Tác động của hoạt động đầu tư đến quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở Việt Nam

Tài liệu Tác động của hoạt động đầu tư đến quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở Việt Nam: Mục lục Lời mở đầu 1 Chương I: Những vấn đề cơ bản về đầu tư và chuyển dịch cơ cấu kinh tế 2 Lý luận chung về đầu tư 2 Khái niệm 2 Phân loại 3 Đặc điểm cơ bản của đầu tư phát triển 6 Lý luận về cơ cấu kinh tế và chuyên dịch cơ cấu ngành kinh tế 8 Khái niệm về chuyển dịch cơ cấu kinh tế 8 Phân loại cơ cấu kinh tế 10 Tại sao phải chuyển dịch cơ cấu kinh tế? 10 Những chỉ tiêu phản ánh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế 11 Các nhân tố ảnh hưởng tới quá trình chuyển dịc... Ebook Tác động của hoạt động đầu tư đến quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở Việt Nam

doc58 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1700 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Tác động của hoạt động đầu tư đến quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
h cơ cấu kinh tế 12 Mối quan hệ giữa đầu tư và chuyển dịch cơ cấu kinh tế 15 Các lý thuyết kinh tế học nghiên cứu sự tác động của đầu tư tới quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế 15 Lý luận tác động của đầu tư tới chuyển dịch cơ cấu kinh tế 20 Các nguồn vốn đầu tư dành cho quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế 23 Bài học và thành quả ở một số quốc gia 24 Chương II: Thực trạng hoạt động đầu tư và chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở Việt Nam 29 Thực trạng hoạt động đầu tư ở Việt Nam 29 Nguồn vốn trong nước 29 Nguồn vốn nước ngoài 31 II. Quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở Việt Nam 39 1. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế (CDCCKT) theo ngành 39 2. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế quốc dân theo thành phần 42 3. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế quốc dân theo vùng 43 III. Tác động của đầu tư tới chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở Việt Nam 52 Tác động của đầu tư tới cơ cấu ngành kinh tế 52 Tác động của đầu tư tới chuyển dịch cơ cấu vùng kinh tế 57 Tác động của đầu tư tới chuyển dịch cơ cấu thành phần kinh tế 60 Chương III. Phương hướng và giải pháp tăng cường đầu tư nhằm thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế 67 Nâng cao chất lượng công tác quy hoạch trong đầu tư, 67 gắn quy hoạch với kế hoạch để thúc đẩy chuyển đổi nhanh CCKT. Huy động nguồn vốn đầu tư hướng vào các mục tiêu chuyển dịch CCKT trong các ngành, các vùng kinh tế. 68 Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, phát triển khoa học 70 và công nghệ để tạo điều kiện thuận lợi cho chuyển dịch CCKT. Đổi mới công tác chỉ đạo, điều hành trong quá trình thực hiện chuyển dịch CCKT 71 Kết luận 72 Tài liệu tham khảo 72 Lời mở đầu Chuyển dịch cơ cấu kinh tế (CDCCKT) là một yêu cầu tất yếu trong quá trình thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa của nước ta hiện nay, vì để xây dựng và phát triển một nền kinh tế ổn định, vững chắc, với tốc độ nhanh đòi hỏi phải xác định được một CCKT hợp lý, giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa các ngành kinh tế quốc dân, giữa các vùng lãnh thổ và giữa các thành phần kinh tế. CCKT có ý nghĩa thiết thực trong việc thúc đẩy nền kinh tế phát triển đa dạng, năng động, phát huy các lợi thế, tiềm năng về nguồn nhân lực, vật lực và tài lực. Cơ cấu kinh tế (CCKT) quốc dân có nhiều loại và tùy theo mục đích nghiên cứu, quản lý có thể xem xét dưới các góc độ khác nhau. Nhưng dù thuộc loại nào, CCKT quốc dân cũng là sản phẩm của phân công lao động xã hội, nó được biểu hiện cụ thể dưới hai hình thức cơ bản nhất là phân công lao động theo ngành và phân công lao động theo lãnh thổ. Hai hình thức phân công lao động xã hội này gắn bó với nhau, thúc đẩy quá trình tiến hóa chung của nhân loại. Mọi sự phát triển của phân công lao động theo ngành kéo theo sự phân công lao động theo lãnh thổ. Phân công lao động theo lãnh thổ, với đầy đủ các yếu tố về dân số, đặc điểm tự nhiên, kinh tế, xã hội, phong tục tập quán của mỗi vùng sẽ tạo điều kiện để chuyên môn hóa sản xuất, hỗ trợ cho các ngành phát triển, hình thành các cơ sở sản xuất kinh doanh để khai thác và phát huy thế mạnh ở từng vùng lãnh thổ. Trình độ phát triển của phân công lao động xã hội trong mỗi dân tộc là thước đo trình độ phát triển chung của dân tộc đó. Như vậy, cách tiếp cận về CCKT xuất phát từ cấu trúc bên trong của nó qua quá trình tái sản xuất mở rộng của nền kinh tế, bao hàm các mối quan hệ kinh tế đa dạng và phức tạp, được nhìn nhận trên quan điểm hệ thống không chỉ mang tính chất số lượng mà còn mang tính chất về mặt chất lượng. Nó không chỉ là mối quan hệ riêng lẻ của từng bộ phận kinh tế mà phải là những quan hệ tổng thể của các bộ phận cấu thành nền kinh tế bao gồm các yếu tố kinh tế, các lĩnh vực kinh tế, các ngành kinh tế, các vùng kinh tế, các thành phần kinh tế. Hiện nay, cùng với quá trình phát triển kinh tế xã hội của Việt Nam, lĩnh vực Đầu tư ngày càng được chú trọng và phát triển, kể cả đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài. Nhờ đó, nền kinh tế có đà tăng trưởng cao trong nhiều năm liên tiếp, đồng thời Cơ cấu kinh tế đã có sự chuyển dịch theo hướng tích cực. Vậy tác động của Đầu tư tới Chuyển dịch cơ cấu kinh tế như thế nào, thông qua những chính sách gì, thực trạng và giải pháp đối với vấn đề này như thế nào… Đề tài này sẽ làm rõ thêm những vướng mắc còn tồn tại. Chương I: Những vấn đề cơ bản về đầu tư và chuyển dịch cơ cấu kinh tế Lý luận chung về đầu tư Khái niệm Đầu tư nói chung là sự hi sinh các nguồn lực ở hiện tại để tiến hành các họat động nào đó nhằm thu về các kết quả nhất định trong tương lai lớn hơn các nguồn lực đã bỏ ra để đạt được các kết quả đó. Mục tiêu của đầu tư là đạt được các kết quả lớn hơn so với những hi sinh. Dưới góc độ kinh tế học Đầu tư (Investment), theo từ điển kinh tế học hiện đại của David W. Pearce- thì : Thuật ngữ đầu tư được sử dụng một cách phổ biến nhất để mô tả lưu lượng chi tiêu được dùng để tăng hay duy trì dung lượng vốn thực tế. Nói một cách chính xác hơn: Đầu tư là một lưu lượng chi tiêu dành cho các dự án sản xuất hàng hóa không phải để tiêu dùng trung gian. Các dự án đầu tư này có thể có dạng bổ sung vào cả vốn vật chất, vốn nhân lực và hang tồn kho. Đầu tư là một luồng vốn với khối lượng được xác định bởi tất cả các dự án có giá trị hiện tại ròng (NPV) lớn hơn 0 hay tỉ suất lợi tức nội hoàn lớn hơn lãi suất (IRR). Nói một cách ngắn gọn, đầu tư là sự hi sinh tiêu dùng hiện tại nhằm thu về tiêu dùng lớn hơn trong tương lai. Dưới góc độ tài chính Trên phương diện hoạch định tài chính cá nhân, đầu tư là sự hy sinh của một cá nhân trong việc tiêu dùng hiện tại để tích lũy tài sản phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng trong tương lai. Trong con mắt của các nhà tư vấn tài chính, đầu tư được hiểu là việc một cá nhân mua tài sản với mong ước rằng tài sản đã mua được sẽ giữ vững giá trị, sau đó tăng giá và tạo ra nguồn thu nhập tương ứng với mức độ rủi ro nào đó. Nói một cách ngắn gọn hơn, mục tiêu tài chính của cá nhân là tích lũy đồng tiền. Sau khi kiếm được tiền, người ta cần cân nhắc đầu tư đồng tiền đó như thế nào để cho nó nhiều hơn trước. Một cách khái quát, đầu tư là một chuỗi các hoạt động chi tiêu để chủ đầu tư thu về một chuỗi các dòng thu nhắm hoàn vốn và sinh lời. Dưới góc độ luật pháp Theo luật đầu tư 2006, đầu tư là việc nhà đầu tư bỏ vốn bằng tài sản hữu hình hoặc vô hình để hình thành tài sản tiến hành các họat động đầu tư theo quy định của luật này và các quy định khác của pháp luật có liên quan. Dưới góc độ nghiên cứu của môn học kinh tế đầu tư Đầu tư là việc chi dung vốn trong hiện tại để tiến hành các họat