1
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
CAO THANH XUÂN
QUẢN LÝ VIỆC DẠY CHỮ CHĂM CHO NGƯỜI CHĂM
Ở HUYỆN HÀM THUẬN BẮC TỈNH BÌNH THUẬN
Chuyên ngành: Quản lý Giáo dục
Mã số: 60 14 05
LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. LÊ THỊ MINH HÀ
Thành phố Hồ Chí Minh - 2007
2
MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc, có 54 thành phần dân tộc khác
nhau. Dân tộc Chăm là một dân tộc thiểu số thuộc cộng đồ
115 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1615 | Lượt tải: 2
Tóm tắt tài liệu Quản lý việc dạy tiếng chăm cho người chăm ở Huyện Hàm Thuận Bắc Tỉnh Bình Thuận, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng các dân tộc Việt
Nam, hiện sinh sống ở nhiều tỉnh thuộc miền Trung và miền Nam, tập trung
nhiều ở các tỉnh Ninh Thuận, Bình Thuận, An Giang. Chữ Chăm đã có từ lâu
đời, đồng bào Chăm truyền tụng và nâng niu, song ít được phổ biến rộng rãi
trong các tầng lớp nhân dân, mà chủ yếu dành cho lĩnh vực tín ngưỡng, tôn
giáo nhằm nghiên cứu nghi thức hành lễ; hoặc chỉ có một bộ phận người
Chăm dùng để tìm hiểu phong tục tập quán của người Chăm. Với chủ trương
của Đảng và Nhà nước về chính sách dân tộc và chữ viết của các dân tộc thiểu
số, các văn kiện chính thức của Nhà nước Việt Nam từ Hiến pháp đầu tiên cho
đến những văn kiện gần đây đều thống nhất một quan điểm: Tôn trọng quyền
tồn tại và phát triển của tiếng nói và chữ viết các dân tộc thiểu số đồng thời hỗ
trợ để tiếng nói và chữ viết của họ phát triển.
Hiến pháp nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà năm 1960 có ghi: "Các
dân tộc có quyền dùng tiếng nói, chữ viết, phát triển văn hoá dân tộc mình".
Quyết định của Chính phủ số 53/CP ngày 22/02/1980 có đoạn viết:
"Tiếng nói và chữ viết hiện có của các dân tộc thiểu số được Nhà nước tôn
trọng, duy trì và giúp đỡ phát triển. Các dân tộc thiểu số chưa có chữ viết đều
được giúp đỡ xây dựng chữ viết theo chữ La tinh"[10].
Luật phổ cập giáo dục tiểu học năm 1991, tại điều 4 có viết: “Giáo dục
tiểu học được thực hiện bằng tiếng Việt. Các dân tộc thiểu số có quyền sử
dụng tiếng nói và chữ viết của dân tộc mình cùng với tiếng Việt để thực hiện
Giáo dục tiểu học[21].
3
Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 viết:
"Nhà nước thực hiện chính sách bình đẳng, đoàn kết, tương trợ giữa các dân
tộc, nghiêm cấm mọi hành vi kì thị, chia rẽ dân tộc. Các dân tộc có quyền
dùng tiếng nói, chữ viết, giữ gìn bản sắc dân tộc và phát huy những phong tục,
tập quán truyền thống và văn hoá tốt đẹp của mình".
Để thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước về phát triển tiếng nói
và chữ viết của các dân tộc thiểu số, cụ thể hơn là tiếng nói và chữ viết của
dân tộc Chăm, một số trường tiểu học vùng đồng bào dân tộc Chăm ở huyện
Hàm Thuận Bắc đã tiến hành việc dạy tiếng Chăm cho học sinh người Chăm.
Song, nhu cầu học chữ Chăm không chỉ giới hạn ở học sinh tiểu học, mà
nhiều người dân Chăm, đặc biệt là lứa tuổi thanh thiếu niên mong muốn được
học cái chữ của dân tộc mình. Đây là nguyện vọng chính đáng nhằm góp phần
nâng cao dân trí, giữ gìn và phát huy truyền thống văn hóa trong cộng đồng
các dân tộc Việt Nam, phản ánh tính đúng đắn về chính sách dân tộc của
Đảng và Nhà nước ta.
Là một ngôn ngữ của dân tộc thiểu số có dân số ở mức trung bình trong
tổng số 54 dân tộc ở Việt Nam, tiếng Chăm cùng với nền văn hoá Chăm có
vai trò quan trọng trong việc góp phần hình thành và xây dựng nền văn hoá
Việt Nam và được coi là một môn học trong hệ thống giáo dục tiểu học đối
với học sinh Chăm. Việc phát sóng bằng tiếng Chăm và đưa tiếng Chăm vào
dạy học trong nhà trường đã được bà con dân tộc Chăm phấn khởi đón nhận.
Tiếng Chăm hiện nay là một trong những tiếng dân tộc được phát sóng trên
các phương tiện thông tin đại chúng như: Đài Tiếng nói Việt Nam, Đài
Truyền hình Việt Nam, Đài Phát thanh - Truyền hình tỉnh Bình Thuận, Đài
Phát thanh - Truyền hình tỉnh Ninh Thuận và tập san Dân tộc và Miền núi do
Thông tấn xã Việt Nam xuất bản bằng tiếng Chăm đã mang đến cho đồng bào
người Chăm nhiều thông tin quí giá[34]. Song, để tiếp nhận đầy đủ lượng
4
thông tin trên, người dân Chăm càng phải cần có vốn hiểu biết chữ Chăm làm
công cụ truyền tải.
Hiện nay tiếng Chăm có các biến thể khác nhau và các loại hình chữ
viết khác nhau, đó là tiếng Chăm gốc và tiếng Chăm biến thể. Trong giao tiếp
hàng ngày, người Chăm sử dụng tiếng Chăm biến thể, trong khi đó trên 60%
người Chăm (đặc biệt là người ở lứa tuổi dưới 50) nghe không hiểu, hoặc hiểu
rất ít tiếng Chăm cổ đang dùng phát sóng trên các phương tiện phát thanh-
truyền hình[34]. Như vậy, thực tế phần lớn người Chăm chưa hiểu rõ các nội
dung bài báo được đăng tải trên các tạp chí bằng chữ Chăm hay trên sóng
phát thanh tiếng Chăm, vì một lẽ dễ hiểu là đa số người dân Chăm còn mù
chữ Chăm. Vì mù chữ Chăm và do thường ngày chỉ dùng tiếng địa phương có
nhiều lỗi chính tả, hoặc không còn nhớ từ vựng của tiếng mẹ đẻ mà được thay
thế vào đó bằng nhiều từ tiếng Việt, tiếng nước ngoài, cho nên đa số người
Chăm chưa thể đọc được chữ Chăm trên mặt báo hay chưa nghe và hiểu hết
tiếng Chăm chuẩn được phát thanh trên sóng của đài phát thanh. Điều đó,
chứng tỏ tiếng nói và chữ viết của người Chăm ngày càng mai một, nếu
không có sự bảo tồn kịp thời và đúng mức thì ngôn ngữ Chăm sẽ dần dần bị
mất hết vai trò của mình trong đời sống xã hội người Chăm. Trong khi đó
tiếng Chăm dạy cho học sinh trong nhà trường tiểu học chưa đủ lực để giữ vai
trò bảo tồn, phát triển tiếng nói và chữ viết Chăm. Một trong các giải pháp để
giúp cho các em khỏi quên chữ Chăm sau khi học tiểu học và cũng làm cho
người lớn biết chữ Chăm là phải tiến hành mở các lớp dạy chữ Chăm cho
người lớn (độ tuổi 15 - 45). Thế nhưng đến nay tại tỉnh Bình Thuận, chính
quyền tỉnh Bình Thuận chưa tổ chức việc dạy chữ Chăm cho người Chăm hết
độ tuổi học ở trường tiểu học.
Đề tài nghiên cứu “việc quản lý dạy chữ Chăm cho đồng bào dân tộc
Chăm ở huyện Hàm Thuận Bắc, tỉnh Bình Thuận” nhằm đáp ứng tâm tư,
5
nguyện vọng chính đáng của đồng bào dân tộc Chăm, làm cho người dân
Chăm biết được chữ Chăm, từ đó sẽ thu nhận nhiều thông tin hữu ích trong
cuộc sống, tìm hiểu phong tục tập quán của đồng bào Chăm qua các tài liệu
cổ, góp phần phát triển giáo dục vùng đồng bào dân tộc thiểu số, giữ gìn bản
sắc văn hoá dân tộc, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của người Chăm,
tạo nên sự đoàn kết và thể hiện sự bình đẳng dân tộc giữa cộng đồng các dân
tộc ở Việt Nam.
2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Khảo sát nhu cầu học chữ Chăm của người Chăm và tìm hiểu việc tổ
chức dạy chữ Chăm ở huyện Hàm Thuận Bắc, tỉnh Bình Thuận. Từ đó, đề
xuất một số giải pháp thực hiện việc quản lý dạy chữ Chăm cho người Chăm.
3. ĐỐI TƯỢNG VÀ KHÁCH THỂ NGHIÊN CỨU
3.1. Đối tượng nghiên cứu: Việc quản lý dạy chữ Chăm cho người Chăm
ở huyện Hàm Thuận Bắc, tỉnh Bình Thuận.
3.2. Khách thể nghiên cứu : Người Chăm trong độ tuổi từ 15 - 45, các trí
thức và các giáo viên người Chăm ở huyện Hàm Thuận Bắc, tỉnh Bình Thuận.
4. GIẢ THUYẾT KHOA HỌC
Nếu tiến hành quản lý việc dạy chữ Chăm cho người Chăm thì sẽ tạo
điều kiện tốt cho người Chăm trong độ tuổi 15 - 45 tham gia học chữ Chăm, ít
nhất ở mức biết đọc và biết viết.
5. PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Đề tài nghiên cứu việc quản lí dạy chữ Chăm cổ cho người học chữ
Chăm trong độ tuổi từ 15 - 45 trên địa bàn huyện Hàm Thuận Bắc, tỉnh Bình
Thuận.
6. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
6.1. Hệ thống một số vấn đề lí luận liên quan đến đề tài.
6
6.2. Nghiên cứu thực trạng nhu cầu học chữ Chăm và việc tổ chức dạy chữ
Chăm cho người Chăm độ tuổi 15 - 45 ở huyện Hàm Thuận Bắc, tỉnh Bình
Thuận.
6.3. Đề xuất và thử nghiệm một số giải pháp quản lý việc dạy chữ Chăm
cho người Chăm độ tuổi 15 - 45 ở huyện Hàm Thuận Bắc, tỉnh Bình Thuận.
7. CÁC PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
7.1. Phương pháp phân tích và tổng hợp tài liệu
Nghiên cứu Luật giáo dục, các văn bản qui phạm pháp luật của chính
phủ, các cấp quản lý giáo dục và các tác giả nói về việc dạy tiếng dân tộc
thiểu số. Nghiên cứu các báo cáo của UBND huyện Hàm Thuận Bắc về tình
hình kinh tế - xã hội của huyện; nghiên cứu các tài liệu nói về người Chăm,
ngôn ngữ Chăm.
7.2. Phương pháp điều tra bằng phiếu
Điều tra khoảng 300 người dân Chăm có độ tuổi từ 15 - 45, thuộc 3 xã
của huyện Hàm Thuận Bắc có đông đồng bào dân tộc Chăm sinh sống nhằm
tìm hiểu thực trạng học chữ Chăm (Trình độ chữ Chăm, nhu cầu, mục đích
học chữ Chăm). Xác định mức độ và tần số về nhu cầu học tiếng Chăm, hình
thức tổ chức lớp học chữ Chăm cho người lớn tuổi.
Điều tra (phỏng vấn bằng phiếu) 50 người, gồm một số chức sắc tôn
giáo, lão làng, trưởng thôn, trí thức và giáo viên người Chăm nhằm khẳng
định nhu cầu, mục đích và những đề xuất khác của việc học chữ Chăm.
Điều tra hiệu trưởng ở các trường Tiểu học có dạy tiếng Chăm, các giáo
viên người Chăm và một số cán bộ Phòng Giáo dục và Đào tạo và Đào tạo
nhằm góp ý, bổ sung, hoàn chỉnh các giải pháp quản lý dạy tiếng Chăm.
7
7.3. Phương pháp thử nghiệm
Trình lên Sở Giáo dục và Đào tạo Bình Thuận xin phép tổ chức mở lớp
dạy (thử nghiệm) 3 lớp học tiếng Chăm cho người lớn tuổi , mỗi xã một lớp,
nhằm rút kinh nghiệm cho việc giảng dạy tiếng Chăm và công tác quản lý
việc giảng dạy tiếng Chăm cho người lớn tuổi, tạo khí thế ban đầu cho phong
trào học tiếng Chăm trong huyện.
7.4. Phương pháp toán học thống kê
Dùng để xử lí kết quả nghiên cứu. Sử dụng bảng thống kê để tính tần
số, tỉ lệ phần trăm về: Trình độ chữ Chăm; nhu cầu, mục đích và hình thức
học tập chữ Chăm.
8. TIẾN TRÌNH NGHIÊN CỨU
8.1. Nghiên cứu lí luận
* Nghiên cứu về tính hợp pháp, sự cần thiết và ý nghĩa của việc quản lý
các lớp học chữ Chăm cho người Chăm (Từ tháng 6/2006 đến tháng 7/2006).
* Nghiên cứu khái niệm công cụ (Từ tháng 7/2006 đến tháng 8/2006).
8.2. Nghiên cứu thực trạng
* Tìm hiểu khái quát về điều kiện tự nhiên, tình hình kinh tế - xã hội,
giáo dục và người Chăm ở huyện Hàm Thuận Bắc (tháng 8/2006).
* Khảo sát thực trạng biết chữ Chăm, nhu cầu và mục đích học chữ
Chăm của người Chăm ở độ tuổi 15 - 45 qua khoảng 300 phiếu điều tra
(tháng 8/2006).
* Khảo sát khoảng 50 phiếu phỏng vấn, tìm hiểu nguyện vọng của các
già làng, các chức sắc tôn giáo, các trí thức trong cộng đồng người Chăm về ý
nghĩa và sự cần thiết của việc tổ chức học chữ Chăm cho người Chăm (tháng
8/2006).
* Nghiên cứu thực trạng đội ngũ giáo viên dạy tiếng Chăm ở huyện
Hàm Thuận Bắc (tháng 9/2006).
8
* Khảo sát thực trạng về công tác quản lý việc dạy chữ Chăm cho
người Chăm ở huyện Hàm Thuận Bắc (tháng 9/2006).
* Xử lý số liệu điều tra (tháng 10/2006 - 12/2006).
* Tổng hợp số liệu, các tư liệu và viết báo cáo kết quả nghiên cứu
(tháng 01/2007 - 8/2007).
9
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
1.1.1. Vấn đề dạy chữ (tiếng) dân tộc thiểu số trên thế giới
Nhiều quốc gia trên thế giới đã có những chính sách khuyến khích việc
học tiếng dân tộc thiểu số cho cả trẻ em và người lớn tuổi.
Ở Liên hiệp Anh, có dân tộc Wales. Chính phủ Anh cho phép, khuyến
khích việc giảng dạy tiếng Wales. Hằng năm đều tổ chức ngày hội thi tiếng
Wales.
