Lời mở đầu
Ngày nay,vai trò quan trọng của các nguồn vốn tài chính quốc tế là điều không thể phủ nhận đối với phát triển kinh tế ở các nước đang phát triển.Vốn là khâu thiết Yếu trong vòng tròn tác động lẫn nhau giữa vốn,kĩ thuật và tăng trưởng.Các nước đang phát triển thường thiếu tư bản và năng suất thấp.Muốn tăng năng suất và tăng thu nhập bình quân đầu người các nước này cần phải đầu tư cho phát triển kinh tế.Vốn đầu tư đó có thể được tài trợ bằng tiết kiệm trong nước hoặc từ các luồng tư b
57 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1458 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài của Việt Nam từ 2000 đến nay.Thực trạng & Giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ản quốc tế.Nhưng trên tỉ lệ tiết kiệm ở các nước này thường rất thấp và không đủ cung cấp cho tăng trưởng và phát triển bền vững.Do vậy việc xác định nguồn vốn đầu tư nước ngoài là hết sức cần thiết.Trong khi xu hướng viện trợ ODA trên thế giới đang có xu hướng giảm xuống và gánh nặng khủng hoảng nợ quốc tế đang đè nặng lên vai các nước đang phát triển thì FDI sẽ là một “cứu cánh” đóng vai trò thúc đẩy tăng trưởng kinh tế toàn cầu và được xem như là “cầu nối”rút ngắn khoảng cách phát triển kinh tế giữa các nước phát triển và nước đang phát triển.
Đối với Việt Nam một đất với một xuất phát điểm thấp đi lên từ một nước nông nghiệp lạc hậu,trình độ kĩ thuật kém,năng suất lao động thấp thì vốn quốc tế đặc biệt là nguồn vốn FDI được Đảng ta xác định là nhân tố hết sức quan trọng đối với nhiệm vụ đổi mới và phát triển kinh tế nước ta hiện nay.
Để thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001 - 2010 và phương hướng nhiệm vụ Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 2001 - 2005 khu vực đầu tư trực tiếp nước ngoài phải phát triển ổn định hơn, đạt kết quả cao hơn, đặc biệt là về chất lượng, so với thời kỳ trước, để đẩy nhanh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.Hoạt động FDI phải đạt được mục tiêu thu hút được 12 tỷ USD và khu vực này đến năm 2005 phải đóng góp khoảng 15% GDP, 25% tổng kim ngạch xuất khẩu và khoảng 10% tổng thu ngân sách của cả nước (không kể dầu khí).
Với nhận thức về tầm quan trọng của FDI trong giai đoạn hiện nay,em đã chọn đề tài: “Thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài của Việt Nam từ 2000 đến nay.Thực trạng và giải pháp”.
Nhằm mục tiêu là thông qua làm rõ cơ sở lý luận của FDI,xem xét một cách tổng quan FDI trên các phương diện quy mô,thực trạng cấp giấy phép đầu tư,cơ cấu FDI theo ngành ,vùng,theo đối tác và theo các hình thức đầu tư để có thể đề xuất một số giải pháp trước mắt và lâu dài góp phần giải quyết những khó khăn về thu hút FDI của Việt Nam trong thời gian qua.
Xuất phát từ mục đích nêu trên đối tượng nghiên cứu của đề án là nguồn vốn FDI tại Việt Nam,nghiên cứu những nguyên nhân khách quan và chủ quan đã dẫn đến tình trạng thu hút không hiệu quả FDI trong giai đoạn vừa qua (2000-2002)
Để làm sáng tỏ những vấn đề nêu trên đề án đã sử dụng các phương pháp phân tích đánh giá ,thống kê,mô tả, so sánh các mô hình của các nước trong khu vực và thế giới như các mô hình của ThaiLan,Trung Quốc…
Trên cơ sở đó đề án được bố cục thành 3 mục lớn
Mục I : Tổng quan Đầu tư trực tiếp nước ngoài
Mục II: Thực trạng và những vấn đề đang đặt ra trong quá trình thu hút của Việt Nam từ 2000 đến nay
Mục III: Một số giải pháp nâng cao khả năng Thu hút vốn FDI ở Việt Nam
Do thời gian và trình độ có hạn nên đề án chuyên nghành còn có nhiều thiếu sót.Vì vậy em rất mong sự đóng góp ý kiến của các thầy cô giáo để bài viết được hoàn thiện hơn.Em xin chân thành cảm ơn PGS-TS Nguyễn Như Bình đã tận tình hướng dẫn và giúp đỡ em hoàn thành bài viết này.
MụcI: Tổng quan Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI- Foreign Direct Invesment)
Khái niệm & đặc điểm
*Khái niệm:
Xuất phát từ nhiều khía cạnh góc độ quan điểm khác nhau trên thế giới đã có rất nhiều khái niệm về Đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Theo Quỹ tiền tệ quốc tế(IMF)(1977):
Đầu tư trực tiếp nước ngoài ám chỉ số lượng đầu tư được thực hiện để thu được lợi ích lâu dài trong một hãng hoạt động ở một nền kinh tế khác với nền kinh tế của nhà đầu tư,mục đích của nhà đầu tư là giành được tiếng nói có hiệu quả trong công việc quản lý hãng đó.
Theo Luật Đầu tư nước ngoài của Liên Bang Nga(04/07/1991):
Đầu tư trực tiếp nước ngoài là tất cả các hình thức giá trị tài sản và những giá trị tinh thần mà nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào các đối tượng sản xuất kinh doanh và các hoạt động khác nhằm mục đích thu lợi nhuận.
Theo hiệp hội Luật quốc tế Hexitiky(1996):
Đầu tư trực tiếp nước ngoài là sự di chuyển vốn từ nước của người đầu tư sang nước của người sử dụng nhằm xây dựng ở đó những xí nghiệp kinh doanh hay dịch vụ.
Theo Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam sửa đổi, ban hành 09/06/2000, tại Điều 2 Chương I:
"Đầu tư trực tiếp nước ngoài" là việc nhà đầu tư nước ngoài đưa vào Việt Nam vốn bằng tiền hoặc bất kỳ tài sản nào để tiến hành các hoạt động đầu tư theo quy định của Luật này.
Như vậy , mặc dù có rất nhiều quan điểm khác nhau khi đưa ra khái niệm về FDI song ta có thể đưa ra một khái niệm tổng quát nhất là:
Đầu tư trực tiếp nước ngoài là hình thức mà nhà đầu tư bỏ vốn để tạo lập cơ sở kinh doanh ở nước tiếp nhận đầu tư. Trong đó,nhà đầu tư nước ngoài có thể thiết lập quyền sở hữu từng phần hoặc toàn bộ vốn đầu tư và giữ quyền quản lý ,điều hành trực tiếp đối tượng mà họ bỏ vốn nhằm mục đích thu được lợi nhuận từ các hoạt động đầu tư đó trên cơ sở tuân theo qui định Luật đầu tư nước ngoài của nước sở tại.
Đặc điểm Đầu tư trực tiếp nước ngoài :
*Nhà ĐTNN chịu trách nhiệm trực tiếp trước hoạt động sản xuất kinh doanh của họ. Vì vậy, việc tiếp nhận FDI không gây nên tình trạng nợ nước ngoài cho nước chủ nhà.
*Các chủ ĐTNN phải đóng góp một lượng vốn tối thiểu vào vốn pháp định tuỳ theo qui định của Luật Đầu tư nước ngoài ở từng nước,để họ có quyền trực tiếp tham gia điều hành,quản lý đối tượng mà họ bỏ vốn đầu tư. Chẳng hạn, ở Việt Nam theo Điều 8 của Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam qui định “ Số vốn đóng góp tối thiểu của phía nước ngoài phải bằng 30% vốn pháp định của dự án”(Trừ những trường hợp do Chính phủ qui định)
*Quyền quản lý điều hành doanh nghiệp có vốn Đầu tư trực tiếp nước ngoài phụ thuộc vào tỷ lệ vốn góp. Tỷ lệ vốn góp càng cao thì quyền quản lý và ra quyết định càng lớn.Đặc điểm này giúp ta phân định được các hình thức Đầu tư trực tiếp nước ngoài.Nếu nhà ĐTNN góp 100% vốn thì doanh nghiệp đó hoàn toàn do chủ ĐTNN điều hành.
*Hoạt động FDI không chỉ đưa vốn vào nước tiếp nhận đầu tư mà còn có cả công nghệ,kỹ thuật,bí quyết kinh doanh,sản xuất,năng lực sản xuất Marketing,trình độ quản lý ..Hình thức đầu tư này mang tính hoàn chỉnh bởi khi vốn đưa vào đầu tư thì hoạt động sản xuất kinh doanh được tiến hành và sản phẩm được tiêu thụ trên thị trường nước chủ nhà hoặc nước xuất khẩu.
*Quyền lợi của các nhà ĐTNN gắn chặt với các dự án đầu tư: Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp quyết định mức lợi nhuận của nhà đầu tư.Sau khi trừ đi thuế lợi tức và các khoản đóng góp cho nước chủ nhà,nhà ĐTNN nhận được phần lợi nhuận theo tỷ lệ vốn góp trong vốn pháp định.
*Chủ thể của Đầu tư trực tiếp nước ngoài thường là các công ty đa quốc gia và xuyên quốc gia(chiếm 90% nguồn vốn FDI đang vận động trên thế giới).Thông thường các chủ đầu tư này trực tiếp kiểm soát hoạt động của doanh nghiệp và đưa ra những quyết định có lợi nhất cho công ty của mình.
*Nguồn vốn FDI được sử dụng theo mục đích của chủ thể ĐTNN trong khuôn khổ Luật đầu tư nước ngoài của nước sở tại.Nước tiếp nhận đầu tư chỉ có thể định hướng một cách gián tiếp việc sử dụng vốn vào những mục đích cụ thể của nước đó (Như khuyến khích đầu tư vào nghành,lĩnh vực kinh tế trọng điểm,hoặc các ngành,vùng khó khăn…)
*Quan hệ FDI ít có sự tác động và liên quan đến các vấn đề chính trị giữa các quốc gia với nhau.
Các hình thức Đầu tư trực tiếp nước ngoài
3.1- Hợp đồng hợp tác kinh doanh:
Hợp đồng hợp tác kinh doanh là văn bản ký kết giữa hai hay nhiều bên(gọi tắt là bên hợp doanh)để cùng nhau tiến hành một hay nhiều hoạt động sản xuất kinh doanh ở nước tiếp nhận đầu tư trên cơ sở qui định trách nhiệm và phân chia kết quả kinh doanh cho mỗi bên mà không thành lập pháp nhân mới.