động nhằm làm tăng them hay tạo ra những tài sản trí tuệ, gia tăng năng lực sản xuất tạo them việc làm và vì mục tiêu phát triển. Sở dĩ định nghĩa này được sử dụng trong phạm vi của môn học này vì: Nội dung chủ yếu mà môn kinh tế đầu tư quan tâm nghiên cứu là đầu tư phát triển- loại đầu tư quyết định trực tiếp sự phát triển của nền sản xuất xã hội, là điều kịnh tiên quyết cho sự ra đời, tồn tại và phát triển của mọi cơ sở sản xuất kinh doanh dịch vụ. Phân loại đầu tư Theo từng tiêu chí và góc độ tiếp cận người ta lại tiến hành phân chia đầu tư ra nhiều bộ phận khác nhau. Theo phương cách tiến hành đầu tư Đầu tư phát triển Đầu tư phát triển là họat động trong đó người có tiền bỏ tiền ra để tiến hành các họat động không những tạo ra tài sản cho chính mình mà còn làm tăng thêm tiềm lực sản xuất kinh doanh và mọi họat động xã hội khác, là điều kiện chủ yếu để tạo được việc làm, nâng cao đời sống của mọi người dân trong xã hội. . Đó là việc bỏ tiền ra để xây dựng, sửa chữa nhà cửa và các kết cấu hạ tầng, mua sắm trang thiết bị, lắp đặt chúng trên nền bệ và bồi dưỡng đào tạo nguồn nhân lực, thực hiện các chi phí thường xuyên gắn liền với sự hoạt động của các tài sản này nhằm duy trì tiềm lực hoạt động của các cơ sở đang tồn tại và tạo tiềm lực mới cho nền kinh tế xã hội. Đầu tư tài chính Đầu tư tài chính: là loại đầu tư trong đó người có tiền bỏ tiền ra cho vay hay mua các chứng chỉ có giá trên thị trường tiền tệ để hưởng lãi suất định trước (gửi tiết kiệm, mua trái phiếu chính phủ...) hay lãi suất tuỳ thuộc vào kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty phát hành (cổ phiếu, trái phiếu công ty...). Đầu tư tài sản tài chính không tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế (nếu không xét đến quan hệ quốc tế trong lĩnh vực này) mà chỉ làm tăng giá trị tài sản tài chính của tổ chức, cá nhân đầu tư (đánh bạc nhằm mục đích thu lời cũng là một loại đầu tư tài chính nhưng bị cấm do gây nhiều tệ nạn xã hội. Công ty mở sòng bạc để phục vụ nhu cầu giải trí của người đến chơi nhằm thu lại lợi nhuận về cho công ty thì đây lại là đầu tư phát triển nếu được nhà nước cho phép và tuân theo đầy đủ các quy chế hoạt động do nhà nước quy định để không gây ra các tệ nạn xã hội). Với sự hoạt động của hình thức đầu tư tài chính, vốn bỏ ra đầu tư được lưu chuyển dễ dàng, khi cần có thể rút ra một cách nhanh chóng (rút tiết kiệm, chuyển nhượng trái phiếu cổ phiếu cho người khác). Điều đó khuyến khích người có tiền bỏ tiền ra để đầu tư. Để giảm độ rủi ro, họ có thể đầu tư vào nhiều nơi, mỗi nơi một ít tiền. Đây là một nguồn cung cấp vốn đầu tư quan trọng cho đầu tư phát triển. Đầu tư thương mại Đầu tư thương mại là loại đầu tư trong đó người có tiền bỏ tiền ra để mua hàng hoá và sau đó bán với giá cao hơn nhằm thu lợi nhuận do chênh lệch giá khi mua và khi bán. loại đầu tư này cũng không tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế (nếu không xét đến ngoại thương), mà chỉ làm tăng tài sản tài chính của người đầu tư trong quá trình mua đi bán lại, chuyển giao quyền sở hữu hàng hoá giữa người bán với người đầu tư và người đầu tư với khách hàng của họ. Tuy nhiên, đầu tư thương mại có tác dụng thúc đẩy quá trình lưu thông của cải vật chất do đầu tư phát triển tạo ra, từ đó thúc đẩy đầu tư phát triển, tăng thu cho ngân sách, tăng tích luỹ vốn cho phát triển sản xuất, kinh doanh dịch vụ nói riêng và nền sản xuất xã hội nói chung (chúng ta cần lưu ý là đầu cơ trong kinh doanh cũng thuộc đầu tư thương mại xét về bản chất nhưng bị pháp luật cấm vì gây ra tình trạng thừa thiếu hàng hoá một cách giả tạo, gây khó khăn cho việc quản lý lưu thông phân phối, gây mất ổn định cho sản xuất, làm tăng chi phí của người tiêu dùng. 2.2 Theo quan hệ của chủ đầu tư với dự án đầu tư 2.2.1. Đầu tư trực tiếp Đầu tư trực tiếp là hình thức đầu tư trong đó người bỏ vốn trực tiếp tham gia quản lý, điều hành quá trình thực hiện và vận hành kết quả đầu tư. Đầu tư trực tiếp lại bao gồm: Đầu tư dịch chuyển và đầu tư phát triển. Đầu tư dịch chuyển là một hình thức đầu tư trực tiếp trong đó việc bỏ vốn là nhằm dịch chuyển quyền sở hữu giá trị của tài sản. Thực chất trong đầu tư dịch chuyển không có sự gia tăng giá trị tài sản. Chẳng hạn như nhà đầu tư mua một số lượng cổ phiếu ở mức khống chế để có thể tham gia vào hội đồng quản trị một công ty, cá trường hợp thôn tính, sáp nhập trong cơ chế thị trường. Đầu tư phát triển là một phương thức của đầu tư trực tiếp. Hoạt động đầu tư này nhằm duy trì và tạo ra năng lực mới trong sản xuất kinh doanh dịch vụ và sinh hoạt đời sống của xã hội. Đây là hình thức đầu tư trực tiếp tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế quốc dân. Hình thức đầu tư này đóng vai trò quan trọng đối với tăng trưởng và phát triển của nền kinh tế tại mỗi quốc gia. 2.2.2. Đầu tư gián tiếp Đầu tư gián tiếp là hình thức đầu tư trong đó người có vốn không trực tiếp tham gia quản lý, điều hành quá trình thực hiện và vận hành kết quả đầu tư. Chẳng hạn như nhà đầu tư thực hiện hành vi mua bán các cổ phiếu hay trái phiếu trên thị trường chứng khoán thứ cấp. Trong trường hợp này nhà đầu tư có thể được hưởng các lợi ích vật chất (cổ tức, lãi trái phiếu) và lợi ích phi vật chất (quyền mua, quyền biểu quyết) nhưng không được tham gia trực tiếp quản lý tài sản mà mình bỏ vốn đầu tư. Đặc điểm cơ bản của đầu tư phát triển: Khác với đầu tư tài chính và đầu tư thương mại, đầu tư phát triển là họat động cơ bản của đầu tư và chỉ có đầu tư phát triển mới trực tiếp tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế mà không phải là hiện tượng chu chuyển tài sản giữa các thành viên trong nền kinh tế. Và đầu tư phát triển cũng chính là họat động đầu tư có tác động lớn nhất tới quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế của một quốc gia. Quy mô tiền vốn, vật tư, lao động cần thiết cho hoạt động đầu tư phát triển thường lớn Vốn đầu tư lớn nằm khê đọng lâu trong suốt quá trình thực hiện đầu tư. Quy mô vốn đầu tư đòi hỏi phải có giải pháp tạo vốn và huy động vốn hớp lý, xây dựng các chính sách, quy hoạch kế hoạch đầu tư đúng đắn, quản lý chặt chẽ tổng vốn đầu tư… Lao động cần sử dụng đòi hỏi phải trải qua công tác tuyển dụng đào tạo đãi ngộ đòi hỏi một kế hoạch định trước sao cho đáp ứng tốt nhất nhu cầu từng loại nhân lực theo tiến độ và quy mô lao động. Thời kì đầu tư kéo dài Một dự án đầu tư gồm 3 giai đoạn cơ bản, đó là: Chuẩn bị đầu tư, thực hiện đầu tư và vận hành kết quả đầu tư. Trong đó thời kì đầu tư được tính từ khi khởi công tới khi dự án hoàn thành và đưa vào họat động. Thời kì đầu tư càng kéo dài thì rủi ro càng lớn vì: Nó đòi hỏi thời gian quản lý dự án lâu đi kèm với các nguy cơ tiềm ẩn xảy ra trong quá trình xây dựng như: an toàn lao động, pháp luật, khả năng tiếp tục huy động vốn, trượt giá… Thời gian vận hành kết quả đầu tư kéo dài Thời gian vận hành kết quả đầu tư tính từ khi đưa công trình vào hoạt động cho tới khi hết thời hạn sử dụng và loại bỏ công trình. Trong suốt quá trình vận hành, các thành quả đầu tư chịu nhiều tác động tiêu cực: do hỏng hóc, trục trặc hay do chất lượng phẩm cấp sản phẩm không còn đáp ứng với đòi hỏi của thị trường ở hiện tại. Do đó, trong quá trình vận hành kết quả đầu tư vẫn phải tiếp tục tiến hành điều chỉnh các giải pháp kĩ thuật, tài chính cho phù hợp với những thay đổi ở hiện tại (bất kì dự án nào cũng đòi hỏi có những điều chỉnh như vậy). Các thành quả của hoạt động đầu tư phát triển thường phát huy tác dụng ở ngay nơi nó được thực hiện, do đó, quá trình thực hiện đầu tư cũng như thời kì vận hành các kết quả đầu tư chịu ảnh hưởng lớn của các nhân tố về tự nhiên, kinh tế xã hội vùng. Chính vì thế công tác quản lý họat động đầu tư phảt triển cần phải quán triệt đặc điểm này trên một số nội dung: Thứ nhất, có chủ trương đầu tư đúng hướng (đầu tư sản xuất cái gì?, công suất bao nhiêu?