Lời nói đầu
Sau đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI nền kinh tế nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Sụ chuyển đổi từ cơ chế tập trung bao cấp sang cơ chế thị trường đã tác động trực tiếp tới hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp nhất là các doanh nghiệp quốc doanh. Trong giai đoạn đầu mới chuyển sang cơ chế thị trường do chưa quen với cơ cấu kinh tế mới nên hầu hết các doanh nghiệp đều tỏ ra rất lúng túng, nhiều do
76 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1211 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Sử dụng hợp lý Vốn lưu động của Xí nghiệp In khí tượng Thuỷ văn, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
anh nghiệp làm ăn thua lỗ, thậm chí đi đến phá sản. Song bên cạnh đó có nhiều doanh nghiệp sau những bỡ ngỡ ban đầu đã tìm ra phương hướng đi thích hợp nên không những đứng vững trước những thử thác của thị trường mà còn ngày càng phát triển đi lên. Xí nghiệp In Tổng cục Khí tượng Thuỷ Văn là một trong số đó.
Trong thời gian thực tập tại xí nghiệp In Khí tượng Thuỷ văn được sự giúp đỡ tận tình của thầy giáo hướng dẫn và toàn thể cán bộ công nhân viên của xí nghiệp, em đã đi sâu vào nghiên cứu đề tài “Sử dụng hợp lý vốn lưu động của xí nghiệp In Khí tượng Thuỷ Văn” và em quyết định chọn đề tài này cho luận văn tốt nghiệp của mình.
Nội dụng luận văn gồm 4 phần.
Phần I: Giới thiệu về xí nghiệp In Tổng cục Khí tượng Thuỷ Văn.
Phần II: Một số cơ sở lý luận về vốn lưu động.
Phần III: Phân tích tình hình sử dụng vốn lưu động tại xí nghiệp In Tổng cục Khí tượng Thuỷ Văn.
Phần IV: Một số biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động ở xí nghiệp In Tổng hợp Khí tượng Thuỷ Văn.
Em xin cảm ơn thầy giáo hướng dẫn Trần Trọng Phúc và các bác, các cô trong toàn xí nghiệp đã tận tình giúp đỡ em hoàn thành tốt đề tài nghiên cứu này.
Phần I
Giới thiệu về xí nghiệp In Tổng Cục Khí tượng Thuỷ Văn
Phần I
Giới thiệu về xí nghiệp in tổng cục khí tượng thuỷ văn
I-/ Quá trình hình thành và phát triển doanh nghiệp.
1-/ Lịch sử hình thành và phát triển.
Xí nghiệp In Khí tượng Thuỷ Văn là một doanh nghiệp quốc doanh trực thuộc Tổng cục Khí tượng Thuỷ Văn quản lý. Hiện có trụ sở đóng tại phường Láng Thượng - Quận Đống Đa - Thành phố Hà Nội. Từ năm 1962 trước nhu cầu in ấn tài liệu khí tượng thuỷ văn có nhiều loại sổ sách bảng biểu khác nhau mang tính đặc thù chuyên ngành, số lượng in mỗi loại ít mà yêu cầu kỹ thuật thì cao, đặt in ở các nhà in không được chấp nhận. Có những tài liệu mang tính cấp bách về thời gian cần được xuất bản kịp thời để công bố những số liệu về các yếu tố khí hậu, các quy trình quy phạm và và nhiều loại tài liệu khác nhau phục vụ cho công tác chuyên môn của ngành thường không được đáp ứng kịp thời, gây khó khăn cho công tác tính toán phân tích dự báo thời tiết. Để khắc phục những trở ngại đó và chủ động phục vụ cho sự phát triển của ngành khoa học khí tượng thuỷ văn. Ban giám đốc Nha Khí tượng đã ra quyết định thành lập nhà in dùng phục vụ cho ngành khí tượng.
Được Bộ Văn Hoá công nhận và chuyển giao cho một máy in Typo 2 trang từ nhà in “Hoàn Cầu” sang và một máy in Typo 4 trang từ nhà in “Hà Nội” sang. Đó là hai máy in đầu tiên của Nhà in Khí tượng Thuỷ Văn thiết bị này tuy vẫn sử dụng được nhưng niên hạn đã hết. Cục xuất bản Bộ Văn Hoá cấp giấy phép cho được xuất bản những ấn phẩm chuyên ngành.
Thành lập nhà in ngày 14/5/1962 và đến ngày 28/11/1962 sản phẩm đầu tiên ra đời phục vụ cho đoàn cán bộ khoa học Ba lan trong Ban hợp tác quốc tế vật lý địa cầu làm việc tại Việt Nam.
Lực lượng công nhân lúc này chỉ có một công nhân chuyên nghiệp được chuyển từ nhà in “Hoàn Cầu” sang, cũng từ đồng chí đó đã đào tạo kèm cặp anh em nhân viên khác để đảm đương nhiệm vụ.
Năm 1970 thông qua viện trợ nhà in được bổ sung thêm một máy in offset do Tiệp Khắc sản xuất từ đó nhà in thành lập tổ in offset. Nhà in hoạt động với trang thiết bị và đội ngũ công nhân kèm cặp như vậy trong suốt thời kỳ cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của dân tộc ta ngày càng ác liệt địa điểm đi sơ tán cũng thay đổi luôn tới 13 lần tháo dỡ vận chuyển trong hoàn cảnh cực kỳ khó khăn gian khổ nhưng nhà in vẫn ngày càng phát triển cả quy mô và chất lượng sản phẩm.
Năm 1977 Tổng cục Khí tượng Thuỷ Văn được thành lập theo quyết định của Hội đồng Chính phủ trên cơ sở sát nhập Nha khí tượng và Cục thuỷ văn, xưởng in được gọi là “Xưởng in khí tượng thuỷ văn” được chia làm 4 tổ.
- Tổ in : In Typo và in offset
- Tổ sắp chữ : Sắp chữ chì và chế bản
- Tổ đóng xén: Đóng xén sổ sách biểu bảng
- Tổ kỹ thuật kế hoạch: quản lý và phục vụ tổng hợp.
Đầu năm 1995 căn cứ Nghị định số 388/HĐBT và nghị định số 156/HĐBT, văn phòng chính phủ gửi thông báo số 61 thiết bị (11-3-1993) và ý kiến của Thủ tướng chính phủ đồng ý cho phép Tổng cục KTTV thành lập lại doanh nghiệp (xí nghiệp in). Tổng cục ra quyết định số 84 KTTV/QĐ ngày 25- 3-1993 thành lập lại xí nghiệp in KTTV theo quy chế thành lập và giải thể doanh nghiệp Nhà nước đã ban hành. Xí nghiệp đã được phép đặt trụ sở tại phường Láng Thượng - Quận Đống Đa thành phố Hà Nội.
* Tổng vốn kinh doanh: 890.000.000đ
* Trong đó vốn cố định: 760.000.000đ
* Vốn lưu động: 44.000.000đ
Tổng số công nhân viên chức 43 người trong đó công nhận bậc cao in offset 1 người, in Typo 8 người. Tổ chức thành 3 phân xưởng in và 1 phòng kế hoạch tổng hợp. Được trọng tài kinh tế cấp đăng ký kinh doanh các mặt hàng in sổ sách, tạp chí chuyên ngành văn hoá phẩm giấy tờ quản lý kinh tế xã hội.
+ Diện tích sử dụng nhà xưởng 1000m2
+ Máy móc thiết bị.
- 5 máy in offset
- 1 máy in Typo, 1 máy phơi X.
- 1 máy chịp X máy chế bản
- 1 máy cắt xén
- 1 máy đóng sách
2-/ Chức năng nhiệm vụ của Xí nghiệp In Khí tượng Thuỷ Văn
A-/ Chức năng:
Ngày 6-4-1993 Bộ văn hoá thông tin cấp giấy phép hoạt động ngành in số 48 GP/In cho phép chức năng hoạt động của Xí nghiệp In Khí tượng Thuỷ Văn được sản xuất kinh doanh các mặt hàng in: Sách báo tạp chí chuyên ngành, sách khoa học kỹ thuật, tem, nhãn, tranh, ảnh, áp phích, quảng cáo, giấy tờ biểu mẫu quản lý, văn hoá phẩm.
Ngoài chức năng in chuyên ngành xí nghiệp còn được phép ký kết hợp đông in với các đơn vị ngoài ngành khí tượng thuỷ văn.
B-/ Nhiệm vụ:
Là một doanh nghiệp sản xuất Xí nghiệp In Khí tượng Thuỷ Văn có những nhiệm vụ cơ bản sau.
- Nhiệm vụ chính là in sách tài liệu nghiên cứu khoa học, bản đồ biểu đồ các quy trình và nhiều tài liệu khác phục vụ cho công tác nghiên cứu khoa học và điều tra cơ bản của ngành khí tượng thuỷ văn.
- Mở rộng quan hệ hợp đồng kinh tế với bên ngoài, nhân sản xuất theo đơn đặt hàng với nhiều đơn vị và cá nhân khác để in các loại sách báo, tạp chí, tập san tờ quảng cáo, nhãn ảnh kể cả những sản phẩm có những chất lượng cao chịu trách nhiệm đến cùng về sản phẩm do chính mình làm ra, tuân thủ mọi pháp luật.
- Bảo đảm sản xuất kinh doanh và kinh doanh có lãi đảm bảo đời sống của người lao động và làm tròn nghĩa vụ với Nhà nước bảo toàn và phát triển vốn.
- Chủ động học tập, tiếp thu và đổi mới công nghệ.
- Bảo đảm an toàn lao động, giữ gìn môi trường, trật tự an toàn xã hội.
- Thường xuyên đào tạo, bồi dưỡng nhiều đội ngũ cán bộ có kinh doanh để góp phần phát triển xí nghiệp sản lượng lúc đầu chỉ trên dưới 1.000.000 trang in/năm đã dần tăng lên 5.000.000 đến 6.000.000 trang in/năm (trang in tiêu chuẩn của ngành in để tính sản lượng 13cm x 19cm). Từ năm 1974 đến năm 1977 sản lượng đạt từ 10.000.000 trang đến 14.000.000 trang in/năm.
C-/ Dây chuyền công nghệ sản xuất của Xí nghiệp In Khí tượng Thuỷ Văn.
