Tăng cường vai trò kinh tế của nhà nước là nhân tố quan trọng để hình thành và hoàn thiện cơ chế quản lý kinh tế mới của nước ta hiện nay

Lời mở đầu Cuối thế kỷ 20 mô hình của nền kinh tế chỉ huy đã thể hiện rõ sự thất bại trong việc duy trì tăng trưởng, tạo sự phồn vinh và thậm chí cả trong việc bảo đảm đời sống kinh tế cho người dân. Trong khi đó mô hình kinh tế thị trường lại tỏ ra rất thành công và đang chiếm ưu thế trên thế giới hiện nay. Vấn đề đặt ra là nếu thị trường và hệ thống thị trường là hiệu quả thì tại sao Nhà nước phải can thiệp . Tại sao không thực hiện một chính sách hoàn toàn tự do để mặc tư nhân kinh doanh? T

doc36 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1382 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Tăng cường vai trò kinh tế của nhà nước là nhân tố quan trọng để hình thành và hoàn thiện cơ chế quản lý kinh tế mới của nước ta hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
rả lời cho câu hỏi này các nhà kinh tế đã khẳng định Nhà nước không thể thay thế cho thị trường nhưng nó có thể hoàn thiện các hoạt động của nền Kinh tế thị trường, cũng như việc dung hoà giữa bất bình đẳng do cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường tạo ra và việc duy trì sự gắn kết các mối liên hệ Xã hội dưới sự điều hành của Nhà nước, tối đa hoá hiệu quả của nền kinh tế thị trường mà không làm phương hại tới các nhiệm vụ cơ bản của Nhà nước. Vì Nhà nước có một vai trò chính đáng và thường xuyên trong các hoạt động của nền kinh tế hiện đại với trách nhiệm “ ấn định” các “qui tắc trò chơi” để can thiệp những khu vực khuyết tật của thị trường, quản lý nền kinh tế với tư cách là một khối chính thể và để cung cấp những dịch vụ phúc lợi thông qua chính sách kinh tế. Thực hiện công cuộc đổi mới đất nước chúng ta đã và chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN Và đã đạt được những thành tựu rực rỡ. Điều đó chứng tỏ đường lối lãnh đạo của Đảng là đúng đắn đưa nhân dân ta dần thoát khỏi những khó khăn, giữ vững ổn định chính trị, giải quyết những vấn đề kinh tế- xã hội cấp bách, từng bước đưa đường lối đổi mới của Đảng vào cuộc sống. Song bên cạnh những thành tựu đáng tự hào đã đạt đựơc còn tồn tại rất nhiều những khuyết tật của nền kinh tế thị trường mà chúng ta chưa thể khắc phục được như :tình trạng lạm phát giá cả hàng hoá, thất nghiệp của số đông người dân lao động, tệ nạn xã hội, phân hoá giàu nghèo,ô nhiễm môi… trường ngày một gia tăng trong nền kinh tế. Do vậy, sự quản lý, điều tiết kinh tế của Nhà nước là một yếu tố không thể thiếu được, một đòi hỏi khách quan của sự phát triển kinh tế bởi thực tế đã chứng minh chức năng quản lý kinh tế và hiệu quả hoạt động của Nhà nước trên lĩnh vực này đã trở thành thước đo và sức mạnh của bản thân Nhà nước cũng như sự phát triển và tiến bộ Xã hội. Để làm sáng tỏ vấn đề này em quyết định chọn đề tài: “ Tăng cường vai trò kinh tế của nhà nước là nhân tố quan trọng để hình thành và hoàn thiện cơ chế quản lý kinh tế mới của nước ta hiện nay”. Trong quá trình viết đề án không thể tránh những sai sót. Vì vậy em mong được sự đóng góp ý kiến của thầy cô và bạn bè để bài viết hoàn thiện. I. Sự cần thiết khách quan của vai trò kinh tế của nhà nước nói chung 1. Lịch sử ra đời của nhà nước và vai trò kinh tế của nhà nước qua từng giai đoạn lịch sử a) Lịch sử ra đời của Nhà nước ²Trong các tác phẩm “ Nội chiến ở Pháp”, “ Nguồn gốc gia đình và chế độ tư hữu”… C.Marx & Aghen cho thấy: Nhà nước không phải là cái bẩm sinh sẵn có mà nó xuất hiện gắn liền với sự xuất hiện chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất, sản xuất hàng hoá, giai cấp và đấu tranh giai cấp. Trong Xã hội cộng sản nguyên thuỷ những qui tắc xử sự chung hình thành một cách tự phát, xuất phát từ lợi ích chung của Xã hội. Hình thức biểu hiện của nó là các phong tục tập quán, các nghi lễ… được thực hiện bằng sự tự giác của mỗi người và