…) Thứ hai, lựa chọn địa điểm đầu tư hợp lý (phải dựa trên các chỉ tiêu về pháp luật, chủ trương chính sách, điều kiện tự nhiên kinh tế xã hội vùng). Đầu tư phát triển có độ rủi ro cao. Đầu tư phảt triển thường có quy mô vốn đầu tư lớn, thời kì đầu tư , thời gian vận hành các kết qủa đàu tư kéo dài…nên đầu tư phát triển có mức độ rủi ro cao. Rủi ro trong đầu tư phát triển có nhiều nguyên nhân, trong đó nguyên nhân chủ quan do: nhà đầu tư quản lý kém, chủ trương đầu tư sai lầm… nguyên nhân khách quan do: giá nguyên liệu tăng, bất ổn của thị trường đầu vào đầu ra… Lý luận về cơ cấu kinh tế và chuyên dịch cơ cấu ngành kinh tế: Khái niệm chuyển dịch cơ cấu kinh tế: Cơ cấu kinh tế: Theo từ điển Triết học (NXB Tiến Bộ Matxcơva 1975), cơ cấu là một khá niệm mà triết học duy vật biện chứng dùng để chỉ cách thức tổ chức bên trong của một hệ thống, biểu hiện sự thống nhất của các mối quan hệ qua lại vững chắc giữa các bộ phận của nó. Nó chỉ rõ mối quan hệ biện chứng giữa bộ phận và toàn thể, nó biểu hiện ra như một thuộc tính của sự vật hiện tượng và biến đổi cùng với sự biến đổi của sự vật hiện tượng. Với nền kinh tế quốc dân, khi xem nó là một hệ thống phức tạp thì có rất nhiều các bộ phận và các kiểu cơ cấu hợp thành chúng, tùy theo cách mà ta tiếp cận chúng tùy theo cách tiếp cận khi nghiên cứu hệ thống ấy. Sự vận động và phát triển của nền kinh tế theo thời gian bao hàm trong đó sự thay đổi bản than các bộ phận cũng như sự thay đổi các kiểu cơ cấu. Như vậy, cơ cấu của nền kinh tế quốc dân là tổng thể những mối quan hệ về chất lượng và số lượng giữa các bộ phận cấu thành trong một thời gian và trong điều kiện kinh tế xã hội. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế Chuyển dịch cơ cấu kinh tế là quá trình chuyển nền kinh tế chủ yếu dựa trên sản xuất nông nghiệp với trình độ kỹ thuật sản xuất thô sơ lạc hậu sang nền kinh tế cơ bản dựa trên nền tảng công nghiệp có kỹ thuật sản xuất hiện đại. Xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế được coi là hợp lý, tiến bộ khi tỷ trọng khu vực công nghiệp - dịch vụ và khu vực dịch vụ ngày càng tăng trong khi khu vực nông nghiệp khai khóang ngày càng giảm. Cơ cấu kinh tế hợp lý trong một nền kinh tế thị trường hiện đại đòi hỏi công-nông nghiệp- dịch vụ phát triển mạnh mẽ hợp lý và đồng bộ. Vấn đề quan trọng là tạo ra một cơ cấu kinh tế hợp lý. Một cơ cấu kinh tế được coi là hợp lý khi nó đáp ứng được các yêu cầu sau: Nông nghiệp phải giảm dần về tỷ trọng; công nghiệp, xây dựng dịch vụ phải tăng dần về tỷ trọng. Trình độ kĩ thuật của nền kinh tế không ngừng tiến bộ phù hợp với xu hướng của sự tiến bộ khoa học và công nghệ đã và đang diễn ra như vũ bão trên thế giới. Cho phép khai thác tối đa mọi tiềm năng của đất nước, của các ngành, các địa phương và các thành phần kinh tế. Thực hiện sự phân công và hợp tác quốc tế theo xu thế toàn cầu hóa kinh tế, do vậy cơ cấu kinh tế được tạo dựng phải là “cơ cấu mở”. Phân loại cơ cấu kinh tế Ta có thể phân loại cơ cấu kinh tế theo: Cơ cấu quan hệ sản xuất. Cơ cấu tái sản xuất xã hội. Cơ cấu tổ chức quản lý nền kinh tế quốc dân. Cơ cấu vùng lãnh thổ. Cơ cấu thành phần kinh tế. Cơ cấu ngành kinh tế. (Trong đó: ngành cấp I: Nông nghiệp- Công nghiệp- Dịch vụ, ngành cấp II: các phân ngành ví dụ: ngành chăn nuôi, trồng trọt trong nông nghiệp…, ngành cấp III: lúa, màu…trong trồng trọt). Trong đó, cơ cấu ngành kinh tế là quan trọng nhất, quyết định hình thức các cơ cấu kinh tế khác. Tại sao phải chuyển dịch cơ cấu kinh tế? Cơ cấu kinh tế hợp lý là điều kiện để nền kinh tế tăng trưởng phát triển. Cơ cấu kinh tế không ngừng vận động biến đổi do sự vận động biến đổi của lực lượng sản xuất. Xây dựng cơ cấu kinh tế cần thiết là yêu cầu khách quan của mỗi nước trong thời kì công nghiệp hóa. Phải chuyển dịch cơ cấu kinh tế vì một số lý do sau: Thứ nhất, sự thay đổi cơ cấu kinh tế phản ánh trình độ phát triển của sức sản xuất xã hội. Thứ hai, sự thay đổi cơ cấu kinh tế phản ánh sự thay đổi của phương thức sản xuất. Thứ ba, cơ cấu kinh tế phản ánh bất bình đẳng. VD: trên 70% dân số Việt Nam sống ở nông thôn nhưng giá trị của ngành nông nghiệp chỉ chiếm khoảng 20% GDP. Những chỉ tiêu phản ánh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế 4.1. Cơ cấu tính theo GDP Đây là chỉ tiêu hay được nhắc đến để đối chiếu xem xét qua từng thời kì và Bằng chỉ tiêu tính theo GDP, chỉ tiêu này phản ảnh tỷ trọng đóng góp của từng ngành vào giá tổng sản phẩm quốc nội, nó phản ánh tương quan giữa các ngành kinh tế với nhau. Một quốc gia phát triển sẽ có tỷ trọng các ngành công nghiệp chiếm khoảng 34%, dịch vụ khoảng 64% và nông nghiệp chỉ khoảng 2 %. Trong khi đó các quốc gia đang phát triển có tỷ trọng của công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ lần lượt là 13%, 37% và 50%. Sở dĩ các nước đang phát triển thường sử dụng chỉ tiêu cơ cấu kinh tế tính theo GDP chứ không phải GNP vì cơ cấu kinh tế theo GDP phản ánh rõ hơn về môi trường kinh doanh và đặc biệt là nó cùng với cơ cấu tính theo lao động sẽ phản ánh mức độ phát triển tiến bộ của năng lực sản xuất của quốc gia đó theo từng thời kì. (Do có thể so sánh trực tiếp bao nhiêu người tham gia vào ngành và ngành này có giá trị là bao nhiêu…) 4.2. Cơ cấu lao động đang làm việc trong nền kinh tế Chỉ tiêu này phản ánh mức độ chuyển biến về lao động trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Đây là chỉ tiêu hết sức quan trọng, nó trực tiếp phản ánh sự chuyển biến của lực lượng lao động- tức là con người trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Đối chiếu với chỉ tiêu chuyển dịch cơ cấu kinh tế tính theo GDP, chỉ tiêu này cho ta thấy được thành quả của chuyển dịch cơ cấu kinh tế tới xã hội và quá trình phân phối ra sao. Chẳng hạn một quốc gia có cơ cấu tính theo GDP là Công nghiệp 40%, nông nghiệp 25%, dịch vụ 35% nhưng tỷ trọng lao động trong nông nghiệp của quốc gia đó lại chiếm tới 75% thì ta không thể coi đây là một cơ cấu kinh tế hợp lý và bao hàm công bằng xã hội. 4.3. Cơ cấu kinh tế theo vùng miền Cơ cấu kinh tế theo vùng miền phản ánh quy mô kinh tế của từng địa phương trong tổng giá trị sản lượng quốc gia. Nó cho ta biết sự khác biệt về trình độ phát triển kinh tế của từng địa phương để từ đó có các chính sách phân bổ nguồn lực, chính sách khuyến khích ưu đãi với các vùng kinh tế khó khăn khắc phục tình trạng chênh lệch giữa các vùng miền. 4.4. Cơ cấu hàng xuất khẩu Cơ cấu hàng xuất khẩu phản ánh các nhóm hàng mà nước đó sản xuất ra để bán trên thị trường thế giới, nó cho ta thấy năng lực trình độ sức sản xuất của quốc gia đó, vị thế và năng lực cạnh tranh của quốc gia đó trên thị trường thế giới. Một nước phát triển sẽ xuất khẩu chủ yếu là các mặt hàng có hàm lượng khoa học công nghệ cao (điện tử, vi điện tử, dược phẩm, ô tô, phần mềm máy tính…); trái lại các nước đang phát triển chỉ có khả năng sản xuất và xuất khẩu các mặt hàng sử dụng nhiều lao động và tài nguyên (da giày, khoáng sản, nông sản chưa qua chế biến…). Các nhân tố ảnh hưởng tới quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế Trong quá trình phát triển kinh tế của một đất nước các chủ thể kinh tế luôn hành động theo hiệu quả kinh tế thiết thực. Ở một chừng mực nhất định quy hoạch phát triển của Nhà nước có tác động đến cơ cấu đầu tư, nhưng kết quả cuối cùng lại được thể hiện bằng cơ cấu trên các phương diện của nó. Cơ cấu kinh tế luôn thay đổi theo chiều hướng hợp lý hơn, sự thay đổi đó chính là sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Nhìn chung chuyển dịch cơ cấu kinh tế của một nước thường phụ thuộc vào một số nhân tố bên trong và bên ngoài. 