3.2- Doanh nghiệp liên doanh:
Doanh nghiệp liên doanh là doanh nghiệp được thành lập trên cơ sở hợp đồng hợp tác kinh doanh ký một bên hoặc các bên nước ngoài với một bên hoặc các bên nước nhận đầu tư để đầu tư, kinh doanh tại nước sở tại.
3.3- Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài:
Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài là doanh nghiệp hoàn toàn thuộc quyền sở hữu của các tổ chức,cá nhân nước ngoài thành lập tại nước nhận đầu tư,tự quản lý điều hành và tự chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh.
Tác động Đầu tư trực tiếp nước ngoài
Tác động tích cực:
Nguồn FDI là nguồn bổ sung quan trọng để các nước đang phát triển thực hiện công nghiệp hoá ,hiện đại hoá đất nước. So với toàn bộ vốn đầu tư phát triển toàn xã hội, vốn FDI ở Trung Quốc hiện chiếm tới 29% và ở Việt Nam 24,5% và dự kiến trong thời kỳ 2001-2005 sẽ là 18,6% .Do đó FDI đóng góp rất lớn vào tăng trưởng kinh tế của các nước này.Các nhà nghiên cứu cũng đã chứng minh rằng vốn FDI chiếm tỷ trọng càng lớn trong GDP thì tốc độ tăng trưởng GDP thực tế càng cao.Theo số liệu của Tổng cục thống kê, năm 2001 tỷ trọng FDI trong GDP là 13,5% với tốc độ tăng trưởng GDP là 6,84%.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài góp phần phát triển nguồn nhân lực và tạo thêm công ăn việc làm mới cho nước tiếp nhận đầu tư.Các dự án FDI có yêu cầu cao về chất lượng nguồn lao động ,trước tình hình đó yêu cầu khách quan là phải nâng cao chất lượng về ngoại ngữ và trình độ chuyên môn,tay nghề của người lao động.Mặt khác, các chủ ĐTNN góp phần tích cực đào tạo đội ngũ lao động nòng cốt cho nước sở tại, chuyển giao được công nghệ-kĩ thuật,kinh nghiệm,năng lực quản lý tiên tiến.FDI đồng thời góp phần giải quyết tình trạng thất nghiệp.Năm 2001 FDI thu hút tới 380 nghìn lao động trực tiếp sản xuất trong các nghành có vốn Đầu tư trực tiếp nước ngoài
Hoạt động của các dự án FDI có tác động quan trọng tới xuất nhập khẩu của các nước chủ nhà. Tỷ lệ xuất khẩu của các dự án DFI so với tổng số xuất khẩu của Singapore là 75%,Trung Quốc 34%, Đài Loan 26,5% trong khi ở Việt Nam là 23,57%(Năm 2001)
Trong bối cảnh toàn cầu hoá, FDI góp phần thúc đẩy các quốc gia vào sự phân công lao động quốc tế. Xu thế toàn cầu hoá hội nhập khu vực và quốc tế là đòi hỏi tất yếu khách quan việc các quốc gia phải thay đổi cơ cấu kinh tế của mình là tất nhiên.Sự chuyển dịch về cơ cấu kinh tế có đóng góp không nhỏ của nguồn vốn FDI.Chẳng hạn vốn FDI đầu tư vào Thái Lan có trên 80% tập trung vào công nghiệp và ở Việt Nam tỷ lệ này là khoảng 65%
Các dự án FDI đóng góp phần đáng kể trong thu Ngân sách quốc gia.Các nguồn thu chủ yếu từ các khoản cho thuê mặt đất,mặt nước ,mặt biển,từ các loại thuế doanh thu ,lợi tức ,thuế xuất nhập khẩu.
Tác động tiêu cực:
FDI làm tăng sự lệ thuộc của nước chủ nhà vào nước ngoài về vốn,công nghệ và mạng lưới thị trường tiêu thụ sản phẩm:
Các nước tiếp nhận đầu tư thường là các nước có trình độ công nghệ thấp,lạc hậu.Trong khi đó các nhà ĐTNN lại ở các nước phát triển và sử dụng công nghệ hiện đại nhằm tạo ra những sản phẩm có chất lượng cao,khả năng cạnh tranh,chiếm lĩnh thị trường của sản phẩm lớn nên hầu hết công nghệ sản xuất đều là nhập khẩu và đôi khi còn phải nhập khẩu hoàn toàn nguyên vật liệu. Bởi vậy việc các nước chủ nhà ngày càng lệ thuộc sâu vào đầu tư nước ngoài là điều không tránh khỏi.Do đó các quốc gia đang phát triển phải nhận thức vấn đề này và giải quyết nó bằng cách nâng cao năng lực phát triển của mình theo hướng công nghiệp hoá hiện đại hoá nền kinh tế,nâng cao khả năng cạnh tranh trong nước.