Dây chuyền công nghệ sản xuất của xí nghiệp và ngành in ấn nói chung quá trình công nghệ mang tính đặc thù riêng, về dây chuyền thì nó là loại hình có quá trình công nghệ đơn giản được đi tuần tự qua các giai đoạn công nghệ theo dạng đơn tuyển trở thành sản phẩm. Quá trình công nghệ ở đây nó bắt đầu đi từ khâu chế bản theo mẫu của khách hàng (đối với in offset) hoặc xếp chữ chì (đối với Typo) rồi đưa vào khâu in khối lượng hợp đồng, chuyển sang khâu đóng xén nghiệm thu nhập kho. Trong mỗi quá trình công nghệ đó cũng bảo gồm một số nguyên công cơ bản, nhưng xét theo loại hình sản xuất thì nó thuộc loại hình sản xuất khối lượng lớn.
Sơ đồ 1-1: Sơ đồ công nghệ sản xuất ở Xí nghiệp In Khí tượng Thuỷ Văn.
Giấy in của XN
hay
Giấy in của khách
Pha cắt
Vật liệu công cụ của xí nghiệp
Phoi
Bình bản
In
Gấp sách
Gắt sách
Lồng sách
Đóng sách
Vào bìa
Xếp sách
T.phẩm tờ rơi
KCS đóng gói
Kho thành phẩm
a, Pha giấy và xén thành phẩm.
Pha từ tờ giấy to thành tờ nhỏ với các kích thước phù hợp với kích thước gấy của máy in.
+ Xén cạnh của sách.
+ Xén nhãn: từ tờ to ra các nhãn nhỏ.
b, Phân xưởng chế bản và in.
+ Bình bản: bản thảo được sắp xếp sẵn lên tờ bình.
Bản mê ca theo quy cách tờ 4,8 hoặc 16 trang, giữa các trang bản thảo trên tờ bình được định ra một khoảng cách hợp lý để gấp giấy về sau gọi à vạch: bảng 8 trang có 3 vạch, bản 4 trang có 2 vạch, bản 16 trang có 4 vạch.
+ Phơi bản: các tờ bình mi ca được chế bản và các điazo để bao khuôn đưa vào máy in.
+ Giai đoạn gia công in: nhận vật tư, giấy mực in từ kh vật tư nhận bản in từ bộ phận phơi bản lên khuôn gia công in tạo ra từng loại bản in theo mẫu của khách hàng.
c, Phân xưởng sách:
+ Nhận các tờ in từ KCS chuyển sang để gắp bắt các tờ giấy theo thứ tự trang gọi là tay sách, các tay sách gộp với nhau thành quyển sách (có các kiểu đóng kẹp, đóng lồng và khâu chỉ, ở xí nghiệp in khí tượng thuỷ văn đóng kẹp, đóng lồng và khâu chỉ thủ công sau đó vào bìa, xén sách cho phẳng đẹp rồi đóng gói, nhập kho thành phẩm hay giao ngay cho khách hàng.
+ Các tờ in rời qua KCS nghiệm thu, đem bó gói hoặc đếm xén rồi bó gói, nhập kho thành phẩm hay giao cho khách.
+ Các tờ nhãn nhỏ: nhãn tờ to từ máy in qua KCS kiểm nghiệm đưa vào máy in xén thành nhãn nhỏ theo kích thước bó gói nhập thành kho thành phẩm, hoặc giao cho khác.
D-/ Cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý của Xí nghiệp In Khí tượng Thuỷ Văn
Sơ đồ 1-2: Sơ đồ tổ chức bộ máy quản lý của Xí nghiệp In Khí tượng Thuỷ Văn.
giám đốc
Phó giám đốc (1) phụ trách SX - KT - HC
Phó giám đốc (2) phụ trách HC - QT
Kế toán trưởng phụ trách KD
SXKT điều độ
Hành chính quản trị
KT tài vụ
Vật tư
Mối quan hệ trực tiếp
Mối quan hệ chức năng
Chức năng nhiệm vụ từng bộ phận:
- Giám đốc: là người phụ trách chung trực tiếp ký kết hợp đồng kinh tế, chịu trách nhiệm chính về mọi hoạt động và KQSXD của xí nghiệp.
- Phó giám đốc (1): sản xuất kỹ thuật được giám đốc uỷ quyền chỉ đạo mọi hoạt động sản xuất và các vấn đề kỹ thuật đảm bảo quá trình sản xuất từ khâu bố trí sản xuất, kiểm tra chất lượng sản phẩm để quá trình sản xuất được liên tục đồng thời được uỷ quyền thay giám đốc đi vắng.
- Phó giám đốc (2): phụ trách quản trị hành chính phụ trách phần việc hành chính, quản trị, tổ chức, lao động tiền lương được uỷ quyền khi giám đốc đi vắng.
- Kế toán trưởng: là người giúp giám đốc về công tác chuyên môn tài chính, phổ biến chủ trương và chỉ đạo công tác chuyên môn của bộ phận kế toán, chịu trách nhiệm trước cấp trên và chấp hành luật pháp, thể lệ, chế độ tài chính hiện hành là người kiểm tra tình hình hạch toán, tình hình tài chính về vốn huy động sử dụng vốn, tổ chức sử dụng vốn có hiệu quả cung cấp các thông tin về tình hình tài chính một cách chính xác kịp thời giúp giám đốc ra quyết định một cách đúng đắn kịp thời. Ngoài ra kế toán trưởng còn tham gia ký kết các hợp đồng kinh tế xây dựng kế hoạch tài chính quý năm của xí nghiệp.
- Các phòng ban:
+ Phòng kỹ thuật, sản xuất, điều độ tổng hợp gồm các phần việc: Tổ chức lao động tiền lương, hành chính, quản trị kế hoạch kỹ thuật, điều độ sản xuất.
+ Phòng kế hoạch tài vụ: theo dõi tổng hợp kết quả sản xuất chịu trách nhiệm về tài chính, vốn của xí nghiệp, chịu trách nhiệm về tiêu thụ sản phẩm, thanh toán với khách hàng.
- Các phân xưởng.
+ Phân xưởng chế bản.
+ Phân xưởng máy in.
+ Phân xưởng sách.
Các quản đốc đồng thời là cán bộ phụ trách kỹ thuật của xí nghiệp.
* Tình hình quản lý lao động của xí nghiệp.
Lao động là yếu tố quan trọng nhất của một doanh nghiệp. Đó là yếu tố chủ đạo và là yếu tố quan trọng trực tiếp tạo nên sự sáng tạo nhằm nâng cao hiệu quả quá trình sản xuất kinh doanh của xí nghiệp. Do đó công tác quản lý lao động cần phải bố trí công việc một cách hợp lý, phù hợp với chức năng của từng bộ phận trong doanh nghiệp.
Xí nghiệp In Khí tượng Thuỷ Văn là đơn vị chuyên in ấn sách, tài liệu khoa học, các bản đồ, biểu đồ và nhiều tài liệu khoa học phục vụ cho công tác nghiên cứu khoa học. Nên đòi hỏi đội ngũ cán bộ kỹ thuật và đội ngũ công nhân phải có trình độ chuyên môn và tay nghề cao để hoàn thành tốt được những yêu cầu của công việc.
Tổng số lao động toàn xí nghiệp là 40 người.
Trong đó bộ phận gián tiếp đều có trình độ đại học và trung cấp đào tạo chính quy.
Giám đốc, phó giám đốc, kế toán trưởng đều là trình độ đại học.
Công nhân bậc 7/7 có 15 người chiếm 40%.
Ngoài ra là thợ bậc 5 và bậc 6 đều được đào tạo qua trường lớp. Mọi công nhân đều được tham gia tổ chức công đoàn và được hưởng mọi quyền lợi của đoàn viên công đoàn.
Xí nghiệp còn thực hiện quyền lợi của người lao động theo quy định của Bộ lao động. Có chế độ bảo hộ lao động, chế độ nghỉ phép, khám chữa bệnh nghề nghiệp, thanh toán tàu xe đi phép.
Xí nghiệp sử dụng thời gian lao động.
Một ngày làm việc 8 tiếng theo giờ hành chính.
Làm việc theo ca: ca 1, ca 2, ca 3.
Khi làm việc theo ca công nhân, công nhân được hưởng bồi dưỡng ca 3.
* Đặc điểm máy móc thiết bị của xí nghiệp.
Là một doanh nghiệp chuyên sản xuất về các tài liệu in ấn là chủ yếu. Do đó xí nghiệp sử dụng thiết bị sản xuất chủ yếu là các loại máy in để sản xuất.
Hầu hết các máy móc thiết bị của xí nghiệp đều đã cũ và lạc hậu. Điều này gây ảnh hưởng rất lớn tới hoạt động sản xuất của xí nghiệp và cũng rất khó khăn trong việc rút ngắn cho kỳ sản xuất, hạn chế việc tăng nhanh tốc độ thu hồi vốn và tốc độ luân chuyển vốn.
Hiện nay xí nghiệp cũng đang trang bị mới cho một số thiết bị máy móc để thay tế những thiết bị cũ khả năng vận hành không còn đáp ứng được với yêu cầu sản xuất. Việc trang bị này vẫn chưa được toàn diện ở các phân xưởng sản xuất vẫn còn sử dụng các máy móc từ những năm 60 để lại qua sửa chữa đến nay vẫn đang hoạt động.
Tổng hợp máy in và tình hình sử dụng của xí nghiệp.
Các loại máy in
Số lượng
Tỷ trọng %
32 trang
24 trang
8-12 trang
4 trang
2 trang
Ca làm việc
Máy in Typo
5
50%
Máy in offset
5
50%
1
1
2
1
2
Máy in ống đồng
1
3
1
3
Cộng
10
100
1
2
5
2
Tỷ trọng
100%
10%
20%
50%
20%
* Về chủng loại vật tư của xí nghiệp.
Vật tư kỹ thuật: Nguyên vật liệu chính mà xí nghiệp thường dùng chủ yếu là:
- Nhóm vật liệu chính:
+ Giấy các loại: xí nghiệp sử dụng các loại giấy khác nhau như giấy Bãi Bằng, giấy Tân Mai, giấy Trung Quốc...
+ Mực các loại: Mực đen Đức, Mực xanh Nhật, mực đỏ Nhật, mực nhũ bạc Trung Quốc v.v...
+ Kim loại: gồm đồng, dây thép, gang, nhôm tấm Plexo, nhôm diazo.
Đây là những vật liệu tham gia trực tiếp vào quá trình sản xuất để tạo ra sản phẩm của xí nghiệp trong đó giấy và mực là những vật liệu chủ yếu được sử dụng với số lượng lớn.
