Thế giới nghệ thuật trong tiểu thuyết của Vi Hồng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM ------------- O0O ---------- DƯƠNG THỊ XUÂN THẾ GIỚI NGHỆ THUẬT TRONG TIỂU THUYẾT CỦA VI HỒNG CHUYÊN NGÀNH : VĂN HỌC VIỆT NAM MÃ SỐ : 60. 22. 34 LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN Người hướng dẫn khoa học: TS. Đào Thuỷ Nguyên Thái Nguyên - 2009 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên LỜI CẢM ƠN! Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành đến TS. Đào Thủy Nguyên đã

pdf124 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1631 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Thế giới nghệ thuật trong tiểu thuyết của Vi Hồng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tận tình giúp đỡ và tạo điều kiện tốt nhất cho tôi trong suốt thời gian làm luận văn tốt nghiệp. Tôi xin chân thành cảm ơn gia đình thầy giáo Vi Hồng, các thầy cô giáo khoa Ngữ Văn, cùng gia đình, bạn bè người thân đã tạo điều kiện giúp tôi hoàn thành luận văn này. Thái Nguyên, ngày 10 tháng 10 năm 2009 Dương Thị Xuân Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên MỤC LỤC NỘI DUNG TRANG MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài 1 2. Lịch sử vấn đề 2 3. Giới thuyết về thế giới nghệ thuật 8 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 9 5. Mục đích nghiên cứu 9 6. Phương pháp nghiên cứu 9 7. Cấu trúc luận văn 10 NỘI DUNG Chương 1: Cảm hứng nghệ thuật gắn với thế giới nhân vật trong tiểu thuyết của Vi Hồng 11 1.1. Khái niệm cảm hứng nghệ thuật và thế giới nhân vật. 11 1.2. Cảm hứng nghệ thuật gắn với thế giới nhân vật trong tiểu thuyết của Vi Hồng 13 1.2.1. Cảm hứng ngợi ca gắn với những con người đẹp đẽ 14 1.2.1.1. Ca ngợi những con người có vẻ đẹp lí tưởng về hình thể. 14 1.2.1.2. Ca ngợi những con người bình thường có tấm lòng nhân hậu, vị tha. 17 1.2.1.3. Ca ngợi những người trí thức có trí tuệ toả sáng 21 1.2.2. Cảm hứng cảm thương gắn với những con người bất hạnh 26 1.2.2.1. Cảm thương cho con người bị những hủ tục phong kiến xưa vùi dập, đoạ đầy 26 1.2.2.2. Cảm thương cho những con người bất hạnh trước tội ác dã man tàn bạo của bọn thống trị miền núi 32 1.2.3. Cảm hứng châm biếm, mỉa mai những con người vô học tối tăm và lên án phê phán, những con người xảo trá, tàn bạo 35 1.2.3.1. Cảm hứng châm biếm mỉa mai những con người vô học tối tăm 35 1.2.3.2. Cảm hứng phê phán, lên án những người có chức, có quyền bất tài, tráo trở, độc ác, vô nhân tính 39 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên Chương 2. Không gian nghệ thuật trong tiểu thuyết của Vi Hồng. 2.1. Khái niệm không gian nghệ thuật. 46 46 2.2. Không gian nghệ thuật trong tiểu thuyết của Vi Hồng 48 2.2.1. Không gian bối cảnh. 48 2.2.1.1. Bối cảnh thiên nhiên. 48 2.2.1.2. Bối cảnh xã hội. 61 2.2.2. Không gian sự kiện. 76 2.2.3. Không gian tâm lí. 80 Chương 3. Thời gian nghệ thuật trong tiểu thuyết của Vi Hồng. 85 3.1. Khái niệm thời gian nghệ thuật. 85 3.2. Thời gian nghệ thuật trong tiểu thuyết của Vi Hồng. 86 3.2.1. Thời gian sự kiện. 86 3.2.1.1. Thời gian sự kiện lịch sử. 86 3.2.1.2. Thời gian sự kiện đời tư. 91 3.2.2. Thời gian tâm lí. 99 3.2.2.1. Thời gian hiện tại. 100 3.2.2.2. Thời gian quá khứ. 103 3.2.2.3. Thời gian tương lai. 107 3.2.2.4. Thời gian đồng hiện. 110 3.2.3. Mối quan hệ giữa thời gian và không gian nghệ thuật. 111 KẾT LUẬN 115 TÀI LIỆU THAM KHẢO 120 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài. 1.1. Vi Hồng là một cái tên được nhiều người biết đến trong đội ngũ nhà văn là người dân tộc thiểu số Việt Nam. Trong hành trình lao động nghệ thuật gần 40 năm, ông có số lượng sáng tác khá đồ sộ: 15 cuốn tiểu thuyết, 8 truyện ngắn, 6 tập sưu tầm truyện cổ Tày, Nùng và các công trình nghiên cứu về Sli lượn, khảm hải, dân ca nghi lễ... trong đó, có nhiều tác phẩm dành được nhiều giải thưởng có giá trị. Ông trở thành một trong những cây bút tiêu biểu của nền văn xuôi các dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại, để lại dấu ấn sâu sắc và một tình cảm nồng thắm nơi trái tim người đọc. 1.2. Vi Hồng sáng tạo trên nhiều thể loại: truyện ngắn, truyện vừa, tiểu thuyết, truyện viết cho thiếu nhi, các công trình nghiên cứu Sli lượn, Khảm hải... Ở thể loại nào nhà văn cũng thể hiện tài năng và một phong cách riêng rất rõ rệt. Tuy nhiên, thể loại tiểu thuyết là nơi mà ông tập trung nhiều tâm huyết và tinh lực nhất. Nhiều nhà nghiên cứu đã có những nhận xét khẳng định sự thành công của ông ở thể loại này. Yếu tố quan trọng làm nên sự thành công ấy chính là thế giới nghệ thuật. Vì vậy, tìm hiểu thế giới nghệ thuật là một việc làm không thể thiếu khi nghiên cứu sáng tác của Vi Hồng ở thể loại tiểu thuyết. 1.3. Là một sinh viên đã được nhà giáo Vi Hồng giảng dạy trong những năm học ở trường Đại học Sư phạm Việt Bắc, người viết ước vọng qua những trang nghiên cứu này giúp người đọc hiểu hơn về con người, về cuộc đời, đặc biệt là tài năng của Thầy - một nhà văn dân tộc thiểu số tiêu biểu. Qua đó, góp phần khẳng định vị trí của nhà văn trong nền văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại. Từ những lí do trên chúng tôi chọn đề tài: Thế giới nghệ thuật trong tiểu thuyết của Vi Hồng Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 2. Lịch sử vấn đề. Vi Hồng là nhà văn tiêu biểu, đã có những đóng góp không nhỏ vào nền văn học Việt Nam hiện đại nói chung và nền văn học dân tộc thiểu số nói riêng. Năm 26 tuổi (1959), ông được trao giải nhì, giải thưởng của Tổng hội Sinh viên Việt Nam với truyện ngắn Ngôi sao đỏ trên đỉnh núi Phja Hoàng. Ba năm sau (1962), ông lại vinh dự nhận một giải nhì nữa của báo “Người giáo viên nhân dân” với truyện ngắn Cây su su noọng ỷ. Có thể nói tên tuổi của ông đã được nhiều người biết đến và trở nên quen thuộc với bạn đọc cả nước từ những năm 70 của thế kỷ trước. Đã có một số công trình nghiên cứu về thành tựu sáng tác của Vi Hồng trong thành tựu chung của văn học dân tộc thiểu số: bài Nhìn lại Văn học Tày của Dương Thuấn Bài “Văn xuôi” trong cuốn Văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại [190], và “Một mảng văn học đặc sắc” trong cuốn Văn học và miền núi [103] của tác giả Lâm Tiến Một số công trình nghiên cứu về toàn bộ sáng tác của Vi Hồng như bài: “Vi Hồng” của Hoàng Thi trong cuốn Văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam (nhiều tác giả) [146], Kỉ yếu hội thảo về nhà văn Vi Hồng của Hội văn học nghệ thuật Thái Nguyên, đề tài nghiên cứu cấp Bộ của Phạm Mạnh Hùng đã đi sâu Tìm hiểu sự nghiệp sáng tác của nhà văn Vi Hồng... Một số bài viết về các tác phẩm cụ thể như: “Người trong ống của Vi Hồng” (Nguyễn Long) [14, 58], “Tiểu thuyết Gã ngược đời của Vi Hồng”(Tú Anh) [14,63], “Lòng dạ đàn bà - Tiểu thuyết của Vi Hồng” (Thuý Anh) [14, 66] ... Một số công trình đã đi vào nghiên cứu một số phương diện cụ thể trong tiểu thuyết của Vi Hồng như: “Hình tượng người phụ nữ trong tiểu thuyết của Vi Hồng” (Trần Thị Đoàn – Nguyễn Thị Thu Hà) [14, 19], “Giọng điệu trần thuật trong một số tiểu thuyết của Vi Hồng” (Ngô Thu Thuỷ) [14, 41], “Bản sắc dân tộc qua ngôn ngữ trong Đất bằng của Vi Hồng” (Nguyễn Thị Thu Hằng) [14, 53], “Bản sắc dân gian trong tiểu thuyết của Vi Hồng” (luận văn tốt nghiệp Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên của Đỗ Thuỳ Liên 2007), “Tính dân tộc trong tiểu thuyết của Vi Hồng” (Luận văn thạc sĩ của Hoàng văn Huyên 2003), “Tính dân tộc trong tiểu thuyết Tháng năm biết nói, Chồng thật vợ giả, Núi cỏ yêu thương của Vi Hồng” (Luận văn tốt nghiệp Đại học của Nông Thị Quỳnh Trâm 2004), “Đặc điểm ngôn ngữ trong tiểu thuyết của Vi Hồng” (Luận văn tốt nghiệp Đại học của Nguyễn Thị Thu Hương 2008), “Thế giới nhân vật trong tiểu thuyết của Vi Hồng” (Luận văn thạc sĩ của Ma Thị Ngọc Bích 2004), “Chất thơ trong tiểu thuyết của Vi Hồng” (Vũ Minh Tú - Đề tài nghiên cứu khoa học của sinh viên 2009) Nhìn chung ở những công trình trên, các nhà nghiên cứu đã có những đánh giá về những thành công và hạn chế trong sự nghiệp sáng tác của Vi Hồng. Tác giả Hoàng Thi trong cuốn Văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam khẳng định thành tựu sáng tác của Vi Hồng chủ yếu tập trung ở thể loại tiểu thuyết: “Nói chung mặc dù ông rất tâm huyết với thơ và cả kịch nữa, nhưng ông vẫn chưa đạt được kết quả như ý muốn. Chỉ khi đến với truyện ngắn đặc biệt là thể loại tiểu thuyết thì nhà văn mới phát huy được hết những tiềm năng của mình, ông mới thực sự được chú ý và chiếm được tình cảm nơi trái tim người đọc” [115,148]. Dương Thuấn trong bài “Nhìn lại văn học dân tộc Tày” (Tạp chí nghiên cứu Văn học số 5 – 2006) đánh giá: Vi Hồng là “Tác giả đáng chú ý nhất trong nền văn học thiểu số Việt Nam hiện đại” Nhà phê bình Lâm Tiến trong cuốn Văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại (Nxb Văn hoá dân tộc – 1995) và cuốn Văn học và miền núi - phê bình và tiểu luận (Nhà xuất bản Văn hóa dân tộc – 2002) đã có cái nhìn khái quát về toàn bộ tiến trình phát triển của nền văn học thiểu số Việt Nam hiện đại và có những nghiên cứu khá sâu về các tác giả tiêu biểu, trong đó có nhà văn Vi Hồng. Lâm Tiến khẳng định những trang viết của Vi Hồng đã góp phần làm nên những hạt mầm cho nền văn học vẫn còn hết sức non trẻ. Năm 2006, Hội Văn học nghệ thuật Thái Nguyên đã tổ chức Hội thảo về nhà văn Vi Hồng và cuốn Kỉ yếu hội thảo về nhà văn Vi Hồng đã ra đời. Cuốn sách này, có rất nhiều tác giả là những người bạn, là đồng nghiệp, là học trò, là Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên con của nhà văn… mỗi người góp thêm một tiếng nói để lưu giữ cuộc đời cũng như tài năng của một nhà giáo, một nhà văn đầy tâm huyết và giầu lòng yêu thương con người. Đọc bản thảo Đất bằng của Vi Hồng, nhà văn Nguyên Ngọc có nhận xét về nghệ thuật viết tiểu thuyết của Vi Hồng - nghệ thuật mang mầu sắc dân tộc rất riêng: “Cách viết của anh rất khác cách viết tiểu thuyết của ta - ít ra là của tôi... Riêng tôi, tôi hết sức chú ý và muốn suy nghĩ nhiều về cách viết của Vi Hồng, của YĐiêng... Cách viết bao gồm từ cách hình dung về nhân vật, xây dựng nhân vật, cách kể chuyện, dẫn dắt cốt truyện, lựa chọn cốt truyện, lựa chọn tình tiết...”