1
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ LẠM PHÁT
1.1 Khái niệm lạm phát
Lạm phát là hiện tượng tiền trong lưu thông vượt quá nhu cầu cần thiết làm cho
chúng bị mất giá, giá cả của hầu hết các loại hàng hóa tăng lên đồng loạt.
1.2 Các phép đo chủ yếu của chỉ số lạm phát
Không tồn tại một phép đo chính xác duy nhất chỉ số lạm phát, vì giá trị của chỉ số
này phụ thuộc vào tỷ trọng mà người ta gán cho mỗi hàng hóa trong chỉ số, cũng như phụ
thuộc vào phạm vi khu vực kinh tế mà nó được thực hi
33 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1678 | Lượt tải: 3
Tóm tắt tài liệu Thực trạng chống lạm phát của chính phủ Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ện. Các phép đo phổ biến của chỉ
số lạm phát bao gồm:
- Chỉ số giá sinh hoạt (viết tắt tiếng Anh: CLI) là sự tăng trên lý thuyết giá cả sinh
hoạt của một cá nhân so với thu nhập, trong đó các chỉ số giá tiêu dùng (CPI) được giả
định một cách xấp xỉ. Các nhà kinh tế học tranh luận với nhau là có hay không việc một
CPI có thể cao hơn hay thấp hơn so với CLI dự tính. Điều này được xem như là "sự thiên
lệch" trong phạm vi CPI. CLI có thể được điều chỉnh bởi "sự ngang giá sức mua" để phản
ánh những khác biệt trong giá cả của đất đai hay các hàng hóa khác trong khu vực (chúng
dao động một cách rất lớn từ giá cả thế giới nói chung).
- Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) đo giá cả các hàng hóa hay được mua bởi "người tiêu
dùng thông thường" một cách có lựa chọn. Trong nhiều quốc gia công nghiệp, những sự
thay đổi theo phần trăm hàng năm trong các chỉ số này là con số lạm phát thông thường
hay được nhắc tới. Các phép đo này thường được sử dụng trong việc chuyển trả lương, do
những người lao động mong muốn có khoản chi trả (danh định) tăng ít nhất là bằng hoặc
cao hơn tỷ lệ tăng của CPI. Đôi khi, các hợp đồng lao động có tính đến các điều chỉnh giá
cả sinh hoạt, nó ngụ ý là khoản chi trả danh định sẽ tự động tăng lên theo sự tăng của CPI,
thông thường với một tỷ lệ chậm hơn so với lạm phát thực tế (và cũng chỉ sau khi lạm
phát đã xảy ra).
- Chỉ số giá sản xuất (PPI) đo mức giá mà các nhà sản xuất nhận được không tính
đến giá bổ sung qua đại lý hoặc thuế doanh thu. Nó khác với CPI là sự trợ cấp giá, lợi
nhuận và thuế có thể sinh ra một điều là giá trị nhận được bởi các nhà sản xuất là không
2
bằng với những gì người tiêu dùng đã thanh toán. Ở đây cũng có một sự chậm trễ điển
hình giữa sự tăng trong PPI và bất kỳ sự tăng phát sinh nào bởi nó trong CPI. Rất nhiều
người tin rằng điều này cho phép một dự đoán gần đúng và có khuynh hướng của lạm
phát CPI "ngày mai" dựa trên lạm phát PPI ngày "hôm nay", mặc dù thành phần của các
chỉ số là khác nhau; một trong những sự khác biệt quan trọng phải tính đến là các dịch vụ.
- Chỉ số giá bán buôn đo sự thay đổi trong giá cả các hàng hóa bán buôn (thông
thường là trước khi bán có thuế) một cách có lựa chọn. Chỉ số này rất giống với PPI.
- Chỉ số giá hàng hóa đo sự thay đổi trong giá cả của các hàng hóa một cách có lựa
chọn. Trong trường hợp bản vị vàng thì hàng hóa duy nhất được sử dụng là vàng. Khi
nước Mỹ sử dụng bản vị lưỡng kim thì chỉ số này bao gồm cả vàng và bạc.
- Chỉ số giảm phát GDP dựa trên việc tính toán của tổng sản phẩm quốc nội: Nó là
tỷ lệ của tổng giá trị GDP giá thực tế (GDP danh định) với tổng giá trị GDP của năm gốc,
từ đó có thể xác định GDP của năm báo cáo theo giá so sánh hay GDP thực). (Xem thêm
Thực và danh định trong kinh tế). Nó là phép đo mức giá cả được sử dụng rộng rãi nhất.
Các phép khử lạm phát cũng tính toán các thành phần của GDP như chi phí tiêu dùng cá
nhân. Tại Mỹ, Cục Dự trữ Liên bang đã chuyển sang sử dụng khử lạm phát tiêu dùng cá
nhân và các phép khử lạm phát khác để tính toán các chính sách kiềm chế lạm phát của
mình.
- Chỉ số giá chi phí tiêu dùng cá nhân (PCEPI). Trong "Báo cáo chính sách tiền tệ
cho Quốc hội" sáu tháng một lần của mình ("Báo cáo Humphrey-Hawkins") ngày 17
tháng 2 năm 2000, Federal Open Market Committee (FOMC) nói rằng ủy ban này đã thay
đổi thước đo cơ bản về lạm phát của mình từ CPI sang "chỉ số giá cả dạng chuỗi của các
chi phí tiêu dùng cá nhân".