- Nhóm vật liệu phụ:
+ Văn phòng phẩm: như atót, các loại bút, các loại mực
+ Xăng dầu: gồm dầu nhờn, dầu công nghiệp, mỡ, xăng A82.
+ Hoá chất: như axít, cồn, dung môi, nước cất v.v...
+ Linh tinh: gồm giẻ lau, bàn chải, dây day, xà phòng.
Đây là những vật liệu tuy không cấu thành và thực thể sản phẩm nhưng vật liệu phụ có tác dụng nhất định và cần thiết cho quá trình sản xuất sản phẩm.
- Hình thức trả lương cho khối văn phòng.
Lương tháng = Lương tối thiểu (144.000 x hệ số lương)
Lương ngày = Lương tháng/26 ngày.
Lương bảo hiểm = Lương tháng/26 ngày x tỷ lệ % bảo hiểm.
- Hình thức trả lương trực tiếp người sản xuất.
Lương SP = đơn giá 1 SP x số lượng SP đạt chất lượng trong tháng
Lương thời gian 1 ngày = Lương cấp bậc/26 ngày.
Lương bảo hiểm = Lương cấp bậc 1 tháng x tỷ lệ % hưởng BHXH x số ngày nghỉ hưởng BHXH.
- Cách chia thưởng.
+ Thưởng thường xuyên theo tháng.
+ Người hoàn thành tốt công việc loại A hệ số 1,2
+ Người hoàn thành tốt công việc loại B hệ số 1,0
+ Người chưa hoàn thành công việc loại C hệ số 0,8.
Căn cứ vào mức tiền thưởng hàng tháng mà quản đốc phân phối cho từng người căn cứ vào xếp loại của từng công nhân.
Bảng kết quả hoạt động kinh doanh - 1999
Chỉ tiêu
Mã số
Quý trước
Quý này
Từ đầu năm
1
2
3
4
5
- Tổng doanh thu
01
4.904.025.088
Trong đó doanh thu hàng xuất khẩu
02
- Các khoản giảm từ (04+05+06+07)
03
+ Chiết khấu
04
+ Giảm giá
05
7.513.000
+ Giá trị hàng bán bị trả lại
06
+ Thuế doanh thu thuế XK phải nộp
07
96.183.617
1. Doanh thu thuần (01 - 03)
10
4.800.328.471
2. Giá vốn hàng bán
11
4.201.671.631
3. Lợi tức gộp (10 - 11)
20
598.658.840
4. Chi phí bán hàng
21
9.655.000
5. Chi phí quản lý doanh nghiệp
22
438.488.874
6. Lợi tức thuần hoạt động KD
[(20 - (21 + 22)]
30
150.512.966
- Thu thập hoạt động tài chính
31
- Chi phí hoạt động tài chính
32
7. Lợi tức hoạt động tài chính (31-32)
40
4.019.062
- Các khoản thu nhập bất thường
41
- Chi phí bất thường
42
8. Lợi tức bất thường (41-42)
50
9. Tổng lợi tức trước thuế (30+40+50)
60
154.532.028
10. Thuế lợi tức phải nộp
70
54.086.210
11. Lợi tức sau thuế (60-70)
80
100.445.818
Bảng tình hình thực hiện nghĩa vụ với Nhà nước.
Chỉ tiêu
Số phải nộp kỳ trước
Số phải nộp kỳ này
Số đã nộp trong kỳ này
Số còn lại phải nộp đến cuối kỳ này
1
2
3
4
5
I. Thuế
214.384.098
216.149.439
258.833.207
171.700.330
1. Thuế doanh thu hay (VAT)
16.811.990
96.183.617
90.537.407
21.758.200
2. Thuế tiền thu đặc biệt
3. Thuế xuất khẩu, nhập khẩu
4. Thuế lợi tức.
66.557.727
54.086.210
20.000.000
100.643.937
5. Thu trên vốn
131.714.381
62.583.812
145.000.000
49.298.193
6. Thuế tài nguyên
7. Thuế nhà đất
8. Tiền thuế đất
2.645.800
2.645.800
0
9. Các loại thuế khác.
645.000
650.000
0
II. Bảo hiểm kinh phí Công Đoàn
15.883.500
53.497.332
67.162.684
2.218.148
1. Bảo hiểm xã hội
15.883.500
46.384.320
62.267.820
0
2. Bảo hiểm y tế
4.296.948
2.078.800
2.218.148
3. Kinh phí công đoàn
2.816.064
2.816.064
0
III. Các khoản phải nộp khác.
1. Các khoản phụ thu
2. Các khoản phí, lệ phí
3. Các khoản phải nộp khác
Tổng số thuế thuế còn phải nộp năm trước sang kỳ này: 214.384.098
Trong đó thuế lợi tức 665.557.727
Phân tích năm 1997 xí nghiệp xác định nhiệm vụ sản xuất kinh doanh là phấn đấu để tốt hơn năm trước cụ thể như sau:
- Đảm bảo đời sống cho công nhân.
- Hoàn thành nghĩa vụ với Nhà nước.
- Tăng doanh thu và lãi cho xí nghiệp.
Trong điều kiện cạnh tranh gay gắt trên thị trường ngành in với rất nhiều khó khăn thiếu vốn, lạc hậu về công nghệ. Tuy nhiên xí nghiệp đã đạt được một số kết quả đáng kể.
1. Doanh thu tăng hơn năm trước
4.904.025.088 / 4.378.016.512 = 112%
2. Tổng lợi tức giảm/năm trước
154.532.028 / 171.040.678 = 90%
Song lợi tức thuần từ HĐKD tăng
150.512.966 / 104.105.445 = 145%
3. Nghĩa vụ với Nhà nước tăng 37%
4. Thu nhập bình quân đầu người tăng 11%
Những khó khăn của xí nghiệp.
- Giá bán không tăng do yếu tố cạnh tranh.
- Chi phí tăng, thuế doanh thu tăng, lãi suất tiền vay tăng.
- Máy cũ, lạc hậu không phát huy được tác dụng.
- Máy không đưa vào sử dụng nằm chờ thanh lý.
* Đánh giá khái quát tình hình tài chính doanh nghiệp.
Tỷ lệ tài trợ vốn =
Hệ số khả năng thanh toán:
Vòng quay tổng tài sản = = = 1,6 vòng
Vòng quay tổng TSCĐ = = = 2,63 vòng
Doanh thu TB ngày = = = 13.622.000
= =
=
Cứ 100 đồng doanh thu thì có 3 đồng lợi nhuận (3%).
Phân tích kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh cứ 1 đồng doanh thu thuần thì có:
= 0,875 đ giá vốn bán hàng
= 0,125 đ lợi tức gộp
= 0,03 đ lợi tức thuần
Phương pháp xây dựng giá cả dựa vào
- Mặt bằng giá trong các doanh nghiệp in trên địa bàn thành phố.
- Chi phí thực tế tại xí nghiệp.
- Các yếu tố liên quan khác, tính cấp bách của thời gian giao hàng, số lượng sản phẩm sản xuất, yêu cầu chất lượng sản phẩm thời hạn và khả năng thanh toán của khách để có lãi ở mặt hàng khác.
II-/ Công tác Marketing của xí nghiệp.
Chính sách tiếp thị của xí nghiệp in Khí tượng Thuỷ văn được xây dựng dựa trên cơ sở đáp ứng những nhu cầu đòi hỏi của khách hàng về chất lượng sản phẩm, thời gian giao hành và giá cả hợp lý. Tăng cường nhận ký hợp đồng in cao cấp, chú ý đảm bảo chất lượng đối với các sản phẩm này để quảng cáo trình độ kỹ thuật gây thêm được uy tín với khách hàng để chính khách hàng sẽ tuyên truyền chất lượng sản phẩm của xí nghiệp khi họ tung ra thị trường những nhãn hàng, tạp chí văn hoá phẩm mà xí nghiệp đã in.
Tuyệt đối không để sản phẩm kém chất lượng lọt ra ngoài phải kiểm tra và quản lý chất lượng đồng bộ ở tất cả các công đoạn sản xuất. Vì chất lượng sản phẩm là một tiêu chuẩn cạnh tranh quan trọng giữ gìn tốt uy tín đã có với khách hàng thường xuyên, gây lòng tin và phát triển uy tín với khách hàng mới trên thị trường.
Có động viên khen thưởng bằng vật chất thích đáng, kịp thời cho những người giúp đỡ xí nghiệp có việc làm, giới thiệu khách hàng mới để ký hợp đồng với xí nghiệp. Để luôn giữ được những khách hàng quen và tìm thêm những bạn hàng mới. Xí nghiệp là một đơn vị sản xuất theo đơn đặt hàng, chứ không sản xuất hàng để bán nên không có cửa hàng bán, mà khách đặt hàng gì thì sản xuất hàng đó theo yêu cầu của khách hàng. Cố gắng đáp ứng những yêu cầu của khách hàng như chở hàng đến tận nơi cho khách miễn phí không gây khó khăn phiền hà khi khách nhận hàng. Xí nghiệp không quảng cáo phô trương hình thức mà chinh phục khách hàng bằng chính sản phẩm của mình có thể nói bí quyết quảng cáo của xí nghiệp là giữ khách hàng quen tìm thêm bạn hàng mới được thể hiện qua uy tín - chất lượng.
Phần II
Một số cơ sở lý luận về vốn lưu động
Phần II
Lý luận chung về vốn lưu động
I-/ Khái niệm chung về vốn lưu động.
Vốn lưu động là một bộ phận của vốn sản xuất và là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ giá trị tài sản lưu động, vốn lưu động để đảm bảo cho sản xuất và tái sản xuất của doanh nghiệp tiến hành bình thường.
Muốn sản xuất kinh doanh, ngoài vốn cố định doanh nghiệp còn cần lượng tiền nhất định để mua sắm các đối tượng dùng vào sản xuất. Ngoài số vốn dùng vào sản xuất doanh nghiệp còn cần một lượng vốn trong phạm vi lưu động, đó là vốn còn nằm trong khâu thành phẩm chưa tiêu thụ mua sắm đối tượng lao động mới trả lương cho cán bộ công nhân viên trong doanh nghiệp.
Vốn lưu động tham gia trực tiếp vào quá trình sản xuất. Qua một chu kỳ sản xuất vốn lưu động chuyển qua nhiều hình thái khác nhau, tiền tệ, sản phẩm dở dang, sản phẩm trở lại hình thái tiền tệ sau khi tiêu thụ. Khác với vốn cố định, vốn lưu động chuyển toàn bộ giá trị của nó vào sản phẩm sau mỗi chu kỳ sản xuất. Vốn lưu động được thể hiện dưới hai hình thức.
