Tài liệu Tầm quan trọng của Marketing quốc tế trong việc đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu sang thị trường Mỹ của Tổng Công ty cổ phần Dệt May Hà Nội: MỤC LỤC
MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU…………………………………………………………………….3
PHẦN I:VAI TRÒ CỦA HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU VÀ THỊ TRƯỜNG XUẤT KHẨU CỦA TỔNG CÔNG TY CỔ PHẦN DỆT MAY HÀ NỘI …………….6
1.1. VAI TRÒ CỦA HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU..............................................6
1.2. TÌNH HÌNH THỊ TRƯỜNG CỦA TỔNG CÔNG TY CỔ PHẦN DỆT MAY HÀ NỘI……………………………………………………………………………9
1.2.1. Nghiên cứu thị trường Mỹ…………………………………………….........9
1.2.1.1. Môi trường kinh tế………………………………………………………..10
1.2.1.2.Môi trường chính trị luật... Ebook Tầm quan trọng của Marketing quốc tế trong việc đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu sang thị trường Mỹ của Tổng Công ty cổ phần Dệt May Hà Nội
58 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1383 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Tầm quan trọng của Marketing quốc tế trong việc đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu sang thị trường Mỹ của Tổng Công ty cổ phần Dệt May Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
pháp……………………………………………11
1.2.1.3. Môi trường văn hoá – xã hội……………………………………………..12
1.2.2.Những thuận lợi của Tổng công ty cổ phần Dệt May Hà Nội trong việc xuất khẩu hàng hoá sang thị trường Mỹ………………………………………………13
1.2.2.1.Quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam và Mỹ có nhiều chuyển biến tích cực...13
1.2.2.2.Nguồn nhân lực dồi dào, chi phí rẻ………………......................................17
PHẦN II: THỰC TRẠNG ỨNG DỤNG MARKETING QUỐC TẾ TẠI TỔNG CÔNG TY CỔ PHẦN DỆT MAY HÀ NỘI…………………………………….20
2.1.TỔNG QUAN VỀ TỔNG CÔNG TY CỔ PHẦN DỆT MAY HÀ NỘI…..20
2.1.1.Quá trình hình thành và các giai đoạn phát triển của Tổng công ty cổ phần Dệt May Hà Nội …………………………………………………………………..20
2.1.1.1.Quá trình hình thành của Tổng công ty cổ phần Dệt May Hà Nội ………..20
2.1.1.2.Các giai đoạn phát triển của Tổng công ty cổ phần Dệt May Hà Nội …….20
2.1.2. Đặc điểm hoạt động sản xuất kinh doanh của Tổng công ty cổ phần Dệt May Hà Nội ……………………………………………………………………………...24
2.1.2.1.Nội dung hoạt động sản xuất kinh doanh…………………………………...24
2.1.2.2.Chức năng, nhiệm vụ, cơ cấu của Tổng công ty cổ phần Dệt May Hà Nội ...25
2.1.3.Hình thức tổ chức bộ máy xuất nhập khẩu……………………………….30
2.1.3.1. Đặc điểm tổ chức bộ máy Xuất nhập khẩu………………………………30
2.1.3.2. Quá trình hoạt động xuất khẩu hàng hoá dệt may tại Tổng công ty cổ phần Dệt May Hà Nội ……………………………………………………………………....40
2.2.THỰC TRẠNG ỨNG DỤNG MARKETING QUỐC TẾ TẠI TỔNG CÔNG TY CỔ PHẦN DỆT MAY HÀ NỘI…………………………………………….43
2.2.1.Kết quả hoạt động kinh doanh qua các năm………………………………43
2.2.2.Tình hình thực hiện chiến lược Marketing Mix…………………………..46
2.2.2.1.Chính sách sản phẩm……………………………………………………...46
2.2.2.2.Chính sách phân phối……………………………………………………...50
2.2.2.3.Chính sách giá cả………………………………………………………….53
2.2.2.4.Chính sách xúc tiến hỗn hợp……………………………………………….54
PHẦN III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN HOẠT ĐỘNG MARKETING QUỐC TẾ TẠI TỔNG CÔNG TY CỔ PHẦN DỆT MAY HÀ NỘI………….56
3.1.Về sản phẩm……………………………………………………………………56
3.2.Về giá cả………………………………………………………………………..56
3.3.Về kênh phân phối……………………………………………………………..56
3.4.Về xúc tiến hỗn hợp…………………………………………………………….57
KẾT LUẬN……………………………………………………………………….. 58
LỜI MỞ ĐẦU
Ngày nay, khi hội nhập toàn cầu đang là xu thế phát triển chung trên toàn thế giới thì bất kì một quốc gia nào nếu không ngừng nỗ lực để hội nhập vào xu thế chung đó, tạo ra sức mạnh cạnh tranh cho quốc gia của mình đều sẽ phải đối mặt với nguy cơ bị gạt ra ngoài lề của sự phát triển. Cũng như nhiều quốc gia khác trên thế giới, Việt Nam nhận thức được những đòi hỏi cấp bách của tình hình chung và đang không ngừng cải cách, chuyển đổi trên nhiều lĩnh vực, trong đó không thể không kể đến Xuất Nhập Khẩu một lĩnh vực đóng vai trò rất quan trọng giúp Việt Nam mở rộng được các mối quan hệ cũng như tạo cho các doanh nghiệp Việt Nam nhiều cơ hội hơn để xâm nhập thị trường quốc tế.