Ở Philipin, “đối với các dân tộc đã có chữ viết như người Mangyan ở
Mindoro, các dân tộc ở Ifugao thì lại tiến hành dạy tiếng dân tộc, tiếng
Philipin và tiếng Anh” [32].
Mỹ, Trung Quốc, Inđônêxia là các quốc gia đa dân tộc. Tại những quốc
gia này, chính quyền cho phép tổ chức giảng dạy các thứ tiếng của người dân
tộc thiểu số cho học sinh trong trường phổ thông và dạy cho người lớn tuổi
dân tộc thiểu số có nhu cầu học tập.
Theo Marilin Gregerson, một nhà ngôn ngữ học Mỹ, thì người dân tộc
có thể học tiếng phổ thông “dễ dàng nếu trước tiên họ được dạy để đọc cái
ngôn ngữ họ thạo nhất”[32].
F.B. Dawson và Barbara jean Dawson, trong bài viết về sự đóng góp
hiện nay của Viện Ngôn ngữ Mùa hè vào chương trình xóa mù chữ không
chính thức tại Hà Nội: “...dự án thứ hai có mục đích cố vấn cho việc xây dựng
tài liệu đọc cơ bản bằng ngôn ngữ H’Mông để dùng trong một chương trình
thí nghiệm dành cho học sinh bỏ học và người lớn không có cơ hội đi
học”[32].
10
1.1.2. Vấn đề dạy tiếng dân tộc thiểu số ở Việt Nam.
Một số công trình nghiên cứu về các vấn đề liên quan đến ngôn ngữ
Chăm như: “Ngôn ngữ các dân tộc thiểu Việt Nam và chính sách ngôn ngữ”
của Hoàng Tuệ (1984); “Văn học Chăm: Khái luận, văn tuyển” của Insara
(1994); “Ngữ pháp tiếng Chăm” của Bùi Khánh Thế (1996); “Văn hóa - xã
hội Chăm” của Insara (2003)…Qua các công trình này, cho chúng ta thấy các
tác giả đều mong muốn duy trì và phát huy những giá trị bản sắc văn hoá tốt
đẹp trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam, nhất là văn hoá Chăm. Song, chưa
có một công trình khoa học nào nói về quản lý việc dạy chữ Chăm cổ cho
người Chăm lớn tuổi.
Từ đây, gợi mở cho chúng ta: Phải chăng cần nghiên cứu về công tác
quản lý việc dạy chữ Chăm cho người Chăm nhằm góp phần phát triển Văn
hoá Chăm.
1.1.2.1. Quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về dạy tiếng dân tộc
thiểu số.
* Nghị quyết trung ương năm 1940 nêu: “ Mỗi dân tộc có quyền dùng
tiếng mẹ đẻ trong nền giáo dục của mình”[12].
* Nghị quyết Trung ương lần thứ 8 của Đảng Cộng sản Đông dương
ngày 10/5/1941: “Văn hóa của mỗi dân tộc được tự do phát triển, tồn tại;
tiếng mẹ đẻ của các dân tộc được tự do phát triển, tồn tại và được bảo
đảm”[13].
* Hiến pháp 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001), tại chương I Điều 5 có
nêu: “ Các dân tộc có quyền dùng tiếng nói, chữ viết, giữ gìn bản sắc dân tộc
và phát huy những phong tục tập quán, truyền thống và văn hóa tốt đẹp của
mình”
* Luật giáo dục năm 2005, tại điều 7, mục 2 có ghi:
11
Nhà nước tạo điều kiện để người dân tộc thiểu số được học
tiếng nói, chữ viết của dân tộc mình nhằm giữ gìn và phát huy bản
sắc văn hóa dân tộc, giúp cho học sinh người dân tộc thiểu số dễ dàng
tiếp thu kiến thức khi học tập trong nhà trường và các cơ sở giáo dục
khác; việc dạy và học tiếng nói, chữ viết của dân tộc thiểu số được
thực hiện theo quy định của Chính phủ[21].
* Luật phổ cập giáo dục tiểu học năm 1991, điều 4 có ghi: “Các dân
tộc thiểu số có quyền sử dụng tiếng nói và chữ viết của dân tộc mình cùng với
tiếng Việt để thực hiện giáo dục tiểu học”[22].
* Quyết định số 53/CP ngày 22/02/1980 của Hội đồng chính phủ (nay
là Chính phủ) về chủ trương chữ viết đối với các dân tộc thiểu số, nêu:
Tiếng nói và chữ viết của mỗi dân tộc thiểu số ở Việt Nam vừa
là vốn quý của các dân tộc đó, vừa là tài sản văn hóa chung của cả
nuớc. Ở các vùng dân tộc thiểu số, tiếng và chữ dân tộc được dùng
đồng thời với tiếng và chữ phổ thông. cùng với chữ phổ thông, chữ
dân tộc tham gia vào nhiều mặt hoạt động ở vùng đồng bào dân tộc
thiểu số, nhất là trong việc giữ gìn và phát triển vốn văn hóa của các
dân tộc (Mục I.2). Bộ Giáo dục có trách nhiệm hướng dẫn các tỉnh
xây dựng kế hoạch dạy chữ phổ thông và chữ dân tộc trong các
trường, các lớp phổ thông và bổ túc văn hóa thích hợp với tình hình
thực tế và yêu cầu của từng vùng, từng dân tộc (mục III.1)[10].
* Thông tư số 01/GD-ĐT ngày 03/02/1997 của Bộ GD-ĐT hướng
dẫn thực việc dạy tiếng nói và chữ viết dân tộc thiểu số nêu:
+ Thực hiện Luật phổ cập GD tiểu học, trước hết triển khai dạy
môn tiếng dân tộc (bao gồm tiếng nói, chữ viết) trong các trường lớp
mẫu giáo, các trường tiểu học, các lớp xóa mù chữ và bổ túc văn hóa
12
tại các vùng dân tộc thiểu số. Đa dạng hóa các hình thức dạy tiếng
dân tộc. Người học có thể lựa chọn việc học tập thích hợp: học ở
trường lớp, học ở gia đình, ở các lớp học thêm ngoài giờ, học tiếng
dân tộc sau khi đã học xong bậc tiểu học... Mở các lớp xóa mù chữ
cho người lớn tuổi ở các thôn, ấp, làng, bản; các lớp học tiếng dân tộc
buổi chiều, tối... (Phần 1. Một số nguyên tắc chung)[3].
+ Trước mắt, tiến hành xây dựng chương trình bộ môn tiếng
Chăm, tiếng Khơme, Thái, Tày, Nùng và các thứ tiếng Ê Đê, Gia Rai,
Ba Na, Xê Đăng, K’ho ở các tỉnh Tây nguyên (Phần 2. Một số việc
làm cụ thể trước mắt)[3].
+ Ngành học giáo dục thường xuyên cần nhanh chóng tạo ra
các điều kiện cần thiết để đưa tiếng dân tộc vào việc xóa mù cho
người dân tộc thiểu số. Trước hết, tiến hành xóa mù chữ dân tộc cho
các đối tượng lớn tuổi không có điều kiện xóa mù chữ bằng chữ quốc
ngữ. Sau xóa mù chữ cần có các tài liệu đọc thêm bằng chữ dân tộc
để củng cố và nâng cao thêm vốn hiểu biết tiếng và chữ mẹ đẻ cho họ
(Phần 2. Một số việc làm cụ thể trước mắt)[3].
1.1.2.2. Quan điểm của một số tác giả về việc dạy chữ dân tộc thiểu
số và chữ Chăm
* Hoàng Tuệ:
+ Một trạng thái song ngữ ở trình độ thấp, trình độ tự nhiên,
không những không thể phát huy tác dụng tích cực, mà còn ảnh
hưởng tiêu cực đối với sự phát triển của cộng đồng xã hội nhỏ là từng
dân tộc thiểu số, và cộng đồng lớn là toàn thể dân tộc Việt Nam.... Có
thể nghĩ rằng đáng mong muốn nhất là một trạng thái song ngữ ở
trình độ cao, trình độ văn hóa, tức là trạng thái song ngữ văn học,
13
trong đó người dân tộc thiểu số có ý thức đầy đủ, sâu sắc về tiếng mẹ
đẻ cũng như về tiếng Việt và có khả năng sử dụng tốt tiếng Việt văn
học cũng như tiếng mẹ đẻ, phát triển dần thành ngôn ngữ văn
học[31].
+ Dạy học chữ và tiếng dân tộc là một việc làm đáp ứng nguyện
vọng chính đáng của đồng bào các dân tộc...; Chính quyền Ngô Đình
Diệm thì không cho người thiểu số học tiếng thiểu số, chỉ buộc họ
học tiếng Việt... còn người Pháp soạn chữ Chăm bằng tiếng Latin với
mưu đồ là gây ra và nuôi dưỡng mãi mãi sự đối kháng giữa các dân
tộc thiểu số, đặc biệt ở vùng chiến lược Tây nguyên, với người Kinh.
Cần có chủ trương thỏa đáng đối với ngôn ngữ có chữ viết cổ
truyền... Song, nhìn về quá khứ của sự hội nhập các dân tộc, và nhìn
vào hiện tại của những chênh lệch phát triển giữa các dân tộc, không
thể không thấy là quốc gia Việt Nam đang đứng trước những vấn đề
không đơn giản... Những ngôn ngữ vốn đã có chữ viết cổ, lại có thêm
chữ viết Latin hóa thì tùy tình hình cụ thể của từng dân tộc, có thể
dạy song song vừa chữ cổ, vừa chữ Latin hoặc có thể dạy chữ cổ cho
người lớn tuổi ngoài nhà trường và chữ Latin cho học sinh phổ thông
[32].
* Bùi Khánh Thế cho rằng:
+ Trong tập hợp các ngôn ngữ Việt Nam, tiếng Chăm là một
ngôn ngữ có hệ thống văn tự lâu đời, có di sản văn học quí (cả văn
học viết và văn học dân gian) và nhất là được sử dụng thường xuyên
trong sinh hoạt chung của nội bộ cộng đồng Chăm cũng như trong
sinh hoạt song ngữ Chăm – Việt tại những khu vực người Việt và
người Chăm sống xen kẽ [26].
14
+ Giữ gìn và phổ biến các giá trị quý báu của văn hóa truyền
thống Chăm được ghi lại bằng hệ thống văn tự cũ (tiếng cổ), nhằm
giúp cho sự phát triển xã hội hiện tại, gây niềm tự hào chính đáng cho
nhân dân Chăm với tư cách là chủ nhân của một truyền thống văn hóa
lâu dài, đồng thời cũng là thành viên trong một quốc gia đa dạng về
thành phần dân tộc và văn hóa.... Dùng hình thức giáo dục có tính
chất vừa Nhà nước vừa nhân dân để giúp cho lớp người Chăm trẻ tuổi
có sự hiểu biết cần thiết về hệ thống văn tự cổ truyền (tùy nhu cầu và
sự tự nguyện), qua đó mà biết được lịch sử phát triển văn hóa không
chỉ riêng cho dân tộc mình, mà của cả toàn khối cộng đồng dân
tộc[26].
* Hoàng Văn Ma:
+ Người Chăm, người Hrê, người K’ho có dân số gần như nhau
và cùng hưởng chính sách bình đẳng như nhau. Nhưng tiếng Chăm,
chữ Chăm gắn với văn hóa Chăm Pa, mà ảnh hưởng của nó lan tỏa
sang nhiều dân tộc lân cận....Đối với chúng ta, ... còn nhằm một mục
đích thực tiễn là nghiên cứu tiếng nói chữ viết dân tộc để phục vụ
giảng dạy song ngữ, để nâng cao dân trí và bảo tồn vốn văn hóa dân
tộc.... Hơn nữa, nếu chỉ có các tác phẩm dịch sẽ không có được các
điều kiện chắt lọc được những cái hay từ ngôn ngữ tác phẩm[18].
+ Khích lệ việc sử dụng tiếng dân tộc vì ngôn ngữ còn thì văn hóa
còn. Đúng vậy, tiếng nói của một dân tộc nào đó là công cụ giao tiếp,
là biểu hiện linh hồn dân tộc, là di sản thiêng liêng của muôn đời để
lại.... Nếu tầng lớp trẻ không được đào tạo về tiếng mẹ đẻ thì nhiều
cái hay, cái gốc sẽ bị lãng quên dần. Kết quả, khi nói tiếng dân tộc thì
pha lẫn tiếng Việt một cách không cần thiết; khi nói tiếng Việt thì lộ
ngay cái giọng miền ngược[18].
15
+ Như tiếng Chăm, đã mất phương pháp cấu tạo từ phụ tố....
Đối với chữ Chăm, tình hình càng phức tạp hơn. Cách phát âm đối
với một số từ ở ngôn ngữ này có những sắc thái khác nhau nhất định
tùy theo giới, tuổi tác, trình độ hiểu biết văn tự Chăm cổ [18].
* Insarsa (người Chăm):
+ Muốn văn học và văn học tiếng dân tộc có cơ hội nẩy mầm
và phát triển đủ sâu và rộng thì việc dạy tiếng dân tộc đóng một vai
trò quyết định.... Từ năm 1978, chữ Chăm được dạy rộng khắp trong
các trường tiểu học có con em Chăm học,... nhưng sau đó, vì các em
chưa có sách đọc thêm để nâng cao hay mở rộng vốn từ hay kiến thức
văn học dân tộc nên không ít trường hợp các tài năng không cơ hội
phát triển, hoặc thậm chí chữ thầy trả lại cho thầy....Tiếng nói - chữ
viết Chăm, qua đó tồn tại các văn bản cổ Chăm, là tài sản quý báu
chung của nền văn hóa đa dân tộc Việt Nam. Giữ gìn nó là giữ gìn
bản sắc dân tộc, để chúng ta mãi là chúng ta, không bị nghiêng đổ
trước cơn bão văn minh vật chất tầm thường đang xâm nhập vào xã
hội mà tất cả thức giả trên thế giới lên tiếng báo động....[15].
* Nguyễn Văn Tỷ, Trưởng Ban biên soạn sách tiếng Chăm tỉnh Ninh
Thuận nêu:
Quá trình nghiên cứu về từ hiện đại của Ban biên soạn sách
tiếng Chăm tỉnh Ninh Thuận, và ngữ liệu trong các văn bản cổ cho
thấy từ vựng Chăm hết sức phong phú, đa dạng và trên cơ sở vốn từ
cổ truyền có điều kiện khả năng phát triển lớp từ vựng mới. Từ năm
1978, nhờ sự hình thành Ban biên soạn sách tiếng Chăm tỉnh Thuận
Hải (nay là Bình Thuận và Ninh Thuận), chữ Chăm cổ (akhar thrah)
đã được biên soạn và in ấn thành sách giáo khoa, và được đưa vào
giảng dạy trong các trường tiểu học có đông con em dân tộc Chăm
16
theo học, cũng như trong các lớp bổ túc văn hóa cho thanh niên và
quần chúng nhân dân Chăm trong tỉnh [26].
* Phú Văn Hẳn (người Chăm):
Việc dạy và học tiếng Chăm là cần thiết và chính đáng, song
phải thỏa mãn nhu cầu bảo tồn vốn văn hóa dân tộc Chăm, phải
hướng đến kết quả cuối cùng là đọc được các văn bản cổ đang được
lưu giữ rộng rãi trong cộng đồng người Chăm Việt Nam....Nhiều bí
ẩn liên quan đến văn bản cổ của Champa hiện nay sẽ từng bước sáng
tỏ[31].