+ Hiện vật bao gồm: Nguyên vật liệu, bán thành phẩm và thành phẩm.
+ Giá trị: Là biểu hiện bằng tiền, giá trị của nguyên vật liệu bán thành phẩm, thành phẩm và giá trị tăng thêm do việc sử dụng lao động trong quá trình sản xuất những chi phí bằng tiền trong lĩnh vực giao thông.
Trong quá trình sản xuất kinh doanh, vốn lưu động của doanh nghiệp thường xuyên biến đổi từ hình thái chức năng này sang hình thái chức năng khác và được thực hiện.
T - ĐT - SX - TP ... T’
Do hoạt động sản xuất kinh doanh diễn ra liên tục và xen kẽ nhau, chu kỳ sản xuất này chưa kết thúc đã bắt đầu sản xuất chu kỳ tiếp nối nên vốn lưu động thường xuyên tồn động trong tất cả các hình thái chức năng.
Trong quá trình sản xuất kinh doanh kể từ khi tiền bỏ ra chi, từ nguyên vật liệu để sản xuất, vốn trong sản xuất lưu thông hàng - vốn tiền tệ, vốn hàng hoá. Quá trình vận động vốn lưu động biến đổi từ hình thái này sang hình thái khác rồi trở lại hình thái ban đầu có giá trị lớn hơn một vòng khép kín là một chu kỳ vận động của vốn lưu động. Chu kỳ vận động của vốn lưu động là cơ sở để đánh giá khả năng thanh toán và hiệu quả lao động sản xuất kinh doanh, hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp.
II-/ Vai trò và tác dụng của vốn lưu động.
Trong nền kinh tế thị trường, để tồn tại và phát triển đòi hỏi các doanh nghiệp phải biết kinh doanh và kinh doanh có hiệu quả. Muốn làm được điều đó ngoài những yếu tố cần thiết phục vụ cho việc kinh doanh như tận dụng để đạt được hiệu quả cao nhất, cơ sở vật chất kỹ thuật, lao động phương hướng biện pháp đầu tư, biện pháp sử dụng các điều kiện hiện có. Còn một yếu tố đóng vai trò quyết định là doanh nghiệp phải có vốn, vốn là điều kiện quyết định để hình thành một doanh nghiệp. Vốn giữ vai trò vô cùng quan trọng đối với quá trình kinh doanh, căn cứ vào tính chất sử dụng và hình thái biểu hiện, người ta phân biệt vốn phục vụ cho hoạt động kinh doanh làm ra hai loại vốn cố định và vốn lưu động.
Đối với các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực lưu thông phân phối, vốn lưu động chiếm một tỷ trọng rất lớn trong toàn bộ nguồn vốn, trong quá trình kinh doanh vốn lưu động được vận động liên tục theo chu kỳ khép kín T-H-T’. Đơn vị kinh doanh có hiệu quả là đơn vị luôn luôn tìm ra những biện pháp làm rút ngắn thời gian vận động của một chu kỳ và tạo ra T’>T. Tức là nguồn vốn của đơn vị đó luôn được tăng trưởng, kinh doanh ngày càng phát triển và lợi tức ngày càng nhiều.
Vốn đối với mỗi doanh nghiệp giữ vai trò quan trọng như vậy song không phải bất cứ doanh nghiệp nào có đủ vốn là hoạt động có hiệu quả. Nếu như vậy thì đã không có chuyện nhiều doanh nghiệp bị phá sản, còn nhiều doanh nghiệp lúc đầu chỉ là một đơn vị nhỏ, nhưng càng hoạt động doanh nghiệp càng phát triển đóng vai trò xứng đáng trong thị trường vấn đề đặt ra ở đây là phương pháp sử dụng hợp lý, hiệu quả nguồn vốn của từng doanh nghiệp.
Nền kinh tế nước ta trong những năm gần đây đang trải qua thời kỳ quá độ chuyển từ kế hoạch hoá tập trung chuyển sang cơ chế thị trường từ chỗ các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực lưu thông phân phối dưới hình thức bán mua theo địa chỉ theo quy định nay chuyển sang sự hạch toán, tự chủ kinh doanh, tự chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh của đơn vị mình và chịu sự điều tiết của thị trường.
Do sử dụng kém hiệu quả về nguồn vốn được giao, đặc biệt là vốn lưu động nên không ít các đơn vị sau một thời gian ngắn hoạt động đã không còn vốn để kinh doanh nữa. Điều đó dẫn đến những hiệu quả nghiêm trọng không những mang tính xã hội mà còn kìm hãm sản xuất, ảnh hưởng xấu đến bức tranh chung của nền kinh tế đất nước. Tuy vậy một số lớn các doanh nghiệp khi chuyển sang kinh tế thị trường thì cơ chế mới như cởi trói cho hoạt động của bộ máy đơn vị. Quyền tự chủ kinh doanh được phát huy rất có nhiều doanh nghiệp (kể cả quốc doanh và tư nhân) vốn lưu động phục vụ cho quá trình kinh doanh không ngừng tăng trưởng sau mỗi kỳ kế hoạch. Quy mô đơn vị ngày càng phát triển, uy tín đơn vị ngày càng lớn mạnh trên thị trường những biểu hiện đó cho thấy các doanh nghiệp đó có chính sách và biện pháp sử dụng vốn hiệu quả.
Tóm lại: Trong thời gian qua xuất phát từ việc sử dụng vốn, cơ chế thị trường đã chia các doanh nghiệp nước ta thành hai loại.
- Sử dụng kém hiệu quả vốn: Đóng cửa doanh nghiệp.
- Sử dụng hiệu quả vốn: Tồn tại và phát triển.
Nhu cầu vốn lưu động là điều cần thiết phải có đối với tất cả các doanh nghiệp, đó là số vốn tối thiểu nhằm dự trữ các tài sản lưu động phụ sản xuất, lưu động, trên cơ sở đó nguồn cung cấp vốn lưu động cho các doanh nghiệp thường có từ:
- Nguồn vốn lưu động từ ngân sách cấp.
- Nguồn vốn lưu động từ bổ sung.
- Nguồn vốn lưu động có do liên doanh liên kết.
- Nguồn vốn lưu động tín dụng ngắn hạn.
III-/ Phân loại và kết cấu vốn lưu động.
1-/ Phân loại và kết cấu vốn lưu động.
Có ý nghĩa quan trọng trong công tác sử dụng có hiệu quả vốn lưu động có đáp ứng nhu cầu về vốn do từng khâu, từng bộ phận, đòi hỏi đảm bảo sử dụng tiết kiệm hợp lý vốn lưu động, đáp ứng được yêu cầu sản xuất kinh doanh trong cả điều kiện thiếu hay thừa vốn lưu động. Kết cấu vốn lưu động là tỷ lệ giữa các bộ phận cấu thành vốn lưu động và mối quan hệ tỷ lệ giữa các bộ phận đó. Trong toàn bộ vốn lưu động tỷ lệ này là một chỉ tiêu động luôn luôn thay đổi do đó tại một thời điểm việc xác định cơ cấu vốn lưu động hợp lý mang tính chất nhất thời nên phải thường xuyên nghiên cứu để xây dựng được một số cơ chế vốn hợp lý đáp ứng được nhu cầu sản xuất trong từng thời kỳ. Vốn lưu động được phân loại thành nhiều cách, đứng trên nhiều góc độ khác nhau. Căn cứ vào nguồn hình thành của vốn lưu động người ta chia thành.
* Vốn lưu động tự có: Là nguồn được quyền sở hữu của doanh nghiệp, được hình thành từ vốn ngân sách cấp, tự tích luỹ và bổ sung bằng lợi nhuận của doanh nghiệp do quỹ xí nghiệp bỏ ra, vốn cổ đông đóng góp.
- Đối với doanh nghiệp Nhà nước là khoản ngân sách nộp cho xí nghiệp lần đầu, toàn bộ vốn lưu động định mức do doanh nghiệp tự tích luỹ bổ sung thêm.
* Vốn lưu động coi như tự có: là loại vốn tuy không thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp nhưng do chế độ thanh toán doanh nghiệp có thể hoặc được phép sử dụng hợp lý vào trong quá trình sản xuất kinh doanh của mình như: Tiền lương, Tiền bảo hiểm xã hội chưa đến kỳ trả, các khoản chi phí tính trước v.v...
* Vốn lưu động đi vay (vốn tín dụng) là bộ phận vốn lưu động của doanh nghiệp được hình thành từ các nguồn vay tín dụng của ngân hàng, tập thể, cá nhân và các tổ chức khác nhằm mục đích cho hoạt động sản xuất kinh doanh và các tổ chức khác của doanh nghiệp. Căn cứ vào biện pháp quản lý vốn lưu động được chia thành:
* Vốn lưu động định mức: Là vốn lưu động được quy định mức tối thiểu cần thiết thường xuyên cho hoạt động sản xuất kinh doanh, nó bao gồm: vốn dự trữ, vốn trong sản xuất, sản phẩm hàng hoá mua ngoài dùng cho tiêu thụ sản phẩm, vật tư thuê ngoài chế biến. Vốn lưu động định mức là cơ sở quản lý vốn đảm bảo bố trí vốn lưu động hợp lý trong sản xuất kinh doanh xác định được quan hệ giữa các doanh nghiệp với Nhà nước hoặc ngân hàng trong việc vay vốn sản xuất kinh doanh.
Giá trị vốn trong khâu dự trữ sản xuất và trong sản xuất đó chính là bộ phận vốn dùng để mua nguyên vật liệu, phụ tùng thay thế, dự trữ để chuẩn bị đưa vào sản xuất và bộ phận vốn phục vụ trực tiếp cho giai đoạn sản xuất như: Sản phẩm dư bán thành phẩm tự chế, chi phí chờ phân bổ.
- Vốn lưu động trong lưu thông:
Là bộ phận vốn trực tiếp phục vụ cho giai đoạn lưu thông, thành phẩm vốn trong thanh toán, vốn bằng tiền khác. Phân loại vốn lưu động giúp cho doanh nghiệp có cơ sở để xây dựng vốn lưu động cần thiết cho các khâu, làm cơ sở huy động vốn từ nhiều nguồn lực dồi dào khác nhau đáp ứng được yêu cầu sản xuất kinh doanh.
Sơ đồ cơ cấu vốn lưu động của doanh nghiệp.
Vốn lưu động
Vốn LĐSX
Vốn LĐộng
Vốn
dự trữ
Vốn
trong SX
Vốn
thành phẩm
Vốn
tiền tệ
Vốn trong
thanh toán
Vốn LĐ định mức
Vốn LĐ không định mức
2-/ Phương pháp lập kế hoạch vốn l._.ưu động.
Sau khi đã xác định được định mức vốn lưu động do từng thành phần vốn ta tiến hành tổng hợp lại để xác định nhu cầu vốn lưu động của năm kế hoạch, để thực hiện nhiệm vụ sản xuất kinh doanh của năm kế hoạch ta sẽ lập được kế hoạch vốn lưu động của năm theo mẫu.
3-/ Vốn lưu động.
Doanh nghiệp nào cũng có vốn lưu động và vốn cố định để hoạt động, nếu thiếu phải đi vay, ngoài ra trong kinh doanh luôn phát sinh những khoản tín dụng khác của bạn hàng tạm ứng, tiền trước nhận hàng sau, nhận hàng trước trả tiền sau. Số lượng hàng hoá mua và bán ra của doanh nghiệp lúc nhiều, lúc ít do vậy khả năng thu và nhu cầu chi biến động hàng ngày không phải lúc nào cũng nhất quán với nhau. Ngoài ra rủi ro làm chậm vốn lưu động hoặc tổn thất cũng làm cho tài chính doanh nghiệp không ổn định. Vì vậy cần phải có sự an toàn để luôn luôn đáp ứng yêu cầu thanh toán của doanh nghiệp. Việc thanh toán được đảm bảo không những bằng tổng số vốn của doanh nghiệp đang nắm và các nguồn vốn cấp doanh nghiệp có thể tiếp cận, mà còn bằng cơ cấu vốn và cơ cấu của các phương tiện cấp vốn. Vốn luân chuyển chính là số vốn có khối lượng và cơ cấu nhất định đảm bảo sự an toàn này.
Doanh nghiệp có thể an tâm sử dụng vốn dài hạn (vốn bản thân) của mình còn vốn tín dụng ngân hàng luôn biến động trong một năm (vay, trả...) nên được gọi là vốn tạm thời. Về mức vốn trong kinh doanh lúc doanh nghiệp cần nhiều và cần ít phụ thuộc vào nhu cầu của tài sản lưu động. Do vậy có lúc doanh nghiệp sử dụng tốt nhu cầu tối đa của mình lúc lại nhàn rỗi lãng phí.
Doanh nghiệp cần cân nhắc giữa hai mặt hàng đảm bảo an toàn trong kinh doanh và chịu thiệt về hiệu quả hoặc đạt được hiệu quả cao hơn trong kinh doanh nhưng kém an toàn hơn và cũng giảm đi chủ hoá. Khi đi vay doanh nghiệp còn phải chịu kiểm soát của ngân hàng. Như vậy ở đây có một danh giới tối ưu, chính danh giới này xác định mức và cơ cấu vốn luân chuyển, thông thường vốn tín dụng không thể lớn hơn vốn tự có của doanh nghiệp vì vậy doanh nghiệp muốn an toàn thì phải có một số vốn thường xuyên bảo đảm mua bán một phần tài sản lưu.
TSCĐ ròng
Bên có
Vốn tự có
Vốn dài hạn
Vốn trung hạn
Bên nợ
Vốn lâu dài
Tài sản dự trữ. Các khoản phải thu và tiền mặt (sử dụng được ngay)
Nợ ngắn hạn
Vốn luân chuyển
Trừ
IV-/ Nguồn tạo vốn lưu động.
Trong sản xuất kinh doanh của một doanh nghiệp muốn hoạt động có hiệu quả thì hàng năm cùng lập kế hoạch khác như kế hoạch sản xuất, kế hoạch cung ứng vật tư, kế hoạch tiêu thụ sản phẩm, còn phải lập kế hoạch nguồn vốn nói chung và nguồn vốn lưu động là một phần rất quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả sản xuất từ đó ta so sánh với vốn lưu động định mức để biết số thừa hoặc số thiếu vốn lưu động trong năm kế hoạch đồng thời có biện pháp giải quyết (nếu thừa) việc lập kế hoạch hoá nguồn vốn là không thể thiếu được vì công tác kế hoạch là một tiền đề và cũng là đích để cho doanh nghiệp có vốn phấn đấu vươn lên (nếu kế hoạch được lập chính xác và hợp lý).
Hiện nay việc lập kế hoạch vốn lưu động gồm 3 bước và trong đề tài này cũng xét chủ yếu phương hướng kế hoạch nguồn vốn lưu động.
1. Xác định vốn lưu động tự có và coi như tự có ở thời điểm 31/12 năm báo cáo. Số liệu này bằng số thực có vốn lưu động tự có và coi như tự có ở thời điểm 30/4/năm báo cáo cộng với số tăng giảm vốn lưu động tự có và coi như tự có dự kiến. Quý 4 năm báo cáo.
2. Xác định vốn lưu động tự có và coi như tự có tăng thêm hoặc giảm bớt trong năm kế hoạch so với năm báo cáo.
3. Xác định vốn lưu động thừa hoặc thiếu của năm kế hoạch và có biện pháp xử lý.
Kế hoạch nguồn vốn lưu động gồm có:
* Định mức vốn lưu động trong năm đó.
- Nguồn vốn ngân sách Nhà nước cấp.
- Nguồn vốn tự hình thành.
- Nguồn vốn tín dụng.
* Vốn tự có và coi như tự có dự tính đến kỳ:
- Ngân sách Nhà nước.
- Nợ định mức.
- Vốn tín dụng.
* Nợ định mức tăng giảm trong năm:
* Số thừa (+), số thiếu (-) vốn lưu động trong năm đó.
- Vốn lưu động bổ sung bằng nguồn lợi nhuận.
- Vốn lưu động bổ sung bằng nguồn lợi nhuận.
- Vốn lưu động tài trợ của Nhà nước cấp trên.
Muốn nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp thì công tác kế hoạch hoá nguồn vốn lưu động đóng vai trò rất quan trọng vì nó luôn luôn theo dõi sát vốn của doanh nghiệp trong sản xuất và nó còn điều khiển ở các khâu như dự trữ, sản xuất và tiêu thụ một cách nhịp nhàng hợp lý.
V-/ Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả vốn lưu động.
1-/ Hệ thống các chỉ tiêu xây dựng theo nguyên tắc.
* Các xây dựng:
Hiệu quả kinh tế của doanh nghiệp là một vấn đề phức tạp có quan hệ với tất cả các yếu tố trong quá trình sản xuất - kinh doanh (lao động, tư liệu lao động, đối tượng lao động). Vì vậy trong doanh nghiệp chỉ có thể đạt được hiệu quả cao khi việc sử dụng các yếu tố cơ bản của quá trình sản xuất kinh doanh có hiệu quả.
Hiệu quả kinh tế của doanh nghiệp là một phạm trù kinh tế phản ánh trình độ sử dụng các nguồn nhân tài nhân lực của doanh nghiệp nhằm đạt được kết quả cao nhất trong quá trình sản xuất kinh doanh với chi phí thấp nhất.
Để đánh giá chính xác, có cơ sở khoa học hiệu quả cần phải xây dựng các hệ thống chi tiêu phù hợp, bao gồm các chỉ tiêu tổng hợp (khái quát) và các chỉ tiêu chi tiết (cụ thể) các chỉ tiêu đó phản ánh được sức sản xuất, sức hao phí cũng như sức sinh lời của từng yếu tố, từng loại vốn và phải thống nhất với công thức đánh giá hiệu quả chung.
Hiệu quả SXKD = (1)
Kết quả đầu ra K được đo bằng các chỉ tiêu như giá trị tổng sản lượng, giá trị sản lượng hàng hoá thực hiện (doanh số và lợi nhuận ròng, còn chi phí (yếu tố đầu vào bao gồm, lao động, tư liệu lao động, đối tượng lao động, vốn cố định và vốn lưu động. Công thức (1) phản ánh sức sản xuất (hay sức sinh lời) của các chỉ tiêu phản ánh đầu vào, ngoài ra hiệu quả sản xuất kinh doanh cũng có thể tính được theo công thức:
Hiệu quả SXKD = (2)
Công thức (2) phản ánh sự hao phí của các chỉ tiêu đầu vào nghĩa là để có một đơn vị kết quả đầu ra thì hao phí hết mấy đơn vị chi phí hoặc vốn ở đầu vào.
Để có một cách nhìn tổng quát về hệ thống các chỉ tiêu hiệu quả các doanh nghiệp, ta xem xét các yếu tố kết quả và chi phí theo những mặt chung nhất của nó như sau:
* Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Kết quả này gồm hai mặt nội dung chủ yếu là:
+ Hai kết quả vật chất tức là giá trị sử dụng dưới dạng sản phẩm hay dịch vụ được doanh nghiệp tạo ra nhằm đáp ứng nhu cầu thị trường. Nó được thể hiện bằng các chỉ tiêu khối lượng tính theo đơn vị hiện vật và theo đơn vị giá trị. Ta ký hiệu kết quả này là sản xuất vậy sản xuất có thể là tổng giá trị sản lượng doanh số...
+ Kết quả về mặt tài chính thể hiện qua chỉ tiêu lợi nhuận bao gồm phần để lại ở xí nghiệp và phần nộp cho Nhà nước.
Ta ký hiệu kết quả thuộc loại này là LN.
* Các chi phí bỏ ra ở doanh nghiệp.
Ta có thể xem xét chi phí (hoặc vốn) ở đầu vào của doanh nghiệp dưới các mặt:
+ Chi phí về lao động thể hiện bằng số lượng lao động hoặc khối lượng tiền lương.
Ta ký hiệu chi phí thuộc loại này là L.
+ Chi phí về lao động vật hoá bỏ ra dưới dạng vốn cố định và vốn lưu động. Ký hiệu là V.
+ Các chỉ tiêu thường xuyên được tập hợp trong chỉ tiêu và giá thành sản phẩm. Ký hiệu là Z.
Hệ thống chi tiêu hiệu quả của doanh nghiệp.
Các chỉ tiêu hiệu quả của doanh nghiệp.
Các chỉ tiêu của hệ thống này được xây dựng bằng cách sử dụng các chỉ tiêu về hiệu quả và chỉ tiêu chi phí, đặt chúng trong các mối quan hệ thích ứng với nhau.