Thời gian qua, hoạt động Xuất Nhập Khẩu của Việt Nam cũng đã được Đảng và Nhà nước đặt nhiều sự quan tâm, nó được coi là hướng ưu tiên, là trọng điểm của kinh tế đối ngoại. Các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam cũng đang ngày càng được mở rộng, từ những mặt hàng truyền thống từ lâu đã quen thuộc với bạn hàng quốc tế như dệt may, đồ thủ công mỹ nghệ hay thuỷ hải sản…đến những mặt hàng có hàm lượng kĩ thuật cao hơn như phần mềm điện tử. Trong đó, mặt hàng dệt may đã, đang và sẽ tiếp tục là một trong những mặt hàng xuất khẩu quan trọng bậc nhất của Việt Nam.
Nhìn chung tình hình xuất nhập khẩu hàng dệt may Việt Nam vẫn đang diễn biến khá thuận lợi khi kim ngạch xuất khẩu không ngừng tăng, uy tín ngày càng cao và thị trường ngày càng được mở rộng…Tuy nhiên bên cạnh đó những hạn chế còn tồn tại của hàng dệt may Việt Nam như chất lượng sản phẩm chưa ổn định, quy mô sản xuất không lớn, vẫn chủ yếu là gia công xuất khẩu lại đang trở thành trở ngại lớn cho hoạt động mở rộng kinh doanh của các doanh nghiệp dệt may Việt Nam, đặc biệt là đối với một thị trường khó tính như Mỹ.
Mỹ, một thị trường lớn, đầy tiềm năng nhưng đồng thời cũng là thị trường có nhiều trở ngại lớn do hệ thống Pháp luật phức tạp, do cạnh tranh gay gắt từ nhiều nhà cung ứng trên thế giới và đặc biệt Mỹ ngày càng sử dụng triệt để chính sách bảo hộ sản phẩm trong nước dưới các hình thức thuế chống bán phá giá, yêu cầu kí quỹ, quy định khắt khe về chất lượng sản phẩm…Điều này gây khó khăn không nhỏ cho các doanh nghiệp dệt may Việt Nam. Vì thế để đạt được hiệu quả cao hơn nữa trong lĩnh vực kinh doanh xuất nhập khẩu hàng dệt may đòi hỏi Đảng và Nhà nước nói chung và các doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực này nói riêng phải có công cụ quản lí kinh tế hữu hiệu hơn, đồng thời phải không ngừng tự hoàn thiện để bắt kịp với những thay đổi và xu hướng mới của thời đại. Và Marketing quốc tế là một công cụ hữu hiệu mà chúng ta cần quan tâm và đánh giá đúng hiện trạng các hoạt động Marketing quốc tế đối với hàng hoá dệt may Việt Nam xuất khẩu sang thị trường Mỹ là vấn đề vô cùng cấp thiết.
Trong thời gian thực tập tại Tổng công ty cổ phần Dệt may Hà Nội, em đã có điều kiện tiếp xúc và tìm hiểu về hoạt động kinh doanh của Tổng công ty, nhất là về lĩnh vực Marketing quốc tế. Vì vậy, em đã lựa chọn đề tài:
“ Tầm quan trọng của Marketing quốc tế trong việc đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu sang thị trường Mỹ của Tổng công ty cổ phần Dệt May Hà Nội.”
nhằm mục đích tìm hiểu sâu hơn về các hoạt động Marketing quốc tế tại các công ty kinh doanh xuất nhập khẩu cũng như tại Tổng công ty nói riêng, đồng thời khẳng định lại những kiến thức đã được học tại trường Đại học Kinh tế quốc dân cũng như thấy được sự vận dụng những kiến thức đã học vào thực tế.
Ngoài lời mở đầu, chuyên đề thực tập gồm ba phần như sau:
Phần I: Vai trò của hoạt động xuất khẩu và thị trường xuất khẩu của Tổng công ty cổ phần Dệt May Hà Nội ( Vinatex - Hanosimex ).
Phần II: Thực trạng ứng dụng Marketing quốc tế tại Tổng công ty cổ phần Dệt may Hà Nội ( Vinatex - Hanosimex ).
Phần III: Một số giải pháp nhằm hoàn thiện Marketing quốc tế, góp phần đẩy mạnh hoạt động xuất nhập khẩu hàng dệt may tại Tổng công ty Dệt may Hà Nội ( Vinatex - Hanosimex ).
Em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ tận tình và quý báu của các thầy cô giáo, đặc biệt là thầy giáo TS. Vũ Huy Thông và toàn bộ các cô chú, anh chị trong phòng Xuất nhập khẩu của Tổng công ty đã tận tình chỉ bảo và giúp đỡ em hoàn thành chuyên đề tốt nghiệp này.
PHẦN I
VAI TRÒ CỦA HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU VÀ THỊ TRƯỜNG XUẤT KHẨU CỦA TỔNG CÔNG TY CỔ PHẦN DỆT MAY HÀ NỘI
-VINATEX HANOSIMEX-
VAI TRÒ CỦA HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU
Vai trò của hoạt động xuất khẩu
Bất cứ một quốc gia nào muốn phát triển theo nhịp độ phát triển chung của thế giới đều không thể chỉ dựa vào hoạt động sản xuất trong nước mà cần phải có quan hệ, có trao đổi lưu thông hàng hoá với các nước khác trên thế giới. Đây là một đòi hỏi tất yếu để nhu cầu tiêu dùng của các quốc gia đó được đáp ứng tốt hơn, nhất là khi các điều kiện tự nhiên, tài nguyên thiên nhiên ở những quốc gia đó là khác nhau dẫn đến tình trạng sản phẩm mà quốc gia này cần lại không thể sản xuất trong nước hoặc có thể sản xuất trong nước nhưng giá thành cao do phải nhập khẩu nguyên liệu từ nước ngoài. Trong lúc này ở một quốc gia khác, sản phẩm đó lại được sản xuất ra dễ dàng hơn do có nhiều điều kiện phù hợp. Tại hoàn cảnh này hoạt động xuất nhập khẩu diễn ra là tất yếu và là cơ sở cho việc thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế của các quốc gia tham gia trao đổi.