(Báo nhân dân ngày 19/4/1980). Về cảm hứng nghệ thuật và thế giới nhân vật trong tiểu thuyết của Vi Hồng, nhà phê bình Lâm Tiến khẳng định: “Thành công lớn nhất trong tiểu thuyết của Vi Hồng là viết về những kỉ niệm, những mảng cuộc sống mà ông đã từng trải… Đó là những mối tình đẹp đẽ của người lao động. Vi Hồng đã biết kết hợp trong tác phẩm của mình giữa cuộc sống và chiến đấu, lao động sản xuất và tình yêu. Nhà văn làm cho chúng ta yêu mến thiết tha những nhân vật đó.” [14, 17]. Nhận xét về nhân vật trong sáng tác của Vi Hồng, Hoàng Thi viết: “phải tha thiết yêu quê hương làng bản, yêu những con người cụ thể của dân tộc, Vi Hồng mới thành công như vậy khi xây dựng nhân vật của mình. Đó chính là những con người quê hương anh... Họ đều là những người nói tiếng nói của quê hương, tiếng nói giầu hình ảnh, nhạc điệu của người Tày, người Dao. Có độc giả người dân tộc thiểu số nào ở Việt Bắc khi đọc Vi Hồng lại không cảm thấy mình đang sống lại, đang trở về với cội nguồn của mình” [15, 149]. Hoàng Thi đã đánh giá cao sự thành công của Vi Hồng khi xây dựng nhân vật. Dường như toàn bộ đối tượng sáng tác của ông đều là những con người miền núi. Họ mang những nét tiêu biểu nhất của những con người nơi họ sinh ra và lớn lên. Chính vì vậy mỗi người, nhất là những người dân tộc, khi đọc tiểu thuyết của Vi Hồng đều có thể Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên tìm thấy mình và cuộc sống của mình. Điều đó làm nên nét riêng khó lẫn trong sáng tác của Vi Hồng. Nhân vật trong tiểu thuyết của Vi Hồng đa dạng, phong phú, và thường được khám phá ở hai bình diện đối lập, đó là nhận định của nhà giáo Cao Xuân Thử:“ Vi Hồng đã bước đầu nhận ra, nhìn thấy khá rõ hai phương diện khác nhau, trái nhau, đối lập nhau ở một con người”. Và khi nhận thấy điều đó thì: “Nhà văn thừa nhận sự tồn tại của cái xấu, cái ác, cái chưa hoàn thiện trong con người, nhà văn trình bày nó để nó tồn tại như là sự tất yếu cùng với cái tốt và cái thiện” [14, 88]. Đọc tiểu thuyết của Vi Hồng, Hồ Thuỷ Giang phát hiện ra rằng: “Vi Hồng ít đề cập đến sự phức tạp về tâm lí. Anh nghiêng về khắc hoạ những nét đẹp hoang sơ và thuần khiết của tâm hồn” [14, 81]. Lâm Tiến cũng nhận định: “Nhân vật của ông thường có sự thống nhất giữa ngoại hình và tính cách… đã đẹp nết thì đẹp người và ngược lại. Đó là kiểu mô típ quen thuộc trong văn học dân gian” [8, 103]. Khi tìm hiểu “Thế giới nhân vật trong tiểu thuyết của Vi Hồng”, tác giả Ma Thị Ngọc Bích đã phân loại nhân vật từ góc độ loại hình nghề nghiệp xã hội: đó là nhân vật trí thức và nhân vật người lao động. Từ cách phân loại đó, tác giả của luận văn đã khái quát toàn bộ thế giới nhân vật, từ tầng lớp trí thức đến những người lao động bình thường, từ những con người đẹp đẽ đến những con người xấu xa, tầm thường tạo thành một thế giới nhân vật hết sức phong phú, đa dạng. Về không gian nghệ thuật trong tiểu thuyết của Vi Hồng, nhìn chung các nhà nghiên cứu chú ý đến không gian bối cảnh thiên nhiên. Lâm Tiến nhận ra mầu sắc miền núi đậm nét trong không gian bối cảnh thiên nhiên: “Thiên nhiên trong tác phẩm của ông rực rỡ sắc mầu, rộn rã âm thanh, ngạt ngào hương vị như mang cả hơi thở cuộc sống, tâm hồn của người miền núi” [14, 17]. Cũng chung cảm nhận ấy nhà văn Hồ Thuỷ Giang phát hiện thêm một không gian huyền thoại: “Trong tiểu thuyết của Vi Hồng mọi cảnh sắc thiên nhiên từ mỏm đồi Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên đến con suối, từ nẻo đường rừng đến bờ vực sâu, từ ánh trăng đến tảng đá núi đều hiện lên lung linh như huyền thoại” [14, 81]. Vũ Minh Tú trong Chất thơ trong tiểu thuyết của Vi Hồng (Đề tài nghiên cứu khoa học của sinh viên năm 2009) lại phát hiện ra một không gian thơ mộng, tràn ngập chất thơ. Chất thơ ấy được toát ra từ thiên nhiên, con người và cuộc sống miền núi. Qua việc khảo sát chất thơ trong tiểu thuyết của Vi Hồng, tác giả khẳng định: “Trong tiểu thuyết của ông, chất thơ của hồn núi rừng, làng bản cứ tuôn chảy lấp lánh, dạt dào từ ngòi bút có nghề” [41]. Khác với các nhà nghiên cứu trên, Hoàng Thi lại thấy: “Vi Hồng đã dẫn dắt người đọc trở về quê hương miền núi, về với bản làng mình sau những ngày đi xa, những cảnh vật quen thuộc (một cánh đồng, một dòng suối, một cây mận đang ra hoa…) một tiếng “úp lều” trâu húc nhau cùng với những con người xiết bao gần gũi mến yêu với những kỉ niệm êm đẹp từ thủa ấu thơ đến những ngày khôn lớn… Tất cả như đồng hiện kéo ta trở về cội nguồn” [15, 148]. Như vậy, theo Hoàng Thi không gian trong tiểu thuyết của Vi Hồng lại vô cùng quen thuộc, mộc mạc mà gần gũi thân thương đối với mỗi con người. Đó chính là cội nguồn nơi ta sinh ra và lớn lên. Về bối cảnh xã hội trong sáng tác của Vi Hồng, cũng có một số nhận xét thật xác đáng. Nhà giáo Cao Xuân Thử đã nhận thấy: “Vi Hồng là người am hiểu văn hoá Tày, anh say đắm Si lượn. Anh hiểu cặn kẽ phong tục, tập quán, lề thói, tập tục đến lễ hội, đến cái ăn, cái uống, sự mặc, việc dựng nhà cửa... nghĩa là tất cả nề nếp sinh hoạt của đời sống vật chất và tinh thần của dân tộc anh. Đặc biệt anh cảm nhận thấu đáo, cảm nhận được cái tinh tuý, minh triết trong sự lựa chọn và ứng xử của mỗi con người trong đời sống cá nhân, đời sống xã hội, đời sống cộng đồng Tày”. [14, 85]. Trong bài Cách viết tiểu thuyết của nhà văn Vi Hồng, Lâm Tiến khẳng định: “Vi Hồng cũng thành công trong việc viết về những phong tục, tập quán của dân tộc Tày. Những ngày hội mùa thật náo nhiệt trong Núi cỏ yêu thương, đám Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên ma của Ké Xanh trong Đất bằng, đêm khẩu tảo, đêm mở đầu của đám ma thật bận rộn cùng với lời nguyền mang độc địa của già Xanh...” [14, 18]. Hoàng văn Huyên trong đề tài Tính dân tộc trong tiểu thuyết của Vi Hồng – luận văn Thạc sĩ khoa học năm 2003 cũng đã khái quát được bối cảnh thiên nhiên, bối cảnh xã hội. Tác giả khẳng định: “cả không gian, thời gian, sắc mầu của tự nhiên, con người và cuộc sống được phản ánh trong tác phẩm luôn đậm đà bản sắc các dân tộc miền núi Việt Bắc” [78]. Về thời gian nghệ thuật trong tiểu thuyết của Vi Hồng, Lâm tiến có nhận xét thật sâu sắc: “Truyện thường phát triển theo mạch đi lên của thời gian. Nếu đảo lộn thì cũng chỉ là những đảo lộn đơn giản” . Trong bài Cốt truyện trong văn xuôi các dân tộc miền núi, tác giả phạm Duy Nghĩa nhận định: “Xét theo tiêu chí thời gian, loại cốt truyện phổ biến nhất ở mảng văn xuôi dân tộc thiểu số là cốt truyện tuyến tính (tự sự theo mạch thẳng thời gian, duy trì theo quan hệ nhân quả)” [21, 54]. Theo ông thì việc trần thuật theo thời gian tuyến tính có tác dụng là để cho độc giả miền núi dễ nắm bắt nội dung ý nghĩa của truyện, song sự so le giữa diễn biến cốt truyện với sự trần thuật đã bị bỏ phí. Từ những điểm chung đó người viết nhận ra điểm khác biệt trong cách viết của Vi Hồng: “Vi Hồng có ý thức sớm về điều này nên ở tiểu thuyết Vãi Đàng đã đảo lộn ở một số thời gian nhất định” [21, 54]. Phạm duy Nghĩa khẳng định sự đổi mới trong cách xử lí thời gian: “Sự xử lí thời gian như một phương tiện nghệ thuật mới trở nên linh hoạt và thường xuyên hơn, quan hệ của các tuyến nhân vật cũng chồng chéo, phức tạp hơn” [21, 55]. Có thể nói vẫn còn rất ít những nhận xét về thời gian nghệ thuật trong sáng tác của Vi Hồng. Nghiên cứu về không gian và thời gian nghệ thuật thì hầu như chưa có một công trình nào chuyên biệt. Như vậy có thể thấy các yếu tố làm nên thế giới nghệ thuật trong tiểu thuyết của Vi Hồng đã được quan tâm ở một mức độ nhất định. Nhưng các ý kiến mới chỉ là những nhận định có tính khái quát, chung chung, chưa có một cái nhìn tổng thể, có tính hệ thống về toàn bộ thế giới nghệ thuật trong tiểu thuyết của Vi Hồng. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên Thực tế đó đã gợi ý cho chúng tôi lựa chọn đề tài: Thế giới nghệ thuật trong tiểu thuyết của Vi Hồng. 3. Giới thuyết về thế giới nghệ thuật. Nhà văn Seđrin đã nói: “Tác phẩm văn học là một vũ trụ thu nhỏ, mỗi sản phẩm nghệ thuật là một thế giới khép kín trong bản thân nó”. Như vậy, một tác phẩm toàn vẹn phải xuất hiện như một thế giới nghệ thuật. Bêlinxki cũng đã từng nhận xét: “Mọi sản phẩm nghệ thuật đều là một thế giới riêng mà khi đi vào đó thì ta buộc phải sống theo các quy luật của nó, hít thở không khí của nó”. Từ những nhận xét trên ta có thể hiểu thế giới nghệ thuật là sản phẩm sáng tạo của người nghệ sĩ. Nó là kiểu tồn tại đặc thù vừa trong chất liệu, vừa trong cảm nhận của người thưởng thức, vừa là sự thống nhất giữa nội dung và hình thức trong chỉnh thể thẩm mỹ của tác phẩm. Theo Từ điển thuật ngữ văn học thì thế giới nghệ thuật là: “khái niệm chỉ tính chỉnh thể của sáng tạo nghệ thuật (một tác phẩm, một loại hình tác phẩm, sáng tác của một tác giả, một trào lưu). Thế giới nghệ thuật nhấn mạnh rằng sáng tác nghệ thuật là một thế giới riêng được tạo ra theo các nguyên tắc tư tưởng và nghệ thuật (…). Khái niệm thế giới nghệ thuật giúp ta hình dung tính độc đáo về tư duy nghệ thuật của người nghệ sĩ ” [16, 251]. Thế giới nghệ thuật có tính độc lập tương đối so với thế giới tự nhiên hay thực tại xã hội. Đó chính là sự thừa nhận quyền sáng tạo của người nghệ sĩ. Người nghệ sĩ sáng tạo ra tác phẩm văn học không phải là sự sao chép, lệ thuộc máy móc vào thực tại bên ngoài, mà: “ là một thế giới riêng được sáng tạo theo các nguyên tắc tư tưởng, khác với thế giới thực tại vật chất hay thế giới tâm lí của con người, mặc dù nó phản ánh thế giới ấy. Thế giới nghệ thuật có không gian, thời gian riêng, có quy luật tâm lí riêng, có quan hệ xã hội riêng, quan niệm đạo đức, thang bậc giá trị riêng... chỉ xuất hiện một cách ước lệ trong sáng tạo nghệ thuật” [16, 251]. Như vậy thế giới nghệ thuật phản ánh thế giới quan, nhân sinh quan, vũ trụ quan và cách cắt nghĩa đời sống rất riêng của chủ thể sáng tạo. Mỗi tác phẩm lớn, Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên tác giả lớn đều có thế giới nghệ thuật riêng của mình thể hiện tính độc đáo trong tư duy và phong cách nghệ thuật của nhà văn. Cách hiểu trên đây về thế giới nghệ thuật là cơ sở để chúng tôi tìm hiểu và nghiên cứu thế giới nghệ thuật trong toàn bộ tiểu thuyết của Vi Hồng. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu. 4.1. Đối tượng nghiên cứu. Đối tượng nghiên cứu của đề tài là toàn bộ tiểu thuyết của Vi Hồng gồm 15 cuốn: "Đất bằng"(1980), "Núi cỏ yêu thương", (1984), “Thung lũng đá rơi” (1985), “Vào hang” (1990), "Người trong ống”, “Gã ngược đời"(1990), “Ái tình và kẻ hành khất” (1990), "Lòng dạ đàn bà" (1992), "Dòng sông nước mắt" (1993), “Tháng năm biết nói “(1993), “Phụ tình” (1994), "Chồng thật vợ giả"(1994), “Đi tìm giầu sang” (1995), “Đoạ đầy” (1997), “Mùa hoa Bioóc loỏng” (1997). Tuy nhiên, khi nghiên cứu chúng tôi tập trung chú ý vào những tác phẩm tiêu biểu nhất của Vi Hồng. 4.2. Phạm vi nghiên cứu. Luận văn không đi sâu vào nghiên cứu tất cả những vấn đề thi pháp mà chỉ tập trung vào một số phương diện cơ bản trong thế giới nghệ thuật của tiểu thuyết Vi Hồng. Đó là: Cảm hứng nghệ thuật gắn với thế giới nhân vật, thời gian nghệ thuật và không gian nghệ thuật. 5. Mục đích nghiên cứu. Nghiên cứu một số vấn đề thi pháp trong tiểu thuyết của Vi Hồng, chúng tôi nhằm mục đích làm rõ hơn những nét riêng trong thế giới nghệ thuật của tiểu thuyết Vi Hồng. Từ đó, có cái nhìn đầy đủ và toàn diện hơn về những đóng góp của Vi Hồng trong nền văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại. 6. Phương pháp nghiên cứu. Để hoàn thành nhiệm vụ của đề tài, chúng tôi sử dụng những phương pháp cơ bản sau: - Phương pháp thống kê, khảo sát. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên - Phương pháp hệ thống. - Phương pháp khái quát, tổng hợp. - Phương pháp đối chiếu, so sánh. - Phương pháp nghiên cứu tác giả văn học. - Phương pháp phân tích tác phẩm theo đặc trưng thể loại. 7. Cấu trúc luận văn. Luận văn gồm 3 phần: phần Mở đầu, phần Nội dung và phần Kết luận. Trong phần nội dung gồm có 3 chương: Chương 1: Cảm hứng nghệ thuật gắn với thế giới nhân vật trong tiểu thuyết của Vi Hồng. Chương 2: Không gian nghệ thuật trong tiểu thuyết của Vi Hồng. Chương 3: Thời gian nghệ thuật nghệ thuật trong tiểu thuyết của Vi Hồng. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên NỘI DUNG Chương 1 CẢM HỨNG NGHỆ THUẬT GẮN VỚI THẾ GIỚI NHÂN VẬT TRONG TIỂU THUYẾT CỦA VI HỒNG 1.1. Khái niệm cảm hứng nghệ thuật và thế giới nhân vật Nghệ thuật là một phương tiện nhận thức thực tại. Đối tượng nhận thức của sáng tạo nghệ thuật không phải là những điều đã được nhìn thấy một cách thờ ơ mà là những xúc cảm được khắc sâu trong trái tim. Muốn thế, người nghệ sĩ phải có những tình cảm thật tha thiết, mãnh liệt với cuộc đời. Từ những xúc cảm ấy sẽ tạo thành những ấn tượng trực tiếp. Những tình cảm như: căm giận, buồn vui... sẽ chiếm lĩnh toàn bộ con người anh ta và thế là tư tưởng của nhà văn xuất hiện. Những biểu hiện tình cảm, tâm hồn của người nghệ sĩ được gợi lên từ những hiện tượng xã hội, được nhà văn phản ánh trong tác phẩm tạo thành nội dung cảm hứng của tác phẩm. Trong sáng tác nghệ thuật, cảm hứng được biểu hiện ở mọi biến thể, nhưng tất cả đều là sự ý thức về mặt tư tưởng và sự đánh giá về mặt cảm xúc. Có thể nói: "Cảm hứng nghệ thuật là một tình cảm mạnh mẽ, mang tư tưởng và là một ham muốn tích cực đưa đến hành động, là niềm say mê khẳng định chân lí, lí tưởng, phủ định sự giả dối và mọi hình tượng xấu xa tiêu cực, là thái độ ngợi ca đồng tình với nhân vật chính diện, là sự phê phán tố cáo thế lực đen tối, các hiện tượng tầm thường" [25, 43]. Như vậy cảm hứng nghệ thuật là một phương diện đặc thù của tác phẩm văn học, bao gồm trong nó cả hai mặt chủ quan và khách quan. Nó xuất phát từ nhu cầu nội tại bên trong của người nghệ sĩ trước hiện thực khách quan. Cảm hứng phải là một trạng thái tình cảm sâu sắc mãnh liệt thể hiện tư tưởng của nhà văn trong sự chiếm lĩnh và khám phá bản chất cuộc sống. Các nhà nghiên cứu cho rằng : Cảm hứng nghệ thuật có thể có những biến thể khác nhau như cảm hứng cảm thương, cảm hứng ngợi ca, cảm hứng hài hước, Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên châm biếm... Các biến thể ấy vừa mang những đặc trưng riêng, đồng thời cũng có những mối quan hệ bổ sung và tương hỗ lẫn nhau. Trong từng tác phẩm, cảm hứng này có thể trở thành một phương diện của cảm hứng kia. Cảm hứng nghệ thuật là một tình cảm xã hội được ý thức, nó đem đến cho tác phẩm một không khí cảm xúc nhất định, tác động mạnh mẽ đến người đọc. Cảm hứng nghệ thuật thống nhất tất cả các cấp độ và yếu tố nội dung cũng như hình thức của tác phẩm như: cốt truyện, kết cấu, xung đột, nhân vật, giọng điệu, ngôn ngữ trong đó nhân vật là nơi biểu hiện rõ nhất và trọn vẹn nhất cảm hứng nghệ thuật của nhà văn. Theo Từ điển thuật ngữ văn học: “Nhân vật văn học là con người cụ thể được miêu tả trong tác phẩm văn học. Nhân vật văn học có thể có tên riêng như (Tấm Cám, chị Dậu, anh Pha) cũng có thể không có tên riêng như “thằng bán tơ”, “một mụ nào” trong Truyện Kiều” [202] Trong tất cả các thể loại như tiểu thuyết, truyện ngắn, kịch, thậm chí cả thơ đều có nhân vật, đặc biệt với thể loại tiểu thuyết thì càng không thể thiếu nhân vật. “Tiểu thuyết là tác phẩm tự sự cỡ lớn có khả năng phản ánh hiện thực ở tất cả mọi giới hạn không gian và thời gian. Tiểu thuyết có thể phản ánh số phận của nhiều cuộc đời, những bức tranh phong tục đạo đức xã hội, miêu tả các điều kiện sinh hoạt giai cấp, tái hiện nhiều tính cách đa dạng” [16, 277]. Giữa cảm hứng nghệ thuật và thế giới nhân vật trong sáng tác của một nhà văn thường có mối quan hệ gắn kết mang tính hô ứng, tương giao. Cảm hứng nào thì nhân vật ấy, và ngược lại. Mỗi nhân vật luôn gắn với một cảm hứng và một phương diện nào đó của cảm hứng nghệ thuật. Tìm hiểu sự thể hiện con người trong văn học thông qua thế giới nhân vật, trong mối quan hệ phù hợp và hô ứng với cảm hứng nghệ thuật của nhà văn là tìm hiểu một phương diện cơ bản trong thế giới nghệ thuật của nhà văn, góp phần quan trọng vào việc xác định phong cách nghệ thuật của nhà văn. Khảo sát toàn bộ tiểu thuyết của Vi Hồng chúng tôi nhận thấy có một số cảm hứng cơ bản gắn với một số kiểu loại nhân vật phù hợp. Đó là cảm hứng Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên ngợi ca gắn với những con người đẹp đẽ, cảm hứng cảm thương gắn với những con người bất hạnh, cảm hứng châm biếm, phê phán những con người vô học tối tăm và những kẻ xảo trá, tàn bạo. 1.2. Cảm hứng nghệ thuật gắn với thế giới nhân vật trong tiểu thuyết của Vi Hồng. Nhà văn Vi Hồng sinh ra trong một gia đình nông dân nghèo dân tộc Tày ở bản Phai Thin xã Đức Long huyện Hoà An tỉnh Cao Bằng. Từ nhỏ, ông đã gắn bó với quê hương, được tiếp xúc với rất nhiều con người và những cảnh đời khác nhau. Có lẽ vì thế mà Vi Hồng có điều kiện thể hiện hình ảnh những đồng bào của mình trên trang viết một cách sâu sắc. Thế giới nhân vật trong tiểu thuyết của Vi Hồng rất đa dạng, phong phú. Trong thế giới ấy có nhân vật phụ nữ, trẻ em, thanh niên, người già, bác sĩ, kỹ sư, giáo viên, thày mo, chẩu mường, quan Tây... Mỗi nhân vật có một tính cách riêng, hoàn cảnh riêng, nhưng họ đều là những người con của núi rừng Việt Bắc. Có thể nói, nguồn suối văn học dân gian cũng ảnh hưởng không nhỏ đến tư duy sáng tạo nghệ thuật của Vi Hồng. Ngay từ nhỏ ông đã được tắm mình trong môi trường văn hoá dân gian, được nghe những bài dân ca trữ tình Tày, Nùng và những điệu hát then của gia đình, quê hương. Trưởng thành, ông lại được làm cán bộ giảng dạy văn học dân gian ở trường đại học hơn 30 năm. Trong văn học dân gian trắng - đen, thiện - ác được phân biệt một cách rõ ràng. Nhân vật trong tiểu thuyết của Vi Hồng cũng được phân chia thành hai nhóm rõ rệt: chính diện và phản diện, cao đẹp và tầm thường, thánh thiện và gian ác. Tuyến nhân vật chính diện thường là những con người đại diện cho cái đẹp, cái thiện. Họ có những suy nghĩ, hành động cao cả mang đầy tính nhân văn. Tuyến nhân vật phản diện thường là những nhân vật xấu xa, đại diện cho cái ác trong xã hội. Hai tuyến nhân vật này được đặt cạnh nhau, đấu tranh với nhau. Và cuối cùng phần thắng sẽ thuộc về cái tốt, cái thiện. Tuy nhiên để có được chiến thắng, nhân vật chính diện phải trải qua rất nhiều khó khăn, đau khổ thậm chí cả sự hi sinh nữa. Sáng tạo hai tuyến nhân vật chính diện và phản diện trong tiểu Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên thuyết của mình, nhà văn Vi Hồng muốn gửi tới bạn đọc một thông điệp đậm chất nhân văn: “Hãy yêu thương và biết yêu thương những cái đẹp, nhất là những con người đẹp đẽ, cao cả,đồng thời đem hết sức mình ra trừ diệt cái ác, kẻ ác. Trừ khử những kẻ phản bội trắng trợn, nguyền rủa những kẻ “béc kha cải” (đại nịnh hót), khinh bỉ lũ yếu hèn” [43, 61]. Quan niệm trên đã chi phối toàn bộ sáng tác của Vi Hồng cũng như việc xây dựng nhân vật của ông. 1.2.1. Cảm hứng ngợi ca gắn với những con người đẹp đẽ. Nghệ thuật thời nào cũng vậy, luôn luôn có xu hướng khuyếch đại cái tốt để nó trở nên đẹp đẽ, lộng lẫy, từ đó lôi cuốn, hấp dẫn mọi người, làm cho mọi người tin rằng trên đời bao giờ cũng còn có công lí, lương tri, bao giờ cũng có người tốt. Từ đó khơi dậy ở mỗi người khát vọng vươn tới lí tưởng, muốn noi gương, bắt trước, làm theo điều thiện, điều hay. Vì vậy, trong nghệ thuật không bao giờ thiếu được cái đẹp, thiếu chất lí tưởng, thiếu chất anh hùng lãng mạn, thiếu nhân vật tích cực. Có thể nói, cảm hứng ngợi ca cái đẹp, cái thiện đã trở thành cảm hứng chủ đạo trong văn học Việt Nam mọi thời. Hướng tới giá trị nhân bản truyền thống ca ngợi cái đẹp, cái thiện, lên án cái xấu, cái ác đã trở thành nhu cầu bức thiết của tất cả các nhà văn nói chung và của Vi Hồng nói riêng. Ông say sưa sáng tác và đã dành nhiều trang viết để ngợi ca cái đẹp, nhất là những con người đẹp đẽ, cao cả. 1.2.1.1. Ca ngợi những con người có vẻ đẹp lí tưởng về hình thể. Vẻ đẹp hình thể là vẻ đẹp bên ngoài mà con người có thể nhìn ngắm được. Nó hiện lên qua vóc dáng, khuôn mặt, nước da... Đọc tác phẩm của Vi Hồng, người đọc thường có ấn tượng khá đậm về những con người có vẻ đẹp ngoại hình hoàn hảo mang đặc trưng của con người miền núi. Đó là những chàng trai khoẻ mạnh với những bắ._.p thịt nở nang, đường gân cuồn cuộn, giỏi nghề săn bắt, đối mặt với hổ, gấu, chó sói mà không hề khiếp sợ. Mi Tráng trong Mùa hoa Bioóc Loỏng “ khoẻ như một con gấu ngựa... Những bắp chân, bắp tay với những thớ thịt đỏ au nổi lên cuồn cuộn. Tấm ngực rộng thênh như như võ sĩ trên màn ảnh”. Vẻ đẹp đó là kết tinh của những gì là tinh tuý, Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên sự hoà quyện của núi rừng. Hình ảnh: “bộ ngực rất khoẻ của anh cũng nổi lên cuồn cuộn trong lần áo” khiến người đọc có thể cảm nhận được sức khoẻ dẻo dai, bền bỉ của người lao động. Anh xuất hiện trong trò chơi bắt vịt ở lễ hội Lồng tồng của mường Khoang Đông trước sự thán phục của mọi người. Trong khi mọi người “lặn đến đứt hơi” mà không bắt nổi một con thì anh chỉ cần một hơi đã bắt được tới ba con vịt. Không những thế Mi Tráng còn là người giật giải nhất trong các cuộc đua ngựa. “Cũng như mọi người khác, anh quắp lấy bụng con Mạ Lài, rạp người xuống nắm lấy bờm con Mạ Lài. Mạ Lài chạy rất êm và tốc độ không thay đổi”. Hình ảnh đó khiến Mi Tráng hiện lên như một kị binh thời trung cổ với sức mạnh bạt núi băng rừng, chiến thắng tất cả. Với một thân hình cao lớn, khoẻ mạnh, Tập Tạng trong Vào hang đã “đi săn gấu khắp núi rừng Cao – Bắc – Lạng, Thái – Tuyên – Hà. Ông đi khắp sáu tỉnh ngày ấy” bắt gấu, bắt hổ bằng tay không mà chưa hề thất bại. Nhân vật Cốc trong Núi cỏ yêu thương hiện lên với một thân hình khoẻ đẹp như một tượng đồng: “Cốc đen như mầu đồng đúc tượng, đậm chắc, những thớ thịt ở bắp chân, bắp tay xoắn cuộn với nhau như những thớ lõi gỗ nghiến, gỗ lim”. Được phân công thuần hoá hai con trâu khoẻ nhất, dữ nhất của trại chăn nuôi, nhiều lúc chúng húc nhau chí tử. Khi ấy anh phải dùng sức của “hai bắp tay gân nổi cuồn cuộn...” để can không cho hai con trâu khỏi húc nhau. Với sức khoẻ như thế, Cốc không những đã thuần phục được con trâu tưởng như bất kham ấy mà anh còn cùng mọi người tham gia làm cầu. Anh là người khoẻ nhất: “Cốc khiêng những hòn đá to. Mỗi ngày, họ phải thay mấy lần quang làm bằng dây rừng chắc, to, nếu với người khác họ phải dùng suốt tháng mới hỏng”. Cùng với vẻ đẹp về hình thể là một sức khoẻ dẻo dai, họ góp phần làm cho bản mường giầu đẹp hơn. Đọc tiểu thuyết của Vi Hồng, ta còn bắt gặp rất nhiều những con người như thế. Đó là Ki Nọi trong tiểu thuyết Đoạ Đầy, Đán trong Núi cỏ yêu thương... Họ đều là những người trai khoẻ mạnh, luôn phải đối mặt với thú dữ và cả những khó Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên khăn nguy hiểm mà chưa một lần bó tay. Họ chính là kết tinh sức mạnh của núi rừng Việt Bắc. Vẻ đẹp của những người phụ nữ trong sáng tác của Vi Hồng thường được so sánh với các nàng tiên trong cổ tích. Thu Lạ trong Mùa hoa Bioóc Loỏng đã được miêu tả theo bút pháp phóng đại: “Hàn Thu Lạ, cô gái tuổi hai mươi đẹp như một nàng tiên vừa từ trên trời xuống dự hội”. Đường nét trên khuôn mặt nàng được tác giả miêu tả tỉ mỉ, ấn tượng: “Cặp lông mày sắc như nước, vầng trán thon thả thanh tú... Cặp mắt đen láy long lanh, cặp môi nàng đều đặn, đỏ chót lúc nào cũng tủm tỉm cười. Nàng nói líu lo như tiếng chim hoạ mi”. Đúng là người thanh cái tiếng cũng thanh, “cái tiếng của nàng cũng khẽ khàng, mơ màng như chính sinh ra từ những làn gió núi, hay là cái tiếng đi về của những làn mây trắng như bông trên các mái đại ngàn”. Thu Lạ quả là một bông hoa rừng ngào ngạt hương sắc. Không gian miền núi thường là nơi sinh ra những con người kết tinh vẻ đẹp diệu kì. Hạ Chi cũng là một cô gái mang vẻ đẹp thần tiên như thế: “Hạ chi từ trong nhà tắm bước ra, mặt mũi tươi rói mới mẻ như một nàng tiên vừa qua lò luyện mĩ nhân trong một truyện cổ” khiến Mi Tráng ngắm nhìn Hạ Chi mà tưởng như đang ngắm nhìn “một pho tượng tuyệt sắc của trời đất... Choáng cả rừng xanh, lấp cả mọi thung lũng. Một kì công vĩ đại”. Tạo hoá không chỉ ban tặng cho miền núi một không gian đẹp đẽ trong lành mà như để hài hoà với cảnh, tạo hoá lại gửi đến đó những con người đẹp như nàng tiên lạc lối xuống trần gian và những chàng trai khoẻ mạnh tràn đầy sức sống. Cũng bằng bút pháp ước lệ tượng trưng, lấy vẻ đẹp của thiên nhiên làm chuẩn mực cho vẻ đẹp của con người, nhân vật Ngọc trong Tháng năm biết nói của Vi Hồng mang vẻ đẹp riêng có của người phụ nữ Việt Bắc: “Xinh đẹp mà lại khoẻ mạnh. Thân hình tròn chắc..., nước da trắng như cây chuối bóc, mịn và thơm như bột nếp nhuyễn, má hồng như cánh hoa mạ vách núi, eo như lưng con ong mật, lông mày đen, sắc như con chim hoạ mi, cặp mắt cũng cặp mắt hoạ mi, cặp môi là quả nhót chín mọng”. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên Nhiều nhân vật phụ nữ khác trong tiểu thuyết của Vi Hồng, cũng mang vẻ đẹp giầu tính lí tưởng và ước lệ như thế: Xinh Xông trong Mùa hoa Bioóc Loỏng, Lả trong Lòng dạ đàn bà, Thu Lú trong Chồng thật vợ giả, La Bội Hoan trong tiểu thuyết Đoạ đầy, Băng trong Tháng năm biết nói... Họ gần nhau ở nét chung mà ít phân biệt ở nét riêng, khiến ta cứ có cảm giác quen quen như đã gặp họ ở đâu đó. Điều này làm giảm đi phần nào khả năng tạo hình nhân vật trong tiểu thuyết của Vi Hồng. 1.2.1.2. Ca ngợi những con người bình thường có tấm lòng nhân hậu, vị tha. Thế giới nhân vật trong tiểu thuyết của Vi Hồng vô cùng phong phú. Nhân vật trung tâm trong sáng tác của ông là những người lao động miền núi. Họ là những người bình thường nhưng đầy tình nghĩa, giầu lòng yêu thương con người. Những phẩm chất ấy thật đáng quý, đáng trân trọng. Phải bắt nguồn từ lòng nhân đạo cao cả, lòng yêu thương con người sâu sắc, Vi Hồng mới có thể xây dựng được những nhân vật mà trong mọi hoàn cảnh, ngay cả đối với kẻ thù của mình vẫn có thể cưu mang, đùm bọc, giúp họ thoát chết và hy vọng họ hoàn lương. Xét về phương diện này, ta nhận thấy các nhân vật trong tiểu thuyết của vi Hồng có nét gần gũi với nhân vật trong tiểu thuyết của Ma Văn Kháng. Nhìn chung họ đều có số phận éo le trắc trở. Bằng nghị lực và lòng nhân hậu, họ cố gắng vươn lên tự khẳng định mình trong những hoàn cảnh nghiệt ngã đầy thử thách và qua những tình huống đời sống ấy nhân vật bộc lộ hết tính cách và những phẩm chất tốt đẹp của mình. Trong tiểu thuyết Lòng dạ đàn bà, người đọc không thể quên một cô Lả thông minh, xinh đẹp nổi tiếng nhất vùng và mang một khát vọng cao đẹp: “Sống cùng với văn minh một năm còn hơn sống trăm năm ở nơi tối tăm, lạc hậu”. Ước mơ đến với văn minh cứ luôn vẫy gọi, thôi thúc khiến Lả quyết định bỏ Tu để yêu Nghít dù “Lả yêu Tu hơn yêu Nghít, Tu đẹp trai hơn, khoẻ mạnh hơn”. Bất chấp sự ngăn cản của gia đình, Lả theo Nghít về mường Nước Hang Rơi đông người, văn minh, lịch sự để làm dâu. Chị cùng chồng vun vén xây đắp ngôi nhà hạnh phúc. Chị không chỉ giúp chồng trong công việc làm ăn mà còn Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên dành chồng từ trong nanh vuốt của chúa sơn lâm. Một người đàn bà dám hy sinh cả tính mạng của mình để bảo vệ chồng, đáng lẽ phải được hưởng tình yêu, hạnh phúc từ người chồng ấy, nhưng chị đã bị Nghít đối xử tàn tệ. Vì say mê sắc đẹp của Mã Thả An, Nghít đã quên đi tình nghĩa vợ chồng. Anh vô tình với người vợ thuỷ chung, nhân hậu, quan hệ với Mã Thả An ngay trong nhà mình. Lả hết lời khuyên can nhưng không có kết quả. Đau đớn và thất vọng, chị đã tìm đến dòng nước Sông Trong gửi mình cho hà bá, thuồng luồng để quên đi tất cả. May mắn thay chị không chết mà đã được Tu và Ban cứu giúp. Sống trong rừng sâu nhưng chị vẫn luôn hướng về gia đình, chồng con. Nhờ vậy, Lả đã cứu được Nghít thoát khỏi bàn tay độc ác của kẻ lòng lang dạ thú định hãm hại anh bằng thuốc độc. Hơn một tháng trời Lả hết lòng chạy chữa, chăm sóc tận tình, Nghít mới hồi phục, nhưng lại bị mù cả hai mắt. Anh chàng Nghít trẻ trung, đẹp trai tràn đầy sức sống, giờ đây phải sống trong cảnh đêm tối, đó phải chăng là đòn trừng phạt của ông trời vì những việc làm tội lỗi mà Nghít đã gây ra cho Lả. Nhưng Lả lại không coi là thế. Chị tận tình cứu chữa cho Nghít và chăm lo cuộc sống cho ba bà cháu trong cái vỏ của người đàn bà khác. Sự ân hận, hối cải của Nghít đã khiến Lả xúc động. Nhiều lần Lả muốn nói thật nhưng rồi chị lại kìm nén được. Chị quyết định dành dụm tiền để đưa Nghít xuống bệnh viện tỉnh chữa mắt. Chị không ngần ngại dành con mắt phải của mình để hiến tặng cho Nghít, cứu Nghít ra khỏi cảnh mù loà, tăm tối. Nếu không có một tình yêu sâu sắc, một trái tim nhân hậu lớn lao thì Lả không thể có được hành động cao cả như vậy. Cuối cùng sự hy sinh ấy đã được đền bù xứng đáng. Nghít đã nhìn thấy “bá tiên đen” lại trở thành cô Lả xinh đẹp ngày xưa. Họ cùng trở về ngôi nhà hạnh phúc của mình. Nếu tình yêu thương của Lả làm xúc động bao trái tim người đọc thì tình bạn trong sáng và sự giúp đỡ tận tình xuất phát từ tình yêu thương của Tu và Ban cũng thật cảm động. Bị khước từ tình yêu, Tu vô cùng đau đớn, nhưng không vì thế mà anh căm thù hay xa lánh Lả. Ngược lại, anh đã cùng Ban dõi theo Lả để rồi giúp Lả thoát chết khi nàng quyết định gửi mình cho Hà Bá, rồi lại cưu mang, Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên động viên, an ủi và giúp đỡ Lả trong hoàn cảnh khó khăn, chung tay giúp đỡ những người thân của Lả thoát khỏi hoạn nạn, đem đến cho họ một cuộc sống no đủ, vun vén tình yêu và hạnh phúc cho Lả và Nghít. Tu và Ban chính là những bông hoa đẹp về lòng nhân ái mà tác giả đã dụng công xây dựng. Thu Khoan trong Dòng sông nước mắt cũng sinh ra ở một vùng núi cao nghèo nàn, lạc hậu. Ngay từ nhỏ cô đã có cảm tình với Kim Công. Một người dưới nước, một người trên bờ nhưng họ gắn bó với nhau như hình với bóng. Tình yêu nẩy nở, thế rồi họ yêu nhau say đắm. Khi biết Thu Khoan yêu Kim Công, bố mẹ đã ngăn cấm cô bằng những trận đòn roi đau đớn. Nhưng họ vẫn hẹn hò với nhau vào những đêm trăng trên đồi Pò Mần và ngay cả trong căn phòng của Thu Khoan mà không ai biết. Tình yêu của họ càng ngày càng gắn bó, nhưng rồi Thu Khoan bị ép gả cho Kin Xa giầu có nhiều hơn cô mười tuổi – một kẻ kiêu ngạo và độc ác. Ngày cưới của cô cũng là ngày khép lại quãng đời tươi đẹp của tuổi thơ và tình yêu trong sáng với Kim Công, đồng thời nó cũng mở ra một quãng đời đầy bất hạnh của Thu Khoan. Kin Xa nghiện thuốc phiện nặng, của cải trong nhà nhanh chóng “đội nón ra đi” và cuối cùng, hắn nhẫn tâm đem vợ đi bán. Thật may thay, người mua nàng lại chính là Kim Công – người mà cô đã từng yêu dấu. Không chỉ có Thu Khoan mới ngạc nhiên và cảm động mà người đọc cũng phải rơi nước mắt xúc động trước tình yêu chung thuỷ, một trái tim nhân hậu giầu lòng thương người của Kim Công. Bao nhiêu năm Thu Khoan đi lấy chồng, anh lặng lẽ tích cóp những đồng tiền bằng mồ hôi nước mắt của cái nghề sông nước vốn đã khó khăn, và hy vọng một ngày nào đó sẽ đem đến cho Thu Khoan. Anh cố ý không để Thu Khoan biết để mong cứu cô thoát khỏi cơn hoạn nạn. Và hôm nay số tiền ấy đã thực sự cứu giúp được Thu Khoan. Nhờ có tình thương ấy mà Thu Khoan đã thoát khỏi cuộc sống nhục nhã. Cô tràn ngập trong hạnh phúc, để rồi kết quả của tình yêu và hạnh phúc ấy là một đứa con xinh đẹp đã ra đời. Nhưng hạnh phúc của những con người nhân hậu ấy không được trọn vẹn, vì Kin Xa ngày càng nghiện nặng, trở thành kẻ ăn mày rách rưới với nước da bủng beo chỉ còn nằm chờ chết. Kim Công giục vợ đi thăm kẻ thù và sắm sanh quà cáp chu đáo Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên để Thu Khoan mang cho Kin Xa. Hành động cao cả của Kim Công mà anh gọi là “tấm lòng làm người của chúng ta” ấy thật là cảm động. Cảm động hơn nữa khi cặp vợ chồng Thu Khoan và Kim Công còn chấp nhận thêm một nỗi đau khi nàng phải đánh đổi cả nhân phẩm của mình cho quan phủ Trần Hồi (mặc dù nàng rất ghê tởm) đổi lấy những viên thuốc kí ninh chữa bệnh sốt rét cho Kin Xa. Hai trái tim nhân hậu đã gặp nhau để rồi bùng lên ngọn lửa sưởi ấm những tâm hồn cô đơn bất hạnh giúp Kin Xa thoát khỏi cái chết vì những cơn sốt rét hoành hành, đang dần lấy đi tính mạng của hắn, đưa hắn trở về với cuộc đời. Có được những tấm lòng như thế thật đáng quý, đáng trân trọng biết bao. Cứu giúp người trong hoạn nạn là phẩm chất thường thấy ở nhân vật trong tiểu thuyết của Vi Hồng. La hay chính là The trong Vãi Đàng là một cô gái thông minh, xinh đẹp, sinh ra trong một gia đình nghèo, bố nghiện ngập phải bán hết cả ruộng nương cho Tổng Nhự, thậm chí bán cả cô cho hắn. Khi đã trở thành bà quan, cô chỉ chuyên tâm giúp người nghèo khổ. Cách mạng đến, được giác ngộ, La lập tức từ bỏ cuộc sống giầu sang đi theo cách mạng. Cô không chỉ hoạt động rất dũng cảm mà còn luôn giúp đỡ mọi người mỗi khi họ gặp hoàn cảnh éo le. Người được cô hai lần giúp đỡ thoát khỏi cảnh đoạ đầy là Đàng. Cả hai lần, Đàng đã may mắn được The cứu giúp bằng tình yêu thương và sự sẻ chia chân thành, không một chút tính toán thiệt hơn. Những hủ tục lạc hậu đã phải lùi bước trước lẽ phải và lòng tốt của con người. Đoàn tụ và hạnh phúc, tất cả đến thật bất ngờ. Nếu không có những con người giầu lòng nhân ái, có tình yêu thương sâu sắc, vượt qua mọi rào cản của hủ tục lạc hậu như The thì đời Đàng đâu có được những giây phút hạnh phúc như thế. Những con người như Thu Khoan, Kim Công, Tu, Ban và cả The nữa giúp con người ta vững tin hơn trong cuộc sống, bởi cho dù xã hội nào đi nữa, ở đâu đi chăng nữa thì vẫn có những con người tốt, giầu lòng yêu thương, sẵn sàng sẻ chia, đồng cảm, yêu thương giúp đỡ đồng loại thoát khỏi những bế tắc để tìm đến với chân trời hạnh phúc. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 1.2.1.3. Ca ngợi những người trí thức có trí tuệ toả sáng, có ý chí nghị lực, giầu lòng yêu thương con người. Nhân vật trí thức là hình ảnh quen thuộc của văn học Việt Nam trước Cách mạng. Chúng ta có thể dễ dàng bắt gặp những nhân vật đó trong các sáng tác của Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Công Hoan... nhưng tiêu biểu nhất là Nam Cao. Nhân vật Hộ trong Đời thừa, Điền trong Trăng sáng, Thứ trong Sống mòn... đều là những nhà văn, nhà báo có tình yêu nghề nghiệp sâu sắc, có khát vọng sáng tạo mãnh liệt nhưng chỉ vì gánh nặng cơm áo tầm thường mà khát vọng của họ không sao thực hiện được, lương tâm nghề nghiệp bị vẩn đục, tài năng bị xói mòn. Họ cảm nhận rõ thân phận mình cứ “mốc lên, rỉ ra, mòn đi” không lối thoát mà không thể làm gì. Ba mươi năm chiến tranh cách mạng, do ưu tiên viết về quần chúng công – nông – binh nên nhân vật trí thức chưa được chú ý nhiều. Sau chiến tranh, nhất là từ những năm 1986 trở đi, khi đất nước bước sang thời kì đổi mới, khi nhân vật trí thức trở thành nơi gửi gắm thích hợp sự tự ý thức của nhà văn thì nhân vật người trí thức lại xuất hiện nhiều trong tác phẩm. Điều này dễ nhận thấy trong sáng tác của Nguyễn Minh Châu, Ma văn Kháng, Nguyễn Khải... Vi Hồng là một trong số ít nhà văn người dân tộc thiểu số viết về người trí thức. Nhân vật trí thức trong tiểu thuyết của Vi Hồng phần lớn là những nhà giáo, kỹ sư, bác sĩ... mẫu mực, có tài, tâm huyết với nghề nghiệp, có ý thức trách nhiệm về bản thân, về cuộc sống. Họ vượt lên mọi hoàn cảnh và những cám dỗ tầm thường, để đến với khoa học bằng chính trí tuệ và lòng nhiệt tình của mình. Đọc tiểu thuyết Gã ngược đời chúng ta không thể quên người thày giáo giỏi, người kỹ sư nông nghiệp tài năng và đầy nhiệt huyết – Hà Thế Quản. Quản sinh ra đã không được hưởng tình yêu thương của người cha, chỉ có hai mẹ con anh côi cút sống trong rừng, vất vả, khổ cực nuôi nhau. Rồi mẹ anh lại bỏ anh mà đi, Quản sống được là nhờ vào tình thương của những người tốt bụng trong mường. Vất vả thiếu thốn là thế nhưng Quản vẫn học giỏi. Anh thi đỗ vào Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên đại học với số điểm rất cao. Tốt nghiệp đại học, Quản được giữ lại trường và trở thành giảng viên khoa trồng trọt trường Đại học Đông Bắc. Là một thày giáo tâm huyết với nghề, Quản không chịu bó mình với những kiến thức có sẵn trong những cuốn giáo trình. Anh luôn tìm hiểu thực tế để mở rộng tầm hiểu biết, để có những kết luận chính xác, những bài giảng hay đầy sức thuyết phục đối với sinh viên. Không những thế, Quản còn rất đam mê nghiên cứu khoa học. Nếu nhân vật Hộ trong Đời thừa của Nam Cao đam mê văn chương đến mức quên cả bản thân: “Đói rét không có nghĩa lí gì đối với gã trẻ tuổi say mê lí tưởng, lòng hắn đẹp. Đầu hắn mang những hoài bão lớn. Hắn khinh những lo lắng tủn mủn về vật chất...Hắn đọc, hắn suy ngẫm, tìm tòi, nhận xét và suy tưởng không biết chán...”[46] thì cũng có thể nhận xét như thế đối với thày giáo, kỹ sư Hà Thế Quản. Trong cuộc sống sôi động ồn ào của xã hội thời kì đổi mới, trong khi nhiều người tìm mọi cách để làm giầu. Bạn bè của Quản có người đã lên lầu cao, ti vi, tủ lạnh, quần áo nọ kia... thì Quản “đến cái giường cũng không có, cái áo cho ra hồn cũng không. Ăn thì toàn rau, cháo...”. Nhưng Quản lại có hơn người niềm say mê khám phá và sáng tạo khoa học. Gặp được Liêm - cô gái đã yêu Quản và gợi ý cho Quản chinh phục đỉnh Khau Moóc, niềm say mê khoa học của Quản như được tiếp thêm sức mạnh. Nhưng để thực hiện được đề tài nghiên cứu về lai tạo giống bốn mùa trên đỉnh Khau Moóc ấy, Quản đã phải trải qua biết bao nhiêu gian khổ, hiểm nguy, đôi khi còn phải cận kề với cái chết. Nhưng cuối cùng người kĩ sư nông nghiệp ấy đã lên đến đỉnh vinh quang. Đề tài lai tạo giống bốn mùa trên đỉnh Khau Moóc của Quản đã thành công. Với khoa học, Quản hi sinh cả bản thân mình, thậm chí cả tình yêu. Những cô gái thân và yêu Quản đều cảm phục trước tài năng của Quản nhưng lại lùi bước trước tình yêu khoa học của anh. Dường như anh sinh ra để làm khoa học, anh say mê khoa học, khước từ tình yêu của rất nhiều cô gái không phải chỉ vì khoa học mà còn vì một lí do khác. Anh đã được chứng kiến cuộc đời đau khổ Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên của mẹ anh nên anh không muốn làm khổ bất cứ một cô gái nào nữa. Anh tâm sự “bây giờ tôi đã gần bốn mươi tuổi, có nhiều cô gái trẻ xinh đẹp muốn làm vợ tôi... nhưng tôi sợ mình làm cho họ đau khổ” và thế là Quản cứ sống cô đơn để “không làm họ thêm đau khổ”, thật cảm động biết bao! Bên cạnh những con người giầu lòng yêu thương, đam mê khoa học, trong tiểu thuyết Gã ngược đời người đọc cũng không thể quên bác sĩ Tú, bác sĩ Huy, bác sĩ Hồi, y tá Ly... trong tiểu thuyết Người trong ống. Tú được nhà văn Vi Hồng xây dựng như một điển hình cho người trí thức có những phẩm chất tốt đẹp, có nghị lực phi thường, vượt qua mọi khó khăn để khẳng định mình và gắng sống có ích cho cuộc đời. Từ nhỏ, Tú đã là một cậu bé thông minh với ao ước được trở thành một bác sĩ chữa bệnh cứu người. Khát khao ấy càng trở nên mãnh liệt hơn khi mẹ Tú bị chết oan bởi một bàn tay lang băm ngu dốt. Mặc dù thi đỗ đại học với số điểm tối ưu nhưng Tú lại không được đi học, vì bố anh không chấp nhận vào hợp tác xã và bị quy là “thành phần chống đối”. Buồn nhưng không nản, ước mơ trở thành bác sĩ chữa bệnh cho mọi người vẫn rực cháy trong anh. Tú quyết định đi tới một vùng thật xa, thay đổi tên họ để thực hiện khát vọng của mình. May mắn anh được một gia đình người Mông tốt bụng và khá giả nhận làm con nuôi và tạo điều kiện cho anh đi học lại lớp mười để thi đại học. Tú đã “bán hết linh hồn cho sách vở”, cố quên đi tình yêu của nàng Ai Hoa xinh đẹp như hoa tiên, quyết tâm thực hiện cho bằng được khát vọng của mình. Sau bao nhiêu cố gắng, chân trời sống của Tú đã hé mở. Anh trở thành sinh viên trường Đại học Y như mong muốn. Việc Tú đỗ đại học một lần nữa khẳng định ý chí, nghị lực trong anh. Bởi trong cuộc sống, sự quyến rũ về vật chất, sắc đẹp, tình yêu là vô cùng lớn, đôi khi nó làm mờ mắt con người, khiến người ta có thể bị gục ngã, quên đi lý tưởng cao đẹp mà mình đang theo đuổi. Tú đã từng được sống cuộc sống giầu sang, trái tim Tú đã từng rung lên trước tình yêu chân thành, mãnh liệt của nàng Ai Hoa thông minh, xinh đẹp và giầu có. Thế nhưng, anh vẫn vượt qua được lễ “Xăm ràng” đầy khó khăn để đi tiếp con đường mình đã chọn - trở thành một thày thuốc giỏi để chữa bệnh cho mọi người. Nhưng Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên chỉ vì thẳng thắn chỉ ra những sai sót trong kiến thức của thày giáo Ba – hiệu phó phụ trách tổ chức kiêm bí thư Đảng uỷ nhà trường mà Tú bị đẩy vào bộ đội. Cánh cửa khoa học của chàng trai người dân tộc Tày đang rộng mở bỗng nhiên khép lại. Tưởng rằng thử thách lần này sẽ khiến Tú gục ngã, đầu hàng số phận nhưng trước lời động viên an ủi chân thành của thày giáo Phiêu - người mà Tú vô cùng quý mến và kính trọng, những buồn đau, chán chường mau chóng qua đi, trong Tú chỉ còn niềm tin và hy vọng. Vào bộ đội, Tú tranh thủ từng giờ, từng phút nghỉ ngơi hiếm hoi đi tìm kiếm những cây thuốc nam. Cũng chính nhờ những cây thuốc này anh đã cứu được rất nhiều đồng đội thoát khỏi tay tử thần. Biết được tài năng và khát vọng của Tú, ông trung đoàn trưởng đã cử anh đi học Đại học Quân y và anh đã trở thành bác sĩ như mong muốn. Tài năng của anh luôn được khẳng định. Anh được mọi người kính trọng, thương yêu và được đề bạt lên chức giám đốc bệnh viện Lục Khê. Quyền cao chức trọng dễ làm người ta thay đổi, tiền tài, của cải vật chất dễ làm mờ mắt con người, nhưng bác sĩ Tú - giám đốc bệnh viện Lục Khê vẫn sống giản dị và luôn nhiệt tình đem hết tài năng của mình để cứu chữa người bệnh. Tú đã dang cánh tay nhân từ cứu sống con ông chủ nhiệm hợp tác xã đã từng làm hại gia đình anh trước kia và tìm mọi cách để giải thoát cho Hánh (người thương binh bất hạnh) khỏi sự giam cầm tuyệt vọng trong nhà xác bệnh viện. Cùng với Tú, bác sĩ Huy trong Người trong ống cũng là nhân vật tiêu biểu cho những con người tài năng và giầu lòng nhân ái. Huy là một bác sĩ giỏi, “thông thường các bác sĩ đều chữa bệnh theo “bài bản” riêng Huy thì anh kết hợp “bài bản” và sự linh hoạt trên từng căn bệnh cụ thể. Vì thế mà anh đã chữa được nhiều ca mà những bác sĩ “bài bản” bất lực”. Đặc biệt, giống như tất cả những người được sinh ra từ miền núi, anh luôn thẳng thắn ngay cả trong trường hợp không có lợi cho mình, nhưng để cứu người bệnh thoát khỏi cái chết thì anh vẫn làm. Trước sự chẩn đoán không chính xác của viện trưởng, anh đã thẳng thắn góp ý và nhận lấy trách nhiệm cứu chữa người bệnh. Nhiệt tình cứu chữa bệnh nhân Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên với lương tâm nghề nghiệp cao quý, bản lĩnh vững vàng, dám làm, dám chịu là phẩm chất nổi bật trong con người này. Nhân vật On trong tiểu thuyết Vào hang cũng là hình ảnh tiêu biểu cho những trí thức tài năng, tâm huyết với nghề nghiệp. Sinh ra đã không biết mặt bố, anh chỉ được ngắm chân dung của người cha liệt sĩ thân yêu qua bức ảnh mà mẹ anh gói tới mấy lần vải lụa. Hai mẹ con đùm bọc nuôi nhau trong nghèo nàn, vất vả. Nếu Tú phải cải tên đổi họ mới có cơ hội vào được trường Đại học Y mà mình mơ ước thì On may mắn hơn, anh đã được học một kỳ ở bậc đại học. Những tưởng số phận đã an bài, không ngờ học hết kì I năm thứ nhất khoa trồng trọt, On phải trở về địa phương vì lí do “có công văn ở xã gửi lên nói rằng On là tên chống đối và phá hoại hợp tác xã”. “Một sinh viên có khả năng về cây trồng” rất có thể sẽ trở thành một kỹ sư giỏi và còn vươn cao hơn nữa. Nhưng vào cái thời kỳ ấy “chống đối”, hay “phá hoại hợp tác xã ” là một việc vô cùng nặng nề “có thể vào tù như bỡn”. Không hề có bằng chứng, nhưng trước sự “khăng khăng” buộc tội và cả đe nẹt nữa của ông bí thư xã, On vẫn buộc phải thôi học. Mười tám tuổi, cánh cửa cuộc đời đã khép lại khiến On dần trở thành “như một cái bóng, như một cụ già đắm chìm trong những triết lí của cuộc đời đầy nước mắt”. Đau khổ nhưng không chùn bước, tình yêu khoa học vẫn cháy sáng trong anh. Trở về quê, ngoài những giờ lao động vất vả, còn lại “những giờ nghỉ buổi trưa, buổi tối On tận dụng hết để đọc sách kỹ thuật trồng trọt”. Anh tự nghiên cứu một cách miệt mài, rồi làm vườn trồng cây thí nghiệm. Ngờ đâu, những mày mò tự học đã giúp anh thành công. Ngắm nhìn vườn cây trĩu quả, đồi chè xanh mơn mởn, kết quả thí nghiệm của On, vị giáo sư, chủ nhiệm khoa trường Đại học Nông nghiệp Đông Bắc phải trầm trồ khen ngợi. Yêu mến tài năng của cậu học trò nghèo giầu nghị lực, giáo sư đã giúp đỡ On thực hiện ước mơ học tiếp đại học - và anh đã trở thành kỹ sư nông nghiệp như mong ước. Sinh ra và lớn lên trên mảnh đất Ba Mái, núi rừng và những con người nghèo khổ nơi đây đã gắn bó thân thiết với anh, khiến anh khát khao được trở về cống hiến cho quê hương. Vị giáo sư - người đã từng giúp anh trở lại trường Đại học nông nghiệp Đông Bắc cứ muốn giữ anh ở Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên lại trường làm giảng viên đại học nhưng anh kiên quyết từ chối: “Thưa giáo sư em là cây tre, cây cam, cây táo của mảnh đất quê em. Em rời mảnh đất quê hương em ra đi để rồi em sẽ lại quay về với quê hương”. Những lời gan ruột của On khiến người đọc cảm động bởi hiếm có một tình yêu quê hương nào lại sâu sắc như thế. Ngày anh nhận được quyết định về nông trường chè Ba Mái, anh sung sướng vô cùng nhưng cũng là lúc buồn nhất vì anh phải chia tay vị giáo sư - người đã không chỉ nuôi anh khôn lớn về trí tuệ mà còn san sẻ những bát cơm từ tiêu chuẩn ít ỏi để giúp người học trò nghèo mà ông yêu quý. Buổi chia tay đầy cảm động, On thì “rơm rớm nước mắt”, còn “giáo sư cười, ông để mặc những giọt nước mắt già nua của mình lăn sau cặp kính lão”. Một già, một trẻ cùng rơi lệ bởi họ cùng là những người hết lòng vì khoa học, giầu lòng yêu thương con người, nặng tình với quê hương. Những người trí thức tài năng và tâm huyết với nghề nghiệp như On, Tú, Quản thật đáng trân trọng, song ta cảm phục họ hơn bởi những con người này có một nghị lực phi thường, không chịu lùi bước trước tất cả những nghịch lí trớ trêu của cuộc đời trước hết là những thế lực đen tối, tàn bạo, những kẻ quyền thế. Họ luôn khẳng định giá trị đạo đức của những người trí thức. 1.2.2. Cảm hứng cảm thương gắn với những con người bất hạnh. 1.2.2.1. Cảm thương cho con người bị những hủ tục phong kiến xưa vùi dập, đoạ đầy. Với sự trải nghiệm của chính cuộc đời mình, lại tận mắt chứng kiến những cảnh đời éo le, những hủ tục lạc hậu đã vùi dập bao số phận người miền núi, Vi Hồng đã viết ra những trang văn đẫm nước mắt. Những “trai hoa, gái nụ” bị gán cho cái tội “có ma gà” cứ hiện lên quằn quại, đau đớn và bế tắc. Họ gần như không có lối thoát. Cùng với sự đồng cảm, xót xa là khát vọng phá tan những hủ tục lạc hậu, đem ánh sáng văn minh đến cho con người miền núi, để những con người như Đàng trong Vãi Đàng, Thu Lương, Thu Lạ, Mi Tráng trong Mùa hoa Bioóc Loỏng… không phải sống trong cay đắng, nhục nhã mà những hủ tục ấy đem lại nữa. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên Đàng (Vãi Đàng) là một cô gái xinh đẹp - “Đẹp bằng Thị Đan ngày xưa đấy”, ngờ đâu lại bị vùi dập bởi những hủ tục lạc hậu. Bị vu “có ma gà” Đàng đau khổ chỉ biết “ôm cột nhà mà khóc, cái lều của Đàng chìm đắm trong tiếng nghẹn ngào”. Nhưng khóc mãi cũng chẳng thể thoát khỏi cái bi kịch oan nghiệt này. Gia đình Đàng quyết định ra đi. Cảnh Đàng cùng cha mẹ dắt díu nhau bỏ xứ ra đi được Vi Hồng miêu tả thật thương tâm: “Đàng cùng bố mẹ lặng lẽ bỏ bản, bỏ mường ra đi. Ba người bước chân dẫm lên bước chân, đêm tối mịt mù, giơ xoè bàn tay ra trước mắt mà không thấy ngón. Nhắm mắt hay mở mắt đều như nhau”. Sa cơ lỡ bước, lang thang kiếm sống nuôi cả gia đình, Đàng lại còn đau khổ khi bị mang tiếng là ma gà, phải rời bỏ người yêu khi tình yêu mới chớm nở - đó là bi kịch vô cùng đau đớn đối với một cô gái trẻ như Đàng. May mắn được The giúp đỡ, Đàng đưa gia đình đến vùng Nặm Cáp dựng nhà, làm nương rẫy, sống hoà đồng với mọi người trong bản, Đàng như được hồi sinh. Nhưng sống dưới gầm trời của bọn thực dân phong kiến, con người chạy đâu cho thoát khỏi nanh vuốt của bọn thống trị. Cái ác bủa vây khắp mọi nẻo đường. Thoát khỏi kiếp làm vợ lẽ Tổng Vọi, Đàng lại bị ép làm vợ lẽ Tổng Nhự. Tưởng rằng cam chịu kiếp lẽ mọn sẽ được sống yên ổn mà nuôi con. Nào ngờ cái án “ma gà” vẫn không rời bỏ người con gái đẹp. Trong ngày lễ đầy tháng của con Đàng, Tổng Vọi cũng được mời đến. Hắn nhìn thấy Đàng và kêu lên: “Con Đàng ma gà từ quê tao chạy đến đây! Nó là con ma gà các quan ơi!”. Và thế là vợ Tổng Nhự xông vào đánh Đàng tàn nhẫn, mụ “xắn tay áo, nhe răng cắn và cấu xé người vợ bé”. Sau đó, Đàng còn bị xích chân vào mảng, thả bè trôi sông trong nhục nhã, đau khổ cùng sự khinh bỉ của tất cả mọi người. Những lời kêu than thảm thiết của người mẹ trẻ, cùng với tiếng khóc oe oe tuyệt vọng của đứa bé mới đầy tháng tuổi đang sắp sửa làm mồi cho cá, sẽ mãi mãi ám ảnh người đọc về nỗi tủi nhục, bất hạnh của con người sống dưới xã hội tối tăm, lạc hậu với những hủ tục đã tồn tại một thời. Cùng chung số phận với Đàng, Thu Lương, Thu lạ và Mi Tráng trong Mùa hoa Bioóc Loỏng cũng bị mang tiếng là có ma gà. Còn bất hạnh hơn cả Đàng, Thu Lương đã phải tìm đến cái chết bằng cây lá ngón hoa vàng, khi bị kết tội là Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên có ma gà. Vi Hồng đã miêu tả cái chết của nàng thật thương tâm: “Từ lúc tỉnh táo đến khi đau đớn quằn quại – có lẽ là ruột nàng đang đứt từng khúc… Dù ai hỏi thế nào nàng cũng chỉ nghiến hai hàm răng cắn chặt. Nàng quyết tâm từ giã cuộc đời nhục nhã vì luôn bị người đời nhục mạ”. Cái chết của Thu Lương không làm cho mọi người tỉnh ngộ mà ngược lại nó còn nặng nề hơn đối với Thu Lạ. Có nhan sắc tuyệt vời, lại đang ở tuổi hoa, tuổi nụ nhưng Thu Lạ không hề được vui vẻ hạnh phúc vì cô luôn mang nặng mặc cảm rằng “mình là kẻ xấu xa, bẩn thỉu, mọc gai nhọn, gai móc quanh người”. Cũng có nhiều chàng trai say mê sắc đẹp của cô nhưng họ không thể vượt qua cái rào cản của hủ tục lạc hậu ấy. Vì thế, Thu Lạ đã phải chấp nhận l._.ệu – Đại học Thái Nguyên Ngoài những nhân vật trên, trong tiểu thuyết của Vi Hồng, ta còn thấy rất nhiều những nhân vật khác, họ sống trong hiện tại nhưng quá khứ thỉnh thoảng lại hiện về như Tập Tạng trong tiểu thuyết Vào hang, Bà Hà trong tiểu thuyết Gã ngược đời, Lăng thị Thu Lả trong Lòng dạ đàn bà, bà Xiêm trong Dòng sông nước mắt... Khi có được con dâu là Thu Khoan, lại sắp sửa có cháu, bà Xiêm vui mừng kể lại cuộc đời đau khổ của bà cũng như tại sao chiếc thuyền độc mộc lại phải neo đậu giữa dòng. Quá khứ ấy đã trôi qua gần 25 năm nhưng nó vẫn hằn in trong trái tim bà mà không thể nguôi ngoai. Đó là mối tình với chàng Cắm Hỉ – bố của Kim Công bây giờ. Bà đã đem lòng yêu anh Cắm Hỉ từ lần gặp đầu tiên. Khi tình yêu của họ thắm thiết thì cũng là lúc bà bị ép gả cho nhà quan Chánh Khao. Tuyệt vọng bà đã tìm đến vực Vằng Nám để gửi mình cho thuồng luồng mào đỏ. May mắn thay những con ca nặm của Cắm Hỉ đã cứu bà thoát chết. Từ đó bà gắn bó với chiếc thuyền độc mộc cùng Cắm Hỉ, không bao giờ bước chân lên bờ nữa. Quá khứ đau buồn ấy khiến bà sống mà như chết, bởi bà “không muốn ai nhìn thấy mặt mẹ còn tồn tại với cỏ cây, sông nước quê hương”. Với Tập Tạng (Vào hang) kí ức là kỉ niệm về thời gian khi ông mới mười hai, mười ba tuổi theo bố đi bắt gấu, bắt hổ. Tưởng con gấu đã chết, bố Tập Tạng chủ quan, cuối cùng đã bị gấu xé xác, Tập Tạng may mắn thoát chết. Cũng từ đó Tập Tạng làm nghề bắt gấu bằng tay không để trả thù cho cha. Còn Lăng thị Thu Lả (Lòng dạ đàn bà) mặc dù là một con người có lòng nhân hậu vị tha nhưng kí ức đau buồn vẫn thỉnh thoảng hiện về làm tim cô đau đớn. Đó là cảnh nghít phản bội cô, quan hệ như vợ chồng với người con gái khác. Cảnh “Nghít và An làm tình hằn lên trong lòng Lả như một khối u ung thư đến kì sắp vỡ mủ”. Để nhân vật sống trong quá khứ, suy tưởng về quá khứ là một hiện tượng mang tính nghệ thuật của thi pháp học hiện đại. Khi nhân vật sống với quá khứ, nhà văn đặt nhân vật của mình trong mối liên hệ với hiện tại và tương lại để rồi từ Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên đó nội tâm nhân vật được bộc lộ có chiều sâu, tính cách nhân vật được bộc lộ một cách chân thực nhất. 3.2.2.3. Thời gian tương lai Thời gian tương lai là thời gian thể hiện qua dự kiến, ước mơ của nhân vật về điều “chưa xẩy ra”. Thời gian tương lai còn được thể hiện qua những hình ảnh hướng về tương lai. Nó thường là những dự cảm về những điều sắp xảy ra hoặc những giấc mơ, những ước mơ, những dự định của nhân vật về thời gian trong tương lai. Vì thế thời gian thường gắn với những biến đổi tâm lí của nhân vật trong những tình huống, hoàn cảnh cụ thể. Trong tiểu thuyết Đi tìm giầu sang, Ké Háo là kẻ nghiện ngập đến nỗi: “Ông mới 36... mà trông già đến 50. Nước mắt, nước mũi chảy ròng ròng kéo thành dây thành sợi, nước da xám ngoét như người sắp chết, con mắt mờ đục, ướt nhèm”. Đã nhiều lần Ké Háo định cai thuốc phiện nhưng không được: “Không được đâu con ạ! Bố sắp chết rồi”. Đó là lời nói tuyệt vọng của một kẻ đã đi quá sâu vào con đường nghiện ngập. Ké Háo sẽ không thoát ra khỏi tình trạng tuyệt vọng nếu không có nàng Nọi đến cứu giúp. Nọi xuất hiện trong cái lều rách nát của ké Háo như một nàng tiên. Những cử chỉ nhẹ nhàng và lời nói êm ái của Nọi khiến “Ké Háo càng tin người con gái là tiên từ trên trời xuống cứu giúp”. Giấc mơ có được người đẹp như nàng tiên trong nhà cùng với lời hứa: “Anh cai được thuốc phiện, anh chăm làm, anh trở thành người tốt em sẽ yêu anh... làm vợ anh” khiến Ké Háo quyết tâm cai nghiện. Anh gồng mình lên để chống chọi với cơn nghiện. Suốt một tuần lễ, “Ké Háo như ngất, sau vài giây lại vùng lên như kẻ phát rồ... Mỗi lần như thế Ké háo lại thấy ông trời vàng như nghệ , thấy mọi vật xung quanh xanh như mắt meo”. Để giúp Ké Háo vượt qua cơn vật ấy, cô gái xinh đẹp lại dùng những lời dịu dàng ngọt ngào “làm đượm cả tâm hồn của một kẻ lâu nay vốn đã u mê”. Và cứ thế “Ké Háo răm rắp nghe theo lời người con gái”. Với hi vọng “được hưởng tình yêu trong cõi thần tiên mà anh đang đắm chìm bấy nay” đã kéo Ké háo từ một kẻ nghiện ngập thành một con người bình thường chăm chỉ làm ăn và khao khát làm giàu. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên Quá khứ đau khổ triền miên của Hoàng trong Tháng năm biết nói khiến anh có những giấc mơ khủng khiếp. Mười hai tuổi, Hoàng còn quá bé so với công việc mà anh phải làm. Tự nuôi mình và nuôi mẹ già. Những việc đó, Hoàng có thể vượt qua nhưng chuyện lấy vợ và chuyện số mệnh là quá sức đối với một đứa trẻ như Hoàng. Hoàng đi hỏi tất cả mọi người, nhưng không ai giải thích cho Hoàng hiểu hết về chuyện số mệnh. Để rồi nỗi niềm trăn trở ấy đã theo Hoàng đi vào giấc ngủ. Trong mơ, Hoàng được gặp ông, gặp bố. Điều mong muốn nhất của Hoàng là có được lời khuyên để “chữa cái mệnh của cháu”. Nhưng tất cả đều trả lời: “đời bố ông cũng không cưỡng lại cái mệnh được, đời ông cũng không, đời bố cháu cũng không, đời cháu cũng không. Cháu chống lại mệnh đời, đi ngược lại dòng đời chỉ là chuyện nằm mơ, chuyện lấy đũa chống ông trời mà thôi”. Trong giấc mơ anh còn thấy mình “vừa mới lấy vợ hôm nào nhưng sao lại có hai đứa con. Một đứa đen như đít chảo nấu cám, còn đứa kia mới xinh đẹp làm sao”. Giấc mơ đó thật khủng khiếp, nó như một lời tiên đoán, dự báo một tương lai không tốt đẹp của Hoàng. Quả thực sau này anh đã phải lấy vợ, người vợ mà anh vô cùng ghê sợ khiến cho cuộc sống ngày càng nặng nề hơn, ngột ngạt hơn. Trước cuộc sống ấy, “Hoàng ước gì đừng có vợ, mọi việc Hoàng vẫn phải làm như năm xưa thì vui biết mấy”. Nhưng ước mơ chỉ là mơ ước mà thôi. Sự thực thì Hoàng đã có vợ. Người vợ ấy cứ ám ảnh và theo sát anh từng bước. Ngay cả trong giấc mơ, Hoàng thấy nó hiện lên thật khủng khiếp: “Người đàn bà hiện về trong sâu thẳm của tâm tưởng Hoàng . Nó hiển hiện, nó nói cười, nó rít những tiếng ghê sợ, nó phun những tiếng thô tục rồi nó biến thành con diều hâu lớn. Khắp mình con diều hâu ấy toàn những móng, những vuốt. Nó quắp, nó móc, nó đào bới nhầu nhoẹt cả ruột gan của Hoàng”. Đó phải chăng là những ảo giác hiện lên trong tiềm thức bởi hiện thực nghiệt ngã mà Hoàng đang phải gánh chịu. Lả trong Lòng dạ đàn bà quan niệm: “Sống cùng với văn minh một năm còn hơn sống trăm năm ở nơi tối tăm lạc hậu”. Từ quan niệm ấy mà Lả khát khao đến mường Nặm Tốc Rù làm dâu, bởi ở đó “mọi người đều biết chữ, có người đi sang Tây học đỗ những cái bằng cao mà trong nước ta không có cho học”. Rồi cô Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên mơ ước: “Mình mới có cái bằng lớp bảy, nhưng con mình phải vào đại học và còn học cao hơn đại học nữa”. Những mơ ước, khát khao của Lả cũng là ước mơ của biết bao nhiêu người dân miền núi lúc bấy giờ. Có lẽ Lả hiểu ra rằng, mọi khổ đau đều bắt nguồn từ sự lạc hậu, thiếu tri thức văn hoá, khoa học. Vì vậy sống trong tối tăm, Lả muốn vươn tới ánh sáng của văn hoá, của tri thức và gửi gắm khát khao vào thế hệ sau. Trong tiểu thuyết Người trong ống, Tú được chứng kiến cái chết đau đớn của mẹ bởi bàn tay của một tên lang băm ngu dốt. Hình ảnh người mẹ quằn quại trong tuyệt vọng hằn sâu trong tim Tú để rồi khơi dậy khát khao: “Tú phải học cho thật giỏi, mà phải học Đại học Y thì may ra mới trả được hòn máu hận đời trong lòng