyện chuyên môn, gửi đi đào tạo nước ngoài.
Có chính sách tuyển mới, bổ sung liên tục thu hút lao động có tay nghề và trình độ để đồng bộ hoá giữa công nghệ và nhân lực đáp ứng nhu cầu đặt ra trong thời đại mới.
Một số giải pháp khác:
Để nâng cao hiệu quả vốn đầu tư, VSC cần thực hiện các biện pháp tìm nguồn cung cấp đầu vào với chi phí thấp, ổn định lâu dài đảm bảo cho cả đời dự án nhằm thu hồi vốn đầu tư và kinh doanh có lãi. Một trong những giải pháp đó là tăng cường đầu tư giải quyết khâu thượng nguồn như sản xuất nguyên liệu: Phôi thép, sắt xốp,thu mua thép phế thay thế cho nguyên liệu nhập khẩu và khai thác các mỏ quặng, khai thác nhiên liệu phục vụ quá trình sản xuất thép như than, chất khí thiên nhiên…
Tích cực đầu tư đa dạng hoá sản phẩm và nâng cao chất lượng mở rộng khả năng cạnh tranh của sản phẩm, từ đó hàng hoá sản xuất ra được tiêu thụ tốt tạo điều kiện cho chu kỳ sản xuất tiếp theo, vốn được quay vòng nhanh và tăng tính hiệu quả. Bên cạnh các nhà máy cán thép xây dựng hiện nay, Tổng công ty cần đầu tư lớn vào các nhà máy sản xuất các loại sản phẩm có khả năng cạnh tranh cao mà doanh nghiệp nước ngoài không đủ sức thực hiện như nhà máy cán nguội, cán nóng đáp ứng đủ nhu cầu thép dẹt trong nước, xây dựng nhà máy thép cacbon chất lượng cao, thép chuyên dùng cho công nghiệp, quốc phòng, cơ khí và thép hình cỡ lớn cho xây dựng cầu cảng…
Tuy vậy, VSC không được xem nhẹ vấn đề nghiên cứu thị trường. Từ công tác này, VSC sẽ đưa ra quy mô công suất đầu tư hợp lý để sử dụng vốn đạt hiệu quả cao nhất. Đồng thời sẽ quyết định địa điểm đầu tư phù hợp để cân đối sản lượng sản xuất với nhu cầu từng khu vực ( 3 miền) vừa tận dụng được lợi thế cạnh tranh tại nơi đầu tư như thuận lợi về giao thông để hạ chi phí vận chuyển, nếu có thể sẽ tận dụng được những ưu đãi từ những chính sách khuyến khích đầu tư của Nhà nước và địa phương.
III. Một vài kiến nghị:
Về phía nhà nước: Đặc điểm của ngành thép là không thuộc loại các ngành có mức sinh lời cao, nhu cầu vốn lớn, thời gian kéo dài kém hấp dẫn với các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Song thép lại là vật liệu chủ yếu của nhiều ngành công nghệp, có vai trò quyết định đến sự nghiệp CNH-HĐH đất nước. Một đát nước đã quan tâm trở thành nước công nghiệp thì không phát triển ngành công nghiệp thép. Vì vậy, hơn bất cứ ngành nào khác, ngành thép phải được nhà nước giành sự quan tâm cao nhất.