Với xu thế toàn cầu hoá, tăng cường tự do thương mại như hiện nay hoạt động xuất khẩu đang là hoạt động kinh tế cơ bản đối với mọi quốc gia trên thế giới. Đơn giản là vì nó mang lại nhiều ưu thế cho quốc gia thực hiện nó như: tạo ra nguồn thu nhập cho nền kinh tế nhất là nguồn thu ngoại tệ, hay tạo động lực cho hoạt động nâng cao năng lực cạnh tranh của mỗi quốc gia, hoặc giải quyết vấn đề lao động và trên hết là thúc đẩy mối quan hệ kinh tế, giao lưu hợp tác giữa nhiều quốc gia trên thế giới. Tóm lại, hoạt động xuất khẩu không chỉ mang lại những hiệu qủa to lớn trực tiếp cho nền kinh tế mà còn góp phần nâng cao hiệu quả của các hoạt động văn hoá xã hội mà mọi quốc gia đều quan tâm.
Và đối với Việt Nam những lợi thế đó còn góp phần quan trọng hơn trong việc phát triển đất nước. Từ một nước nông nghiệp lúa nước nghèo nàn lạc hậu, đến nay trải qua hơn 20 năm phát triển Việt Nam đã được coi là điểm sáng về kinh tế của Châu Á với tốc độ tăng trưởng hàng năm đạt từ 8-9%/năm, trong đó hoạt động xuất khẩu đóng góp một phần rất lớn. Năm 2006, xuất khẩu đạt khoảng 39,5 tỷ USD tương đương mức kim ngạch xuất khẩu đã chiếm đến hơn 60% GDP cả nước, tăng 24,5% so với năm 2005.
Với tầm quan trọng này, đòi hỏi ngành thương mại phải làm tốt vai trò của mình. Trong đó, tập trung phát triển xuất khẩu với tốc độ cao, đây là động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tăng trưởng GDP, góp phần giải quyết việc làm và chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Phấn đấu đưa tốc độ tăng trưởng xuất khẩu giai đoạn 2006-2010 đạt 18% trở lên. Bên cạnh đó cần tập trung xuất khẩu các mặt hàng lớn, tạo ra quy mô xuất khẩu lớn, giải quyết vấn đề việc làm, đồng thời phát triển các mặt hàng có tốc độ tăng trưởng nhanh, không hạn chế thị trường và phát triển các mặt hàng xuất khẩu mới, thị trường mới có tiềm năng. Nhưng cũng cần chú trọng đến việc phát triển thị trường trong nước và coi đây là yếu tố quyết định thành công của ngành thương mại trong quá trình hội nhập.
Nhưng trước hết chúng ta cần tiếp tục phát triển các mặt hàng xuất khẩu hiện có, đặc biệt là sản phẩm dệt may, một mặt hàng từ lâu đã có chỗ đứng trong danh mục chọn lựa của khách hàng
Đối với Tổng công ty cổ phần Dệt May Hà Nội kim ngạch xuất khẩu hàng năm đều không ngừng tăng cao . Năm 2005 trong số 1.430.168 triệu doanh thu trước thuế của cả Tổng công ty cổ phần Dệt May Hà Nội kim ngạch xuất khẩu đạt
Năm 2005
Năm 2006
Năm 2007
KH
TH
SS(%)
KH
TH
SS(%)
KH
TH
SS(%)
Tổng doanh thu
1.204.500
1.430.168
118.7
1.705.000
1.824.149
107.0
1.853.791
1.939.755
108.4
Kim ngạch xuất khẩu
28.000.000
35.218.553
125.8
37.800.000
39.452.759
104.4
45.000.000
51.067.137
113.5
Lợi nhuận
7.761
7.761
100
7.761
12.500
108.7
17.000
17.000
100
( Nguồn: Phòng kế hoạch vật tư)
Bảng 1.1.Các chỉ tiêu kinh doanh của Tổng công ty cổ phần Dệt May Hà Nội
Bảng 1.2. Kết quả kinh doanh xuất khẩu theo thị trường của Tổng công ty cổ phần Dệt May Hà Nội
Kim ngạch xuất khẩu theo từng nước
Thực hiện tháng báo cáo
Luỹ kế từ đầu năm đến hết tháng báo cáo
Ước tính tháng 1/2008
Trị giá (USD)
Trị giá (FOB)
Trị giá (USD)
Trị giá (FOB)
Trị giá (USD)
Trị giá (FOB)
Tổng kim ngạch xuất khẩu
2.954.414,75
3.262.351,05
50.629.982,78
50.937.919,08
2.537.905,00
2.537.905,00
Nhật Bản
368.767,90
368.767,90
6.448.355,63
6.448,355,63
647.905,00
647.905,00
Đài Loan
480.501,02
480.501,02
3.710.922,14
3.710.922,14
200.000,00
200.000,00
Hàn Quốc
248.871,00
248.871,00
6.762.006,90
6.762.006,90
445.000,00
445.000,00
Phlippin
192.149,00
192.149,00
2.448.879,33
2.448.879,33
-
-
Anh
315.030,93
315.030,93
2.948.188,46
2.948.188,46
250.000,00
25.000,00
Mỹ
1.349.094,90
1.657.031,20
25.000.387,39
25.308.323,69
995.000,00
995.000,00
Singapore
-
-
3.675,00
3.675,00
-
-
Cộng hoà Czech
-
-
53.338,36
53.338,36
-
-
Isarel
-
-
89.586,00
89.586,00
-
-
Colombia
-
-
1.855.097,97
1.855.097,97
-
-
Tây Ba Nha
-
-
45.964,16
45.964,16
-
-
Đan Mạch
-
-
4.350,00
4.350,00
-
-
Pháp
-
-
10.050,00
10.050,00
-
-
Đức
-
-
1.249.181,44
1.249.181,44
-
-
(Nguồn: Phòng Xuất nhập khẩu)
Những con số trên đã cho chúng ta thấy tình hình xuất khẩu của Tổng công ty cổ phần Dệt May Hà Nội trong năm 2007 vừa qua, và xứng đáng với vị trí là thị trường quan trọng bậc nhất của toàn doanh nghiệp, tổng giá trị xuất khảu sản phẩm vào thị trường Mỹ đạt mức 1.349.094 USD chiếm tới 45.66% Tổng công ty cổ phần Dệt May Hà Nội Kim ngạch xuất khẩu của toàn công ty.
