Quản lý rủi ro từ góc độ kiểm toán nội bộ tại Ngân hàng thương mại cổ phần Phương Nam

Tài liệu Quản lý rủi ro từ góc độ kiểm toán nội bộ tại Ngân hàng thương mại cổ phần Phương Nam: ... Ebook Quản lý rủi ro từ góc độ kiểm toán nội bộ tại Ngân hàng thương mại cổ phần Phương Nam

doc101 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1178 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Quản lý rủi ro từ góc độ kiểm toán nội bộ tại Ngân hàng thương mại cổ phần Phương Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BOÄ GIAÙO DUÏC ÑAØO TAÏO TRÖÔØNG ÑAÏI HOÏC KINH TEÁ TPHCM LUAÄN VAÊN THAÏC SÓ KINH TEÁ TP.HỒ CHÍ MINH - NĂM 2008 BOÄ GIAÙO DUÏC ÑAØO TAÏO TRÖÔØNG ÑAÏI HOÏC KINH TEÁ TPHCM CHUYEÂN NGAØNH: KINH TẾ TÀI CHÍNH - NGAÂN HAØNG MAÕ SOÁ: 60.31.12 LUAÄN VAÊN THAÏC SÓ KINH TEÁ Ngöôøi höôùng daãn khoa hoïc: PGS.TS. NGUYỄN NGỌC HÙNG TP.HỒ CHÍ MINH - NĂM 2008 MỤC LỤC ˜ ™ Danh mục chữ viết tắt Danh mục các bảng Danh mục các biểu đồ Lời mở đầu CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ QUẢN LÝ RỦI RO VÀ KIỂM TOÁN NỘI BỘ TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA NHTM 1 1.1. Khái niệm và phân loại rủi ro trong hoạt động kinh doanh của NHTM 1 Khái niệm rủi ro 1 Phân loại rủi ro 1 Kiểm toán nội bộ 4 Khái niệm kiểm toán nội bộ 4 Mục tiêu, nguyên tắc và phạm vi kiểm toán nội bộ 7 Nội dung hoạt động của Kiểm toán nội bộ 8 Phương pháp thực hiện kiểm toán nội bộ 9 Vai trò của kiểm toán nội bộ đối với việc quản lý rủi ro trong NHTM 10 1.3.1. Quản lý rủi ro 10 1.3.2. Tầm quan trọng của quản lý rủi ro trong hoạt động ngân hàng 12 1.3.3. Chuẩn mực quản lý rủi ro đang được áp dụng 12 1.3.4. Vai trò của kiểm toán nội bộ đối với việc quản lý rủi ro 15 Kinh nghiệm quản lý rủi ro tại ngân hàng Ngoại hối Hàn Quốc 16 1.4.1. Chính sách quản lý rủi ro 16 1.4.2. Cơ cấu tổ chức quản lý rủi ro và quy trình quản lý rủi ro 17 1.4.3. Bài học kinh nghiệm áp dụng cho các NHTM Việt Nam 19 Tóm lược chương 1 20 CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG QUẢN LÝ RỦI RO TỪ GÓC ĐỘ KIỂM TOÁN NỘI BỘ TẠI NGÂN HÀNG TMCP PHƯƠNG NAM 21 . Khái quát về Ngân hàng TMCP Phương Nam 21 Sơ lược quá trình hình thành và phát triển 21 Một số thành tựu đến cuối năm 2007 22 Sứ mệnh – Tầm nhìn – Chiến lược hoạt động 23 Thực trạng về rủi ro tín dụng tại Ngân hàng TMCP Phương Nam 26 Thực trạng tín dụng tại Ngân hàng TMCP Phương Nam từ năm 2005 đến tháng 6/2008 26 Nguyên nhân phát sinh rủi ro tín dụng tại Ngân hàng Phương Nam .29 Những biện pháp Ngân hàng Phương Nam đã thực hiện để quản lý rủi ro tín dụng thông qua hệ thống kiểm tra, kiểm soát nội bộ 36 Thực trạng về rủi ro thanh khoản tại Ngân hàng Phương Nam 37 Điểm qua một vài thời điểm khó khăn về thanh khoản tại Ngân hàng Phương Nam và nguyên nhân phát sinh. 37 Thực trạng khả năng thanh khoản tại Ngân hàng Phương Nam 40 Một số nguyên nhân chính gây nên tình trạng khó khăn thanh khoản tại Ngân hàng Phương Nam trong thời gian qua 41 Khả năng xảy ra rủi ro thanh khoản trong thời gian tới. 43 Thực trạng về rủi ro lãi suất tại Ngân hàng TMCP Phương Nam 44 Diễn biến lãi suất từ năm 2005 đến tháng 06/2008 44 Ảnh hưởng của việc biến động lãi suất và nguyên nhân phát sinh rủi ro 48 Những biện pháp Ngân hàng Phương Nam đã thực hiện để quản lý rủi ro lãi suất thông qua hệ thống kiểm tra, kiểm soát nội bộ ... 51 Thực trạng rủi ro từ những tỷ lệ an toàn đảm bảo trong hoạt động của Ngân hàng Phương Nam 51 Điểm qua một số tỷ lệ đảm bảo an toàn trong hoạt động của Ngân hàng Phương Nam 51 Những điểm phù hợp, chưa phù hợp với chuẩn mực của Việt Nam và thông lệ quốc tế. 52 Những rủi ro khác 54 Đánh giá chung về vấn đề nhận diện rủi ro từ công tác kiểm toán nội bộ tại ngân hàng TMCP Phương Nam 54 Ưu điểm của kiểm toán nội bộ trong việc nhận diện và quản lý rủi ro tại ngân hàng Phương Nam 56 Nhược điểm của công tác kiểm toán nội bộ tại Ngân hàng TMCP Phương Nam 57 Tóm lược chương 2 62 CHƯƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP QUẢN LÝ RỦI RO TỪ GÓC ĐỘ KIỂM TOÁN NỘI BỘ TẠI NGÂN HÀNG TMCP PHƯƠNG NAM 63 Giải pháp đối với Ngân hàng TMCP Phương Nam 63 Giải pháp hoàn thiện công tác kiểm toán nội bộ tại Ngân hàng Phương Nam 63 Các giải pháp hỗ trợ khác 72 Giải pháp đối với Ngân hàng Nhà nước 82 Giải pháp về công tác kiểm toán nội bộ tại NHTM 82 Các giải pháp hỗ trợ công tác kiểm toán nội bộ tại các NHTM 84 Giải pháp đối với các cơ quan khác 86 Tóm lược chương 3 87 Kết luận DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT ˜ ™ ATC: trung tâm đào tạo và ứng dụng Ngân hàng Phương Nam CIC: trung tâm thông tin ứng dụng ngân hàng KEB: ngân hàng ngoại hối Hàn Quốc KTKSNB&PC: kiểm tra kiểm soát nội bộ và pháp chế NHNN: ngân hàng Nhà nước NHTM: ngân hàng thương mại TCTD: tổ chức tín dụng TMCP: thương mại cổ phần TPHCM: thành phố Hồ Chí Minh DANH MỤC CÁC BẢNG SỐ LIỆU ˜ ™ Bảng 2.1: Phân loại dư nợ từ 2005 đến tháng 6/2008 theo thời hạn cho vay. Bảng 2.2: Phân loại dư nợ từ 2005 đến tháng 6/2008 theo loại tiền. Bảng 2.3: Phân loại dư nợ từ 2005 đến tháng 6/2008 theo nhóm nợ Bảng 2.4: Tỷ lệ khả năng chi trả của Ngân hàng Phương Nam Bảng 2.5: Hệ số chênh lệch lãi suất tại Ngân hàng Phương Nam Bảng 2.6: Một số tỷ lệ đảm bảo an toàn từ năm 2005 đến tháng 6/2008. DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ ˜ ™ Biểu đồ 2.1: Diễn biến lãi suất huy động VND từ 2005 đến tháng 6/2008 Biểu đồ 2.2: Diễn biến lãi suất huy động USD từ 2005 đến tháng 6/2008 LỜI MỞ ĐẦU ™ ¯ ˜ Trong những năm gần đây, nhất là sau khi gia nhập vào tổ chức thương mại thế giới (WTO) thì mức độ hội nhập của Việt Nam vào nền kinh tế quốc tế ngày càng sâu và rộng, trong đó, tài chính ngân hàng là một trong những lĩnh vực có nhiều thay đổi nhất. Sự hội nhập ấy mang đến cho ngành ngân hàng Việt Nam những cơ hội mới trong việc học hỏi, tiếp thu kinh nghiệm quản lý cũng như tận dụng công nghệ tiên tiến, phát triển nhiều sản phẩm dịch vụ từ những quốc gia phát triển. Bên cạnh đó, việc thiếu kinh nghiệm thực tế, lúng túng trong cách điều hành và kiểm soát các hoạt động ngân hàng trong điều kiện mới đã tạo nên những rủi ro ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của các ngân hàng thương mại Việt Nam. Do đó, song song với mục tiêu tăng trưởng và phát triển, quản lý tốt các rủi ro để đảm bảo tạo ra một môi trường kinh doanh ổn định đang là áp lực lớn của tất cả các ngân hàng thương mại nói chung tại Việt Nam. Xuất phát từ mục tiêu đó, cần phải có một công cụ hữu hiệu để các ngân hàng thương mại có thể quản lý và kiểm soát các loại rủi ro hiện có, đồng thời ngăn chặn việc phát sinh những rủi ro mới. Thực hiện công tác kiểm toán nội bộ hiệu quả là giải pháp tối ưu mang tính chiến lược và cấp thiết trong điều kiện hiện nay. Tuy nhiên, thực tế hoạt động kiểm toán nội bộ tại ngân hàng mới được đề cập và áp dụng trong vài năm gần đây và quá trình thực hiện còn nhiều lúng túng, thiếu kinh nghiệm về cả l‎ý luận lẫn thực tiễn. Do đó, kiểm toán nội bộ tại hầu hết các ngân hàng thương mại đều chưa được quan tâm đúng mức để phát huy tác dụng trong việc quản lý rủi ro. Chính vì yêu cầu đó từ thực tế, cần có một nghiên cứu về vấn đề quản lý rủi ro từ góc độ kiểm toán nội bộ nhằm góp phần quan trọng trong việc đảm bảo an toàn hoạt động của ngân hàng thương mại. Trong phạm vi của đề tài, việc nghiên cứu này được thực tiện tại Ngân hàng thương mại cổ phần Phương Nam (Southern Bank) liên quan đến các loại rủi ro: rủi ro tín dụng, rủi ro thanh khoản, rủi ro lãi suất và rủi ro từ các tỷ lệ đảm bảo an toàn trong hoạt động của ngân hàng. Các loại rủi ro còn lại chỉ được nêu lên mà không đi vào phân tích cụ thể (rủi ro tỷ giá hối đoái, rủi ro hoạt động …). Song song đó, đề tài cũng đánh giá thực trạng quản lý rủi ro từ việc sử dụng công cụ kiểm toán nội bộ và đề xuất những gói giải pháp thực hiện quản lý rủi ro tại ngân hàng Phương Nam để đảm bảo đưa ngân hàng Phương Nam phát triển an toàn, ổn định và bền vững. Đó cũng là mục tiêu nghiên cứu của đề tài. Những nghiên cứu đi từ l‎ý luận đến thực tiễn, có ý nghĩa trong việc giúp ngân hàng Phương Nam quản lý rủi ro. Trên cơ sở tìm hiểu các loại rủi ro; nghiên cứu chức năng, nhiệm vụ và nội dung của hoạt động kiểm toán nội bộ; cùng với việc phân tích những rủi ro đã và đang tồn tại ở Ngân hàng Phương Nam, đề tài đã luận giải được những nguyên nhân phát sinh các loại rủi ro và kiến nghị một số giải pháp để khắc phục những nguyên nhân đó và hạn chế việc xuất hiện những rủi ro khác trong thời gian tới. Kết cấu nội dung đề tài gồm 3 chương: Chương 1: Tổng quan về quản lý rủi ro và kiểm toán nội bộ trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại. Chương 2: Thực trạng quản lý rủi ro từ góc độ kiểm toán nội bộ tại Ngân hàng TMCP Phương Nam. Chương 3: Một số giải pháp quản lý rủi ro từ góc độ kiểm toán nội bộ tại Ngân hàng TMCP Phương Nam. CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ QUẢN LÝ RỦI RO VÀ KIỂM TOÁN NỘI BỘ TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI Khái niệm rủi ro và phân loại rủi ro: Khái niệm rủi ro: * Rủi ro: là một sự không chắc chắn hay một tình trạng bất ổn. Tuy nhiên không phải sự