1.3 Phân loại lạm phát
Do biểu hiện đặc trưng của lạm phát là sự tăng lên của giá cả hàng hóa, nên các
nhà kinh tế thường dựa vào tỷ lệ tăng giá để làm căn cứ phân loại lạm phát ra thành ba
mức độ khác nhau:
- Lạm phát vừa phải: loại lạm phát này xảy ra khi giá cả hàng hóa tăng chậm ở
mức độ một con số hàng năm (dưới 10% một năm). Lạm phát vừa phải còn được gọi là
3
lạm phát nước kiệu hay lạm phát một con số. Loại lạm phát này thường được các nước
duy trì như một chất xúc tác để thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
- Lạm phát cao: loại lạm phát này xảy ra khi giá cả hàng hóa tăng ở mức độ hai con
số hàng năm (từ 10% - 100% một năm). Lạm phát cao còn được gọi là lạm phát phi mã.
Thật ra, cũng có một số nhà kinh tế quan điểm cho rằng thuộc loại lạm phát phi mã bao
gồm cả lạm phát ở mức độ ba con số (như 100%, 200%...). Lạm phát phi mã gây ra nhiều
tác hại đến sự phát triển kinh tế - xã hội.
- Siêu lạm phát: loại lạm phát này xảy ra khi giá cả hàng hóa tăng ở mức độ ba con
số hàng năm trở lên. Siêu lạm phát còn được gọi là lạm phát siêu tốc. Không có điều gì là
tốt khi nền kinh tế rơi vào tình trạng siêu lạm phát. Người ta thường ví siêu lạm phát như
căn bệnh ung thư gây chết người, có những tác hại rất lớn đến kinh tế - xã hội. Lịch sử
lạm phát của thế giới đã ghi nhận tác hại của siêu lạm phát xảy ra ở Đức năm 1920 –
1923, ở Nga sau Cách mạng tháng 10, ở Trung Quốc sau thế chiến thứ hai…
* Ngoài ra, người ta còn phân loại lạm phát dựa vào việc so sánh hai chỉ tiêu là tỷ
lệ tăng giá và tỷ lệ tăng trưởng tiền tệ. Theo cách này lạm phát sẽ ở trong hai giai đoạn
sau:
Giai đoạn 1: Ở giai đoạn này tỷ lệ tăng giá nhỏ hơn tỷ lệ tăng trưởng tiền tệ. Một
bộ phận của khối tiền gia tăng về cơ bản đáp ứng nhu cầu lưu thông tiền tệ của nền kinh
tế. Theo các nhà kinh tế, lạm phát nằm ở giai đoạn này có thể chấp nhận được và thậm chí
còn cho rằng lạm phát khi đó còn là liều thuốc để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Giai đoạn 2: Ở giai đoạn này tỷ lệ tăng giá lớn hơn tỷ lệ tăng trưởng tiền tệ. Sở dĩ
như vậy là do lạm phát với tỷ lệ cao kéo dài đã làm cho kinh tế suy thoái. Hệ quả là khối
lượng tiền phát hành vượt mức khối lượng tiền cần thiết cho lưu thông. Trong trường hợp
này lạm phát gây nguy hiểm trầm trọng cho nền kinh tế.
1.4 Nguyên nhân của lạm phát
Khi nghiên cứu nguyên nhân của lạm phát, các nhà kinh tế có nhiều quan điểm
khác nhau do tiếp cận nó ở nhiều góc độ. Tuy vậy, tựu trung lại có các quan điểm sau:
4
1.4.1 Lạm phát do cầu kéo
Khi nền kinh tế đạt tới hay vượt quá sản lượng tiềm năng, việc tăng tổng mức cầu
dẫn tới lạm phát được gọi là lạm phát do cầu kéo hay lạm phát nhu cầu.
Số cầu tăng là do tổng khối lượng tiền lưu hàng (M) tăng hoặc do tốc độ lưu thông
tiền tệ (V) tăng. Số lượng tiền tệ tăng do nhiều yếu tố, trong đó quan trọng hơn hết và
thường xảy ra hơn hết là do thiếu hụt ngân sách nhà nước. Số thiếu hụt này được tài trợ
bằng nhiều cách: phát hành trái phiếu, vay mượn ở nước ngoài và nay mượn ở ngân hàng
trung ương. Một khi ngân hàng trung ương tài trợ thâm hụt ngân sách nhà nước tức là
ngân hàng trung ương đã trực tiếp làm tăng khối cung tiền. Vay mượn của nước ngoài
cũng làm tăng khối tiền tệ. Khối tiền tệ tăng làm cho tổng số chi trả tăng, do đó gây ra áp
lực lạm phát. Tốc độ lưu thông tiền tệ gia tăng chủ yếu là do hệ thống chính trị khủng
hoảng, kinh tế suy thoái làm cho lòng tin của dân chúng vào chế độ tiền tệ nhà nước bị
xói mòn, từ đó gây ra tâm lý chạy trốn đồng tiền mất giá.