* Nông Quốc Chấn:
Một số cán bộ dân tộc còn có thái độ và nhận thức chưa đúng,
coi chữ viết riêng của dân tộc là trở ngại cho sự phát triển của con em
mình!... Mỗi công dân nói thành thạo hai ngữ ngôn, viết và đọc thành
thạo chữ quốc ngữ và chữ dân tộc sẽ là một thuận lợi lớn trong quá
trình nâng cao trình độ văn hóa, khoa học và mở rộng mối quan hệ
giữa các dân tộc[7].
* Một công trình về Bảo tồn và phát huy tiếng nói, chữ viết dân tộc
Chăm do nhóm các nhà nghiên cứu thuộc Viện Ngôn ngữ học (Viện Khoa
học Xã hội Việt Nam) điều tra, khảo sát tại các tỉnh Bình Thuận và Ninh
Thuận- hai nơi tập trung đông đồng bào dân tộc Chăm sinh sống, đã nhận xét:
Nên coi chữ Chăm truyền thống là chữ Chăm duy nhất và
thống nhất sử dụng trong toàn dân tộc Chăm ở các tỉnh Bình Thuận
và Ninh Thuận, không cho phép chế tác chữ Chăm Latinh mang tính
tổ chức Nhà nước vì có liên quan đến lợi ích quốc gia, là tính thống
nhất của từng dân tộc gắn liền với tính thống nhất của quốc gia. Trên
các phương tiện truyền thông đại chúng, lấy tiếng Chăm cổ làm cơ sở
17
kết hợp với việc sử dụng cả tiếng Chăm biến thể trong xã hội hiện nay
để phát sóng. Sự điều chỉnh này đảm bảo được mục đích truyền
thông, người Chăm hiểu được tiếng Chăm, đưa tiếng nói của Đảng,
Nhà nước đến với người dân[34].
Hiện nay, nhu cầu học tiếng Chăm của người Chăm và những
người công tác tại vùng Chăm đang có chiều hướng tăng mạnh; vì thế
cần soạn thảo sách giáo khoa phục vụ các đối tượng học khác nhau
như giáo sinh, người Chăm xoá mù chữ Chăm. Nhà nước ở tầm quốc
gia phải đóng vai trò quyết định đối với vấn đề chữ viết của các ngôn
ngữ dân tộc thiểu số, không nên trao quyền quyết định cho các địa
phương, vì việc chế tác và sử dụng chữ viết dân tộc thiểu số như hiện
nay, sẽ dẫn đến tình trạng một dân tộc có thể sử dụng các chữ viết
khác nhau do thuộc các địa phận hành chính khác nhau, về lâu dài sẽ
có nguy cơ chia tách dân tộc[34].
* Hoàng Thị Châu:
Nhu cầu viết tiếng dân tộc thiểu số thành văn bản là có thật, là
cấp thiết của người lớn tuổi. Vậy chữ dân tộc thiểu số trước tiên phải
được phổ cập cho người lớn tuổi, sau đó mới dạy cho trẻ em. Khi đã
có chữ viết, thì việc đầu tiên là xoá nạn mù chữ dân tộc cho người
lớn, và trước tiên là cho cán bộ để họ ghi chép sổ công tác, chuẩn bị
bài nói chuyện trong các cuộc họp với nhân dân, viết bản tin trước khi
phát thanh, ghi chép văn học dân gian, sáng tác tác phẩm của
mình,...[8].
Chỉ khi nào người lớn nhận thấy chữ viết quả là có ích, không
thể thiếu được trong cộng đồng, họ sẽ tự dạy cho con em họ, yêu cầu
mở lớp dạy chữ và khuyến khích con em đi học. Khi ấy việc tổ chức
18
dạy đại trà tiếng và chữ dân tộc thiểu số cho trẻ em cấp tiểu học mới
có ý nghĩa và duy trì được lâu dài[8].
Cần có nhiều biện pháp đưa chữ viết vào đời sống như viết các
thông báo, biển treo ở những nơi công cộng bằng song ngữ (tiếng dân
tộc thiểu số và tiếng Việt) nhất là ở các thị xã, thị trấn [8].
Tóm lại, các quan điểm trên thể hiện rõ:
* Quyền bình đẳng của các ngôn ngữ trong xã hội được thừa nhận bằng
các văn bản pháp luật. Đảng và nhà nước quan tâm tạo điều kiện giúp đỡ các
dân tộc thiểu số phát triển ngôn ngữ, văn hóa.
* Ở những cơ sở dạy tiếng dân tộc thiểu số, tiếng dân tộc thiểu số đã và
đang được giảng dạy như một môn học, bình đẳng với các môn học khác
trong hệ thông giáo dục quốc dân, nhằm mục đích giúp người học tiếp thu
nhanh, thuận lợi các kiến thức được truyền đạt bằng tiếng dân tộc và tiếng
phổ thông, góp phần bảo tồn tiếng nói, chữ viết và vốn văn học truyền thống
của các dân tộc thiểu số.
* Sự cần thiết phải mở các lớp dạy chữ Chăm cho người Chăm còn mù
chữ Chăm ở các thôn, ấp, làng, xóm... với các loại hình học tập thích hợp: học
ở trường, học ở gia đình, ở các lớp học thêm ngoài giờ…
Điều đó, khẳng định Đảng và Nhà nước ta đã định hướng, cho phép và
tạo điều kiện để người Chăm được đi học chữ Chăm, thoát khỏi tình trạng mù
chữ Chăm, thực hiện sự bình đẳng, đoàn kết trong cộng đồng các dân tộc Việt
Nam, chống lại những luận điểm xuyên tạc của các thế lực thù địch về chính
sách dân tộc của Đảng và Nhà nước, nhất là trong giai đoạn hiện nay. Quan
điểm dạy chữ Chăm cho người Chăm còn được sự đồng thuận, ủng hộ mạnh
mẽ của các nhà nghiên cứu ngôn ngữ, các trí thức người dân tộc, người Chăm
và một số tác giả nước ngoài.
19
1.2. Một số khái niệm công cụ
1.2.1 Quản lý
Khái niệm “Quản lý” được định nghĩa khác nhau dựa trên cơ sở những
cách tiếp cận khác nhau:
• Theo F.W.Taylor, nhà thực hành quản lý lao động và nghiên cứu quá
trình lao động: “Quản lý là nghệ thuật biết rõ ràng, chính xác cái gì cần làm
và làm cái đó bằng phương pháp tốt nhất và rẻ nhất”[28].
• Theo A.Fayon, nhà lý luận quản lý kinh tế: "Quản lý là đưa xí nghiệp
tới đích, cố gắng sử dụng tốt nhất các nguồn lực (nhân, tài, vật lực của
nó)”[28].
• Theo K.Marx: “Quản lý là một chức năng tất yếu của lao động xã hội,
nó gắn chặt với sự phân công và phối hợp”[28].
Ở Việt Nam các nhà nghiên cứu trong lĩnh vực khoa học quản lý và
trong lĩnh vực khoa học giáo dục đưa ra các định nghĩa khác nhau:
• “Quản lý là tác động có mục đích, có kế hoạch của chủ thể quản lý
đến tập thể người lao động nói chung (khách thể quản lý), nhằm thực
hiện những mục tiêu dự kiến”[28].
• Quản lý là tác động liên tục, có tổ chức, có định hướng của chủ thể
quản lý (người quản lý) tới khách thể quản lý (người bị quản lý), trong
một tổ chức về mặt chính trị, văn hóa, kinh tế, xã hội, … bằng một hệ
thống các luật lệ, chính sách, nguyên tắc, các phương pháp và biện
pháp cụ thể, … nhằm làm cho tổ chức vận hành và đạt mục tiêu của tổ
chức, v.v…[28].
Hiện nay, quản lý thường được định nghĩa rõ hơn: “Quản lý là quá
trình đạt đến mục tiêu của tổ chức bằng cách vận dụng các hoạt động (chức
năng) kế hoạch hóa, tổ chức, chỉ đạo (lãnh đạo) và kiểm tra”[28]. Hay chúng
20
ta có thể hiểu một cách gọn hơn, quản lý là quá trình tổ chức và điều hành
công việc nhằm đạt được mục đích đã đề ra.
1.2.2. Dạy học
Bản chất của quá trình dạy học là sự tương tác giữa người dạy và người
học. Với tư cách là chủ thể:
- Người dạy (chủ thể của hoạt động dạy – giáo viên) giữ vai trò
chủ đạo : quyết định dạy cái gì (mục tiêu), dạy như thế nào
(phương pháp).
- Người học (chủ thể của hoạt động học – học sinh) giữ vai trò
chủ động (chủ thể nhận thức): tự giác, tích cực, sáng tạo trong
học tập[6].
1.2.3. Quản lý quá trình dạy học
Quá trình dạy học là một quá trình nhận thức, mọi người đều rõ mục
đích của dạy học là làm cho người học lĩnh hội được những kinh nghiệm xã
hội mà loài người đã tích lũy được qua nhiều thế kỷ. Quá trình dạy học là một
quá trình tâm lý, vì dạy học phải đi trước sự phát triển và quá trình phát triển
không diễn ra như nhau, mà mỗi lứa tuổi có một hoạt động chủ đạo tương
ứng. Mặt khác, quá trình dạy học là một quá trình xã hội, là sự tương tác giữa
người và người, người và xã hội; mục đích dạy học do xã hội đặt ra.
Về nội dung quản lý quá trình dạy học, chúng ta có thể nêu những vấn
đề chính như sau:
* Quản lý việc thực hiện kế hoạch và chương trình giảng dạy.
* Quản lý việc soạn bài và chuẩn bị giờ dạy của giáo viên.
* Quản lý giờ lên lớp của giáo viên.
* Quản lý việc sinh hoạt tổ chuyên môn, dự giờ và quá trình giáo dục
của giáo viên.
21
* Quản lý hồ sơ chuyên môn của giáo viên.
* Quản lý việc kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của người học.
* Quản lý việc phân công giảng dạy cho giáo viên.
* Quản lý quá trình bồi dưỡng đội ngũ giáo viên.
* Quản lý các phương tiện và điều kiện hỗ trợ hoạt động giảng dạy.
* Quản lý việc lập kế hoạch phát triển lớp học.
* Quản lý việc đào tạo đội ngũ giáo viên.
* Quản lý việc vận động người học ra lớp học.
* Quản lý việc cấp giấy chứng nhận học lực.
1.2.4. Chữ Chăm
* Hiện nay, người Chăm có các thứ chữ khác nhau tương ứng với hai
vùng cư trú và hai tôn giáo. Người Chăm theo đạo Hồi ở An ._.Giang, từ thế kỷ
XVI học chữ Ả Rập để đọc kinh, họ còn dùng những kí tự này để ghi tiếng
nói Chăm; Người chăm vùng Bình Thuận, Ninh Thuận thì có chữ Chăm cổ, “
những văn bia cổ nhất được ghi bằng thứ chữ này được phát hiện có thời điểm
khoảng thế kỷ thứ II – III sau Công nguyên”[18].
* Suốt quá trình lịch sử của mình, người Chăm vùng Bình Thuận, Ninh
Thuận đã dùng các thứ chữ sau:
- Akhar thrah (có thể hiểu là chữ thông dụng)
- Akhar yok (có thể hiểu là chữ bí ẩn)
- Akhar atwơr (có thể hiểu là chữ viết tắt – chữ treo)
- Akhar kalimưng ( có thể hiểu là chữ viết tháo - chữ con nhện).
Cả 4 loại chữ trên đều là thứ chữ cổ, song chỉ có loại akhar thrah là
được sử dụng tương đối rộng rãi, thông dụng; 3 loại chữ còn lại đều là biến
22
thể của akhar thrah. Ngoài ra, “còn có akhar hayap là kiểu chữ dùng để viết
trên bia; akhar rik có nghĩa là chữ thánh, chữ cổ thường dùng để viết hoa
trong đầu những văn bản ở thời cận đại"[26].
* Văn tự akhar thrah lần đầu tiên được các học giả Pháp giới thiệu một
cách có hệ thống và dùng trong tự điển Chăm – Pháp (E.Aymonier, A.
Cabaton), và sau đó được giới thiệu trong chuyên luận bằng tiếng Nga về
ngôn ngữ Indonesia (Arakin V.D). Akhar thrah cũng như tất cả các loại chữ
trên đều bắt nguồn từ một trong những văn tự cổ miền Nam Ấn độ[26].
* Hệ thống chữ akhar thrah hiện dùng để giảng dạy trong các trường
tiểu học đã được Ban biên soạn chữ Chăm tỉnh Thuận Hải cũ (nay tách thành
hai tỉnh là Bình Thuận và Ninh Thuận) sửa đổi đôi chút trên cơ sở chữ akhar
thrah cổ, hiện gồm 65 kí hiệu, trong đó có 41 chữ cái và 12 chân chữ (phụ lục
1 Bảng chữ cái tiếng Chăm cổ).
* Ngoài ra, còn có chữ Chăm theo kí tự Latin do người Pháp biên soạn.
Trước năm 1975, Viện Chuyên khảo ngữ học mùa hè của Mỹ ở Sài Gòn đã
biên soạn sách học tiếng Chăm theo mẫu tự Latin[32].
1.2.5. Dạy chữ Chăm
Là làm cho người học biết được hệ thống chữ akhar thrah, hiện dùng để
giảng dạy trong các trường tiểu học, cũng như đang dùng để truyền tải các
thông tin trên tạp chí Dân tộc và Miền núi do Thông tấn xã Việt Nam xuất
bản.
1.2.6. Người lớn tuổi học chữ Chăm ở huyện Hàm Thuận Bắc tỉnh
Bình Thuận
Người lớn ở đây chủ yếu là đối tượng có độ tuổi từ 15 - 45. Họ có một
số đặc điểm cần lưu ý trong quá trình dạy học:
* Với độ tuổi 15 - 18
23
- Về mặt sinh học: Các em đang trong giai đoạn phát triển mạnh, có
nhiều chuyển biến về tâm lý, dễ bất đồng; trí lực phát triển tốt, rất thuận lợi
cho việc học tập, tiếp thu kiến thức mới.
- Về mặt xã hội: Các em chưa thực sự là người trưởng thành, đang ở
giai đoạn chuẩn bị trưởng thành, có nhu cầu muốn tự lập, muốn tự khẳng định
mình, song còn ham chơi và suy nghĩ chưa thật chín chắn, dễ nản lòng hay bất
mãn khi gặp sự cố, có thể dễ bỏ học. Phần lớn các em trong diện này đang
còn học phổ thông; số còn lại đang học nghề hoặc đã tham gia hoạt động lao
động sản xuất để góp sức với gia đình nuôi sống bản thân mình; việc học chữ
Chăm chỉ là hoạt động thứ yếu.
* Với độ tuổi 18 - 30
- Về mặt sinh học: Đã trưởng thành, phát triển không đáng kể về mặt
sinh học; khả năng học tập, tiếp thu kiến thức vẫn còn tốt.
- Về mặt xã hội: Đã trưởng thành, tự lập, có khả năng tự quyết định
và tự chịu trách nhiệm về bản thân, muốn được người khác tôn trọng. Hầu hết
ở độ tuổi này, họ là lao động chính, rường cột trong gia đình. Nói chung, lao
động sản xuất là hoạt động chủ đạo đối với họ; họ phải vừa làm vừa lo cho
gia đình con cái, còn việc học tập chỉ là thứ yếu, kể cả việc học chữ Chăm.