Nước chủ nhà có nguy cơ trở thành bãi rác thải công nghiệp của các nước phát triển.Một thực tế là,kỹ thuật mới công nghệ hiện đại chuyển giao cho các công ty 100% vốn nước ngoài,trong khi đó công nghệ hạng 2,3 thậm chí thấp hơn lại được chuyển giao cho nước chủ nhà thông qua hình thức liên doanh hoặc bán bản quyền.Hơn nữa,do trình độ yếu kém của nước chủ nhà nên công nghệ thường được đánh giá cao hơn mức bình thường.Mặc dù những thiết bị,công nghệ đó có khi còn hiện đại hơn so với thiết bị,công nghệ đang sử dụng ở nước chủ nhà nhưng nguy cơ trở thành bãi rác thải công nghiệp của các nước phát triển là điều có thể nhìn thấy được trong tương lai.Vấn đề đặt ra là phải làm sao để thanh lọc và làm trong sạch đội ngũ cán bộ,nâng cao trình độ thẩm định dự án,đa dạng hoá nguồn ĐTNN ngay trong từng ngành công nghiệp và qua đó chọn lọc được kỹ thuật tối ưu,nâng cao khả năng tiếp cận công nghệ mới của nước chủ nhà.
Các nhà ĐTNN lợi dụng FDI để can thiệp bất lợi vào nền chính trị của nước chủ nhà,hoạt động tình báo,gây rối an ninh chính trị.Không phải nhà đầu tư nào cũng đầu tư để thu lợi nhuận Trong số họ không ít cá nhân,tổ chức dưới danh nghĩa tiến hành hợp tác kinh doanh nhưng thực tế lại thực hiện các mục tiêu chính trị.Trong thế giới đa cực và sự phát triển vũ bảo của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật,các hoạt động tình báo diễn ra ngày càng nhiều với mức độ ngày càng tinh vi hơn, đòi hỏi các quốc gia phải luôn tỉnh táo trong quan hệ đối ngoại
Ngoài một số tác động tiêu cực trên còn có một số những hạn chế do FDI mang lại như: Các doanh nghiệp có vốn ĐTNN thu hút một số lượng lớn lao động có trình độ tay nghề cao,các cán bộ chuyên môn trẻ có năng lực,đồng thời với quy mô công ty lớn,nhiều vốn đã và đang gây khó khăn cho các doanh nghiệp nhỏ .Mặt khác, các doanh nghiệp nước ngoài lại lạm dụng quá đáng sức lao động của công nhân,tạo chênh lệch về thu nhập giữa các tầng lớp dân cư đã dẫn đến sự phân hoá giàu nghèo sâu sắc là nguyên nhân gây nên tệ nạn xã hội và xung đột xã hội.
Nhân tố ảnh hưởng FDI
4.1- Môi trường chính trị - XH
Sự ổn định chính trị-xã hội có ý nghĩa quyết định đến việc huy động và sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư,đặc biệt là đầu tư nước ngoài.Tình hình chính trị-xã hội không ổn định,đặc biệt là thể chế chính trị(kèm theo đó là sự thay đổi luật pháp)thì mục tiêu và phương thức thực hiện mục tiêu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài sẽ thay đổi.Hậu quả là lợi ích của các nhà đầu tư nước ngoài giảm đi nhưng quan trọng hơn là lòng tin của các nhà đầu tư giảm sút.Điều này sẽ dẫn tới một hậu quả trực tiếp là vốn ĐTNN giảm đi,các nhà đầu tư sẽ ngừng hoặc là không đầu tư nữa.Chẳng hạn như tình hình bất ổn về chính trị của Nga năm 1999 khi hàng loạt các thủ tướng Nga bị tổng thống Nga Boris-Enxin cách chức trong thời gian rất ngắn,nội các thay đổi liên tục,tình hình khủng hoảng về cơ cấu bộ máy quyền lực rất nặng nề.Tình hình đó đã làm giảm sút ghê gớm vốn FDI vào Nga dù Nga là một thị trường lớn và đầy tiềm năng…Tình hình như Indonesia hiện nay cũng hết sức phức tạp,hàng loạt các vụ đánh bom khủng bố tấn công vào các tụ điểm công cộng ở BaLi,cùng với nhiều hoạt động bất thường khác làm tác động đến kinh tế Indonesia và tác động giảm đầu tư nước ngoài do các nhà đầu tư giảm lòng tin.
4.2- Sự ổn định môi trường kinh tế vĩ mô
Có thể nói rằng sự ổn định môi trường kinh tế vĩ mô là một trong những nhân tố quan trọng nhất để các nhà đầu tư phân tích,đánh giá thị trường và ra các quyết định đầu tư.Đây là điều kiện chi phối mạnh mẽ mọi ý định và hành vi đầu tư của nhà ĐTNN.Tùy theo những mục tiêu riêng của công ty mà các nhà đầu tư sẽ lựa chọn các tiêu chí nào để xem xét môi trường kinh doanh ở các nước chủ nhà cụ thể là một số tiêu chí về nhân tố kinh tế sau:
Phân loại FDI theo động cơ đầu tư
Các nhân tố kinh tế của nước tiếp nhận FDI
A.Tìm thị trường
*Qui mô thị trường & thu nhập bình quân đầu người
*Mức tăng trưởng thị trường
*Khả năng tiếp cận thị trường khu vực và quốc tế
*Thị hiếu tiêu dùng đặc trưng
*Cấu trúc thị trường
B.Tìm nguồn lực
*Nguyên liệu
*Lao động phổ thông
*Lao động chuyên môn
*Công nghệ,sáng kiến & các tài sản khác(ví dụ thương hiệu,bí quyết…)
*Hạ tầng cơ sở(đường sá,bến cảng,điện,viễn thông…)
C.Tìm hiệu quả
*Chi phí các nguồn lực nêu ở b)
*Các chi phí đầu vào khác như chi phí vận tải,viễn thông,sản phẩm trung gian khác…
*Có là thành viên của các hiệp định liên kết khu vực hay không.