5.1. Ở trong nước: - Các lợi thế về tự nhiên của đất nước cho phép có thể phát triển ngành sản xuất nào một cách thuận lợi; quy mô dân số của quốc gia; trình độ nguồn nhân lực; những điều kiện kinh tế, văn hóa của đất nước. - Ngoài ra, nhu cầu của từng xã hội, thị trường ở mỗi giai đoạn lại là cơ sở để sản xuất phát triển đáp ứng nhu cầu không chỉ về số lượng mà cả chất lượng hàng hóa, từ đó dẫn đến những thay đổi về vị trí, tỷ trọng của các ngành nghề trong nền kinh tế. - Mục tiêu, chiến lược, quy hoạch phát triển kinh tế của từng quốc gia có tác động quan trọng đến sự chuyển dịch của cơ cấu kinh tế vì mặc dù cơ cấu kinh tế mang tính khách quan, tính lịch sử xã hội nhưng lại chịu tác động, chi phối rất lớn bởi mục tiêu của Nhà nước. Nhà nước có thể tác động gián tiếp lên tỷ lệ của cơ cấu ngành kinh tế bằng các định hướng phát triển, đầu tư, những chính sách khuyến khích hay hạn chế phát triển các ngành nghề nhằm bảo đảm sự cân đối của nền kinh tế theo mục đích đề ra trong từng giai đoạn nhất định. - Cuối cùng, trình độ phát triển của lực lượng sản xuất trong nước cho phép sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế nhanh hay chậm, hiệu quả đến mức nào... 5.2. Ở bên ngoài Bên cạnh những nhân tố tác động từ bên trong, những nhân tố tác động từ bên ngoài đến sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế gồm có: - Xu hướng chính trị, kinh tế, xã hội của khu vực và thế giới. Sự biến động của chính trị, kinh tế, xã hội của một nước, hay một số nước, nhất là các nước lớn sẽ tác động mạnh mẽ đến dòng hàng hóa trao đổi, từ đó ảnh hưởng đến nguồn thu hút vốn đầu tư, chuyển giao công nghệ... buộc các quốc gia phải điều chỉnh chiến lược phát triển kinh tế, cơ cấu kinh tế của mình nhằm bảo đảm lợi ích quốc gia và sự phát triển trong động thái chung của thị trường thế giới. - Xu thế toàn cầu hóa kinh tế quốc tế hiện nay có tác động rất mạnh mẽ đến sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế của từng nước, vì chính sự phân công lao động diễn ra trên phạm vi quốc tế ngày càng sâu sắc và cơ hội thị trường rộng lớn được mở ra trong quá trình toàn cầu hóa kinh tế quốc tế, cho phép các nước có khả năng khai thác những thế mạnh của nhau để trao đổi các nguồn lực, vốn, kỹ thuật, hàng hóa và dịch vụ một cách hiệu quả... Quá trình đó vừa bắt buộc, vừa tạo điều kiện thuận lợi cho các nước thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế phù hợp với sự phân công lao động trên quy mô toàn thế giới. - Những thành tựu của cách mạng khoa học, kỹ thuật, đặc biệt sự bùng nổ của công nghệ thông tin tạo nên những bước nhảy vọt trong mọi lĩnh vực sản xuất góp phần đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế của các nước vì thông tin nhanh chóng làm cho sản xuất, kinh doanh được điều chỉnh nhanh nhạy, hợp lý hơn, dẫn đến cơ cấu sản xuất. Mối quan hệ giữa đầu tư và chuyển dịch cơ cấu kinh tế Các lý thuyết kinh tế học nghiên cứu sự tác động của đầu tư tới quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế Mô hình Harrod - Domar Mô hình do hai nhà kinh tế Roy Harrod của Anh và Evsey Domar của Mỹ đưa ra vào những thập niên 40 của thế kỷ 20 và được sử dụng rộng rãi cho đến ngay nay) đưa ra mối quan hệ hàm số giữa vốn (ký hiệu K) và tăng trưởng sản lượng (ký hiệu là Y). Mô hình này cho rằng sản lượng của bất kỳ một thực thể kinh tế nào - cho dù là một doanh nghiệp, một ngành hay toàn bộ nền kinh tế - đều phụ thuộc vào số lượng vốn đã đầu tư đối với thực thể kinh tế đó và được biểu diễn dưới dạng hàm: Y = K/k (5) Với k là hằng số, được gọi là hệ số vốn - sản lượng (Capital - output ratio) (Gillis at al,1992, trang 43), quan hệ trên chuyển sang dạng tốc độ tăng hoặc vi phân ta có: Y(t)/Y(t0) = K(t)/Y(t0).1/k (6) => k = K(t)/Y(t0)/ Y(t)/Y(t0) (7) ở đây: t là năm tính toán t0 là năm trước năm tính toán Người ta coi Y(t)/Y(t0) chính là tốc độ tăng GDP; K(t)/Y(t0) là tỷ lệ đầu tư của năm tính toán trên GDP của năm trước đó. Điều này có nghĩa để đạt được tốc độ tăng trưởng nào đó thì nền kinh tế phải đầu tư theo một tỷ lệ nhất định nào đó từ GDP; khi chuyển sang dạng tốc độ hệ số k gọi là hệ số ICOR (incremental capital - output ratio): ICOR=vốn đầu tư/GDP do vốn tạo ra=vốn đầu tư/∆GDP Từ đó suy ra: Mức tăng GDP=vốn đầu tư/ICOR hệ số ICOR cho biết để tăng thêm một đồng GDP thì cần tăng thêm bao nhiêu đồng vốn đầu tư. Nếu Icor không đổi,mức tăng GDP hoàn toàn phụ thuộc vào vốn đầu tư. Theo kinh nghiệm của các nhà kinh tế, muốn giữ tốc độ tăng trưởng ở mức trung bình thì tỷ lệ đầu tư phải đạt được từ 15-20% so với GDP tùy thuộc vào ICOR mỗi nựớc. Ở các nước phát triển, ICOR thường lớn,từ 5-7 do thừa vốn,thiếu lao động, vốn được sử dụng nhiều để thay thế cho lao động, do sử dụng công nghệ hiện đại có giá cao.Còn ở các nước chậm phát triển, ICOR thấp từ 2-3 do thiếu vốn, thừa lao động nên có thể và cần phải sử dụng lao động để thay thế cho vốn sử dụng công nghệ kém hiện đại,giá rẻ. Chỉ tiêu ICOR cuả mỗi nước phụ thuộc vào nhiều nhân tố, thay đổi theo trình độ phát triển kinh tế và cơ chế chính sách trong nước. Đối với các nước đang phát triển về bản chất được coi là vấn đề đảm bảo các nguồn vốn đầu tư đủ để đạt một tỷ lệ tăng thêm sản phẩm quốc dân dự kiến.Thực vậy, ở nhiều nước, đầu tư đóng vai trò như một “cái hích ban đầu”, tạo đà cho sự cất cánh của nền kinh tế (các nước NICS, các nước Đông Nam Á) - Số liệu ICOR Việt Nam 1998-2006 Năm 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2005 2006 ICOR 4.7 5.5 4.2 5.6 3.3 5 5 4.37 g % 5.8 4.7 6.79 6.89 7.04 7.24 8.5 8.2 Kinh nghiệm các nước cho thấy, chỉ tiêu ICOR phụ thuộc mạnh vào cơ cấu kinh tế và hiệu quả đầu tư trong các ngành, các vùng lãnh thổ cũng như phụ thuộc vào hiệu quả của chính sách kinh tế nói chung.Thông thường ICOR trong nông nghiệp thấp hơn trong công nghiệp. Các nhà kinh tế đều thừa nhận đầu tư là một trong những nhân tố quan trọng nhất đối với tăng trưởng kinh tế, muốn có tăng trưởng phải có đầu tư. Tuy nhiên cơ cấu đầu tư (đầu tư vào đâu) là một vấn đề gây nhiều tranh cãi. Các nhà kinh tế đều đồng ý với nhau rằng cần có một cơ cấu đầu tư hợp lý, để tạo ra cơ cấu kinh tế hợp lý. Thuật ngữ “hợp lý” ở đây được hiểu là cơ cấu đầu tư và cơ cấu kinh tế như thế nào để đảm bảo được tốc độ phát triển nhanh và bền vững. Mặc dù đồng ý với nhau như vậy nhưng các nhà kinh tế có quan điểm rất khác nhau về cách thức tạo ra một cơ cấu đầu tư “hợp lý”. Có một số quan điểm chủ yếu sau đây: Quan điểm về tăng trưởng cân đối Theo Rosenstain – Rodan, khái niệm tăng trưởng cân đối được đưa ra nhằm mô tả sự tăng trưởng cân đối giữa các ngành trong nền kinh tế. Ông đề nghị đầu tư nên hướng một lúc vào nhiều ngành để tăng cung cũng như kích thích cầu cho nhiều sản phẩm. Sự phát triển trong công nghiệp chế biến đòi hỏi một lượng đầu tư trong một thời gian dài; từ đó phát sinh sự phát triển song song cả hàng hoá phục vụ sản xuất cũng như phục vụ tiêu dùng. Ý tưởng về cú huých lập luận rằng gia tăng mạnh mẽ về đầu tư sẽ dẫn đến mức tiết kiệm tăng lên do gia tăng trong thu nhập. Theo Rosenstain – Rodan, mục đích của viện trợ nước ngoài cho các nước kém phát triển là đẩy nhanh quá trình phát triển kinh tế tới một điểm mà ở đó tốc độ tăng trưởng kinh tế mong muốn có thể đạt được trên nền tảng tự duy trì, không phụ thuộc vào nguồn tài trợ bên ngoài. Theo Nurske: ông ủng hộ sự phát triển cân đối, sản xuất hàng loạt nhiều loại sản phẩm để gia tăng cầu, lúc đó sẽ khai thác được “lợi thế về qui mô”, như vậy hiệu quả đầu tư mới cao và đẩy nhanh tốc độ phát triển. Tăng trưởng không cân đối Hirschman (1958) đưa ra một mô hình mang tính trái ngược. Ông cho rằng sự mất cân đối giữa cung và cầu tạo ra động lực cho nhiều dự án mới. Theo cách tiếp cận này vốn đầu tư cần được nhà nước phân phối cho những ngành công nghiệp trọng điểm, nhằm tạo ra cơ hội ở những ngành khác trong nền kinh tế; khái niệm về “liên hệ ngược” và “liên hệ xuôi” cũng ra đời từ ông này. Hai khái niệm này được tính toán từ mô hình I/O. Ông cho rằng sự mất cân đối này sẽ tạo ra sự phát triển. Trong điều kiện nền kinh tế Việt Nam là một nền kinh tế chuyển đổi, nhiều định chế của cơ chế thị trường chưa hoàn chỉnh, nên các điều kiện của thị trường cạnh tranh hoàn hảo rõ ràng là chưa đáp ứng được. Mặt khác, nền kinh tế của ta đang ở mức phát triển thấp, chịu ảnh hưởng của một thời gian dài trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung... Tất cả những đặc tính đó cho thấy Nhà nước cần đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy sự phát triển kinh tế, không thể để thị trường tự thân vận động. Mô hình hai ._.khu vực của Arthurs Lewis Vào khoảng giữa thập niên 50 của thế kỉ 20, nhà kinh tế học người Mỹ gốc Jamaica A. Lewis trong tác phẩm “Lý thuyết về phát triển kinh tế ” đã đưa ra các giải thích về mối quan hệ giữa nông nghiệp trong quá trình tăng trưởng, gọi là mô hình hai khu vực cổ điển. Đặc trưng chủ yếu của mô hình này là phân chia nền kinh tế thành hai khu vực nông nghiệp và công nghiệp, sau đó nghiên cứu quá trình di chuyển lao động giữa hai khu vực đó. Khu vực nông nghiệp (có lợi nhuận biên bằng 0) có dư thừa lao động và lao động dư thừa này sẽ dần dần chuyển sang khu vực công nghiệp. Sự phát triển của khu vực công nghiệp quyết định quá trình tăng trưởng của nền kinh tế, phụ thuộc vào khả năng thu hút lao động dư thừa do khu vực nông nghiệp tạo nên và khả năng đó lại phụ thuộc vào tốc độ tích lũy vốn của khu vực công nghiệp. Do đó theo A.Lewis, để nền kinh tế tăng trưởng phải phát triển công nghiệp- tiến hành quá trình công nghiệp hóa, đầu tư cho công nghiệp để giải quyết tình trạng công ăn việc làm do hiệu quả của ngành nông nghiệp trên một lao động ngày càng đạt tới mức bằng 0 (do sự hạn chế về diện tích canh tác, độ phì nhiêu của đất…) Mô hình hai khu vực của Harry T. Oshima Harry T. Oshima là nhà kinh tế người Nhật Bản ông nghiên cứu mối quan hệ giữa hai khu vực dựa trên những đặc điểm khác biệt của các nước châu Á so với các nước Âu-Mỹ đó là một nền nông nghiệp lúa nước có thời vụ cao, vào thời gian cao điểm vẫn có hiện tượng thiếu lao động và hiện tượng thừa lao động xảy ra trong mùa nhàn rỗi. Trong mô hình của Oshima sự phát triển được bắt đầu bằng việc vẫn giữ lao động trong nông nghiệp nhưng cần đầu tư để tạo thêm việc làm (xen canh tăng vụ, trồng thêm rau quả, chăn nuôi gia súc gia cầm…) trong thời kì nhàn rỗi . Tiếp đó sẽ sẻ dụng lao động nhàn rỗi vào các ngành công nghiệp sử dụng nhiều lao động tạo việc làm trong những tháng nhàn rỗi sẽ nâng cao mức thu nhập của nông dân mở rộng thị trường trong nước cho các ngành công nghiệp dịch vụ. Khi đã tạo được việc làm đầy đủ thì thực hiện đầu tư phát triển các ngành kinh tế theo chiều sâu nhằm giảm cầu lao động. Vì thế có thể nói đầu tư là một con bài quan trọng nhất mà nhà nước sử dụng để tác động làm tăng trưởng kinh tế, điều tiết nền kinh tế theo đúng định hướng phát triển. Lý luận tác động của đầu tư tới chuyển dịch cơ cấu kinh tế Cơ cấu đầu tư là cơ cấu các yếu tố cấu thành đầu tư như cơ cấu về vốn, nguồn vốn,cơ cấu huy động và sử dụng vốn…quan hệ hữu cơ, tương tác qua lại giữa các bộ phận trong không gian, vận động theo hướng hình thành một cơ cấu đầu tư hợp lý và tạo ra những tiềm lực lớn hơn về mọi mặt kinh tế -xã hội. Cơ cấu đầu tư luôn thay đổi trong từng giai đoạn phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế, có nhân tố thuộc nội tại nền kinh tế, có nhân tố tác động từ bên ngoài, có nhân tố tích cực thúc đẩy phát triển, song cũng có nhân tố kìm hãm sự phát triển.Các nhân tố trong nội bộ nền kinh tế bao gồm: Nhân tố thị trường và nhu cầu tiêu dùng của xã hội; trình độ phát triển của lực lượng sản xuất;quan điểm chiến lược,mục tiêu phát triển kinh tế-xã hội của đất nước trong mỗi giai đoạn nhất định; cơ chế quản lý có thể ảnh hưởng đến việc hình thành cơ cấu đầu tư… Nhóm nhân tố tác động từ bên ngoài như xu thế chính trị, xã hội, kinh tế của khu vực và thế giới. Trong xu thế quốc tế hoá lực lượng sản xuất và thời đại bùng nổ thông tin, tìm hiểu thị trường và xác định chiến lược cơ cấu đầu tư hợp lý để nâng cao năng lực cạnh tranh nhằm chủ động hội nhập. Sau thay đổi của cơ cấu đầu tư từ mức độ này sang mức độ khác, phù hợp với môi trường và mục tiêu phát triển gọi là chuyển dịch cơ cấu đầu tư.Sự thay đổi không chỉ bao gồm thay đổi về vị trí ưu tiên mà còn là sự thay đổi về chất trong nội bộ cơ cấu và các chính sách áp dụng.Về thực chất chuyển dịch cơ cấu đầu tư là sự điều chỉnh cơ cấu vốn, nguồn vốn đầu tư, điều chỉnh cơ cấu huy động và sử dụng các loại vốn và nguồn vốn … phù hợp với mục tiêu đã xác định của toàn bộ nền kinh tế, ngành, địa phương và các cơ sở trong từng thời kì phát triển . Chuyển dịch cơ cấu đầu tư có ảnh hưởng quan trọng đến đổi mới cơ cấu kinh tế. Định hướng đầu tư để đổi mới cơ cấu kinh tế trên cơ sở sự tác động của yếu tố đầu tư và có tính đến những nhân tố ảnh hưởng khác. Mặt khác, sự thay đổi và phát triển của các bộ phận nền kinh tế sẽ quyết định sự thay đổi cơ cấu đầu tư của hiện tại.Kết quả của đầu tư đổi mới cơ cấu kinh tế là sư thay đổi số lượng cũng như chất lượng của các ngành trong nền kinh tế quốc dân theo hướng xuất hiện nhiều ngành mới, giảm tỷ trọng những ngành không phù hợp với, tăng tỷ trọng những ngành lợi thế, là sự thay đổi mối quan hệ giữa các bộ phận của một ngành, của nền kinh tế theo xu hướng ngày càng hợp lý hơn, sử dụng các nguồn ngày càng hiệu qủa hơn, là việc nâng cao hiệu quả kinh tế xã hội cho từng bộ phận cũng như toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Quá trình chuyển dịch cơ cấu đầu tư của một quốc gia, của một ngành, một địa phương hay cơ sở thông qua kế hoạch đầu tư là nhằm hướng tới việc xây dựng một cơ cấu đầu tư hợp lý. Cơ cấu đầu tư hợp lý là cơ cấu đầu tư phù hợp với quy luật khách quan, các điều kiện kinh tế-xã hội của từng cơ sở, ngành, vùng và toàn thể nền kinh tế, có tác động tích cực đến đổi mới cơ cấu kinh tế theo hướng ngày càng hợp lý hơn, khai thác và sử dụng hợp lý các nguồn lực trong nước, đáp ứng yêu cầu hội nhập, phù hợp với xu thế kinh tế, chính trị của thế giới và khu vực. Khi tăng cường đầu tư, phân bổ vào một ngành,một lĩnh vực nào cho ngành, lĩnh vực đó gia tăng sản lượng và từ đó làm thay đổi mối tương quan giữa các ngành Những ngành, những lĩnh vực phát triển nhanh sẽ thu hút nhiều lao động vào ngành, lĩnh vực đó, tạo ra sự chuyển dịch giữa các ngành, các lĩnh vực. Đầu tư có tác động đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế thông qua những chính sách tác động đến cơ cấu đầu tư.Trong điều hành chính sách đầu tư, nhà nước có thể can thiệp trực tiếp như thực hiện chính sách phân bổ vốn, kế hoạch hóa, xây dưng cơ chế quản lý đầu tư hoặc điều tiết gián tiếp qua các công cụ chính sách như thuế, tín dụng, lãi suất để xác lập và định hướng một cơ cấu đầu tư dẫn dắt sự dịch chuyển cơ cấu kinh tế ngày càng hợp lý hơn. Kinh nghiệm nhiều nước cho thấy nếu có chính sách đầu tư hợp lý sẽ tạo đà cho tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Mặt khác, chuyển dịch cơ cấu kinh tế là việc chuyển từ những ngành sản xuất năng suất thấp sang những ngành có năng suất cao. Khi đó tất yếu có các đòi hỏi: + Về tài chính. + Về quản lý. + Về phân tích kinh tế kĩ thuật v.v… Do vậy, sự tham gia của lĩnh vực đầu tư trong quá trình này là tất yếu. Các nguồn vốn đầu tư dành cho quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế Tại Việt Nam các nguồn vốn dành cho quá trình chuyển dịch kinh tế được phân loại thành: Nguồn vốn đầu tư trong nước Nguồn vốn này hình thành từ 2 nguồn chính là: vốn đầu tư của nhà nước và vốn đầu tư của khu vực dân doanh. Trong đó, nguồn vốn đầu tư của nhà nước xuất phát từ 3 nguồn