1.4.2 Lạm phát do chi phí đẩy
Khi chi phí sản xuất kinh doanh tăng sẽ đẩy giá cả tăng lên ngay cả khi các yếu tố
sản xuất chưa được sử dụng đầy đủ, chúng ta gọi đó là lạm phát do chi phí đẩy. Vấn đề
đặt ra là tại sao chi phí tăng lên? Nhiều nhà kinh tế cho rằng tiền lương tăng lên là một
nguyên nhân đẩy chi phí tăng lên khi tốc độ tăng tiền lương cao hơn tốc độ tăng năng suất
lao động. Một số nhà kinh tế cho rằng việc đẩy chi phí tiền lương tăng lên là do các công
đoàn gây sức ép. Tuy nhiên một số nhà kinh tế khác lại cho rằng chính công đoàn đã đóng
vai trò quan trọng trong việc làm giảm tốc độ tăng của lạm phát và giữ cho lạm phát
không giảm xuống quá nhanh vì các hợp đồng lương của công đoàn thường là dài hạn và
khó thay đổi. Ngoài ra, các cuộc khủng hoảng về nhiên liệu, nguyên vật liệu cơ bản như
dầu mỏ, sắt thép… cũng làm cho giá cả của nó tăng lên và đẩy chi phí sản xuất tăng lên,
dẫn đến sức ép đòi tăng giá bán.
1.4.3 Lạm phát do những nguyên nhân liên quan đến sự thiếu hụt mức cung
Khi nền kinh tế đạt đến mức toàn dụng, nghĩa là các yếu tố sản xuất: nhân công,
nguyên vật liệu, máy móc thiết bị… gần như đã được khai thác tối ưu. Khi đó, mức cung
hàng hóa và dịch vụ trên thị trường có khuynh hướng giảm dần. Bên cạnh đó, tình trạng
tắt nghẽn của thị trường cũng làm giới hạn mức cung hàng hóa. Đó là tình trạng mất cân
5
đối các yếu tố sản xuất giữa các khu vực nhưng thị trường lại không tạo ra cơ chế điều
phối có hiệu quả, khiến cho khối lượng hàng hóa không đáp ứng tốt nhu cầu tăng lên của
thị trường. Hàng hóa khan hiếm làm cho giá cả tăng lên, đó là hậu quả tất yếu. Cũng cần
lưu ý rằng, ngay lúc nền kinh tế chưa đạt tới mức toàn dụng nhưng nếu cơ cấu kinh tế tổ
chức bất hợp lý thì cũng không cho phép tạo ra khối lượng hàng hóa và dịch vụ đầy đủ để
thỏa mãn nhu cầu ngày càng gia tăng của thị trường. Trường hợp này cũng làm nảy sinh
hiện tượng lạm phát.
1.4.4 Những nguyên nhân chủ quan, khách quan khác
* Nguyên nhân chủ quan: chính sách quản lý kinh tế không phù hợp của nhà nước
như chính sách cơ cấu kinh tế, chính sách lãi suất… làm cho nền kinh tế quốc dân bị mất
cân đối, kinh tế tăng trưởng chậm ảnh hưởng đến nền tài chính quốc gia. Một khi ngân
sách nhà nước bị thâm hụt thì điều tất yếu là nhà nước phải tăng chỉ số phát hành tiền.
Đặc biệt đối với một số quốc gia, trong những điều kiện nhất định, nhà nước chủ trương
dùng lạm phát như một công cụ để thực thi chính sách phát triển kinh tế.
* Nguyên nhân khách quan: thiên tai, chiến tranh, tình hình biến động của thị
trường nguyên vật liệu, nhiên liệu trên thế giới…
6
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG TÌNH HÌNH CHỐNG LẠM PHÁT
CỦA CHÍNH PHỦ Ở VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
2.1 Diễn biến tình hình lạm phát ở nước ta trong giai đoạn hiện nay
Kết thúc 2007, bên cạnh những thành công, lần đầu tiên sau hơn 10 năm CPI tháng
12 năm 2007 tăng so với tháng 12 năm trước là hai chữ số: 12,63%, và Việt Nam đã
không thực hiện được chỉ tiêu kế hoạch được Quốc hội thông qua: “CPI thấp hơn tốc độ
tăng trưởng kinh tế”; đặc biệt, nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng tới 18,92%, riêng
lương thực tăng 15,4% và thực phẩm tăng 21,2%.
Chỉ số giá tiêu dùng năm 2007 tăng 12,6%, tháng 1/2008 tăng 2,38% và dự báo
tăng cao hơn trong tháng 2/2008.
Nền kinh tế Việt Nam tăng trưởng 8,44% trong năm 2007 và Chính phủ đặt mục
tiêu tăng 9,0% trong năm 2008. (Tỷ lệ tăng trưởng phải cao hơn tốc độ lạm phát).
Bước sang năm 2008, tình hình lạm phát càng diễn biến phức tạp hơn, chỉ số giá
tiêu dùng ngày càng tăng cao. Trong đó:
- Chỉ số giá tiêu dùng tháng 1 tăng 2.38% so với cuối năm 2007
- Chỉ số giá tiêu dùng tháng 2 tăng 6.02% so với cuối năm 2007
- Chỉ số giá tiêu dùng tháng 3 tăng 9.09% so với cuối năm 2007
- Chỉ số giá tiêu dùng tháng 4 tăng 11.6% so với cuối năm 2007
- Chỉ số giá tiêu dùng tháng 5 tăng 15.96% so với cuối năm 2007
(Nguồn: Tổng cục thống kê)
7
Trong các nhóm hàng hóa, dịch vụ tiêu dùng, chỉ có giá bưu chính viễn thông do
kỹ thuật công nghệ tiến bộ nhanh, do có cạnh tranh mạnh giữa các doanh nghiệp, nên giá
liên tục giảm (tháng 4 giảm 0,06%, 4 tháng giảm 9,15%, sau 1 năm giảm 12,17%), còn tất
cả các nhóm khác giá đều tăng. Điều đó chứng tỏ yếu tố tiền tệ vẫn còn tác động mạnh
đến lạm phát, nên mới làm cho giá của tất cả các nhóm hàng đều tăng. Tốc độ tăng cuối
tháng 3.2008 so với cuối tháng 12.2007 của dư nợ tín dụng cao gấp đôi của huy động vốn
(10,8% so với 5,48%) đã chứng tỏ tiền từ ngân hàng ra lưu thông tăng cao hơn tiền từ lưu
thông vào ngân hàng, tạo áp lực cho lạm phát.