4.3- Hệ thống pháp luật đồng bộ và bộ máy quản lý Nhà nước có hiệu quả:
Môi trường pháp luật là một bộ phận quan trọng không thể thiếu đối với hoạt động FDI.Một hệ thống pháp luật đồng bộ ,hoàn thiện và vận hành hữu hiệu là một trong những yếu tố tạo nên môi trường kinh doanh thuận lợi,định hướng cho các nhà đầu tư,tạo khả năng thích nghi cho nhà đầu tư đặc biệt là tạo niềm tin cho nhà đầu tư,đây có thể xem là yếu tố then chốt kích thích các nhà đầu tư nước ngoài.Vấn đề mà các nhà đầu tư đã và đang quan tâm là:
Môi trường cạnh tranh lành mạnh,quyền sở hữu tài sản tư nhân được bảo đảm bằng pháp luật.
Đối với các hệ thống pháp luật hay thay đổi các nhà đầu tư rất quan tâm đến việc thực hiện nguyên tắc “Không hồi tố ”
Các qui định về ngành,lĩnh vực khuyến khích đầu tư,hạn chế đầu tư và cấm đầu tư phải thật rõ ràng sao cho các nhà đầu tư có thể lựa chọn các lĩnh vực đầu tư có hiệu quả nhất,theo đúng năng lực hiện có của các nhà đầu tư phù hợp với pháp luật nước sở tại.
Qui định về thuế,giá,thời hạn thuê đất…Bởi yếu tố này tác động trực tiếp tới giá thành sản phẩm và tỷ suất lợi nhuận.Nếu các qui định pháp lý bảo đảm an toàn về vốn của nhà đầu tư không bị quốc hữu hoá khi hoạt động đầu tư không phương hại đến an ninh quốc gia,bảo đảm mức lợi nhuận cao và di chuyển vốn về nước thuận tiện thì khả năng thu hút FDI càng cao.
4.4- Trình độ quản lý và năng lực người lao động
Quy mô, giá cả và chất lượng lao động vừa là nhân tố để thu hút vừa là nhân tố sử dụng có hiệu quả FDI.Bởi con người là chủ thể của các quan hệ xã hội,là “yếu tố động” tác động lên tư liệu sản xuất, cải tạo tư liệu lao động nâng cao sự phát triển của tư liệu lao động lên một tầm cao mới,tiến bộ hơn.Vì lẽ đó, lao động nước sở tại được các nhà đầu tư nước ngoài hết sức quan tâm.Một đội ngũ lao động trình độ thấp,kỷ luật lao động không tốt …thì dù có giá rẻ các nhà đầu tư vẫn phải cân nhắc ra các quyết định đầu tư,bởi lẽ hiệu quả và năng suất lao động của doanh nghiệp sẽ bị ảnh hưởng.Vì vậy,nước chủ nhà phải chủ động,tích cực nâng cao trình độ dân trí của người lao động thông qua các chiến lược phát triển giáo dục&đào tạo và chương trình cụ thể nhằm để không chỉ đáp ứng nhu cầu lao động cho ĐTNN mà còn tiến tới chủ động nắm bắt khoa học-công nghệ,trình độ quản lý tiên tiến để có thể tự mình đứng vững xây dựng và quản lý xã hội trong tương lai
Xu hướng vận động của luồng FDI trên thế giới:
Đầu tư trực tiếp nước ngoài là một trong những dạng đầu tư quan trọng trong nền kinh tế thế giới.Trong những thập kỷ 90 trở lại đây luồng vốn FDI có những thay đổi theo những xu hướng sau:
*Tốc độ gia tăng dòng FDI khá cao và lượng vốn FDI chiếm tỷ trọng ngày càng lớn trong tổng vốn đầu tư của toàn thế giới. Càng cuối thập kỷ 90,tốc độ lưu chuyển FDI càng tăng nhanh,lên tới 20% mỗi năm.Năm 1995 tổng mức FDI thế giới là 325 tỷ USD. Nhưng tới năm 1998,theo báo cáo của tổ chức hội nghị về thương mại và phát triển Liên Hợp Quốc(UNCTAD),tổng FDI thế giới là 636 tỷ USD tăng 40% so với năm 1997 và tăng gấp đôi năm 1995.Năm 1999 Khối lượng FDI lưu chuyển trên toàn thế giới là 865 tỷ USD tăng 36% so với năm 1998 và gấp 10 lần so với 10 năm trước đó.Năm 2000 FDI đạt mức kỷ lục là khoảng 1230 tỷ USD tăng 38,7% so với năm1999(Do trong năm này quá trình sáp nhập và mua bán công ty diễn ra mạnh mẽ,đặc biệt là các vụ sáp nhập kỷ lục ở Châu Âu và Mỹ,chủ yếu trong các lĩnh vực năng lượng và tài chính-ngân hàng).Song năm 2001 cũng theo báo cáo của UNCTAD cho thấy kinh tế thế giới trì trệ đã làm cho FDI thế giới giảm mạnh ,giảm tới 41,5% so với năm 2000 xuống còn 725 tỷ USD.Năm 2001 nguồn vốn FDI vào các nước phát triển giảm tới 50% so với năm trước,còn 500 tỷ USD trong khi FDI vào các nước đang phát triển giảm 6,2% ,còn 225 tỷ USD.Nguyên nhân của tình trạng trên là do kinh tế của các cường quốc Mỹ và Nhật lâm vào suy thoái ,và các vụ sáp nhập và mua bán công ty của các công ty xuyên quốc gia giảm mạnh cả về số lượng và quy mô.