không chắc chắn nào cũng là rủi ro. Chỉ có những tình trạng không chắc chắn nào có thể ước đoán được xác suất xảy ra mới được xem là rủi ro. Những tình trạng không chắc chắn nào chưa từng xảy ra và không thể ước đoán được xác suất xảy ra được xem là sự bất trắc chứ không phải rủi ro. Rủi ro vừa mang tính tích cực vừa mang tính tiêu cực: rủi ro có thể mang đến cho con người những tổn thất, mất mát, nguy hiểm; nhưng cũng có thể mang đến cơ hội, thời cơ. Nếu tích cực nghiên cứu, nhận dạng, đo lường rủi ro, chúng ta có thể tìm ra được những biện pháp phòng ngừa, hạn chế những tiêu cực và phát huy được những cơ hội tích cực mang lại từ rủi ro. * Rủi ro trong kinh doanh ngân hàng: Đó là những biến cố không mong đợi mà khi xảy ra sẽ dẫn đến những tổn thất về tài sản của ngân hàng, giảm sút lợi nhuận thực tế so với dự kiến hoặc phải bỏ ra thêm một khoản chi phí để có thể hoàn thành được một nghiệp vụ tài chính nhất định. Phân loại rủi ro: Rủi ro tín dụng Rủi ro tín dụng là loại rủi ro phát sinh trong quá trình cấp tín dụng của ngân hàng, biểu hiện trên thực tế qua việc khách hàng không còn khả năng chi trả hoặc trả nợ không đúng hạn. Lưu ý rằng trong hoạt động ngân hàng, thực hiện nghiệp vụ cho vay thì đó mới chỉ là một giao dịch chưa hoàn thành. Giao dịch tín dụng chỉ được xem là hoàn thành khi nào ngân hàng thu hồi về được khoản cho vay cả gốc và lãi. Tuy nhiên khi thực hiện giao dịch tín dụng ngân hàng không biết chắc được giao dịch đó có hoàn thành hay không. Do đó rủi ro tín dụng thể hiện ở khả năng hay xác suất hoàn thành giao dịch tín dụng đó. Như vậy, rủi ro tín dụng có thể xuất hiện trong các mối quan hệ mà trong đó ngân hàng là chủ nợ, mà khách nợ lại không thực hiện hoặc không đủ khả năng thực hiện nghĩa vụ trả nợ khi đến hạn. Nó diễn ra trong quá trình cho vay, chiết khấu công cụ chuyển nhượng và giấy tờ có giá, cho thuê tài chính, bão lãnh, bao thanh toán của ngân hàng. Đây còn được gọi là rủi ro mất khả năng chi trả và rủi ro sai hẹn, là loại rủi ro liên quan đến chất lượng hoạt động tín dụng của ngân hàng. Rủi ro thanh khoản Đây là loại rủi ro xuất hiện khi ngân hàng thiếu khả năng chi trả, không chuyển đổi kịp các loại tài sản ra tiền hoặc không có khả năng vay mượn để đáp ứng nhu cầu của các hợp đồng thanh toán. Một trong những nhiệm vụ quan trọng của bất kỳ ngân hàng nào là đảm bảo khả năng thanh khoản đầy đủ. Nghĩa là các ngân hàng có sẵn lượng vốn khả dụng trong tay hoặc có thể tiếp cận dễ dàng các nguồn vốn vay mượn bên ngoài với chi phí hợp lý và đúng lúc cần thiết, hoặc có thể nhanh chóng bán bớt một số tài sản ở mức giá thỏa đáng để đáp ứng kịp thời nhu cầu vốn cho hoạt động kinh doanh. Ngày nay công tác quản trị thanh khoản trở nên quan trọng hơn trước đây rất nhiều. Bởi vì một ngân hàng có thể bị đóng cửa nếu không đáp ứng đủ nhu cầu thanh khoản, mặc dù về mặt kỹ thuật, nó vẫn có khả năng trả nợ. Hơn nữa, năng lực quản trị thanh khoản là thước đo quan trọng về tính hiệu quả tổng thể để đạt được mục tiêu dài hạn của ngân hàng. Rủi ro tỷ giá hối đoái: Rủi ro tỷ giá là rủi ro phát sinh do sự biến động tỷ giá theo chiều hướng bất lợi cho ngân hàng, làm ảnh hưởng đến giá trị kỳ vọng trong tương lai. Rủi ro tỷ giá có thể phát sinh trong nhiều hoạt động khác nhau của ngân hàng. Nhưng nhìn chung bất cứ hoạt động nào mà ngân lưu thu phát sinh bằng một loại đồng tiền trong khi ngân lưu chi phát sinh bằng một loại đồng tiền khác đều chứa đựng nguy cơ rủi ro tỷ giá. Rủi ro lãi suất Rủi ro lãi suất là loại rủi ro phát sinh do sự biến động của lãi suất thị trường hoặc của những yếu tố có liên quan đến lãi suất dẫn đến tổn thất về tài sản hoặc làm giảm thu nhập của ngân hàng. Loại rủi ro này phát sinh trong quan hệ tín dụng của tổ chức tín dụng mà theo đó tổ chức tín dụng có những khoản đi vay hoặc cho vay theo lãi suất thả nổi. Nếu ngân hàng đi vay theo lãi suất thả nổi, khi lãi suất thị trường tăng khiến chi phí của ngân hàng tăng theo và ngược lại. Rủi ro lãi suất đặc biệt quan trọng khi ngân hàng huy động vốn thông qua phát hành trái phiếu hoặc đầu tư tài chính khá lớn và theo lãi suất thị trường. Rủi ro tác nghiệp (rủi ro hoạt động): Rủi ro tác nghiệp xảy ra do nguyên nhân thiếu hoặc có nhưng không hiệu quả của các quy trình nội bộ, con người hoặc hệ thống, hoặc xảy ra do các sự kiện bên ngoài, gây tổn thất cho ngân hàng. Mỗi ngân hàng tùy thuộc vào mục tiêu quản lý rủi ro của mình mà có thể xây dựng định nghĩa riêng về rủi ro tác nghiệp trong ngân hàng mình. Rủi ro thị trường: Đây là loại rủi ro tổn thất tài sản, xảy ra khi có sự thay đổi của các điều kiện thị trường hay những biến động của thị trường làm ảnh hưởng đến lãi suất, tỷ giá ngoại hối, giá chứng khoán mà ngân hàng đang đầu tư... Kiểm toán nội bộ Khái niệm: Kiểm toán: là quá trình thu thập và đánh giá bằng chứng về những thông tin được kiểm tra nhằm xác định và báo cáo về mức độ phù hợp giữa thông tin đó với các chuẩn mực đã được thiết lập. Quá trình kiểm toán phải được thực hiện bởi các kiểm toán viên có đủ năng lực và độc lập. Hệ thống kiểm tra, kiểm soát nội bộ: (1) là tập hợp các cơ chế, chính sách, quy trình, quy định nội bộ, cơ cấu tổ chức của tổ chức tín dụng được thiết lập trên cơ sở phù hợp với quy định pháp luật hiện hành và được tổ chức thực hiện nhằm đảm bảo phòng ngừa, phát hiện, xử lý kịp thời các rủi ro và đạt được các mục tiêu mà tổ chức tín dụng đã đặt ra. Kiểm toán nội bộ: (2) là hoạt động kiểm tra, rà soát, đánh giá một cách độc lập, khách quan đối với hệ thống kiểm tra, kiểm soát nội bộ, đánh giá độc lập về tính thích hợp và sự tuân thủ các chính sách, thủ tục quy trình đã được thiết lập trong tổ chức tín dụng, thông qua đó đơn vị thực hiện kiểm toán nội bộ đưa ra các kiến nghị, tư vấn nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của các hệ thống, các quy trình, quy định, góp phần đảm bảo tổ chức tín dụng hoạt động an toàn, hiệu quả, đúng pháp luật. (1) Điều 2, quyết định 36/2006/QĐ – NHNN ngày 01/08/2006 (2) Điều 2, quyết định 37/2006/QĐ – NHNN ngày 01/08/2006 Bộ phận kiểm toán nội bộ là đơn vị chuyên trách thực hiện hoạt động kiểm toán nội bộ của tổ chức tín dụng. Công tác kiểm toán nội bộ do nhân viên của chính tổ chức tín dụng thực hiện, có thể thực hiện cả ba phương pháp kiểm toán là kiểm toán hoạt động, kiểm toán tuân thủ và kiểm toán báo cáo tài chính, với thế mạnh là kiểm toán hoạt động. Để có thể hoạt động hữu hiệu, bộ phận kiểm toán nội bộ cần được tổ chức độc lập với bộ phận được kiểm toán. Tuy nhiên, do kiểm toán viên nội bộ là nhân viên của tổ chức tín dụng nên kết quả kiểm toán nội bộ chỉ có giá trị đối với tổ chức tín dụng và thường không đạt sự tin cậy của Ngân hàng Nhà nước hoặc các đối tác khác (nếu có). Phương pháp kiểm toán: d1/ Kiểm toán hoạt động: là tiến trình kiểm tra và đánh giá về sự hữu hiệu và tính hiệu quả của một hoạt động để đề xuất phương án cải tiến. Ở đây sự hữu hiệu là mức độ hoàn thành nhiệm vụ hay mục tiêu, còn tính hiệu quả là sự so sánh giữa kết quả đạt được và nguồn lực đã sử dụng. Đối tượng của loại hình này rất đa dạng, có thể bao gồm: Kiểm tra việc huy động, phân phối, sử dụng một cách tiết kiệm và có hiệu quả các nguồn lực (nhân lực, vật tư, hàng hoá, tài sản, tiền vốn…) của đơn vị. Kiểm tra tính hiệu quả của hoạt động sản xuất, kinh doanh; phân phối và sử dụng thu nhập; kết quả bảo toàn và phát triển vốn. Kiểm tra và đánh giá tính hiệu quả hoạt động của các bộ phận chức năng trong việc thực hiện các mục tiêu kinh doanh của đơn vị. Do tính đa dạng của kiểm toán hoạt động, nên người ta không thể đưa ra chuẩn mực chung để đánh giá, mà chuẩn mực sẽ được xác định tuỳ theo từng đối tượng cụ thể của cuộc kiểm toán và theo nhận thức của kiểm toán viên. Vì vậy, nếu các chuẩn mực kiểm toán không được xác định một cách rõ ràng và chặt chẽ, việc kiểm tra và đưa ra ý kiến có thể phụ thuộc vào chủ quan của kiểm toán viên. d2/ Kiểm toán tuân thủ: là việc kiểm tra nhằm đánh giá mức độ chấp hành một quy định nào đó ví dụ như văn bản pháp luật, văn bản hay quy định của đơn vị được kiểm toán. Đối tượng của loại này có thể bao gồm: Kiểm tra tính tuân thủ luật pháp, chính sách, chế độ tài chính kế toán, chế độ quản lý nhà nước và tình hình chấp hành các chính sách, nghị quyết, quyết định hay quy chế của Hội đồng quản trị, Ban giám đốc. Kiểm tra tính tuân thủ các quy định về nguyên tắc, quy trình nghiệp vụ, thủ tục quản lý của toàn bộ cũng như của từng khâu công việc của từng bộ phận trong hệ thống Kiểm soát nội bộ. Kiểm tra sự chấp hành các nguyên tắc, các chính sách, các chuẩn mực kế toán từ khâu lập chứng từ, vận dụng hệ thống tài khoản, ghi sổ kế toán, tổng hợp thông tin và trình bày báo cáo tài chính, báo cáo kế toán quản trị đến lưu trữ tài liệu kế toán. Chuẩn mực dùng để đánh giá là những văn bản liên quan như: Luật thuế, các văn bản pháp quy, các nội quy, các hợp đồng… d3/ Kiểm toán báo cáo tài chính: là sự kiểm tra và trình bày ý kiến nhận xét về báo cáo tài chính của một đơn vị. Do báo cáo tài chính bắt buộc phải lập theo các chuẩn mực kế toán và chế độ kế toán hiện hành, nên chuẩn mực và chế độ kế toán được sử dụng làm thước đo trong kiểm toán báo cáo tài chính. Kiểm toán báo cáo tài chính thường được thực hiện bởi các kiểm toán viên độc lập, và kết quả kiểm toán để phục vụ cho đơn vị, Nhà nước và bên thứ ba, trong đó chủ yếu là cho nhà đầu tư, ngân hàng, nhà cung cấp và các cổ đông … Phân loại theo chủ thể kiểm toán: gồm có kiểm toán nội bộ, kiểm toán của Nhà nước và kiểm toán độc lập. Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài, luận văn chỉ tập trung chủ yếu về kiểm toán nội nộ. Mục tiêu, chức năng, nguyên tắc và phạm vi kiểm toán nội bộ: (3) - Mục tiêu và chức năng cơ bản của kiểm toán nội bộ bao gồm: Đánh giá độc lập về tính thích hợp và sự tuân thủ các chính sách, thủ tục quy trình đã được thiết lập trong tổ chức tín dụng. Kiểm tra, rà soát, đánh giá mức độ đầy đủ, tính hiệu lực và hiệu quả của hệ thống kiểm tra, kiểm soát nội bộ, nhằm cải tiến và hoàn thiện hệ thống kiểm tra, kiểm soát nội bộ. Nhằm thực hiện mục tiêu này, đơn vị thực hiện kiểm toán nội bộ được khuyến khích thực hiện hoạt động tư vấn, tham gia vào quá trình xây dựng, cải tiến và hoàn thiện hệ thống kiểm tra, kiểm soát nội bộ với điều kiện không được vi phạm nguyên tắc độc lập, khách quan. - Các nguyên tắc cơ bản của kiểm toán nội bộ: Tính độc lập: bộ phận kiểm toán nội bộ độc lập với các đơn vị, các bộ phận điều hành, tác nghiệp của tổ chức tín dụng; hoạt động kiểm toán nội bộ độc lập với các hoạt động điều hành, tác nghiệp của tổ chức tín dụng. Tính khách quan: bộ phận kiểm toán nội bộ, kiểm toán viên nội bộ phải đảm bảo tính khách quan, trung thực, công bằng, không định kiến khi thực hiện nhiệm vụ kiểm toán nội bộ. Tính chuyên nghiệp: kiểm toán viên nội bộ phải là người có kiến thức, trình độ và kỹ năng kiểm toán nội bộ cần thiết, không kiêm nhiệm các cương vị, các công việc chuyên môn khác của tổ chức tín dụng. (3) Điều 3,4,10 của quyết định 37/2006/QĐ – NHNN ngày 01/08/2006 - Phạm vi kiểm toán nội bộ: Kiểm toán tất cả các hoạt động, các quy trình nghiệp vụ và các đơn vị, bộ phận của tổ chức tín dụng. Kiểm toán đặc biệt và tư vấn theo yêu cầu của Hội đồng quản trị, Ban Kiểm soát. Nội dung hoạt động của Kiểm toán nội bộ (4) Nội dung chính của hoạt động kiểm toán nội bộ là kiểm tra, đánh giá tính đầy đủ, hiệu lực và hiệu quả của hệ thống kiểm tra, kiểm soát nội bộ. Tùy theo quy mô, mức độ rủi ro cũng như yêu cầu cụ thể của từng tổ chức tín dụng, kiểm toán nội bộ có thể rà soát, đánh giá những nội dung sau: Mức độ đầy đủ, tính hiệu lực và hiệu quả của hệ thống kiểm tra, kiểm soát nội bộ. Việc áp dụng, tính hiệu lực, hiệu quả của các quy trình nhận dạng, phương pháp đo lường và quản lý rủi ro, phương pháp đánh giá vốn. Hệ thống thông tin quản lý và hệ thống thông tin tài chính, bao gồm cả hệ thống thông tin điện tử và dịch vụ ngân hàng điện tử. Tính đầy đủ, kịp thời, trung thực và mức độ chính xác của hệ thống hạch toán kế toán và các báo cáo tài chính. Cơ chế đảm bảo sự tuân thủ các quy định của pháp luật, quy định về các tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động của tổ chức tín dụng, các quy định nội bộ, các quy trình, quy tắc tác nghiệp, quy tắc đạo đức nghề nghiệp. Cơ chế, quy định, quy trình quản trị, điều hành, tác nghiệp của tổ chức tín dụng. Đánh giá tính kinh tế và hiệu quả các các hoạt động, tính kinh tế và hiệu quả của việc sử dụng các nguồn lực, qua đó xác định mức độ phù hợp giữa (4) Điều 11 của quyết định 37/2006/QĐ – NHNN ngày 01/08/2006 kết quả hoạt động đạt được và mục tiêu hoạt động đề ra. Các biện pháp đảm bảo an toàn tài sản. Thực hiện các nội dung khác có liên quan đến chức năng, nhiệm vụ của kiểm toán nội bộ, theo yêu cầu của Hội đồng quản trị và Ban Kiểm Soát. Phương pháp thực hiện kiểm toán nội bộ: (5) Phương pháp thực hiện kiểm toán nội bộ là phương pháp kiểm toán "định hướng theo rủi ro", ưu tiên tập trung nguồn lực để kiểm toán các đơn vị, bộ phận, quy trình được đánh giá có mức độ rủi ro cao. Kiểm toán nội bộ phải xác định, phân tích, đánh giá những rủi ro và xây dựng hồ sơ rủi ro cho từng hoạt động của tổ chức tín dụng. Hồ sơ rủi ro bao gồm toàn bộ các rủi ro tiềm tàng, tác động có thể có của các rủi ro đó đối với hoạt động của tổ chức tín dụng và khả năng xảy ra những rủi ro đó. Dựa trên đánh giá về tác động, khả năng xảy ra của các rủi ro; từng rủi ro được phân loại thành rủi ro cao, trung bình hoặc thấp. Việc đánh giá, phân loại rủi ro phải được thực hiện ít nhất một năm một lần. Kết quả đánh giá rủi ro sẽ là căn cứ để Trưởng Kiểm toán nội bộ làm việc với Ban Kiểm soát, Tổng giám đốc và Hội đồng quản trị trong quá trình lập kế hoạch kiểm toán nội bộ hàng năm. Các rủi ro sẽ được xếp hạng theo thứ tự từ cao đến thấp, trong đó những hoạt động được coi là có rủi ro cao sẽ được ưu tiên tập trung nhiều nguồn lực, thời gian hơn để kiểm toán, được kiểm toán trước và được kiểm toán thường xuyên hơn các hoạt động có rủi ro thấp hơn. Kế hoạch kiểm toán nội bộ phải được xây dựng dựa trên kết quả đánh giá rủi ro và phải được cập nhật, thay đổi, điều chỉnh phù hợp với các diễn biến, thay đổi trong hoạt động của tổ chức tín dụng và sự thay đổi của các rủi ro đi kèm theo. (5) Điều 6 của quyết định 37/2006/QĐ – NHNN ngày 01/08/2006 Vai trò của kiểm toán nội bộ đối với việc quản lý rủi ro trong NHTM Quản lý rủi ro: Theo chính sách quản lý rủi ro của Ủy ban Basel thì “Quản lý rủi ro là một quá trình liên tục cần được thực hiện ở mọi cấp độ của một tổ chức tài chính và là yêu cầu bắt buộc để các tổ chức tài chính có thể đạt được các mục tiêu đề ra và duy trì khả năng tồn tại và sự minh bạch về tài chính”. Quan điểm khác cho rằng cần quản lý tất cả mọi loại rủi ro của ngân hàng một cách toàn diện: “Quản lý rủi ro là quá trình tiếp cận rủi ro một cách khoa học, toàn diện và có hệ thống nhằm nhận dạng, kiểm soát, phòng ngừa và giảm thiểu những tổn thất, mất mát, những ảnh hưởng bất lợi của rủi ro. Quản lý rủi ro bao gồm các bước: nhận dạng rủi ro, phân tích rủi ro, đo lường rủi ro, kiểm soát, phòng ngừa rủi ro và tài trợ rủi ro”. Cụ thể các bước của quản lý rủi ro: Nhận dạng rủi ro: là quá trình xác định liên tục và có hệ thống các hoạt động kinh doanh của ngân hàng, bao gồm các công việc: theo dõi, xem xét, nghiên cứu môi trường hoạt động và toàn bộ mọi hoạt động của ngân hàng nhằm thống kê được tất cả các rủi ro, không chỉ những loại rủi ro đã và đang xảy ra, mà còn dự báo được những dạng rủi ro mới có thể xuất hiện đối với ngân hàng, trên cơ sở đó đề xuất những giải pháp kiểm soát và tài trợ rủi ro thích hợp. Để nhận dạng rủi ro, nhà quản trị phải lập được bảng liệt kê tất cả các dạng rủi ro đã, đang và sẽ có thể xuất hiện đối với ngân hàng bằng các phương pháp sau: lập bảng câu hỏi nghiên cứu về rủi ro và tiến hành điều tra, phân tích các báo cáo tài chính, phương pháp lưu đồ, thanh tra hiện trường, phân tích các hợp đồng, làm việc với các cơ quan Nhà nước, các ban, ngành có liên quan. Phân tích rủi ro: là phải xác định được những nguyên nhân gây ra rủi ro nhằm tìm ra biện pháp hữu hiệu để phòng ngừa rủi ro trên cơ sở tìm ra những nguyên nhân, tác động đến các nguyên nhân làm thay đổi chúng, từ đó sẽ phòng ngừa rủi ro một cách hữu hiện hơn. Đo lường rủi ro: gồm thu thập số liệu, phân tích, đánh giá; trên cơ sở đó lập ma trận đo lường rủi ro. Để đánh giá mức độ quan trọng của rủi ro người ta đánh giá cả hai tiêu chí: tần suất xuất hiện của rủi ro và biên độ của rủi ro, trong đó tiêu chí thứ hai đóng vai trò quyết định. Kiểm soát, phòng ngừa rủi ro: là công việc trọng tâm của công tác quản trị. Đó là việc sử dụng các biện pháp, kỹ thuật, công cụ, chiến lược, các chương trình hoạt động để ngăn ngừa, né tránh, hoặc giảm thiểu những tổn thất, những ảnh hưởng không mong đợi có thể xảy ra với ngân hàng. Có các biện pháp kiểm soát rủi ro như: né tránh rủi ro, ngăn ngừa tổn thất, giảm thiểu tổn thất, chuyển giao rủi ro, đa dạng rủi ro, quản trị thông tin … Tài trợ rủi ro: khi rủi ro xảy ra, trước hết cần theo dõi, xác định chính xác những tổn thất về tài sản, về nguồn nhân lực, về giá trị pháp lý. Sau đó cần có những biện pháp tài trợ rủi ro thích hợp. Các biện pháp này được chia thành 2 nhóm: tự khắc phục rủi ro và chuyển giao rủi ro. Ngoài ra, việc quản trị rủi ro cần dựa trên 9 nguyên tắc cơ bản sau: (1) chấp nhận rủi ro, (2) điều hành rủi ro cho phép, (3) quản lý độc lập các rủi ro riêng biệt, (4) sự phù hợp giữa mức độ rủi ro cho phép và mức độ thu nhập, (5) sự phù hợp giữa mức độ rủi ro cho phép và khả năng tài chính, (6) hiệu quả kinh tế, (7) hợp lý về thời gian, (8) phù hợp với chiến lược chung của ngân hàng, (9) chuyển đẩy các loại rủi ro không cho phép. Căn cứ vào 9 nguyên tắc trên, mỗi ngân hàng xây dựng cho mình một chính sách quản trị rủi ro riêng biệt, phải xây dựng được một hệ thống phòng chống từ xa, đưa ra được giải pháp nhằm điều tiết các tác động xấu đến tình hình tài chính của ngân hàng. Tầm quan trọng của quản lý rủi ro trong hoạt động ngân hàng Trong giai đoạn hiện nay, khi mà ngành tài chính - ngân hàng đang hội nhập ngày càng sâu và rộng vào nền kinh tế quốc tế, yêu cầu đặt ra đối với việc quản lý và kiểm soát những rủi ro phát sinh