1.2 TÌNH HÌNH THỊ TRƯỜNG CỦA TỔNG CÔNG TY CỔ PHẦN DỆT MAY HÀ NỘI
1.2.1.Nghiên cứu thị trường Mỹ
Mỹ là một trong những quốc gia có diện tích lớn nhất thế giới xấp xỉ 9,4 triệu km², dân số 296,5 triệu người (số liệu thống kê năm 2005), đứng thứ 4 thế giới về diện tích và dân số. Nước Mỹ gồm 50 bang, trong đó có 48 bang kề nhau trên lục địa Bắc Mỹ, một bang Alasca nằm tách riêng ở phía Bắc Canada, bang Hawaii ở giữa Thái Bình Dương. Phía Bắc và Nam giáp 2 nước Canada và Mehico, phía Đông và Tây giáp 2 đại dương lớn là Thái Bình Dương và Đại Tây Dương.
Mỹ là một nước đa chủng tộc. Trong tổng số dân Mỹ có 84,1% là người da trắng, 12,4% là người da đen và 3,5% là người da vàng và Indian bản địa. Hiện có tới 75% dân Mỹ sống ở thành thị. Số dân sống bằng nông nghiệp chiếm 2,9%, công nghiệp 26,9%, diạch vụ 70,2%.
Mỹ là nước có nguồc tài nguyên thiên nhiên khá phong phú. Nhiều loại khoáng sản tồn tại với trữ lượng lớn. Cho đến nay Mỹ vẫn là một trong những nước đứng đầu thế giới về khai thác khoáng sản, đặc biệt là khai thác than đã và dầu. đây là yếu tố thuận lợi cho sự phát triển của nền kinh tế Mỹ, nhất là trong thời kì đầu của giai đoạn công nghiệp hoá.
Mỹ là một quốc gia trẻ. Được phát triển và bắt đầu khai thác các đây khoảng 500 năm, giành độc lập năm 1776 và cho tới tận năm 1864, thời điểm của cuộc nội chiến, Hoa Kì vẫn là quốc gia sản xuất và xuất khẩu nông sản là chủ yếu. Sau năm 1864, Hoa Kì bắt đầu vươn lên trở thành một nước công nghiệp phát triển, đuổi kịp và vượt Anh, Pháp, Đức trỏ thành cường quốc số một thế giới về kinh tế đến tận ngày nay.
Nền kinh tế Mỹ là một nền kinh tế lớn, một thị trường đầy tiềm năng mà rất nhiều các quốc gia bạn hàng muốn xâm nhập vào đây. Nhưng muốn có thị phần tại thị trường nay các doanh nghiệp cần phải vượt qua rất nhiều trở ngại từ môi trường văn hoá, chính trị, kinh tế…
1.2.1.1. Môi trường kinh tế
Mỹ là nước có nền kinh tế lớn nhất thế giới. GDP năm 2003 là 10.381 tỷ USD, năm 2004 là11.750 tỷ USD( chiếm 32% GDP toàn thế giới). Từ thập kỷ 90 đến nay, Mỹ luôn duy trì được tốc độ tăng trưởng cao. Năm 2003, mức tăng trưởng của Mỹ là 3,1%, năm 2004 đạt 4,4%, năm 2005 dự tính ít nhất đạt 3%. Thu nhập quốc dân bình quân vào loại cao nhất trên thế giới, khoảng trên 30.000USD/ năm. Sức mua hàng năm đạt khoảng 7.000 tỷ USD.
Trong cơ cấu GDP năm 2004 của Mỹ, dịch vụ chiếm tỷ lệ khoảng 79%, công nghiệp khoảng 20% và nông nghiệp là 1%. Sản xuất nông nghiệp đáp ứng nhu cầu trong nước và hàng năm xuất khẩu khoảng 50 tỷ USD với lượng lao động chỉ chiếm 2% dân số.