Trong các nhóm hàng hóa, dịch vụ, thì giá lương thực tăng cao nhất (tháng 4 tăng
6,11%, 4 tháng tăng 25,12%, sau 1 năm tăng 38,21%), tiếp đến là giá thực phẩm (tương
ứng là 2,22%, 15,59%, 33,63%), ăn uống ngoài gia đình (tương ứng là 2,02%, 16,52%,
30,43%). Tính chung nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng cao (tương ứng là 3,11%,
18,01%, 34,11%). Nhóm hàng này tăng cao không chỉ bởi khó khăn ở trong nước (do
thiên tai, thay đổi khí hậu tòan cầu, diện tích đất canh tác giảm, dịch bệnh lớn, chi phí đầu
vào cao), mà còn do giá thế giới tăng cao kéo giá trong nước lên theo (giá gạo xuất khẩu 4
tháng năm nay tăng 54,7% so với cùng kỳ năm trước). Do nhóm hàng này chiếm tỷ trọng
lớn nhất trong tổng hàng hóa, dịch vụ tiêu dùng của dân cư (42,85%), nên đã tác động lớn
đến tốc độ tăng giá chung. Đối với nhóm hộ nghèo, tỷ trọng này còn cao hơn (trên 60%)
và cao gấp đôi nhóm người giàu, nên tốc độ tăng giá cao của nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn
uống càng làm cho nhóm hộ nghèo khổ hơn.
Nhóm nhà ở và vật liệu xây dựng (gồm tiền thuê nhà ở, điện, nước, chất đốt và vật
liệu xây dựng) giá cũng tăng rất cao (tháng 4 tăng 2,62%, 4 tháng sau tăng 10,84%, sau 1
năm tăng 22,59%) càng làm cho mong muốn cải thiện về nhà ở của những người có nhu
cầu thực, nhất là những người có thu nhập thấp trở lên xa vời. Điển hình, giá sắt thép vào
ngày 1/6/2008 là 16.200.000VND/tấn, đến ngày 14/6/2008 tăng lên 17.500.000VND/tấn,
và hiện nay (25/6/2008) giá sắt thép tăng lên 18.700.000VND/tấn.
Nhóm phương tiện đi lại, bưu điện giá tăng cao (tháng 4 tăng 2,33%, 4 tháng tăng
9,83%, sau 1 năm tăng 15,39%) chủ yếu do tác động của giá xăng dầu tăng cuối tháng 2,
từ đó làm ảnh hưởng đến doanh thu và lợi nhuận của hàng lọat các ngành công nghiệp
khác do sự gia tăng các chi phí liên quan đến sự tăng giá của các nhiên liệu.
8
(Nguồn: Tổng cục thống kê)
2.2 Một số nguyên nhân gây ra lạm phát ở nước ta
2.2.1 Lạm phát do chi phí đẩy:
Năm 2007 Việt Nam nhập khẩu : 60,83 tỷ USD bằng 83% GDP. Riêng với ngành
chế biến, Việt Nam gần như là công xưởng gia công cho nước ngoài, bởi nguyên liệu
chính cho các ngành giầy da, dệt, may mặc, nhựa,... hầu hết phụ thuộc vào nhập khẩu, đặc
biệt 100% nhiên liệu lỏng đã chế biến (xăng dầu) phải nhập khẩu. Vì vậy giá cả phụ thuộc
rất nhiều vào phía đối tác. Trong tình hình, giá cả thế giới đang tăng cao, không tránh
khỏi chi phí sản xuất, gia công của các doanh nghiệp trong nước cũng tăng cao.
Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, hàng hóa xuất khẩu của nền kinh tế trong 5
tháng qua mang về 23,39 tỷ USD, tăng 27,2% so với cùng kỳ năm ngoái. Song giá trị
nhập khẩu lại tăng tới 67%, đưa nhập siêu lên 14,4 tỷ USD.
Trong năm 2007, chênh lệch cán cân xuất - nhập khẩu của nền kinh tế là 12,4 tỷ
USD, và được coi là mức rất cao so với các năm trước.
9
Các mặt hàng có giá trị nhập khẩu lớn trong các tháng vẫn là máy móc và nguyên
nhiên liệu đầu vào cho sản xuất, trong đó máy móc thiết bị chiếm 5,7 tỷ USD, xăng dầu
4,85 tỷ USD và sắt thép 4,1 tỷ USD. Ngoài ra, vải, điện tử - linh kiện và chất dẻo cũng là
các mặt hàng "ngốn" nhiều ngoại tệ.
Tuy nhiên, xét về tốc độ tăng giá trị nhập khẩu, ôtô, urê và sắt thép đang dẫn đầu
với mức tăng lần lượt 292%, 184,3% và 137,8%.