* Với độ tuổi 30 - 45
- Về mặt sinh học: Không còn phát triển, một số chức năng của cơ thể
suy giảm như: nghe, nhìn, vận động, chú ý, trí nhớ… Do đó, việc học tập, tiếp
thu kiến thức mới gặp nhiều khó khăn. Tuy nhiên, trí nhớ chủ định của người
lớn tuổi tương đối phát triển hơn. Người lớn có thể tập trung chú ý hằng giờ
nếu thấy vấn đề thiết thực, có ý nghĩa với bản thân họ.
- Về mặt xã hội: Ngoài những mặt giống như ở độ tuổi 18 – 30, họ
còn có nhiều ưu điểm hơn, do họ có nhiều kinh nghiệm trong cuộc sống, suy
24
nghĩ và làm việc chín chắn hơn. Ý thức giữ gìn phong tục tập quán và ngôn
ngữ của dân tộc ở độ tuổi này trỗi lên mạnh mẽ hơn. Đây là một đặc điểm rất
thuận lợi cho việc giảng dạy chữ Chăm cho người lớn tuổi, có thể họ tiếp thu
chậm hơn, nhưng bù lại họ sẽ kiên trì hơn trong việc học.
* Những đặc điểm chung của độ tuổi 15 - 45 khi tham gia học chữ
Chăm, họ có những thuận lợi và khó khăn sau:
- Tự nguyện, tự giác tham gia học tập. Có chủ định trong việc học
chữ Chăm: học như thế nào? Học để làm gì? Học để khẳng định vai trò của
mình trong gia đình và xã hội.
- Hầu hết đã nghe, đọc và viết khá thành thạo tiếng Việt.
- Đa số có vốn hiểu biết rộng về văn hoá, xã hội; có kinh nghiệm
trong cuộc sống.
- Có sẵn vốn tiếng nói Chăm, do đó dễ phát âm khi học chữ, dễ hiểu
và dễ nhớ từ ngữ tiếng Chăm.
- Xem việc học chữ Chăm chỉ là một hoạt động thứ yếu, không dành
nhiều thời gian cho việc học tập, tư tưởng dễ bị phân tán do phải lo công việc
chính yếu khác.
- Dễ tự ái, do muốn được tôn trọng và bình đẳng. Họ không muốn bị
ra lệnh, ép buộc hay áp đặt.
Do vậy, người giáo viên cần đánh giá đúng mức về tâm lý và năng lực
tiếp thu của người học, không quá nhấn mạnh vào những khó khăn về tuổi tác
mà hạ thấp khả năng tiếp thu của học viên; cần phát huy tính chủ động tích
cực và kinh nghiệm của người học, xem đây là yếu tố có tính quyết định đến
kết quả học tập chữ Chăm của người lớn.
25
1.2.7. Dạy chữ Chăm cho người Chăm lớn tuổi
Là làm cho người lớn tuổi biết được hệ thống chữ akhar thrah. Về mặt
tâm sinh lý, ở độ tuổi này có sự khác biệt nhiều so với độ tuổi đang học tiểu
học. Do vậy, việc học tập của họ có một số khác biệt so với trẻ em. Hơn nữa,
họ đã có vốn từ ngữ tiếng Chăm khá tốt nên có nhiều thuận lợi trong việc học
chữ Chăm. Cần chú ý một số vấn đề:
* Dạy học tập trung vào việc tạo điều kiện cho người học tự khám phá,
tự xây dựng, kiến tạo nên kiến thức riêng của mình.
* Dạy học tập trung vào việc tổ chức cho người học trao đổi, tham gia
thảo luận, phát huy tính tích cực của các cá nhân trong nhóm.
* Mục đích dạy học không chỉ truyền kiến thức, mà chủ yếu là làm thay
đổi hoặc phát triển các quan niệm đã có của người học, qua đó người học kiến
tạo kiến thức mới, đồng thời phát triển trí tuệ và nhân cách của mình.
* Cần tạo ra môi trường học tập vui vẻ, thoải mái, tin tưởng và tôn trọng
lẫn nhau. Chân tình giúp đỡ và động viên người học kịp thời.
1.2.8. Quản lý việc dạy chữ Chăm cho người Chăm lớn tuổi
Quản lý việc dạy chữ Chăm là quá trình lập kế hoạch, tổ chức, điều
hành và kiểm tra việc dạy chữ Chăm, nhằm làm cho những người Chăm chưa
biết chữ Chăm biết được chữ Chăm cổ (akhar thrah).
1.3. Một số vấn đề lý luận liên quan đến công tác quản lý việc dạy chữ
Chăm cho người Chăm lớn tuổi
Về nội dung cụ thể của quản lý việc dạy chữ Chăm cho người Chăm
lớn tuổi, chúng ta có thể nêu những vấn đề chính như sau:
1.3.1. Quản lý việc lập kế hoạch phát triển lớp học chữ Chăm
- Phòng Giáo dục và Đào tạo giao trách nhiệm chính cho Hiệu trưởng
trường Tiểu học đang giảng dạy tiếng Chăm cho học sinh chịu trách nhiệm
26
tiến hành khảo sát thực trạng trình độ và nhu cầu học học chữ Chăm của
người dân ở địa phương, từ đó lập kế hoạch phát triển lớp học chữ Chăm cho
người lớn. Việc làm này được đưa vào trong công tác lập kế hoạch phát triển
lớp học chung của nhà trường hằng năm. Giúp việc cho Hiệu trưởng trong
công tác này là giáo viên Chuyên trách xoá mù chữ - phổ cập giáo dục trên
địa bàn xã, nơi trường tiểu học đóng chân, giúp cho Hiệu trưởng các số liệu
về độ tuổi, trình độ văn hoá,…theo sổ theo dõi phổ cập giáo dục.
- Phòng Giáo dục và Đào tạo sẽ xem xét, duyệt kế hoạch phát triển mở
lớp học chữ Chăm cho người lớn khi duyệt kế hoạch phát triển lớp học chung
của nhà trường, và xem đây là cơ sở để định mức kinh phí và nhân sự cho nhà
trường hằng năm.
- Tại Điều 3, mục 2 của Điều lệ Trường Tiểu học có nêu: “Thực hiện kế
hoạch phổ cập giáo dục tiểu học và tham gia xoá mù chữ trong phạm vi cộng
đồng”[5]. Vì vậy, việc giao cho nhà trường tiểu học đang giảng dạy tiếng
Chăm lập kế hoạch phát triển lớp học chữ Chăm cho người lớn là phù hợp với
nhiệm vụ của trường Tiểu học được quy định trong Điều lệ trường Tiểu học
do bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành. Hơn nữa, các trường tiểu học này hiện
quản lý đội ngũ giáo viên đang giảng dạy tiếng Chăm cho các em học sinh
tiểu học, các giáo viên này có nhiều kinh nghiệm giảng dạy tiếng Chăm. Nhà
trường cũng có kinh nghiệm trong việc quản lý đội ngũ giáo viên tiếng Chăm.
Bên cạnh đó có sự giúp sức, cộng đồng trách nhiệm của giáo viên chuyên
trách xoá mù chữ - phổ cập giáo dục, việc làm này cũng chính là để hỗ trợ,
góp phần cho công tác xoá mù chữ nói chung, trong đó có nhiệm vụ xoá mù
chữ Chăm, thể hiện đúng trách nhiệm được giao cho ngưòi giáo viên này.
- Kế hoạch phát triển lớp học chữ Chăm cho người lớn cũng được
thông báo đến chính quyền địa phương cấp xã, nó được xem là một chỉ tiêu
phát triển kinh tế - xã hội hàng năm của chính quyền địa phương. Căn cứ vào
27
kế hoạch này chính quyền sẽ tạo điều kiện giúp đỡ để bảo đảm an ninh, hỗ trợ
về vật chất và động viên tinh thần của thầy trò lớp chữ Chăm.
- Kế hoạch phát triển lớp học chữ Chăm cho người lớn cũng được
Phòng Giáo dục và Đào tạo đưa vào kế hoạch phát triển giáo dục chung của
huyện, trình Uỷ ban nhân dân huyện Hàm Thuận Bắc và Sở Giáo dục và Đào
tạo Bình Thuận để giải quyết biên chế giáo viên dạy chữ Chăm, cấp kinh phí
cho lớp học chữ Chăm hoạt động, chỉ đạo việc thực hiện chương trình và các
vấn đề chuyên môn khác như là một lớp xoá mù chữ phổ thông theo quy định
hiện hành.
1.3.2. Quản lý việc thực hiện chương trình và kế hoạch giảng dạy
- Chương trình giảng dạy chữ Chăm bằng chữ akhar thrah cho người
lớn, hiện nay chưa được Bộ Giáo dục và Đào tạo chính thức ban hành chung
cho cả nước. Song, hiện nay ở tỉnh Ninh Thuận, Sở Giáo dục và Đào tạo đã
biên soạn chương trình học tiếng Chăm bằng chữ akhar thrah cho người lớn.
Trong khi chờ Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành chương trình chính thức,
chúng ta chọn chương trình học chữ Chăm bằng chữ akhar thrah cho người
lớn do Sở Giáo dục và Đào tạo Ninh Ninh Thuận đã biên soạn.
- Việc chọn chương trình học tiếng Chăm bằng chữ akhar thrah cho
người lớn do Sở Giáo dục và Đào tạo Ninh Ninh Thuận đã biên soạn, trước
mắt giải quyết được việc thiếu chương trình để giảng dạy. Mặt khác chương
trình trên cũng phù hợp với người học, vì người Chăm ở 2 tỉnh Ninh Thuận và
Bình Thuận cùng ngôn ngữ Chăm Đông, cùng phong tục tập quán và thực tế
các lớp học tiếng Chăm cho người lớn ở huyện Hàm Thuận Bắc trước đây
cũng đã thực hiện theo chương trình này.
- Chương trình giảng dạy và sách giáo khoa được Phòng Giáo dục và
Đào tạo phân bổ, cấp phát đến từng trường học có lớp học chữ Chăm như việc
cấp phát chương trình và sách giảng dạy các bộ môn khác trong trường học.
28
- Phòng Giáo dục và Đào tạo giao cho Hiệu trưởng các trường tiểu học
quản lý việc thực hiện chương trình và kế hoạch dạy chữ Chăm cho người
Chăm lớn tuổi như việc quản lý chương trình học xoá mù chữ phổ thông trên
địa bàn mình phụ trách.
1.3.3. Quản lý việc soạn bài và chuẩn bị giờ dạy của giáo viên
- Phòng Giáo dục và Đào tạo quy định việc soạn giáo án của một tiết
dạy chữ Chăm cho người lớn. Yêu cầu của một bài soạn giáo án dạy chữ
Chăm như một tiết dạy xoá mù chữ (tiếng Việt). Ngoài ra, Hiệu trưởng còn
phải đề nghị giáo viên chú ý hơn việc minh hoạ sát thực tế trong quá trình
giảng dạy, sao cho người học dễ hiểu, dễ nhớ và thích thú trong quá trình học
tập; cần chú ý đến đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi người lớn.
- Phòng Giáo dục và Đào tạo giao nhiệm vụ cho Hiệu trưởng trường
tiểu học phân công trách nhiệm cụ thể cho tổ trưởng tổ tiếng Chăm trong việc
hướng dẫn soạn bài, kiểm tra và góp ý việc soạn bài của giáo viên dạy chữ
Chăm cho người lớn, tương tự hướng dẫn việc giảng dạy tiếng Chăm cho học
sinh tiểu học. Đây cũng là việc làm thường xuyên của Hiệu trưởng trong công
tác quản lý trường học.
1.3.4. Quản lý giờ lên lớp của giáo viên
- Giờ lên lớp là khâu chủ yếu nhất, quan trọng nhất của quá trình dạy
học. Nó quyết định chất lượng dạy học. Chất lượng giờ lên lớp phụ thuộc vào
năng lực giảng dạy của ngưòi giáo viên. Muốn giáo viên có giờ dạy tốt người
Hiệu trưởng cần thể hiện đầy đủ các biện pháp quản lý giờ dạy của giáo viên
và tạo điều kiện cho giáo viên thực hiện giờ lên lớp có hiệu quả.
- Trên cơ sở đề nghị của tổ tiếng Chăm, Hiệu trưởng cần xây dựng tiêu
chuẩn đánh giá giờ dạy của giáo viên dạy chữ Chăm dựa trên tiêu chuẩn đánh
giá giờ dạy của giáo viên tiếng Chăm trong trường tiểu học và tiêu chuẩn
đánh giá một tiết học xoá mù chữ, vì việc dạy chữ Chăm cho người lớn trước
29
mắt vừa mang tính chất xoá mù chữ vừa thể hiện là tiết học chữ Chăm.
- Hiệu trưởng quan tâm đến việc dự giờ, thăm lớp học chữ Chăm để
nhằm động viên tinh thần học tập của học viên và nhận xét, đánh giá tiết dạy
của giáo viên.
1.3.5. Quản lý việc sinh hoạt tổ (chuyên môn) tiếng Chăm, dự giờ và
quá trình giáo dục của giáo viên tiếng Chăm
- Giáo viên dạy chữ Chăm cho người lớn là các giáo viên đang dạy
tiếng Chăm trong nhà trường Tiểu học. Trong các trường tiểu học này, có
thành lập một tổ (chuyên môn) tiếng Chăm; tổ tiếng Chăm có trách nhiệm
quản lý hoạt động giảng dạy tiếng Chăm trong trường tiểu học. Do vậy,
Phòng Giáo dục và Đào tạo giao cho tổ tiếng Chăm trong trường tiểu học
quản lý hoạt động giảng dạy chữ Chăm cho người lớn. Việc giao cho tổ tiếng
Chăm quản lý, chỉ đạo chuyên môn về việc giảng dạy chữ Chăm cho người
lớn có nhiều mặt thuận lợi, vì:
+ Các giáo viên dạy tiếng Chăm đều là người Chăm, họ có nhiều
kinh nghiệm và năng lực trong giảng dạy ngôn ngữ Chăm; họ đều là dân địa
phương nên hiểu rõ về phong tục tập quán và cuộc sống của người dân Chăm
ở địa phương mình giảng dạy. Đây là một điều kiện rất thuận lợi cho việc
giảng dạy chữ Chăm.
+ Các giáo viên dạy chữ Chăm đều có mong muốn duy trì và
phát triển ngôn ngữ Chăm, cho nên họ dạy chữ Chăm với bằng tất cả nhiệt
tình của mình, chứ không phải chỉ giảng dạy vì đồng tiền thù lao theo quy
định. Ngoài việc truyền thụ các con chữ, họ còn dạy cho người Chăm hiểu
biết chung về đạo làm người, về cách đối nhân xử thế để cho người dân Chăm
chung sống một cách lạc quan trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam.
- Nâng cao chất lượng sinh hoạt tổ (chuyên môn) tiếng Chăm, tăng
30
cường việc dự giờ thao giảng để tìm ra phương pháp giảng dạy thích hợp là
việc làm cần thiết nhằm làm cho việc học tập chữ Chăm của người lớn có
hiệu quả. Do vậy, Hiệu trưởng các trường tiểu học có tổ chức việc dạy chữ
Chăm cho người lớn cần phải hướng dẫn, tạo điều kiện tốt nhất cho tổ giáo
viên tiếng Chăm hoạt động và thường xuyên kiểm tra, nhắc nhở tổ trưởng tổ
tiếng Chăm về trách nhiệm của mình. Phòng Giáo dục và Đào tạo cũng lấy
kết quả hoạt động của tổ tiếng Chăm để làm cơ sở đánh giá công tác quản lý
trường học của hiệu trưởng.
