Quản trị rủi ro trong các Ngân hàng Thương mại Việt Nam

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM -----oOo----- NGUYỄN TIẾN LONG QUẢN TRỊ RỦI RO TRONG CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM Chuyên ngành : Tài chính Doanh nghiệp Mã số : 60.31.12 LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ Người hướng dẫn khoa học: PGS – TS NGUYỄN NGỌC ĐỊNH Thành phố Hồ Chí Minh Năm 2008 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu, khảo sát và thực hiện của riêng tôi. Các số liệu, kết quả nghiên cứu trong luận văn là trung thực và có

pdf115 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1767 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Quản trị rủi ro trong các Ngân hàng Thương mại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nguồn gốc trích dẫn rõ ràng. TÁC GIẢ NGUYỄN TIẾN LONG MỤC LỤC PHẦN MỞ ĐẦU ................................................................................................... 1 CHƯƠNG I: LÝ LUẬN TỔNG QUAN ............................................................. 3 1.1 Hoạt động của Ngân hàng thương mại trong nền kinh tế thị trường. ... 3 1.2 Rủi ro trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại: .......... 3 1.2.1. Các loại rủi ro trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại.... 4 1.2.1.1 Rủi ro tín dụng ................................................................................ 4 1.2.1.2 Rủi ro thanh khoản.......................................................................... 4 1.2.1.3 Rủi ro thị trường ............................................................................. 5 1.2.1.4 Rủi ro tác nghiệp............................................................................. 6 1.2.2 Nguyên nhân rủi ro trong hoạt động kinh doanh ngân hàng: .......... 7 1.2.2.1 Những nguyên nhân khách quan..................................................... 7 1.2.2.2 Nhóm nguyên nhân từ phía khách hàng của ngân hàng................. 7 1.2.2.3 Nhóm nguyên nhân thuộc về bản thân ngân hàng .......................... 8 1.2.3 Hậu quả rủi ro trong hoạt động kinh doanh của NHTM................... 8 1.2.3.1 Hậu quả của rủi ro đối với ngân hàng............................................ 8 1.2.3.2 Hậu quả của rủi ro đối với khách hàng .......................................... 9 1.2.3.3 Hậu quả của rủi ro đối với nền kinh tế ......................................... 10 1.3 Năng lực quản trị rủi ro trong hoạt động kinh doanh của NHTM. .... 11 1.3.1. Quản lý rủi ro và quản trị rủi ro ....................................................... 11 1.3.2 Năng lực quản trị rủi ro của ngân hàng thương mại. ...................... 13 1.3.3 Các chỉ tiêu phản ánh năng lực quản trị rủi ro của NHTM. ........... 15 1.3.3.1 Các chỉ tiêu định lượng................................................................. 15 1.3.3.2. Các chỉ tiêu định tính ................................................................... 18 1.4 Sự cần thiết phải nâng cao năng lực quản trị rủi ro của ngân hàng ... 20 1.4.1 Xuất phát từ đặc điểm và hậu quả của rủi ro trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại.............................................................. 20 1.4.2 Năng lực quản trị rủi ro tốt là điều kiện quan trọng để nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động kinh doanh của NHTM. ............................. 21 1.4.3 Xu thế hội nhập quốc tế và tòan cầu hóa đòi hỏi phải nâng cao năng lực quản trị rủi ro. ....................................................................................... 21 1.5 Khủng hoảng kinh tế tài chính tòan cầu và những cảnh báo cho hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam ....................................................... 22 1.5.1 Nợ dưới chuẩn – Hậu quả của sản phẩm tài chính hiện đại nhưng nhiều rủi ro .................................................................................................. 22 1.5.2 Hạn chế dư chấn của “Khủng hoảng cho vay dưới chuẩn Mỹ” đến thị trường tài chính quốc tế......................................................................... 24 1.5.3 Bài học cho các Ngân hàng thương mại Việt Nam .......................... 26 CHƯƠNG II: QUẢN TRỊ RỦI RO TRONG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM .......................................................................................................... 28 2.1 Thực trạng hoạt động Ngân hàng thương mại Việt Nam.................... 28 2.1.1 Quy mô tăng vốn ................................................................................. 28 2.1.2 Tình hình huy động vốn ..................................................................... 29 2.1.3 Thực trạng rủi ro trong kinh doanh NHTM Việt Nam ................... 31 2.1.3.1 Rủi ro tín dụng .............................................................................. 31 2.1.3.2 Rủi ro ngoại hối (Rủi ro thị trường) ............................................. 40 2.1.3.3 Rủi ro lãi suất (Rủi ro thị trường)................................................. 46 2.1.3.4 Rủi ro thanh khoản....................................................................... 49 2.1.3.5 Rủi ro tác nghiệp........................................................................... 54 2.2 Các nhân tố ảnh hưởng đến năng lực quản trị rủi ro trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại. ....................................................... 57 2.2.1 Chất lượng nguồn nhân lực: ............................................................. 57 2.2.2 Năng lực tài chính của ngân hàng: ................................................... 58 2.2.3 Quy mô vốn chủ sở hữu: .................................................................... 58 2.2.4 Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu:................................................................. 58 2.2.5 Điều kiện cơ sở vật chất, kỹ thuật, công nghệ của ngân hàng ......... 59 2.2.6 Môi trường kinh tế xã hội và kinh doanh.......................................... 60 2.3 Những thách thức đối với ngân hàng Thương mại Việt Nam trong điều kiện hiện nay ................................................................................................... 61 2.3.1 Về hành lang pháp lý.......................................................................... 61 2.3.2 Về khả năng cạnh tranh ..................................................................... 63 CHƯƠNG III: GIẢI PHÁP GIA TĂNG HIỆU QUẢ QUẢN TRỊ RỦI RO 65 TRONG CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM .......................... 65 3.1 Giải pháp đối với các ngân hàng thương mại.......................................... 65 3.1.1 Giải quyết vấn đề vốn cho ngân hàng................................................ 65 - Đa dạng hoá các phương thức huy động vốn. .............................................. 66 3.1.2 Thực hiện mô hình kiểm soát, dự đoán và định lượng rủi ro họat động tín dụng. .............................................................................................. 69 3.1.3 Giải pháp đối với hoạt động kinh doanh ngoại tệ ............................. 72 3.1.4 Đối với nghiệp vụ thanh toán. ............................................................ 73 3.1.5 Đối với chính sách lãi suất ................................................................. 74 3.1.6 Công tác quản lý nhân lực và đào tạo cán bộ. .................................. 74 3.1.7 Hiện đại hoá công nghệ ngân hàng................................................... 76 3.2 Những đề xuất đối với NHNN Việt Nam.................................................. 78 3.2.1 Thực hịên quy định chung theo sự điều chỉnh của Basel II ............ 78 3.2.2 Phát huy sức mạnh tài chính cho các NHTM: ................................. 80 3.2.3 Phát triển thị trường sản phẩm phái sinh ......................................... 81 PHẦN KẾT LUẬN: ........................................................................................... 88 PHỤ LỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT NHTM Ngân hàng thương mại NHNN Ngân hàng Nhà nước NHVN Ngân hàng Việt Nam NHTMNN Ngân hàng thương mại Nhà nước NHLD Ngân hàng liên doanh WTO (World trade organision) Tổ chức Thương mại thế giới NH Ngân hàng TCTD Tổ chức tín dụng NQH Nợ quá hạn DANH MỤC CÁC BẢNG VÀ SƠ ĐỒ Danh mục Trang Sơ đồ 1.1 : Quy trình quản trị rủi ro ...................................................................12 Bảng 2.1 : Hệ số an toàn vốn của một số ngân hàng .........................................29 Bảng 2.2 : Tình hình huy động vốn của một số ngân hàng ...............................29 Bảng 2.3 : Tình hình tín dụng của một số ngân hàng ........................................30 Bảng 2.4 : Tóm tắt quá trình phát triển các công cụ tài chính phái sinh ...........62 1 PHẦN MỞ ĐẦU 1.Tính cấp thiết của đề tài Trong những năm gần đây hoạt động của hệ thống NHTM Việt Nam đang trong quá trình đổi mới thích ứng với nền kinh tế thị trường, góp phần không nhỏ trong việc tạo đà cho nền kinh tế quốc dân phát triển. Tuy nhiên bên cạnh những chuyển biến vượt bậc đó thì vấn đề rủi ro trong hệ thống NHTM Việt Nam cũng đang diễn ra hết sức phức tạp, Ngân hàng dễ trở thành nạn nhân của nền kinh tế thị trường khi không có những biệp pháp phòng ngừa hữu hiệu, những rủi ro mang lại không chỉ là từ các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh thua lỗ hay do các vụ lừa đảo mà còn bao gồm rất nhiều rủi ro từ thị trường như rủi ro về thanh khoản, rủi ro về thị trường (lãi suất, tỷ giá hối đoái .v.v) . Trong năm 2007 Việt Nam đã phải đối mặt với lạm phát tăng cao do những vấn đề như: nhập siêu, hiện tương đầu cơ .v.v đã tác động tới ổn định hoạt động của các ngân hàng và các rủi ro tiềm ẩn bắt đầu bộc lộ, mặt khác việc mở rộng mạng lưới hoạt động và tổ chức đã làm cho các NHTM phải đối mặt nhiều hơn với các loại rủi ro trong hoạt động và ở cấp độ quy mô ngày càng lớn. Tình hình đó đặt ra việc xác định được các rủi ro tổng thể tiềm ẩn của hệ thống Ngân hàng để xử lý kịp thời. Do vậy để thực hiện mục tiêu phát triển, an toàn và hiệu quả trong kinh doanh, việc nghiên cứu áp dụng những giải pháp nhằm hạn chế rủi ro trong họat động kinh doanh của các NHTM Việt nam là vô cùng cần thiết. Chính vì nhận thức được vấn đề trên, đề tài “Quản trị rủi ro trong các Ngân hàng thương mại Việt Nam” được lựa chọn nghiên cứu trong bối cảnh hiện tại. 2. Mục đích nghiên cứu Nghiên cứu và đề xuất các giải pháp hỗ trợ để tăng khả năng quản trị rủi ro của các Ngân hàng thương mại 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu: Đề tài đi vào nghiên cứu những vấn đề cơ bản của ngân hàng thương mại, phân tích, đánh giá các rủi ro trong họat động của Ngân hàng thương mại, tìm ra nguyên nhân các rủi ro từ đó đưa ra những giải pháp hỗ trợ để tăng khả năng quản trị rủi ro của các Ngân hàng thương mại Việt Nam 2 4. Phương pháp nghiên cứu Luận văn sử dụng các phương pháp lý thuyết suy luận logic, duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, phân tích hoạt động kinh tế, toán học, thống kê, so sánh, đối chiếu, các kinh nghiệm của bản thân và của các nhà nghiên cứu tài chính tiền tệ. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn được kết cấu gồm 3 chương: Chương I: Lý luận tổng quan Chương II: Quản trị rủi ro trong Ngân hàng thương mại Việt Nam Chương III: Giải pháp gia tăng hiệu quả quản trị rủi ro trong hệ thống Ngân hàng thương mại Việt Nam 3 CHƯƠNG 1 LÝ LUẬN TỔNG QUAN 1.1 Hoạt động của Ngân hàng thương mại trong nền kinh tế thị trường. Luật của Quốc Hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam số 20/2004/QH11 ngày 15 tháng 6 năm 2004 về sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật các Tổ chức t ín dụng, tại điều 20 có nêu: “ Tổ chức tín dụng là doanh nghiệp được thành lập theo quy định của Luật này và các quy định khác của pháp luật để hoạt động ngân hàng. Ngân hàng là loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan., theo tính chất và mục tiêu hoạt động, các loại hình ngân hàng gồm ngân hàng thương mại, ngân hàng phát triển, ngân hàng đầu tư, ngân hàng chính sách, ngân hàng hợp tác và các loại hình ngân hàng khác Đối với NHTM, theo Nghị định 49/2000/NĐ-CP ban hành ngày 12/9/2000 về tổ chức và hoạt động của Ngân hàng định nghĩa như sau: “Ngân hàng thương mại là ngân hàng được thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan vì mục tiêu lợi nhuận, góp phần thực hiện các mục tiêu kinh tế của nhà nước. Hoạt động của NHTM là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi, sử dụng số tiền này để cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán. Mặc dù có nhiều cách thể hiện khác nhau, nhưng phân tích, khai thác nội dung của các định nghĩa đó, có thể hiểu các NHTM đều là những trung gian tài chính mà hoạt động chủ yếu và thường xuyên của chúng là: Nhận tiền ký thác - tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn - để làm phương tiện thanh toán và sử dụng vào các nghiệp vụ cho vay duới nhiều hình thức khác nhau và thực hiện các dịch vụ kinh doanh khác cho chính ngân hàng. 1.2 Rủi ro trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại: Từ việc nghiên cứu về đặc điểm hoạt động kinh doanh của các NHTM nói trên có thể nhận thấy rằng, rủi ro luôn gắn liền với từng nghiệp vụ trong hoạt động của NHTM. Đa số các nhà kinh tế thống nhất với nhau quan niệm về rủi ro trong 4 hoạt động kinh doanh của NHTM là “những biến cố không mong đợi xảy ra và gây tổn thất đối với ngân hàng”. Mức độ và tính chất rủi ro khác nhau sẽ gây ra những hậu quả không giống nhau song đều rất nguy hại bởi những tác động đến uy tín của ngân hàng và khả năng lan truyền. Việc tìm hiểu về các loại rủi ro, nguyên nhân và hậu quả của rủi ro trong hoạt động kinh doanh sẽ trả lời cho chúng ta câu hỏi tại sao phải quản trị và nâng cao năng lực quản trị rủi ro của NHTM. 1.2.1. Các loại rủi ro trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại Rủi ro trong hoạt động kinh doanh của NHTM có thể phân chia thành nhiều loại tùy theo tiêu thức lựa chọn và mục đích nghiên cứu. Trong luận văn này, rủi ro sẽ được phân chia và trình bày thành bốn loại bao gồm: (1) Rủi ro tín dụng; (2) Rủi ro thanh khoản; (3) Rủi ro thị trường; và (4) Rủi ro tác nghiệp. 1.2.1.1 Rủi ro tín dụng Là khả năng khách hàng (người đi vay) nhận khoản vốn vay nhưng không thể hoàn trả vốn và lãi hoặc hoàn trả không đầy đủ các khoản vay và lãi cho NH, gây tổn thất cho NH. Rủi ro tín dụng thường chiếm tỷ trọng lớn nhất và phổ biến nhất xuất phát từ đặc điểm của tín dụng ngân hàng như đã nêu trên đây và trên thực tế, hoạt động tín dụng thường chiếm tỷ trọng lớn nhất trong hoạt động kinh doanh của NHTM. Về cơ bản, rủi ro tín dụng xảy ra khi khách hàng vay vốn không có khả năng chi trả lãi, chi trả nợ hoặc cả hai. Loại trừ một số ít khách hàng lừa đảo, đối với đa số khách hàng dù tình hình sản xuất kinh doanh tốt, có tình hình tài chính lành mạnh và thực thanh toán đầy đủ cho ngân hàng song vẫn có thể xảy ra những tình huống bất khả kháng dẫn đến không thể trả nợ đúng hạn cho ngân hàng. Vì vậy có thể cho rằng rủi ro tín dụng là khách quan, tồn tại song song với tín dụng ngân hàng và cả NHTM chỉ có thể hạn chế và buộc chấp nhận rủi ro tín dụng ở mức độ nhất định mà thôi. 1.2.1.2 Rủi ro thanh khoản Là những tổn thất xảy ra đối với ngân hàng khi nhu cầu thanh khoản thực tế vượt mức dự kiến, hay nói cách khác, ngân hàng không đáp ứng nhu cầu thanh toán hay rút tiền của khách hàng. Khi khả năng thanh toán bị đe dọa, NHTM buộc phải tìm kiếm nguồn và thường là gia tăng các khoản đi vay “nóng” với chi phí 5 rất cao, đặc biệt ở những nơi mà thị trường tiền tệ chưa phát triển. Xét trên giác độ lý thuyết, rủi ro thanh khoản cũng là điều tự nhiên luôn tiềm ẩn trong hoạt động kinh doanh ngân hàng bởi lẽ độ thanh khoản của nguồn vốn (cầu thanh khoản) bao giờ cũng cao hơn các khoản sử dụng vốn (cung thanh khoản). Tuy nhiên, trên thực tế rủi ro thanh khoản thường ít xảy ra hơn hoặc cũng có thể được giảm thiểu và “che lấp” bởi các hoạt động trên thị trường tiền tệ liên ngân hàng. Điều có thể thấy rất rõ là rủi ro thanh khoản và các loại rủi ro khác đều tác động đến hoạt động ngân hàng một cách ở mức độ khác nhau và dù có thể bị thua lỗ hay phá sản thì cũng “dần dần từng bước” do vậy các ngân hàng có thể có cơ hội để khắc phục và cải thiện tình hình. Song rủi ro thanh khoản nếu xảy ra thì lại là vấn đề rất nghiêm trọng, thậm chí là đặc biệt nghiệm trọng vì có thể dẫn đến sự sụp đổ của NHTM trong “chốc lát” khi khách hàng ồ át đến rút tiền. 1.2.1.3 Rủi ro thị trường Là những tổn thất xảy ra đối với ngân hàng khi có sự biến động không lường trước của thị trường, bao gồm rủi ro lãi suất và rủi ro tỷ giá. Lãi suất và tỷ giá là những phạm trù khác nhau, và sự biến động của chúng cũng tác động không giống nhau đến hoạt động ngân hàng. Trong khi lãi suất biến động thì làm thay đổi thu nhập và chi phí, thì tỷ giá biến động sẽ làm thay đổi giá trị của tài sản và nguồn vốn của ngân hàng. Song nếu xét ở giác độ nghiên cứu khác, hai phạm trù này lại có những điểm giống nhau là luôn thay đổi trên thị trường phụ thuộc vào các yếu tố cung – cầu về vốn và về ngoại tệ. Quan trọng hơn, việc xác định, đo lường mức độ và các biện pháp để hạn chế rủi ro của lãi suất và tỷ giá là hoàn toàn tương tự và đều phải thực hiện thông qua các nghiệp vụ phái sinh trên thị trường tiền tệ hay thị trường ngoại hối. Trong điều kiện nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, lãi suất và tỷ giá luôn được quản lý và duy trì cố định hay ít nhất là ổn định bởi Nhà nước, do vậy các NHTM không phải lo lắng đến rủi ro lãi suất và tỷ giá. Trái lại, trong điều kiện nền kinh tế thị trường với sự vận động rất linh hoạt và phức tạp của các luồng vốn, lãi suất và tỷ giá luôn biến động và khó có thể dự báo. Lãi suất và tỷ giá biến động theo chiều hướng khác nhau có thể dẫn đến các kết cục khác nhau đối với các ngân hàng có trạng thái luồng tiền và trạng thái ngoại hối khác nhau. Một ngân hàng được “hưởng lợi” từ sự biến động tăng của lãi suất hay tỷ giá thì sẽ lại 6 bị “tổn thất” khi lãi suất hay tỷ giá giảm xuống. Xác suất thu được lợi ích và chịu tổn thất đối với mỗi ngân hàng là bằng nhau và bằng 50%, song xét về bản chất, lợi ích mà ngân hàng này có được lại chính là thiệt hại của ngân hàng khác. Do vậy, các ngân hàng đều tập trung sự quan tâm vào khả năng gặp phải tổn thất có nghĩa là không chấp nhận sai lầm, cũng từ lẽ đó mà rủi ro lãi suất và rủi ro tỷ giá được coi là điều hoàn toàn tự nhiên đối với các ngân hàng có trạng thái luồng tiền và ngoại hối khác “mở” và các ngân hàng luôn phải hạn chế rủi ro loại này thông qua việc đo lường xác định và thực thi các nghiệp vụ phái sinh để phòng và chống. 1.2.1.4 Rủi ro tác nghiệp Là những tổn thất xảy do những “trục trặc” trong quá trình vận hành các hoạt động kinh doanh của NHTM như: Sai lệch về thông tin và xử lý thông tin, bất hợp lý về quy trình và kỹ thuật nghiệp vụ và sự phối hợp giữa các bộ phận chức năng trong ngân hàng, v.v… Thực ra rủi ro tác nghiệp đã xuất hiện từ lâu và luôn tiềm ẩn trong hoạt động ngân hàng nhưng chỉ đến những năm gần đây mới được quan tâm nghiên cứu đẩy đủ hơn. Như đã đề cập trên đây, các hoạt động kinh doanh của NHTM là rất phức tạp và được thực hiện theo những quy trình và quy định rất chặt chẽ, song cũng chính vì vậy mà những sai xót rất dễ xảy ra. Bất kỳ một sự bất cẩn hay là non kém về mặt nghiệp vụ, thu thập xử lý thông tin thiếu chính xác và không kịp thời của các bộ phận chức năng trong hệ thống đều có thể ảnh đến những quyết định của giám đốc điều hành và toàn bộ các tác nghiệp tiếp theo. Rủi ro tác nghiệp của các NHTM có xu hướng ngày càng gia tăng, trước hết, do sự mở rộng quy mô, phạm vi và sự đa dạng hoá hoạt động kinh doanh; mỗi ngân hàng thậm chí có thể trở thành các tập đoàn tài chính và là những công ty đa quốc gia. Thêm nữa, môi trường kinh doanh cũng ngày càng phức tạp hơn, áp lực công việc tăng do tốc độ và khối lượng giao dịch tăng, sự lệ thuộc vào kỹ thuật và công nghệ nhiều hơn, v.v… Do vậy, các ngân hàng tiên tiến và có quy mô lớn trên thế giới luôn nghiên cứu và tối ưu hoá quy trình tác nghiệp trên cơ sở mô hình tổ chức phù hợp nhất đối với mỗi loại hình ngân hàng. 7 1.2.2 Nguyên nhân rủi ro trong hoạt động kinh doanh ngân hàng: Rủi ro xảy ra trong hoạt động kinh doanh của NHTM có thể nảy sinh từ những đặc điểm nội tại của hoạt động kinh doanh ngân hàng song cũng có thể chịu ảnh hưởng từ những điều kiện và môi trường tự nhiên, kinh tế và xã hội. Trên cơ sở đó, các chuyên gia tài chính ngân hàng đã phân chia nguyên nhân rủi ro thành 3 nhóm như sau: 1.2.2.1 Những nguyên nhân khách quan. Đây là những nguyên nhân xảy ra rủi ro như thảm hoạ tự nhiên (bảo lụt, hạn hán, động đất, v.v…) hay những thay đổi về chính sách quản lý kinh tế – xã hội của Chính phủ, gây thiệt hại khách hàng hoặc trực tiếp cho các ngân hàng. Đặc điểm chung của nhóm nguyên nhân này là cả ngân hàng và khách hàng không thể có bất kỳ hành động nào để hạn chế ngoài việc dự đoán, dự báo, dự phòng và chịu đựng. Do vậy, các NHTM luôn phải chủ động dự phòng để khắc phục hậu quả rủi ro là điều có ý nghĩa hơn cả. 1.2.2.2 Nhóm nguyên nhân từ phía khách hàng của ngân hàng Bao gồm các cá nhân và doanh nghiệp, kể cả các NHTM và các định chế tài chính khác. Khi các đối tượng khách hàng không thể hoặc không muốn thực hiện những cam kết với ngân hàng thì ngân hàng sẽ phải chịu những tổn thất. Trên thực tế, điều rất dễ nhận thấy là trong hoạt động sản xuất kinh doanh và đời sống của khách hàng là có thể gặp phải rủi ro và ít nhất thì một phần rủi ro đó sẽ được “chia sẻ” hay “chuyển sang” cho ngân hàng. Nói cách khác NHTM cùng phải chịu tổn thất từ những rủi ro trong quá trình sản xuất kinh doanh và đời sống của khách hàng. Có thể nói phần lớn (trên 90%) khách hàng không thực hiện cam kết vời ngân hàng vì bản thân họ gặp rủi ro. Ngoài ra, số ít hơn (dưới 5%) khách hàng chủ động chối bỏ không thực hiện những cam kết vì những lợi ích nhất thời nào đó và một số khách hàng (khoảng 3%) chủ động thực hiện những hành vi lừa đảo đối với ngân hàng. So với nhóm nguyên nhân thứ nhất, nhóm nguyên nhân này có thể được ngân hàng hạn chế ở mức độ nhất định thông qua việc thực hiện các biện pháp hỗ trợ, tư vấn để khắc phục sự yếu kém về năng lực quản lý, kinh nghiệm và trình độ công nghệ giúp khách hàng phòng tránh và hạn chế được chế rủi ro sau khi đã tiến hành các biện pháp sàng lọc phân loại để loại bỏ những khách hàng có hành vi hay động cơ không tốt. 8 1.2.2.3 Nhóm nguyên nhân thuộc về bản thân ngân hàng Đối với tất các các ngân hàng trên thế giới, nhóm nguyên nhân này được coi là quan trọng nhất vì khả năng phòng chống và hạn chế rủi ro phụ thuộc chủ yếu bởi năng lực của ngân hàng. Có thể thấy rất rõ là từ sự hợp lý về chính sách đến trình độ công nghệ và đạo đức nghề nghịêp của cán bộ công nhân viên làm việc trong ngân hàng đều là các nhân tố tác động đến mức độ rủi ro của mỗi ngân hàng. Các ngân hàng có trình độ công nghệ cao với chủng loại sản phẩm đa dạng phong phú kết hợp với nguồn nhân lực có phẩm chất tốt luôn có mức độ rủi ro ở mức thấp, thậm chí, ngay cả khi rủi ro đã xảy ra, các ngân hàng vẫn có thể hạn chế hậu quả thông qua các biện pháp kinh tế và thị trường để giảm thiểu tổn thất tài chính và uy tín. 1.2.3 Hậu quả rủi ro trong hoạt động kinh doanh của NHTM. Rủi ro được định nghĩa là những tổn thất xảy ra đối với ngân hàng do vậy khi rủi ro xảy ra đồng nghĩa với ngân hàng phải chịu đựng những tổn thất về tài chính và uy tín. Điều đáng lưu ý là những tổn thất xảy ra không chỉ ảnh hưởng đến bản thân ngân hàng mà còn có tác động xấu đến toàn bộ hệ thống ngân hàng và nền kinh tế như một tổng thể. Chúng ta có thể khái quát về hậu quả của rủi ro trong hoạt động kinh doanh của các NHTM như sau: 1.2.3.1 Hậu quả của rủi ro đối với ngân hàng Hậu quả đối với ngân hàng ở mức độ thấp nhất là làm giảm thu nhập của ngân hàng. Mỗi hoạt động kinh doanh của ngân hàng góp phần mang lại thu nhập cho ngân hàng nhưng khi xuất hiện một loại rủi ro ở hoạt động nào đó, ngân hàng không những không có thu nhập từ hoạt động tương ứng mà còn làm giảm thu nhập từ các hoạt động khác. Ví dụ, nếu khách không trả nợ đúng hạn, sẽ dẫn đến tình trạng tồn đọng vốn, ngân hàng không thể tiếp tục cho vay hoặc đầu tư, bên cạnh đó ngân hàng còn phải bỏ ra một khoản chi phí đáng kể để phục vụ cho thu hồi vốn, trích lập dự phòng rủi ro, và bù đắp v.v. … khi thu nhập chung của ngân hàng giảm sút thì thu nhập của mỗi cán bộ công nhân viên cũng theo đó giảm xuống, làm giảm động lực làm việc và quy cơ “ chảy máu chất xám” và rủi ro tác nghiệp sẽ càng cao. Ở mức độ tiếp theo sự giảm sút về thu nhập, hậu quả của rủi ro sẽ là sự hạn chế khả năng tăng trưởng vốn, tác động xấu đến việc mở rộng quy mô hoạt động 9 và khả năng áp dụng công nghệ và giảm khả năng cạnh tranh của ngân hàng. Giống như tất cả các doanh nghiệp khác, tăng trưởng vốn được thực hiện thông qua phân phối lợi nhuận. Khi rủi ro xảy ra lợi nhuận giảm thấp đến mức độ nhất định thì tăng trưởng vốn của ngân hàng sẽ phải giảm, thậm chí có thể không có tích luỹ. Rủi ro cũng làm “tổn thương” đến uy tín và hình ảnh của ngân hàng. Các ngân hàng với mức độ rủi ro cao sẽ mất dần lòng tin của các đối tượng khách hàng, sự lo lắng bắt đầu xuất hiện và như hệ quả tất yếu, khách hàng sẽ rút tiền và chuyển sang sử dụng dịch vụ của các ngân hàng khác có uy tín tốt hơn. Trong hoàn cảnh đó, mặc dù rất nhiều những cố gắng như trả lãi suất cao và cung cấp thêm các khoản khuyến mại, v.v…, cũng không thể giữ chân khách hàng, hoạt động của ngân hàng sẽ ngày càng trở nên khó khăn hơn và tiếp tục đi xuống nếu không có những cải cách mạnh mẽ, đột biến và chấp nhận những giá phải trả rất đắt. Mức độ nghiêm trọng hơn, rủi ro đe doạ khả năng thanh toán của ngân hàng và có thể dẫn đến rủi ro thanh khoản. Các loại rủi ro xảy ra ở mức độ nhất định sẽ làm giảm và đe doạ trực tiếp đến khả năng thanh toán của ngân hàng. Rất nhiều các ngân hàng của các nước trên thế giới kể cả Mỹ ngay trong năm 2008 đã cho vay đầu tư vào chứng khoán, bất động sản, v.v… và khi những khoản vay này trở nên khó được thu hồi, các ngân hàng này rơi vào tình trạng mất khả năng thanh toán tiền gửi cho khách hàng, dẫn tới thua lỗ và bị phá sản. Như vậy có thể nói rằng đối với các NHTM, rủi ro làm phát sinh rủi ro không chỉ dẫn đến giảm thu nhập, sự thua lỗ mà còn có thể gây ra những thiệt hại nghiêm trọng thậm chí có thể làm phá sản các NHTM. Song không dứng lại ở đó, các đối tượng khách hàng của ngân hàng (dù có liên quan hay không đến việc xảy ra rủi ro trong hoạt động ngân hàng) và toàn bộ nền kinh tế cũng phải gánh chịu những hậu quả nhất định. Trong thời gian gần đây, rủi ro xảy ra đối với các ngân hàng ở một số nước phát triển như Mỹ, Nhật Bản và Châu Âu, đã có phạm vi tác động đến hệ thống tài chính và nền kinh tế của các nước khác và toàn cầu. 1.2.3.2 Hậu quả của rủi ro đối với khách hàng Đối với tất cả khách hàng, cá nhân hay các doanh nghiệp, kể cả bản thân các doanh nghiệp đang trì hoãn trả nợ cho ngân hàng đều phải chịu những tổn thất từ rủi ro trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Trước hết, các cá nhân và 10 doanh nghiệp sẽ mất đi cơ hội tiếp cận với nguồn vốn cũng như các dịch vụ tiện ích khác của ngân hàng. Trong trường hợp đó, khách hàng sẽ phải đi tìm kiếm những nguồn vốn khác có thể làm tăng chi phí và giảm tính ổn định của quá trình sản xuất kinh doanh. Rủi ro trong hoạt động kinh doanh ngân hàng ở mức phải xoá nợ, giãn nợ hay đảo nợ có thể tạo ra những tiền tệ xấu trong quan hệ với ngân hàng. Kế hoạch và nguồn tài chính của khách hàng bị đột ngột thay đổi, khách hàng mất chủ động về trong việc thực hiện các hợp đồng kinh tế và các nghĩa vụ tài chính với đối tác bạn hàng, uy tín và hình ảnh của những doanh nghiệp cũng bị giảm sút. Còn trong trường hợp ngân hàng phá sản, các doanh nghiệp sẽ mất vốn tiền gửi và thậm chí có thể chịu chung số phận, phá sản theo. 1.2.3.3 Hậu quả của rủi ro đối với nền kinh tế Biểu hiện đầu tiên về hậu quả của rủi ro là sự tổn thất chung của toàn bộ nền kinh tế do tốc độ chu chuyển hàng hóa và tiền tệ giảm. Như đã phân tích trên đây, khi rủi ro xảy ra, cả ngân hàng và khách hàng – các cá nhân, doanh nghiệp và toàn bộ nền kinh tế đều bị thiệt hại về nhiều mặt. Trên giác độ lý thuyết có thể thấy rằng rủi ro trong hoạt động ngân hàng không chỉ làm tăng chi phí sản xuất và lưu thông hàng hoá mà còn gây ra những hiệu ứng tiêu cực đối với quá trình sản xuất kinh doanh, cung – cầu hàng hóa và cuối cùng là làm mất đi sự ốn định và khả năng tăng trưởng của nền kinh tế. Trên thực tế ở rất nhiều nước trên thế giới, khi các ngân hàng gặp phải rủi ro thì hàng loạt các vấn đề kinh tế - xã hội đã nảy sinh và những giải pháp nhằm ổn định tình hình bao giờ cũng rất tốn kém và hậu quả có thể còn để lại những di chứng trong thời gian dài, đặc biệt về mặt tâm lý và lòng tin của công chúng. Ngoài ra, hậu quả của rủi ro còn gây ra làm giảm thấp uy tín quốc gia, khả năng thu hút vốn nước ngoài và các quan hệ kinh tế đối ngoại khác đều phải chịu những điều kiện khó khăn hơn. Tóm lại, rủi ro tất yếu trong hoạt động kinh doanh ngân hàng trong khi đó hậu quả rủi ro thực sự rất nguy hiểm nghiêm trọng đối với tất cả các chủ thể, không chỉ trên giác độ tài chính mà còn tác động đến tất cả các mặt kinh tế – chính trị – xã hội của nền kinh tế. Tùy theo mức độ phát triển, mở cửa và hội nhập của nền kinh tế, hậu quả của rủi ro trong hoạt động ngân hàng còn có thể nghiêm trọng hơn về mức độ và hành vi ảnh hưởng có thể không phải chỉ dừng lại ở một quốc gia. Những phân tích trên đây cho thấy lý do tại sao các NHTM thành công 11 luôn phải giành sự ưu tiên thỏa đáng cho vấn đề quản trị rủi ro song song với việc nghiên cứu phát triển hoạt động kinh doanh. 1.3 Năng lực quản trị rủi ro trong hoạt động kinh doanh của NHTM. 1.3.1. Quản lý rủi ro và quản trị rủi ro Về mặt thuật ngữ, “quản lý rủi ro” và “quản trị rủi ro” đôi khi vẫn được sử dụng thay thế cho nhau, không có phân biệt một cách rõ ràng, thậm chí một số người cho rằng quản lý và quản trị rủi ro thực chất là một. Trên thực tế, trong hoạt động kinh doanh của NHTM, mặc dù có cùng mục tiêu là tối thiểu hóa tổn thất, đảm bảo an toàn và hiệu quả song quản lý rủi ro và quản trị rủi ro vẫn có sự khác biệt về cách tiếp cận._. và về cấp độ quản lý. Quản lý rủi ro là việc sử dụng các công cụ, biện pháp, quy trình cần thiết trong các hoạt động kinh doanh cụ thể nhằm hạn chế tối đa khả năng xảy ra tổn thất cho NHTM. Như vậy, xét ở giác độ ngân hàng, để đạt được mục tiêu quản lý rủi ro, các ngân hàng chỉ cần né tránh rủi ro thông qua lựa chọn khách hàng giao dịch với những điều kiện và yêu cầu cao hơn hoặc chỉ lựa chọn những danh mục đầu tư an toàn hơn. Nghiên cứu trên giác độ quản lý nhà nước, quản lý rủi ro có thể được thực hiện thông qua các quy định chặt chẽ về hoạt động kinh doanh của các ngân hàng, khống chế giới hạn hoạt động ngân hàng trong vùng được cho là an toàn và hiệu quả. Quản trị rủi ro mạnh mẽ và hiệu quả hơn quản lý rủi ro thông qua việc chủ động chấp nhận và kiểm sóat rủi ro ở mức độ nhất định trong mối quan hệ với thu nhập quản trị rủi ro là việc sử dụng hệ thống các biện pháp xác định và đo lường rủi ro, lựa chọn và chấp nhận rủi ro, quản lý và kiểm soát rủi ro để thực hiện các quyết định kinh doanh nhằm đạt được các mục tiêu về hiệu quả và an toàn. Như vậy nội dung và quy trình quản trị rủi ro bao gồm các bước có thể được phác họa theo sơ đồ sau: 12 Sơ đồ 1.1 : Quy trình quản trị rủi ro Hoạt động kinh doanh ngân hàng luôn đi kèm với rủi ro vì vậy cách tiếp cận của quản lý rủi ro theo định hướng không chấp nhận những tài sản rủi ro, chỉ lựa chọn những hoạt động kinh doanh của ngân hàng ở trạng thái rủi ro không thể xảy ra là không phù hợp, không tiếp cận với tất cả các đối tượng khách hàng. Quản lý rủi ro trên cả giác độ ngân hàng hay quản lý Nhà nước như trên đều rất phức tạp và đòi hỏi trình độ rất cao. Quản lý rủi ro rõ ràng là chưa đủ đối với hoạt động kinh doanh ngân hàng trong điều kịên và sự phát triển của nền kinh tế thị trường hiện đại, mở cửa các nước nói chung hiện nay. Quản trị rủi ro cho phép hoạt động của NHTM hoàn tòan chủ động và mang tính tích cực, dựa trên nguyên tắc đánh đổi giữa rủi ro và thu nhập, ngân hàng sẽ lựa chọn một cách khoa học tập hợp các hoạt động kinh doanh với khả năng xảy ra rủi ro ở mức độ và phạm vi nhất định kèm theo những biện pháp quản lý và kiểm sóat mức tổn thất khi rủi ro xảy ra nhằm đảm bảo lợi nhuận cho ngân hàng, Cấp độ quản trị rủi ro cũng ở mức cao hơn: không chỉ là những công cụ, biện pháp quản lý nhằm hạn chế rủi ro mà còn bao gồm cả những hoạt động góp phần nâng cao hiệu quả quản lý rủi ro như: Nhận biết trước về các loại rủi ro có Nhận biết và xác định rủi ro Phân tích đo lường rủi ro Lựa chọn về mức độ và phạm vi tác động của rủi ro Kiểm soát và quản lý rủi ro Báo cáo đánh giá về quản trị rủi ro 13 thể xảy ra, đo lường, phân tích rủi ro và thực hiện các biện pháp kiểm soát rủi ro. Nói một cách ngắn gọn, quản trị rủi ro bao hàm cả quản lý rủi ro, nâng cao hiệu quả hoạt động cho ngân hàng, từ đó giúp ngân hàng đạt được lợi nhuận cao trong kinh doanh. Thực