Kim ngạch xuất khẩu năm 2003 đạt 1.018,6 tỷ USD, năm 2004 là 795 tỷ USD, kim ngạch nhập khẩu 1.507,9 tỷ USD. Sản phẩm xuất khẩu chính của Mỹ là máy móc, thiết bị, ô tô, linh kiện và vật liệu công nghiệp, hàng tiêu dùng, nông sản. Các mặt hàng nhập khẩu chính gồm dầu thô và các sản phẩm dầu, máy móc, ôtô, hàng tiêu dùng, vật liệu công nghiệp, thực phẩm và đồ uống.
1.2.1.2.Môi trường chính trị - luật pháp
Mỹ là một nước cộng hoà liên bang thực hiện chế độ chính trị “tam quyền – phân lập”. Hiến pháp quy định Quốc Hội thực thi quyền lập pháp, Tổng thống thực thi quyền hành pháp và Toà án thực thi quyền tư pháp. Mỗi cơ quan thực thi quyền lực một cách độc lập.
Mỗi tiểu bang của Mỹ có một bộ máy chính quyền và hệ thống pháp luật riêng. Hệ thống pháp luật của các tiểu bang, về nguyên tắc không được trái với Hiến pháp của liên bang.
Hệ thống luật pháp của Mỹ là hệ thống Thông luật, gồm hai ngành công pháp và tư pháp. Công pháp được thể hiện dưới hình thức văn bản bao gồm Hiến pháp, Bộ luật, Đạo luật và các văn bản dưới luật. Tư pháp chủ yếu tồn tại dưới hình thức án lệ. Hệ thống pháp luật của Mỹ rất phức tạp, đặc biệt là pháp luật điều chỉnh các hoạt động xuất nhập khẩu.
Về cơ chế hoạch định và thực thi chính sách thương mại, Hiến pháp của Mỹ quy định Quốc hội có quyền quản lí ngoại thương và quyết định thuế nhập khẩu. Tuy nhiên, trên thực tế quốc hội uỷ quyền cho các cơ quan hành pháp quản lí nhiều hoạt động trong lĩnh vực này.
1.2.1.3.Môi trường văn hoá – xã hội
Khác với các quốc gia Châu Âu, môi trường văn hoá của Mỹ rất phức tạp. Mỹ là một quốc gia đa sắc tộc, văn hoá, tôn giáo. Đây là quốc gia của những người nhập cư với mọi màu da, tôn giáo, tín ngưỡng…Năm 2004, các tôn giáo tại Mỹ bao gồm: Tin lành (56%), Cơ đốc giáo La Mã (28%), Do thái (2%), các đạo khác (4%), không theo đạo nào (10%).
Văn hoá Mỹ được đặc trưng bởi sự đề cao chủ nghĩa cá nhân. Cá nhân thường tự quyết định hàng hoá mua sắm và tiêu dùng mà không cần tham khảo ý kiến của những người xung quanh.
Người dân Mỹ thích mua sắm và tiêu dùng với quan điểm là mua sắm và tiêu dùng càng nhiều thì càng kích thích sản xuất và dịch vụ tăng trưởng, kinh tế phát triển. Với mức thu nhập bình quân đầu người vào loại cao nhất trên thế giới, mua sắm đã trở thành một nét văn hoá đặc trưng của người Mỹ.
Người dân Mỹ còn tin tưởng vào hệ thống đại lí bán lẻ bởi họ được đảm bảo về chất lượng, giá cả, bảo hành và các điều kiện khác. Họ rất có ấn tượng với sản phẩm mới, do đó, nếu họ có ấn tượng xấu về hàng hoá nào thì hàng hoá đó sẽ khó tiêu thụ. nếu được sự đảm bảo của các nhà phân phối có danh tiếng, hàng hoá sẽ dễ được chấp nhận.
Mỹ không có các tiêu chuẩn thẩm mỹ chung và đặc trưng mà các nhóm người dân khác nhau vẫn sống theo chính bản sắc văn hoá và tôn giáo của mình. Văn hoá, tôn giáo này dần dần hoà trộn và tác động qua lại lẫn nhau. Điều này tạo ra sự khác biệt trong thói quen tiêu dùng của người dân Mỹ so với người dân Châu Âu. Các nước Châu Âu luôn đề cao chất lượng hàng hoá. Người dân Mỹ cũng quan tâm đến chất lượng nhưng họ lại đề cao sự đổi mới của hàng hoá và chú ý tới giá cả hơn. Thời gian sử dụng hàng hoá của người dân thường ngắn do thị hiếu của họ thường xuyên thay đổi. Giá cả đóng vai trò quan trọng và hàng hoá từ một số nước đang phát triển có chất lượng trung bình nhưng vẫn có thể tiêu thụ được nếu giá bán cạnh tranh. Khi quyết định mua hàng, người dân Mỹ cân nhắc các nét độc đáo, giá cả, chất lượng và sự tiện lợi.