Trong 5 tháng đầu năm, mặt hàng thu về nhiều ngoại tệ nhất vẫn là dầu thô, với 4,5
tỷ USD. dệt may, giày dép, thủy sản tiếp tục là những mặt hàng xuất khẩu chủ lực, với giá
trị lần lượt đạt 3,2 tỷ USD, 1,7 tỷ USD và 1,4 tỷ USD.
2.2.2 Lạm phát do cầu kéo:
Bao gồm nhiều yếu tố liên quan đến quan hệ cung- cầu , quan hệ đến tiền - hàng
với các giải pháp tăng cung (tăng thêm khối lượng hàng hóa, chủng loại hàng hóa), đồng
thời phân phối hàng hóa đến người sử dụng kịp thời, đúng lúc, đúng địa chỉ..., giảm lượng
tiền mà xã hội sử dụng vào mục đích tiêu dùng.
* Về cung – cầu hàng hóa, năm 2007, với mức tăng trưởng GDP: 8,48% không
phải là mức tăng trưởng thấp, nếu không muốn nhấn mạnh đây là thành tựu đáng tự hào
của Việt Nam (theo ADB, mức tăng trưởng GDP của Trung Quốc: 11,2%, Singapore:
7,5%, Philippin: 6,6%, Indonesia: 6,2%, Malaysia: 5,6%, Thai Lan: 4,0%); Giá trị sản
xuất của ngành trồng trọt tăng nhưng sản lượng lương thực lại giảm. Ngành chăn nuôi,
sản lượng thịt lợn (nguồn tiêu dùng lớn nhất về thịt) xuất chuồng tăng không đáng kể
(khoảng 1%) trong khi tăng bình quân các năm trước từ 5 – 7%. Như vậy khối lượng hàng
hoá cung cấp cho thị trường có bị giảm sút hoặc không tăng, trong khi nhu cầu tiêu dùng
tăng. Mặt khác, cung năm 2007 cũng bị ảnh hưởng nhiều do thiên tai, dịch bệnh đã làm
thiệt hại nhiều tới sản xuất, tới đời sống nhân dân nói chung, nhất là nhân dân vùng bị
thiên tai, dịch bệnh nói riêng, theo tính toán thiệt hại này vào khoảng 1% GDP (1% này là
tính chưa đủ, vì 1% là thiệt hại làm giảm cung khoảng 1% GDP, nhưng những thiệt hại ấy
lại gắn liền tới đời sống và sản xuất của nhân dân, cần sớm được khôi phục, cần bù đắp
như trước khi bị thiên tai, do vậy, cầu cũng tăng lên 1%) – đây là điều các nhà hoạch định
không tính đến.
10
* Về tiền tệ, năm 2007 ở Việt Nam có một vài đặc điểm cần chú ý đã làm tăng
khối lượng tiền tệ trong dân và tự nó đã làm tăng cầu:
- FDI đạt khoảng 20,3 tỷ USD (gồm trên 17,8 tỷ USD là số vốn đăng ký cho các
dự án mới được cấp giấy phép trong năm 2007 và gần 2,5 tỷ USD là vốn đăng ký bổ sung
các dự án được cấp phép từ các năm trước), tăng 69,3 % so với năm 2006, vượt kế hoạch
56,3% và đạt mức cao nhất từ trước tới nay. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện
khoảng 4,6 tỷ USD, tăng 600 triệu USD.
- Đầu tư gián tiếp năm 2007 cũng là năm đầu tư gián tiếp của nước ngoài vào Việt
Nam tăng vọt, thông qua việc mua các cổ phiếu (năm 2007 ước đạt 5,6 tỷ USD, tăng 4,3
tỷ USD).
- ODA cũng là năm đạt mức khá cao: tính chung hai năm 2006-2007, tổng vốn
ODA dành cho Việt Nam đạt khoảng 8,19 tỷ USD, tuy giải ngân còn chậm, nhưng cũng
đạt hơn 2 tỷ USD, tăng hơn 200 triệu USD.
- Kiều hối (định cư ở nước ngoài, xuất khẩu lao động làm việc ở nước ngoài,...)
cũng mang về hơn 5 tỷ USD, số tiền này chủ yếu được thân nhân của kiều bào sử dụng để
tiêu dùng. Chưa kể khoảng 3,3 tỷ USD là phần chi tiêu của khách quốc tế đến Việt Nam.
Một nguyên nhân nữa là do lãi suất tiền gửi ngọai tệ hiện nay ở Việt Nam là 6%/tháng,
trong khi ở Mỹ là 2.5%/tháng, do sự chênh lệch đó mà có nhiều kiều bào đã gửi một số
lượng kiều hối tương đối lớn về để đầu tư, nhưng lại khó thu hồi được vì chính sách ngọai
hối của Việt Nam quy định khá chặt chẽ về việc đem lượng kiều hối lớn ra khỏi lãnh thổ
Việt Nam.
- Vốn đầu tư toàn xã hội thực hiện năm 2007 khỏang 461,9 nghìn tỷ đồng, tăng
+15,8%; riêng, khu vực Nhà nước chiếm 43,3% tổng vốn đầu tư, tăng: + 8,1%, cũng các
chỉ tiêu trên lần lượt với Khu vực ngoài Nhà nước: 40,7% và + 24,8%, với khu vực có
FDI là : 16% và +17,1%. Điều này đã làm tăng một khối lượng tiền tệ trong dân.