Trong đó:
Dt: Là chỉ tiêu doanh lợi t (với L là lao động L)
Vốn (V) giá thành (Z) và sản xuất.
Nt: là chỉ tiêu năng suất
(t là L.V.Z)
St: là chỉ tiêu hao suất phí t
(t là L.V.S)
VL là trang bị vốn cho lao động.
Nếu ta coi bảng 1 và 4 ô được hình thành bởi sự kết hợp tương quan giữa kết quả và chi phí ở 3 nên bảng thì trong thực tế ta quan tâm hơn cả đến góc phần tư thứ (I) và ta có thể coi đó là các chỉ tiêu hiệu quả kinh tế của doanh nghiệp.
I
Các chỉ tiêu hiệu quả kinh tế của doanh nghiệp
IV
Các chỉ tiêu chi phí trên chi phí
II
Các chỉ tiêu hiệu quả trên kết quả
V
Các chỉ tiêu chi phí trên kết quả
Kết quả
Chi phí
LN
SX
L
V
Z
Chi phí
L
= DL
= NL
= DL
V
= DV
= NZ
Z
= DZ
= NZ
Kết quả
LN
SX
= DSX
= SL
= SV
= SZ
Để biểu diễn các chi phí có hiệu quả kinh tế của doanh nghiệp ta có thể sử dụng sơ đồ đơn giản sau đây:
Sơ đồ biểu diễn các chỉ tiêu hiệu quả của doanh nghiệp
Kết quả
LN
SX
Chi phí
L
DL
NL
Hiệu quả về lao động
V
DV
NV
Hiệu quả về vốn
Z
DZ
NZ
Hiệu quả về chi phí
Doanh lợi
Năng suất
Sơ đồ trên cho ta thấy để phản ánh hiệu quả của một yếu tố chi phí nào đó (lao động, vốn hoặc giá thành) có 2 chỉ tiêu hiệu quả tương ứng đó là chỉ tiêu về doanh lợi và chỉ tiêu về năng suất.
2-/ Các chỉ tiêu đánh giá vốn lưu động.
Sức sản xuất của vốn lưu động.
SSX =
- Chỉ tiêu này cho thấy một đồng vốn lưu động đem lại mấy đồng giá trị sản lượng hay doanh số:
* Sức sinh lời của vốn lưu động SSL
SSL =
- Chỉ tiêu này phản ánh một đồng vốn lưu động làm ra mấy đồng lợi nhuận trong kỳ.
* Số vòng quay của vốn lưu động SVq
SVq =
- Chỉ tiêu này thể hiện số ngày cần thiết cho vốn lưu động quay được một vòng, TLC càng nhỏ, tốc độ luân chuyển vốn càng lớn, ở đây:
= -
+ Thời gian của kỳ phân tích theo quy ước để đơn giản thì thời gian tháng là 30 ngày, quý là 90 ngày và năm là 360 ngày.
+ Vốn lưu động bình quân.
Bình quân tháng =
Bình quân quý =
Bình quân năm =
* Các hệ số xác định khả năng thanh toán của doanh nghiệp.
+ Hệ số khả năng thanh toán hiện tại (Ht)
Ht =
TLĐ: Tài sản lưu động của doanh nghiệp bao gồm, vốn hàng hoá, vốn bằng tiền khác, các khoản phải thu.
Nn: Tổng số nợ của doanh nghiệp bao gồm các khoản nợ vay các khoản phải nộp, phải trả.
Hệ số thanh toán hiện tại của doanh nghiệp càng lớn thì mức độ rủi ro của doanh nghiệp càng nhỏ và ngược lại.
Hệ số và khả năng thanh toán nhanh (Htn)
Htn =
Vđt: Tài sản dự trữ tồn kho của doanh nghiệp.
Ngoài hai hệ số trên người ta còn sử dụng hệ số nợ (NHN) hệ số nợ dùng để xem xét khả năng mức độ có thể vay vốn của doanh nghiệp, mặt khác giúp cho người đi vay đánh giá được mức độ an toàn (đảm bảo) đối với vốn cho vay của họ.
Hệ số nợ HHN =
VI-/ Quản lý vốn lưu động và mối quan hệ với vốn lưu động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Một trong những vấn đề góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất - kinh doanh ở các doanh nghiệp hiện nay đang nóng bỏng là vấn đề quản lý sử dụng vốn lưu động.
Quản lý sử dụng vốn lưu động gồm các nội dung sau:
+ Định mức vốn lưu động hợp lý theo cơ cấu, hợp lý về kế hoạch hoá nguồn vốn chính xác.
+ Thường xuyên phân tích các chỉ tiêu hiệu quả sử dụng vốn lưu động để xác định khả năng tiềm tàng nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động.
+ Tìm các biện pháp cải tiến quản lý vốn như: Xem xét lại định mức vốn lưu động và cơ cấu vốn lưu động cho hợp lý, các biện pháp làm tăng nhanh vòng quay của vốn lưu động. Các biện pháp làm giảm hết các chi phí sản xuất và lưu thông làm tăng doanh thu và lợi nhuận.
1-/ Quan hệ giữa các chỉ tiêu năng suất và doanh lợi.
Trước hết là tìm mối quan hệ giữa chỉ tiêu doanh lợi lao động với chỉ tiêu năng suất lao động sau đó sẽ suy ra các mối quan hệ tương tự của chỉ tiêu doanh lợi vốn chỉ tiêu năng suất của các yếu tố chi phí khác.
Từ công thức:
DL =
Ta biến đổi như sau:
DL =
=
Vậy: DL = NL x DSX
Cũng biến đổi tương tự ta có kết quả:
DL = NL x DSX
DV = NV x DSX
DZ = NZ x DSX
Như vậy ta thấy DSX là yếu tố liên kết giữa các chỉ tiêu doanh lợi và các chỉ tiêu năng suất. Ta đã biến các chỉ tiêu năng suất và các chỉ tiêu doanh lợi của cùng một yếu tố chi phí khác nhau ở chỗ ta dùng đại lượng. Kết quả nào làm cơ sở tính (với chỉ tiêu năng suất thì đại lượng kết quả là SX, với chỉ tiêu doanh lợi ta dùng đại lượng kết quả là LN).
Với lợi nhuận chịu tác động của sản xuất và các yếu tố khác nữa nên các chỉ tiêu doanh lợi có tính tổng hợp cao hơn là chỉ tiêu năng suất. Các chỉ tiêu doanh lợi phản ánh những biểu hiện tác động tổng hợp nhất định, còn các chỉ tiêu năng suất phản ánh một phần quan trọng của những nguyên nhân tạo nên, những tác động vốn doanh lợi phần còn lại phải tìm trong mối quan hệ giữa lợi nhuận và sản xuất. Vậy ta có thể thấy nguyên nhân của sự tăng các chỉ tiêu doanh lợi của một mặt do tác động của các chỉ tiêu năng suất - mặt khác do quan hệ giữa lợi nhuận và sản xuất. Vậy ta có thể thấy nguyên nhân của sự tăng các chỉ tiêu doanh lợi của một mặt do tác động của các chỉ tiêu năng suất - mặt khác do quan hệ giữa lợi nhuận và sản xuất tạo ra mối quan hệ đó chính là chỉ tiêu doanh lợi sản xuất DSX.
Nguyên nhân tổng hợp tập trung ở chỉ tiêu doanh lợi sản xuất, tức là được đo bằng tỷ trọng của lợi nhuận trong giá trị sản lượng hàng hoá tăng doanh thu sản xuất, ít nhất trong trường sản xuất như cũ là biết hiện tăng khối lượng lợi nhuận và tạo ra tiền đề tốt hơn để tái sản xuất mở rộng của doanh nghiệp. Vậy doanh lợi là sản xuất tức là mức lãi trung bình trên một đồng giá trị sản lượng hàng hoá. Không phải là chỉ tiêu hiệu quả nhưng nó có thể coi là chỉ tiêu liên kết giữa các chỉ tiêu doanh lợi và các chỉ tiêu năng suất của một yếu tố chi phí.
Doanh lợi sản xuất phụ thuộc vào số lượng giá cả sản phẩm và giá thành sản lượng hàng hoá được tạo ra tổng phạm vi của mình doanh nghiệp chỉ có thể tác động ở một mức độ nhất định đến doanh lợi sản xuất, phần quan trọng còn lại tác động đến doanh lợi là do các điều kiện của thị trường đặc biệt là giá cả và cơ cấu của mặt hàng và từ đó chúng tác động lên hiệu quả của kinh tế của doanh nghiệp. Vì vậy dưới một góc độ nào đó ta có thể coi chỉ tiêu doanh lợi sản xuất như là một chỉ tiêu thể hiện các điều kiện khách quan từ thị trường.
2-/ Quan hệ giữa hiệu quả lao động và hiệu quả vốn.
Mối quan hệ giữa các chỉ tiêu này thể hiện những mối liên hệ nhất định giữa lao động sống và lao động vật hoá ta biết rằng lao động sống trong quá trình phát triển sản xuất và kinh tế cùng với sự ứng dụng của tiến bộ khoa học công nghệ thì dần dần nó được thay bằng lao động vật hoá và toàn bộ chi phí sản xuất cho một đơn vị sản phẩm ngày càng giảm. Quá trình này là một nhân tố quan trọng trong việc nâng cao năng suất lao động và được thể hiện trong việc nâng cao chỉ tiêu trang bị vốn cho lao động.
Muốn giảm chi phí về lao động, kể cả lao động sống và lao động vật hoá cho một đơn vị sản phẩm cần phải thực hiện được một sản phẩm, một khối lượng sản xuất lớn bằng số vốn và tài sản vật chất được trang bị tức là phải nâng cao hiệu quả của vốn. Ta có thể nhận thấy điều đó trong mối quan hệ giữa các chỉ tiêu hiệu quả lao động và các chỉ tiêu hiệu quả về vốn.