3.1. Các giải pháp về huy động vốn
*Các giải pháp tầm vĩ mô
Để hỗ trợ cho VSC nói riêng và các doanh nghiệp khác nói chung trong việc tăng cường khả năng thu hút vốn đầu tư, nhà nước cần có những biện pháp, chính sách, cơ chế phù hợp nhăm:
- Phát triển hệ thống ngân hàng tài chính: Một hệ thống ngân hàng tài chính phát triển với nghiệp vụ thanh toán được cải tiến, đa dạng hóa…thực hiện tốt vai trò trung gian tài chính nhằm điều phối vốn từ nơi thừa đến nơi thiếu., thực thi nhiệm vụ huy động vốn, chuyển đổi vốn từ hình thức ngắn hạn sang dài hạn sẽ có vai trò to lớn trong việc thúc đẩy sự phát triển của các doanh nghiệp và của cả nền kinh tế. Đặc biệt ngành thép là ngành có nhu cầu vốn đầu tư lớn, Nhà nước không thể đáp ứng đủ toàn bộ nhu cầu vốn, đòi hỏi VSC phải vay vốn tín dụng ngân hàng. Nhà nước cần có quy định chính sách ưu tiên về điều kiện cho vay, lãi suất, thời hạn để VSC thuận lợi trong vay vốnvới chi phí thấp nhất để có thể tiến hành đầu tư, thu đủ vốn và có lãi.
-Đẩy nhanh quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước: cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước nhằm hình thành một mô hình doanh nghiệp mới, gắn bó giữa quyền lợi và trách nhiệm, nâng cao hiệu quả kinh doanh, tạo ra nhiều loại “hàng hóa”cho thị trường chứng khoán-một hình thức của thị trương vốn. Nhà nước cần tập trung giải quyết một số vấn đề cần thiết như phân loại doanh nghiệp xác định doanh nghiệp cần đưa vào diện CPH, nhanh tróng hoàn thiện khung pháp lý và cơ chế chính sách có liên quan. Ban hành một số văn bản pháp lý cao về CPH,quy định rõ: cổ phần khống chế tiến trình định giá, chế độ hỗ trợ doanh nghiệp CPH, chế độ chính sách đối với người lao động, tuyên truyền chỉ rõ những lợi ích mà CPH mang lại. đặc biệt, cần tăng cường vai trò của tổng công ty đối với CPH, trao cho quyền quyết định CPH đối với những doanh nghiệp Nhà nước có giá trị từ 10 tỷ đồng trở xuống.
-Có biện pháp hữu hiệu đối với thị trường chứng khoán: thị trường chứng khoán là một thị trường vốn bậc cao, là nơi gặp gỡ trao đổi hàng hóa tiền vốn giữa những chủ thể thừa vốn với những chủ thể cần huy động vốn. Thị trường chứng khoán phát triển sẽ đưa tiền vào lưu thông hiệu quả hơn, nâng cao chất lượng đầu tư phát triển của cả nền kinh tế và của mỗi doanh nghiệp thành viên. hiện nay, khi thị trường này còn non yếu, chưa phát triển ỏ nước ta, tổng công ty vẫn chưa tham gia hình thức này. Nhưng trong tương lai huy động vốn qua thị trường chứng khoán là một dòi hỏi nhất thiết đối với bất kỳ doanh nghiệp lớn nào. Nhà nước cần đảm bảo sự phối hợp đồng bộ và có trách nhiệm giữa các cơ quan có thẩm quyền, đảm bảo cho thông tin hoạt động thông suốt, công khai rành mạch và đảm bảo an toàn cho nhà đầu tư hoạt động có hiệu quả để thị trường thực sự trở thành một kênh huy động vốn trung và dài hạn để đầu tư phát triển kinh tế trong giai đoạn mới.
*Các giải pháp cụ thể: Đảng và Nhà nước cần sắp xếp ngành thép vào diện ưu tiên đầu tư phát triển trong thời kỳ CNH-HĐH đất nước. Cần coi sản xuất thép như một ngành công nghiệp hạ tầng, được hưởng các ưu dãi tối đa về vốn, về cơ chế chính sách.
Cũng như các doanh nghiệp Nhà nước, VSC do Nhà nước thành lập, Nhà nước bỏ vốn kinh doanh để thực hiện mục đích kinh tế chiến lược lâu dài thì không co lý do gì mà không cấp vốn lưu động cần thiết cho doanh nghiệp.