- Phòng Giáo dục và Đào tạo tổ chức thanh tra việc quản lý trường học
của Hiệu trưởng, trong đó có thanh tra nội dung công tác chỉ đạo của Hiệu
trưởng về hoạt động tổ tiếng Chăm và dạy chữ Chăm cho người lớn.
1.3.6. Quản lý hồ sơ chuyên môn của giáo viên
- Phòng Giáo dục và Đào tạo quy định hồ sơ chuyên môn của giáo viên
dạy lớp chữ Chăm cho người lớn như hồ sơ của giáo viên dạy xoá mù chữ
(tiếng Việt), bao gồm:
+ Giáo án
+ Sổ điểm
+ Sổ dự giờ (chung cho các lớp khác, tính trên mỗi giáo viên)
+ Sổ chủ nhiệm
- Các loại hồ sơ chuyên môn của giáo viên dạy lớp chữ Chăm cho
người lớn phải thể hiện bằng chữ phổ thông (tiếng Việt), ngoại trừ giáo án
được ghi bằng chữ Chăm cổ ở một số nội dung, để tiện việc kiểm tra theo dõi.
Các loại hồ sơ này do tổ trưởng tổ tiếng Chăm kiểm tra theo quy định của
Hiệu trưởng để quản lý hoạt động giảng dạy của giáo viên. Giáo viên dạy lớp
chữ Chăm cho người lớn có trách nhiệm cập nhật đầy đủ theo quy định hiện
hành (như là hồ sơ một lớp xoá mù chữ). Việc lập các loại hồ sơ trên là một
31
căn cứ để đánh giá, xếp loại kết quả hoạt động của giáo viên hằng năm, là cơ
sở để đánh giá chất lượng giảng dạy, học tập của người dạy và người học.
1.3.7. Quản lý việc kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của người học
- Căn cứ vào chương trình học do Ban biên soạn chữ Chăm và quy chế
đánh giá kết quả học tập theo chương trình xoá mù chữ tiếng Việt của Bộ giáo
dục và Đào tạo, việc dạy chữ Chăm cho người lớn bước đầu thực chất là xoá
mù chữ Chăm. Do vậy, thực hiện chế độ kiểm tra đánh giá kết quả học tập ở
lớp học chữ Chăm cho người lớn như chế độ kiểm tra đánh giá một lớp học
xoá mù chữ phổ thông (tiếng Việt) hiện hành, bao gồm:
+ Điểm kiểm tra miệng
+ Điểm kiểm tra 15 phút
+ Điểm tra 1 tiết
+ Điểm kiểm tra 3 giai đoạn theo chương trình học
+ Điểm kiểm tra cuối khóa học
- Phòng Giáo dục và Đào tạo giao cho trường tiểu học nơi tổ chức lớp
học chữ Chăm cho người lớn chịu trách nhiệm tổ chức việc đánh giá kết quả
học tập của lớp học, báo cáo kết quả học tập cho Phòng Giáo dục và Đào tạo
vào cuối mỗi giai đoạn theo tiến độ thực hiện chương trình của lớp học chữ
Chăm cho người lớn.
- Hiệu trưởng chịu trách nhiệm kiểm tra hoạt động của giáo viên trong
khâu tổ chức đánh giá kết quả học tập của lớp chữ Chăm, cụ thể là về tiến độ
kiểm tra cho điểm, cách xếp loại học lực, mức độ phù hợp của đề kiểm tra, số
lần kiểm tra, tính nghiêm túc trong kiểm tra.
1.3.8. Quản lý việc phân công giáo viên giảng dạy lớp học chữ Chăm
- Hằng năm, căn cứ vào kế hoạch mở lớp tiếng Chăm cho các học sinh
32
dân tộc Chăm trong trường tiểu học và kế hoạch mở lớp chữ Chăm cho người
lớn, hiệu trưởng nhận xét khả năng đáp ứng nhu cầu giảng dạy của các giáo
viên tiếng Chăm trong nhà trường của mình, từ đó kiến nghị với Phòng Giáo
dục và Đào tạo bố trí giáo viên tiếng Chăm cho năm học mới.
- Theo số lượng giáo viên tiếng Chăm của trường, Hiệu trưởng chịu
trách nhiệm chỉ đạo việc phân công giáo viên đảm nhận giảng dạy lớp học
chữ Chăm cho người lớn, việc phân công này do tổ trưởng tổ tiếng Chăm
trong trường đề xuất. Ngoài việc chọn cử giáo viên có năng lực giảng dạy, tổ
trưởng tổ tiếng Chăm còn phải chú ý đến những giáo viên người Chăm nhiệt
tình, am hiểu sâu rộng về kiến thức xã hội và có nhiều kinh nghiệm trong giao
tiếp. Có như vậy mới thuyết phục và hấp dẫn những người học lớn tuổi hay
khó tính trong quá trình giảng dạy.
- Hiệu trưởng theo dõi quá trình giảng dạy của giáo viên, ngoài việc
nắm chất lượng giảng dạy, Hiệu trưởng còn phải hiểu rõ khả năng giao tiếp
ứng xử của giáo viên trong quá trình giảng dạy, thường xuyên động viên các
giáo viên cố gắng vượt qua những khó khăn trong giảng dạy. Trong những
trường hợp mà mối quan hệ giữa giáo viên với người học không diễn ra tốt
đẹp, có chiều hướng xấu, thể hiện như kéo dài tình trạng học viên bỏ học
nhiều, làm việc riêng trong giờ học… thì Hiệu trưởng cần tính toán đến việc
nhắc nhở, thậm chí phải thay đổi giáo viên khác để chất lượng dạy lớp chữ
Chăm cho người lớn đạt kết quả tốt hơn.
1.3.9. Quản lý quá trình đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ giáo viên tiếng
Chăm
- Căn cứ vào kế hoạch mở lớp tiếng Chăm cho các học sinh dân tộc
Chăm trong trường tiểu học và kế hoạch mở lớp chữ Chăm cho người lớn ở
các trường tiểu học, căn cứ vào số giáo viên tiếng Chăm hiện có, Phòng Giáo
dục và Đào tạo có kế hoạch đào tạo dài hạn đội ngũ giáo viên tiếng Chăm
33
chung cho cả huyện. Việc đào tạo giáo viên tiếng Chăm được dựa vào các yếu
tố sau:
+ Căn cứ đội ngũ giáo viên người Chăm đang giảng dạy ở các
trường tiểu học, phân chia họ ra làm 2 loại: Có khả năng dạy chữ Chăm; chưa
có khả năng dạy chữ Chăm. Tất cả số giáo viên có khả năng dạy chữ Chăm
thường đã được bồi dưỡng để dạy tiếng Chăm trong trường tiểu học. Số còn
lại cần được bồi dưỡng để họ có khả năng tham gia dạy tiếng Chăm.
+ Phòng Giáo dục và Đào tạo đề nghị Sở Giáo dục và đào tạo mở
lớp đào tạo giáo viên dạy tiếng (chữ) Chăm hoặc cho phép Phòng Giáo dục và
Đào tạo tổ chức lớp học tiếng Chăm cho giáo viên người Chăm.
+ Khi được Sở Giáo dục và Đào tạo cho phép mở lớp, Phòng
Giáo dục và Đào tạo báo cáo Uỷ ban nhân dân huyện kế hoạch mở lớp dạy
tiếng Chăm cho giáo viên. Nếu số lượng giáo viên cần học chữ Chăm trong
huyện ít, có thể huy động thêm số cán bộ huyện, xã tham gia cho đủ số học
viên trong một lớp học. Đây là việc làm cần thiết, là cách nhanh nhất để tạo
nguồn giáo viên dạy chữ Chăm.
+ Hằng năm, Phòng Giáo dục và Đào tạo cử giáo viên tiếng
Chăm dự lớp bồi dưỡng tiếng Chăm do Sở Giáo dục và Đào tạo tổ chức.
+ Việc bồi dưỡng cho giáo viên tiếng Chăm còn phải được
thường xuyên tổ chức qua các buổi thảo luận góp ý giờ dạy tiếng Chăm, các
buổi sinh hoạt tổ tiếng Chăm, các buổi học tập và sinh hoạt chuyên môn
nghiệp vụ do ngành giáo dục tổ chức.
Những năm qua việc bồi dưỡng cho giáo viên tiếng Chăm chủ yếu là
bồi dưỡng phương pháp giảng dạy cho học sinh tiểu học học tiếng Chăm. Đầu
năm 2007, Bộ Giáo dục và Đào tạo có tổ chức bồi dưỡng phương pháp dạy
chữ Chăm cho cán bộ công chức có nhu cầu học chữ Chăm để phục vụ công
34
tác của mình, chứ chưa có cơ quan quản lý giáo dục nào bồi dưỡng phương
pháp dạy chữ Chăm cho người Chăm lớn tuổi. Các giáo viên dạy lớp xoá mù
chữ Chăm cho người Chăm nên cùng bàn bạc và tự rút kinh nghiệm về cách
dạy người lớn cho phù hợp.
1.3.10. Quản lý các phương tiện và điều kiện hỗ trợ hoạt động giảng
dạy
Các phương tiện và điều kiện về cơ sở vật chất có tác dụng hỗ trợ tích
cực quá trình giảng dạy của giáo viên. Nếu người giáo viên biết cách sử dụng
và có được cơ sở vật chất tốt thì hiệu quả giờ dạy học chắc chắn sẽ tốt hơn. Vì
vậy, người quản lý cần phải có kế hoạch bảo đảm các yêu cầu tối thiểu về
phương tiện và cơ sở vật chất để tiến hành hoạt động giảng dạy cho các lớp
học.
Để bảo đảm cho lớp học chữ Chăm được hoạt động bình thường, Hiệu
trưởng trường tiểu học nơi tổ chức mở lớp chữ Chăm cần xem xét kỹ về một
số yêu cầu sau:
- Phòng học: Phải bảo đảm theo đúng quy định về kích thước, ánh sáng,
che mưa nắng, an toàn khi gió bão…
- Bàn ghế: Phù hợp với người lớn tuổi.
- Bảng đen: Hiện rõ phần trình bày của giáo viên.
- Sách giáo khoa, sách tham khảo: Rõ ràng, dễ đọc.
- Các trang thiết bị dạy và học
Hiệu trưởng cần khảo sát nhu cầu tối thiểu về các phương tiện và cơ sở
vật chất cho việc mở lớp học hàng năm, kể cả các lớp học chữ Chăm. Từ đó,
có kế hoạch mua sắm hay đề nghị các cấp liên quan trang bị cơ sở vật chất
sao cho đáp ứng được hoạt động giảng dạy trong nhà trường và các lớp học
chữ Chăm cho người lớn tuổi.
35
Hiệu trưởng nên phân công cho một Phó hiệu trưởng chỉ đạo công tác
quản lý về cơ sở vật chất trường học, tạo điều kiện tốt nhất cho người dạy và
người học chữ Chăm có đủ các phương tiện học tập cần thiết để dạy tốt và
học tốt. Hướng dẫn giáo viên sử dụng và bảo quản đồ dùng dạy học.
Trên cơ sở đề nghị của các Hiệu trưởng trường học, Trưởng Phòng
Giáo dục và Đào tạo chỉ đạo việc mua sắm để trang bị mới hay cấp bổ sung
các phương tiện và cơ sở vật chất cho các trường học, chẳng hạn như mua
sách giáo khoa, sách tham khảo, đồ dùng dạy học hay đề nghị Uỷ ban nhân
dân huyện xây thêm Phòng học.
1.3.11. Quản lý việc tổ chức lớp học và vận động người học ra lớp học
- Hiệu trưởng trường tiểu học nơi chuẩn bị dạy chữ Chăm tiến hành
việc lập kế hoạch vận động người ra lớp học theo các bước cơ bản sạu:
+ Hiệu trưởng bàn bạc với giáo viên chuyên trách xoá mù chữ -
phổ cập giáo dục rồi dự thảo kế hoạch mở lớp dạy chữ Chăm.
+ Hiệu trưởng trao đổi với chính quyền địa phương, với Ban
nhân dân thôn về kế hoạch mở lớp học chữ Chăm và đề nghị sự hỗ trợ của họ
cho việc mở lớp như: Cử người lo việc an ninh trật tự cho lớp học, giải thích
về sự cần thiết của việc học chữ Chăm, dự khai giảng lớp học chữ Chăm để
động viên tinh thần học tập của người học.
+ Lập Thông báo mở lớp học chữ Chăm, nêu rõ những chi tiết
như thời gian mở lớp, đối tượng học, thời điểm và địa điểm đăng kí học, thời
điểm kết thúc lớp học, thời gian học tập trong tuần.
+ Cử nhân viên ghi danh đăng kí học tập và trình danh sách
đăng kí cho Hiệu trưởng sau thời điểm đăng ký kết thúc.
+ Tổ chức lễ khai giảng lớp học chữ Chăm, phân công giáo viên
tổ chức học tập và thảo luận nội quy lớp học, từ đó có thể ghi nhận những
36
kiến nghị của học viên về nhu cầu cần thiết phục vụ cho việc dạy và học. Sau
khi học tập nội quy, tiến hành việc chọn cử lớp trưởng, lớp phó, tổ trưởng, tổ
phó của lớp học. Giới thiệu giáo viên đứng lớp, thời khoá biểu học tập trong
tuần.
- Theo dõi tỉ lệ chuyên cần học tập của lớp học. Nếu thấy học viên vắng
học nhiều, Hiệu trưởng nên tìm hiểu kỹ lí do và phân công người đến gặp trực
tiếp người học để động viên họ tiếp tục ra lớp học. Người được phân công
vận động có thể là giáo viên chuyên trách xoá mù chữ, học viên lớn tuổi có uy
tín, giáo viên đứng lớp hay Hiệu trưởng, Phó hiệu trưởng của trường.
- Hiệu trưởng cần tạo nên một dư luận rộng khắp trong nhân dân nhằm
ủng hộ, động viên người học ra lớp học chữ Chăm. Để làm được việc này,
Hiệu trưởng cần cùng với giáo viên chuyên trách xoá mù chữ có kế hoạch dự
các buổi họp nhân dân thôn xóm, xin được trình bày về những ý nghĩa của
việc học chữ Chăm hay tranh thủ các ý kiến của các vị có uy tín trong làng
như là lão làng, các vị có chức sắc tôn giáo để nhờ họ động viên người học ra
lớp, góp phần cổ vũ tinh thần học tập của học viên.
- Hiệu trưởng phải báo cáo tình hình khai giảng, tình hình học tập cho
chính quyền địa phương và Phòng Giáo dục và Đào tạo biết để được sự giúp
đỡ từ phía chính quyền và việc hướng dẫn về chuyên môn của Phòng Giáo
dục và Đào tạo huyện.
1.3.12. Quản lý việc cấp giấy chứng nhận học lực
- Giấy chứng nhận học lực sau mỗi lớp học là sự thể hiện một một quá
trình học tập, là yêu cầu chính đáng, mang tính pháp lý, là cơ sở để người học
được tiếp tục học các lớp tiếp theo. Vì vậy, việc cấp giấy chứng nhận phải kịp
thời theo đúng thẩm quyền, phù hợp với những quy định của pháp luật.