Từ công thức
DL = =
Vậy DV = DV x VL
và từ:
NL =
Tóm lại: DV = DV x DL
NV = NV x VL+
Ta thấy ở đây trang bị vốn cho lao động (VL) và năng suất vốn (NV) là nguyên nhân tổng hợp chủ yếu, năng suất lao động (NV) là nguyên nhân tổng hợp chủ yếu. Năng suất lao động (NL) còn trang bị vốn cho lao động và doanh nghiệp vốn (DV) là nguồn vốn của doanh lợi lao động (DL). Ngoài ra chỉ tiêu trang bị vốn cho lao động là chỉ tiêu liên kết giữa hiệu quả lao động và hiệu quả vốn. Cần phải nói thêm rằng việc khảo sát mối quan hệ giữa hai loại chỉ tiêu hiệu quả lao động và hiệu quả vốn như đã trình bày là một căn cứ để đánh giá tự tăng trưởng của hiệu quả phục vụ cho công tác quyết định ở doanh nghiệp. Khi phân tích vốn sản xuất là cần phải nghiên cứu đi sâu và phân tích sự khác nhau giữa hai thành phần nói trong sản xuất kinh doanh là vốn cố định và vốn lưu động.
3-/ Quan hệ giữa hiệu quả vốn và hiệu quả giá thành.
Chỉ tiêu hiệu quả vốn và hiệu quả chi phí khác nhau ở chỗ với hiệu quả vốn là lấy mức vốn, còn trong trường hợp thứ hai là tiêu hao về lao động vật hoá và lao động sống quan hệ giữa vốn và chi phí thường xuyên trong giá thành được thể hiện đặc trưng từng chỉ tiêu. Tốc độ chu chuyển vốn (TCV = Z/V). Nâng cao chỉ tiêu này là một nhân tố quan trọng để nâng cao hiệu quả vì nó có nội dung kinh tế là giảm sử dụng vốn đối với mọi đơn vị sản phẩm. Tốc độ chu chuyển vốn cố định và vốn lưu động có khác nhau, tăng tốc độ chu chuyển của vốn lưu động, cho phép ta tiết kiệm vốn và có thể sử dụng vốn đó cho mở rộng, tài sản cố định còn tăng tốc độ chu chuyển vốn cố định có tác động là giảm nhu cầu về vốn đầu tư và trong điều kiện tăng khối lượng sản xuất sẽ góp phần hoặc chi phí sản xuất cho đơn vị sản phẩm. Vì vậy ta thấy cần phải lưu ý hơn đến các chi tiêu tốc độ chu chuyển vốn trong việc xác định hiệu quả.
Có thể nhận định bằng hiệu quả vốn càng lớn nếu chúng ta sử dụng hay (hay tiêu hao) càng nhanh và kết quả sản xuất càng lớn sơ với tiêu hao về lao động vật hoá và lao động sống trong giá thành sản phẩm.
Từ công thức.
DV =
NV =
Sơ đồ liên kết giữa các chỉ tiêu hiệu quả
DL
DV
DZ
DSX
DSX
DSX
NL
NV
NZ
Hiệu quả lao động
Hiệu quả vốn
Hiệu quả chi phí
VL
TVC
VII-/ Phương pháp xác định vốn lưu động định mức hợp lý.
Kế hoạch vốn lưu động là thành phần trong kế hoạch tài chính của doanh nghiệp nó phản ánh tình hình hoạt động trong các khâu sản xuất, cung cấp và tiêu thụ của doanh nghiệp kế hoạch vốn lưu động được phản ánh trên 4 vấn đề sau:
+ Doanh nghiệp cần bao nhiêu vốn lưu động định mức.
+ Tốc độ chu chuyển của vốn lưu động.
+ Vốn lưu động của doanh nghiệp được bao nhiêu ? có đảm bảo các mặt vốn vay không?
+ Vốn lưu động của doanh nghiệp thừa hay thiếu.
* Căn cứ vào khoa học để lập kế hoạch.
Dựa vào kế hoạch thu chi tài vụ tháng, kế hoạch này bố trí các khoản thu chi lớn trong tháng của doanh nghiệp theo hình thức thu chi tiền tệ - kế hoạch này thực chất là bố trí thống nhất các hoạt động kinh tế của doanh nghiệp kết hợp giữa kế hoạch sản xuất với kế hoạch thu mua nguyên vật liệu, kế hoạch tiêu thụ và kế hoạch tiêu dùng, nó phản ánh tổng hợp kế hoạch vốn và kế hoạch vay vốn của doanh nghiệp.
Chi lớn trong tháng của doanh nghiệp theo hình thức thu chi tiền tệ để lập được kế hoạch vốn lưu động cần phải cân đối thống nhất toàn diện sự chủ trì của ban lãnh đạo doanh nghiệp.
* Các yếu tố về vốn lưu động định mức.
1-/ Xác định vốn lưu động ở khâu dự trữ.
Mức vốn dự trữ trong sản xuất phụ thuộc vào bảng tiêu hao bình quân mỗi ngày trong kỳ kế hoạch trong điều kiện không đổi số tiêu hao vật tư bình quân mỗi ngày của doanh nghiệp càng nhiều thì mức dự trữ càng lớn. Do đó định mức dự trữ sản xuất của doanh nghiệp phụ thuộc vào nhiệm vụ sản xuất của doanh nghiệp.
1. Giá cả vật tư, giá vật tư cao làm cho định mức dự trữ vốn cho sản xuất càng nhiều và ngược lại.
- Tốc độ luân chuyển vốn dự trữ sản xuất. Tốc độ luân chuyển vốn càng nhanh thì định mức vốn dự trữ càng ít, mà tốc độ luân chuyển vốn dự trữ càng ít mà tốc độ luân chuyển vốn dự trữ phụ thuộc vào điều kiện cung cấp, điều kiện vận tải vật tư, phương thức thanh toán tiền hàng. Định mức vốn dự trữ cho sản xuất là số vốn cần thiết cho quá trình từ lúc bỏ tiền mua vật tư (các loại nguyên vật liệu) để lúc đưa chúng vào sản xuất. Do đó số ngày định mức dự trữ nói chung gồm số ngày vật tư đi trên đường. Số ngày luân chuyển nhận, số ngày cung cấp cách nhau, số ngày chuẩn bị và số ngày bảo hiểm, từ những yếu tố trên lên định mức dự trữ vốn phụ thuộc vào.
- Số phí tổn tiêu hao bình quân mỗi ngày.
- Số ngày định mức.
Việc xác định vốn lưu động dự trữ cần phải kết hợp chặt chẽ với kế hoạch thu mua nguyên vật liệu và dự toán chi phí của doanh nghiệp vốn lưu động dự trữ được tính toán căn cứ vào mức luân chuyển kế hoạch hàng ngày và định mức số ngày dự trữ (mức luân chuyển kế hoạch hàng ngày = mức luân chuyển năm/360).
= + + + +
Trong thực tế để sản xuất ra sản phẩm doanh nghiệp sử dụng nhiều loại nguyên vật liệu khác nhau. Để sử dụng vốn lưu động một cách hiệu quả nhất doanh nghiệp không phải mua tất cả cùng một lúc các nguyên vật liệu, có thể dùng loại này mua loại khác.
- Phương pháp tính vốn lưu động định mức cho khâu dự trữ ngày càng được áp dụng tính cho nguyên liệu chính và nguyên liệu phụ, nhiên liệu.
2-/ Xác định vốn lưu động ở khâu sản xuất.
Vốn lưu động ở khâu này được xác định riêng cho từng loại sản phẩm dở dang, bán thành phẩm tự chế và chi phí chờ phân bổ. Những nhân tố quyết định mức sản phẩm đang chế tạo này:
+ Quy mô sản xuất, nếu điều kiện khác không thay đổi thì quy mô sản xuất của doanh nghiệp càng lớn, định mức sản phẩm dở dang (đang chế tạo) càng nhiều.
+ Chu kỳ sản xuất: Nếu chu kỳ càng dài thì vốn sản phẩm dở dang (đang chế tạo) càng lớn.
+ Giá thành sản phẩm: Vốn sản phẩm đang chế tạo phản ánh giá thành sản phẩm, vậy giá thành sản phẩm cao hay thấp cũng ảnh hưởng rất lớn đến vốn sản xuất đang chế tạo và ngược lại nếu giá thành sản phẩm đang chế tạo hạ sẽ làm cho sản phẩm đó xuống.
+ Hệ số sản phẩm đang chế tạo dở dang chính là tỷ lệ giữa giá thành bình quân sản phẩm đang chế tạo và sản phẩm chưa chế tạo xong nên giá thành của nó nhỏ hơn giá thành đơn vị sản phẩm.
3-/ Xác định vốn định mức ở khâu lưu động.
Vốn định mức ở khâu tiêu thụ bao gồm vốn định mức cho thành phẩm đó phụ thuộc và số lượng sản phẩm hàng hoá giá thành công xưởng hàng hoá, số ngày quy định mức hoàn thành (khoảng thời gian từ lúc sản phẩm chế tạo xong cho đến khi tiêu thụ được và thu được vốn tiền).
Vốn định mức cho sản phẩm được xác định.
= x
Trong tất cả các phần vốn ở các khâu dự trữ sản xuất, tiêu thụ chỉ có vốn lưu động trong khâu sản xuất là trực tiếp tham gia vào việc tạo ra các giá trị mới của sản phẩm tức là khả năng sinh lời. Còn vốn lưu động trong các khâu dự trữ, lưu thông tuy rất cần thiết cho sản xuất nhưng không có khả năng sinh lời, do đó trong việc xác định vốn lưu thông định mức cho từng khâu đòi hỏi phải tính toán thật chính xác và hạn chế tới mức thấp nhất vốn cho dự trữ và tiêu thụ, tăng lượng vốn cho sản xuất để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn.
4-/ Phân tích hiệu quả sử dụng vốn lưu động.
Ngoài việc định mức vốn lưu động hợp lý, cần phân tích hiệu quả sử dụng vốn lưu động sau một kỳ công tác, các chỉ tiêu phân tích hiệu quả sử dụng vốn lưu động gồm có.
4.1- Số vòng quay của vốn (N)
N =
Trong đó: N là vòng quay của vốn lưu động trong kỳ kế hoạch
Q là doanh thu của cả kỳ kế hoạch sau khi trừ thuế.
Vbq là vốn lưu động định mức bình quân năm.
Vbo = (VLđk + SVT) (T+1)
Trong đó: SVT - số dư vốn lưu động từng thời điểm trong kỳ kế hoạch chi tiêu.
N - thể hiện vốn lưu động quay được mấy vòng trong kỳ nó được gọi là hệ số luân chuyển vốn.
4.2- Thời gian của một vòng quay.
T = Tkh/n = 360/n
Trong đó: Tkh - số ngày kỳ kế hoạch (năm 360, quý 90, tháng 30 ngày)
Chỉ tiêu này thể hiện rõ số ngày cần thiết cho vốn lưu động quay được một vòng (T) càng nhỏ thì tốc độ luân chuyển của vốn lưu động càng lớn.