1.2.2.Những thuận lợi của Tổng công ty cổ phần Dệt May Hà Nội trong việc xuất khẩu hàng hoá sang thị trường Mỹ
1.2.2.1.Quan hệ ngoại giao và thương mại giữa Việt nam và Mỹ có chuyển biến tích cực
*Giai đoạn trước khi Mỹ bãi bỏ lệnh cấm vận đối với Việt Nam
Trước khi Mỹ dở bỏ lệnh cấm vận đối với Việt Nam, có thể thấy quan hệ thương mại giữa Mỹ và Việt Nam hầu như không có gì đáng kể. Thời kì trước năm 1975, Mỹ có quan hệ với chính quyền Sài Gòn cũ. Tuy nhiên, kim ngạch buôn bán không lớn, chủ yếu là hàng nhập khẩu bằng vịên trợ của Mỹ. Từ thàng 5/1964, áp dụng đạo luật buôn bán với kẻ thù ( Jackson – Vanik), Mỹ thực thi lệnh cấm vận chống miền Bắc nước ta. Theo đạo luật này, Mỹ ngăn cấm tất cả các tổ chức, công ty và cá nhân Mỹ xuất khẩu sang Việt Nam bất cứ sản phẩm, hàng hoá, kĩ thuật hay dịch vụ nào của Mỹ dù trực tiếp hay gián tiếp thông qua nước thứ ba. Mọi giao dịch buôn bán, giúp xuất hoặc nhập khẩu, đứng ra làm môi giới cũng bị coi là xuất khẩu dịch vụ, vi phạm lệnh cấm vận. Sau khi Việt Nam thống nhất vào 30/04/1975, Mỹ đã mở rộng cấm vận đối với toàn bộ lãnh thổ Việt Nam (15/05/1975). Đồng thời Mỹ áp dụng chế tài khống chế các nước đồng minh và các tổ chức quốc tế nhằm ngăn cản, thao túng và phong toả các mối quan hệ kinh tế thương mại giữa Việt Nam với các quốc gia khác trên thế giới.
Có thể thấy, chính sách cấm vận của Mỹ với Việt Nam là cấm vận toàn diện bao gồm: cấm mọi giao dịch thương mại, tài chính và đầu tư vào Việt Nam; phong toả tài sản; xếp Việt nam vào nhóm Z cùng với Cuba và Bắc Triều Tiên…đây là nhóm nước bị hạn chế nhất trên cơ sở “Đạo luật kiểm soát xuất khẩu 1969”; khống chế các nước đồng minh trong quan hệ với Việt Nam. Vì thế trong suốt thời gian dài trước khi có những cải thiện đi đến bãi bỏ cấm vận, hầu như hai nước không có quan hệ thương mại chính thức nào.
Mặc dù bị mỹ cấm vận, nhưng thông qua các con đường trực tiếp và gián tiếp Việt Nam vẫn có quan hệ kinh tế và viện trợ phát triển ở nhiều nước, nhiều tổ chức kinh tế và phi chính phủ. Ngay chính nhiều công ty của Mỹ qua con đường gián tiếp cũng đã có hàng xuất khẩu vào nước ta. Vào những năm cuối của thập kỉ 80, trị giá hàng xuất khẩu của Mỹ vào Việt Nam có dấu hiệ tăng mặc dù con số đó còn khá khiêm tốn. Năm 1987, hàng hoá của Mỹ nhập vào nước ta trị giá 23 triệu USD, năm 1988: 15 triệu USD, năm 1989: 11 triệu USD( theo thống kê của Bộ Thương Mại Mỹ tháng 7/1994).
Còn đối với xuất khẩu của Việt Nam sang Mỹ, theo số liệu thống kê Việt Nam, thời kì 1986-1989 hầu như không đáng kể. Bắt đầu từ năm 1990, Việt Nam đã xuất được lượng hàng trị giá khoảng 5.000 USD, năm 1991 là 9.000 USD, năm 1992 là 11.000 USD và tăng lên 58.000 USD vào năm 1993.
Cũng trong thời kì này, lệnh cấm vận của Mỹ vẫn không ngăn cản được quan hệ thương mại của một số nước Châu Mỹ với Việt nam như Canada, Cuba…Giá trị kim ngạch nhập khẩu từ các nước Châu trong cả thời kì 1986-1990 đạt 47,4 triệu USD, trong 3 năm 1991-1993 đã lên tới 65,2 triệu USD. Trong khi đó, giá trị kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang các nước này vẫn không ngừng tăng; thời kì 1986-1990 đạt 68,1 triệu USD và mặc dù mức tăng chưa ổn định, nhưng trong 3 năm từ 1991-1993 giá trị xuất khẩu của ta vẫn đạt 73,2 triệu USD.
Bắt đầu từ tháng 4/1992, Mỹ thực hiện lộ trình tiến tới bỏ lệnh cấm vận Việt Nam, mở đầu bằng việc cho phép xuất khẩu sang Việt Nam những hàng hoá đáp ứng nhu cầu thiết yếu của con người, nới lỏng các hạn chế đối với các tổ chức phi chính phủ giúp đỡ nhân đạo cho Việt Nam. Tiếp đó Mỹ cho phép các công ty Mỹ mở văn phòng đại diện, tiến hành các cuộc thăm dò thị trường, khả năng ký kết hợp đồng để có thể thực hiện sau khi lệnh cấm vận được bãi bỏ.
Tháng 7/1993, Mỹ tuyên bố không can thiệp vào các tổ chức tài chính quốc tế, trong đó các tổ chức tài chính lớn như Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng thế giới (WB), Ngân hàng phát triển Châu Á (ADB). Tháng 9/1993 Mỹ ra quy định về cấp giấy phép buôn bán với Việt Nma, sau đó cho phép các công ty Mỹ tham gia đấu thầu các công trình do các tổ chức quốc tế tài trợ. Trong thời gian đó có nhiều phái đoàn gồm các thương gia của các công ty lớn của Mỹ đã sang tìm hiểu thị trường Việt Nam, chuẩn bị xúc tiến hơn nữa hợp tác thương mại giữa hai nước. Cụ thể, phái đoàn Hội đồng thương mại Việt - Mỹ gồm đại diện 22 công ty lớn của Mỹ vào Việt Nam từ ngày 8-12/02/1993; phái đoàn gồm 15 công ty hàng đầu của Mỹ đến Việt nam để thảo luận về các dự án đầu tư có thể thực hiện được khi lệnh cấm vận được bãi bỏ ( từ ngày 26-31/07/1993). Tháng 10/1993, quan hệ giữa nước ta và các tổ chức tài chính quốc tế được nối lại và tháng 11/1993 Hội nghị các nhà tài trợ quốc tế ủng hộ Việt Nam được tổ chức tại Pari ( Pháp), đại biểu của Mỹ đã tham dự với tư cách là quan sát viên.