trong quá trình quản trị ngân hàng là vô cùng cần thiết và cấp bách đối với tất cả các ngân hàng thương mại tại Việt Nam nói chung và với Ngân hàng TMCP Phương Nam nói riêng. Hậu quả của việc quản lý rủi ro yếu kém có thể gây tổn thất về tài sản cho ngân hàng như: không thu hồi được vốn vay, tăng chi phí hoạt động, giảm sút lợi nhuận; làm mất lòng tin của khách hàng đối với ngân hàng; gây ra việc rút tiền hàng loạt, ảnh hưởng đến khả năng thanh khoản của ngân hàng. Khi một ngân hàng không đủ khả năng thanh khoản thì con đường dẫn đến phá sản rất ngắn. Ngoài ra, nó còn kéo theo sự hoảng loạn của hàng loạt các ngân hàng khác trong hệ thống tài chính - ngân hàng trong nước. Ở mức độ hội nhập và toàn cầu hóa như hiện nay thì nền kinh tế của mỗi quốc gia đều phụ thuộc vào nền kinh tế khu vực và thế giới. Do đó, ngân hàng ở một nước xảy ra rủi ro, nhất là rủi ro tín dụng, có thể ảnh hưởng đến hệ thống tài chính ngân hàng cũng như toàn bộ nền kinh tế của nước đó và cả những nền kinh tế của các nước có liên quan. Chính vì đặc thù đó của ngành ngân hàng, việc quản lý rủi ro tại các ngân hàng thương mại là hết sức cần thiết cho hiện tại và cho cả tương lai. Chuẩn mực quản lý rủi ro đang được áp dụng Năm 1988, Ủy Ban Basel về giám sát ngân hàng (The Basel Committee on Banking Supervision) đã ban hành hệ thống đo lường vốn (The Basel Capital Accord) gồm 25 nguyên tắc cơ bản về giám sát ngân hàng (Basel I). Tuy nhiên, sau một thời gian áp dụng, các nguyên tắc Basel I đã thể hiện một số nhược điểm. Cụ thể là chỉ cung cấp một thước đo duy nhất về rủi ro vốn cho các ngân hàng đang hoạt động trên quy mô quốc tế thông qua chỉ tiêu vốn tự có trên tài sản có điều chỉnh theo rủi ro (CAR ³ 8%) mà không xem xét đến tính chất rủi ro khác nhau của những ngân hàng, của các khoản cho vay và của nhiều yếu tố khác. Đồng thời việc áp dụng Basel I cũng chưa thể giúp các nước ngăn chặn khủng hoảng tài chính tiền tệ. Ủy ban Basel đã ban hành khung đo lường rủi ro (Basel II) vào tháng 01 năm 2001 và có hiệu lực vào cuối năm 2006, thay thế hiệp ước Basel I. Basel II gồm một loạt các chuẩn mực giám sát nhằm hoàn thiện các kỹ thuật quản trị rủi ro và được cấu trúc theo 3 cấp độ: (i) yêu cầu tỷ lệ vốn tối thiểu đối với rủi ro tín dụng và rủi ro hoạt động, (ii) đưa ra các hướng dẫn liên quan đến quá trình giám sát, (iii) yêu cầu các ngân hàng cung cấp thông tin cơ bản liên quan đến vốn, rủi ro để đảm bảo khuyến khích các nguyên tắc của thị trường. Hiệp ước Basel II nhấn mạnh đến phương pháp kiểm soát, đánh giá nội bộ trong bản thân mỗi ngân hàng, quy trình giám sát và quy tắc thị trường; tăng cường sự linh hoạt trong việc quản lý rủi ro và chú ‎trọng hơn đến độ nhạy cảm rủi ro. Hiệp ước đã chỉ ra cụ thể khái niệm cũng như cách đo lường các loại rủi ro như rủi ro tín dụng, rủi ro thị trường, rủi ro hoạt động. Ủy ban Basel khuyến khích mỗi ngân hàng cần phải xây dựng một quy trình theo dõi, quản lý rủi ro tác nghiệp chi tiết và cụ thể. Cần tiến hành theo dõi thường xuyên mọi mặt hoạt động, mọi mắt xích trong quá trình giao dịch nhằm đưa ra các báo cáo cảnh báo về những khiếm khuyết, thiếu sót hoặc sai sót trong mọi chính sách kinh doanh, quy trình tác nghiệp trong ngân hàng. Tuy việc tiếp cận những chuẩn mực của Basel II đòi hỏi kỹ thuật phức tạp, trong khi hệ thống ngân hàng Việt Nam còn đang ở giai đoạn phát triển ban đầu, nhưng Basel II cũng đã ảnh hưởng đến yêu cầu về quản lý rủi ro của các ngân hàng thương mại Việt Nam. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hiện đã ban hành nhiều quyết định để từng bước hướng tới những tiêu chuẩn đo lường rủi ro, giám sát ngân hàng theo các chuẩn mực của Basel II. Nội dung của các quyết định này yêu cầu các tổ chức tín dụng áp dụng các trọng số rủi ro của tài sản, tiến dần đến những đánh giá mang các yếu tố định tính; khẩn trương xây dựng hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ; dự phòng được chia thành dự phòng chung và dự phòng cụ thể. Bao gồm các quyết định: Quyết định 457/2005/QĐ-NHNN ngày 19/04/2005 “Quy định về các tỷ lệ đảm bảo an toàn trong hoạt động của TCTD” ._. Quyết định 03/2007/QĐ-NHNN ngày 19/01/07 - sửa đổi bổ sung một số điều của quyết định 457 Quyết định 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/04/2005 - “Quy định về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro trong hoạt động ngân hàng của TCTD” Quyết định 18/2007/QĐ-NHNN ngày 25/04/2007 - sửa đổi, bổ sung một số điều của QĐ 493 Với xu thế hội nhập và tự do hóa hoạt động ngân hàng với nhiều loại hình dịch vụ mới, áp dụng Basel II là yêu cầu cấp thiết và bắt buộc đối với mọi ngân hàng thương mại, trên cơ sở đó sẽ tăng cường năng lực hoạt động và giảm thiểu rủi ro của các ngân hàng. Hiện tại hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam đang áp dụng theo phương pháp đánh giá rủi ro tín dụng dựa trên Hiệp ước Basel I, và mới chỉ thực hiện được một phần Basel I. Hoạt động thanh tra, giám sát của Ngân hàng Nhà nước đang đặt mục tiêu sẽ vận dụng đầy đủ các quy tắc giám sát của Basel I trước năm 2010. Do đó, các ngân hàng thương mại Việt Nam cần phải một thời gian tương đối dài để có thể vận dụng những phương pháp đo lường rủi ro của Basel II vào hoạt động giám sát rủi ro. Vai trò của kiểm toán nội bộ đối với việc quản lý rủi ro Kiểm toán nội bộ ngày nay không chỉ chịu trách nhiệm kiểm toán báo cáo tài chính, tập trung vào công tác kiểm tra kế toán và thông tin tài chính của doanh nghiệp. Vai trò của kiểm toán nội bộ hiện đại được mở rộng, bao gồm công tác kiểm toán tính hiệu quả và tính tuân thủ của mọi hoạt động cũng như tư vấn hoàn thiện hệ thống kiểm soát nội bộ trong ngân hàng; kiểm toán nội bộ giữ vai trò là quan sát viên độc lập, nhằm đảm bảo hoạt động của ngân hàng tuân thủ các quy định pháp luật, đạo đức kinh doanh và quy chế hoạt động của ngân hàng. Kiểm toán nội bộ còn là người giám sát, bảo trì, nâng cấp hệ thống kiểm soát nội bộ trong vai trò đảm bảo hiệu quả kinh doanh và xây dựng các thủ tục kiểm soát cần thiết; là công cụ giúp phát hiện và cải tiến những điểm yếu của hệ thống kiểm tra kiểm soát nội bộ của ngân hàng. Nhờ đó, Ban điều hành và Hội đồng quản trị có thể kiểm soát hoạt động và quản lý rủi ro tốt hơn, tăng khả năng đạt được các mục tiêu kinh doanh khi quy mô và độ phức tạp trong hoạt động ngân hàng vượt quá tầm kiểm soát trực tiếp của họ. Có thể nói, kiểm toán nội bộ là một công cụ giúp phát hiện và cải tiến những điểm yếu trong hệ thống quản lý của ngân hàng, nhận diện và dự báo những rủi ro có thể xảy ra thông qua việc đánh giá tính đầy đủ, hiệu quả và hiệu lực của hệ thống kiểm tra, kiểm soát nội bộ. Bộ phận kiểm toán nội bộ thực hiện tư vấn cho Hội đồng quản trị, Ban điều hành và các bộ phận nghiệp vụ thực hiện các dự án xây dựng, áp dụng mới hay sửa đổi những quy trình nghiệp vụ quan trọng, cơ chế quản trị điều hành, quy trình nhận dạng, đo lường, đánh giá rủi ro; quản lý rủi ro, phương pháp đánh giá vốn; hệ thống thông tin, hạch toán kế toán, thực hiện các nghiệp vụ, sản phẩm mới - với điều kiện không ảnh hưởng đến tính độc lập của kiểm toán nội bộ. Bên cạnh đó, công tác kiểm toán nội bộ hiệu quả còn làm gia tăng niềm tin của các cổ đông và các nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán vào hệ thống quản trị rủi ro của ngân hàng. Như vậy, công tác kiểm toán nội bộ thực sự là công cụ hữu hiệu giúp Hội đồng quản trị và ban điều hành đảm bảo thực hiện cân đối 3 mục tiêu: tăng trưởng, hiệu quả và kiểm soát. Kinh nghiệm quản lý rủi ro tại ngân hàng Ngoại hối Hàn Quốc Ngân hàng Ngoại hối Hàn Quốc (Korea Exchange Bank – KEB) là một trong các ngân hàng uy tín nhất trong hệ thống ngân hàng Hàn Quốc với hơn 3.000 đại lý tại 142 nước, trong đó có Việt Nam. Lợi nhuận tăng trưởng bình quân hàng năm trong 6 năm gần đây đạt 38%. Chính sách quản lý rủi ro của KEB gồm các công việc: Tối đa hóa danh tiếng KEB và tăng lợi nhuận có cân nhắc đặc biệt đến các rủi ro có liên quan, trên cơ sở tìm kiếm cơ hội và các phương án kinh doanh mới Quản lý rủi ro và quản lý nghiệp vụ độc lập với nhau Quản lý rủi ro bao quát toàn bộ các hoạt động kinh doanh của KEB trên cơ sở ứng dụng các phương pháp quản lý rủi ro định tính và định lượng Quản lý các rủi ro định lượng thông qua các hạn mức và bản danh sách kiểm tra. Định kỳ xem xét lại hạn mức và các bản danh sách kiểm tra. Các phương pháp, công cụ và dữ liệu quản lý rủi ro được chia sẻ trong toàn hệ thống ngân hàng Đa dạng hóa rủi ro một cách hợp lý phù hợp với chiến lược rủi ro tín dụng của KEB Xây dựng, quản lý, đào tạo đội ngũ cán bộ tác nghiệp. Cơ cấu tổ chức quản lý rủi ro và quy trình quản lý rủi ro Cơ cấu tổ chức quản lý rủi ro của KEB được bố trí từ Hội sở đến các đơn vị phụ thuộc như sau: Sơ đồ: cơ cấu tổ chức quản lý‎ rủi ro tại KEB Hội đồng quản lý rủi ro Hội đồng thẩm định rủi ro Hội đồng điều hành Hội đồng tín dụng Hội đồng chuyên viên Các giao dịch ngoại tệ Tài khoản tín thác Rủi ro tín dụng Hội đồng quản lý rủi ro: xây dựng mục tiêu, chiến lược, nhiệm vụ kinh doanh, rủi ro; trong đó xác định rõ trước những rủi ro và lợi nhuận của ngân hàng nhằm thiết