bằng uy tín của các thủ lĩnh, các lãnh tụ trong cộng đồng. Sau khi chế độ cộng sản nguyên thuỷ, xã hội loại người phân chia thành giai cấp, xuất hiện sự đối lập về kinh tế giữa các nhóm. Sự đấu tranh giữa họ ngày càng trở nên gay gắt không thể điều hoà, đòi hỏi phải có một tổ chức mới có khả năng dấp tắt những cuộc xung đột đó là tổ chức “ Nhà nước”.Như vậy, Nhà nước ra đời khi sản xuất và văn minh Xã hội phát triển và đạt đến một trình độ nhất đinh. Cùng với sự phát triển đó là xuất hiện của chế độ tư hữu và giai cấp trong Xã hội. Nhà nước về thực chất là một hoặc một nhóm giai cấp này đối với một hoặc một nhóm giai cấp khác đồng thới còn để duy trì và phát triển Xã hội, và là công cụ quyền lực đại diện cho lợi ích chung của cộng đồng.Nhà nước một mặt nó là tổ chức công quyền, thực hiện công quản, quản lý mọi mặt đới sống Xã hội; mặt khác chính thông qua quản lý Xã hội có hiệu quả mà nó thực hiện được sự thống trị của giai cấp thống trị với toàn Xã hội và bản thân Xã hội vận động theo những quy luật khách quan của nó, quy luật vận động của đời sống sản xuất vật chất và tinh thần, tạo ra cơ sở mới, điều kiện mới. b. Vai trò kinh tế của Nhà nước qua các giai đoạn lịch sử ² Trong lịch sử phát triển các Nhà nước đã có các phương pháp khác nhau để nắm giữ kinh tế nhằm phục vụ chức năng quản lý của mình. Thật vậy, lịch sử đã chứng minh vai trò quản lý kinh tế nhằm “ duy trì các trật tự kinh tế với tính cách là cơ sở của trật tự Xã hội, sao cho phù hợp với lợi ích của các thành viên” được phôi thai ngay từ buổi đầu, khi Nhà nước mới chỉ vừa xuất hiện, sau đó được nhân dân nhận thức và áp dụng vào thực tiễn quản lý Xã hội. + Trong thời đại chiếm hữu nô lệ, Nhà nước chủ nô là kiểu Nhà nước đầu tiên trong lịch sử đã trực tiếp dùng quyền lực của mình can thiệp vào việc phân phối của cải được sản xuất ra. Trong thời đại của Nhà nước chủ nô của cải được sản xuất ra bởi người nô lệ dưới sự chỉ huy điều khiển quá trình sản xuất của giai cấp chủ nô, nhưng khối lượng của cải ấy không được phân phối mà bị giai cấp chủ nô chiếm đoạt bằng bạo lực, các thủ đoạn bạo lực phi kinh tế ở đây thực sự dùng làm công cụ để chiếm đoạt, cưỡng bức kinh tế. + Trong thời đại phong kiến, Nhà nước phong kiến không chỉ can thiệp vào việc phân phối của cải mà còn đứng ra tập hợp lực lượng nhân dân xây dựng kết cấu hạ tầng cho sản xuất nông nghiệp, khuyến khích quan lại di dân đi mở mang các vùng đất mới đề ra các chính sách ruộng đất thích hợp với từng thời kỳ. + Trong lĩnh vực kinh tế, cùng với việc chuyển biến mạnh mẽ từ chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh sang chủ nghĩa tư bản độc quyền của các nước đang phát triển là sự xuất hiện của nhiều lý thuyết về vai trò thực tế của Nhà nước trong việc điều chỉnh nền kinh tế thị trường. Sự lớn mạnh của lực lượng sản xuất, sự phát triển của khoa học và công nghệ cũng như các khó khăn về kinh tế của chủ nghĩa tư bản đòi hỏi phải có sự phân tích tình hình mới. ở giai đoạn đầu của sự hình thành và phát triển Chủ nghĩa tư bản(CNTB), các lý thuyết kinh tế tư bản đã chứng minh sự ra đời tất yếu và sứ mệnh tiến bộ của phương thức TBCN và chống lại các thế lực phong kiến. Nhưng từ cuối thế kỷ 18 đến đầu thế kỷ, trường phái tân cổ điển coi nhà nước tư bản chỉ là người canh gác và bảo vệ tài sản cho CNTB, họ ủng hộ nguyên tắc tự do kinh tế và chưa nhìn thấy vai trò điều chỉnh kinh tế của nhà nước. Khủng hoảng kinh tế có tính chất chu kỳ(1929-1933) đòi hỏi Nhà nước đóng vai trò trong quá trình tái sản xuất, điều chỉnh sự bóc lột của giai cấp tư sản đối với người dân lao động. Một số nhà kinh tế học như : AdamSmith( 1823-1970 ) người Anh cho rằng: hoạt động kinh tế của con người là hoạt động tự do, do “ bàn tay vô hình” hay quy luật khách quan chi phối. Tất cả được giải quyết thông qua thị trường. Sang thời kỳ tư bản công nghiệp hoá, chủ nghĩa tư bản phát triển nhanh chóng nhờ các nguồn vốn tích luỹ chưa thấy rõ vai trò cần thiết của nhà nước trong việc điều chỉnh các quá trình phát triển, khắc phục mất cân đối. Nhưng rồi CNTB càng phát triển càng bộc lộ rõ nhiều mâu thuẫn và nhược điểm. Không chỉ mâu thuẫn về giai cấp mà cả mầu thuẫn giữa các giai đoạn cảu quá trình sản xuất, giữa các ngành kinh tế, giữa thành thị và nông thôn… đã làm xuất hiện tính khủng hoảng chu kỳ của nền kinh tế CNTB. Trước đòi hỏi thực tiễn, nhiều nhà kinh tế tư bản đã đưa ra các học thuyết khác nhau để lý giải các mâu thuẫn và tìm đến vai trò của Nhà nước trong quá trình tái sản xuất, và các cuộc khủng hoảng mang tính chu kỳ. Tuỳ giác độ và điều kiện nghiên cứu cụ thể khác nhau mà các học giả đưa ra các lý thuyết với các kiến nghị khác nhau, trong đó chủ yếu là sự điều chỉnh sự bóc lột của giai cấp tư sản đối với những ngưới lao động.Song cuộc khủng hoảng kinh tế của CNTB bắt đầu từ 1925 và trở nên thường xuyên hơn vào những năm 30 của thế kỷ XX đã chứng tỏ bàn tay vô hình không thể bảo đảm cho nền kinh tế TBCN phát triển bình thường hơn nữa. Xu hướng Xã hội hoá ngày càng cao đã cho thấy cần phải có một lực lượng nhân danh xã hội can thiệp vào quá trình kinh tế, điều tiết kinh tế. L.Walras, nhà kinh tế học người Pháp đưa ra các thuyết “ cân bằng tổng quan giữa các thị trường” với kiến nghị là nhà nước cần tiến hành dự báo, đưa ra các lý thuyết và can thiệp vào quá trình sản xuất tạo ra sự cạnh tranh lành mạnh hạn chế đầu cơ, ổn định giá phù hợp với tiền lương. A.Marshall cho rằng, trong tổng số các ngành kinh tế bao giờ cũng có một số ngành vận động theo qui luật giảm dần và một số ngành khác lại đi theo qui luật tăng dần. Bởi vậy nhà nước cần có sự can thiệp tích cực như : đánh thuế hoặc trợ cấp để loại bỏ hay thúc đẩy các ngành tương ứng nhằm mang phồn vinh cho nền kinh tế nói chung. J.Mkeynes (1884-1946) nhà kinh tế học nổi tiếng người Anh trên cơ sở đánh giá vai trò của Nhà nước ở vị trí hoàn toàn khác và đã sáng lập ra lý thuyết “ CNTB được điều tiết”. Ông cho rằng cơ chế thị trường không thể đảm bảo cho việc sử dụng đầy đủ các yếu tố sản xuất, mọi tệ nạn của CNTB như khủng hoảng, thất nghiệp bắt nguồn từ sự không can thiệp vào quá trình sản xuất để đảm bảo cho CNTB hoạt động bình thường tránh được khủng hoảng và thất nghiệp. Keynes đã đứng trên góc độ quản lý vĩ mô nền kinh tế để phân tích các mâu thuẫn và những mất cân đối vốn có trong nền kinh tế CNTB ở giai đoạn CNTB độc quyền. Ông cho rằng trong Xã hội loài người có sự tồn tại một “ quy luật tâm lý chủ yếu” là khi thu nhập càng tăng thì “ khuynh hướng tiêu dùng giảm xuống” và khuynh hướng tiết kiệm càng tăng lên. Điều đó dẫn đến sự giảm cầu mà cầu lại là động lực để phát triển sản xuất. Để tiếp tục phát triển sản xuất, khôi phục lại sự cân bằng phải tạo ra cầu tích cực hay cầu hiệu quả bằng sự can thiệp của Nhà nước nhằm làm tăng chi tiêu cho ngân sách, đầu tư cho tiêu dùng bằng các biện pháp can thiệp, điều chỉnh vào quá trình tái sản xuất. + Trong cuộc cách mạng Xã hội chủ nghĩa( XHCN) không những phải xóa bỏ bộ máy thống trị cũ mà còn phải xây dựng nhà nước để tổ chức và quản lý quá trình xây dựng nhà nước để tổ chức và quản lý quá trình xây dựng kinh tế và xã hội mới nhằm xoá bỏ mọi sự bóc lột, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của người nhân dân. Các Nhà nước XHCN về cơ bản là đại diện cho quyền lợi thiểu số các giai cấp thống trị giàu có nhằm nô dịch, bóc lột đại đa số những người dân lao động trong và ngoài nước, đặc biệt là Nhà nước tư sản, thông qua luật pháp, chính sách và các công cụ quản lý khác để chi phối các hoạt động kinh tế và xã hội, duy trì và phát triển lợi ích của các Nhà nước tư bản. Dù dưới nhiều hình thức khác nhau, các nhà lý luận bênh vực cho các nhà tư sản đã không thể phủ nhận bản chất giai cấp của Nhà nước, Nhà nước đó là “ Chính những tư tưởng của các ông là con đẻ của chế độ giai