Dự đoán năm 2002 nguồn vốn FDI thế giới sẽ phục hồi tuy với mức độ thấp đạt 756 tỷ USD tăng 4,3% so với năm 2001.Và trong giai đoạn 2003-2005 nguồn vốn FDI thế giới đạt nhanh hơn tăng 9%/năm,đạt 986 tỷ USD vào năm 2005.Tuy nhiên nguồn vốn FDI sẽ thấp hơn 20,5% so với 2000.
*Dòng vốn FDI đang chịu sự chi phối và kiểm soát chủ yếu bởi các công ty xuyên quốc gia(TNCs-Transfer national companies) của các nước phát triển.TNCs trở thành những chủ thể đầu tư trực tiếp kiểm soát trên 90% tổng FDI thế giới hiện nay.Chỉ 100 TNCs lớn nhất thế giới(tất cả đều thuộc Mỹ,EU và Nhật Bản) đã chiếm tới 1/3FDI toàn cầu và tổng tài sản ở nước ngoài của chúng lên tới 1400 tỷ USD và sử dụng tới 73 triệu lao động,trong đó lao động ở nước ngoài là 12 triệu ,chiếm 16%.Xu hướng các TNCs sẽ ngày càng bành trướng ra nước ngoài đòi hỏi các quốc gia phải có một chiến lược thu hút FDI từ các TNCs này.
*Bên cạnh quy mô đầu tư mở rộng thì cơ cấu đầu tư cũng đang thay đổi theo chiều hướng tập trung vào lĩnh vực công nghiệp chế biến và dịch vụ:Trong giai đoạn hiện nay,xu hướng chính của quá trình đầu tư quốc tế là đầu tư vào các ngành có hàm lượng chất xám cao, đầu tư vào các nghành sản xuất áp dụng công nghệ hiện đại theo chiều sâu phù hợp với một nền “kinh tế tri thức” trong tương lai.Một cơ cấu kinh tế được coi là hiện đại khi các nghành công nghiệp chế biến và dịch vụ chiếm tỷ trọng lớn.Số vốn FDI vào nghành dịch vụ chiếm hơn 50% tổng vốn FDI toàn thế giới trong những năm 80 và ngày nay đang có xu hướng tăng lên,trong đó chủ yếu tập trung vào các lĩnh vực tài chính ngân hàng ,khách sạn,nhà hàng.Nhìn chung, nhiều công ty lớn có xu hướng đầu tư kinh doanh đa nghành và mở rộng hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ.Ví dụ: Công ty SONY mở thêm các tiệm ăn uống lớn tại Pháp và một số nước Tây Âu.Công ty viễn thông ITT lớn nhất của Nhật Bản nhưng lại kiểm soát một số lượng rất lớn các khách sạn nổi tiếng trên thế giới…v.v
*Thêm vào đó xu hướng “đa cực” và “đa biên” trong hoạt động FDI ngày càng rõ nét.Sau đại chiến thế giới thứ II,Mỹ là nước duy nhất thực hiện đầu tư trực tiếp ra nước ngoài theo kế hoạch Marshall.Nhưng sau đó,tính chất “một cực” trong đầu tư trực tiếp nước ngoài mất dần thay vào đó hình thành xu hướng “đa cực” trong hoạt động FDI khi có sự xuất hiện của Nics,Tây Âu và Nhật Bản.Ngày nay,bên cạnh đó còn xuất hiện cả hiện tượng “đa biên” tức là nhiều chủ đầu tư cùng tham gia vào một công trình đầu tư.Chẳng hạn,trong công ty Thai Ceramic Industry Co.Ltd ở Thái Lan có các cổ đông: Thái Lan góp 62,2%,Malaixia góp 22,9%,Đài Loan góp 9%,Hồng Kông góp 4%,Nhật Bản góp 1%.
*Tính linh hoạt trong dòng chảy FDI ngày càng cao,FDI có xu hướng vận động đến những thị trường an toàn và đem lại nhiều lợi nhuận.Vào những năm 60 các nước đang phát triển ở Mỹ Latinh đạt được tốc độ tăng trưởng cao hấp dẫn dòng FDI tập trung chảy vào khu vực này.Đến cuối những năm 70,đầu những năm 80,FDI có xu hướng chuyển sang Đông Nam á là nơi được đánh giá có sự phát triển kinh tế năng động và triển vọng rất lớn,cộng thêm vào đó là tình hình tương đối ổn định về mặt chính trị.Tuy nhiên,cơn bão tài chính tiền tệ Châu á năm 1997 và kéo theo đó là suy thoái kinh tế,người ta đã phải chứng kiến sự rút vốn ồ ạt của nhiều chủ đầu tư quốc tế.Đến nay,nền kinh tế các nước Mỹ Latinh và vùng Caribe bắt đầu khởi sắc,các quốc gia khủng hoảng ở Châu á đang phục hồi báo hiệu dòng FDI sắp tới sẽ trở lại với những quốc gia này.
Mục II: Thực trạng và những vấn đề đang đặt ra trong quá trình thu hút và sử dụng FDI ở Việt Nam từ 2000 đến nay.
Quy mô đầu tư và thực trạng cấp giấy phép đầu tư tại Việt Nam thời gian qua:
Theo số liệu báo cáo của Bộ Kế hoạch và Đầu Tư,tính đến 25/09/2002 Tổng vốn đăng ký kể cả cấp mới và bổ sung đạt 1,487 tỷ USD.Trong đó:
+Cấp mới : Theo báo cáo cho biết ,trên địa bàn cả nước có 478 dự án(tăng 27% so với cùng kỳ năm 2001) được cấp giấy phép đầu tư với tổng vốn đăng ký là 886 triệu USD(chỉ bằng 45% so với cùng kỳ năm 2001)
+Tăng vốn : Cho đến nay,nhiều dự án ĐTNN do hoạt động ổn định , hiệu quả nên đã có 181 lượt dự án điều chỉnh tăng vốn với tổng vốn đăng ký đạt thêm là 601 triệu USD.
+Đến 25/09/2002.Bộ Kế hoạch và Đầu tư cấp 21 dự án với tổng vốn đầu tư đăng ký là 94,3 triệu USD chiếm 10,6% tổng vốn đầu tư đăng ký.UBND các tỉnh cấp giấy phép cho 294 dự án(chiếm 61,5% số dự án) với tổng vốn đầu tư đăng ký là 375,7 triệu USD(chiếm 42%).Ban quản lý các KCN-KCX cấp giấy phép cho 163 dự án(chiếm 34%) với vốn đăng ký là 416 triệu USD(chiếm 46,9%)
Qua các số liệu trên ta rút ra một số nhận xét sau:
Số lượng vốn đăng ký mới kể cả vốn bổ sung đạt hơn 1,4 tỷ USD ,đây là một kết quả không nhỏ song có thể thấy rằng số dự án tăng 27% so với cùng kỳ năm 2001 nhưng số vốn đăng ký lại giảm (chỉ bằng 45% so với cùng kỳ năm 2001) Bởi vì,do các dự án được cấp mới trong 9 tháng đầu năm 2002 có quy mô vốn đầu tư khá nhỏ trong khi đó năm 2001 có hai dự án điện đầu tư theo hình thức BOT là dự án điện Phú Mỹ 3 và dự án Phú Mỹ 2.2 với tổng vốn đầu tư là 834,8 triệu USD (Báo cáo cuối năm 2001 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư) cho nên việc số lượng dự án tăng song số vốn đầu tư lại không bằng năm trước là điều có thể hiểu được.
Các dự án bổ sung vốn chỉ có 181 lượt dự án song số vốn bổ sung là 601 triệu USD bằng 2/3 số vốn đăng ký mới(Với số dự án cấp giấp phép mới là 478 dự án) qua đó ta thấy rằng các dự án năm 2001 đang hoạt động là các dự án tương đối lớn so với quy mô nhỏ hơn nhiều của dự án năm 2002.
Mục tiêu của Việt Nam hiện nay là thu hút khoảng trên 2 tỉ đô-la Mỹ đầu tư nước ngoài mỗi năm. Năm ngoái, chỉ tiêu này đạt được nhờ việc cấp phép cho một số dự án có quy mô lớn như hai dự án điện Phú Mỹ đầu tư theo hình thức BOT có tổng vốn đầu tư 834,8 triệu đô-la Mỹ; dự án tổ hợp nhà máy điện, dệt sợi Formosa với vốn đầu tư 245 triệu đô-la Mỹ; và dự án điện thoại di động CDMA 230 triệu đô-la Mỹ... Năm nay, tính đến 25 tháng 9, Việt Nam mới chỉ thu hút được tổng cộng 886 triệu đô-la Mỹ vốn đầu tư mới.
Mặc dù vậy, đến cuối năm nay Việt Nam vẫn có thể đạt được chỉ tiêu thu hút 2 tỉ đô-la Mỹ nếu căn cứ vào ý định của một số nhà đầu tư nước ngoài: chẳng hạn dự án Formosa dự định tiếp tục thực hiện giai đoạn 2 với vốn đầu tư khoảng 1 tỉ đô-la Mỹ, dự án thép cán mỏng của China Steel khoảng 500 triệu đô-la Mỹ, dự án hoá chất sản xuất DAP và LAB khoảng 200 triệu đô-la Mỹ, một số nhà đầu tư Nhật đang dự định mở sân golf ở Vĩnh Phúc, Công ty Pouchen Đài Loan dự định đầu tư xây dựng nhà để bán thí điểm với tổng vốn khoảng 200-300 triệu đô-la Mỹ... Những dự án này vẫn còn đang nằm trên giấy và muốn trở thành hiện thực cần có nỗ lực của cả nước chủ nhà Việt Nam và nhà đầu tư nước ngoài. .