lập một hệ thống kiểm soát và quản trị rủi ro hiệu quả Hội đồng thẩm định rủi ro tín dụng, hội đồng điều hành, hội đồng tín dụng: tổ chức giám sát chặt chẽ các hoạt động kinh doanh theo quy trình, quy chế tín dụng. Đánh giá thường xuyên mức độ rủi ro của hoạt động kinh doanh, đưa ra các biện pháp nhằm giảm thiểu, hạn chế tối đa rủi ro, tổn thất dự đoán trước. Đồng thời xem xét giải quyết và quyết định những rủi ro hệ thống. Hội đồng chuyên viên: phân tích, thẩm định, dự báo, đo lường, đánh giá định kỳ rủi ro và các bộ phận nghiệp vụ rủi ro ngoại tệ, tín thác, tín dụng tác nghiệp theo từng mảng nghiệp vụ chuyên biệt qua các hồ sơ, báo cáo, các bản danh sách kiểm tra của các phòng ban, tổ tác nghiệp Với cơ cấu tổ chức chặt chẽ, tách bạch khỏi hoạt động kinh doanh nên hệ thống quản lý rủi ro của KEB phát huy hiệu quả và giảm thiểu rủi ro, do việc cảnh báo tổn thất dự đoán trước được thực hiện trước khi đưa ra các phán quyết tín dụng. Quản lý rủi ro của KEB: Chương trình quản lý rủi ro của KEB gồm 4 yếu tố: Xác định hạn mức rủi ro Đánh giá rủi ro Theo dõi rủi ro Quy trình quản lý rủi ro Phương pháp định lượng rủi ro: Phương pháp thống kê Dựa vào kinh nghiệm về rủi ro của các chuyên gia Tính toán, phân tích, dự báo Công tác theo dõi, kiểm tra, kiểm soát rủi ro do một bộ phận trực thuộc Hội đồng quản trị độc lập với bộ phận kiểm soát nội bộ của KEB đảm nhiệm, có nhiệm vụ theo dõi, kiểm soát chặt chẽ diễn biến, tình hình thực hiện quy trình quản trị rủi ro. Hệ thống báo cáo quản lý rủi ro được KEB xây dựng có hiệu quả và hiệu lực, cho phép thông tin tới được tất cả các cấp ra quyết định tín dụng và hội đồng rủi ro đơn vị phụ thuộc. Bài học kinh nghiệm áp dụng cho các NHTM Việt Nam: Xây dựng cơ cấu tổ chức quản lý rủi ro phù hợp với quy mô và mục tiêu hoạt động của từng ngân hàng. Xem xét sử dụng các phương pháp, công cụ định tính và định lượng để đo lường và dự đoán rủi ro trong quá trình hoạt động ngân hàng. Tách bạch và chuyên trách vai trò của các thành viên trong Hội đồng quản lý rủi ro, đặc biệt là các thành viên trong Hội đồng tín dụng không được là thành viên Hội đồng quản lý rủi ro. Đẩy mạnh công tác kiểm toán nội bộ trong việc kiểm tra, giám sát hoạt động kinh doanh của ngân hàng để ngăn ngừa rủi ro. Xây dựng hệ thống kiểm soát và quản lý rủi ro riêng biệt với hệ thống quản lý tín dụng trực thuộc Hội đồng quản trị. Xây dựng nhanh, áp dụng hiệu quả hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ nhằm hỗ trợ tốt cho công tác quản lý rủi ro. Thực hiện các khuyến nghị của Ủy ban Basel về giám sát ngân hàng. Xây dựng, đào tạo đội ngũ chuyên gia và quản lý rủi ro vì theo kinh nghiệm KEB thì không có phương pháp phân tích phức tạp, hiện đại nào có thể thay thế được kinh nghiệm và đánh giá của chuyên gia trong quản lý rủi ro Tóm lược chương 1 Nội dung chương 1 đã đưa ra cơ sở lý‎ luận về rủi ro, phân loại rủi ro, quản lý rủi ro và khái quát về công tác kiểm toán nội bộ trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại. Đồng thời, chương 1 cũng đã nêu bật được tầm quan trọng của quản lý rủi ro cũng như vai trò của công tác kiểm toán nội bộ trong việc quản lý những rủi ro đó. Song song đó, việc đưa ra một số chuẩn mực về quản lý rủi ro đang được áp dụng giúp người đọc có cái nhìn tổng quát về quá trình quản lý rủi ro của các ngân hàng thương mại theo thông lệ chung trên thế giới. Trên cơ sở lý luận nêu trên, chương kế tiếp sẽ đi vào chi tiết thực trạng về rủi ro và quản lý rủi ro từ góc độ kiểm toán nội bộ, nêu ra một số nguyên nhân phát sinh những rủi ro đó và đánh giá ưu, khuyết điểm của việc quản lý rủi ro từ góc độ kiểm toán nội bộ tại Ngân hàng TMCP Phương Nam. CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG QUẢN LÝ RỦI RO TỪ GÓC ĐỘ KIỂM TOÁN NỘI BỘ TẠI NGÂN HÀNG TMCP PHƯƠNG NAM . Khái quát về Ngân hàng TMCP Phương Nam: Sơ lược quá trình hình thành và phát triển. Ngân hàng TMCP Phương Nam được thành lập ngày 19/05/1993 với số vốn ban đầu 10 tỷ đồng, mạng lưới tổ chức hoạt động gồm 01 Hội sở và 01 chi nhánh. Từ khi thành lập đến nay, Ngân hàng Phương Nam đã trải qua các giai đoạn phát triển: Giai đoạn từ năm 1993-1996: tập trung xây dựng, củng cố năng lực trong kinh doanh để đưa Ngân hàng vượt qua giai đoạn khó khăn ban đầu; tổ chức đào tạo đội ngũ cán bộ nhân viên giỏi nghiệp vụ, có đạo đức; hình thành hệ thống nghiệp vụ đa dạng và hoàn chỉnh tạo cơ sở vững chắc cho giai đoạn phát triển tiếp theo. Giai đoạn từ năm 1997-2003: đóng góp tích cực, đi đầu trong việc thực hiện chủ trương của Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước về việc củng cố, chấn chỉnh Ngân hàng thương mại cổ phần, Ngân hàng Phương Nam thành công trong sáp nhập 05 Ngân hàng: (i) Ngân hàng TMCP Đồng Tháp năm 1996; (ii) Ngân hàng TMCP Đại Nam năm 1999; (iii) Quỹ tín dụng Nhân dân Định Công năm 2000; (iv) Ngân hàng TMCP NT Châu Phú năm 2001; (v) Ngân hàng TMCP NT Cái Sắn năm 2003. Ngân hàng Phương Nam từ 01 hội sở, 1 chi nhánh, đến năm 2003 đã có mạng lưới rộng khắp gồm 28 chi nhánh thuộc các vùng kinh tế trọng điểm trong cả nước gồm TPHCM, Hà Nội, Đồng Tháp, An Giang, Cần Thơ. Với mạng lưới ngày càng phát triển, năng lực tài chính được nâng cao, Ngân hàng Phương Nam thực hiện đẩy mạnh các hoạt động, dịch vụ trong toàn hệ thống. Giai đoạn từ năm 2004 đến 2006: hoàn thành tốt các mục tiêu phát triển trong thời kỳ đề ra cho kế hoạch 03 năm, chuẩn bị cho quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Tầm nhìn và chiến lược phát triển từ năm 2007 đến 2010: phát triển thành tập đoàn tài chính đa năng và mạnh mẽ của khu vực bằng chiến lược phát triển phạm vi hoạt động kinh doanh sang nhiều lĩnh vực tài chính như: chứng khoán, bảo hiểm, bất động sản, …và trở thành một trong những ngân hàng bán lẻ hàng đầu của Việt Nam được công nhận trên thị trường tài chính các nước trong khu vực thông qua nỗ lực nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng, đưa ra nhiều giải pháp và phương hướng kinh doanh mới và sử dụng tối ưu nguồn tài nguyên của Ngân hàng Phương Nam (nhân lực, cơ sở hạ tầng, tài nguyên bất động sản). Một số thành tựu đến cuối năm 2007: Sau hơn 15 năm thành lập, Ngân hàng Phương Nam luôn đảm bảo sự phát triển liên tục và ổn định, thể hiện ở một số chỉ tiêu: Tổng tài sản của Ngân hàng đến 31/12/2007 đạt 17.129,590tỷ đồng, tăng 87,91% so với 31/12/2006, và tăng 549 lần so với năm đầu thành lập (năm 1993). Vốn điều lệ đạt 1.434,21 tỷ đồng. Theo kế hoạch, trong năm 2008 Ngân hàng Phương Nam sẽ tăng vốn điều lệ lên 3.000 tỷ đồng. Tổng vốn huy động đến 31/12/2007 đạt 14.661,70tỷ đồng, tăng 100,59% so với 31/12/2006, và tăng 470 lần so với năm đầu thành lập. Tổng dư nợ đến 31/12/2007 đạt 5.861,10tỷ đồng, tăng 25,63% so với 31/12/2006, và tăng 271 lần so với năm đầu thành lập. Tỷ lệ nợ xấu chiếm 2,9 % tổng dư nợ. Lợi nhuận trước thuế năm 2007 đạt 253,23tỷ đồng, tăng 34,41% so với 31/12/2006, và tăng 549 lần so với năm đầu thành lập (trong đó, thu ngoài tín dụng chiếm 14% tổng thu nhập). Ngân hàng Phương Nam luôn duy trì tỷ suất sinh lời trên tổng tài sản và tỷ suất sinh lời trên vốn chủ sở hữu ở mức cao, đảm bảo tốt quyền lợi của cổ đông, duy trì mức cổ tức hàng năm từ 10-18%/năm. Mạng lưới hoạt động của Ngân hàng Phương Nam liên tục phát triển. Tính đến 31/12/2007, mạng lưới hoạt động của Ngân hàng được mở rộng lên đến 71 đơn vị trực thuộc bao gồm 01 Trụ sở chính, 02 Sở Giao dịch, 21 chi nhánh, 39 Phòng giao dịch, 03 điểm giao dịch, và 01 Công ty trực thuộc (công ty Quản lý nợ và Khai thác tài sản có 04 Chi nhánh). Tổng số cán bộ công nhân viên Ngân hàng đến ngày 31/12/2007 có 1.241 người. Năm 2006, Ngân hàng Phương Nam đã thành lập Trung tâm Đào tạo Ứng dụng Ngân hàng Phương Nam (ATC) với mục tiêu đào tạo, huấn luyện nghiệp vụ cho cán bộ nhân viên Ngân hàng để nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng và thực hiện công việc hiệu quả, chính xác, giảm thiểu rủi ro, từng bước tiêu chuẩn hoá cán bộ quản lý các cấp, tăng cường công tác đào tạo và tái đào tạo đội ngũ nhân viên nhằm hoàn thiện hơn nữa cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Phương Nam. Một số giải thưởng và danh hiệu mà Ngân hàng Phương Nam đã đạt được trong thời gian qua: - “Thương hiệu nổi tiếng tại Việt Nam năm 2006” do người tiêu dùng bình chọn ngày 5/4/2006 - Bằng khen đã có thành tích trong công tác tổ chức, vận động, đóng góp cho các hoạt động xã hội - từ thiện của Thành phố Hồ Chí Minh do UBND TP.HCM trao tặng năm 2006 - Cúp vàng “Vì sự phát triển cộng đồng” ngày 16/7/2006. - “Achieving a High Straight- Through Rate for Payment Processing” - giải thưởng thanh toán quốc tế do Ngân hàng Wachovia trao tặng (2004 - 2005 – 2006) ngày 19/12/2006 - “Hệ thống quản lý chất lượng đạt tiêu chuẩn ISO 9001:2000” của BVQI – Vương quốc Anh ngày 26/5/2007 - Thương hiệu “Việt Nam tốt nhất” do người tiêu dùng bình chọn, báo điện tử Vietnamnet tổ chức ngày 28/8/2007. - “Ngân hàng thực hiện xuất sắc nghiệp vụ thanh toán quốc tế” do Citi Bank trao tặng ngày 28/8/2007 Sứ mệnh – Tầm nhìn – Chiến lược hoạt động - Sứ mệnh: Ngân hàng Phương Nam luôn cam kết mang đến