tế cho thấy những ngân hàng nào có khả năng chủ động chấp nhận rủi ro, đo lường và phân tích chính xác mức độ rủi ro thì có thể chủ động trong việc đưa ra các biện pháp quản lý và kiểm sóat rủi ro phù hợp, tăng cường khả năng tiếp cận và dịch vụ với khách hàng, tăng khả năng và hiệu quả sử dụng vốn cho nên có thể tồn tại và luôn phát triển bền vững. Những NHTM như vậy luôn được đánh giá là có năng lực quản trị rủi ro tốt. 1.3.2 Năng lực quản trị rủi ro của ngân hàng thương mại. Về năng lực quản trị rủi ro trong hoạt động kinh doanh của NHTM và những khái niệm khác nhau về vấn đề này còn vẫn chưa thống nhất. Phần lớn các nhà quản trị cho rằng năng lực quản trị rủi ro được thể hiện thông qua hiệu quả của việc kiểm soát rủi ro hay là hiệu quả của các biện pháp quản lý cụ thể trong chiến lược của các nhà quản trị rủi ro. Quan niệm như vậy chưa thật sự rõ ràng và thích hợp, đặc biệt trong liên hệ với nghiên cứu nhằm nâng cao năng lực quản trị rủi ro. Dựa trên những yếu tố phân tích trên đây về quản trị rủi ro chúng ta sẽ cố gắng xây dựng một quan niệm có thể dễ dàng được chấp nhận hơn về năng lực quản trị rủi ro của NHTM theo quy trình và nội dung của quản trị rủi ro đã được khái quát trên đây như sau: Bước thứ nhất của quy trình quản trị rủi ro là “nhận biết và xác định” được các loại rủi ro mà ngân hàng có thể gặp phải trong mỗi hoạt động kinh doanh. Mặc dù là bước khởi đầu và không quá phức tạp song bước thứ nhất này lại là điều kiện có nghĩa đối với mục tiêu và nội dung quản trị rủi ro. Ngân hàng có khả năng nhận biết và xác định chính xác thì việc phân tích, đo lường, v.v…. ở các bước tiếp theo mới thực sự có ý nghĩa và hiệu quả. Nhận biết và xác định rủi ro đòi hỏi cán bộ không những phải có trình độ chuyên môn, tinh thầy trách nhiệm mà còn cần có kinh nghiệm và sự thận trọng cần thiết để tập hợp được tất cả các loại rủi ro có thể xảy ra và phân biệt chúng theo các tiêu thức khác nhau. 14 Như vậy năng lực quản trị rủi ro trước hết phải bao hàm Năng lực nhận biết và xác định rủi ro. Bước thứ hai Trong quy trình quản trị rủi ro là “phân tích và đo lường rủi ro”. Phân tích và đo lường rủi ro là điều mà tất cả các nhà quản trị ngân hàng đều rất quan tâm, vì đo lường chính xác chính là cơ sở cho các quyết định lựa chọn danh mục tài sản cùng các biện pháp phòng ngừa, kiểm soát và chấp nhận rủi ro một cách chủ động và hiệu quả. Đo lường và phân tích rủi ro trong hoạt động của ngân hàng cần phải đạt được 2 yếu tố cơ bản và quan trọng nhất bao gồm: (1) khả năng hay xác suất gặp phải rủi ro; và (2) mức độ tổn thất khi rủi ro xảy ra. Bất kỳ sai lệch (cao hơn hay thấp hơn) trong việc xác định khả năng và mức độ tổn thất cũng đều làm mất đi tính chủ động và khả năng chấp nhận của ngân hàng gây lãng phí và nghiêm trọng hơn khi tổn thất xảy ra trên thực tế lớn hơn mức đo lường dự kiến. Do vậy, năng lực quản trị rủi ro của NHTM nhất thiết phải bao gồm năng lực phân tích và đo lường rủi ro. Bước thứ ba là “ quản lý và kiểm sóat rủi ro” sao cho tổn thất xảy ra nằm trong khả năng chấp nhận để đảm bảo rằng việc thực hiện các hoạt động kinh doanh sẽ luôn mang lại hiệu quả và thu nhập cho ngân hàng. Có hai vấn đề chính phải cân nhắc để ra quyết định ở bước này là khả năng quản lý và kiểm soát rủi ro trong quan hệ với khả năng chịu đựng tổn thất khi rủi ro xảy ra (mức dự phòng hoặc thu nhập vượt trội kỳ vọng). Nếu không có khả năng quản lý và kiểm soát tốt, tổn thất xảy ra có thể vượt quá khả năng chấp nhận thì ngân hàng vẫn có thể gặp nguy hiểm. Cho nên, năng lực quản trị rủi ro là khả năng quản lý và kiểm sóat của NHTM trên cơ sở đảm bảo thu nhập của ngân hàng. Bước cuối cùng trong quy trình là “báo cáo và đánh giá về quản trị rủi ro trên thực tế” thực sự là bước mang tính chất tổng kết và rút ra những bài học kinh nghiệm sau mỗi giai đoạn hoạt động kinh doanh của NHTM. Trên cơ sở xác định tổn thất xảy ra thực tế, đối chiếu với khả năng chấp nhận của một ngân hàng có thể đưa ra nhận xét và kết luận về hoạt động quản trị rủi ro ngân hàng đó. Do vậy, năng lực quản trị rủi ro còn bao gồm cả khả năng chấp nhận rủi ro của NHTM. Báo cáo đánh giá một cách trung thực quy trình quản trị rủi ro góp phần hoàn thiện và điều chỉnh các bước phân tích đo lường và các biện pháp quản lý, kiểm sóat rủi ro ở giai đoạn tiếp theo. 15 Tổng hợp lại, năng lực quản trị rủi ro của NHTM có thể được quan niệm là khả năng của ngân hàng trong việc xác định và nhận biết, phân tích và đo lường để chủ động chấp nhận và kiểm soát rủi ro nhằm đảm bảo lợi nhuận trong hoạt động kinh doanh. Diễn đạt theo cách khác, nếu thừa nhận rằng rủi ro gắn liền với hoạt động kinh doanh của NHTM thì năng lực quản trị rủi ro đồng nghĩa với khả năng ngân hàng chủ động chấp nhận và xử lý hậu quả rủi ro một cách có hiệu quả. Năng lực quản trị rủi ro trong hoạt động kinh doanh của một NHTM phải được đánh giá đồng thời qua tất cả các bước có liên quan chặt chẽ trong toàn bộ quy trình quản trị rủi ro và được phản ánh thông qua các chỉ tiêu định tính và định lượng ở nội dung tiếp sau đây. 1.3.3 Các chỉ tiêu phản ánh năng lực quản trị rủi ro của NHTM. 1.3.3.1 Các chỉ tiêu định lượng Thứ nhất, nhóm chỉ tiêu về lợi nhuận Tỷ số mức sinh lời trên doanh thu = tổng lợi tức sau thuế / doanh thu thuần (Chỉ tiêu này nói lên 1$ doanh thu tại ra bao nhiêu $ lợi nhuận) Tỷ suất sinh lợi trên tổng tài sản (ROA) = Lợi nhuận ròng *100/ tổng tài sản (ROA đo lường khả năng sinh lợi trên mỗi đồng tài sản của ngân hàng) Tỷ suất sinh lợi trên vốn thuần (ROE)= Lợi nhuận ròng*100 / vốn cổ phần (ROE là tỷ số quan trọng nhất đối với các cổ đông, tỷ số này đo lường khả năng sinh lợi trên mỗi đồng vốn của cổ đông thường.) Các NHTM hiện đại và được đánh giá cao về khả năng quản trị rủi ro (10 ngân hàng đứng đầu trong các NHTM Mỹ năm 2002) luôn có tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu từ 15-18% (New Basel II, 2004). Thứ hai, Nhóm chỉ tiêu đo lường khả năng thanh toán Khả năng thanh toán ngay = Tài sản có thể thanh toán ngay / tài sản nợ đến hạn thanh toán ngay. Đối với 01 số ngân hàng thời gian tính khả năng thanh toán ngay là 01 ngày (ACB, STB .v.v.) Khả năng thanh toán chung = Tổng tài sản có có thể thanh toán/ Tổng nợ phải thanh toán. Vốn hữu dụng = Vốn huy động - DTBB - DT Sơ cấp (TMặt, TG NHNN) Hệ số khả năng trả lãi = lợi tức trước thuế và lãi / chi phí trả lãi (Hệ số này đo lường mức độ an toàn của thu nhập có thể trả lãi cho các chủ nợ) 16 Thứ ba, nhóm chỉ tiêu về mức dự phòng rủi ro và tổn thất rủi ro thực tế. Công thức tính số tiền dự phòng như sau: R = max {0, (A-C)} x r trong đó, R: số tiền dự phòng cụ thể phải trích A: giá trị khoản nợ C: giá trị tài sản bảo đảm (nhân với tỷ lệ phần trăm do Quyết Định 493 quy định đối với từng loại tài sản bảo đảm) r: tỷ lệ trích lập dự phòng cụ thể Số tiền dự phòng cụ thể không chỉ phụ thuộc vào giá trị khoản nợ và tỷ lệ trích lập dự phòng, mà còn phụ thuộc vào giá trị tài sản bảo đảm. Nếu giá trị tài sản bảo đảm sau khi được tính theo tỷ lệ phần trăm lớn hơn giá trị khoản nợ, thì số tiền dự phòng cũng bằng không có nghĩa là tổ chức tín dụng trên thực tế không phải lập dự phòng cho khoản nợ đó (Theo Quyết định 493 và quyết định số 18/QĐ-NHNN sửa đổi, bổ sung các quy định về quản trị rủi ro trong hoạt động tín dụng). Tỷ lệ nợ xấu = Nợ quá hạn >90 ngày + nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ/ Tổng dư nợ. (tỷ lệ này càng thấp phản ảnh chất lượng tín dụng của ngân hàng tốt ) Rủi ro đối với hoạt động kinh doanh của ngân hàng theo xác suất nhất định có nghĩa là một biến cố không chắc chắn, để đảm bảo khả năng chấp nhận rủi ro các ngân hàng phải trích lập quỹ dự phòng rủi ro căn cứ vào sự xác định và đo lường mức độ rủi ro và thường được so sánh với dư nợ cho vay hay tổng sử dụng vốn. Quy mô và tỷ trọng của quỹ dự phòng càng lớn khả năng chịu chấp nhận rủi ro của ngân hàng được đánh giá là cao, song nếu dự phòng quá lớn sẽ ảnh hưởng tới hiệu quả sử dụng vốn và phản ánh chiến lượng kinh doanh “chạy theo rủi ro của ngân hàng”. Các NHTM trên thế giới xác định quỹ dự phòng trên cơ sở xác suất xảy ra rủi ro của mỗi khoản mục tài sản cụ thể trong tổng tài sản có nguy cơ rủi ro. - Cơ cấu thời hạn và cơ cấu danh mục tài sản: Với một NHTM, cơ cấu sử dụng vốn phần lớn sẽ là ngắn hạn, tỷ lệ sử dụng vốn trung và dài hạn không nên vượt quá mức 30 -35% và việc duy trì tỷ lệ này cần căn cứ vào cơ cấu nguồn vốn theo thời hạn. 17 Về cơ cấu danh mục tài sản của ngân hàng cũng cần phải đảm bảo mức độ đa dạng hóa nhất định. Tỷ trọng cho vay của các ngân hàng không quá 30% trên tổng tài sản sinh lời vì cho vay là hoạt động rất rủi ro và sự tập trung quá mức sẽ rất nguy hiểm cho hoạt động của ngân hàng. Sử dụng vốn của NHTM cần phải phân bổ cả cho các hoạt động đầu tư (20 -25%), các hoạt động kinh doanh tiền tệ (20 -25%) và cung cấp dịch vụ tiện ích và chăm sóc khách hàng. Những hoạt động này không chỉ phản ánh sự đa dạng hóa, giảm thiểu rủi ro mà còn giúp ngân hàng thâm nhập, tiếp cận sâu rộng với khách hàng và nền kinh tế. - Cơ cấu thời hạn và cơ cấu khoản mục nguồn vốn: Cơ cấu thời hạn nguồn vốn là nhân tố cơ bản quyết định cơ cấu thời hạn sử dụng vốn, đồng thời cho biết về tính ổn định của nguồn vốn. Kết hợp nghiên cứu cơ cấu thời hạn, lập bảng kê theo dõi thời hạn của các khoản mục nguồn vốn với khả năng tham gia vào các hoạt động trên thị trường tiền tệ cho phép đánh giá năng lực quản trị rủi ro thanh khoản một ngân hàng. Tương tự như cơ cấu tài sản, sự đa dạng các khoản mục nguồn vốn phản ánh khả năng và hiệu quả huy động vốn, đặc biệt là các hình thức huy động vốn qua thị trường; vừa chủ động kịp thời mà chi phí vốn lại thấp. - Cơ cấu của hoạt động ngân hàng bán buôn: Hoạt động ngân hàng bán buôn giao dịch giữa các NHTM, các tổ chức tài chính khác kể cả ngân hàng Trung ương với nhau. Hoạt động ngân hàng bán buôn phản ánh khả năng hoán đổi tài sản cho nhau giữa các NHTM không chỉ đảm bảo thu nhập mà còn đảm bảo khả năng kiểm soát về phạm vi và mức độ rủi ro của mọi ngân hàng qua đó góp phần đảm bảo sự an toàn hiệu quả của cả hệ thống. Các ngân hàng không bao giờ huy động sẵn một lượng tiền đủ lớn để chờ đợi khách hàng đến vay, ngược lại sau khi cho vay cũng sẽ không cho thụ động trông chờ khả năng thu nợ duy nhất từ khách hàng, kể cả việc phong tỏa tài sản bảo đảm hay khởi kiện khách hàng. Trái lại, tham gia các hoạt động buôn bán và kết hợp giữa các hoạt động buôn bán và bán lẻ, các ngân hàng sẽ luôn giao dịch mua bán hay hoán đổi tài sản, nguồn vốn với nhau thông qua thị trường liên ngân hàng để vừa có chi phí thấp, tổn thất rủi ro thấp tức là khả năng quản trị rủi ro cao. 18 1.3.3.2. Các chỉ tiêu định tính Thứ nhất: Bộ phận chức năng quản trị rủi ro độc lập Bộ phận quản trị rủi ro độc lập là điều kiện cần để thực hiện các nội dung và quy trình quản trị rủi ro như đã trình bày trên đây một cách khách quan và hiệu quả. Hơn nữa, ngoài khả năng hoạt động độc lập, bộ phận này còn phải bao gồm những cán bộ được đào tạo cơ bản vừa có chuyên môn và kinh nghiệm về rủi ro vừa có khả năng ứng dụng các công cụ toán học, tin học