mẹ dưới mồ”. Mặc dù thi vào Đại học Y với số điểm tối ưu, nhưng vì bị quy vào thành phần chống đối hợp tác xã, nên Tú không thực hiện được mơ ước của mình. Phương trời lí tưởng đã khép lại, buồn nhưng không nản, Tú quyết tâm ra đi đến một nơi xa xôi không ai biết để thực hiện mơ ước của mình. Gặp Ai Hoa xinh đẹp, trái tim Tú đã có lần rung động, nhưng ngay lúc ấy Tú lại thấy hiện lên: “cái phương trời riêng của Tú như bảy sắc cầu vồng nơi phương trời xa xăm”. Nó vẫy gọi, giúp Tú vượt qua những thử thách đầu đời. Mơ ước cháy bỏng của Tú là trở thành một bác sĩ giỏi cuối cùng đã đạt được, mặc dù anh đã phải đánh đổi bằng rất nhiều thứ: gia đình, tình yêu thậm chí cả ngoại hình của mình nữa. Anh trở về làm giám đốc bệnh viện Lục Khê trong một hình dạng đổi khác bởi thương tích của chiến tranh. Nhưng điều quan trọng là Tú đã thực hiện được mơ ước của mình. Thời gian tương lai của Tú chính là thước đo nghị lực của con người. Thông qua nhân vật này nhà văn muốn nói với chúng ta rằng, muốn đạt được mơ ước của mình thì con người phải có ý chí, nghị lực để vượt qua những khó khăn, trắc trở của cuộc đời. Trong tiểu thuyết Phụ tình, quan chúa mường Nước Buồn lại mơ ước có một đứa cháu để bế bồng từ người con gái tàn tật tên là Diu Nàng. Thật bất hạnh từ khi sinh ra Diu Nàng đã là người “mặt dài ngoẵng, một bên vặn vỏ đỗ, một bên cong diệp cày. Mắt lồi, trán hóp như trán con khỉ, cái thân ngắn ngủn, chân tay Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên dài ngoãng như chân tay con vượn già”. Thấy Thế Du đẹp trai như chàng hoàng tử lại có giọng lượn thật hay nên chúa mường ép Thế Du lấy Diu Nàng. Giấc mơ tương lai của chúa mường sẽ là “Những đứa cháu trai, cháu gái xinh đẹp, khôi ngô mang họ của dòng họ nhà châu mường”. Nhưng đó chỉ là ước mơ không bao giờ có được bởi những cây thuốc cai đẻ mà Thế Du đã bí mật dấu dưới dát giường. Với tấm lòng nhân hậu, Diu Nàng đã giải thoát cho thế Du để cho Thế Du trở lại với bầu trời tự do. Tập Tạng trong tiểu thuyết Vào hang lại sẵn sàng làm tất cả thậm chí cả cái chết của bản thân mình để tố cáo con người độc ác với một khát khao duy nhất: “cái ác cần được trừng trị, cái thiện cần được sống yên lành”. Thời gian tương lai và cũng là niềm mơ ước của Tập Tạng là sau này bản làng không còn những con người độc ác, chỉ còn những người nhân hậu, biết yêu thương, đùm bọc lẫn nhau, cùng nhau xây dựng bản làng giàu đẹp. Qua khảo sát toàn bộ tiểu thuyết của Vi Hồng ta nhận thấy nhà văn luôn đặt nhân vật trong mối quan hệ giữa hiện tại, quá khứ và tương lai. Nhờ có mơ ước về tương lai mà nhân vật thoát li được hiện thực tăm tối, vươn tới ánh sáng của tri thức, của văn hoá, làm chủ cuộc đời mình và sống có ý nghĩa hơn. 3.2.2.4. Thời gian đồng hiện. Bên cạnh thời gian quá khứ – hiện tại – tương lai chúng tôi nhận thấy, khi khắc hoạ nhân vật, Vi Hồng còn sử dụng thời gian đồng hiện. Tuy nhiên, chúng tôi không đi sâu nghiên cứu kiểu thời gian này, bởi vì: một mặt, thời gian đồng hiện không nhiều, mặt khác xét đến cùng, thời gian đồng hiện chính là sự hoà trộn hợp lí của thời gian quá khứ, thời gian hiện tại và thời gian tương lai điều này đã được chúng tôi đề cập đến trong phần “không gian tâm lí” (trang 72). Chúng tôi nhận thấy: giữa thời gian đồng hiện và không gian tâm lí có một mối quan hệ gắn bó nội tại. Thời gian đồng hiện xuất hiện trong tâm lí nhân vật ở những thời điểm và tình huống có tính chất gợi nhớ, gợi nghĩ từ thời gian hiện tại của nhân vật. Nó góp phần quan trọng biểu hiện đời sống nội tâm. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 3.2.3. Mối quan hệ giữa thời gian nghệ thuật và không gian nghệ thuật. Nếu thế giới thực tại chỉ tồn tại trong không gian và thời gian thì thế giới nghệ thuật cũng chỉ tồn tại trong mối quan hệ giữa không gian và thời gian nghệ thuật. Mối quan hệ giữa không gian và thời gian nghệ thuật là mối quan hệ không thể tách rời. Theo giáo Sư Trần Đình Sử, khi nhà văn dừng lại khắc họa không gian thì thời gian bị hãm chậm hay bị triệt tiêu. Người ta có thể không gian hoá thời gian bằng cách miêu tả trật tự liên tưởng, cái này bên cạnh cái kia. Vì vậy, việc phân chia các không gian, thời gian để khảo sát là do yêu cầu của các thao tác khoa học. Kì thực, các yếu tố không gian, thời gian không thể tách rời nhau mà hài hoà với nhau trong thể thống nhất là tác phẩm ngôn từ. Ta có thể nhận thấy sự gắn bó giữa không gian và thời gian nghệ thuật trong tiểu thuyết Vãi Đàng. Cuộc đời cũng như quãng thời gian hoạt động cách mạng của Đàng gắn liền với hình ảnh cây mận. Khi Đàng bị ép làm vợ lẽ Tổng Nhự cũng là lúc Đàng phải rời xa căn nhà, rời xa cây mận mà hàng ngày cô vẫn chăm sóc. Ở nhà Tổng Nhự, Đàng đã có được những tin tức của bọn thực dân Pháp, cô bí mật ghi lại và đem chôn dưới gốc cây mận. Khi ấy “cây mận non mới cao bằng đầu cô gái”. Và đó là thời gian Đàng mới chập chững bước vào con đường hoạt động cách mạng. Như đếm nhịp thời gian, tác giả viết: “một mùa xuân nữa lại sắp đi qua cây mận trước nền nhà cũ”. Thời gian qua đi, cây mận cũng lớn lên trưởng thành như cuộc đời con người. Cùng với sự lớn lên của cây mận, Đàng đã đóng góp được rất nhiều cho cách mạng. Thời gian cứ lần lượt trôi theo dòng chảy của nó. Và “mỗi năm hết, Vãi Đàng lại thấy mùa xuân đến trọ ở gốc cây mận, ngay sát cuối dàn nhà”. Đến khi Đàng tìm lại được hạnh phúc, xum vầy bên con cháu thì “người trong bản gọi cây mận của vãi là cây mận già”. Mùa xuân lại đến, khi Đàng đã ngoài 60 tuổi, “cây mận già cuối dàn nhà vãi cành nhánh rườm rà, chằng chịt, vấn vít như một chiếc chổi xể khổng lồ”. Thời gian trôi qua nhưng không hề làm mất đi sức sống mãnh liệt của nó, ngược lại cây mận già vẫn đang tuôn trào để rồi “bừng nở những bông hoa trắng nõn”, dâng hương sắc, làm đẹp cho đời. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên Thực tế trong tiểu thuyết của Vi Hồng, không gian và thời gian không có sự ngăn cách. Trong những bức tranh miêu tả không gian, dấu ấn thời gian in đậm không thể tách biệt. Không gian mùa xuân ở bản Chín Thoong thật đẹp: “Hoa đào bắt đầu xoè cánh, hoa mận trắng tinh bung nụ, hoa mạ rực rỡ đốt cháy vách đá... Mưa xuân rây bột khắp bầu trời Chín Thoong” [37, 282]. Có thể nói sự hoà quyện giữa không gian và thời gian trong bức tranh xuân đã tạo nên một hiệu quả bất ngờ. Không khí dường như đang ấm lên đủ sức cho những loài hoa bung nở để rồi khắc tạo nên một bức tranh tràn ngập mầu sắc và căng tràn sức sống. Vi Hồng cảm nhận về mùa xuân không chỉ ở sự thay đổi của đất trời mà còn ở nhịp sống quê hương: “Mùa xuân đến tưng bừng rộn rã trên cây mận. Những người mặc áo chàm mới, đội nón mới, vai gánh đôi đẫy, vắt tay hoặc tay sách túi... đi qua dưới gốc mận mỗi lúc một đông, rộn rã hơn. Vãi Đàng sực nhớ hôm nay ngày chợ Nặm Cáp” [27, 8]. Mùa hè ở miền núi được Vi Hồng cảm nhận rất đặc biệt không chỉ qua ngọn gió lồng lộng mà còn có cả mùi vị của núi rừng: “Mùa hè gió đèo lồng lộng, mát như ngọn gí vung vãi từ chiếc quạt tiên, quạt thánh từ phương nam thổi tới. Những ngọn gió của rừng núi mới trong lành làm sao, vị ngọt của lá mang theo qua ngàn trùng núi non” [35, 103]. Khi cái nắng không còn gay gắt nữa, thu đến mang theo không khí se lạnh làm cho không gian dường như cũng thay đổi: “hàng chục cây ăn quả trong vườn thu đều trụi lá, những búp non tơ mang trên mình mầu nhung tuyết đã nhu nhú, he hé, sắp bật trồi lên lộc. Những đàn chim lửa, con chỉ to hơn hạt mít với những bộ lông cánh trăm mầu bắt đầu cất bản đồng ca trăm giọng của giống loài” [34, 110]. Mùa đông ở miền núi vốn đã khắc nghiệt, ở mường Nước Hang Rơi lại càng khắc nghiệt hơn: “cái lạnh làm cho đá cũng nhăn nhúm. Lá vàng bay tan tác theo gío lạnh lên trời từng đàn như vô vàn những con bướm ma lạc đàn. Những con trâu già lưng vồng cong sống núi, gầy như một gắp gianh. Dưới lòng suối, lòng sông cá không còn bơi lội! Trên rừng chim chóc ngừng bay, ngừng hót. Mầu Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên xanh lặn hết vào lá. Những mầm non tụt vào thân cây. Muông thú tụt vào những hang sâu. Con người tụt vào những đống chăn” [34, 75]. Bức tranh thiên nhiên vào mùa đông ở vùng rừng núi qua nét vẽ của Vi Hồng thật là khủng khiếp. Cái rét như cắt da cắt thịt làm đảo lộn tất cả, thiên nhiên thay đổi và cuộc sống sinh hoạt của con người cũng đổi thay. Sự hoà quyện giữa không gian và thời gian nghệ thuật đã tạo nên một bức tranh tuyệt tác có một không hai trong tiểu thuyết Tháng năm biết nói. “Lúa tháng tám hai bên bờ sông đã gặt, lúa mùa bắt đầu nhuốm mầu trứng cá. Bầu trời Chín Thoong thơm ngọt ngào hương lúa – hương của hạnh phúc ấm no. Nắng rờ rỡ trăm con sóng bắt lấy ánh nắng làm nghìn chiếc gương nhoang nhoáng chạy xuống thác ào ạt”. Và một lần nữa ta lại được chiêm ngưỡng vẻ đẹp tuyệt mĩ của mùa xuân ở bản Chín Thoong: “Những làn gió xuân khẽ nâng những vầng nắng tháng giêng như tơ, ngọt như mật ong lăn mình qua những đám cỏ gianh... Tiếng ngàn chim đua hót trào dâng khắp các thung lũng, đầy ắp mọi cánh rừng... Mừng mùa xuân dào dạt hương hoa, ngan ngát hương sắc. Từng cây, từng vạt rừng rừng đào đang trổ hồng như khoác lên những cánh rừng... Những cây mận, rừng mận cũng đổ hết mầu trắng, trắng nõn nà, trắng loá cả ánh nắng ngày xuân”. Cũng là bầu trời Chín Thoong nhưng ở mỗi mùa, mỗi thời điểm lại có một không gian tương ứng: “Mùa thu nắng vàng xuộm trải khắp bầu trời Chín Thoong”, mùa xuân không gian như bừng sáng bởi hoa đào, hoa mận thì đến mùa đông ở bản chín Thoong, (khác với mùa đông ở mường Nặm Tốc Rủ trong tiểu thuyết Lòng dạ đàn bà): “đêm tháng mười trăng thượng tuần đã to bằng cái liềm cắt cỏ ngựa nhưng mây dầy quá thỉnh thoảng trăng ló một mảnh lông mày vàng mập ra khỏi mây rồi lại vội vành đi vào mây... Hai cánh đồng hai bên dòng Chín thoong đã gặt xong. Từng tốp rơm dạ lù lù nổi lên rải rác khắp hai cánh đồng như những nấm mồ bồng bềnh giữa bãi hoang mạc. Sương buông lạnh ngắt. Mầu gốc dạ vàng vọt đẫm sương đêm”. Ở các bức tranh xã hội trong tiểu thuyết của Vi Hồng, ta có thể thấy rất rõ yếu tố không gian và thời gian nghệ thuật luôn luôn đi liền với nhau tạo nên một thể thống nhất không tách rời. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên Khi thực dân Pháp xâm lược, chúng không những cướp ruộng đất lập đồn, lập bốt mà chúng còn thành lập công ty thiếc Bắc Kì để khai thác tài nguyên thiên nhiên. Không còn không gian tĩnh lặng vốn có của núi rừng ngày xưa nữa, mà bây giờ Thin Tốc trở thành thị trấn “đông đúc, chen chúc đủ mọi hạng người” [34, 19]. Cao lâu, sòng bạc mọc lên khắp nơi. Từ những mái nhà tranh đen kịt khói bếp giờ đã bắt đầu mọc lên những ngôi nhà hai tầng hiện đại. Không gian thay đổi kéo cuộc sống của con người cũng thay đổi, ngột ngạt, tăm tối. Cách mạng thành công, Thực dân Pháp rút chạy, thung lũng Đá Rơi lại trở về với vẻ hoang sơ của nó:“Đường xá và cái thị trấn nhỏ bỏ hoang nhiều năm đã thành rừng, quê của khỉ, vượn, gấu và hổ. Đất bỏ hoang, hai bên lòng suối ẩm ướt, là miếng đất mầu mỡ cho lau lách mở hội múa với gió thung quanh năm... rêu trẻ rêu già kết tầng, xếp lớp trên những sườn núi đá” [29, 25]. Năm 1954, giải phóng miền Bắc, người dân lại bắt tay vào xây dựng lại mỏ thiếc Thin Tốc. Không gian và con người như được hồi sinh. Ngoài chỗ làm việc là một dãy khu nhà tập thể với hơn hai trăm công nhân. Tiếng nói, tiếng cười âm vang cả một khu rừng xưa kia vốn tĩnh lặng. Bên ngoài “những đàn bò đen, bò khoang, bò vàng nhởn nhơ gặm cỏ”. Những tiếng ú ò của chúng còn rền hơn cả tiếng còi tầm của nhà máy. Trong không khí tưng bừng đón khách của ngày đầu năm mới, “cả khu mỏ trong thung lũng bừng bừng không khí hát ca. Công nhân ăn mặc đẹp đứng hai bên đường dẫn đến hội trường”. Cuộc sống mới hoà bình, hạnh phúc và no đủ đang dần dần đến với người dân miền núi. Trong không khí vui tươi náo nhiệt của cuộc sống mới ta thấy rất rõ bước đi hối hả của thời gian. Như vậy qua việc tìm hiểu các yếu tố thời gian và không gian nghệ thuật ta thấy chúng thường xuyên đi liền với nhau. Mỗi thời gian nghệ thuật lại có không gian tồn tại riêng và ngược lại ở mỗi thời gian cụ thể lại có không gian tương ứng. Việc xây dựng mối quan hệ không tách rời giữa không gian và thời gian nghệ thuật làm cho tiểu thuyết của Vi Hồng có sức hấp dẫn đặc biệt đối với độc giả, đồng thời khẳng định tài năng nghệ thuật của nhà văn. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên KẾT LUẬN 1. Sinh ra và trưởng thành trong khó khăn, cơ cực nhưng Vi Hồng đã tự vươn lên xây dựng cho mình một sự nghiệp văn chương khá đồ sộ. Những sáng tác của ông đã chứng minh cho sự giầu có, dồi dào của một khả năng văn chương ở một nhà văn tâm huyết. Sự nỗ lực phấn đấu trong gần bốn mươi năm lao động nghệ thuật nghiêm túc đã đưa Vi Hồng đến với những thành công nhất định, góp phần khẳng định vị trí của ông trong nền văn học thiểu số nói riêng và văn học Việt Nam hiện đại nói chung. Vi Hồng góp vào văn văn xuôi các dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại một phong cách nghệ thuật độc đáo và nhiều tác phẩm có giá trị, góp phần gieo những hạt mầm đầu tiên cho người đời sau ươm giống. 2. Tiểu thuyết là một mảng sáng tác mà Vi Hồng dành nhiều tâm huyết nhất và đã thu được nhiều thành công nhất định, góp phần làm phong phú nền tiểu thuyết Việt Nam hiện đại. 3. Ngòi bút của Vi Hồng thể hiện nhiều cảm hứng khác nhau. Mỗi cảm hứng gắn với những kiểu loại nhân vật nhất định để lại dấu ấn sâu đậm trong lòng người đọc. Đó là cảm hứng ngợi ca hướng tới những con người có vẻ đẹp hình thể và vẻ đẹp tâm hồn cao quý. Vi Hồng đã dành nhiều những ngôn từ đẹp đẽ để ca ngợi những con người có vẻ đẹp hình thể đến mức hoàn hảo. Đặc biệt nhà văn chú ý đến vẻ đẹp tâm hồn, đến tấm lòng nhân hậu vị tha của những con người bình thường và trí tuệ toả sáng, say mê khoa học của những người trí thức. Đó là cảm hứng cảm thương gắn với những con người bất hạnh. Nhà văn thể hiện niềm xót thương cho những con người hiền lành, chất phác bị những phong tục tập quán cổ hủ, lạc hậu vùi dập. Không những thế họ còn bị đoạ đầy bởi những tội ác dã man của bọn thống trị miền núi, những thế lực đen tối ấy khiến cho cuộc sống của nhân dân miền núi vô cùng khổ cực. Thông qua nhưng số phận bất hạnh, nhà văn muốn thể hiện một khát vọng cao đẹp : xoá bỏ những Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên hủ tục lạc hậu, tiêu diệt những cái xấu, cái ác, xây dựng một cuộc sống tốt đẹp hơn. Đó là cảm hứng châm biếm mỉa mai những con người vô học tối tăm. Ngòi bút của nhà văn thật xót xa khi hướng tới những đối tượng như thế bởi họ là những con người „„làm bẩn cả bản mường‟‟. Vi Hồng như muốn dồn tất cả nỗi căm uất lên đầu ngọn bút để phê phán, lên án những kẻ có chức, có quyền bất tài, tráo trở, độc ác, vô nhân tính. Viết về những con người này phải chăng Vi Hồng muốn gửi tới bạn đọc mọi thế hệ khát khao diệt trừ cái ác, bảo vệ cái thiện, xây dựng một cuộc sống tốt đẹp hơn. 4. Về phương diện không gian nghệ thuật, Vi Hồng đã tạo được những không gian thiên nhiên nhiều mầu vẻ, nhằm góp phần chuyển tải tư tưởng của tác phẩm đến người đọc. Đó là bức tranh thiên nhiên hoang sơ dữ dội và ức tranh thiên nhiên tươi sáng đẹp đẽ, tràn đầy chất thơ. Vi Hồng tỏ ra nhạy bén và sâu sắc khi miêu tả bối cảnh xã hội với những mảng sáng, tối khác nhau. Người đọc có thể say mê với những phong tục tập quán đẹp của người dân tộc miền núi Việt Bắc và cuộc sống xã hội chủ nghĩa đang đổi thay từng ngày, nhưng cũng cảm nhận được rõ nét không gian ngột ngạt tăm tối của xã hội miền núi bởi ách áp bức của bọn thống trị thực dân phong kiến, bởi những hủ tục lạc hậu và bởi sự lộng hành của những kẻ có chức, có quyền. Miêu tả không gian tâm lí nhân vật, Vi Hồng đã tạo nên một không gian tâm cảnh đặc sắc nhờ sự kết hợp tài tình giữa yếu tố thiên nhiên, xã hội và tâm lí con người góp phần bộc lộ rõ nét tâm trạng, tính cách và nhân cách của nhân vật trong những cảnh ngộ và tình huống cụ thể. 4. Trong tiểu thuyết của Vi Hồng yếu tố thời gian nghệ thuật cũng được tác giả chú trọng và thể hiện một cách đa dạng, phong phú, mang dấu ấn riêng biệt. Đó là thời gian sự kiện lịch sử với những biến cố trọng đại của đất nước : Thực dân Pháp xâm lược nước ta, Cách mạng tháng Tám thành công, cuộc xâm lược của thực dân pháp lần thứ hai (1946), cải cách ruộng đất, hợp tác hoá nông Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên nghiệp, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước... Tất cả những sự kiện ấy đã tác động đến cuộc sống và từng số phận con người. Cùng với cách thể hiện riêng biệt, độc đáo, Vi Hồng đã đưa người đọc đến với nhiều số phận tiêu biểu, đặt họ trong những sự kiện, biến cố đời tư có tính chất quyết định để thử thách tính cách và phẩm chất nhân vật. Nhờ vậy, nhân vật, tạo ấn tượng sâu đậm trong lòng người đọc. Đặc biệt khi miêu tả thời gian tâm lí, Vi Hồng tỏ ra rất nhạy cảm và tinh tế. Thời gian tâm lí được thể hiện qua các bình diện : thời gian hiện tại, thời gian quá khứ, thời gian tương lai và thời gian đồng hiện. Qua việc miêu tả những bình diện thời gian này, đời sống nội tâm nhân vật được biểu hiện một cách chân thực, cụ thể, rõ nét và có chiều sâu. Các yếu tố thời gian và không gian nghệ thuật trong tiểu thuyết của Vi Hồng không có sự ngăn cách, mà nó gắn bó, hoà quyện với nhau tạo nên một thể thống nhất không tách rời. Yếu tố này bổ sung hoàn thiện yếu tố kia. Thời gian để lại dấu ấn trên không gian và ngược lại. Mỗi không gian nghệ thuật lại có một thời gian nghệ thuật tồn tại riêng, phù hợp và tương ứng. Điều đó thể hiện tài năng của Vi Hồng, đặc biệt trong thể loại tiểu thuyết. Khảo sát toàn bộ tiểu thuyết của Vi Hồng, ta nhận thấy ông đã tạo ra một thế giới nghệ thuật riêng, một cảm hứng thẩm mĩ mang đậm dấu ấn cá nhân và thấm đượm tinh thần nhân văn cao cả về con người và cuộc đời. 5. Do điều kiện có hạn chúng tôi chỉ đi vào tìm hiểu một số phương diện cơ bản nhất của thế giới nghệ thuật trong tiểu thuyết của Vi Hồng. Qua đó khẳng định những đóng góp và vị trí của ông trong nền văn học thiểu số nói riêng và nền văn học Việt Nam hiện đại nói chung. Nhưng để tương xứng với vị trí của ông, nghiên cứu về sự nghiệp sáng tác của Vi Hồng có lẽ cần đến những công trình dài hơi hơn nữa, và nghiên cứu trên nhiều lĩnh vực khác nữa. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. BakhTin (1992), “Lý luận và thi pháp tiểu thuyết”, (Phạm Cư tuyển chọn và dịch) 2. BakhTin (1999), “Tiểu thuyết giáo dục và ý nghĩa của nó trong lịch sử chủ nghĩa hiện thực”, tạp chí văn học số 4. 3. Dương Thuấn (2006), “Nhìn lại văn học Tày”, tạp chí nghiên cứu văn học số 5 4. Đỗ Thuỳ Liên (2007), “Bản sắc dân gian trong tiểu thuyết của Vi Hồng”, luận văn tốt nghiệp Đại học. 5. Hoàng Văn Huyên (2003), “Tính dân tộc trong tiểu thuyết của Vi Hồng”, luận văn Thạc sĩ khoa học. 6. Hoàng Trung Thông, “Nhà văn trên dòng sông Tô Lịch”, báo văn nghệ số 5. 7. Lâm Tiến ( 1995), “Văn hóa các dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại”, Nxb Văn hóa Dân tộc. 8. Lâm Tiến (2002), „„Văn học và miền núi", Nxb Văn hóa dân tộc. 9. Lâm Tiến (2007), "Cách viết tiểu thuyết của nhà văn Vi Hồng", báo VNTN số 13 – 14 10. Ma Thị Ngọc Bích (2004), „„Thế giới nhân vật trong tiểu thuyết của Vi Hồng‟‟, luận văn Thạc sĩ. 11. Nông Thị Quỳnh Châm (2004), “Tính dân tộc trong tiểu thuyết “Tháng năm biết nói”, “Chồng thật vợ giả”, “Núi cỏ yêu thương” của Vi Hồng”, luận văn tốt nghiệp Đại học. 12. Nguyễn Thái Hòa (2000), “Những vấn đề thi pháp của truyện” Nxb giáo dục. 13. Nguyễn thị Thu Hương (2008), “Đặc điểm ngôn ngữ trong tiểu thuyết của Vi Hồng” – Luận văn tốt nghiệp Đại học. 14. Nhiều tác giả (2006), “Kỉ yếu hội thảo Nhà Văn Vi Hồng”, Hội VHNT Thái Nguyên – Khoa Ngữ văn ĐHSP Thái Nguyên. 15. Nhiều tác giả (1988), “Nhà văn các dân tộc thiểu số việt Nam hiện đại”, Nxb Văn hoá Dân tộc 16. Nhiều tác giả (1992), “Từ điển thuật ngữ Văn Học” Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 17. Phạm Mạnh Hùng (2006), “Bản sắc văn hóa dân tộc trong những tác phẩm Vi Hồng”, báo VN Thái nguyên. 18. Phạm Mạnh Hùng (2006), “Tìm hiểu sự nghiệp, sáng tác của nhà văn Vi Hồng”, đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ. 19. Phạm Mạnh Hùng (2006), “Vi Hồng và con đường đến với văn chương”, báo văn nghệ Thái Nguyên. 20. Phạm Mạnh Hùng (2006), “Thế giới nhân vật trong tiểu thuyết của Vi Hồng”, tạp chí nghiên cứu văn học số 2. 21. Phạm Duy Nghĩa (2008), „„Cốt truyện trong văn xuôi các dân tộc miền núi‟‟, Tạp chí nghiên cứu văn học số 8. 22. Phong Lê (1998), “Nhà Văn các dân tộc thiểu số Văn Học hiện đại”, Nxb Văn Hóa Dân Tộc. 23. Trần Đình Sử (1993), “Một số vấn đề thi pháp học hiện đại”, Bộ GD&ĐT. 24. Trần Đình Sử (1996), “Lý luận & phê bình văn học”, Nxb Hội nhà văn. 25. Trần Đình Sử (1998), “Dẫn luận thi pháp học”, Nxb giáo dục. 26. Vi Hồng (1994), “Ngả văn chương”, tạp chí văn học số 9. 27. Vi Hồng (1980), “Đất bằng”, Nxb Tác phẩm mới HN. 28. Vi Hồng (1984), “Núi cỏ yêu thương”, Nxb Thanh niên HN. 29. Vi Hồng (1985), “Thung lũng đá rơi”, Nxb Văn hóa HN. 30. Vi Hồng (1990), “Gã ngược đời”, Nxb Văn học dân tộc HN. 31. Vi Hồng (1990), “Người trong ống”, Nxb Lao động HN. 32. Vi Hồng (1990), “Vào hang”, Nxb Văn hoá Hà Nội 33. Vi Hồng (1991), “Người dân tộc thiểu số viết văn”, tạp chí văn học số 2. 34. Vi Hồng (1992), “Lòng dạ đàn bà”, Nxb Thanh niên HN. 35. Vi Hồng (1992), “Ái tình và kẻ hành khất”, Nxb Văn hoá Hà Nội. 36. Vi Hồng (1993), “Dòng sông nước mắt”, Nxb Hội VH nghệ thuật Bắc Thái. 37. Vi Hồng (1993), “Tháng năm biết nói”, Nxb Văn hóa dân tộc. 38. Vi Hồng (1994), “Chồng thật vợ giả”, Nxb Thanh niên HN. 39. Vi Hồng (1994), “Phụ tình”, Nxb Văn hóa dân tộc. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 40. Vi Hồng (19940), “Ngả văn chương”, tạp chí văn học số 9 – 1994. 41. Vi Hồng (1995), “Đi tìm giầu sang”, Nxb Văn hóa dân tộc. 42 Vi Hồng (1997) “Đọa đầy”, Nxb VH Dân tộc HN. 43. Vi Hồng (chủ biên), Tuấn Dũng (1997), “Gương mặt các văn nghệ sĩ dân tộc thiểu số”, Nxb Văn hoá dân tộc Hà Nội. 44. Vi Hồng (2006), “Mùa hoa Bióoc Loỏng”, Nxb Lao động HN. 45. Vũ Anh Tuấn (2001), “Vi Hồng với mùa xuân Nặm Cáp”, in trong “Khoa Ngữ văn – 35 năm xây dựng và trưởng thành”, Nxb Thanh niên Hà Nội. 46. Vũ minh Tú (2009), “Chất thơ trong tiểu thuyết của Vi Hồng”, đề tài nghiên cứu của sinh viên. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLA9512.pdf