khác nhau đó là: Nguồn vốn trích từ ngân sách nhà nước. Nguồn vốn tín dụng nhà nước. Nguồn vốn đầu tư từ hệ thống doanh nghiệp nhà nước. Nguồn vốn đầu tư nước ngoài Có 2 dạng cơ bản đó là: Thứ nhất là nguồn ODF (Official development finance – Tài trợ phát triển chính thức) trong đó chủ yếu là nguồn hỗ trợ phát triển chính thức ODA (Official development assistance), ODA là nguồn vốn các nước giàu dành cho các nước nghèo (thu nhập bình quân đầu người thường dưới 1000USD/người/năm) vay với lãi suất rất thấp (khoảng 1%) để phát triển kinh tế xã hội. Nguồn vốn này có ưu điểm: lãi suất thấp, thời gian vay dài nó có một số nhược điểm: nước giàu cho vay thường đòi hỏi các điều kiện về chính trị, luật pháp đối với nước nghèo, chất lượng công trình hình thành từ nguồn vốn này có chất lượng thấp nên hiệu quả của các dự án thường không cao… Thứ hai là nguồn đầu tư tư nhân nước ngoài. Nó có hai dạng chính là đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI (Foreign Direct Investment) và đầu tư gián tiếp từ nước ngoài FII (Foreign Indirect Investment) Bài học và thành quả ở một số quốc gia trong quá trình đầu tư chuyển dịch cơ cấu kinh tế Kinh nghiệm của Trung Quốc Công cuộc cải cách kinh tế của Trung Quốc được thực hiện từ năm 1978 thông qua việc chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa sang nền kinh tế thị trường; quốc tế hóa nền kinh tế quốc dân, thiết lập cơ chế thị trường, nâng cao vai trò của khu vực tư nhân... với "đường lối phát triển phi cân đối một cách có trọng tâm, trọng điểm" đã đưa lại những thành tựu hết sức ngoạn mục. Trong cải cách cơ cấu kinh tế, Trung Quốc rất coi trọng việc giải quyết thỏa đáng vấn đề động lực tăng trưởng kinh tế, bao gồm tích lũy tư bản vật chất, tiến bộ khoa học - công nghệ, thay đổi thể chế và tích lũy tư bản nhân lực. Tuy vậy, quá trình cải cách cơ cấu kinh tế của Trung Quốc đang đứng trước nhiều thách thức đối với sự phát triển bền vững, trong đó có nguy cơ cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên, nạn ô nhiễm môi trường. Theo ước tính, thiệt hại do thiên tai gây ra chiếm khoảng 3 - 6% GDP hàng năm; hiệu quả sử dụng các nguồn tài nguyên thiên nhiên chỉ khoảng 34,5% (so với các nước tiên tiến thấp hơn 10%); tiêu hao năng lượng của các sản phẩm như gang, thép, lọc dầu, xút, giấy, thủy tinh, điện... cao 1,2 - 2,7 lần so với các nước tiên tiến, mức độ tiêu hao năng lượng luôn cao hơn mức độ tăng GDP, nền kinh tế quá phụ thuộc vào các nguồn năng lượng. Kết cấu năng lượng lấy than làm chính, nếu không thay đổi phương thức thì đến năm 2010, nhu cầu về than của Trung Quốc sẽ chiếm 1/2 tổng sản lượng của thế giới, lúc đó mức độ ô nhiễm môi trường thực sự khủng khiếp. Mặt khác, sự chuyển đổi cơ cấu sản phẩm trên thế giới, tốc độ đô thị hóa nhanh đang là những thách thức cực lớn đối với sự phát triển bền vững của Trung Quốc. Trong 7 hệ thống sông lớn của cả nước, 3 lưu vực sông Hoàng Hà, Tùng Hoa và Liễu Hà ô nhiễm nghiêm trọng. Trong 4 vùng biển lớn, Bột Hải và Đông Hải ô nhiễm tương đối nặng. 2/3 sông ngòi và hơn 10 triệu ha ruộng đồng cũng đang bị ô nhiễm. Dân số đông, chất lượng dân số còn hạn chế cũng tạo ra mối nguy cơ về lương thực đối với Trung Quốc. 4.2. Kinh nghiệm của Hàn Quốc Rút kinh nghiệm từ Nhật Bản, Hàn Quốc cũng đã kết hợp các yếu tố chính trị, tài chính, kỹ thuật, tổ chức để lập ra các tổng công ty lớn (chaebols) làm xương sống hay đầu máy cho công cuộc phát triển kinh tế suốt mấy thập niên sau chiến tranh. Tuy vậy, chiến lược phát triển quá chú trọng đến thị trường xuất khẩu, rập khuôn theo quy trình sản xuất của các nước phát triển để dồn sức vào ngành chế biến công nghiệp với lực lượng lao động dồi dào, lương rẻ; kết hợp ba yếu tố chủ động là nhà nước, doanh nghiệp và ngân hàng để thực hiện đường lối phát triển hướng ngoại. Hệ quả là, Hàn Quốc có một nền công nghiệp "ngoài da", quá lệ thuộc vào đầu tư quốc tế và thị trường xuất khẩu; trong khi các cơ sở bản xứ sản xuất cho thị trường nội địa lại bị lãng quên, có khi bị chèn ép. Chính những nguyên nhân trên cùng với sự yếu kém của các hệ thống tài chính, doanh nghiệp và những bất cập trong điều hành của nhà nước đã dẫn tới cuộc khủng hoảng tài chính năm 1997 ở Hàn Quốc và các nước Đông Nam Á. Sau cuộc khủng hoảng tài chính năm 1997, Hàn Quốc đã tiến hành các chính sách cải cách cơ cấu trong lĩnh vực tài chính, doanh nghiệp và hệ thống các cơ quan của chính phủ. Trong cải cách cơ cấu kinh tế, Hàn Quốc đã chú trọng thực hiện các biện pháp sau: trợ cấp cho các doanh nghiệp bị thiệt hại, đồng thời cải tổ và nâng cao tính tự chủ của doanh nghiệp, kể cả các chaebols (thông qua việc thay đổi cơ cấu sở hữu); ban hành các quy định mới về quản lý tài chính như Luật Phá sản mới, Luật Quản lý doanh nghiệp (năm 1998) và tăng cường cưỡng chế tuân thủ; nhận trợ giúp của Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF); thiết lập các cơ chế kiểm soát bên trong và bên ngoài, trong đó chú trọng xây dựng thể chế, xây dựng hệ thống giám sát các yếu tố bên ngoài, các thủ tục minh bạch hóa. 4.3. Kinh nghiệm của một số nước đang phát triển khác Các chương trình điều chỉnh cơ cấu ở một số nước đang phát triển như Côte d'Ivoire, Mêxico, Thái Lan... trong những năm của thập kỷ 1980 đã không làm chuyển biến các quốc gia này theo hướng bền vững hơn, mà trái lại đã làm cho tình hình ngày càng tồi tệ hơn. Chủ yếu vì hai lý do: quy mô sản xuất tuy được mở rộng nhưng đã gây ra những hậu quả nghiêm trọng đối với xã hội và môi trường; cải cách cơ cấu kinh tế đã không tính toán đầy đủ các yếu tố về xã hội và môi trường. Hiện nay, ở nhiều nước đang phát triển, các phương án phát triển được đề xuất cả ở tầm vĩ mô (cả nước), tầm trung mô (ngành, địa phương) và vi mô (doanh nghiệp) đều có nét chung nổi bật là tốc độ tăng trưởng cao của sản xuất công nghiệp, dịch vụ so với nông nghiệp. Sự tăng trưởng cao như vậy của các ngành công nghiệp đã dẫn đến sự gia tăng khối lượng chất thải; làm tăng sự di cư từ nông thôn tới thành thị, làm thay đổi phương thức sinh sống của các cư dân... Gần đây, Ủy ban Kinh tế - xã hội châu Á - Thái Bình dương (UNESCAP) đề xướng "sáng kiến tăng trưởng xanh". Khái niệm này vẫn còn mới lạ đối với nhiều nước, kể cả các nước trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Về bản chất, đây là một cách diễn đạt khác và cụ thể hóa thêm khái niệm về phát triển bền vững, trong đó nhấn mạnh 3 khía cạnh: Thứ nhất, cải thiện hiệu quả sinh thái thông qua việc nâng cao hiệu quả khai thác, sử dụng tài nguyên thiên nhiên; Thứ hai, tăng cường công tác BVMT thông qua cải thiện công tác quản lý/quản trị tốt môi trường; Thứ ba, coi việc thúc đẩy BVMT chính là cơ hội cho tăng trưởng và phát triển kinh tế. Như vậy, sáng kiến trên tập trung chủ yếu vào kích thích sự tăng trưởng của các ngành công nghiệp, dịch vụ thân thiện với môi trường nhưng điều này chỉ có thể phù hợp khi các nước có trình độ phát triển khá cao. Quan điểm này không đề cập đến việc giải quyết các vấn đề xã hội. Việc triển khai thực hiện "tăng trưởng xanh" cần phải được tiếp cận từng bước và ở các mức độ khác nhau tùy thuộc vào điều kiện và hoàn cảnh của mỗi nước; cách tiếp cận này cũng khá hữu ích đối với Việt Nam, khi nước ta đang có tốc độ tăng trưởng kinh tế khá cao, giống như các nước khác trong khu vực. Khi nghiên cứu về cải cách cơ cấu kinh tế của Việt Nam, nhiều học giả cho rằng, Việt Nam có nhiều điểm khác biệt so với các nước đang phát triển khác. Trong thập kỷ 80, trong khi nhiều nước đang phát triển bắt đầu đi vào ổn định, thoát khỏi tình trạng kinh tế suy thoái và nợ nần, một số nền kinh tế trong khu vực (những con hổ châu Á) được ghi nhận có những tăng trưởng vượt bậc thì Việt Nam đã phải trải qua thời kỳ tăng trưởng chậm, thâm hụt ngân sách và kinh tế nông nghiệp vẫn là