cấp, các ông đề lên thành pháp luật, cái ý chí mà nội dung là do những điều kiện sinh hoạt vật chất của giai cấp các ông quyết định”.Tóm lại, nhà nước có vai trò quan trọng đối với bất kỳ quá độ lên CNXH hiện nay, vai trò ấy càng đặc biệt quan trọng cùng với những nhiệm vụ mới mẻ và hết sức khó khăn. Nhà nước đã tăng lên gấp bội, mang những đặc trưng mới về chất so với các Nhà nước trong cuộc cách mạng trước đây. 2. Tính tất yếu khách quan của việc xuất hiện vai trò kinh tế của Nhà nước Sự vận động của nền kinh tế hàng hoá theo cơ chế thị trường không thể nào giải quyết được những vấn đề do chính cơ chế đó và bản thân đời sống kinh tế xã hội đặt ra. Đó là tình trạng thất nghiệp, lạm phát, khủng hoảng, ô nhiễm môi trường, sự bùng nổ dân số cũng như các tệ nạn Xã hội khác. Những tình trạng và hiện tượng trên ở những mức độ khác nhau, trực tiếp hay gián tiếp đều có sự tác động ngược trở lại làm cản trở sự phát triển bình thường của một xã hội nói chung và của nền kinh tế hàng hoá nói riêng. Vì vậy sự tác động của Nhà nước- một chủ thể có khả năng nhận thức và vận dụng các quy luật khách quan vào nền kinh tế là một tất yếu của sự phát triển kinh tế xã hội. Thiếu sự can thiệp đó của Nhà nước vào kinh tế chẳng khác nào “ khi vỗ tay mà chỉ dùng một bàn tay”. Vai trò quản lý của Nhà nước về kinh tế phải bắt nguồn tự sự phối hợp hoạt động chung do tính chất xã hội hoá của sản xuất quy định. Lực lượng sản xuất càng phát triển, trình độ xã hội hoá của sản xuất càng cao thì phạm vi thực hiện vai trò này càng cần thiết và mức độ đòi hỏi của nó càng chặt chẽ và nghiêm ngặt. Như đã biết, nền kinh tế hàng hoá với cơ chế thị trường là bước phát triển tất yếu của kinh tế tự cấp tự túc, một trình độ cao của xã hội hoá sản xuất. Tuỳ theo sự phát triển của lực lượng sản xuất, mức độ đạt được của xã hội trong sản xuất của mỗi nước mà giữa chúng có những quan hệ tỷ lệ nhất định đảm bảo cho nền kinh tế phát triển cân đối, khai thác và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực bên trong cũng như bên ngoài sự phát triển không ngừng của lực lượng sản xuất, sự tác động thường xuyên của nhân tố tự nhiên, xã hội, kinh tế, chính trị và đối ngoại làm cho các quan hệ tỷ lệ đó luôn biến động. Các quan hệ tỷ lệ đó có thể phù hợp với yêu cầu của các quy luật và tính quy luật vận động khách quan, phát triển kinh tế xã hội và tạo điều kiện cho nền kinh tế tăng trưởng, ngược lại các quan hệ tỷ lệ đó có thể không phù hợp và làm cho nền kinh tế rơi vào tình trạng trì trệ, yếu kém. Đặc biệt là, khi các quan hệ kinh tế được hình thành và phát triển thì các hoạt động kinh tế trong và ngoài nước xâm nhập, tác động lẫn nhau, các nguồn lực bên trong và bên ngoài có thể phát triển phù hợp hay không phù hợp với yêu cầu phát triển trong nước; quy mô và cơ cấu nền kinh tế có thể chuyển dịch theo hướng tiến bộ, hợp lý, tối ưu hay lạc hậu, bất hợp lý, mất cân đối và nền kinh tế dân tộc ở mỗi quốc gia ở vào vị trí phụ thuộc hay là một mắt khâu cần thiết của một hệ thống phân công lao động quốc tế có thể nói vận mệnh của mỗi quốc gia không chỉ phụ thuộc vào quan hệ bên trong mà còn phụ thuộc vào các quan hệ bên ngoài vào thị trường quốc tế. Tình hình đó đã đặt trên vai các nhà nước các nhiệm vụ bảo vệ trật tự xã hội và an ninh quốc gia, mà còn là người hiểu biết các quy luật vận động và phát triển của nền sản xuất xã hội nắm vững và dự báo các diễn biến kinh tế trong và ngoài nước, có khả năng sử dụng các đòn bẩy kinh tế thành một hệ thống các luật lệ các quy chế đồng bộ để trực tiếp tác động, khống chế điều tiết các hoạt động kinh tế, đối ngoại định hướng sự phát triển các ngành các vùng các thành phần kinh tế nhằm đảm bảo yêu cầu cân đối trong sự phát triển do chính các quy luật và tính khách quan của đời sống kinh tế xã hội quy định.Có thể khẳng định rằng, yêu cầu cân đối trong sự phát triền nền kinh tế cơ sở khách quan, sâu xa của