Nhà nước cân coi đầu tư vào doanh nghiệp thép như đầu tư vào cơ sở hạ tầng của đất nước. Từ đó, có sự hỗ trợ phát triển cho ngành thép và trực tiếp đầu tư xây dựng nhà máy thép liên hợp. Đặc biệt, Nhà nước cần ưu tiên dành vốn đầu tư cho tổng công ty thép Việt Nam để VSC phát triển, đủ sức giữ vai trò chủ đạo trong ngành thép.
Nhà nước hỗ trợ tối đa vốn đầu tư ưu đãi trong nước(kể cả vốn ODA) cho VSC đầu tư chiều sâu và đầu tư các dự án mới theo đúng quy hoạch được duyệ, cấp vốn cho việc chuẩn bị đầu tư cho các dự án lớn, phức tạp như dự án khai thác mỏ thạch khê…
Nhà nước có chính sách cấp vốn cho VSC nhập khẩu nguyên vật liệu, thiết bị và phần xây dựng trong nước. Trong đó bao gồm có:
Nhà nước cấp vốn chuẩn bị đầu tư
Nhà nước cấp một phần vốn pháp định trong một phần vốn pháp định của ngành thép, trọng tâm là VSC trong các dự án liên doanh với nước ngoài
Cho phép dược sử dụng giá trị sử dụng đất để góp vón pháp định và thu hồi vốn này sau khi liên doanh bắt đầu có lãi, còn trong thời gian chứa trả được nợ cho Nhà nước thì phải chịu số thuế tương đương như thuế vốn.
Nhà nước cần có chính sách cho vay vốn với lãi suất ưu đãicho đầu tư, nhất là đầu tư trung và dài hạn và thay đổi cơ chế bảo lãnh vốn vay vì theo cơ chế vay hiện nay thì khó có thể thực hiện được các khoản vay nước ngoài. Trong chính sách cho vay vốn tín dụng ưu đãi, thực ra hiện nay mới chỉ đáp ứng đủ cho các công trình cải tạo mở rộng, đầu tư chiều sâu… Trong chiến lược phát triển ngành thép đề nghị Nhà nước tăng dần số vốn tín dụng ưu đãicho các dự án ngành thép ít nhất trong các năm đầu cũng đáp ứng đủ cho 30% nhu cầu vốncho ngành thép.
Cho phép ngành thép toàn quyền sử dụng vốn khấu hao cơ bản, được phép trích khấu hao nhanh đói với các dự án có khả năng thu hồi vốn nhanh mà vẫn đảm bảo có lãi.
Vốn đầu tư cho phát triển ngành thép yêu cầu rất lớn, chắc chắn phải trôg chờ nhiều vào các nguồn vốn nước ngoài, tự bản thân VSC không đủ sức lo. Vì vậy, Nhà nước cần bảo lãnh việc vay vốn nước ngoài, hỗ trợ tiền đặt cọc đối với việc vay mua sắm thiết bị của các dự án đầu tư và cho phép tổng công ty được thế chấp tài sản để vay vốn đầu tư.
Mặt khác, phần lớn các dự án là liên doanh, đề nghị Nhà nước cho phép góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất, vốn xây dựng nhà máy liên doanh thì Nhà nước cấp 30% để tổng công ty có thể đặt cọc vay 70% số vốn còn lại và Nhà nước cấp vốn lưu động khi nhà máy đị vào hoạt động.