giá trị Tín trong chất lượng từng dịch vụ, thủ tục nhanh chóng, lãi suất hấp dẫn với nhiều giá trị cộng thêm,… Cùng với tiêu chí hoạt động của mình – “Tất cả vì sự thịnh vượng của khách hàng”, Ngân hàng Phương Nam mang sứ mệnh đem sự thịnh vượng đến với cộng đồng, xã hội và đến từng khách hàng. - Tầm nhìn: Trở thành tập đoàn tài chính đa năng và là một trong những ngân hàng bán lẻ hàng đầu của Việt Nam được công nhận trên thị trường tài chính các nước trong khu vực thông qua nỗ lực nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng, đưa ra nhiều giải pháp và phương hướng kinh doanh mới, sử dụng tối ưu nguồn tài nguyên của Ngân hàng Phương Nam (nhân lực, cơ sở hạ tầng, tài nguyên bất động sản). - Chiến lược hoạt động: Phát triển thành tập đoàn tài chính đa năng và mạnh mẽ của khu vực bằng chiến lược phát triển phạm vi hoạt động sang nhiều lĩnh vực tài chính như: chứng khoán, bảo hiểm, bất động sản,… Tích cực tìm kiếm các đối tác chiến lược trong và ngoài nước để trao đổi kinh nghiệm và công nghệ, hoàn thiện các qui trình nội bộ (bao gồm quản trị doanh nghiệp và quản trị rủi ro), liên kết cùng phát triển vì mục tiêu phát triển bền vững của ngân hàng nói riêng và của cộng đồng nói chung. Tối đa hoá giá trị đầu tư của các cổ đông; giữ vững tốc độ tăng trưởng lợi nhuận và năng lực tài chính lành mạnh. Trải rộng hệ thống chi nhánh trên toàn quốc để mở rộng thị phần về các dịch vụ tài chính, làm cầu nối đưa hình ảnh ngân hàng đến gần hơn với khách hàng. Sau khi điểm qua về quá trình hình thành và phát triển của Ngân hàng Phương Nam trong những năm qua, cũng như sứ mệnh, tầm nhìn và mục tiêu phát triển của Ngân hàng Phương Nam trong thời gian tới, phần kế tiếp luận văn đi vào phân tích thực trạng về các rủi ro tại Ngân hàng Phương Nam và đánh giá về vấn đề quản lý rủi ro từ góc độ kiểm toán nội bộ. Trong giới hạn đề tài, các rủi ro được phân tích bao gồm: rủi ro tín dụng, rủi ro thanh khoản, rủi ro lãi suất và rủi ro từ những tỷ lệ đảm bảo an toàn hoạt động Ngân hàng. Những loại rủi ro còn lại như rủi ro tỷ giá hối đoái, rủi ro hoạt động, rủi ro hệ thống chỉ được nêu ra mà không đi vào phân tích cụ thể. Thực trạng về rủi ro tín dụng tại Ngân hàng TMCP Phương Nam Thực trạng tín dụng tại Ngân hàng TMCP Phương Nam từ năm 2005 đến tháng 6/2008: Thực trạng về rủi ro tín dụng sẽ được phân tích căn cứ vào việc phân loại dư nợ theo những tiêu chí khác nhau: Phân loại dư nợ theo thời hạn cho vay Bảng 2.1: Phân loại dư nợ từ 2005 đến tháng 6/2008 theo thời hạn cho vay: Đvt: triệu đồng Dư nợ 2005 2006 2007 6/2008 So sánh (+/-) 2006/2005 tỷ lệ (%) 2007/2006 tỷ lệ (%) Ngắn hạn 3.517.638 3.750.500 4.017.542 5.260.654 232.862 6,62 267.042 7,12 Trung hạn 1.145.228 829.723 1.623.864 2.524.696 - 315.505 -27,55 794.141 95,71 Dài hạn 36.727 36.127 203.290 557.196 - 600 -1,63 167.163 462,71 Vốn TTUTĐT 51.808 29.209 9.937 10.604 - 22.599 -43,62 - 19.272 -65,98 Nợ tồn đọng - 7.923 5.878 5.878 7.923 0,00 - 2.045 -25,81 Nợ khoanh 779 594 594 594 - 185 -23,75 - - Tổng 4.752.180 4.654.076 5.861.105 8.359.622 - 98.104 -2,06 1.207.029 25,93% (Nguồn: Báo cáo tình hình hoạt động của Ngân hàng Phương Nam) Nhìn chung, tỷ lệ cho vay ngắn hạn chiếm trên 70% trong cơ cấu tín dụng tại Ngân hàng Phương Nam, vòng quay vốn tín dụng nhanh. Riêng năm 2007, tổng dư nợ tăng đến gần 26% so với năm trước, đồng thời lượng vốn vay trung dài hạn đã tăng đáng kể, chiếm đến 32% tổng dư nợ. Về lâu dài ngân hàng cần có biện pháp để phát triển các khoản cho vay trung dài hạn tuy nhiên cũng cần chú trọng trong việc cân đối nguồn để cho vay trung dài hạn vì đa số lượng vốn huy động từ dân cư và các tổ chức kinh tế khác (thị trường I) đều là ngắn hạn. Cần đảm bảo tỷ lệ an toàn trong việc sử dụng nguồn vốn ngắn hạn để cho vay trung dài hạn và chấp hành nghiêm túc các quy định của ngân hàng Nhà nước. Tổng dư nợ đến 30/06/2008 đã tăng 42,6% so với cuối năm 2007, tăng đều ở tất cả các kỳ hạn. Ngân hàng Phương Nam cần có biện pháp hạn chế tín dụng, có lộ trình giảm dư nợ để đảm bảo tỷ lệ tăng trưởng tín dụng năm 2008 không quá 30% so với cuối năm 2007 theo chủ trương của Ngân hàng Nhà nước. Phân loại dư nợ theo loại tiền Bảng 2.2: Phân loại dư nợ từ 2005 đến tháng 6/2008 theo loại tiền: Đvt: triệu đồng Dư nợ 2005 2006 2007 6/2008 So sánh (+/-) 2006/2005 tỷ lệ 2007/2006 tỷ lệ VND 4.491.552 4.426.445 5.321.311 7.133.080 - 102.833 -2,29% 916.183 20,88% Vàng 76.000 129.386 235.248 909.992 53.386 70,24% 105.862 81,82% Ngoại tệ 184.628 98.245 304.546 316.550 - 86.383 -46,79% 206.301 209,99% Tổng 4.752.180 4.654.076 5.861.105 8.359.622 - 98.104 -2,06% 1.207.029 25,93% (Nguồn: Báo cáo tình hình hoạt động của Ngân hàng Phương Nam) Dư nợ vay bằng VND chiếm tỷ trọng lớn (hơn 90% tổng dư nợ), vàng và các loại ngoại tệ khác chiếm tỷ lệ nhỏ. Việc tập trung cho vay bằng VND cho thấy Ngân hàng Phương Nam chưa đa dạng hoá danh mục cho vay, chưa phân tán rủi ro trong hoạt động tín dụng và đặc biệt là mảng thanh toán quốc tế còn kém phát triển, sản phẩm dịch vụ liên quan còn nghèo nàn nên doanh số cho vay bằng ngoại tệ còn thấp. Phân loại dư nợ theo nhóm nợ. Bảng 2.3: Phân loại dư nợ từ 2005 đến tháng 6/2008 theo nhóm nợ: Đvt: triệu đồng Dư nợ 2005 2006 2007 6/2008 So sánh (+/-) 2006/2005 tỷ lệ (%) 2007/2006 tỷ lệ (%) Nhóm 1 4.567.185 4.160.453 5.376.000 8.071.742 - 406.732 -8,91 1.215.547 29,22 Nhóm 2 109.521 359.171 315.248 113.292 249.650 227,95 - 43.923 -12,23 Nhóm 3 18.774 44.000 38.632 45.953 25.226 134,37 - 5.368 -12,20 Nhóm 4 29.600 39.464 53.364 36.256 9.864 33,32 13.900 35,22 Nhóm 5 26.322 42.471 71.388 85.908 16.149 61,35 28.917 68,09 Nợ tồn đọng - 7.923 5.878 5.878 7.923 - - 2.045 -25,81 Nợ khoanh 779 594 594 594 - 185 -23,75 - 0,00 Tổng dư nợ 4.752.181 4.654.076 5.861.105 8.359.622 - 98.105 -2,06 1.207.029 25,93 Tổng nợ xấu 75.475 134.452 169.856 174.589 58.977 78,14 35.404 26,33 Nợ chú ý/TDN 2,30% 7,70% 5,37% 1,36% 5,4% - -2,33% - Nợ xấu/ TDN 1,59% 2,89% 2,90% 2,09% 1,30% - 0,01% - (Nguồn: Báo cáo tình hình hoạt động của Ngân hàng Phương Nam) Dư nợ tăng đều qua các năm nhưng tỷ trọng các nhóm nợ xấu, nợ cần chú ý cũng tăng theo, thậm chí tốc độ tăng nợ xấu còn cao hơn tốc độ tăng tổng dư nợ. Nợ cần chú ý năm 2006 tăng đến hơn gấp đôi so với năm 2005 và giảm ít vào năm 2007. Nợ thuộc nhóm này cần theo dõi chặt chẽ để tránh việc tăng tuổi nợ dẫn đến tăng dư nợ xấu. Theo khuyến cáo của Ngân hàng Nhà nước thì tỷ lệ nợ cần chú ý ở mức dưới 7% là chấp nhận được. Theo số liệu về dư nợ tại Ngân hàng Phương Nam trong 3 năm gần đây thì chỉ có năm 2006 là tỷ lệ nợ nhóm 2 ở mức 7,7%, các năm còn lại tỷ lệ này đều nằm trong mức cho phép dưới 7%. Tuy nhiên, mọi số liệu đều mang tính thời điểm. Do đó, Ngân hàng cần quan tâm hơn nữa đến nhóm nợ này để kiểm soát chất lượng tín dụng hiệu quả hơn. Nợ xấu và tỷ lệ nợ xấu: Trong 3 năm gần đây, nợ xấu liên tục tăng về cả số tuyệt đối lẫn tương đối. Trong khi tổng dư nợ năm 2007 tăng 25,93% so với năm 2006 thì tỷ lệ nợ xấu/tổng dư nợ tăng đến 26,33%. Điều này chứng tỏ Ngân hàng Phương Nam vẫn chưa chú trọng đến công tác thu hồi, xử lý các khoản nợ xấu cũng như việc hạn chế nợ xấu phát sinh đối với những hồ sơ cho vay mới. Đến cuối tháng 6/2008, tổng nợ xấu tăng ít trong khi tổng dư nợ tăng đến hơn 40% nên tỷ lệ nợ xấu giảm từ 2,9% vào cuối năm 2007 còn 2,09%. Như vậy, thực chất chất lượng tín dụng không được cải thiện. Tỷ lệ nợ xấu/ tổng dư nợ tại Ngân hàng Phương Nam đảm bảo ở mức dưới 3%. Tuy vẫn phù hợp với các tiêu chuẩn về nợ xấu do Ngân hàng Nhà nước quy định, nhưng so với một số ngân hàng thương mại cổ phần khác thì tỷ lệ này là khá cao (năm 2007 gần chạm ngưỡng 3%). Do đó, Ban lãnh đạo Ngân hàng Phương Nam cần có những giải pháp tích cực hơn nữa trong việc giảm tỷ lệ nợ xấu, mà cơ bản là giảm về số tuyệt đối, tránh trường hợp giãn nỡ cơ học tổng dư nợ để giảm tỷ lệ nợ xấu về số tương đối. Điều này rất dễ dẫn đến sai lầm trong việc mở rộng cho vay, lỏng lẻo trong công tác thẩm định hoặc mở rộng quá mức các đối tượng và điều kiện cho vay. Đây là gốc rễ phát sinh rủi ro tín dụng – một loại rủi ro quan trọng trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Nguyên nhân phát sinh rủi ro tín dụng tại Ngân hàng Phương Nam: Cũng như tất cả các tổ chức tín dụng khác, rủi ro tín dụng phát sinh trong môi trường kinh doanh gọi là rủi ro do nguyên nhân khách quan. Rủi ro xuất phát từ khách hàng và bản thân ngân hàng gọi là rủi ro do nguyên nhân chủ quan. Dưới đây là một số rủi ro tín dụng tại Ngân hàng Phương Nam bắt nguồn từ cả hai nguyên nhân trên. 2.2.2.1. Rủi ro do nguyên nhân khách quan: a) Quá trình tự do hoá tài chính và hội nhập quốc tế có thể làm cho nợ xấu gia tăng khi tạo ra một môi trường cạnh tranh gay gắt, khiến hầu hết các doanh nghiệp, những khách hàng thường xuyên của ngân hàng phải đối mặt với nguy cơ thua lỗ và quy luật chọn lọc khắc nghiệt của thị trường. Bên cạnh đó, bản thân sự cạnh tranh của các ngân hàng thương mại trong nước và nước ngoài trong môi trường hội nhập kinh tế cũng khiến cho các ngân hàng trong nước nói chung và Ngân hàng Phương Nam nói riêng, với hệ thống quản lý yếu kém gặp phải nguy cơ rủi ro nợ xấu tăng lên bởi hầu hết các khách hàng có tiềm lực tài chính lớn sẽ bị các ngân hàng nước ngoài thu hút.  b) Sự kém hiệu quả của cơ quan pháp luật cấp địa phương:  Ngân hàng Nhà nước với tư cách là cơ quan quản lý tiền tệ còn chịu nhiều chi phối trực tiếp của Chính phủ và sự can thiệp của nhiều cơ quan chức năng trong quá trình xây dựng và thực hiện chức năng quản lý và giám sát hoạt động của ngân hàng thương mại. Mức độ can thiệp hành chính vào hoạt động ngân hàng quá lớn, quyền lợi và quyền tự chủ kinh doanh của các ngân hàng thương mại chưa được đảm bảo bằng pháp luật, đặc biệt khi xảy ra tranh chấp. Trong những năm gần đây, Quốc hội, Ủy ban thường vụ quốc hội, Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước và các cơ quan liên quan đã ban hành nhiều luật, văn bản dưới luật hướng dẫn thi hành luật liên quan đến hoạt động tín dụng ngân hàng. Tuy nhiên, luật và các văn bản đã có song việc triển khai vào hoạt động ngân hàng thì lại hết sức chậm chạp và còn gặp phải nhiều vướng mắc bất cập như một số văn bản về việc cưỡng chế thu hồi nợ, cùng nhiều các quy định khác dẫn đến tình trạng ngân hàng thương mại không thể giải quyết được nợ tồn đọng, tài sản tồn đọng. Những văn bản này đều có quy định: Trong những trường hợp khách hàng không trả được nợ, NHTM có quyền xử lý tài sản đảm bảo nợ vay. Trên thực tế, các NHTM không làm được điều này vì ngân hàng là một tổ chức kinh tế, không phải là cơ quan quyền lực Nhà nước, không có chức năng cưỡng chế buộc khách hàng bàn giao tài sản đảm bảo cho ngân hàng để xử lý hoặc chuyển tài sản đảm bảo nợ vay để Tòa án xử lý qua con đường tố tụng. c) Hệ thống thông tin quản lý còn bất cập:  Hiện nay ở Việt Nam chưa có một cơ chế công bố thông tin đầy đủ về doanh nghiệp và ngân hàng. Trong tình hình cạnh tranh giữa các ngân hàng thương mại ngày càng gay gắt như hiện nay, vai trò của Trung tâm thông tin tín dụng ngân hàng (CIC) là rất quan trọng trong việc cung cấp thông tin kịp thời, chính xác để ngân hàng có các quyết định cho vay hợp lý. Tuy nhiên, Trung tâm thông tin tín dụng ngân hàng (CIC) của Ngân hàng Nhà nước chưa phải là cơ quan định mức tín nhiệm doanh nghiệp một cách độc lập và hiệu quả, thông tin cung cấp chỉ ở mức độ thống kê, chưa phát huy được tác dụng cảnh báo rủi ro, thông tin còn đơn điệu, thiếu cập nhật. Ngoài ra việc kết nối thông tin với trang Web CIC qua đường X25 của Chi cục tin học ngân hàng còn nhiều trục trặc, chưa đáp ứng được đầy đủ yêu cầu tra cứu thông tin. Đó cũng là thách thức cho hệ thống ngân hàng trong việc mở rộng và kiểm soát tín dụng cho nền kinh tế trong điều kiện thiếu một hệ thống thông tin tương xứng. Nếu các ngân hàng cố gắng mở rộng tín dụng trong điều kiện môi trường thông tin không cân xứng thì sẽ gia tăng nguy cơ nợ xấu cho hệ thống ngân hàng.  2.2.2.2. Rủi ro do nguyên nhân chủ quan: * Nguyên nhân phát sinh rủi ro từ phía khách hàng: Sử dụng vốn sai mục đích, không có thiện chí trong việc trả nợ, cố ý lừa đảo ngân hàng để chiếm đoạt tài sản mặc dù khi đến vay vốn họ có phương án kinh doanh cụ thể và khả thi. Khả năng quản lý kinh doanh kém: khi nguồn vốn vay được giải ngân, quy mô kinh doanh mở rộng nhưng tư duy quản lý kém là nguyên nhân khiến họ sử dụng nguồn vốn vay không hiệu quả, dẫn đến sự phá sản của các phương án kinh doanh đầy khả thi. Tình hình tài chính của doanh nghiệp yếu kém, thiếu minh bạch: hầu hết các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay đều có quy mô tài sản và nguồn vốn nhỏ, tỷ lệ nợ/ vốn tự có cao, chưa có thói quen ghi chép đầy đủ, chính xác, rõ ràng sổ sách kế toán. Do đó, sổ sách kế toán mà các doanh nghiệp cung cấp cho ngân hàng nhiều khi chỉ mang tính hình thức. Khi cán bộ tín dụng ngân hàng lập các bản phân tích tài chính doanh nghiệp dựa trên các số liệu được cung cấp thường thiếu tính thực tế và xác thực. Đây cũng chính là nguyên nhân vì sao các ngân hàng vẫn thường xem nặng phần tài sản thế chấp như là chỗ dựa cuối cùng để phòng chống rủi ro tín dụng. * Nguyên nhân phát sinh rủi ro từ phía ngân hàng: a. Bố trí cán bộ thiếu đạo đức và trình độ chuyên môn nghiệp vụ: Đạo đức cán bộ tín dụng là một trong các yếu tố tối quan trọng trong việc hạn chế rủi ro tín dụng. Một cán bộ kém về năng lực có thể bồi dưỡng thêm, nhưng một cán bộ tha hóa về đạo đức mà lại giỏi về nghiệp vụ thì vô cùng nguy hiểm khi được bố trí trong công tác tín dụng. Họ có thể tiếp tay với khách hàng làm giả hồ sơ vay, nâng giá trị tài sản đảm bảo lên quá cao so với thực tế, hoặc có thể lỏng lẻo trong việc thẩm định khách hàng. Tất cả những việc đó đều có thể gây khó khăn cho ngân hàng trong việc quản lý khoản vay, dẫn đến tổn thất trong việc thu hồi vốn vay. Trong những năm gần đây, việc mở rộng mạng lưới các chi nhánh của Ngân hàng Phương Nam diễn ra khá nhanh, dẫn đến việc thiếu hụt trầm trọng về nhân lực, nhất là cán bộ tín dụng. Việc đề cử cán bộ tín dụng cũ lên những vị trí quản lý trong các đơn vị mới thành lập đòi hỏi phải có một lực lượng cán bộ tín dụng khác thay thế. Trong khi đó, sự cạnh tranh về nhân lực có chất lượng trong hệ thống ngân hàng thương mại dẫn đến công tác tuyển dụng dễ dàng hơn, các điều kiện và phạm vi tuyển dụng trở nên thông thoáng hơn. Kết quả là những cán bộ tín dụng mới, do chưa có kinh nghiệm, lại không có thời gian đào tạo bài bản về chuyên môn cũng như đạo đức nghề nghiệp nên việc phân tích, đánh giá khách hàng thiếu chính xác. Và như vậy, vừa vô tình vừa cố ý, các cán bộ tín dụng này góp phần tăng thêm rủi ro tín dụng cho ngân hàng. b. Thiếu giám sát và quản lý sau khi cho vay: Cán bộ tín dụng tại Ngân hàng Phương Nam thường có thói quen tập trung nhiều công sức cho việc thẩm định trước khi cho vay mà lơi lỏng quá trình kiểm tra, kiểm soát đồng vốn sau khi cho vay. Trong tất cả các kết luận kiểm tra của thanh tra Ngân hàng Nhà nước cũng như của Phòng kiểm soát, kiểm toán nội bộ tại Ngân hàng Phương Nam thì việc “cán bộ tín dụng không kiểm tra quá trình sử dụng vốn theo quy định” là sai phạm thường gặp nhất tại tất cả các đơn vị. Theo “quy trình kiểm tra, giám sát quá trình vay vốn, sử dụng vốn vay và trả nợ” của Ngân hàng Phương Nam, thì chậm nhất là 30 ngày sau lần giải ngân đầu tiên của khách hàng, cán bộ tín dụng phải tiến hành kiểm tra tình hình sử dụng vốn vay của khách hàng. Định kỳ hàng tháng, hàng quý hoặc đột xuất cán bộ tín dụng có thể cùng lãnh đạo tiến hành kiểm tra mục đích sử dụng vốn vay, tài sản đảm bảo nợ vay của khách hàng thông qua sổ sách hạch toán, chứng từ, hóa đơn, hợp đồng do khách hàng cung cấp, và lưu trữ trong hồ sơ khách hàng. Tối thiểu 3 tháng 1 lần cán bộ tín dụng phải lập biên bản kiểm tra tình hình sử dụng vốn vay của khách hàng. Tuy nhiên việc này thường không được cán bộ tín dụng thực hiện nghiêm túc. ._. những vấn đề được kiểm toán, ghi nhận và trao đổi ngay những vấn đề phát sinh với các bên liên quan trong quá trình kiểm toán tại cơ sở. Bộ phận kiểm toán cần xây dựng hệ thống chuẩn mực báo cáo kiểm toán, trong đó chú trọng phân hạng chuẩn về mức độ rủi ro của từng vấn đề được ghi nhận và phân hạng chuẩn về mức độ rủi ro chung của cả báo cáo. Các báo cáo cần được gửi đến Hội đồng quản trị, Ban Kiểm soát và Tổng Giám đốc định kỳ, đồng thời cần có báo cáo đột xuất về những vấn đề phát sinh ngoài dự kiến và những đề xuất xử l‎ý phù hợp. Bên cạnh gói giải pháp vể kiểm toán nội bộ trên, để công tác quản lý rủi ro đạt được hiệu quả hơn nữa cần phối hợp đồng bộ nhiều giải pháp khác, trong đó, đề tài tập trung đưa ra các giải pháp về công nghệ và con người – hai yếu tố quan trọng góp phần hạn chế rủi ro trong hoạt động tại ngân hàng Phương Nam. Các giải pháp hỗ trợ khác: Giải pháp về công nghệ: a) Những giải pháp khắc phục tồn tại hiện có của Ngân hàng Phương Nam: Hiện tại Ngân hàng Phương Nam đang sử dụng chương trình core banking thông qua hệ thống TCBS để quản lý các giao dịch của khách hàng. Song ngân hàng vẫn đang sử dụng đồng thời 2 chương trình TCBS và Foxpro vì phần mềm core banking không thực hiện hạch toán được những hoạt động kế toán nội bộ. Điều này vừa lãng phí lại vừa không khoa học, tốn nhiều thời gian, nhân lực và vật lực để thực hiện bảng cân đối kế toán vào cuối mỗi kỳ. Do đó, cần sớm có giải pháp để thực hiện thống nhất một chương trình phần mềm trong toàn hệ thống bằng một số giải pháp cụ thể như sau: Liên hệ trực tiếp với nhà cung cấp phần mềm trước đây để mua tiếp các chương trình hạch toán nội bộ, bổ sung đầy đủ những module còn thiếu trong hệ thống TCBS. Đặt hàng các công ty phần mềm viết thêm những chương trình còn thiếu và tích hợp tốt với hệ thống TCBS đang sử dụng. Phát huy vai trò của Trung tâm Công nghệ thông tin trong việc thiết kế các phần mềm đơn giản hỗ trợ các phòng ban Hội sở trong quá trình tác nghiệp như quy trình quản lý cổ đông, cổ phần, cổ phiếu; hoặc hỗ trợ các đơn vị trong việc thực hiện báo cáo, xuất file, truyền file … Trong thời gian chuyển đổi số liệu sang hệ thống core banking, một số đơn vị trong hệ thống, nhất là các đơn vị ở những tỉnh miền Tây, một vài số liệu chưa khớp đúng nên đơn vị