vai trò quản lý nhà nước về nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường được thể hiện qua những mặt sau: + Thứ nhất, trong nền kinh tế hàng hoá vận động theo cơ chế thị trường, mỗi chủ thể kinh doanh, mỗi địa phương… đều có lợi ích riêng của mình, và đều tìm mọi biện pháp để tối ưu hoá lợi ích đó. Nhưng khi thực hiện các hoạt động nhằm tối ưu hoá lợi ích của mình, mỗi doanh nghiệp, mỗi vùng có thể nhìn thấy hoặc không nhìn thấy sự vi phạm đến lợi ích của người khác, ngành khác, vùng khác và do đó tất yến nảy sinh những hiện tượng nhưng lợi ích cá nhân làm thiệt hại những lợi ích cá nhân và các bộ phận khác trong xã hội xét trong tổng thể nền kinh tế quốc dân sụ phân bố các nguồn lực không hợp lý, cơ cấu kinh tế bị đảo lộn, các vấn đề xã hội chính trị phát sinh … nếu không có nhà nước thì cũng không có nguồn tích luỹ tập trung quy mô lớn để tạo ra những bước nhảy vọt trong sự phát triển kinh tế xã hội và giải quyết những vấn đề không thể thực hiện được, đặc biệt là các vấn đề về kết cấu hạ tầng xã hội + Thứ hai, trong nền kinh tế vận động theo cơ chế thị trường các hoạt động sản xuất kinh doanh, các hành vi giao dịch đều tiến hành thông qua thị trường và tuân theo các quy luật của thị trường. Song đối với các hoạt động tạo ra hàng hoá và dịch vụ công cộng là những loại hàng hoá mà chi phí bỏ ra đem lại lợi ích cho nhiều người, nhưng không được thanh toán và hoàn lại đầy đủ về mặt giá trị tiền tệ. Hoặc những hoạt động trong sản xuất và tiêu dùng gây ảnh hưởng tiêu cực tràn ra thị trường thì không được tính toán khi lựa chọn các quyết định sản xuất hoặc tiêu dùng của cá nhân hay của các đơn vị kinh tế gây ra các khoản phí tổn lớn cho xã hội. Do vậy nhà nước với tư cách là chủ thể nền kinh tế quốc dân, với mục tiêu vĩ mô cần thiết phải nắm bắt và bảo đảm cho xã hội những loại hàng hoá dịch vụ và công cộng là những loại hàng hoá mà chi phí bỏ ra đem lại cho nhiều người, nhưng lại không được thanh toán và hoàn lại đầy đủ về mặt giá trị tiền tệ. Hoặc những hoạt động trong sản xuất và tiêu dùng gây ảnh hưởng tiêu cực tràn ra thị trường thì không được tính toán khi lựa chọn các quyết định sản xuất hoặc tiêu dùng của cá nhân hay của các đơn vị kinh tế gây ra các khoản tổn phí lớn cho xã hội và không tối ưu hoá được lợi ích xét trên phạm vi toàn xã hội. Do vậy Nhà nước với tư cách là chủ thể nền kinh tế quốc dân, với mục tiêu kinh tế vĩ mô cần thiết phải nắm và bảo đảm cho xã hội những loại hàng hoá và dịch vụ công cộng cũng như những hàng hoá mà nếu như nằm trong tay tư nhân sẽ làm thiệt hại đến lợi ích của toàn xã hội. + Thứ ba, cơ chế thị trường cần có môi trường lành mạnh và ổn định để hoạt động, song những nhược điểm và khuyết tật của cơ chế này lại đẻ ra những xu hướng phủ định chính những điều kiện hoạt động của bản thân nó như : do chạy thưo lợi nhuận sẽ dẫn tới sự phân bố và sử dụng nguồn lực không hợp lý, vì lợi ích kinh tế cá nhân mà chà đạp lên lợi ích chung phá hoại môi sinh gây ô nhiếm môi trường, sự phân hoá giàu nghèo ngày một lớn, bất công trong xã hội ngày một tăng… gây rối loạn nhiều mặt trong đời sống cộng đồng xã hội. Trong những biểu hiện trên, biểu hiện có tác động sâu sắc và toàn diện đến môi trường chung là mâu thuẫn về lợi ích kinh tế giữa các giai cấp và tầng lớp trong xã hội ngày một gay gắt. Cơ chế thị trường “ bàn tay vô hình” không thể khắc phục được mâu thuẫn này, mà đòi hỏi phải có bàn tay Nhà nước, chính phủ can thiệp với chức năng bảo đảm chính trị, kinh tế, xã hội. + Thứ tư, xu hướng hoà nhập nền kinh tế dân tộc của mỗi nước vào thị trường thế giới ngày một tăng. Những diễn biến kinh tế trong từng nước và giữa các nước gây ảnh hưởng rõ rệt đến lợi ích của nhau. Việc ngăn ngừa hay khắc phục những ảnh hưởng bất lợi cũng như việc khai thác và sử dụng những tác đọng có lợi đòi hỏi phải có sự tác động của Nhà nước. Một tổ chức, một doanh nghiệp dù quy mô to