và công nghệ kinh doanh ngân hàng hiện tại vào việc nhận biết và xác định một cách chính xác, đầy đủ kịp thời các lọai rủi ro có thể phát sinh, xây dựng các mô hình phân tích và đánh giá chính xác mức độ rủi ro. Trên cơ sở đó mới có thể khuyến cáo ban lãnh đạo ngân hàng và các bộ phận chức năng khác lựa chọn và thực hiện các nghiệp vụ kinh doanh cũng như các biện pháp kiểm soát phù hợp. Nhiều NHTM, hoạt động quản trị rủi ro đã được thiết lập song lại do chính những cán bộ tín dụng thực hiện hoặc đặt ở vị trí trực thuộc phòng tín dụng, cho nên, tình trạng “vừa thổi còi, vừa đá bóng” là khó tránh khỏi. Để đạt doanh số cho vay cao trong hoạt động, đặc biệt trong trường hợp khoán lương, một số loại rủi ro tiềm ẩn có thể bị xem nhẹ hoặc dễ dàng bỏ qua một cách rất chủ quan để đạt mức khoán và lương cao. Hơn nữa, rủi ro xảy ra trong tất cả các hoạt động kinh doanh của ngân hàng cho nên quản trị rủi ro là hoạt động cần thiết đối với tất cả các hoạt động đó, không chỉ là đối với riêng hoạt động tín dụng. Điều này cho thấy không thể đánh giá một ngân hàng có năng lực quản trị cao khi vắng thiếu bộ phận chức năng quản trị rủi ro độc lập. Biện pháp đánh giá năng lực quản trị rủi ro theo chỉ tiêu này thông thường là xây dựng thang chấm điểm cho các yếu tố cấu thành của bộ phận chức năng quản trị rủi ro và mức độ khách quan, độc lập. Thứ hai, chiến lược kinh doanh và chọn lựa rủi ro của ngân hàng Chiến lược kinh doanh được cụ thể hóa bằng các chính sách, kế hoạch, mục tiêu, định hướng và các văn bản khác có liên quan của ngân hàng . Thông qua văn bản này, chúng ta có thể đánh giá về tính tính cực chủ động trong việc thực hiện hoạt động kinh doanh của ngân hàng và “thái độ” của ngân hàng đối với rủi ro. Một NHTM với khả năng quản trị rủi ro yếu kém sẽ luôn tập trung vào những hoạt động kinh doanh thông qua các nghiệp vụ và khách hàng “truyền thống an toàn”. Việc lựa chọn hoạt động kinh doanh và khách hàng sẽ theo những 19 nguyên tắc nhất định thường là an toàn hàng đầu, do vậy quy mô sẽ hạn chế, mức dự phòng và dự trữ rất cao để mong được an toàn nhưng lại lãng phí và kém hiệu quả do vậy kết cục thực tế lại là không an toàn. Trái lại, ngân hàng có năng lực quản trị rủi ro cao sẽ luôn hướng tới những hoạt động kinh doanh đa dạng, sáng tạo, sẵn sàng đáp ứng mọi đối tượng và cung cấp “trọn gói” các dịch vụ theo yêu cầu của khách hàng, cho nên rủi ro lại là thấp. Để đánh giá năng lực quản trị rủi ro theo tiêu thức này, chúng ta cần xem xét đến nội dung và tính đa dạng của chiến lược kinh doanh và quan điểm của ngân hàng đối với rủi ro như: “Sợ hãi né tránh”, “chủ động chấp nhận”, hay quan điểm khác.v.v. Ngoài ra, một chiến lược kinh doanh và quản trị rủi ro tốt không chỉ dừng lại ở nội dung mà còn khả năng thực hiện, điều có nghĩa là tất cả cán bộ công nhân viên của ngân hàng cần phải thấm nhuần về quan điểm và cùng chung ý chí đối với quản trị rủi ro. Cách tốt nhất để đánh giá năng lực quản trị rủi ro theo chi tiêu này cũng là thiết lập bảng hỏi và chấm điểm. Thứ ba, khả năng thực hiện các biện pháp kiểm sóat rủi ro Kiểm soát rủi ro để hạn chế tổn thất ở một mức độ nhất định nhỏ hơn thu nhập kỳ vọng hay khả năng chịu đựng của ngân hàng. Điều có thể thấy rõ ràng là việc nhận biết và xác định, phân tích và đánh giá chính xác về phạm vi và mức độ rủi ro của bộ phận quản trị rủi ro nói trên chỉ thực sự có ý nghĩa khi NHTM có đủ khả năng tiến hành những biện pháp để quản lý và kiểm soát rủi ro. Mỗi loại rủi ro cần có những biện pháp và nghiệp vụ kiểm sóat riêng, do vậy để đánh giá năng lực quản trị rủi ro theo chỉ tiêu này cần phải thông qua các biện pháp nghiệp vụ mà ngân hàng đã áp dụng để kiểm soát rủi ro trên từng mặt hoạt động kinh doanh tức là phải bao gồm: các biện pháp kiểm sóat rủi ro tín dụng, rủi ro thanh khoản, rủi ro thị trường và rủi ro tác nghiệp. Cụ thể, khả năng thực hiện các biện pháp kiểm soát rủi ro được thể hiện thông qua các chỉ tiêu bao gồm: - Khả năng thực hiện các nghiệp vụ phái sinh để triệt tiêu rủi ro thị trường, hóan đổi các hợp đồng tín dụng. - Khả năng kiểm soát và thực hiện chuyển đổi kỳ hạn của các khoản mục nguồn vốn và tài sản, trên cơ sở đó xác định chính xác cầu thanh khoản của khách hàng và khả năng thanh tóan của ngân hàng. 20 - Khả năng quản trị, điều hành và vận hành tác nghiệp của ngân hàng, tính hợp lý trong bố trí lao động, chế độ đãi ngộ, môi trường làm việc cũng như quy trình luân chuyển chứng từ, thủ tục hành chính để hạn chế rủi ro tác nghiệp. Tương tự như hai nhóm chỉ tiêu trên, để đánh giá năng lực quản trị rủi ro của NHTM qua nhóm chỉ tiêu này, chúng ta cần phải thiết lập một Bảng câu hỏi về các nội dung bao gồm các loại rủi ro và các biện pháp kiểm sóat rồi áp dụng thang điểm cho mỗi biện pháp cụ thể. Ngân hàng nhận được nhiều điểm thì càng được đánh giá là có năng lực quản trị rủi ro cao. 1.4 Sự cần thiết phải nâng cao năng lực quản trị rủi ro của ngân hàng 1.4.1 Xuất phát từ đặc điểm và hậu quả của rủi ro trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại. Hoạt động ngân hàng lại là tất yếu khách quan và hết sức cần thiết đối với các chủ thể và với sự phát triển và ổn định chung của nền kinh tế. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường, các hoạt động ngân hàng ngày càng mở rộng và phát triển làm cho các NHTM trở thành “ người bạn đồng hành” với cuộc sống của người dân và các doanh nghiệp. Song, một khi tiến hành hoạt động kinh doanh, NHTM luôn phải đương đầu với rủi ro, do vậy chấp nhận mở rộng và phát triển hoạt động ngân hàng đồng nghĩa với việc phải chấp nhận sự xuất hiện thêm các loại rủi ro có thể xảy ra. Như đã chứng minh ở trên, cách chấp nhận tích cực và hiệu quả nhất chính là thực hiện các biện pháp quản trị rủi ro. Hiệu quả kinh doanh của NHTM phụ thuộc vào mức độ rủi ro xảy ra. Cùng một doanh số hoạt động và mức doanh thu, nếu rủi ro thấp thì hiệu quả kinh doanh cao và ngược lại. Hoạt động trong điều kiện nền kinh tế thị trường, các NHTM không chỉ phải tự chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh của bản thân ngân hàng mà còn phải chấp nhận những yêu cầu chung như là “luật chơi” để đảm bảo sự an toàn cho toàn bộ hệ thống. Nền kinh tế càng phát triển với mức độ thị trường hóa càng cao, “sân chơi” càng bình đẳng thì bản lĩnh của mỗi ngân hàng càng cần thiết phải được khẳng định. Trong xu thế đó, nếu không chú trọng củng cố và nâng cao năng lực quản trị rủi ro, các NHTM không thể tồn tại và phát triển một cách bền vững. 21 1.4.2 Năng lực quản trị rủi ro tốt là điều kiện quan trọng để nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động kinh doanh của NHTM. Giữa năng lực quản trị rủi ro và hiệu quả hoạt động kinh doanh có mối quan hệ tác động thúc đẩy lẫn nhau. Hoạt động kinh doanh được mở rộng và phát triển là điều kiện cần thiết cho việc nâng cao doanh thu và lợi nhuận của ngân hàng. Do vậy, quản trị rủi ro tốt là điều kiện bảo đảm cho hiệu quả kinh doanh của ngân hàng và nhờ vào hiệu quả kinh doanh cao, ngân hàng có điều kiện chú trọng và củng cố năng lực quản trị rủi ro. Ngày nay, người ta coi quản trị rủi ro là một nội dung của quản trị kinh doanh NHTM và là một yêu cầu đối với các cấp lãnh đạo, những người chịu trách nhiệm quản trị và điều hành ngân hàng. Vì vậy, nâng cao năng lực quản trị rủi ro có ý nghĩa quan trọng đối các cấp lãnh đạo, những người chịu trách nhiệm quản trị và điều hành ngân hàng. Vì vậy, nâng cao năng lực quản trị rủi ro có ý nghĩa quan trọng đối với nâng cao chất lượng quản trị kinh doanh của các NHTM. 1.4.3 Xu thế hội nhập quốc tế và tòan cầu hóa đòi hỏi phải nâng cao năng lực quản trị rủi ro. Dù muốn hay không các nước vẫn phải chấp nhận xu thế hội nhập quốc tế và toàn cầu hóa, chủ động hay bị “cuốn theo”, xét về kết quả cuối cùng thì không khác nhiều. Trong bối cảnh đó, hội nhập về ngân hàng tài chính luôn được đặt ra như là một vấn đề trọng tâm, hết sức quan trọng và nhạy cảm. Khi tham gia hội nhập, dù được diễn giải thế nào cuối cùng cũng là 2 vấn đề mà các ngân hàng phải đương đầu với: (1) áp lực cạnh tranh ngày càng cao hơn cả về phạm vi và mức độ, hoạt động kinh doanh trong môi trường tự do bình đẳng song với “luật chơi” hà khắc hơn; (2) nguy cơ rủi ro cao hơn với những diễn biến phức tạp hơn. Thứ nhất, hoạt động đầu tư, kinh doanh của các tổ chức tài chính không còn bị giới hạn trong phạm vi quốc gia mà là đa ngành và toàn cầu. Do vậy, rủi ro xảy ra nhiều hơn và tác động cũng trên phạm vi toàn cầu. Đây là một trong những tác động không mong muốn của quá trình hội nhập kinh tế theo khu vực và xu thế tòan cầu hóa. Thứ hai, cạnh tranh giữa các tổ chức tín dụng diễn ra quyết liệt hơn một mặt do yêu cầu mở rộng quy mô hoạt động và sự bùng nổ thông tin, phát triển và áp dụng công nghệ hiện đại trong hoạt động kinh doanh và cạnh tranh với nhau. 22 Thứ ba, các quy chế tài chính và các ràng buộc pháp lý được nới lỏng cho nên các tổ chức tài chính có nhiều quyền chủ động hơn trong kinh doanh, do đó hoạt động đầu tư tài chính và các dự án rủi ro cũng tăng theo. Thứ tư, sự hình thành và phát triển của các công cụ tài chính và các công cụ phát sinh (hợp đồng kỳ hạn, hợp đồng tương lai, hợp đồng quyền chọn, hợp đồng hóan đổi) với tiến bộ khoa học công nghệ, thông tin và kỹ thuật đã làm tăng khối lượng giao dịch tài chính trên toàn thế giới. Điều này là cho các tổ chức tài chính phải đối phó với nhiều nguồn phát sinh rủi ro trên toàn cầu. Thứ năm, sự biến động của các biến kinh tế vĩ mô như thu nhập, thất nghiệp, lạm phát, tỷ giá hối đoái, .v.v .. và cuối cùng là những biến cố chính trị xã hội trên phạm vi quốc tế tác động đến hoạt động ngân hàng tài chính và vì vậy cũng là những nguyên nhân gây ra rủi ro. Trong bối cảnh đó, việc nâng cao năng lực quản trị rủi ro của các NHTM không phải chỉ là vấn đề sống còn đối với cá nhân mỗi ngân hàng mà còn là yêu cầu chung để đảm bảo an toàn cho cả hệ thống tài chính mỗi quốc gia, mỗi khu vực và trên toàn cầu. 1.5 Khủng hoảng kinh tế tài chính tòan cầu và những cảnh báo cho hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam Vụ phá sản của Ngân hàng lehman Brothers, vụ mua lại Merrill Lynch và nguy cơ sụp đổ của tập đoàn tài chínhBảo hiểm AIG đã làm rung rinh hệ thống tài chính Mỹ và tác động của nó làm lung lay thị trường tài chính thế giới. Tất cả đều được quy kết là do hậu quả của việc cho vay dưới chuẩn của thị trường Bất động sản Mỹ. Vậy bài học gì có thẻ rút ra cho họat động của các Ngân hàng thương mại Việt Nam? 1.5.1 Nợ dưới chuẩn – Hậu quả của sản phẩm tài chính hiện đại nhưng nhiều rủi ro Từ nhiều năm qua, các Ngân hàng đầu tư Mỹ đã nới lỏng tối đa chính sách tín dụng cho các công ty và cá nhân mua bất động sản trả chậm. Bắt nguồn từ việc lo ngại sự sụp đổ của các công ty dotcom sẽ ảnh hưởng mạnh đến nền kinh tế Mỹ hồi những năm 90, chủ tịch Cục dự trữ liên bang Mỹ (FED) lúc bấy giờ, ông Alan Greenspan, đã tiến hành chiến dịch cắt giảm lãi suất xuống những mức thấp kỷ lục để thúc đẩy kinh tế tăng trưởng. Điều đó đã làm nảy sinh ra những 23 dòng vốn vay giá rẻ và gia tăng một lớn người đi vay tiền. Trên thực tế, vốn vay rẻ sẽ làm mất đi ý thức phòng ngừa rủi ro của người đi vay. Giả dụ rằng bạn đi vay tiền và sau đó lâm vào tình trạng khó khăn về tài chính, bạn sẽ dễ dàng trong việc định giá lại tài sản để tiếp tục một khoản vay mới nhằm chi trả cho các khoản vay mà bạn phải trả. Bên cạnh đó, việc cung cấp tín dụng dễ dàng như: không cần tài sản thế chấp, tỷ lệ trả trước rất thấp, chỉ cần có mã số thuế * (tax number – những công dân Mỹ, khi đăng ký thuế thu nhập cá nhân với Cục Thuế Liên Bang sẽ được cấp mỗi người một mã số thuế trong suốt đời) mặc dù đang trong tình trạng thất nghiệp, hoạt động cho vay này thực sự không đáp ứng đầy đủ những tiêu chuẩn để được cấp tín dụng nhưng vẫn được vay đã làm gia tăng rủi ro cho các Ngân hàng. Người vay tiền mua nhà sẽ cho vay để dùng tiền cho thuê trả lãi vay cho Ngân hàng, và khi bất động sản tăng giá họ sẽ được hưởng lợi. Về phía Ngân hàng, tuy hình thức cho vay này rủi ro rất lớn, nhưng các Ngân hàng vẫn chấp nhận để đổi lại một mức lãi suất rất cao. Mặt khác, các công ty tài chính cũng thực hiện hình thức cho vay này một cách rộng rãi và chuyển rủi ro qua ngân hàng và nhà đầu tư thông qua một một sản phẩm tài chính gọi là “Mua lại các khỏan nợ hay khoản phải thu”. Các công ty tài chính bán các khoản phải thu cho ngân hàng với một mức chiết khấu cao, Ngân hàng hoặc các tổ chức tài chính chuyên biệt (goi là các SPE) sẽ chứng khoán hóa các khoản phải thu, nghĩa là phát hành các chứng khoán để vay tiền với mức lãi suất rất cao. Rõ ràng là rủi ro chồng rủi ro, và đượng nhiên là các chứng khoán có mức độ xếp hạng tín nhiệm càng thấp thì tỷ suất sinh lợi càng cao, thậm chí có chứng khoán không được xếp hạng tín nhiệm nhưng vẫn được nhà đầu tư trên toàn thế giới chấp nhận do lãi suất siêu hạng. Một lượng vốn đầu tư khổng lồ trên thế giới đã đổ vào thị trường bất động sản Mỹ và khi thị trường này đóng băng vào giữa năm 2007, các vụ đổ vỡ dây chuyền đã xảy ra. Các nhà đầu tư bất động sản vay tiền không đủ khả năng trả lãi vay, bất động sản không bán được, chứng khoán phát hành trên các khoản phải thu này sụt giá thê thảm, các Ngân hàng không đủ khả năng chi trả các khoản nợ lâm vào tình trạng phá sản. 24 Sản phẩm tài chính hiện đại nhưng nhiều rủi ro này chính là nguyên nhân cho cuộc khủng hoảng tài chính cho vay dưới chuẩn mà nước Mỹ đang phải đương đầu. 1.5.2 Hạn chế dư chấn của “Khủng hoảng cho vay dưới chuẩn Mỹ” đến thị trường tài chính quốc tế Số phận của Lehman Brothers sau cuộc đàm phán thất bại với Ngân hàng Phát triển Hàn quốc là tâm điểm của giới tài chính phố Wall. Giá cổ phiếu sụt giảm hơn 40% trong 1 ngày, và khoản lỗ gần 7 tỷ USD từ hoạt động đầu tư bất động sản đã khiến tài sản của ngân hàng này giảm từ 700 tỷ USD xuống còn xấp xỉ 50 tỷ, không thể thanh toán các khoản nợ và phải tuyên bố phá sản. Sự kiện này cùng với việc bị mua lại của Merrill Lynch, và sự khủng hoảng của AIG đã khiến chỉ số Dow Jones rớt tới 3% trong ngày giao dịch sau đó, thị trường chứng khoán Châu Á và Châu Âu rớt từ 3 -5%. Và sự việc sẽ không dừng lại ở đó nếu ngày 17/9, FED không công bố bơm 85 tỷ USD để cứu Tập đoàn AIG. Nhiều người cho rằng việc FED cứu AIG nhưng lai quay lưng với Lehman Brothers là không thỏa đáng. Tuy nhiên FED vẫn có những lý do riêng của mình. FED cho rằng sự sụp đổ của AIG có thể gây ảnh hưởng nghiêm trọng và dây chuyền đến nền kinh tế Mỹ và các quốc gia khác do mối quan hệ phức tạp và ảnh hưởng của nó đến rất nhiều cơ quan tài chính và bảo hiểm trên toàn thế giới. Ngay sau động thái của FED, các chỉ số chứng khoán Mỹ đã tăng trở lại, có lúc đạt mức tăng hơn 1%. Thị trường chứng khoán Châu Á phần lớn cũng tăng trở lại với chỉ số Nikkei của Tokyo tăng khoảng 1,2%, chỉ số MSCI Asia-Pacific Index tăng 0.9%. Kế họach giải cứu nền tài chính Mỹ cũng đã được họach định vớii một ngân sách khổng lồ hơn 700 tỷ USD nhằm cứu vãn nền tài chính phố Wall nhưng cũng mang lại một khỏang trống khổng lồ trong ngân sách Mỹ. Và suốt trong tuần lễ cuối tháng 9, gần như toàn bộ nền kinh tế Mỹ cũng như các chuyên gia kinh tế toàn cầu đều tập trung mọi chú ý đến việc thỏa thuận gói tài trợ 700 tỷ USD cho việc cứu trợ nền kinh tế Mỹ đang trong cơn khủng hoảng. Việc cứu trợ này được xem là “ khẩn cấp”mặc dù vẫn còn nhiều nghi ngờ và tranh luận khác nhau về mục đích của gói cứu trợ này. Một số nhà kinh tế phản đối và cho rằng việc can thiệp của FED vào thị trường tài chính - tín dụng sẽ ảnh hưởng xấu tới nền kinh tế ._.a, nó làm rõ rằng ưu tiên chính sẽ là thu thập số liệu về tất cả các nhân tố quan trọng gây ra rủi ro tín dụng, sẽ tạo ra một động cơ lớn giải quyết “sự không đầy đủ” của dữ liệu rủi ro tín dụng. - Nó cũng mở rộng phạm vi yêu cầu vốn đối với rủi ro hoạt động. Các đo lường về rủi ro hoạt động vẫn rất “sơ sài” trong một thời gian bởi vì thiếu thông tin, nhưng hiệp ước này sẽ kích thích sự thay đổi một cách nhanh chóng. Từ quan điểm kinh tế, hiệp ước này gặp phải những hạn chế về sự chính xác của các chỉ tiêu đo lường dựa trên tiền phạt, một hạn chế được làm giảm nhẹ bởi nhu cầu làm cân đối giữa tính chính xác và tính thực tiễn. Basel II sử dụng khái niệm “ba trụ cột” : Trụ cột 1: Các yêu cầu về vốn tối thiểu Trụ cột 2: Tăng cường cơ chế giám sát, đặc biệt là việc đánh giá chất lượng quản lý rủi ro của ngân hàng Trụ cột 3: Tuân thủ kỷ luật thị trường Ba trụ cột này sẽ góp phần tạo ra một mức độ an toàn và lành mạnh cao hơn trong hệ thống tài chính. Trụ cột 1: Các yêu cầu về vốn tối thiểu Những thay đổi cơ bản đối với yêu cầu vốn tối thiểu được đề ra trong Hiệp ước 1988 là những phương cách tiếp cận rủi ro tín dụng và tính cả những yêu cầu vốn về rủi ro hoạt động. Hiệp ước này đưa và một loạt những “chọn lựa nhạy cảm với rủi ro” để nhấn mạnh đến cả hai loại rủi ro. Đối với rủi ro tín dụng, những chọn lựa này bao gồm phương pháp chuẩn hóa, với những yêu cầu đơn giản nhất, và mở rộng thành các phương pháp Dựa trên Xếp hạng Nội bộ (IRB) “cơ bản” và “nâng cao”. Xếp hạng nội bộ là những đánh giá rủi ro tín dụng tương đối của người đi vay và/hoặc các tổ chức đi vay, do các ngân hàng quy định. Hiệp ước mới mong muốn không đưa ra một sự gia tăng thuần hoặc giảm thuần – tính trung bình – trong vốn điều lệ tối thiểu. Với các phương pháp IRB, mục tiêu cuối cùng là nâng mức vốn điều lệ để hỗ trợ cho rủi ro tín dụng và để đưa ra những khích lệ về vốn đối với phương pháp chuẩn hóa thông qua trọng số rủi ro tín dụng thấp cho các phương pháp “cơ bản” và “nâng cao”. Theo Hiệp ước mới này, mẫu số của tỷ số tổng vốn tối thiểu sẽ bao gồm 3 phần: tổng tài sản đã điều chỉnh với rủi ro đối với rủi ro tín dụng, cộng với 12,5 lần tổng tỷ lệ vốn quy định cho rủi ro thị trường và rủi ro hoạt động. Giả định rằng một ngân hàng có 875$ tài sản đã điều chỉnh rủi ro, vốn quy định đối với rủi ro thị trường là 10$ và vốn quy định cho rủi ro hoạt động là 20$, mẫu số của tỷ số tổng vốn sẽ bằng 875+[(10+20)x12.5] hay bằng 1.250$. Các trọng số rủi ro theo Trụ cột 1 Hiệp ước mới này phân biệt rõ ràng giữa các trọng số rủi ro, sử dụng một “danh mục” các phương pháp được chọn là “chuẩn hóa”, “cơ bản”, “nâng cao”. Như trong hiệp ước hiện tại, các trọng số rủi ro phụ thuộc vào loại người đi vay: quốc gia, ngân hàng, hoặc công ty. Không giống như trong hiệp ước hiện nay, sẽ không có sự khác biệt về trọng số đối với rủi ro quốc gia phụ thuộc vào việc quốc gia đó có là thành viên Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD) hay không. Thay vào đó, các trọng số rủi ro đối với các yếu tố rủi ro phụ thuộc vào đánh giá tín dụng bên ngoài. Việc xử lý khả năng bị rủi ro ngoài bảng cân đối kế toán vẫn hầu như không thay đổi trừ một vài ngoại lệ. Để cải thiện độ nhạy cảm rủi ro trong khi vẫn giữ phương pháp chuẩn được đơn giản, Ủy ban đề nghị cơ sở để xác định trọng số rủi ro là đánh giá tín dụng của các tổ chức bên ngoài. Việc sử dụng các trọng số giám sát là sự khác biệt lớn so với phương pháp IRB, mà chủ yếu dựa trên việc xếp hạng của tổ chức bên ngoài. Phương pháp này nhạy cảm với rủi ro hơn hiệp ước hiện tại, thông qua việc đưa thêm rủi ro công ty vào (50%), cộng với trọng số rủi ro 150% cho khả năng xếp hạng thấp. Trường hợp không được xếp hạng có trọng số 100%, thấp hơn trọng số 150%. Loại có rủi ro cao (150%) cũng được dùng cho một số loại tài sản nhất định. Phương pháp chuẩn hóa không cho phép trọng số thay đổi theo kỳ hạn, ngoại trừ trong trường hợp cho vay ngắn hạn đối với các đối tác ngân hàng trong loại xếp hạng trung bình, nơi trọng số giảm từ 50% xuống còn 20% và từ 100% xuống còn 50% tùy thuộc vào mức độ xếp hạng. Loại chưa được xếp hạng có trọng số 150% có thể gây ra một hành vi “lựa chọn ngược/bất lợi”, theo đó các thể nhân bị xếp hạng thấp có thể từ bỏ việc xếp hạng để hưởng trọng số rủi ro 100% thay vì 150%. Mặt khác, hầu hết các công ty – và ở nhiều nước, phần lớn các ngân hàng – không cần có xếp hạng để tài trợ cho các hoạt động của họ. Do vậy, việc mà một người đi vay không có xếp hạng thường không phải là một dấu hiệu về chất lượng tín dụng thấp. Hiệp ước này cố gắng phá bỏ sự thỏa hiệp giữa các sự kiện mâu thuẫn này và khuyến khích các tổ chức thanh gia giám sát của quốc gia có sự linh hoạt trong việc điều chỉnh trọng số. Trọng số 150% hiện nay vẫn phụ thuộc vào việc tham vấn của ngành ngân hàng. Chúng ta đưa ra bảng về các trọng số rủi ro cho xếp hạng ngân hàng và công ty. Bảng 1.1: Trọng số rủi ro cho xếp hạng ngân hàng và công ty Trọng số rủi ro ngân hàng Từ AAA đến AA- A+ đến A- BBB+ đến BBB- BB+ đến B- Dưới B- Không được xếp hạng Trọng số rủi ro 0% 20% 50% 100% 150% 100% Trọng số rủi ro công ty Từ AAA đến AA- A+ đến A- BBB+ đến BB- Dưới BB- Không được xếp hạng Trọng số rủi ro 20% 50% 100% 150% 100% Phương pháp IRB đề ra những nguyên tắc để đánh giá rủi ro tín dụng về mặt kinh tế. Nó đề xuất một sự xử lý tương tự với phương pháp chuẩn hóa cho rủi ro công ty, ngân hàng và quốc gia, cộng với các chương trình riêng cho khả năng bị rủi ro của ngân hàng bán lẻ, tài chính dự án và vốn cổ phần. Có hai phiên bản của phương pháp IRB: phương pháp “cơ bản” và phương pháp “nâng cao”. Đối với mỗi loại rủi ro, việc xử lý sử dụng ba thành tố chính được gọi là “các thành phần rủi ro”. Một ngân hàng có thể sử dụng hoặc là ước tính riêng của mình cho từng ngân hàng hoặc các ước tính giám sát được chuẩn hóa, phụ thuộc vào phương pháp này. Một “Chức năng trọng số rủi ro” chuyển các thành phần rủi ro thành các trọng số rủi ro để tính tài sản được điều chỉnh rủi ro. Các thành phần rủi ro là xác suất vỡ nợ (DP), thiệt hại do vỡ nợ (Lgd) và “Dễ bị vỡ nợ - Exposure At Default” (EAD). Ước tính về DP phải thể hiện quan điểm bảo thủ về DP trung bình dài hạn, “thông qua chu kỳ này” hơn là đánh giá ngắn hạn về rủi ro. Các trọng số rủi ro là một chức năng của DP và Lgd. Kỳ đáo hạn là một thành phần rủi ro tín dụng mà sẽ ảnh hưởng đến các trọng số rủi ro, căn cứ vào mục tiêu của độ nhạy cảm rủi ro đã tăng lên. Tuy nhiên, việc tính đến cả kỳ đáo hạn sẽ làm tăng thêm tính phức tạp và làm nản chí đối với việc cho vay dài hạn. Do vậy, hiệp ước này đưa ra các công thức thay thế cho việc tính đến cả kỳ đáo hạn, mà làm