- Theo quy định hiện hành của Bộ Giáo dục và Đào tạo, giấy chứng
37
nhận học hết lớp, hết cấp trong trường tiểu học do hiệu trưởng trường đó cấp.
Theo tinh thần đó, khi một học viên học xong một lớp trong chương trình học
chữ Chăm do trường tiểu học tổ chức thì hiệu trưởng trường tiểu học chịu
trách nhiệm cấp giấy chứng nhận đã hoàn thành lớp học, để họ được tiếp tục
theo học các lớp cao hơn, hay làm cơ sở pháp lý cho các vấn đề khác có liên
quan. Như vậy, việc cấp giấy chứng nhận học lực lớp chữ Chăm do trường
tiểu học tổ chức giảng dạy cho người lớn được hiệu trưởng trường tiểu học đó
cấp. Vấn đề này Phòng Giáo dục và Đào tạo cần có báo cáo để thỉnh thị ý
kiến chỉ đạo của Sở Giáo dục và Đào tạo.
- Các trường học cần lưu trữ, bảo quản tốt sổ điểm của lớp học chữ
Chăm như các loại sổ điểm khác trong trường để làm cơ sở cấp phát giấy
chứng nhận học lớp, hết cấp tiểu học chữ Chăm khi người học có nhu cầu.
1.4. Cơ sở thực tế
Ở Việt Nam, “ tổ chức dạy chữ dân tộc đối với các dân tộc đã có chữ
viết, tổ chức xây dựng các bộ chữ đối với các dân tộc chưa có chữ viết và phổ
biến các bộ chữ đó, là những công việc mà Đảng và Nhà nước ta từ Trung
ương đến các tỉnh đều hết sức quan tâm. Ngay cả trong thời kì kháng chiến
chống Pháp, chống Mỹ cũng như trong xây dựng hòa bình.... hiện nay còn
khoảng 14 tỉnh trên cả nước đang tổ chức việc dạy - học chữ và ngữ văn của
các dân tộc như H’Mông, Chăm, Khmer, Bana, Êđê, K’Ho...”[32].
Sau ngày giải phóng miền Nam Việt Nam, tiếng Chăm và chữ Chăm
Akhar Thrah) cũng được dạy trong các trường tiểu học song ngữ theo chương
trình và sách giáo khoa của Bộ Giáo dục, ở những nơi tập trung người Chăm
(trong hai tỉnh Ninh Thuận, Bình Thuận). Chữ Chăm đã được La tinh hoá từ
đầu thế kỉ 20. Bộ chữ này gần giống bộ chữ Êđê ở Tây Nguyên được phổ cập
khá rộng rãi. Nhiều người Chăm thích dùng để ghi chép cá nhân, viết thư,
chép chuyện cổ tích, thơ ca, văn học dân gian. Nhưng đa số người Chăm chủ
38
trương cho con em học chữ Chăm Akhar Thrah để bảo tồn nền văn hoá dân
tộc lâu đời của mình[8].
Ở tỉnh Ninh Thuận, “ Tỉnh cũng đã tổ chức việc dạy tiếng Chăm cho
học sinh Chăm đang học lớp 10 và lớp 11 trường Dân tộc Nôi trú tỉnh, mở lớp
dạy tiếng Chăm cho cán bộ làm công tác dân vận, công an, viện kiểm sát và
một lớp học dành cho cán bộ và nhân dân xã Phước Thái huyện Ninh Phước”
[1].
Ở tỉnh Bình Thuận, vào tháng 10/2001, Sở Giáo dục - Đào tạo và Uỷ
ban nhân dân huyện Hàm Thuận Bắc đã “ cho phép Phòng Giáo dục và Đào
tạo huyện Hàm Thuận Bắc mở lớp dạy tiếng Chăm cho cán bộ và giáo viên
người Chăm” [23]. Đến ngày 20/10/2006, Sở Giáo dục-Đào tạo Bình Thuận
cũng đã cho phép Phòng Giáo dục và Đào tạo huyện Hàm Thuận Bắc mở lớp
dạy tiếng Chăm cho cán bộ, đảng viên và thanh niên người dân tộc Chăm từ
năm học 2006 - 2007”[24]. Hiện nay, Phòng Giáo dục và Đào tạo huyện Hàm
Thuận Bắc đã tổ chức mở 3 lớp dạy xoá mù chữ tiếng Chăm cho cán bộ, đảng
viên và thanh niên ở các xã Ma Lâm, Hàm Phú và Hàm Trí (Mỗi xã một lớp).
Các lớp học được duy trì khá tốt, cả giáo viên và học viên đều thể hiện sự nổ
lực trong việc dạy và học, chất lượng học tập có chiều hướng phát triển tốt
(Nguồn Phòng Giáo dục và Đào tạo Hàm Thuận Bắc)[20].
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1
Qua phân tích lí luận, việc dạy chữ Chăm cho người Chăm là việc làm
cần thiết, phục vụ chính sách dân tộc và phát triển ngôn ngữ của Đảng và Nhà
nước ta, nhằm bảo tồn tiếng nói và chữ viết của các dân tộc thiếu số ở ._.các tài liệu dùng vào việc giảng dạy chữ Chăm cho
ngưòi lớn.
- Hiệu trưởng thực hiện việc mua sắm các trang thiết bị, sách giáo
khoa, sách giáo viên, tài liệu tham khảo phục vụ cho việc giảng dạy tiếng
Chăm cho học sinh tiểu học và giảng dạy chữ Chăm cho người lớn tuổi bằng
nguồn kinh phí của trường. Nếu nguồn kinh phí của trường không đáp ứng đủ
để chi cho việc mua sắm trên thì lập tờ trình đề nghị lên Phòng Giáo dục và
Đào tạo để được giúp đỡ.
- Hiệu trưởng đề nghị chính quyền huyện xây thêm Phòng học để phục
vụ cho việc giảng dạy chữ Chăm nếu không có đủ Phòng để tổ chức giảng
dạy; huy động các tổ chức, lực lượng xã hội hỗ trợ xây dựng cơ sở vật chất và
phương tiện giảng dạy trong nhà trường.
- Hiệu trưởng có biện pháp bảo quản tốt tài sản nhà trường, động viên
giáo viên và học viên sử dụng, bảo quản tốt sách giáo khoa và trang thiết bị
liên quan đến việc dạy chữ Chăm.
2.5.6. Định mức chế độ chi trả tiền công giảng dạy và kinh phí tổ chức
lớp học; cấp kinh phí mở lớp chữ Chăm cho người lớn tuổi.
Định mức chế độ chi trả tiền công cho việc giảng dạy, kinh phí tổ chức
lớp học và cấp kinh phí mở lớp chữ Chăm cho người lớn tuổi là việc làm hết
sức cần thiết để có cơ sở thanh toán tiền giờ dạy cho giáo viên và các chi phí
cần thiết khác cho việc tổ chức lớp học chữ dân tộc Chăm.
Để đạt được điều đó, cần phải thực hiện một số công việc sau:
90
- Phòng Giáo dục và Đào tạo trình Sở Giáo dục và Đào tạo nhằm kiến
nghị Uỷ Ban nhân dân tỉnh quyết định chế độ chi trả tiền công cho việc giảng
dạy và kinh phí tổ chức lớp học, cấp kinh phí mở lớp chữ Chăm cho người
lớn tuổi.
- Phòng Giáo dục và Đào tạo chỉ đạo các trường học thực hiện chi trả
kinh phí cho việc giảng dạy chữ Chăm thật đầy đủ và đúng chế độ.
2.5.7. Ban hành Quy định về các vấn đề chuyên môn trong quản lý
giảng dạy chữ Chăm
Quy định về các vấn đề chuyên môn trong trường học là cơ sở để các
cấp quản lý giáo dục đánh giá và quản lý hoạt động của giáo viên, của Hiệu
trưởng. Các quy định chuyên môn rõ ràng, hợp lý sẽ phân định được trách
nhiệm của các cá nhân và tổ chức trong nhà trường, tạo điều kiện tốt cho việc
nâng cao chất lượng giảng dạy.
Để đạt được mục đích trên, Phòng Giáo dục và Đào tạo trình Sở Giáo
dục và Đào tạo quy định:
- Về hồ sơ sổ sách của giáo viên dạy lớp chữ Chăm cho người lớn,
chẳng hạn gồm: Giáo án, sổ gọi tên và ghi điểm, sổ đầu bài, sổ chủ nhiệm.
- Về cách đánh giá kết quả học tập của học sinh: số con điểm cần kiểm
tra, cách tính điểm, cách xếp loại học tập, điều kiện được lên lớp…
- Quy định việc cấp giấy chứng nhận học hết lớp xoá mù chữ, sau xoá
mù chữ.
- Cơ cấu tổ chức của một lớp học chữ Chăm cho người lớn (Lớp
trưởng, lớp phó, các tổ trưởng, các tổ phó, số lượng học viên cho mỗi lớp).
- Chế độ thông tin báo cáo về tình hình tổ chức và kết quả giảng dạy
chữ Chăm cho người lớn tuổi.
91
- Tiến trình giảng dạy của một tiết học chữ Chăm cho người lớn.
2.6. Tổ chức mở lớp dạy chữ Chăm thử nghiệm
2.6.1. Chuẩn bị điều kiện mở lớp dạy chữ Chăm
* Hiệu trưởng trường tiểu học nơi có đông đồng bào Chăm báo cáo với
lãnh đạo Phòng Giáo dục và Đào tạo về ý tưởng mở lớp dạy chữ Chăm cho
người Chăm là xuất phát từ nguyện vọng của đồng bào người Chăm qua các
tờ trình đề nghị mở lớp của các thôn trưởng, có ý kiến xác nhận của chính
quyền cấp xã, để lãnh đạo Phòng Giáo dục và Đào tạo xem xét, quyết
định[27].
* Lãnh đạo Phòng Giáo dục và Đào tạo đưa vấn đề trên ra thảo luận và
xin ý kiến của chi bộ đảng để đi đến sự nhất trí về chủ trương xin mở lớp dạy
chữ Chăm cho người Chăm lớn tuổi.
* Phòng Giáo dục và Đào tạo lập tờ trình đề nghị Sở Giáo dục & Đào
tạo Bình Thuận cho phép mở lớp dạy chữ Chăm cho cán bộ và thanh niên
người Chăm, xin cấp kinh phí để tổ chức và giảng dạy chữ Chăm cho người
Chăm, đồng thời báo cáo việc làm này cho Uỷ ban nhân dân huyện biết.
* Phòng Giáo dục và Đào tạo liên hệ Sở Giáo dục & Đào tạo Ninh
Thuận xin tài liệu về phân phối chương trình và sách giáo khoa học chữ Chăm
cho người lớn tuổi.
* Làm việc với tổ giáo viên dạy tiếng Chăm của huyện để chuẩn bị bố
trí giáo viên giảng dạy.
* Phòng Giáo dục và Đào tạo và Đào tạo làm việc với Hiệu trưởng các
trường Tiểu học nơi dự kiến sẽ mở các lớp dạy chữ Chăm để bố trí cơ sở vật
chất phục vụ giảng dạy và phối hợp với tổ giáo viên tiếng Chăm của huyện
nhằm phân công giáo viên dạy tiếng Chăm cho hợp lý, không ảnh hưởng đến
hoạt động giảng dạy của trường. Giao trách nhiệm quản lí lớp học tiếng Chăm
92
cho các Hiệu trưởng này đảm nhận, xem như việc quản lý một lớp xoá mù
chữ bằng tiếng Việt. Hàng tháng báo cáo tình hình giảng dạy, học tập của lớp
học chữ Chăm cho Phòng Giáo dục và Đào tạo và Đào tạo.
* Hiệu trưởng các trường học làm việc với các thôn trưởng và đại diện
chính quyền cấp xã nơi dự kiến mở lớp học chữ Chăm biết để tạo sự hậu
thuẩn và bố trí lực lượng bảo đảm an ninh trật tự cho lớp học.
* Sau khi có văn bản trả lời của Sở Giáo dục và đào tạo, Phòng Giáo
dục và Đào tạo trình Uỷ ban nhân dân huyện biết ý kiến của Sở Giáo dục và
Đào tạo, các công việc cần thiết chuẩn bị để mở lớp học chữ Chăm cho người
Chăm.
2.6.2. Tổ chức thí điểm lớp học
* Phòng Giáo dục và Đào tạo và Đào tạo ra thông báo hướng dẫn các
Hiệu trưởng trường tiểu học nơi sẽ mở lớp thực hiện một số yêu cầu chính
như sau:
- Thông báo chiêu sinh mở lớp học chữ Chăm.
- Bố trí giáo viên tiếp nhận, hướng dẫn học viên đến đăng ký học
chữ Chăm và tổ chức học tập nội quy lớp học, quy định cụ thể thời gian học,
dụng cụ học tập và các yêu cầu cần thiết của lớp học. Động viên tinh thần học
tập của học viên.
- Báo cáo cho Phòng Giáo dục và Đào tạo và Đào tạo biết tình hình
triển khai, số học viên đăng kí để nhận tài liệu học tập.
* Phòng Giáo dục và Đào tạo và Đào tạo mua sắm và phân phối sách
giáo khoa, tài liệu hướng dẫn giảng dạy; kiểm tra việc ra lớp của các học viên.
* Phòng Giáo dục và Đào tạo và Đào tạo tổ chức kiểm tra việc mở lớp,
động viên thăm hỏi học viên.
93
* Bước đầu chỉ tiến hành giảng dạy thí điểm lớp xoá mù chữ, mỗi lớp
một thôn, ở 3 thôn ( mỗi xã một thôn ) có đông người Chăm sinh sống.
* Chọn một xã có điều kiện nhất để làm lễ khai giảng rút kinh nghiệm
cho việc mở lớp. Sau khai bàn bạc với 3 Hiệu trưởng trường học thuộc diện
mở lớp học chữ Chăm, Phòng Giáo dục và Đào tạo và Đào tạo đã chọn trường
Tiểu học Lâm Giang là đơn vị mở lớp học chữ Chăm đầu tiên trên địa bàn
huyện, vào cuối tháng 10/2006. Các đơn vị còn lại mở lớp vào tháng 11/2006.
Qua gần 9 tháng tổ chức các lớp học chữ Chăm, kết quả ban đầu cho
thấy:
* Về tâm lý, mọi người Chăm có nhu cầu học xoá mù chữ Chăm đã
thoả niềm mong ước được học cái chữ của dân tộc mình, họ cảm nhận được
sự đối xử bình đẳng trong lĩnh vực hưởng thụ giáo dục vì được chính quyền
quan tâm tạo điều kiện giúp họ học tập, tìm hiểu phong tục tập quán và góp
phần giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc mình.
* Về phía người dạy chữ Chăm, họ đúc rút kinh nghiệm trong quá trình
giảng dạy chữ Chăm cho người lớn về mặt giao tiếp cũng như bổ sung vốn
ngôn ngữ Chăm.
* Về mặt quản lý, người Hiệu trưởng nắm được quy trình quản lý lớp
học chữ Chăm từ các khâu chuẩn bị kế hoạch mở lớp cho đến việc kiểm tra
đánh giá chất lượng học tập. Hiệu trưởng xác định được trách nhiệm của mình
và biết cách phối hợp với chính quyền địa phương và giáo viên chuyên trách
xoá mù chữ trong việc tổ chức lớp dạy chữ Chăm.