lớn đến đâu cũng không thể thay thế được vai trò đó mà chỉ có Nhà nước mới có điều kiện thực hiện được vai trò này bởi vì trong quan hệ quốc tế, Nhà nước là chủ thể của nền kinh tế độc lập có chủ quyền, có lợi ích kinh tế tách biệt, và lại nắm trong tay những quyền lực kinh tế quốc phòng quan trọng của đất nước. Do vậy, không chỉ quan hệ lợi ích giữa các giai cấp, tầng lớp xã hội trong nước mà còn quan hệ lợi ích giữa các nước cũng đặt ra những vấn đề đòi hỏi phải tăng cường vai trò của Nhà nước về kinh tế. + Thứ năm, vai trò quản lý của Nhà nước về kinh tế không chỉ ở sự điều tiết, không chế, định hướng bằng pháp luật, các đòn bẩy kinh tế và các chính sách, các biện pháp kích thích mà còn bằng thực lực kinh tế của Nhà nước tức sức mạnh của hệ thống kinh tế Nhà nước và các công cụ kinh tế đặc bịêt khác. Kinh nghiệm của Nhà nước đã chỉ ra là, việc củng cố và tăng cường sức mạnh kinh tế của Nhà nước nói chung và của các doanh nghiệp Nhà nước nói riêng công cụ quản lý vừa là lực lượng kinh tế trực tiếp để tham gia hình thành, mở rộng quan hệ thị trường. II. Sự hình thành cơ chế quản lý mới ở Việt nam ³Khái niệm cơ chế quản lý : là công cụ, kế hoạch mang tính pháp lệnh bắt buộc mà mọi ngành, mọi cấp, mọi cơ quan, đơn vị, cá nhân phải tuân theo, thông qua hệ thống chi tiêu kế hoạch để quyết định tất cả các vấn đề kinh tế xã hội. 1.Cơ chế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp có những đặc trưng sau: Dựa trên cơ sở chế độ sở hữu Nhà nước về tư liệu sản xuất, Nhà nước cải tạo các thành phần kinh tế, chỉ chấp nhận thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa, các thành phần kinh tế khác bị hạn chế, đặc biệt kinh tế tư nhân bị loại bỏ. Nhà nước quản lý kinh tế thông qua chỉ tiêu pháp lệnh. Nhà nước can thiệp quá sâu vào các hoạt động kinh doanh, hợp tác xã, tổ sản xuất… Nhà nước đặt ra kế hoạch sản xuất, giá cả, lỗ đã có Nhà nước chịu. Nhà nước bao cấp tăt cả mọi mặt cho nên các cơ sở trở nên thụ động “ chỉ đâu đánh đó” không có trách nhiệm với kết quả sẳn xuất. Chức năng của đồng tiền bị hạn chế, giá trị của đất đai không được thừa nhận, sức lao động và tư liệu sản xuất không được coi là hàng hoá nên không được mua bán. Các công cụ như lãi suất, giá cả, thuế, tiền lương không được sử dụng để điều chỉnh cán cân vĩ mô.Với cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp như vậy thì sẽ kèm theo bộ máy quản lý kinh tế cồng kềnh lại kém hiệu quả, năng lực của cán bộ quản lý yếu kém, phong cácg quan liêu cửa quyền. *Ưu điểm của cơ chế quản lý kinh tế kế hoạch hoá tập trung Phù hợp với hoàn cảnh đất nước có chiến tranh. Trong thời kỳ chiến tranh, cơ chế này đã động viên tích cực mọi người lên đường chiến đấu, bởi người thân của họ ở hậu phương vẫn đảm bảo được mức lương, họ yên tâm sản xuất chiến đấu bảo vệ tổ quốc. *Nhược điểm của cơ chế quản lý kế hoạch hóa tập trung Cơ chế này chỉ phù hợp với hoàn cảnh đất nước có chiến tranh. Do vậy, khi chiến tranh kết thúc thì áp dụng nó không còn phù hợp nữa. Điều này chúng ta chưa nhận thức được ngay cho nên trong một thời gian dài, cơ chế tập trung quan liêu bao cấp đã kìm hãm sự phát triển của nền kinh tế nước ta và gây ra nhiều tác hại xấu cho đời sống kinh tế xã hội. Do có sự phân phối bình quân nên đã không khuyến khích được người sản xuất không phát huy được khả năng sáng tạo, sự năng động, hăng say nhiệt tình trong công tác. Vì đã có Nhà nước bao cấp cho nên chất lượng sản phẩm kém, làm ăn lãng phí, chi phí đầu tư cao nhưng hiệu quả kinh tế lại thấp. Do sản xuất theo kế hoạch nên thiếu sự linh hoạt với thị trường dẫn tới tình trạng sản xuất không phù hợp với nhu cầu tiêu dùng. Mặt hàng cần thiết thì không sản xuất lại sản xuất những mặt hàng không cần thiết gây tình trạng lãng phí. Công nghệ, kỹ thuật chậm cải tiến, chi phí cao mà chất lượng sản phẩm thấp, cung cách hạch toán mang tính hình thức, phô trương, xuất hiện tình trạng “ lãi giả lỗ thât”. 