giảm bớt ảnh hưởng đơn giản của cơ chế lên vốn. Phương pháp này đưa vào Trọng số Rủi ro Tiêu chuẩn (BRW) cho việc tính đến ảnh hưởng của kỳ đáo hạn lên rủi ro tín dụng và các trọng số vốn. Chức năng này phụ thuộc vào xác suất vỡ nợ DP. Các tiêu chuẩn rủi ro đề cập đến trường hợp cụ thể của một tài sản có kỳ hạn 3 năm, với các xác suất vỡ nợ khác nhau và một Lgd 50%. Ba điểm đại diện này thể hiện độ nhạy của các trọng số rủi ro đối với xác suất vỡ nợ hàng năm. Độ nhạy cảm về trọng số rủi ro có tính đến kỳ hạn: trường hợp tiêu chuẩn (tài sản có kỳ hạn 3 năm, 50% Lgd) Xác suất vỡ nợ (%) DP 0.03 0.7 20 Trọng số rủi ro tiêu chuẩn (%) BRW 14 100 625 Đối với DP = 0.7, BRW là 100% và trọng số rủi ro tối đa, với DP = 0,2 đạt 625%.Giá trị này là mức trần cho mọi kỳ đáo hạn và mọi xác suất vỡ nợ. Nét đặc trưng trọng số này với sự thay đổi DP nhạy cảm hơn các trọng số trong phương pháp chuẩn hóa mà thay đổi từ 20% đến 150% cho mọi kỳ hạn dài hơn 1 năm. Những trọng số này tăng với tỷ lệ ít hơn với xác suất vỡ nợ cho đến khi chúng đạt mức trần. Hiệp ước này đề nghị sử dụng kỳ hạn phạt 3 năm đối với mọi tài sản cho phương pháp “cơ bản” nhưng để mở cửa đối với việc sử dụng kỳ đáo hạn hiệu dụng. Các trọng số rủi ro đã điều chỉnh đối với kỳ hạn hiệu dụng được áp dụng trong phương pháp “nâng cao”. Khả năng bị rủi ro cho các khỏan cho vay cá thể Hiệp ước này đề nghị xếp các khả năng bị rủi ro của từng nhóm thành các loại khác nhau.Việc đánh giá thành phần rủi ro sẽ theo mức độ của từng loại hơn là mức độ sẽ bị rủi ro của từng cá nhân.Trong trường hợp có khả năng bị rủi ro bán lẻ, hiệp ước này cũng đề nghị một sự đánh giá khác về rủi ro, để đánh giá một cách trực tiếp “lỗ kỳ vọng”. Lỗ kỳ vọng là sản phẩm của xác suất vỡ nợ (DP) và thiệt hại do vỡ nợ (Lgd). Phương pháp này né tránh việc đánh giá riêng, cho từng loại của DP và Lgd Phương pháp IRB cơ bản Phương pháp xếp hạng nội bộ IRB “cơ bản” cho phép các ngân hàng đáp ứng các chuẩn mực giám sát thiết thực để đưa vào đánh giá của chính mình về xác súât vỡ nợ cùng với con nợ. Những ước tính về những nhân tố rủi ro tăng thêm như thiệt hại xảy ra bị gánh chịu bởi ngân hàng trên cơ sở vỡ nợ sẽ theo những ước tính được chuẩn hóa. Khả năng bị rủi ro không được đảm bảo bởi một hình thức cầm cố sẽ gặp phải thiệt hại vỡ nợ cố định và phụ thuộc vào việc giao dịch này là giao dịch chính hay giao dịch phụ. Các yêu cầu tối thiểu cho phương pháp IRB cơ bản liên quan đến sự khác biệt đầy ý nghĩa về rủi ro tín dụng với hoạt động xếp hạng nội bộ, tính toàn diện của hệ thống xếp hạng, các tiêu chí của hệ thống xếp hạng.. Có nhiều phương pháp và nguồn dữ liệu mà các ngân hàng có thể sử dụng để kết hợp một ước tính về DP với từng mức điểm nội bộ của nó. Ba phương pháp lớn là: sử dụng dữ liệu dựa trên kinh nghiệm vỡ nợ của chính ngân hàng; phác thảo dữ liệu bên ngoài và sử dụng mô hình thống kê về phá sản. Do vậy, một ngân hàng có thể sử dụng phương pháp cơ bản để xếp hạng theo xác suất vỡ nợ. Phương pháp IRB nâng cao Sự khác biệt đầu tiên so với hương pháp “cơ bản” là việc các ngân hàng đánh giá các thành phần rủi ro đó cộng với thông số thiệt hại vỡ nợ nhằm mô tả sự phục hồi. Thường thì các ngân hàng đã thực hiện các thang xếp hạng trong một thời gian, nhưng họ thiếu dữ liệu rủi ro về sự phục hồi. Việc xử lý kỳ đáo hạn cũng khác phương pháp “cơ bản”, đề cập đến một chuẩn mực duy nhất cho mọi tài sản. Phương pháp trong số rủi ro tiêu chuẩn (BRW) phụ thuộc vào kỳ đáo hạn trong phương pháp “nâng cao”. Mức trần 625% sẽ áp dụng như trong mức phạt kỳ hạn 3 năm. Ảnh hưởng kỳ hạn này phụ thuộc vào xác suất vỡ nợ hàng năm như trong phương pháp “cơ bản”, cộng với số hạng b trong hàm BRW của xác suất vỡ nợ và kỳ đáo hạn phụ thuộc vào kỳ đáo hạn hiệu dụng của tài sản. Đây là một phản ứng toàn diện hơn đối với nhu cầu làm cho vốn nhạy cảm hơn với ảnh hưởng kỳ hạn. Nó phá vỡ một thỏa thuận giữa “sự nhạy cảm rủi ro” và yêu cầu thực tế về việc tránh tỷ lệ vốn quy định nặng đối với các cam kết dài hạn mà sẽ làm nản lòng các ngân hàng trong việc tham gia vào các giao dịch như vậy. Cần chấm dứt ngay việc cho phép các ngân hàng tính yêu cầu vốn của họ dựa trên các mô hình rủi ro tín dụng của danh mục của chính mình. Các lý do là hiện nay thiếu độ tin cậy của các thông tin đầu vào được đòi hỏi bởi các mô hình như vậy, cộng với khó khăn trong việc xác định độ tin cậy của các ước tính về vốn của mô hình. Tuy nhiên, bằng cách đề ra việc hình thành dữ liệu rủi ro cho ba năm tới, Hiệp ước Basel Mới chuẩn bị cho việc thực hiện sau này. Do khó khăn của việc đánh giá ý nghĩa của những phương pháp này về yêu cầu vốn, có thể đưa ra một vài hướng dẫn thận trọng như mức vốn tối thiểu của Ngân hàng. Các ngân hàng có thể dự đoán và thiết lập mức đệm vốn tăng thêm của chính họ (cụ thể thông qua Trụ cột 2) trong các kỳ tăng trưởng kinh tế. Tài sản bảo đảm Hiệp ước Mới chấp nhận sự ghi nhận rộng hơn về các kỹ thuật làm giảm rủi ro tín dụng, kể cả cầm cố, bảo đảm, và các phái sinh tín dụng, và tính giá trị ròng. Vật cầm cố Định nghĩa về tài sản cầm cố hợp lệ rộng hơn định nghĩa trong Hiệp ước năm 1988. Nói chung, các ngân hàng có thể công nhận tài sản cầm cố là: tiền mặt; một số loại chứng khoán nợ do các quốc gia phát hành, các tổ chức thuộc khu vực công, ngân hàng, các công ty chứng khoán, và các công ty cổ phần phát hành; các chứng khoán vốn được giao dịch trên các thị trường chính thống; các cổ phần của các quỹ hỗ tương, vàng. Để cầm cố, cần thiết phải tính đến thay đổi thời gian của giá trị cũng như khả năng bị rủi ro của vật cầm cố. “Mức vay thế chấp” xác định tài sản cầm cố bổ sung cần thiết đối với khả năng bị rủi ro để đảm bảo việc bảo vệ rủi ro tín dụng một cách hiệu quả, căn cứ vào các khoảng thời gian cần thiết để điều chỉnh lại mức độ cầm cố (cầm cố bổ sung), ghi nhận thất bại của đối tác trong việc thanh toán hoặc giao lợi nhuận và khả năng thanh lý vật thế chấp của ngân hàng. Tài sản đảm bảo và các phái sinh tín dụng Đối với một ngân hàng, để đạt được bất kỳ sự trợ giúp về vốn nào đó từ việc nhận các sản phẩm phái sinh tín dụng hoặc vật bảo đảm, việc bảo đảm tín dụng phải là trực tiếp, rõ ràng, không thể hủy ngang và không có điều kiện. Các ngân hàng chỉ chịu thiệt hại trong các giao dịch được đảm bảo khi có sự vỡ nợ của cả người mắc nợ và người bảo đảm. Ảnh hưởng “sự vỡ nợ của cả hai” sẽ giảm rủi ro tín dụng nếu có tương quan thấp giữa xác suất vỡ nợ của người mắc nợ và người bảo lãnh. ( Ảnh hưởng “vỡ nợ kép”). Khả năng kết thành danh mục Một mở rộng khác của Hiệp ước mới là yêu cầu vốn tối thiểu không chỉ phụ thuộc vào tính chất của khả năng bị rủi ro của cá nhân mà còn phụ thuộc vào “rủi ro tập trung” của danh mục cho vay của ngân hàng. Sự tập trung chỉ rõ những quy mô lớn về khả năng bị rủi ro đối với những người đi vay đơn lẻ, hoặc các nhóm những người đi vay có quan hệ chặt chẽ với nhau, về mặt tiềm năng gây ra thiệt hại lớn. Hiệp ước này đưa ra một chỉ tiêu đo lường tính kết thành danh mục (granularity) và gắn nhân tố rủi ro này vào phương pháp IRB bằng cách điều chỉnh vốn giám sát chuẩn được áp dụng cho mọi khả năng bị rủi ro, ngoại trừ những khả năng trong danh mục bán lẻ. Xử lý này không bao gồm ngành, địa lý, hoặc các dạng tập trung rủi ro tín dụng hơn là tập trung về quy mô. Điều chỉnh “tính kết thành danh mục” áp dụng đối với toàn bộ những tài sản được điều chỉnh rủi ro ở cấp độ ngân hàng hợp nhất. Các rủi ro cụ thể khác Hiệp ước mới nhắm vào các loại rủi ro khác nhau: chứng khoán hóa tài sản, tài chính dự án, khả năng bị rủi ro của vốn cổ phần. - Hiệp ước này xem việc chứng khoán hóa tài sản cần phải xử lý nghiêm khắc hơn. - Nó cũng đặt ra một nguyên tắc “clean break” theo đó việc bán tài sản miễn truy đòi nên là không mơ hồ, giới hạn sự cám dỗ của các ngân hàng đối với việc hỗ trợ các cơ cấu được tài trợ vì động cơ danh tiếng (rủi ro danh tiếng). - Các vấn đề chứng khoán khác liên quan đến rủi ro hoạt động. Sự chứng khoán hoá quay vòng có đặc điểm trừ dần trong giai đoạn đầu, hoặc các dòng thanh khoản được cung cấp cho các sản phẩm phái sinh. - Hiệp ước này cũng đặt ra các phương pháp nhạy cảm với rủi ro cho các vị thế vốn CP được nắm giữ trong sổ sách của ngân hàng. Mục đích là cứu vãn khả năng các ngân hàng có thể hưởng lợi từ một tỷ lệ vốn quy định thấp hơn khi họ nắm giữ vốn cổ phần hơn là nợ. Rủi ro lãi suất Hiệp ước này cho rằng sẽ phù hợp hơn nếu xử lý rủi ro lãi suất trong sổ sách ngân hàng theo Trụ cột 2, hơn là xác định các yêu cầu vốn. Việc này hàm ý không có gánh nặng về vốn, nhưng sẽ có một quy trình giám sát nâng cao. Hướng dẫn về rủi ro lãi suất xem hệ thống nội bộ ngân hàng là công cụ chính cho việc đo lường rủi ro lãi suất trong sổ sách ngân hàng và phản ứng của hoạt động giám sát. Để tạo điều kiện cho việc điều hành rủi ro lãi suất của các chuyên gia giám sát của các định chế, các ngân hàng nên đưa ra kết quả từ hệ thống đánh giá nội bộ của mình thông qua việc sử dụng các biến động lãi suất được chuẩn hóa. Nếu các chuyên gia giám sát xác định rằng ngân hàng đang không nắm giữ mức vốn tương xứng với mức độ rủi ro lãi suất, họ có thể đòi hỏi ngân hàng giảm rủi ro hoặc gia tăng lượng vốn nắm giữ hoặc cả hai. Rủi ro hoạt động Hiệp ước mới nêu ra một định nghĩa chuẩn về rủi ro hoạt động: “ là loại rủi ro xảy ra tổn thất do các qui trình, hệ thống hay nhân viên trong nội bộ ngân hàng vận hành không tốt hoặc do các nguyên nhân khách quan bên ngoài”. Đây là căn cứ đầu tiên trong việc phát triển tỷ lệ vốn quy định tối thiểu, ước tính rủi ro hoạt động ở mức 20% vốn điều lệ tối thiểu như được đo lường theo Hiệp ước 1988. Hiệp ứơc mới đề nghị một loạt gồm 3 phương pháp đo lường mức vốn tối thiểu căn cứ vào rủi ro hoạt động là: chỉ số cơ bản; tiêu chuẩn; đo lường nội bộ. “Phương pháp chỉ số cơ bản” nối tỷ lệ vốn quy định cho rủi ro hoạt động với một chỉ số duy nhất được dùng như một con số chung đo lường khả năng bị rủi ro của toàn hệ thống ngân hàng. Ví dụ, nếu chỉ số này là thu nhập gộp, mỗi ngân hàng sẽ nắm giữ vốn cho rủi ro hoạt động bằng với một tỷ lệ phần trăm cố định của thu nhập gộp. “Phương pháp chuẩn” xây dựng trên cơ sở phương pháp chỉ số cơ bản bằng cách chia các hoạt động của ngân hàng thành một số hoạt động kinh doanh tiêu chuẩn (cụ thể là tài chính doanh nghiệp và ngân hàng bán lẻ). Với mỗi loại hoạt động kinh doanh, tỷ lệ vốn quy định là một chỉ số riêng về rủi ro hoạt động nhân với một tỷ lệ cố định. “Phương pháp đo lường nội bộ” cho phép các ngân hàng riêng lẻ dựa trên dữ liệu nội bộ đề tính toán vốn điều lệ. Kỹ thuật này đòi hỏi 3 thông tin nhập lượng cho một nhóm những hoạt động kinh doanh cụ thể và các loại rủi ro: chỉ số khả năng bị rủi ro hoạt động; xác suất xảy ra thiệt hại, những thiệt hại do những sự kiện như thế gây ra. Đồng thời, những thành phần này tạo nên một sự phân phối thiệt hại cho các rủi ro hoạt động. Tuy nhiên, phân phối thiệt hại này có thể khác phân phối thiệt hại trong toàn ngành, bằng cách ấy đòi hỏi một sự điều chỉnh. Trụ cột 2: Tăng cường cơ chế giám sát, đặc biệt là việc đánh giá chất lượng quản lý rủi ro của ngân hàng Trụ cột