chủ yếu. Tuy vậy, kể từ năm 1986, với việc thực hiện chính sách đổi mới, nền kinh tế của Việt Nam đã được ghi nhận có những tăng trưởng đáng kể. Nhưng sự phát triển kinh tế cũng đang tạo ra rất nhiều thách thức về môi trường và xã hội. Các chính sách thị trường đã không được bổ sung hoặc lồng ghép đầy đủ với các chính sách về khai thác, sử dụng tài nguyên thiên nhiên, BVMT và phát triển xã hội. Những cải cách kinh tế và sự phụ thuộc ngày càng nhiều hơn vào yếu tố thị trường đã loại bỏ hoặc làm yếu đi sự ảnh hưởng của nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung; tạo ra khoảng trống và mức độ không chắc chắn, ảnh hưởng tiêu cực đến cơ sở tài nguyên, môi trường; chứa đựng các nguy cơ gây mất ổn định xã hội. Việc cải cách kinh tế và sự chuyển dịch sang nền kinh tế thị trường vẫn chưa tạo ra các tiền đề tốt để cải thiện các vấn đề xã hội, môi trường; các thị trường truyền thống rất kém hiệu quả trong việc định giá và phân bổ các nguồn tài nguyên thiên nhiên, các tài sản môi trường do các quyền sở hữu chưa được xác định rõ ràng, các chi phí giao dịch cao và mức độ nhận thức còn hạn chế. Từ những kinh nghiệm trên cho thấy, vấn đề hết sức nan giải không thể lẩn tránh đối với các nước đang phát triển - trong đó có Việt Nam - là làm thế nào bảo đảm sự bền vững của chuyển dịch cơ cấu kinh tế, không vì quá tập trung tăng trưởng nhanh để mất ổn định xã hội, gây ô nhiễm, suy thoái môi trường và cũng không vì quá tập trung vào duy trì ổn định xã hội, BVMT để dẫn đến tăng trưởng chậm, tụt hậu so với các nước phát triển. Chương II: Thực trạng hoạt động đầu tư và chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở Việt Nam I/ Thực trạng hoạt động đầu tư ở Việt Nam 1. Nguồn vốn trong nước. 1.1. Vốn nhà nước. Nguồn vốn ngân sách nhà nước: Nguồn vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước năm 2005 là gần 66 nghìn tỷ đồng, nếu tính cả nguồn trái phiếu Chính phủ và công trái giáo dục khoảng từ 8-10 nghìn tỷ đồng thì tổng đầu tư chiếm 32% so với tổng chi ngân sách nhà nước. Tuy nhiên, chỉ đáp ứng được trên 50-60% nhu cầu của các Bộ, ngành và địa phương. Cân đối vốn đầu tư thuộc ngân sách nhà nước năm 2005 đã theo đúng Luật Ngân sách Nhà nước quy định, ổn định trong 3 năm từ 2004-2006; trong cân đối đã bám sát mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, các dự án đầu tư phải phù hợp với quy hoạch và chấp hành đầy đủ thủ tục theo Quy chế quản lý đầu tư và xây dựng hiện hành. Vốn đầu tư ưu tiên tập trung cho những địa bàn, lĩnh vực trọng điểm để tạo động lực cho phát triển, chú ý đầu tư hợp lý cho các địa phương còn khó khăn có nguồn thu quá thấp, các tỉnh chậm phát triển. Năm 2005, Quốc hội cho phép tiếp tục bổ sung vốn đầu tư có mục tiêu từ ngân sách Trung ương cho ngân sách địa phương để thực hiện các mục tiêu như năm 2004, bao gồm: các chương trình mục tiêu quốc gia, chương trình 135, dự án trồng mới 5 triệu ha rừng và các khoản hỗ trợ có mục tiêu khác theo các quyết định của Thủ tướng Chính phủ. Nguồn vốn tín dụng nhà nước: Nguồn vốn đầu tư huy động để đưa vào cho vay các chương trình, dự án đầu tư trong năm 2005 là 30.000 tỷ đồng chiếm 10% tổng vốn đầu tư toàn xã hội, trong đó nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước 25.000 tỷ đồng (bao gồm 18.000 tỷ đồng nguồn vốn trong nước; 7.000 tỷ đồng vốn ODA cho vay lại) và Ngân hàng chính sách xã hội cho vay 5.000 tỷ đồng. Trong kế hoạch tín dụng đầu tư 2005, tập trung tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc cho các dự án lớn, rà soát lại hiệu quả, nhất là các dự án phải điều chỉnh tổng mức đầu tư do giá nguyên, vật liệu xây dựng tăng. Thực hiện Nghị định số 106/2004/NĐ-CP, ngày 1/4/2004 của Chính phủ, nguồn vốn tín dụng đầu tư tập trung cho các dự án nhóm A quan trọng (Nhà máy thủy điện Tuyên Quang, Nhà máy thủy điện Buôn Kuốp (Đắc Lắk), Nhà máy thủy điện A Vương (Quảng Nam), Nhà máy xi măng Hạ Long....) và các dự án chuyển tiếp; đối với các dự án mới chỉ cho vay các nhóm thuộc đối tượng đã quy định tại Nghị định 106/2004/NĐ-CP. Hạn chế mở mới các dự án, đặc biệt là các dự án chưa rõ phương án huy động các nguồn vốn. Rà soát lại danh mục các dự án cho vay tại hệ thống Quỹ Hỗ trợ phát triển, những dự án không hiệu quả, khó khăn về huy động vốn có thể tạm hoãn, dãn tiến độ hoặc ngừng đầu tư. Tăng cường hình thức hỗ trợ lãi suất sau đầu tư, thu hẹp đối tượng cho vay theo dự án cụ thể; cải tiến, đơn giản các thủ tục hành chính trong quá trình cho vay và giải ngân. Nguồn vốn doanh nghiệp nhà nước: Nguồn vốn doanh nghiệp Nhà nước năm 2005 ước khoảng 59.000 tỷ đồng (chưa kể nguồn vốn vốn tín dụng nhà nước mà các DNNN vay từ Quỹ hỗ trợ phát triển), trong đó vốn của một số Tổng công ty lớn như sau: Tổng công ty Điện lực Việt Nam đạt 17.000 tỷ đồng, Tổng công ty Dầu khí Việt Nam đạt 25.000 tỷ đồng, Tổng công Thép Việt Nam là 2.200 tỷ đồng, Tổng công ty Than Việt Nam là 600 tỷ đồng, Tổng công ty Hoá chất Việt Nam 1.200 tỷ đồng, Tổng công ty Dệt may Việt Nam 800 tỷ đồng… 1.2. Nguồn vốn từ khu vực tư nhân. Nguồn vốn từ khu vực tư nhân bao gồm phần tiết kiệm của dân cư, phần tích lũy của các doanh nghiệp dân doanh, các hợp tác xã. Theo đánh giá sơ bộ, khu vực kinh tế ngoài nhà nước vẫn sở hữu một lượng vốn tiềm năng rất lớn mà chưa được huy động triệt để. Năm 2005, Nguồn đầu tư của khu vực dân cư và tư nhân là khoảng 83,5 nghìn tỷ đồng, chiếm 27,8% tổng nguồn vốn và tăng 20% so với ước thực hiện năm 2004. Với khoảng 15 triệu hộ gia đình đóng góp khoảng 1/3 GDP, trong giai đoạn 1996-2000 tiết kiệm của khu vực dân cư chiếm khoảng 15% GDP. Nhiều hộ gia đình thực sự đã trở thành các đơn vị kinh tế năng động trong các lĩnh vực kinh doanh thương mại, dịch vụ, sản xuất nông nghiệp và tiểu thủ công nghiệp. Ở mức độ nhất định, các hộ gia đình cũng sẽ là một trong số các nguồn tập trung và phân phối vốn quan trọng trong nền kinh tế. Với khoảng vài vạn doanh nghiệp ngoài nhà nước (doanh nghiệp tư nhân, công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, các hợp tác xã) đang và sẽ đi vào hoạt động, phần tích lũy của các doanh nghiệp này cũng sẽ đóng góp đáng kể vào tổng quy mô vốn của toàn xã hội. 2. Nguồn vốn nước ngoài 2 .1. Hỗ trợ phát triển chính thức ODA Trong giai đoạn từ 1993 đến 2007, Việt Nam đã nhận được sự hỗ trợ tích cực của cộng đồng các nhà tài trợ quốc tế đối với công cuộc phát triển kinh tế xã hội. Nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức ODA đã đóng vai trò quan trọng, góp phần giúp Việt Nam đạt được tăng trưởng kinh tế, xoá đói giảm nghèo và cải thiện đời sống nhân dân. Hiện nay Việt Nam đang phát triển mạnh mẽ quan hệ hợp tác phát triển với 29 nhà tài trợ song phương, 19 đối tác đa phương và hơn 350 tổ chức phi Chính phủ nước ngoài (NGO). Từ năm 1993 tới 2004, Việt Nam đã hợp tác với cộng đồng các nhà tài trợ tổ chức thành công 13 Hội nghị Nhóm tư vấn các nhà tài trợ (Hội nghị CG) và được cộng đồng tài trợ cam kết hỗ trợ nguồn vốn ODA với giá trị là 28,78 tỷ USD. Cam kết và thực hiện ODA thời kỳ 1993-2004 Năm Cam kết ODA (Triệu USD) Giải ngân ODA (Triệu USD) Tổng số 28.780 14.116 1993 1.810 413 1994 1.940 725 1995 2.260 737 1996 2.430 900 1997 2.400 1.000 1998 2.200 1.242 1999 2.210 1.350 2000 2.400 1.650 2001 2.400 1.500 2002 2.500 1.528 2003 2.830 1.421 2004 3.440 1.650 2005 3747.9 2006 4445.7 2007 5426 Nguồn: Bộ Kế hoạch và Ðầu tư Nguồn vốn ODA đã được tập trung hỗ trợ cho các lĩnh vực phát triển kinh tế, xã hội ưu tiên của Chính phủ, đó là: năng lượng điện (18.57%); ngành giao thông (22,42%); phát triển nông nghiệp, nông thôn bao gồm cả thuỷ sản, lâm nghiệp, thuỷ lợi (14,37 %); ngành cấp thoát nước (9,98%); các ngành y tế - xã hội, giáo dục và đào tạo, khoa học - công nghệ - môi trường (10,73%).  