- Nhà nước tăng nhanh dự trữ ngoại tệ bằng cách bỏ ra một khối lượng nội tệ để
mua khoảng 9 tỷ USD. Thu nhập bình quân của người dân nói chung ở Việt Nam tăng
khoảng 6% (tất nhiên có khoảng chênh lệch lớn giữa các nhóm dân cư).
11
2.2.3 Nguyên nhân khác:
* Trước hết là việc EVN có kế hoạch tăng giá điện lên trên 8% trong năm nay (và
tiếp tục tăng trong năm sau). Mặc dù có nhiều khả năng giá điện sản xuất sẽ không tăng
nhưng việc điều chỉnh này vẫn sẽ ảnh hưởng đáng kể đến mặt bằng giá chung.
* Tiếp đó là ảnh hưởng của việc tăng giá dầu trên thị trường quốc tế. Việt Nam
hiện đang phải nhập khẩu 100% các sản phẩm xăng dầu do đó mức giá trong nước sẽ bám
sát tình hình dao động giá thế giới. Năm ngoái, giá xăng trong nước đã phải điều chỉnh 6
lần, và sẽ nhạy cảm hơn trong năm nay.
* Tình hình thời tiết bất thường (rét đậm, rét hại kéo dài 35 ngày ở miền Bắc), hạn
hán, lũ lụt, bão lớn... và nguy cơ trở lại của dịch cúm gia cầm, dịch heo tai xanh... sẽ là
những nhân tố tiềm ẩn có thể gây nên cơn sốc giá, đặc biệt là mặt hàng lương thực, thực
phẩm (hiện chiếm hơn một nửa giá hàng hoá dùng để tính CPI).
* Bên cạnh đó, sự tăng trưởng quá nóng của nền kinh tế Việt Nam trong 2-3 năm
trở lại đây đã thu hút sự quan tâm của người dân đến nhiều lĩnh vực đầu tư mới : chứng
khóan, bất động sản, vàng...Khác với việc sản xuất ra một lọai sản phẩm có thể kiếm được
lợi nhuận do giá trị của nó tạo ra; bản chất của các lọai đầu tư trên vốn dĩ chỉ là hình thức
chuyển tiền từ nơi này sang nơi khác, mà không nảy sinh bất kỳ sự gia tăng giá trị nào. Và
do vậy, khi người dân vay tiền ngân hàng để đi đầu tư, kết quả sau một thời gian không
sinh lợi nhuận, họ lại đem cầm cố, thế chấp. Hệ quả là tính thanh khỏan ở các ngân hàng
thấp, nên hàng lọat các ngân hàng đã gia tăng tiền gửi tiết kiệm bằng cách tăng lãi suất
tiền gửi, và để có đủ khả năng trả tiền cho người gửi khi đến hạn thì buộc lòng các ngân
hàng phải tăng tiền lãi cho vay, điều đó sẽ làm cho các nhà đầu tư gặp nhiều trở ngại; một
là nhà đầu tư dù muốn đầu tư nhưng cũng không thể kham nổi lãi suất đó, từ đó sẽ làm đó
thị trường tài chính bị đóng băng; hai là nhà đầu tư sẵn sàng vay với lãi suất đó để sản
xuất, như vậy chi phí tăng, buộc lòng các nhà đầu tư phải tăng giá thành sản phẩm, và vô
hình chung sẽ càng làm cho giá cả hàng hóa tăng cao hơn.
* Hiện nay, hàng lọat các ngân hàng được thành lập, đặc biệt là các ngân hàng
thuộc sự quản lý của các tập đòan lớn, chúng sẽ là một ngòi nổ có thể khiến cho việc giải
quyết tình trạng lạm phát hiện nay gặp nhiều trở ngại hơn. Nguyên nhân là khi các tập
đòan này mở các ngân hàng của riêng mình thì việc cho chính bản thân họ vay sẽ không
12
gặp nhiều trở ngại như khi đi vay tại các ngân hàng khác, khiến cho tình trạng họat động
của ngân hàng đó gặp rủi ro cao. Và khi ngân hàng đó rơi vào tình trạng phá sản thì sẽ
kéo theo nhiều ngân hàng khác, kết quả sẽ làm cho hệ thống ngân hàng rơi vào tình trạng
khó khăn, từ đó có thể làm cho nền kinh tế bị suy thóai trầm trọng.
2.3 Tác động của lạm phát đến các mặt đời sống xã hội
2.3.1 Thị trường tài chính
Kể từ khi Ngân hàng Nhà nước công bố quyết định phát hành ngay một lúc tới
20.300 tỷ đồng tín phiếu bắt buộc, không được vay tái cấp vốn, với mục tiêu kiềm chế
lạm phát, thị trường chứng khoán và thị trường tiền tệ đã có phản ứng tức thì, nhạy cảm
tới biện pháp mạnh tay và cứng rắn của Ngân hàng Nhà nước, đó là thị trường chứng
khoán sụt giảm mạnh, thị trường tiền tệ hết sức nóng.
Thị trướng chứng khoán hiện đang giảm liên tục, các phiên giao dịch cũng ít dần,
làm cho tình hình ngày càng xấu đi. Thâm hụt tài khoản vãng lai sẽ tăng lên, thặng dư tài
khoản thanh toán giảm, thặng dư cán cân thanh toán giảm.