*Giai đoạn sau khi lệnh cấm vận được bãi bỏ ( từ năm 1994)
Trong suốt thời gian dài, chính sách cấm vận của Mỹ đã cản trở rất lớn đến quan hệ thương mại giữa hai nước. Nó ảnh hưởng đến lợi ích cá nhân của cả Mỹ và Việt Nma. Hiển nhiên là trong mối quan hệ này, Việt Nam là thiệt hại hơn cả. Số nước bị Mỹ cấm vận không nhiều, ngoài Việt Nam, còn có các nước như: Cuba, CHDCND triều Tiên, Irac…Những quốc gia bị Mỹ bao vây, cấm vận bị cô lập với thế giới bên ngoài và đều rơi vào tình trạng khó phát triển.
Như chúng ta thấy, vào đầu những năm 90, Việt Nam và Mỹ đều có những bước cải thiện rõ rệt trong chính sách của mình. Chính sách của Mỹ từ cấm vận toàn diện với Việt Nam đã chuyển sang mới lỏng từng phần. Còn phía Việt Nam, chính sách của Việt Nam đã có sự đột bién từ “đóng cửa” sang “ mở cửa”. Đặc biệt với Mỹ, Việt Nma đã tỏ rỏ thiện chí của mình bằng những hành động cụ thể, đáp ứng những đòi hỏi từ phía Mỹ. Và khi các điều kiện xúc tác đã biến đổi thuận lợi cho việc nối lại bình thường hoá quan hệ giữa hai nước thì việc bãi bỏ cấm vận của Mỹ với Việt Nam là một đòi hỏi tất yếu, khách quan. Điều này không chỉ phù hợp với mong mỏi của Việt Nma mà còn phù hợp với nguyện vọng của giới kinh doanh Mỹ nói riêng và đại đa số dân Mỹ, nhất là khi xu thế toàn cầu hoá ngày càng trở nên rõ nét và phổ biến. Trong xu thế này, không nền kinh tế nào đứng ngoài các tiến trình tự do hoá về thương mại và đầu tư. Do đó, Việt Nam và Mỹ với tư cách là thực thể cấu thành nên thế giới này dĩ nhiên không thể đi ngược lại xu hướng chung của thế giới.
Năm 1994, sau khi Tổng thống Mỹ Bill Clinton chính thức tuyên bố bãi bỏ lệnh cấm vận chống Việt Nam, Chính phủ Mỹ đã có những xúc tiến và chuẩn bị về chính sách và luật pháp để phát triển hợp tác thương mại với Việt Nam. Tiếp đó, ngày 10/02/1994, Bộ trưởng thương mại Mỹ đã chuyển Việt Nam từ nhóm nước Z lên nhóm Y, nhóm ít có hạn chế thương mại ( gồm Nga, các nước thuộc khối Vacava cũ, Anbani, Mông Cổ, Lào, Campuchia). Cơ quan tài sản nước ngoài của Mỹ (OFAC) cũng sửa đổi quy định, liên quan đến việc tiến hành giao dịch về tài chính và buôn bán bình thường với Việt Nam. Ngày 2/2/1994 Bộ vận tải và Bộ thương mại Mỹ đã huỷ lệnh cấm tàu biển và máy bay Mỹ chuyển hàng hoá vào Việt Nam. Đến ngày 27/4/1995, Mỹ cũng chính thức cho phép tàu mang cờ Việt Nam vào cảng Mỹ, nhưng vẫn hạn chế là phải xin phép trước 7 ngày và thông báo tàu đến trước 3 ngày.
Sau khi lệnh cấm vận được bãi bỏ, Bộ thương mại Việt Nam cùng các cơ quan đại diện Thương mại Mỹ (USTR) và Bộ thương mại Mỹ càng có nhiều cuộc tiếp xúc hơn và đi đến thoả thuận cùng nhau giữ mối liên lạc thường xuyên hỗ trợ các doanh nghiệp hai nước đẩy mạnh buôn bán xuất nhập khẩu và đầu tư.