Sơ đồ 1: Vốn đăng ký và thực hiện qua thời kỳ 2000-2002
Quan sát đồ thị ta thấy số dự án đăng ký qua các năm đang tăng lên với mức độ tăng thấp tổng vốn đăng ký cũng có xu hướng tăng lên song rất chậm
Số vốn bổ sung qua các năm 2000,2001,2002 tương đối ổn định điều này chứng tỏ rằng các dự án đang thực hiện tương đối hiệu quả do đó các nhà đầu tư của các dự án này vẫn tăng vốn đều đặn hàng năm.Đó là một tín hiệu đáng mừng và cũng là một thực tế chứng minh rằng doanh nghiệp nước ngoài còn đứng vững thì tức là ở đó vẫn còn chỗ để kinh doanh thu lợi nhuận.
Bảng 1: Một số chỉ tiêu về Đầu tư trực tiếp nước ngoài qua giai đoạn 2000-2002
Chỉ tiêu
2000
2001
09-2002
Dự kiến năm 2002
Năm2001 so với năm 2000(%)
9 tháng đầu năm2002 so với cùng kỳ 2001(%)
1.Số dự án
365
460
478
-
+26
+27
2.Vốn đăng ký mới
1.987
2.436
886
-
+22.6
-55
3.Tăng vốn
600
580
601
-
-3.3
+20
4.Còn hiệu lực
36.514
38.177
20.700
-
-
-
5.Vốn thực hiện
2.100
2.300
1.650
2.345
+9,5
+3
6. Doanh thu
6.167
7.400
6.500
8.400
+20
+12
7.Xuất khẩu
3.300
3.560
3.079
4.200
+7,88
+12
8. Nộp ngân sách
260
250,87
286
460
-3,5
+14
9. Lao động trực tiếp đến cuối năm( 1.000 người)
327
380
460
-
+16,21
+19
Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư
Cơ cấu FDI tại Việt Nam
- Cơ cấu FDI theo ngành:
Phân tích cơ cấu đầu tư theo nghành cho thấy: các dự án có mặt ở hầu khắp mọi nghành của nền kinh tế quốc dân và đang có sự chuyển dịch theo hướng công nghiệp hoá,hiện đại hoá đất nước. Các nhà đầu tư nước ngoài đã tập trung vào các ngành (dầu khí, công nghiệp sản xuất và chế biến như may và giầy da, thực phẩm và giải khát) chiếm khoảng 2.743 dự án với tổng số vốn cam kết là 23 tỉ US$, tương ứng 60% dự án và 55% số vốn đã cam kết. Ngành nông nghiệp, đánh cá và lâm nghiệp chỉ chiếm 11% tổng số dự án (462 dự án) và 3,6% tổng số vốn đã cam kết. Ngành thứ ba (khách sạn, nhà hàng, giao thông, viễn thông và các ngành dịch vụ khác như bảo hiểm v.v...) chiếm khoảng21,6% tổng số dự án và 40% tổng số vốn đã cam kết (Sơ đồ 2)
Sơ đồ 2: Số lượng dự án theo ngành đến ngày 2 / 7 /2002
Nguồn: Báo đầu tư Việt nam số 563/29tháng 7- 4/8/2002
Như vậy,có thể nói rằng hầu hết các dự án đều là các dự án công nghiệp có quy mô nhỏ.Các dự án xây dựng ở nước ta trong giai đoạn này như năm 2002 chỉ có 29 dự án cho tới thời điểm này nhưng vốn đăng ký là 3.195 triệu USD với quy mô trung bình của một dự án là hơn 110 triệu USD chủ yếu là các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng như xây dựng cầu Thanh Trì do Liên doanh Obayashi và Sumitomo Construction của Nhật Bản đảm nhiệm,bên cạnh đó các dự án về lĩnh vực dịch vụ tuy có ít hơn về số lượng dự án song quy mô của các dự án là lớn hơn nhiều so với các dự án công nghiệp và các dự án nông nghiệp.Mặt khác,Nhà nước lại khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào lĩnh vực sản xuất nông lâm ngư nghiệp với rất nhiều ưu đãi thì lại có rất ít dự án đăng ký.Điều này cho thấy các nhà đầu tư đang còn chưa mấy hào hứng với thị trường nông lâm thuỷ sản cho nên họ vẫn còn “bỏ ngỏ” một thị trường rộng lớn với hơn 70% dân số đang sống bằng nông nghiệp.Chẳng hạn,trong thị trường chế biến thức ăn cho gia súc,gia cầm hiện nay cả một trị trường Miền Bắc rộng lớn chỉ có duy nhất một nhà máy sản xuất và chế biến thức ăn cho gia cầm.Song điều đáng mừng là ngày 26/10/2002 nhà máy chế biến thức ăn gia súc Con heo vàng có cơ sở sản xuất tại Thành phố Hải phòng đi vào hoạt động.Có thêm một nhà máy mới đồng nghĩa với việc thì trường này sẽ giảm bớt đi phần nào tình trạng cầu thì nhiều nhưng chẳng đáp ứng được bao nhiêu,còn lại là hầu hết phải đi nhập các loại thức ăn gia súc của Mỹ và Châu Âu.
- Cơ cấu FDI theo vùng:
Tới thời điểm này, tất cả 61 tỉnh và thành phố của Việt nam đã thu hút được FDI, nhưng thực tế các nhà đầu tư nước ngoài tập trung đầu tư theo địa lý cho một số vùng kinh tế chủ chốt ở phía Nam như thành phố Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bình Dương, Bà Rịa Vũng Tàu và một số vùng kinh tế chủ chốt ở phía Bắc như Hà nội, Hải Dương, Hưng Yên, Hải Phòng và Quảng ._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- C0209.doc