Ngoài ra, nguồn ODA cũng hỗ trợ đáng kể cho ngân sách của Chính phủ để thực hiện điều chỉnh cơ cấu kinh tế và thực hiện chính sách cải cách kinh tế (các khoản tín dụng điều chỉnh cơ cấu kinh tế, điều chỉnh cơ cấu kinh tế mở rộng, Quỹ Miyazawa, PRGF và PRSC). Trong những năm qua, nhiều dự án đầu tư bằng vốn ODA đã hoàn thành và được đưa vào sử dụng, góp phần tăng trưởng kinh tế, xoá đói, giảm nghèo như Nhà máy Nhiệt điện Phú Mỹ 2 -1; nhà máy thủy điện sông Hinh; một số dự án giao thông quan trọng như Quốc lộ 5, Quốc lộ 1A (đoạn Hà Nội - Vinh, đoạn thành phố Hồ Chí Minh- Cần Thơ, đoạn thành phố Hồ Chí Minh- Nha Trang), cầu Mỹ Thuận..; nhiều trường tiểu học đã được xây mới, cải tạo tại hầu hết các tỉnh; một số bệnh viện ở các thành phố, thị xã như bệnh viện Bạch Mai (Hà Nội), bệnh viện Chợ Rẫy (thành phố Hồ Chí Minh); nhiều trạm y tế xã đã được cải tạo hoặc xây mới; các hệ thống cấp nước sinh hoạt ở nhiều tỉnh thành phố cũng như ở nông thôn, vùng núi. Các chương trình dân số và phát triển, chăm sóc sức khoẻ bà mẹ và trẻ em, tiêm chủng mở rộng được thực hiện một cách có hiệu quả. Ngoài ra, còn hàng loạt các công trình mới đầu tư bằng nguồn vốn ODA sẽ được đưa vào hoạt động trong thời gian tới. 2.2. Đầu tư trực tiếp nước ngoài Hoạt động FDI ở VN trong thời gian qua có thể được chia làm bốn thời kỳ.  ° 1988-1990: Thời kỳ khởi đầu của FDI với tổng số vốn đăng ký gần 1,6 tỷ USD còn vốn thực hiện không đáng kể vì các doanh nghiệp FDI phải hoàn thành thủ tục cần thiết ngay cả khi đã được cấp giấy phép đầu tư.  ° 1991-1997: FDI tăng trưởng nhanh và bắt đầu có nhiều đóng góp cho phát triển kinh tế - xã hội của VN. Tính trong hai năm 1996 và 1997, FDI đạt đỉnh cao với khoảng 15,8 tỷ USD vốn đăng ký và gần 6 tỷ USD vốn thực hiện.  ° 1998-2000: FDI suy giảm mạnh do ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu Á, tụt xuống mức thấp nhất vào năm 1999. Vốn FDI thực hiện trong thời gian này chỉ đạt bình quân trên 2,3 tỷ USD/năm  ° 2001-2005: FDI phục hồi và bắt đầu tăng tốc. Tổng FDI (gồm cả vốn đăng ký mới và vốn tăng thêm) đạt 4,2 tỷ USD năm 2004; và 6,34 tỷ USD năm 2005, cao nhất kể từ 1998 đến nay. FDI đăng ký tăng bình quân một năm trong giai đoạn 2001-2005 gần 18,8%/năm, FDI thực hiện tăng bình quân 6,4%/năm. Có nhiều dự án đầu tư vào ngành công nghệ cao, dự án công nghiệp có trình độ công nghệ hiện đại tạo nên nét mới cho chất lượng của dòng FDI vào VN. UNCTAD (2005a, tr25) xếp VN vào nhóm nước có cả chỉ số FDI performance và chỉ số FDI potential đều cao (nhóm Front-runners), cùng nhóm với Trung Quốc, Hồng Kông, Singapore; còn Philippines, Thái Lan, Indonesia, Ấn Độ, Myanmar, Malaysia không được vào nhóm này.  FDI được cấp giấy phép từ 1988 đến 2005 của VN  Số dự án được cấp phép mới Vốn đăng ký (triệu USD) Vốn thực hiện (triệu USD) 1988  38 322 0 1989  68 526 0 1990  108 735 0 1991  151 1292 329 1992  197 2209 575 1993  274 3347 1018 1994  367 4535 2041 1995  408 7696 2556 1996  387 9735 2714 1997   358 6055 3115 1998  285 4877 2367 1999  311 2264 2335 2000  389 2696 2414 2001  550 3230 2451 2002  802 2963 2591 2003  748 3146 2650 2004  723 4222 2852 2005  922 6339 3289 2006 … 10203 … 2007 … 20300 … Tổng cộng … 96740 … Nguồn: Số liệu 1988-2004 lấy từ niên giám thống kê VN 2004, số liệu năm 2005 (tính đến ngày 31.12.2005) lấy từ Cục đầu tư nước ngoài - Bộ kế hoạch và đầu tư (Công bố vào tháng 3.2006). Vốn đăng ký bao gồm cả vốn đăng ký mới và vốn bổ sung của các dự án đã được cấp phép trước đó.    Đầu tư trực tiếp của nước ngoài được cấp giấy phép từ 1988 đến 2006 phân theo ngành kinh tế Số dự án Vốn đăng kí Tổng số 8266 34945.4 Nông nghiệp và lâm nghiệp 504 1479.6 Thủy sản 154 241.9 Công nghiệp khai thác mỏ 103 2654.6 Công nghiệp chế biến 5338 17173.0 Sản xuất và phân phối điện, khí đốt và nước 23 604.9 Xây dựng 181 1823.0 Thương nghiệp; Sửa chữa xe có động cơ, mô tô, xe máy, đồ dùng cá nhân và gia đình 97 217.5 Khách sạn và nhà hàng 253 2441.9 Vận tải; kho bãi và thông tin liên lạc 242 3659.5 Tài chính, tín dụng 61 770.6 Các hoạt động liên quan đến kinh doanh tài sản và dịch vụ tư vấn 1014 2980.6 Giáo dục và đào tạo 88 67.2 Y tế và hoạt động cứu trợ xã hội 42 160.0 HĐ văn hóa và thể thao 103 649.2 HĐ phục vụ cá nhân và cộng đồng 63 21.8 Nguồn Tổng cục thống kê ( Sự khởi sắc của hoạt động FDI trong những năm gần đây bắt nguồn từ bốn nguyên nhân chính sau:  Thứ nhất, VN kiên trì thực hiện đường lối đổi mới, đa phương hóa, đa dạng hóa kinh tế đối ngoại, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, tạo hình ảnh tích cực đối với các nhà đầu tư. Hiệp định thương mại Việt Mỹ (2001), Sáng kiến chung VN-Nhật (2003), Sáng kiến chung VN-Singapore có tác động rất lớn lên dòng FDI vào VN những năm gần đây. Nền kinh tế luôn duy trì tốc độ tăng trưởng cao, thu hút sự quan tâm của các nhà đầu tư quốc tế, nhất là về khả năng mở rộng dung lượng thị trường trong nước    Thứ hai, môi trường đầu tư nước ta từng bước được cải thiện, hệ thống luật pháp, chính sách về đầu tư nước ngoài đã được hoàn chỉnh hơn, tạo khuôn khổ pháp lý đầy đủ, rõ ràng và thông thoáng cho hoạt động FDI. Các doanh nghiệp Nhật tham dự hội nghị đánh giá kết quả giai đoạn 1 của “Sáng kiến chung VN Nhật ” ngày 22.03.06 tại TP.HCM nhận định: “Sau hai năm thực hiện, môi trường đầu tư của VN đã được cải thiện rõ nét, và đây thực sự là hình mẫu cải thiện môi trường đầu tư”. Báo Cộng hòa Indonesia (số ngày 9.3.06) cũng ca ngợi về môi trường đầu tư thuận lợi ở VN. Thêm vào đó, tình hình chính trị-xã hội ổn định, an ninh được đảm bảo đã làm cho nước ta được cộng đồng các nhà đầu tư quốc tế đánh giá là địa bàn đầu tư an toàn (Phương, 2005). Xuân (2004, tr 58) cũng cho rằng “trong bối cảnh thế giới diễn ra rất phức tạp hiện nay, hầu hết các nhà đầu tư đã xem tình hình ổn định về chính trị và an ninh của các quốc gia là vấn đề quan trọng mang tính quyết định khi họ lựa chọn địa bàn đầu tư”.    Thứ ba, công tác chỉ đạo điều hành của chính phủ, của các Bộ, Ngành và chính quyền địa phương đã tích cực, chủ động hơn. Trong thời gian qua, chúng ta đã đẩy nhanh lộ trình áp dụng cơ chế một giá, hỗ trợ nhà đầu tư giảm chi phí sản xuất, tiếp tục thực hiện việc cải cách hành chính, quan tâm hơn tới việc tháo gỡ kịp thời các khó khăn của nhà đầu tư trong qua trình triển khai dự án.  Thứ tư, hoạt động xúc tiến đầu tư đã được triển khai tích cực nhằm vào các địa bàn trọng điểm và các dự án quan trọng. Công tác vận động xúc tiến đầu tư được tiến hành ở nhiều ngành, nhiều cấp, ở cả trong nước và nước ngoài dưới nhiều hình thức đa dạng. Một điểm đáng lưu ý là: Từ năm 2005, cơ chế đối thoại giữa Chính phủ với các nhà đầu tư đã được cộng đồng các nhà đầu tư đánh giá tích cực. Diễn đàn doanh nghiệp VN được định kỳ tổ chức một năm 2 lần bên thềm hội nghị nhóm tư vấn các nhà tài trợ, nơi các doanh nghiệp cả trong và ngoài nước có thể trực tiếp gặp gỡ, trao đổi với lãnh đạo các bộ, ngành, về các khó khăn, vướng mắc và giải pháp tháo gỡ. Bộ kế hoạch và đầu tư cũng đã tổ chức nhiều hội nghị về đầu tư nước ngoài để tìm các giải pháp nhằm thúc đẩy đầu tư nước ngoài và thực hiện các cam kết của chính phủ.  Từ khi ban hành Luật đầu tư nước ngoài vào năm 1988 đến 31.12.2005, tổng số dự án đã được cấp giấy phép ở VN là 7.086, với tổng số vốn đăng ký là 66,2 tỷ USD. Tính đến 31.12.2005, số dự án FDI còn hiệu lực là 6.030 với tổng vốn đăng ký là 51 tỷ USD, tổng vốn thực hiện gần 28 tỷ USD. FDI theo các ngành kinh tế được thể hiện qua Bảng 2. FDI vào khu vực công nghiệp và xây dựng chiếm tỷ trọng lớn nhất, với 67,21% số dự án, 60,84% vốn đăng ký, 69,49% vốn thực hiện. Tiếp theo là tỷ trọng FDI của khu vực dịch vụ, chiếm 19,70% số dự án, 31,76% vốn đăng ký, và 24,02% vốn thực hiện. Khu vực nông lâm thủy ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc10081.doc
Tài liệu liên quan