thứ hai của hiệp ước mới nhắm vào việc đảm bảo rằng mỗi ngân hàng có quy trình nội bộ tốt để đánh giá mức an toàn vốn dựa trên đánh giá toàn diện về rủi ro. Các chuyên gia giám sát sẽ chịu trách nhiệm đánh giá ngân hàng làm tốt như thế nào trong việc đánh giá nhu cầu vốn của họ tương quan với rủi ro. Ủy ban này lưu ý đến tính lỷ luật của thị trường thông qua việc cải tiến việc công bố thông tin như là một phần cơ bản của Hiệp ước mới. Nó xem yêu cầu công bố thông tin và những kiến nghị sẽ cho phép các thành viên của thị trường đánh giá các mẩu thông tin quan trọng để áp dụng hiệp ước điều chỉnh. Các phương pháp tính độ nhạy cảm với rủi ro do Hiệp ước mới phát triển sẽ chủ yếu dựa trên các phương pháp nội bộ, cho ngân hàng nhiều chủ động hơn trong việc tính toán yêu cầu vốn của họ. Do vậy, các yêu cầu công bố thông tin riêng rẽ trở thành những điều kiện tiên quyết cho việc ghi nhận hoạt động thanh tra giám sát của các phương pháp nội bộ đối với rủi ro tín dụng, kỹ thuật làm giảm rủi ro tín dụng và những lĩnh vực hoạt động khác. Bốn nguyên tắc cơ bản tạo nên chính sách của các chuyên gia giám sát: - Các ngân hàng nên có một quy trình đánh giá tổng thể vốn tương quan với rủi ro và một chiến lược duy trì mức vốn của họ. - Các chuyên gia giám sát nên xem xét và đánh giá việc đánh giá và chiến lược bảo đảm đủ vốn nội bộ của các ngân hàng, cũng như khả năng giám sát và đảm bảo sự tuân thủ với các tỷ số vốn điều lệ. Các chuyên gia giám sát sẽ thực hiện các hành động giám sát thích hợp nếu họ không thỏa mãn với kết quả của quá trình này. - Các chuyên gia giám sát sẽ kỳ vọng các ngân hàng hoạt động trên mức các tỷ số vốn điều lệ tối thiểu và sẽ có khả năng đòi hỏi ngân hàng nắm giữ vốn cao hơn mức tối thiểu này. - Các chuyên gia giám sát sẽ cam thiệp ngay ở giai đoạn đầu tiên để ngăn chặn tình trạng vốn giảm xuống thấp hơn mức tối thiểu cần có để hỗ trợ cho rủi ro của một ngân hàng cụ thể, và nên đòi hỏi các hành động điều chỉnh nếu vốn không được duy trì và khắc phục Trụ cột thứ III: Tuân thủ kỷ luật thị trường. Trụ cột thứ III làm gia tăng một cách đáng kể các thông tin mà một ngân hàng phải công bố. Phần này được thiết kế để cho phép thị trường có một bức tranh hoàn thiện hơn về vị thế rủi ro tổng thể của ngân hàng và cho phép các đối tác của ngân hàng định giá và tham gia chuyển giao một cách hợp lý Các ngân hàng cần phải công khai thông tin một cách thích đáng theo nguyên tắc thị trường (Cột trụ 3). Với cột trụ này, Basel II đưa ra một danh sách các yêu cầu buộc các ngân hàng phải công khai thông tin, từ những thông tin về cơ cấu vốn, mức độ đầy đủ vốn đến những thông tin liên quan đến mức độ nhạy cảm của ngân hàng với rủi ro tín dụng, rủi ro thanh khoản, rủi ro thị trường, rủi ro tác nghiệp và quy trình đánh giá của ngân hàng đối với từng loại rủi ro này. Như vậy, với quá trình phát triển của Uỷ Ban Basel và những Hiệp ước mà tổ chức này đưa ra, các NHTM càng ngày càng được yêu cầu hoạt động một cách minh bạch hơn, đảm bảo vốn phòng ngừa cho nhiều loại rủi ro hơn và do vậy, hy vọng sẽ giảm thiểu được rủi ro. PHỤ LỤC 2 VỐN ĐIỀU LỆ CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM Stt Tên ngân hàng Số, ngày cấp giấy phép Vốn điều lệ (Tỷ đồng) Địa chỉ trụ sở chính 1 Ngân hàng Chính sách xã hội Việt Nam 230/QĐ-NH5 ngày 01/09/1995 5.988 68 Đường Trường Chinh, Đống Đa, Hà Nội 2 Ngân hàng Công thương Việt Nam 285/QĐ-NH5 ngày 21/09/1996 7.554 108 Trần Hưng Đạo, Hà Nội 3 Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam 280/QĐ-NH5 ngày 15/01/1996 10.400 Số 2 Láng Hạ, Ba Đình, Hà Nội 4 Ngân hàng cổ phần ngọai thương Việt Nam Quyết định số 115/CP Ngày 30/10/1962 12.100 198 Trần Quang Khải, Hoàn Kiếm, Hà Nội 5 Ngân hàng Phát triển nhà Đồng bằng sông Cửu Long 769/TTg ngày 18/09/1997 744 Số 9 Võ Văn Tần - Quận 3 - TP Hồ Chí Minh 6 Ngân hàng phát triển Việt Nam 108/2006/QĐ- TTg ngày 15/05/2006 5.000 25A Cát Linh, Hà Nội 7 Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam 287 /QĐ-NH5 ngày 21/09/1996 7.490 191 Bà Triệu, Hoàn Kiếm, Hà Nội 8 An Bình (An Binh 0031/NH-GP 2.300 47 Điện Biên Phủ, Commercial Joint Stock Bank- ABB) ngày 15/04/1993 Q1, TPHCM 9 Bắc Á (Bac A Commercial Joint Stock Bank) 0052/NHGP ngày 01/09/1994 940 117 Quang Trung. TP Vinh. Nghệ An 10 Dầu khí Toàn Cầu (Global Petro Commercial Joint Stock Bank) 0043/NH-GP ngày 13/11/1993 1.000 273 Kim Mã, Ba Đình, Hà Nội 11 Gia Định (Gia Dinh Commercial Joint Stock Bank) 0025/NHGP ngày 22/08/1992 500 135 Phan Đăng Lưu, Q. Phú Nhuận, TPHCM 12 Hàng hải (Maritime Commercial Joint Stock Bank) 0001/NHGP ngày 08/06/1991 1.500 Tòa nhà VIT 519 Kim Mã, Ba Đình, Hà Nội 13 Kiên Long (Kien Long Commercial Joint Stock Bank) 0054/NH-GP ngày 18/09/1995 580 44 Phạm Hồng Thái – P.Vĩnh Thanh Vân–TX Rạch giá- Tỉnh Kiên Giang 14 Kỹ Thương (Vietnam Technological and Commercial Joint Stock Bank) 0040/NHGP ngày 06/08/1993 2.521 70-72 Bà Triệu. Hà Nội 15 Liên Việt (LienViet Commercial Joint Stock Bank) 91/GP-NHNN ngày 28/3/2008 3.300 32 Nguyễn Công Trú, TX Vị Thanh, Tỉnh Hậu Giang 16 Miền Tây (Western Rural Commercial Joint Stock 0016/NH-GP ngày 1.000 127 Lý Tự Trọng, P. An Hiệp, TP Cần Bank) 06/04/1992 Thơ 17 Nam Việt (Nam Viet Commercial Joint Stock Bank) 0057/NH-GP ngày 18/09/1995 1.000 39-41-43 Bến Chương Dương, Q1, TPHCM 18 Nam Á (Nam A Commercial Joint Stock Bank- NAMA Bank) 0026/NHGP ngày 22/08/1992 1.252 97 bis Hàm Nghi, Q1, TPHCM 19 Ngoài quốc doanh (Vietnam Commercial Joint Stock Bank for private Enterprise) 0042/NHGP ngày 12/08/1993 2.000 Số 8 Lý Thái Tổ, Hoàn Kiếm, Hà Nội 20 Nhà Hà Nội (Habubank) 0020/NHGP ngày 06/06/1992 2.000 B7 Giảng Võ, Ba Đình. Hà Nội 21 Phát triển Nhà TPHCM (Housing development Commercial Joint Stock Bank) 0019/NHGP ngày 06/06/1992 1.000 33-39 Pasteur. Q1. TP HCM 22 Phương Nam 0030/NHGP ngày 17/03/1993 1.434 279 Lý Thường Kiệt. Q11. TP HCM 23 Phương Đông (Orient Commercial Joint Stock Bank) 0061/NHGP ngày 13/04/1996 1.111 45 Lê Duẩn. Q1. TP HCM 24 Quân Đội (Military Commercial Joint Stock Bank) 0054/NHGP ngày 14/09/1994 2.000 03 Liễu Giai. Q Ba Đình. Hà Nội 25 Quốc tế (Vietnam 0060/NHGP 2.000 64-68 Lý Thường International Commercial Joint Stock Bank- VIB) ngày 25/01/1996 Kiệt. Hà Nội 26 Sài Gòn (Saigon Commercial Joint Stock Bank-SCB) 0018/NHGP ngày 06/06/1992 1.970 193- 203 Trần Hưng Đạo, Q1 TPHCM 27 Sài Gòn-Hà Nội (Saigon- Hanoi Commercial Joint Stock Bank) 0041/NH-GP ngày 13/11/1993 2.000 138- Đường 3/2- Phường Hưng Lợi – TP Cần Thơ - Tỉnh Cần Thơ 28 Sài gòn công thương (Saigon bank for Industrial and trade) 0034/NHGP ngày 04/05/1993 1.020 Số 2C Phú Đức Chính,Q1. TPHCM 29 Sài gòn thương tín (Sacombank) 0006/NHGP ngày 05/12/1991 4.449 266-268 Nam kỳ khởi nghĩa. Q3.TPHCM 30 Thái Bình Dương (Pacific Commercial Joint Stock Bank) 0028/NHGP ngày 22/08/1993 566 340 Hoàng Văn Thụ, Q.Tân Bình, TPHCM 31 Tiên Phong ( TienPhong Commercial Joint Stock Bank) 123/GP-NHNN ngày 05/05/2008 1.000 Tòa nhà FPT, Lô B2 Cụm SX tiểu thủ công nghiệp và công nghiệp nhỏ, P.DỊch Vọng Hậu, Cầu Giấy, Hà Nội 32 Việt Nam Thương tín (Viet Nam thuong tin Commercial Joint Stock Bank) 2399/QĐ- NHNN ngày 15/12/2006 500 35 Trần Hưng Đạo, TX Sóc Trăng, tỉnh Sóc Trăng 33 Việt Á (Viet A Commercial Joint Stock Bank) 12/NHGP ngày 09/05/2003 1.000 115-121 Nguyễn Công Trứ.Q1.TP HCM 34 Xuất nhập khẩu (Vietnam Commercial Joint Stock Export-Import Bank- Eximbank) 0011/NHGP ngày 06/04/1992 2.800 7 Lê Thị Hồng Gấm. Q1. TPHCM 35 Xăng dầu Petrolimex (Petrolimex Group Commercial Joint Stock Bank) 0045/NH-GP ngày 13/11/1993 500 132-134 Nguyễn Huệ, Thị xã Cao Lãnh-Tỉnh Đồng Tháp 36 Á Châu (Asia Commercial Joint Stock Bank- ACB) 0032/NHGP ngày 24/04/1993 2.630 442 Nguyễn Thị Minh Khai. Q3. TP HCM 37 Đông Nam Á (South East Commercial Joint Stock Bank) 0051/NHGP ngày 25/03/1994 3.000 16 Láng Hạ, Đống Đa, Hà Nội 38 Đông Á (Dong A Commercial Joint Stock Bank-EAB) 0009/NHGP ngày 27/03/1992 1.600 130 Phan Đăng Lưu. Q Phú Nhuận. TPHCM 39 Đại Dương (Ocean Commercial Joint Stock Bank) 0048/NH-GP ngày 30/12/1993 1.000 Số 199-Đường Nguyễn Lương Bằng - TP Hải Dương 40 Đại Tín (Great Trust Commercial Joint Stock Bank) 0047/NH-GP ngày 29/12/1993 504 Xã Long Hoà-Huyện Cần Đước-Tỉnh Long An 41 Đại Á (Great Asia Commercial Joint Stock Bank) 0036/NH-GP ngày 23/09/1993 500 56-58Đường Cách mạnh tháng 8-Thành phố Biên Hoà-Tỉnh Đồng Nai 42 Đệ Nhất (First Joint Stock Commercial Bank) 0033/NHGP ngày 27/04/1992 609 715 Trần Hưng Đạo. Q5. TPHCM 43 Mỹ Xuyên 0022/NH-GP ngày 12/09/1992 500 248,Trần Hưng Đạo- Phường Mỹ Xuyên- Thị xã Long Xuyên- Tỉnh An Giang Nguồn : Ngân hàng nhà nước TÀI LIỆU THAM KHẢO I. Sách 1. PGS.TS Nguyễn Thị Liên Hoa, “Hiệp ước BASEL mới và vần đề kiểm soát rủi ro trong các ngân hàng thương mại” –Tạp chí phát triển kinh tế 6/2008 2. PGS.TS Nguyễn Thị Ngọc Trang, “Quản trị rủi ro tài chính trong các doanh nghiệp Việt Nam thời kỳ hậu WTO” 3. PGS.TS Nguyễn Thị Ngọc Trang, “Quản trị rủi ro tài chính”, NXB Thống kê 2006. 4. TS. Trần Huy Hoàng, “Quản trị ngân hàng thương mại”, NXB thống kê 2003. 5. PGS. TS. Nguyễn Đăng Dờn, “Tiền tệ ngân hàng”, NXB thống kê 2004, 6. PGS.TS Phan Thị Bích Nguyệt, “Đầu tư tài chính”, NXB Thống kê 2006 7. PGS.TS Trần Ngọc Thơ, PGS.TS Nguyễn Thị Liên Hoa, PGS.TS Phan Thị Bích Nguyệt, PGS.TS Nguyễn Thị Ngọc Trang, TS.Nguyễn Thị Uyên Uyên, “Tài chính doanh nghiệp hiện đại”, NXB Thống kê 2007 8. PGS.TS Sử Đình Thành (2006), “Lý Thuyết tài chính- tiền tệ”, NXB Thống kê 9. Basel II - Sự thống nhất quốc tế về đo lường và các tiêu chuẩn vốn, NXB VHTT 2008 II. Tạp chí, thời báo, các văn bản 1. Báo cáo thường niên 2006, 2007 Ngân hàng đầu tư phát triển, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Ngân hàng Á Châu, Ngân hàng Ngọai thương .v.v. 2. Thời báo kinh tế Việt Nam 2006-2007 3. Thời báo kinh tế Sài Gòn số 04/2008; 05/2008; 06/2008; 07/2008 4. Luật các tổ chức tín dụng số 07/1997/QHX ngày 12/12/1997, luật số 20/2004/Qh11 ngày 16/05/2004 sử đổi, bổ sung Luật các tổ chức tín dụng. 5. Quyết định số 663/2003/QĐ-NHNN ngày 26/6/2003; Quyết định 627/2001/QĐ-NHNN ngày 31/12/2001;Quyết định 127/2005/QĐ-NHNN ngày 03/02/2005; Quyết định số 783/2005/QĐ-NHNN ngày 31/05/2005; Quyết định số 457/2005/QĐ-NHNN ngày 19/04/2005. Quyết định 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/04/2005 .v.v 6. Chỉ thị số 02/2005/CT-NHNN ngày 20/04/2005. 7. Nghị định 49/2000/NĐ-CP ban hành ngày 12/9/2000 8. Một số quyết định, thông tư, chỉ thị khác III. Thông tin tham khảo trên các Website - Ngân hàng Nhà nước Việt Nam – Bộ tài chính Việt Nam – Thời báo kinh tế Việt Nam Online – Tại chí kế tóan Online – Báo tiền phong Online – Báo lao động Online Thời báo tài chính Hà Nội Online Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam – Báo tuổi trẻ Online – Báo điện tử đài tiếng nói Việt Nam Online – Trung tâm báo chí và hợp tác truyền thông quốc tế Công ty chứng khóan KIMENG Việt Nam – Tin nhanh chứng khóan –Ngân hàng TMCP Sài gòn thương tín Online -Tạp chí phát triển kinh tế - ĐHKT-TP.HCM ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLA0516.pdf
Tài liệu liên quan