3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư
Để góp phấn tích cực vào nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư của VSC, Nhà nước cần quan tâm đến cơ chế chính sách về thuế, tạo môi trường kinh doanh thuận lợi nhưe về cơ chế quản lý tài chính, quyền tự chủ hoạt động kinh doanh, thủ tục cấp giấy phép đầu tư, quyết định đầu tư và các thủ tục khác trong quá trình thực hiện đầu tư. từ đó giúp cho doanh nghiệp giảm được chi phí đầu tư,nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, đem lại lợi nhuận cao, tạo nguồn tích lũy vốn cho hoạt động đầu tư tiếp theo
Thứ nhất: Nhà nước có chính sách phát triển ngành công nghiệp có liên quan, nư dã nói ở phần trên, công nghiệp thép có mối liên hệ chặt chẽ với các ngành công nghiệp khác. Để hỗ trợ phát triển cong nghiệp sản xuất thép, thời gian qưua, Nhà nước đã có chính sách phát triển các ngành công nghiệp phía trước và phía sau, đồng thời với việc đầu tư xây dựng các cơ sở hạ tầng phục vụ ngành thép, Nhà nước cần có chính sách kích cầu mạnh mẽ để tăng tiêu thụ thép trong nước như chú trọng đầu tư cho xây dựng cơ sở hạ tầng, xây dựng cầu đường, cảng, khuyến khích phát triển các ngành công nghiệp chế tọ ôtô, xe máy, đóng tàu….là những ngành sử dụng thép làm vật liệu nhằm nâng cao nhu cầu tiêu thụ thép và từ đó kích thích đầu tư sản xuất. Bằng chính sách phát triển công nghiệp, Nhà nước đã có những tác động tích cực để phát triển triển thép trở thành ngành kinh tế mũi nhọn ở Việt Nam
Thứ hai: ngoài các chính sách hỗ trợ trực tiếp thông qua cấp vốn và cho vay vốn để VSC đầu tư, Nhà nước cần sử dụng các các hình thức hỗ trợ gián tiếp bằng chính sác ưu dãi ưu tiên về thuế, giảm thuế đát, điện, nước, khí thiên nhiên, cước phí vận tải cho ngành thép ( thấp hơn giá áp dụng cho các ngành sản xuất dịch vụ khác) và đảm bảo cung cấp ổn địn lâu dài; ưu đãi chuyển đổi ngoại tệ, trợ giá, bù giá trong những năm khó khăn.
-Chính sách ưu đãi về thuế: Nhà nước phải có chính sách thuế hợp lý và thực sự có hiệu lực giúp ngành thép phát triển và bảo hộ ngành thép:
+Giảm thuế lợi tức 50% cho đến khi công trình trả hết nợ.
+Giảm thuế doanh thu trong những năm đầu sản xuất chưa có lãi.
-Chính sách bảo hộ: trong thời gian qua ngành thép,VSC đã được Nhà nước bảo hộ cao thông qua công cụ hữu hiệu là thuế nhập khẩu, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp vượt qua những khó khăn ban đầu khi mới gia nhập thị trường. Cụ thể: Nhà nước chỉ cho phép nhập vào Việt Nam một số chủng loại thép mà trong nước chưa sản xuất được như thép dẹt, thép chất lượng cao, phôi thép… đánh thuế nhập khẩu đối với những sản phẩm và bán sản phẩm mà ngành thép nước ta đã sản xuất được. Tới đay Nhà nước cần thực hiệnchính sách nhập khẩu cụ thể như sau:
-Với những sản phẩm thép phải đánh thuế 30-40%.
-Với những sản phẩm thép đã sản xuất trong nước đáp ứng đủ nhu cầu thì Nhà nước cấm nhập khẩu.
-Với bán thành phẩm (phôi) khi trong nước đã sản xuất đủ cung cấp cho các nhà máy cán thì thuế nhập khẩu từ 15-20%.
Đi đôi với chính sách nhập khẩu là chính sách quản lý ngoại hối về tỷ giá hối doái tạo thuận lợi cho VSC trong khâu nhập khẩu phôi, nguyên liệu cần thiết, các thép đặc biệt mà Công ty chưa có khả năng sản xuất đặc biệt nhập khẩu máy móc thiết bị hiện đại từ nhiều nước có truyền thống phát triển triển lâu dài.
Để đảm bảo môi trường cạnh tranh lành mạnh giữa các doanh nghiệp, đề nghị Nhà nước có biện pháp hữu hiệu để ngăn chặn tình trạng làm hàng giả, hàng kém chất lượng, chống bán phá giá.
Thứ ba: Nhà nước cần tạo môi trường thông thoáng cho các doanh nghiệp .