Sau khi Tổng thống Bill Clinton tuyên bố công nhận ngoại giao và bình thường hoá quan hệ ngoại giao với Việt Nam (11/7/1995). Phía Việt Nam cũng có những tiếp xúc cấp cao với các giới chức chính phủ Mỹ và nêu rõ quan điểm của mình về những vấn đề đặt ra trong quan hệ Việt - Mỹ. Trong “ Hội nghị về bình thường hoá quan hệ Việt - Mỹ” do Hội đồng thương mại Mỹ tổ chức, một trong những chủ đề lớn được thảo luận nhiều nhất là xem xét khả năng Mỹ dành cho Việt Nam quy chế tối huệ quốc (MFN) trong buôn bán. Bộ thương mại Mỹ và Bộ thương mại Việt Nam đã chính thức đề cập đến và cùng trao đổi về tiến tình đi đến bình thường hoá hoàn toàn quan hệ thương mại giữa hai nước, thông qua việc bàn bạc thảo luận về một Hiệp định thương mại song phương giữa hai nước, các thể chế hỗ trợ xuất nhập khẩu và đầu tư như: hỗ trợ của Công ty Đầu tư tư nhân Hải ngoại (OPIC), ngân hàng xuất nhập khẩu Mỹ ( Eximbank), công ty Tín dụng hàng Nông sản (CCC)…, cũng như vấn đề Việt Nam tham gia tổ chức thương mại thế giới (WTO). Phòng Thương mại sứ quán Mỹ chính thức đi vào hoạt động tại Việt Nam ngày 2/4/1996. Tháng 6/1997, Chính phủ hai nước Việt Nam và Mỹ đã thoả thuận thiết lập quan hệ song phương về bản quyền tác giả. Đây thực sự là bước đi cần thiết của cả hai bên nhằm thúc đẩy tiến trình bình thường hoá quan hệ kinh tế thương mại hai nước.
Thông qua những kết quả đạt được trong quan hệ giữa hai nước Việt Nam và Mỹ , đặc biệt là nhờ hợp tác tích cực của cả hai phía ở tầm vĩ mô và những nỗ lực cảu các doanh nghiệp hai nước, ngay từ khi lệnh cấm được bãi bỏ đến nay buôn bán thương mại giữa hai nước đã có những bước tiến đáng kể.
1.2.2.2.Nguồn nhân lực dồi dào, chi phí rẻ
Hiện nay, Việt nam là nước có dân số đứng thứ 13 trên thế giới và thứ 2 trong ASEAN. Dân số cả nước là 76.327.900 người ( tính đến 1/4/1999), trong đó số người trong độ tuổi lao động là 43,8 triệu người. Hàng năm có khoảng 1,5-1,7 triệu người bổ sung vào lực lượng lao động. Với lực lượng lao động dồi dào, nếu sử dụng một cách hợp lí, triệt để và có hiệu quả sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển công nghiệp dệt may.
Việt Nam được đánh giá là nước có dân số đông và trẻ trong khu vực và trên thế giới. Lợi thế của nguồn nhân lực Việt Nam được thể hiện khá rõ qua trình độ văn hoá cao của lực lượng lao động. Hiện nay, gần 94% dân cư từ 15 tuổi trở lên biết chữ, tất cả các tỉnh, thành phố trong cả nước đạt chuẩn quốc gia về xoá mù chữ và phổ cập tiểu học. So với các nước trong khu vực, có tính đến sự khác biệt về điều kiện kinh tế - xã hội thì tỷ lệ biết chữ và số năm đi học của lực lượng lao động Việt Nam là khá cao.
Tuy nhiên, hiện nay đang tồn tại nhiều bất cập trong trình độ chuyên môn kĩ thuật của lực lượng lao động Việt Nam. Cụ thể là do cơ cấu giữa các loại lao động có trình độ chuyên môn kĩ thuật cao đẳng và đại học tăng nhanh hơn nhiều so với lao động có trình độ chuyên môn kĩ thuật viên và công nhân kĩ thuật dẫn đến tình trạng “ thừa thầy, thiếu thợ, thiếu công nhân có tay nghề cao”. Lao động có kĩ năng đang bị thiếu, trong vòng 8 năm từ 1989-1997, lực lượng chuyên môn có kĩ thuậy chỉ tăng có 2% và tỷ trọng lực lượng lao động không có chuyên môn kĩ thuật vẫn chiếm gần 90% lực lượng lao động toàn xã hội.
Do đặc thù của công nghiệp dệt may là sử dụng nhiều lao động giản đơn, không đòi hỏi trình độ chuyên môn kĩ thuật cao, do đó chúng ta có thể khẳng định cho dù có nhiều hạn chế, bất cập cần khắc phục. Song nguồn nhân lực Việt Nam rõ ràng là lợi thế cơ bản và quan trọng trong phát triển công nghiệp dệt may trong thời gian tới. Vấn đề đặt ra là cần có chính sách sử dụng nguồn nhân lực này một cách hợp lý và có hiệu quả song song với việc tổ chức các hình thức giáo dục đào tạo nhằm nâng cao trình độ chuyên môn, kĩ thuật cho lực lượng lao động.
Việt Nam là một trong những nước có giá nhân công thấp nhất Châu Á. Đây có thể xem là một trong những nhân tố tạo nên lợi thế so sánh cơ bản của hàng dệt may Việt Nam.
Bảng 1.3.Giá nhân công ngành dệt may của một số nước.
(Đơn vị tính: USD/ giờ)
Nhật
Pháp
Mỹ
Anh
Đ.Loan
H. Quốc
H. Kông
Singapore
16,31
12,63
10,33
10,16
5
3,6
3,39
3,16
Malaixia
Thái Lan
Philipin
Ấn Độ
T. Quốc
Indonesia
Việt Nam
0,95
0,87
0,67
0,54
0,34
0,23
0,18
Nguồn: Tổng công ty Dệt May Việt Nam năm 1997
Tuy nhiên, hiện nay có ý kiến cho rằng tiền lương của công nhân ngành dệt may Việt Nam cao hơn so với một số nước có ngành dệt may như Trung Quốc và Indonesia và cho rằng Việt Nam không có lợi thế cạnh tranh về giá nhân công. Ở đây việc so sánh cần tính đến yếu tố giảm giá đồng nội tệ của các nước sau khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực, vấn đề dư ._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 12418.doc