2. Cơ chế quản lý mới-cơ chế thị trường * Khái niệm cơ chế thị trường : là cơ chế tự điều tiết nền kinh tế hàng hoá do sự tác động của các qui luật kinh tế vốn có của nó, cơ chế đó giải quyết ba vấn đề cơ bản của tổ chức kinh tế là cái gì, như thế nào và cho ai. Cơ chế thị trường bao gồm các nhân tố cơ bản là cung, cầu và giá cả thị trường. * Ưu điểm của nền kinh tế thị trường Có khả năng tự động tập hợp được hành động, trí tuệ và tiềm lực của hàng triệu con người và hướng tới lợi ích chung của toàn xã hội, do đó thúc đẩy tăng trưởng kinh tếm tăng năng suất lao động xã hội, tăng hiệu quả kinh tế, tăng thu nhập và đời sống dân cư. Cơ chế thị trường kích thích hoạt động của các chủ thể kinh tế và tạo điều kiện thuận lợi cho sự hoạt động tự do của họ. Do đó làm cho nền kinh tế phát triển năng động huy động được các nguồn lực của xã hội vào phát triển kinh tế. Cạnh tranh buộc những người sản xuất phải giảm hao phí lao động cá biệt đến mức thấp nhất có thể được bằng cách áp dụng khoa học công nghẹ mới vào sản xuất, phát triển nâng cao năng suất lao động và nâng cao số lượng hàng hoá. Sự tác động của cơ chế thị trường mềm dẻo hơn Nhà nước và có khả năng thích nghi cao hơn khi những điều kiện kinh tế thay đổi làm thích ứng kịp thời giữa sản xuất với nhu cầu xã hội. Lịch sử phát triển của nền kinh tế hàng hoá đạt hiệu quả cao. Song “ … cơ chế thị trường không phải là hiện thân của sự hoàn hảo…” P. Asamuelson, mà nó có những khuyết tật đặc biệt về mặt xã hội. * Nhược điểm: Trước hết là sự phát triển không ổn định của nền kinh tế. Điều đó xuất phát từ tính tự phát của nền kinh tế thị trường. Những cân đối lớn trong nền kinh tế mới được xác lập thông qua hàng loạt những dao động. Do đó cứ sau một thời kỳ phồn thịnh lại đến thời kỳ trì trệ, suy thoái… khủng hoảng, thất nghiệp, lạm phát…là những hiện tượng gắn liền với kinh tế thị trường. Những hiện tượng kinh tế trên có ảnh hưởng tiêu cực đến các mặt của đời sống kinh tế xã hội. Thứ hai, đó là sự xuất hiện độc quyền trong độc quyền trong nền kinh tế. Độc quyền vi phạm các điều kiện hiệu quả Pareto. Điều đó làm tổn hại đến lợi ích của người tiêu dùng và của xã hội. Thứ ba, các ngoại ứng tồn tại khi việc sản xuất và tiêu dùng một mặt hàng trực tiếp ảnh hưởng đến các doanh nghiệp hoặc người tiêu dùng không can dự tới việc mua hoặc bán mặt hàng đó, khi những ảnh hưởng tràn ra ngoài đó không được phản ánh đầy đủ trong giá cả thị trường. Ngoại ứng dung tích cực hay tiêu cực, khi không được phản ánh trong giá cả thị trường sẽ làm cho mức sản lượng không phải là tối ưu và do đó làm thiệt hại tới lợi ích của xã hội. Thứ tư, hàng hoá công cộng. Đây là những loại hàng hoá mà sự tiêu dụng của một người không ảnh hưởng đến sự tiêu dùng của người khác như: đường cao tốc, quốc phòng an ninh… hàng hoá công cộng hết sức cần thiết nhưng các hộ cá nhân, hộ gia đình, các doanh nghiệp không bỏ tiền ra để sản xuất. Thứ năm, phân phối thu nhập. Do sự tác động của các quy luật thị trường, sự bất bình đẳng trong phân phối thu nhập, sự phân hoá giàu nghèo là hiện tượng không tránh khỏi. Những điều đó có thể dẫn đến mâu thuẫn, thậm chí xung đột trong xã hội. Điều này sẽ trở thành phần nhân tố cản trở quá trình tăng trưởng và phát triển kinh tế. Thứ sáu, vấn đề thông tin trong nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp cần nhiều thông tin khác nhau. Trong khi đó, khả năng của từng doanh nghiệp trong việc thu thập thông tin rất hạn chế. Mỗi doanh nghiệp không thể tự giải quyết được nhu cầu về thông tin của chính mình.Những hạn chế khuyết tật nói trên đòi hỏi phải có sự can thiệp của Nhà nước vào nền kinh tế để đảm bảo sự ổn định, cân bằng và hiệu quả. 3. Sự vận dụng của cơ chế thị trường vào Việt Nam Suốt một khoảng thời gian dài trong hoạt động lý luận kinh tế, công tác kế hoạch hoá được tiến hành theo phương thức hành chính, tập trung bao