Về hệ thống pháp luật, tiếp tục xây dựng và hoàn thiện khung pháp luật phù hợp với kinh tế thị trường nhằm đảm bảo môi trường kinh tế vĩ mô ổn định, minh bạch, nhất quán, phù hợp với thông lệ quốc tế. Cần sữa đổi, bổ sung, ban hành mới các luật: luật ngân sách Nhà nước, luật tổ chức tín dụng, luật đầu tư và xây dựng, luật khuyến khích đầu tư trong nước và nước ngoài .
Thời gian qua Nhà nước đã có nhiều nỗ lực tập trung vào cải cách những thủ tục hành chính. Trong thời gian tới giải pháp này nên tập trung vào một số lĩnh vực như phân bổ ngân sách, cấp phát vốn đầu tư xây dựng cơ bản, xuất nhập khẩu, cấp giấy phép đầu tư ….vừa đáp ứng quản lý Nhà nước đói với doanh nghiệp lâu dài vừa là phương thức tạo điều kiện thuận lợi nhất cho doanh nghiệp mở rộng sản xuất và tái đầu tư. Đơn giản hóa, công khai hóa tập trung một mối tiếp nhận và xử lý, rut ngắn thời gian trình duyệt thủ tục là những định hướng trong việc cải tiến thủ tục hành chính nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho thu hút vốn, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn sản xuất kinh doanh, vốn đầu tư phát triển. Các văn bản dưới luật cần được ban hành kịp thời, đầy đủ và tránh chồng chéo gây khó khăn cho VSC thực hiên trong suốt quá trình thực hiện một công cuộc đầu tư.
Kết luận
Trong nền kinh tế thị trường vai trò của hoạt động huy động vốn và sử dụng vốn cho đầu tư phát triển của nền kinh tế là rất cần thiết và quan trọng. Tăng cường khả năng huy động vốn và sử dụng vốn cho đầu tư phát triển là vấn đề xuyên suốt và quan trọng đối với hoạt động kinh doanh của Tổng công ty thép Việt Nam nói riêng và của nền kinh tế nói chung.
Huy động vốn và sử dụng cho đầu tư phát triển là đòi hỏi khách quan của bất kỳ nền kinh tế nào. Đặc biệt là đối với nước ta hiện nay nhu cầu vốn và sử dụng vốn có hiệu quả cho đầu tư phát triển đang là đòi hỏi cấp bách. Do vậy để đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế, đồng thời phát huy hiệu quả kinh doanh của Tổng công ty thép Việt Nam. Trong thời gian tới Tổnh công ty cần tập trung hơn nữa trong việc mở rộng hoạt động huy động vốn và sử dụng vốn cho đầu tư phát triển .
Qua nghiên cứu thực trạng hoạt động huy động và sử dụng vốn cùng các giải pháp cho vấn đề này tại Tổng công ty thép Việt Nam tôi mong rằng trong thời gian tới Tổng công ty sẽ thu được kết quả tốt hơn đáp ứng cho nhu cầu cho đầu tư phát triển của nền kinh tế.
Trong lời kết một lần nữa em xin chân thành cảm ơn sự chỉ bảo tận tình của Thầy Giáo :Vũ Kim Toản cùng các Thầy cô giáo Bộ môn Kinh tế Đầu tư.Cháu xin cảm ơn Cô Hoàng Thị Hồng Hà, các cô chú phòng Kế hoạch đầu tư đã giúp em khắc phục được thiếu sót và hoàn thành bài viết này.
Tài liệu tham khảo
1.Quy hoạch phát triển ngành thép giai đoạn 2001-2010.
2.Tạp chí Tài Chính năm 2002-2003.
3.Sách: "Những giải pháp huy động va sử dụng vốn".
4.Báo Công nghiệp năm 2002-2003.0
5.Thời báo kinh tế năm 2002-2003.
6.Niên giám thống kê năm 2002-2003.
mục lục
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- C0121.doc