* Với Phòng Giáo dục và Đào tạo, trên cơ sở lý luận đã trình bày và
qua kinh nghiệm tổ chức lớp học thí điểm chữ Chăm đã quy định trách nhiệm
của các giáo viên, cán bộ Phòng Giáo dục và Đào tạo và trường học thuộc
ngành Giáo dục về quản lý việc dạy chữ Chăm cho người lớn tuổi; kiến nghị
94
các cấp có liên quan tạo điều kiện giúp đỡ hoạt động giảng dạy mang ý nghĩa
thiết thực này.
2.6.3. Về tình hình học viên ra lớp học
BẢNG 2.14: THỐNG KÊ TÌNH HÌNH MỞ LỚP VÀO
ĐẦU NĂM HỌC ( Tháng 11/2006)
Số học viên chia theo nghề nghiệp
Công chức Nông dân Nghề khácXã
Độ
tuổi
Số
học
viên
SL % SL % SL %
15-20 3 0 0 3 100 0 0
21-30 8 1 12.5 7 87.5 0 0
>30 8 2 25.0 6 75.0 0 0 Ma Lâm
Cộng 19 3 15.8 16 84.2 0 0
15-20 8 0 0 8 100 0 0
21-30 21 1 4.8 20 95.2 0 0
>30 7 3 42.9 4 57.1 0 0 Hàm Phú
Cộng 36 4 11.1 32 88.9 0 0
15-20 10 0 0 10 100 0 0
21-30 33 3 9.1 30 90.9 0 0
>30 18 5 27.8 10 55.6 3 16.6Hàm Trí
Cộng 61 8 13.1 50 82.0 3 4.9
15-20 21 0 0 21 100 0 0
21-30 62 5 8.1 57 91.9 0 0
>30 33 10 30.3
(Nguồn Phòng Giáo dục và Đào tạo Hàm Thuận Bắc)[20]
20 60.6 3 9.1 Ba xã
Cộng 116 15 12.9 98 84.5 3 2.6
95
0
10
20
30
40
50
60
BIỂU ĐỒ 2.12: HỌC VIÊN RA LỚP HỌC CHỮ CHĂM
(11/2006)
Độ tuổi 15-20 0 21 0
Độ tuổi 21-30 5 57 0
Độ tuổi trên 30 10 20 3
Công chức Nông dân Nghề khác
Qua bảng 2.14 cho thấy:
Ở độ tuổi 15 - 20, có 21/116 người ra lớp học, chiếm 18,1% tổng số
người theo học. Người học ở độ tuổi này đều là những nông dân trẻ tuổi, ham
thích học chữ Chăm.
Ở độ tuổi 21 - 30, có tất cả 62/116 người tham gia học chữ Chăm,
chiếm 53,5% tổng số người theo học. Trong đó có 5 người là công chức,
chiếm 8% số người trong độ tuổi này theo học; số còn lại là 57 nông dân,
chiếm 82% số người trong độ tuổi 21 - 30 theo học. Đây là độ tuổi có tỉ lệ
theo học cao nhất, trong đó những người làm nghề nông chiếm đa số.
Ở độ tuổi 31 - 45, có 33/116 người theo học chữ Chăm, chiếm 28,4%
tổng số người ra lớp học. Trong đó có 10 công chức chiếm 30,3% số người
của độ tuổi này; có 20 nông dân, chiếm 60,6% và 9 người thuộc ngành nghề
khác chiếm 9,1% của độ tuổi 31 - 45 ra lớp học chữ Chăm.
96
Nhìn chung trong các độ tuổi ra lớp học chữ Chăm, thì độ tuổi 21 - 30
ra lớp đông đảo nhất. Do đặc thù của địa bàn cư trú của người Chăm là vùng
nông thôn, phần lớn người dân sinh sống bằng nghề nông nên có đến 98/116
nông dân tham gia học chữ Chăm, chiếm tỉ lệ 84,5% của số người ra lớp học.
2.6.4. Về tình hình duy trì số học viên theo học chữ Chăm
BẢNG 2.15: THỐNG KÊ TÌNH HÌNH RA LỚP HỌC CHỮ CHĂM
NGƯỜI LỚN TUỔI (Đến tháng 5/2007)
Số học viên chia theo nghề nghiệp
xã
Độ Số học
viên
Công
chức
Nông
dân
tuổi học
viên Nghề
khác
15-20 3 0 3 0
21-30 8 1 7 0
>30 8 2 6 0 Ma Lâm
Cộng 19 3 16 0
15-20 3 0 3 0
21-30 12 1 11 0
>30 7 3 4 0 Hàm Phú
Cộng 22 4 18 0
15-20 4 0 4 0
21-30 16 3 13 0
>30 10 5 3 2 Hàm Trí
Cộng 30 8 20 2
15-20 10 0 10 0
21-30 36 5 31 0
>30 25 10 13 2 Ba xã
Cộng 71 15 54 2
(Nguồn Phòng Giáo dục và Đào tạo Hàm Thuận Bắc)[20]
97
0
5
10
15
20
25
30
35
BIỂU ĐỒ 2.13: HỌC VIÊN THEO HỌC CHỮ CHĂM
(ĐẾN 05/5/2007)
Độ tuổi 15-20 0 10 0
Độ tuổi 21-30 5 31 0
Độ tuổi trên 30 10 13 2
Công chức Nông dân Nghề khác
Tuy nhiên, qua một thời gian tham gia học tập, số học viên ra lớp học
bị giảm đáng kể, có đến 45 người không tiếp tục theo học; trong đó:
- Ở độ tuổi 15 - 20, số học viên bỏ học là 11/21 người chiếm 52,4% số
người ra lớp của độ tuổi này. Đây là tỉ lệ bỏ học cao nhất, có thể do tuổi còn
trẻ, tính kiên trì chưa cao nên dễ bị dao động.
- Ở độ tuổi 21 - 30, số học viên bỏ học là 26/62 người chiếm 41,9%
trong độ tuổi đã ra lớp.
- Ở độ tuổi 31 - 45, số học viên bỏ học là 8/33 người chiếm 24,2% so
độ tuổi. Tỉ lệ bỏ học ở độ tuổi này là thấp nhất. Điều đó thể hiện sự kiên nhẫn,
chịu khó của người lớn tuổi trong công việc, kể cả việc học tập chữ Chăm.
98
Xét theo nghề nghiệp, có 44 người nông dân chiếm 97,7% số học viên
bỏ học. Nguyên nhân chính của tình trạng trên là do hầu hết các học viên đều
bị ảnh hưởng bởi thời kỳ cao điểm của vụ mùa - thời điểm từ tháng 4 đến
tháng 5 hàng năm, người làm nông phải tập trung nhiều công sức cho việc
gieo trồng. Chỉ có công chức là không bỏ học, còn đủ 10/10 người theo học.
Đây cũng là điều để các nhà quản lý giáo dục suy nghĩ tìm biện pháp cho
việc vận động học viên cố gắng ra lớp học và lựa chọn thời điểm thích hợp để
tổ chức lớp học hay có thể cho học viên nghỉ học trong một thời hạn nhất định
khi gặp phải các thời kỳ cao điểm như ở vụ mùa hoặc dịp lễ Tết…
2.6.5. Về chất lượng học chữ Chăm của người lớn tuổi
BẢNG 2.16: THỐNG KÊ CHẤT LƯỢNG LỚP HỌC CHỮ CHĂM
NGƯỜI LỚN TUỔI
(Đến 05/5/2007)
Giỏi Khá T.bình Yếu Cộng
STT ĐƠN VỊ
SL % SL % SL % SL % SL
01 Ma Lâm 8 53.4 5 33.3 2 13.3 0 0 15
02 Hàm Phú 14 53.8 12 46.2 0 0 0 0 26
03 Hàm Trí 5 17 10 33 15 50 0 0 30
Cộng 27 38.0 27 38.0 17 24.0 0 0 71
( Nguồn: Phòng Giáo dục và Đào tạo và Đào tạo huyện Hàm Thuận Bắc)[20]
99
0
2
4
6
8
10
12
14
16
BIỂU ĐỒ 2.14: CHẤT LƯỢNG LỚP HỌC CHỮ CHĂM
(ĐẾN 05/5/2007)
Ma Lâm 8 5 2 0
Hàm Phú 14 12 0 0
Hàm Trí 5 10 15 0
Giỏi Khá Trung bình Yếu
Nhận xét về chất lượng học:
Qua số liệu ở bảng 3.16 cho thấy tỉ lệ học viên loại trung bình chỉ
chiếm 24%, loại khá và giỏi đạt 76%. Nguyên nhân chủ yếu để đạt được kết
quả khá cao như trên là do sự nổ lực của người học, sự nhiệt tình của người
dạy. Mặt khác, người học chỉ tập trung vào một môn học nên có thời gian để
học. Một số người đã bỏ học, ngoài nguyên nhân khách quan do ảnh hưởng
vụ mùa, thường là họ chưa thật sự ham học, có thể là do họ học chưa tốt nên
chưa cảm thấy thích thú trong học tập.
Ngành Giáo dục cần nghiên cứu, quy định cụ thể việc đánh giá kết quả
học tập của người học. Qua đó, giáo viên nhìn nhận kết quả học tập của học
viên và khả năng giảng dạy của mình, đây cũng là cơ sở để các cấp quản lý
giáo dục xem xét hoạt động dạy học và đánh giá hiệu quả của việc tổ chức lớp
học chữ Chăm.
100
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Kết luận
- Trình độ chữ Chăm trong cộng đồng người Chăm ở huyện Hàm
Thuận Bắc còn rất thấp, có hơn 90% người Chăm mù chữ Chăm, nhất là trong
những người có trình độ học vấn phổ thông thấp thuộc tầng lớp làm nghề
nông, nữ giới và ở độ tuổi trên 35 tuổi.
- Phần lớn người Chăm có nhu cầu cao về việc học chữ Chăm, nhất là ở
độ tuổi 21 - 30, sự suy nghĩ của họ khá chín chắn. Họ bắt đầu ý thức sâu sắc
hơn về sự cần thiết và ý nghĩa của việc học chữ Chăm. Như vậy, Nhu cầu học
tập chữ Chăm của người Chăm ở huyện Hàm Thuận Bắc là một thực tế, thể
hiện nguyện vọng chính đáng của số đông đồng bào dân tộc Chăm.
- Mục đích học chữ Chăm của người Chăm đã được khẳng định một
cách rõ ràng, trước tiên, nhằm để bảo tồn tiếng nói và chữ viết của dân tộc
Chăm, qua đó tìm hiểu phong tục tập quán của người Chăm góp phần giữ gìn
bản sắc văn hoá của cộng đồng các dân tộc Việt Nam.
- Những người Chăm có quyết tâm học chữ Chăm đã đề nghị các hình
thức học chữ Chăm phù hợp với điều kiện sống của từng địa bàn cư trú; mong
muốn được nhà nước cung cấp dụng cụ học tập và hỗ trợ sách giáo khoa chữ
Chăm để họ có điều kiện tốt hơn trong học tập. Ngoài ra, họ còn tình nguyện
tham gia dạy chữ Chăm hay giới thiệu những người trình độ chữ Chăm và tư
cách đạo đức để tham gia giảng dạy chữ Chăm cho họ.
- Tuy đã có chủ trương chung của Nhà nước về việc dạy chữ dân tộc
thiểu số cho người dân tộc thiểu số, nhưng việc dạy chữ Chăm chưa được cụ
thể hoá, chưa được xem là một vấn đề cần phải quản lý một cách khoa học.
101
- Việc Quản lý dạy chữ Chăm cho người Chăm trình bày trong luận văn
này bước đầu làm sáng tỏ những vấn đề về lý luận, phù hợp với thực tiễn
chính thực tiễn của địa bàn huyện Hàm Thuận Bắc.
- Việc giảng dạy chữ Chăm bước đầu đã được sự giúp đỡ của chính
quyền địa phương, được đa số tầng lớp tham gia học tập, tạo nên sự tin tưởng
trong cộng đồng người Chăm về khả năng quản lý của ngành giáo dục.
- Qua gần một năm học chữ Chăm, những người tham gia học tập đã
gần kết thúc khoá học xoá mù chữ Chăm. Hy vọng từ đây người dân Chăm có
thể tìm hiểu tốt hơn về phong tục tập quán qua các văn bản cổ và tiếp thu
những thông tin cần thiết qua tiếng nói và chữ viết của người Chăm trên các
phương tiện thông tin đại chúng.
2. Phần kiến nghị
2.1. Đối với Bộ Giáo dục và Đào tạo
Tổ chức biên soạn chương trình, sách Giáo khoa và sách hướng dẫn
giảng dạy phục vụ việc giảng dạy chữ Chăm cho người Chăm lớn tuổi ở tỉnh
Bình Thuận (Có thể dùng cho cả tỉnh Ninh Thuận).
2.2. Đối với Uỷ ban nhân dân tỉnh Bình Thuận
- Chỉ đạo Sở Giáo dục và Đào tạo về việc thực hiện chương trình học
chữ Chăm, sách giáo khoa học chữ Chăm cho người lớn tuổi trong giai đoạn
hiện nay trong khi chờ Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành chính thức chương
trình học chữ Chăm cho người lớn tuổi.
- Quy định chế độ làm việc, việc trả lương, tiền bồi dưỡng cho các giáo
viên trực tiếp đứng lớp giảng dạy chữ Chăm cho người lớn tuổi. Tiếp tục
nghiên cứu việc chi kinh phí về công tác tổ chức lớp xoá mù chữ Chăm cho
người lớn tuổi như là một lớp xoá mù chữ phổ thông, để tạo điều kiện cho
102
người Chăm học tập, góp phần thực hiện tốt chính sách ngôn ngữ của Đảng
và Nhà nước.
2.3. Đối với Sở Giáo dục và Đào tạo Bình Thuận:
* Tiếp tục trình Uỷ ban nhân dân tỉnh duyệt cấp kinh phí hằng năm về
việc mở lớp giảng dạy chữ Chăm cho người Chăm lớn tuổi như là một lớp
xoá mù chữ phổ thông.
* Trình UBND tỉnh quy định chế độ làm việc, trả lương, tiền bồi dưỡng
cho các giáo viên trực tiếp đứng lớp giảng dạy chữ Chăm cho người lớn tuổi.
* Chỉ đạo việc mở lớp học chữ Chăm cho người Chăm lớn tuổi, xem
đây là một việc làm thường xuyên trong công tác xoá mù chữ nói chung, xoá
mù chữ Chăm nói riêng.
* Bên cạnh kế hoạch đào tạo giáo viên dạy tiếng Chăm cho các em học
sinh trong trường tiểu học, cần kết hợp để đào tạo đủ số giáo viên giảng dạy
chữ Chăm cho người lớn tuổi.
* Quy định và hướng dẫn thực hiện các vấn đề về chuyên môn trong
quản lý giảng dạy chữ Chăm như:
- Về hồ sơ sổ sách: Giáo án, sổ điểm, sổ đầu bài, sổ chủ nhiệm…
- Về cách đánh giá kết quả học tập của học viên: số con điểm cần
kiểm tra, cách tính điểm, cách xếp loại học tập, điều kiện được lên lớp…
- Việc cấp giấy chứng nhận khi học hết lớp, hết cấp học.
- Chế độ thông tin báo cáo về tình hình tổ chức, giảng dạy chữ
Chăm cho người lớn tuổi.