Từ đầu năm đến nay, luồng vốn đầu tư trực tiếp và gián tiếp sau khi Việt Nam gia
nhập WTO đã tăng lên nhanh chóng đã tạo sức ép tăng giá tiền đồng và một mặt gây khó
khăn cho việc điều hành chính sách tiền tệ và giám sát tài chính, đặc biệt trong bối cảnh
thị trường chứng khoán tăng trưởng rất khả quan.
Do Việt Nam muốn giữ được một tỉ giá tương đối cạnh tranh, vì vậy Ngân Hàng
Nhà nước đã phải mua tiền vào, làm tăng dự trữ ngoại tệ, nhưng mặt khác cũng làm cho
lượng cung ứng tiền về lớn, dẫn đến cân đối cung - cầu ngoại tệ thay đổi, gây áp lực lạm
phát.
Để giải quyết vấn đề ấy, Ngân Hàng Nhà nước đã hút tiền về bằng cách áp dụng
chính sách thị trường mở, bán tín phiếu, tăng dự trữ bắt buộc của các Ngân Hàng Thương
Mại. Nhưng biện pháp này có tổn phí khá cao và khiến cho lãi suất bị đẩy lên. Vì vậy, sẽ
ảnh hưởng đến tăng trưởng do lãi suất cao.
Bên cạnh đó, nếu có sự can thiệp của chính sách tiền tệ bằng cách mua tiền vào thì
phải tăng cường được hiệu lực của các công cụ tiền tệ và vai trò độc lập hơn của NHTƯ
13
trong quyết định các chính sách của mình để vừa đảm bảo khả năng cạnh tranh của tỉ giá,
đồng thời giảm tổn phí cho các biện pháp trung hoà hoá tiền tệ...
Hơn nữa, sức ép tăng giá đồng Việt Nam đã làm giảm sự cạnh tranh của hàng xuất
khẩu, do đó làm giảm cầu xuất khẩu làm ảnh hưởng tiêu cực đến sản xuất hàng xuất khẩu,
làm ảnh hưởng đến cán cân tài khoản vãng lai. Theo ADB, các chỉ số của thị trường tài
chính được tính toán và được dự báo qua các năm:
MỘT SỐ CHỈ SỐ VĨ MÔ CỦA VIỆT NAM, 2006 - 2009
2006 2007 2008 2008
Lạm phát giá tiêu dùng (%)
Chỉ số lạm phát bình quân kỳ
Chỉ số lạm phát cuối kỳ
7.5
6.6
8.3
12.6
18.3
15.6
10.2
7.6
Tăng trưởng thực GDP (%) 8.2 8.5 7.0 8.1
Tốc độ tăng xuất khẩu (%) 23.0 21.3 18.7 23.5
Cán cân vãng lai (% của GDP) -0.3 -8.0 -10.3 -9.4
(Nguồn: Tổng cục thống kê, Ước tính và dự báo của cán bộ ADB)
Theo dự báo của ADB thì cán cân vãng lai của Việt Nam bị thâm hụt cao trong
năm 2008, và có xu hướng giảm vào năm 2009. Điều này cũng có thể được lý giải bằng
việc sức ép tăng giá đồng Việt Nam đã ngày càng làm cho việc xuất khẩu của Việt Nam
ngày càng khó khăn hơn, do đó làm thâm hụt cán cân tài khoản vãng lai.
Báo cáo của Goldman Sachs dự báo, tăng trưởng GDP của Việt Nam có thể giảm
trong năm 2008 và 2009 lần lượt là 7,3% và 7,8%, so với mức tăng trưởng 8,5% trong
năm ngoái. Chỉ số CPI cũng được dự báo ở mức 19% và 10% cho cả năm nay và năm
sau, so với mức 8,3% của năm 2007.
Các chuyên gia của Goldman Sachs cũng nhận định, tình trạng kinh tế tăng trưởng
quá nóng tại Việt nam là điều hiển nhiên do nhiều yếu tố.
14
Giải thích về tình trạng lạm phát tăng cao tại Việt Nam, báo cáo của Goldman
Sachs cho rằng, lượng cung tiền tăng mạnh chính là nguyên nhân chủ đạo gây ra tình
trạng này.
Tình trạng này bắt đầu hiện từ năm 2006 và tăng tốc vào đầu năm 2007. Cùng với
đó, tốc độ tăng trưởng tín dụng cũng tăng từ mức 29% lên 54%. Goldman Sachs đưa ra
hai lý do chính khiến gây ra việc tín dụng tăng trưởng mạnh đó là: luồng vốn chảy vào
Việt Nam tăng đột biến và sự mở rộng của hệ thống ngân hàng, đặc biệt là ngân hàng
thương mại và ngân hàng nước ngoài.
Để giữ VND không bị trượt giá, Ngân hàng Nhà nước đã mua USD về và như thế
bơm thêm VND vào hệ thống tiền tệ. Để tránh thừa VND, Ngân hàng Nhà nước đã phát
hành tín phiếu bắt buộc và tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với các ngân hàng, nhưng vẫn
còn một lượng tiền dư thừa lớn trong nền kinh tế.
Ngoài việc đẩy mạnh cho vay để chiếm thị phần, các ngân hàng cũng tìm mọi cách
để tăng dư nợ nhằm đảm bảo tỷ lệ bắt buộc 3% đối với cho vay cầm cố chứng khoán vào
thời điểm cuối năm 2007.