4.3- Tỷ suất về vốn (J)
J = Vbq/Q = 1/n
Chỉ tiêu này thể hiện cho ta thấy mức tiêu dùng vốn cho một đồng doanh thu.
4.4- Doanh lợi vốn lưu động.
Doanh lợi vốn lưu động =
ý nghĩa việc nâng cao tốc độ chu chuyển vốn lưu động (nâng cao số vòng quay).
+ Khi n1 < n2 và Q1 = Q2 = const
- Nếu vòng quay vốn lưu động tăng trong khi doanh thu không đổi thì doanh nghiệp tiết kiệm được vốn vì:
SV = V1 - V2
V = Q/n ị Q = n - V ị Q1 = Q2 ịn1V1 = n2V2
ị V2 = n1/n2 x V1 ị SV = V1 - V2 = V1 = n1/n2 x V1 = (1- n1/n2) x V1
+ Khi n1 < n2 và V1 = V2 = const
Trong trường hợp này doanh nghiệp tăng doanh thu sẽ tăng lợi nhuận, tăng thuế, nếu như doanh nghiệp làm ăn có lãi và ngược lại.
Thật vậy: V1 = V2 ị Q1/n1 = Q2/n2 ị Q2 = n2/n1 - Q1
Ngoài ra nói đến vốn lưu động trong kinh doanh hiện đại không thể không đến hệ số khả năng thanh toán.
4.5- Hệ số và khả năng thanh toán hiện tại.
Ht = V1đ/Nn
V1đ - là vốn lưu động của doanh nghiệp (tài sản lưu động, vốn hàng hoá, vốn tiền tệ).
Nn - là tổng số nợ của doanh nghiệp (nợ vay phải nộp, phải trả).
Hệ số thanh toán của doanh nghiệp càng lớn rủi ro càng nhỏ ngược lại.
+ Hệ số về khả năng thanh toán nhanh (Htn)
Htn = (V1đ - Vdt)/Nn.
Vdt - là tài sản tồn kho của doanh nghiệp.
Hệ số nợ (NHn - Nn/V1đ)
Hệ số này giúp xem xét khả năng mức độ có thể cho vay vốn của doanh nghiệp, giúp người cho vay đánh giá đúng mức độ an toàn đối với vốn vay của họ.
Các chỉ tiêu lợi nhuận doanh thu chi phí luôn luôn có mối quan hệ mật thiết với nhau (lợi nhuận = doanh thu - chi phí0.
Vậy với một mức doanh thu nhất định, chi phí càng nhỏ thì lợi nhuận càng lớn. Nếu các chi phí không phản ánh được trong thực tế thì lợi nhuận thu được cũng sẽ không phản ánh được thực chất kết quả quá trình sản xuất kinh doanh.
Phải tìm các biện pháp nhằm làm giảm chi phí, tăng lợi nhuận, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, phải dựa trên cơ sở phản ánh chính xác, đầy đủ các loại chi phí.
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường hiện nay có nhiều biến động về giá cả. Để đảm bảo phản ánh đầy đủ kết quả sản xuất kinh doanh hiệu quả sử dụng vốn chính xác đòi hỏi các doanh nghiệp phải thực hiện nghiêm túc chế độ bảo toàn vốn.
VIII-/ Tìm các biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động.
Sau khi phân tích các chỉ tiêu, hiệu quả sử dụng vốn lưu động của kỳ trước, doanh nghiệp phải tìm biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động. Trong sản xuất kinh doanh có nhiều phương hướng giúp doanh nghiệp sử dụng tiết kiệm và có hiệu quả kinh tế cao nhất, nguồn lợi, tài nguyên về tiền hàng, số lao động và các tiềm năng về kỹ thuật công nghệ. Từ đó nâng cao hiệu quả sử dụng vốn trong sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Dưới đây chỉ là trình bày một số phương hướng.
1-/ Lựa chọn phương án kinh doanh, chính sách sản phẩm trong nền kinh tế thị trường.
Hiện nay doanh nghiệp nào lựa chọn được phương án kinh doanh và chính sách sản phẩm đúng đắn, đảm bảo huy động được mọi nguồn vốn kỹ thuật, lao động trong nền kinh tế thị trường. Khi quy mô và tính chất kinh doanh của doanh nghiệp. Không hoàn toàn do doanh nghiệp tự quyết định, mà do chính thị trường quyết định, thì khả năng nhận biết và dự đoán thời cơ là yếu tố quan trọng quyết định mọi thành công hay thất bại trong kinh doanh của doanh nghiệp. Do đó doanh nghiệp nhất thiết phải lựa chọn được phương án kinh doanh và chính sách sản phẩm đúng với thị trường.
Để có sự lựa chọn đúng đắn hẳn hoi, phương án kinh doanh và chính sách sản phẩm của doanh nghiệp phải được xây dựng trên cơ sở nghiên cứu kỹ lưỡng nhu cầu khả năng cung cầu của thị trường về một loại sản phẩm dịch vụ nào đó năng lực của doanh nghiệp trước nhu cầu biến động về giá cả và tình hình cạnh tranh đối thủ có thể có.
2-/ Sử dụng hợp lý các nguồn vốn.
Trong sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp có thể huy động vốn cho sản xuất tư nhân nguồn vốn khác nhau, nguồn vốn ngân sách, nguồn vốn tự bổ sung, nguồn vốn tín dụng. Việc lựa chọn sử dụng nguồn vốn là rất quan trọng và phải dựa trên nguyên tắc hiệu quả kinh tế. Nếu đầu tư cho chiều sâu hoặc mở rộng thì trước hết cần huy động nguồn vốn và bổ sung, lợi nhuận để lại từ quỹ phát triển sản xuất, còn lại phần thiếu mới hay quỹ tín dụng, ngân hàng, thu hút vốn liên doanh liên kết (của người vay vốn) thường phải chịu lãi từ đó sẽ cản trở việc phát huy hiệu quả của đồng vốn. Nếu doanh nghiệp dư dật vốn thì tuỳ từng điều kiện để lựa chọn phương án sử dụng, có thể dùng để liên doanh, cho vay nhưng phải được tính toán, cân nhắc kỹ lưỡng để tránh những việc rủi ro do việc liên doanh cho vay đem lại.
3-/ Tổ chức tốt quá trình kinh doanh.
Là đảm bảo cho quá trình đó được vận hành tốt nhất, đều đặn nhịp nhàng giữa các khâu, các bộ phận dự trữ sản xuất, tiêu thụ sản phẩm, đảm bảo phối hợp ăn khớp, chặt chẽ của đơn vị bộ phận trong nội bộ của doanh nghiệp. Làm sao cho doanh nghiệp có thể tạo ra những sản phẩm có chất lượng tốt, giá thành hạ, tiêu thụ và thu được tiền nhanh. Tổ chức điều hành tốt quá trình sản xuất kinh doanh sẽ hạn chế được những thiệt hại do tình trạng ngừng việc của máy móc, thiết bị ứ đọng, vật tư sản phẩm làm chậm tiến độ luân chuyển vốn.
* Quản lý đối với vốn lưu động.
Việc sử dụng tiết kiệm, tăng tốc độ luân chuyển vốn lưu động có ý nghĩa quyết định hiệu quả sử dụng vốn lưu động và hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh. Muốn làm được điều đó thì doanh nghiệp cần thiết phải áp dụng các biện pháp sau đây:
+ Xác định đúng nhu cầu vốn lưu động cần thiết có từng thời kỳ, từng giai đoạn sản xuất, từng khâu sản xuất để có kế hoạch sử dụng huy động các nguồn vốn hợp lý.
+ Huy động vốn tối đa cho sản xuất hạn chế vốn khâu dự trữ và lưu thông. Tổ chức quá trình thu mua, dự trữ vật tư, bảo đảm giảm giá chi phí cho nguyên vật liệu mua ngoài, hạn chế tình trạng ứ đọng vốn, do dự trữ vật tư hàng hoá làm kém hoặc giảm phẩm chất vật tư dẫn đến tăng chi phí vật tư trong giá thành sản phẩm.
+ Quản lý chặt chẽ về sử dụng vật tư theo định mức, từ đó giảm chi phí vật tư trong giá thành sản phẩm.
+ Tổ chức hợp lý quá trình lao động: hạn chế tối đa sản phẩm hỏng, kém phẩm chất. Coi trọng việc sử dụng các đòn bẩy kinh tế khuyến khích sản xuất như: tiền lương, tiền thưởng, động viên CBCNV nâng cao năng suất, chất lượng hiệu quả lao động tiết kiệm được chi phí tiền lương, sử dụng đúng người đúng việc.
+ Xây dựng tốt mối quan hệ bạn hàng, củng cố uy tín của doanh nghiệp trên thị trường, tổ chức tốt quá trình thanh toán.
+ Tiết kiệm các yếu tố chi phí quản lý doanh nghiệp chi phí lưu thông làm giảm chi phí sản xuất.
4-/ Đổi mới công nghệ áp dụng tiến độ khoa học kỹ thuật mới vào sản xuất.
Hoạt động sản xuất kinh doanh trong nền kinh tế thị trường hiện nay đòi hỏi doanh nghiệp phải chịu thử thách khốc liệt của quá trình cạnh tranh giữa các doanh nghiệp để tự khẳng định mình.
Chất lượng hàng hoá giá thành sản phẩm quyết định thắng bại của doanh nghiệp trong cạnh tranh. Việc áp dụng kỹ thuật công nghệ mới vào sản xuất cho phép tạo ra những sản phẩm có chất lượng tốt, với giá thành hạ tạo đà đảm bảo cho doanh nghiệp chiến thắng trong cạnh tranh với các đối thủ của mình. Kỹ thuật tiến bộ và công nghệ hiện đại là điều kiện vật chất giúp cho doanh nghiệp sản xuất ra những sản phẩm mới có chất lượng cao hợp thị trường người tiêu dùng.
Trong vấn đề đang phát triển của đất nước, hiện nay vấn đề tiêu thụ cũng đòi hỏi rất cao nhờ đó doanh nghiệp có thể tăng nhanh khối lượng tiêu thụ, tăng doanh thu, tăng lợi nhuận, đồng thời khi áp dụng tiến độ khoa học kỹ thuật sẽ rút ngắn được chu kỳ sản xuất, giảm tiêu hao nguyên vật liệu, giảm sử dụng v._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- C0116.doc