cấp, trên thực tế đã kéo dài từ 1955-1985. Năm 1986, Đại Hội VI khẳng định con đường đổi mới, nhấn mạnh đối tượng quản lý và kế hoạch hoá của chúng ta là nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần và cơ chế kế hoạch hoá phải được xác lập theo phương thức hạch toán kinh tế, kinh doanh XHCN. Từ đây hoạt động đổi mới kế hoạch hoá thực sự được định hướng ở tầm quan điểm chiến lược chứ không chỉ dừng lại ở những sửa đổi tầm tác nghiệp, tác chiến… Công cụ kế hoạch hoá-thuật ngữ ta thường dùng-nên được hiểu đầy đủ là kế hoạch hoá với tư cách là thuật ngữ diễn đạt qua những hoạt động có ý thức của một tổ chức hoặc cá nhân thuộc cộng đồng nhằm thực hiện các mục tiêu theo chương trình đã được xác định trước. Nói cách khác, kế hoạch hoá là quá trình hoạt động mang tính tổng hợp, tính liên ngành từ khâu phân tích, xác định mục tiêu, lựa chọn biện pháp cho đến khâu tổ chức thực hiện và kiểm tra. Đổi mới kế hoạch hoá, một cách tổng quát, là bước chuyển từ kế hoạch hoá trong nền kinh tế tập trung sang kế hoạch hoá trong nền kinh tế vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Do đó, đổi mới kế hoạch hoá, cũng như toàn bộ hoạt động đổi mới quản lý kinh tế của Nhà nước ta, chỉ bao hàm khả năng thành công khi được đặt trong quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Thiếu thị trường tức la thiếu môi trường cho cơ chế quản lý và kế hoạch hoá mới tồn tại, là mảnh đất tốt cho cơ chế quản lý và kế hoạch hoá cũ duy trì. Đó là bài học thực tế. Vì vậy, một trọng tâm trong đổi mới kế hoạch hoá hiện nay và trong nhiều năm tới là tìm mọi giải pháp thúc đẩy sự ra đời và phát triển các loại thị trường: thị trường hàng hoá dịch vụ; thị trường tiền tệ ( theo nghĩa rộng ) và thị trường sức lao động một cách chủ động, có tổ chức, có bước đi thích hợp. Mặt khác, với tư cách là cương lĩnh hoạt động thứ hai, hoạt động kế hoạch hoá sẽ ngày càng quan trọng hơn trong quá trình đổi mới, nhưng sự thành bại về bản không xuất phát từ bản thân nó mà tuỳ thuộc vào chính sách kinh tế mà nó cụ thể hoá. Luận cứ cho nhận xét này xuất phát ngay chính trong thực tiễn công tác kế hoạch hoá : từ Đại Hội VI về trước- chính sách kinh tế có những thiếu sót và sai lầm- một số chỉ tiêu của kế hoạch hoá 5 năm đạt thấp hoặc không hoàn thành; sau Đại Hội VI và nhất là sau Đại hội VII với chính sách kinh tế đúng đắn-các kế hoạch đã đạt được những thành tựu đáng khích lệ. Tất nhiên, để cụ thể hoá các chính sách kinh tế một cách khoa học, tính khả cao thì, bản thân hoạt động kế hoạch hoá phải có phương pháp thích hợp. Điều này cho thấy, việc đổi mới phương thức, phương pháp kế hoạch hoá là hết sức cần thiết và cấp bách. Đồng thời, từ chính hoạt động thực tiễn quản lý, điều hành của mình, hoạt động kế hoạch hoá sẽ góp phần quan trọng vào việc hoàn thiện và phát triển chính sách kinh tế. Chúng ta phát triển kinh tế hàng hoá là sự xoá bỏ tình trạng khép kín, trì trệ lạc hậu của nền tự nhiên, là con đường giải phóng các tiềm năng khai thác các nguồn lực thực hiện sự tích tụ và tập trung sản xuất, phát triển lực lượng sản xuất xã hội.Nhận thức được những ưu điểm của cơ chế thị trường mang lại. Đảng và Nhà nước ta đã quyết định chuyển nền kinh tế từ tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa là một nền kinh tế thị trường do nhân dân lao động làm chủ, mọi năng lực sản xuất được giải phóng, mọi tiềm năng của cá nhân, tập thể và cộng đồng dân tộc được khai thác vì mục tiêu dân giàu nược mạnh,tiến lên hiện đại đi liền với tự do dân chủ tiến bộ và công bằng xã hội. Nội dung của cơ chế thị trường ở nước ta là: Chúng ta đã phát triển nền kinh tế thị trường trong đó thành phần kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Hai mặt kinh tế và xã hội của nền kinh tế thị trường được chủ động kết hợp vời nhau ngay từ thông qua luật pháp, chính ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc33776.doc
Tài liệu liên quan