Theo các chuyên gia của Goldma Sachs, chính sách tiền tệ đóng một vai trò quan
trọng trong việc kiểm soát lạm phát.
Kể từ tháng 6 năm ngoái, Ngân hàng Nhà nước đã áp dụng nhiều công cụ chính
sách tiền tệ để chặn lạm phát như tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc, sử dụng nghiệp vụ repo, phát
hành tín phiếu, tăng lãi suất, nới biên độ tỷ giá VND/USD…
Tuy nhiên, từ nay trở đi, Ngân hàng Nhà nước sẽ không còn nhiều công cụ chính
sách để áp dụng. Và báo cáo cho rằng, hai công cụ sẽ có nhiều khả năng được sử dụng
nhất là tăng lãi suất và kiểm soát tín dụng.
Việc Ngân hàng Nhà nước dỡ bỏ trần lãi suất huy động, ấn định lãi suất tối đa
18%/năm của ngày 17/5 được Goldman Sachs đánh giá là một bước đi tích cực trong việc
chống lạm phát và giảm nhẹ áp lực tiền tệ.
Tuy nhiên, với tình trạng thắt chặt thanh khoản trong các ngân hàng hiện nay kể từ
khi Ngân hàng Nhà nước phát hành 20.000 tỷ tín phiếu bắt buộc trong tháng 3 khiến xuất
hiện một nhân tố rủi ro trong hệ thống.
15
Bản báo cáo cho rằng, đã đến lúc Ngân hàng Nhà nước nên tính đến chuyện cung
cấp thanh khoản cho các ngân hàng, thay vì tiếp tục tìm cách hút bớt thanh khoản trong
ngắn hạn.
Báo cáo cũng dự đoán VND sẽ tiếp tục mất giá so với USD trong thời gian tới.
Ngân hàng Nhà nước sẽ không sử dụng sử công cụ tỷ giá để kiểm soát lạm phát. Thứ
nhất, VND chưa bị định giá quá thấp so với USD. Thứ hai, Chính phủ tiếp tục muốn đẩy
mạnh xuất khẩu và thu hút vốn FDI.
2.3.2 Doanh nghiệp
Để bù đắp quỹ lương tăng do lạm phát, các công ty phải tăng cường cắt giảm chi
phí từ hoạt động không trực tiếp tạo ra lợi nhuận, hạn chế tuyển dụng nhân viên mới, sa
thải những nhân viên không đáp ứng được yêu cầu của công việc. Lạm phát thúc đẩy các
doanh nghiệp để giảm chi phí, quản lý tốt hơn quá trình hoạt động kinh doanh.
Một vài dẫn chứng điển hình của các công ty thuộc lĩnh vực công nghệ thông tin
và viễn thông “chống chọi“ với lạm phát:
* Các công ty viễn thông:
Giá hàng hóa leo thang, chỉ số CPI cả năm dự báo đạt con số 20%, khiến các hãng
viễn thông cũng lo ngại, việc cắt giảm chi tiêu của người dân có thể ảnh hưởng tới nhu
cầu xài di động.
Mấy tháng gần đây, chương trình khuyến mãi, giảm giá của các hãng di động Việt
Nam không còn rầm rộ như trước, mức tiền mà doanh nghiệp tặng vào tài khoản cho mỗi
thuê bao cũng không còn hấp dẫn như hồi năm ngoái. Chi phí đầu vào tăng, cùng với tốc
độ trượt giá chung của nhiều nhóm hàng dịch vụ, các nhà khai thác viễn thông bắt đầu
cảm nhận lạm phát đã lan đến cửa nhà mình.
Điều khiến các hãng viễn thông lo lắng nhất hiện nay đó là nhu cầu xài di động của
khách hàng có thể thay đổi do họ phải cắt giảm chi tiêu, hạn chế những cuộc gọi không
cần thiết. Theo đó, lưu lượng cuộc gọi và tốc độ phát triển thuê bao cũng có khả năng
giảm theo.
VinaPhone nhẩm tính, từ đầu tháng 5 đến nay, lượng thuê bao phát triển mới của
hãng bắt đầu giảm nhẹ dù công ty vẫn duy trì chương trình khuyến mãi tặng tiền vào tài
khoản cho khách hàng và nhân đôi số tiền cho các chủ nạp. Hiện nay mỗi ngày
16
VinaPhone phải cố gắng tối đa mới phát triển được 30.000-35.000 thuê bao, trong khi con
số của tháng 1 và 3 vào khoảng 50.000-55.000.
Các chuyên gia kinh tế nhìn nhận, đối với 3 doanh nghiệp lớn như VinaPhone,
MobiFone và Viettel có thể bị ảnh hưởng ít nhiều từ yếu tố lạm phát song không nhiều.
Nặng nề nhất có thể kể đến đó là mạng di động HT Mobile khi nhà khai thác này vừa
bước vào giai đoạn chuyển đổi công nghệ. Giá vật tư leo thang, thiết bị, nhân công đắt
đỏ... sẽ khiến cho chi phí đầu tư của họ sẽ bị đội lên.
* Công ty công nghệ thông tin:
Trong bối cảnh cơn bão giá đang hoành hành, các công ty phần mềm một mặt tăng
lương, một mặt thì “thắt lưng buộc bụng” chống chọi với lạm phát. Theo phản ánh của
các DN phần mềm như công ty Misa, Past, Ti._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Bai hoan chinh.pdf