* Quy định trách nhiệm của Phòng Giáo dục và Đào tạo, của trường
tiểu học trong các khâu quản lý việc dạy chữ Chăm cho người Chăm lớn tuổi.
Quy định chế độ trách nhiệm của giáo viên đứng lớp giảng dạy chữ Chăm,
103
giáo viên chuyên trách xoá mù chữ và cán bộ quản lý trường học khi tổ chức
mở lớp giảng dạy chữ Chăm.
2.4. Với Uỷ ban nhân dân huyện Hàm Thuận Bắc
* Chỉ đạo việc bổ sung Quy định trách nhiệm, quyền hạn của Phòng
Giáo dục và Đào tạo trong công tác quản lý Nhà nước về giáo dục, đó là
nhiệm vụ quản lý việc dạy chữ Chăm cho người Chăm lớn tuổi.
* Quan tâm tốt hơn đến việc xây dựng phòng học, trang bị bàn ghế cho
các lớp học chữ Chăm của người Chăm lớn tuổi.
2.5. Phòng giáo dục và Đào tạo Hàm Thuận Bắc
* Tiếp tục thử nghiệm quản lý việc dạy chữ Chăm cho người Chăm lớn
tuổi để tìm giải pháp tốt nhất, có hiệu quả nhất cho hoạt động này.
* Kiến nghị với Sở Giáo dục và Đào tạo Bình Thuận về các vần đề liên
quan đến chế độ chính sách của người dạy, người học; bổ sung các quy định
về chuyên môn trong quản lý hoạt động giảng dạy chữ Chăm cho người
Chăm lớn tuổi.
۞ Hướng phát triển của đề tài
Đề tài sẽ được tiếp tục nghiên cứu và thử nghiệm trên địa bàn huyện
Hàm Thuận Bắc để hoàn thiện. Tác giả luận văn mong muốn các cấp quản lý
giáo dục ở tỉnh, huyện nơi có đông đồng bào Chăm sinh sống bổ sung nhiệm
vụ quản lý giáo dục, nhiệm vụ quản lý việc dạy chữ Chăm cho người Chăm
lớn tuổi, nhằm góp phần bảo tồn và phát huy nền văn hoá Việt Nam tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc./.
104
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đức Anh (2006), “Bảo tồn tiếng nói, chữ viết dân tộc Chăm”, Báo
Nhân dân, (ngày 12-11-2006), trang 5.
2. Bộ Giáo dục (1972), “Thông tư 19/TT ngày 18/02/1972 hướng dẫn
thực hiện quyết định số 53/CP của chính phủ về dạy chữ dân tộc
trong ngành giáo dục”.
3. Bộ Giáo dục - Đào tạo (1997), “Thông tư số 01/GDĐT ngày
03/02/1997 hướng dẫn dạy tiếng nói chữ viết dân tộc thiểu số”.
4. Bộ Giáo dục - Đào tạo (1997), “Thông tư số 14/GDĐT ngày
05/08/1997 hướng dẫn tiêu chuẩn và thể thức kiểm tra, đánh giá
kết quả chống mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học”.
5. Bộ Giáo dục - Đào tạo (2000), “Điều lệ Trường Tiểu học”(Ban hành
kèm theo Quyết định số 22/QĐ-BGDĐT ngày 11/7/2000 của Bộ
trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo).
6. Bộ Giáo dục - Đào tạo (2006), “Đạo đức và phương pháp giáo dục
đạo đức ở Tiểu học”, Nxb Giáo dục.
7. Nông Quốc Chấn, Huỳnh Ái Vinh (2002), “Văn hóa các dân tộc Việt
Nam thống nhất mà đa dạng”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
8. Hoàng Thị Châu (2007), “Tình hình và chính sách xây dựng và phổ
cập chữ viết các dân tộc thiểu số ở Việt Nam”, Bách khoa toàn
thư mở Wikipedia.
9. Chính phủ (1962), “Nghị định 206/CP về dạy chữ dân tộc trong
trường lớp phổ thông và xóa mù chữ”.
10. Chính phủ (1980), “Quyết định số 53/CP về chủ trương chữ viết đối
với các dân tộc thiểu số”.
105
11. Chính phủ (2001), “Nghị định số 35/2001/NĐ-CP ngày 09/07/2001
về chính sách đối với nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục công tác
ở trường chuyên biệt, ở vùng có điều kiện kinh tế – xã hội đặc
biệt khó khăn”.
12. Đảng Cộng Sản Việt Nam (1940), “Nghị quyết trung ương năm
1940”, Văn kiện Đảng, Nxb Sự Thật, Hà Nội -1963.
13. Đảng Cộng Sản Việt Nam (1941), “Nghị quyết Trung ương lần thứ 8
của Đảng Cộng sản Đông dương”, Văn kiện Đảng, Nxb Sự Thật,
Hà Nội-1963.
14. Hội đồng Bộ trưởng (1990), “Chỉ thị 01/HĐBT ngày 02/01/1990 của
về công tác xóa nạn mù chữ”.
15. Inrasara (1994), “Văn học Chăm: Khái luận, văn tuyển”, Nxb Văn
hóa Dân tộc.
16. Inrasara (2003), “Tự học tiếng Chăm, Nxb văn hóa Dân tộc.
17. Inrasara (2003), “Văn hóa – xã hội Chăm”, Nxb Văn học.
18. Hoàng Văn Ma (2002), “Ngôn ngữ dân tộc thiểu số Việt Nam - Một
số vấn đề quan hệ cội nguồn và loại hình học”. Nxb Khoa học
xã hội, Hà Nội.
19. Phòng Giáo dục và Đào tạo Hàm Thuận Bắc (2006), “Báo cáo thống
kê tình hình cán bộ công chức viên chức năm học 2006-2007”,
Trưởng phòng Giáo dục và Đào tạo kí ngày 01/10/2006.
20. Phòng Giáo dục và Đào tạo Hàm Thuận Bắc (2007), “Báo cáo tình
hình hoạt động lớp học chữ Chăm của người lớn tuổi đến tháng
5/2007”, Trưởng phòng Giáo dục và Đào tạo kí ngày 01/6/2007.
21. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2005), “Luật
106
giáo dục”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
22. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1991), “ Luật
phổ cập giáo dục tiểu học”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
23. Sở Giáo dục và Đào tạo Bình Thuận (2001), “Về việc mở lớp dạy
tiếng Chăm”, Công văn số 877/TH do Giám đốc Sở Giáo dục và
Đào tạo kí ngày 17/10/2001.
24. Sở Giáo dục và Đào tạo Bình Thuận (2006), “Về việc trả lời tờ trình
số 294/PGD”, Công văn số 462/SGDĐT-KHTC do Giám đốc Sở
Giáo dục và Đào tạo kí ngày 10/11/2006.
25. Sở Tài chính Bình Thuận (2007), “Về kinh phí công tác tổ chức dạy
chữ Chăm cho đồng bào Chăm”, Công văn số 3108/STC-HCSN
do Giám đốc Sở tài chính kí ngày 19/6/2007.
26. Bùi Khánh Thế (1996), “Ngữ pháp tiếng Chăm”, Nxb Giáo dục.
27. Thôn Lâm Thuận thuộc xã Hàm Phú huyện Hàm Thuận Bắc tỉnh
Bình Thuận (2004), “Tờ trình về việc đề nghị mở lớp dạy chữ
Chăm”, Thôn trưởng thôn Lâm Thuận kí ngày 05/01/2004.
28. Vương Toàn (2002), “Nghiên cứu ngôn ngữ các dân tộc thiểu số phía
Nam trong những năm 1990”, Nxb Đại học quốc gia, Hà Nội.
29. Nguyễn Đức Trí (2002),“Quản lý quá trình đào tạo trong nhà
trường”, Nxb Hà Nội.
30. Trường cán bộ quản lý giáo dục và đào tạo (2002), “Quản lý Nhà
nước về giáo dục và đào tạo - Giáo trình đào tạo phần III”.
31. Hoàng Tuệ (1984), “Ngôn ngữ các dân tộc thiểu Việt Nam và chính
sách ngôn ngữ”, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
32. Hoàng Tuệ (1993), “Giáo dục ngôn ngữ và sự phát triển văn hóa các
107
dân tộc thiểu số phía Nam”, Nxb khoa học xã hội, Hà Nội.
33. Uỷ Ban nhân dân huyện Hàm Thuận Bắc (2006), “Kế hoạch tiếp tục
thực hiện các mục tiêu về xây dựng, phát triển toàn diện dân
sinh, kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số giai đoạn
2006 - 2010 theo Nghị quyết 04 của Tỉnh ủy”, Công văn số
1008/KH-UBND do Chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện kí ngày
08/9/2006.
34. Viện Khoa học Xã hội Việt Nam (2007), “Bảo tồn và phát huy tiếng
nói, chữ viết dân tộc Chăm”, Bách khoa toàn thư mở Wikipedia.
108
PHỤ LỤC
PHỤ LỤC 1: BẢNG CHỮ CÁI TIẾNG CHĂM CỔ (AKHAR THRAH)
a b c d e f
g h i j k l
m
n o p q r s
t
u v w x y z
[
] ; ' . ,
/
}
{
: " ?
Z
109
^ % & * ( )
~ \
! @ # $
PHỤ LỤC 2: BẢN ĐỒ RANH GIỚI HÀNH CHÍNH BÌNH THUẬN
110
PHỤ LỤC 3: BẢN ĐỒ HÀNH CHÍNH HUYỆN HÀM THUẬN BẮC
111
PHỤ LỤC 4: PHIẾU ĐIỀU TRA
Thực trạng trình độ và nhu cầu học chữ Chăm.
----------------------
112
Xin anh (chị) vui lòng trả lời các câu hỏi sau bằng cách: Nếu thích hợp
thì đánh dấu “ X ” vào trong ô
; và ghi các điều cần thiết vào chỗ trống có
dấu chấm (………………………………..):
1. Năm sinh của anh (chị):………………; Nam
; nữ
2. Dân tộc: Chăm
; khác
3. Nghề nghiệp :……………………………………..
4. Hiện cư trú tại thôn……………………….xã…………………………
5. Trình độ văn hóa (phổ thông, bổ túc) lớp:……….
6. Trình độ chữ Chăm:
- Không biết chữ Chăm (chưa học)
- Đã học lớp …………………
- Đã học nhưng bị tái mù chữ
7. Anh (chị) đã học chữ Chăm bằng cách nào:
- Tự học
- Trường Tiểu học dạy
- Học qua lớp bổ túc
- Cách khác
8. Theo anh (chị), hiện nay có cần dạy chữ Chăm cho các anh (chị) không:
Rất cần
; Cần
; Có cũng được, không cũng được
; không cần
9. Anh (chị) học chữ Chăm để làm gì:
- Tìm hiểu phong tục, tập quán, văn hoá người Chăm
- Giữ gìn tiếng nói, chữ viết của người Chăm
- Lí do khác………………………………………………………
……………………………………………………………………
……………………………………………………………………
10. Nếu anh ( chị ) học chữ Chăm thì học bằng cách nào cho thuận tiện:
- Tự học
; Cần có thầy dạy
- Học tại nhà
; Học tại trường
- Học theo nhóm (dưới 10 người)
- Học theo lớp (từ 10 người trở lên)
- Thời điểm học : ban ngày
; ban đêm
113
- Đề nghị khác………………………………………………………..
……………………………………………………………………………….
11. Anh (chị) có đề nghị gì cho việc học chữ Chăm:
- Về dụng cụ học tập (vở, viết):
+ Người học tự lo (tự mình mua)
+ Nhà nước hỗ trợ một phần
+ Nhà nước cấp đầy đủ cho người học
+ Đề nghị khác…………………………………………………
- Về sách giáo khoa
+ Người học tự lo (tự mình mua)
+ Nhà nước hỗ trợ một phần
+ Nhà nước cho mượn
+ Nhà nước cấp cho người học
+ Đề nghị khác……………………………………………………
12. Anh (chị) có thể tham gia giảng dạy chữ Chăm:
- Được
; nếu được, dạy lớp mấy………
- không
13. Anh (chị) sẽ đề cử người giảng dạy chữ Chăm là ông (bà)
…………………………………………………………, người đó hiện ở
thôn………………………; xã…………………………………………
Xin chân thành cảm ơn anh (chị) !
--------------------------------------------
PHỤ LỤC 5: PHIẾU PHỎNG VẤN
Nhu cầu tổ chức dạy chữ Chăm.
----------------------
114
Xin anh (chị) vui lòng trả lời các câu hỏi sau bằng cách: Nếu thích hợp
thì đánh dấu “ X ” vào trong ô
; và ghi các điều cần thiết vào chỗ trống có
dấu chấm (...................................):
1. Họ và tên của anh (chị):....................................................................
2. Năm sinh:.........................; Nam
; nữ
3. Dân tộc: Chăm
; khác
4. Nghề nghiệp :.........................................................
5. Chức sắc tôn giáo hiện nay: .............................................................
6. Hiện cư trú tại thôn..................................; xã..................................
7. Trình độ văn hóa (phổ thông, bổ túc) lớp:.........
8. Trình độ tiếng Chăm:
- Không biết chữ Chăm (chưa học)
- Đã học lớp ................
- Đã học nhưng bị tái mù chữ
9. Theo anh (chị), hiện nay có cần thiết phải dạy chữ Chăm cho người
Chăm không:
Rất cần
; Cần
; Có cũng được, không cũng được
; không cần
10. Nếu tổ chức dạy chữ Chăm thì đối tượng cần phải học chữ Chăm là:
- Ở độ tuổi từ 15 đến 20 tuổi
- Ở độ tuổi từ 20 đến 25 tuổi
- Ở độ tuổi từ 25 đến 30 tuổi
- Ở độ tuổi từ 30 đến 35 tuổi
- Hơn 35 tuổi
11. Cần dạy chữ Chăm bằng loại chữ Chăm:
- Cổ (Akhar thrah) chưa sửa đổi
- Cổ (Akhar thrah) đã được sửa đổi và đang được dạy trong trường tiểu
học
- Chữ Chăm theo kiểu dùng kí tự La tinh ghi lại âm tiếng Chăm
12. Làm thế nào để tạo điều kiện thuận tiện cho người học chữ Chăm:
• Hỗ trợ sách vở, dụng cụ học tập
• Mở nhiều loại lớp học chữ Chăm
115
• Luôn động viên, khích lệ tinh thần học tập của người học
• Người lớn tuổi luôn gương mẫu trong việc học chữ Chăm
• Tìm thầy giỏi để dạy chữ Chăm
• Tất cả các biện pháp trên
• Cách khác là...............................................................................
.........................................................................................................
13. Người thầy giáo dạy chữ Chăm cần có những yếu tố nào:
• Giỏi chữ Chăm
• Đã học qua khóa đào tạo sư phạm
• Có tư cách đạo đức tốt
• Sẵn sàng tham gia dạy chữ Chăm
• Tất cả các điều trên
• Yếu tố khác:...............................................................................
14. Việc học chữ Chăm có ảnh hưởng đến sinh hoạt của người học không:
Rất ảnh hưởng
; ảnh hưởng
; không đáng kể
; không ảnh hưởng
15. Việc tổ chức học chữ Chăm sẽ thành công hay không:
- Thành công
, lí do.....................................................................
....................................................................................................................
- Không thành công
, lído............................................................
....................................................................................................................
Xin chân thành cám ơn quí anh chị !
-----------------------
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LA7091.pdf