vẫn theo dõi bằng hệ thống cũ hoặc theo dõi riêng ngoài bảng Excel. Do đó, Phòng quản trị hệ thống và xử lý số liệu cần tiến hành rà soát ở từng đơn vị để hướng dẫn các đơn vị thực hiện công việc khoa học hơn. Một số giải pháp về công nghệ góp phần hiện đại hóa ngân hàng Phương Nam: Thuật ngữ hiện đại hoá ngân hàng bắt đầu xuất hiện với ý nghĩa là tìm cách “thiết lập một hệ thống tập trung hoá và tự động hoá trong các giao dịch với mục đích lấy khách hàng là trung tâm”. Có thể nói Ngân hàng Phương Nam đã thực hiện được một phần mục tiêu đó. Để tiếp tục mang lại những tiện ích cao hơn nữa cho khách hàng, cần triển khai thực hiện một số giải pháp sau: Xây dựng hệ thống xếp hạng tín dụng tự động: Rủi ro phát sinh từ sai sót và thiên vị cá nhân được loại bỏ tối đa trong hệ thống xếp hạng tự động. Như một số nước phát triển đã và đang thực hiện, theo đó, khi khách hàng cần sử dụng dịch vụ sẽ cung cấp thông tin theo mẫu định sẵn cho nhân viên tín dụng. Các tiêu chí đánh giá được chọn lọc từ thông tin dữ liệu về khách hàng trong quá khứ, chương trình phần mềm sẽ tự động phân loại khách hàng vào nhóm tín dụng phù hợp nhất. Sau đó kết quả xếp hạng được trả lại trực tiếp tới khách hàng. Thông thường, đi kèm với kết quả này là thông báo của ngân hàng về việc chấp nhận hoặc từ chối yêu cầu của khách hàng, các điều kiện về hạn mức và lãi suất… Áp dụng công nghệ này, ngoài việc giúp ngân hàng rút ngắn thời gian, tăng độ tin cậy tín dụng, nó còn giúp ngân hàng tạo cảm giác thỏa mãn cho khách hàng. Lập, lưu trữ và khai thác dữ liệu khoản cho vay: Các dữ liệu bao gồm thông tin về đối tượng vay, tài sản đảm bảo, tình hình hoạt động, tình hình tài chính của khách hàng và một số thông tin khác để xác định mức độ cạnh tranh của sản phẩm và tiềm năng sử dụng các sản phẩm khác của ngân hàng. Dữ liệu này được lập cho tất cả các khách hàng, kể cả khách hàng luôn luôn thanh toán đầy đủ, đúng hạn nợ gốc là lãi, cần lập chi tiết và theo dõi đặc biệt đối với những khoản vay trễ hạn, hoặc đối với những khách hàng có vấn đề. Thông tin về tài sản đảm bảo cần được phân loại chi tiết và theo dõi mức độ an toàn của tài sản. Dữ liệu cho một khách hàng cần lập từ 3 đến 5 năm. Khi lập được dữ liệu thì việc tổ chức lưu trữ và khai thác thông tin dữ liệu để quản lý khách hàng cần được chú trọng, cần tổ chức phân tích, rút ra tính phổ biến để quản lý nhằm nâng cao chất lượng‎ tín dụng. Đồng thời, khai thác có hiệu quả từ các báo cáo, thống kê theo hệ thống thông tin đã được nhập về kho dữ liệu. Vấn đề là các thông tin được cập nhật và lưu giữ phải chi tiết, rõ ràng, nhất là phải mang độ chính xác cao. Có như vậy thì những kết quả mang lại từ việc phân tích những thông tin này mới thực sự có hiệu quả trong quá trình quản lý rủi ro tại ngân hàng. Tóm lại, quá trình hiện đại hoá ngân hàng không chỉ là những vấn đề thuộc về công nghệ mà thực tế, chúng không tách rời khỏi các quá trình thuộc về chính sách do con người đặt ra. Hiện đại hoá ngân hàng phải song hành với việc minh bạch hoá thông tin, mà đây lại là những vấn đề khá nhạy cảm trong lĩnh vực ngân hàng. Giải pháp về con người Tiền (vốn) không đủ sức mạnh để quyết định sự thành bại của doanh nghiệp vì nó chỉ là điều kiện cần chứ chưa đủ. Con người là một nguồn lực rất cơ bản mà tiền bạc không thể mua được. Chất lượng nguồn nhân lực (trình độ chuyên môn, năng lực làm việc, đạo đức nghề nghiệp …) cũng như công tác quản trị nguồn nhân lực là một trong những yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến việc quản lý rủi ro. Do đó, cần có những chính sách về nhân sự thích hợp để hạn chế việc phát sinh rủi ro. Cụ thể đối với Ngân hàng Phương Nam: Ban hành chế độ tuyển dụng, đãi ngộ và phân công công việc hợp lý Chế độ tuyển dụng: Một sự thu hút nguồn nhân lực theo kiểu chạy đua, lôi kéo cán bộ của ngân hàng khác luôn tiềm ẩn rủi ro bởi sự thiếu bền vững, không ổn định trong cơ cấu nhân sự, phá vỡ mọi nổ lực trong việc đào tạo đội ngũ kế cận. Cần có một chính sách tuyển dụng bài bản, khoa học và theo một quy trình hợp lý, đạt chuẩn. Xác định một cơ cấu chuyên môn thích hợp trong tìm kiếm nguồn nhân lực thông qua việc tiêu chuẩn hoá các vị trí công việc, tránh quan niệm cần tuyển lao động có trình độ đại học cho mọi vị trí bởi không phải tỷ lệ lao động trong cơ cấu nguồn nhân lực có bằng cấp càng cao thì hiệu quả công việc càng tốt mà cần chú ý rằng chọn đúng người đúng việc là cách thức tốt nhất để đạt được các mục tiêu đề ra với một chi phí hợp lý. Cụ thể, đối với bộ phận giao dịch như dịch vụ, ngân quỹ, kế toán giao dịch, các yêu cầu về hình thể, phong cách giao tiếp, thái độ phục vụ cần đặt lên hàng đầu, yêu cầu trình độ chuyên môn có thể chỉ cần đòi hỏi trình độ trung cấp hoặc cao đẳng. Cán bộ thẩm định tín dụng, thanh toán quốc tế, kiểm soát, kiểm toán nội bộ nhất thiết phải có trình độ và năng lực chuyên môn tốt, nên chọn người có trình độ từ đại học trở lên và đúng chuyên ngành. Thực hiện như vậy, một mặt đảm bảo không tăng chi phí tiền lương lên quá cao, mặt khác tạo nên sự ổn định trong tổ chức, giảm áp lực cạnh tranh thu hút người lao động bởi số lượng sinh viên trình độ trung cấp, cao đẳng được đào tạo khá đông đảo. Liên kết với các trường đạo tạo về phối hợp trong công tác hỗ trợ, đào tạo, đặt hàng và tuyển dụng. Chủ động tiếp cận với các cơ sở đào tạo để lựa chọn, tài trợ cho các sinh viên đủ tiêu chuẩn, điều kiện làm việc, thực hiện các thoả thuận pháp lý và đón nhận sinh viên thực tập, đào tạo giúp cho sinh viên nhanh chóng tiếp cận với hoạt động thực tiễn, có thể bắt tay ngay vào việc khi được chính thức tuyển dụng. Chế độ đãi ngộ: Cùng với định hướng đẩy mạnh phát triển kinh doanh, Ngân hàng Phương Nam cần quan tâm chú trọng nhiều đến chính sách đãi ngộ dành cho người lao động. Việc ban hành quy chế lương cần đảm bảo tạo động lực làm việc cho toàn thể cán bộ nhân viên, khuyến khích cán bộ có trình độ chuyên môn cao, có tâm huyết với công việc, hạn chế sự cào bằng trong thu nhập giữa các đơn vị và cá nhân. Nguyên tắc phân phối thu nhập cần dựa trên mức độ tạo ra giá trị gia tăng của mỗi đơn vị đối với hệ thống, của mỗi phòng ban trong đơn vị và mỗi cá nhân trong phòng ban; đồng thời còn phải dựa trên mức độ hoàn thành công việc của từng cá nhân. Song cũng nên nghiên cứu để có sự hài hoà, tránh sự chênh lệch quá lớn khiến người lao động phát sinh nhiều tâm tư. Cần làm cho người lao động thấy rằng chính họ chứ không phải ai khác đang lao động và cống hiến vì sự phát triển của ngân hàng như chính mình làm chủ. Một số đề xuất cụ thể trong công tác đãi ngộ lao động tại Ngân hàng Phương Nam: Nghiêm túc thực hiện quy chế thi đua khen thưởng của ngân hàng Phương Nam vào cuối mỗi năm để đánh giá kết quả hoạt động của đơn vị và cá nhân trong đơn vị theo quyết định của Hội đồng quản trị đã ban hành. Các tiêu chí đánh giá công việc cần dựa trên mức độ phức tạp, đòi hỏi chất xám, mức độ rủi ro pháp lý cũng như sự hiệu quả của công việc. Đồng thời, hạn chế việc điều chỉnh, bổ sung, sửa đổi các tiêu chí đánh giá xếp loại trong quy chế thi đua khen thưởng để từng cá nhân, đơn vị rút kinh nghiệm từ năm trước và có mức phấn đấu cho năm sau. Tiến hành đánh giá xếp loại theo quý thay vì chỉ xếp loại một lần vào cuối năm như hiện tại để tạo động lực cho các đơn vị, cá nhân phấn đấu hoàn thành kế hoạch vì cả lợi ích chung và riêng. Ưu tiên xét nâng ngạch, nâng bậc không theo lịch, có chính sách trả lương thỏa đáng, chế độ khen thưởng rõ ràng, sự thăng tiến xứng đáng đối với những cá nhân, đơn vị có biểu hiện tốt, mang lại nhiều lợi ích cho ngân hàng. Để tạo sự công bằng và động lực làm việc cho cán bộ nhân viên, cần hạn chế việc bổ nhiệm cán bộ quản lý một cách cảm tính, không căn cứ vào trình độ, kinh nghiệm và hiệu quả công việc. Phân công công việc: Căn cứ vào trình độ chuyên môn, kinh nghiệm làm việc và thế mạnh của từng người mà bố trí cán bộ nhân viên vào những vị trí thích hợp để phát huy hết khả năng làm việc của họ. Cần thực hiện luân chuyển cán bộ trong cùng phòng ban nghiệp vụ hoặc các phòng có liên quan về mặt chuyên môn nhằm tạo điều kiện cho các nhân viên có khả năng nắm bắt nhiều kỹ năng nghề nghiệp, có thể hỗ trợ hoặc đảm đương công việc khi có những thay đổi trong tổ chức. Điều này cũng hạn chế những mối quan hệ không lành mạnh phát sinh sau quá trình tiếp xúc lâu dài, chứa đựng rủi ro trong những bộ phận tiềm ẩn nguy cơ tiêu cực. Tuy nhiên, việc luân chuyển cần được thực hiện sau một thời gian nhất định. Hạn chế việc thường xuyên luân chuyển cán bộ nhân viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, để tạo được một môi trường làm việc ổn định, tránh dẫn đến tâm lý hoang mang, mất lòng tin của toàn thể nhân viên đối với phong cách điều hành của đội ngũ lãnh đạo. Đào tạo và tái đào tạo đối với từng lao động đang làm việc: Môi trường kinh doanh của Ngân hàng ngày càng thay đổi do tác động của công nghệ thông tin, những kiến thức trước đây được trang bị không đủ khả năng đáp ứng nhu cầu kinh doanh hiện đại. Ngân hàng thương mại nói chung cần tiến hành bồi dưỡng cập nhật những kiến thức kinh doanh mới, phong cách giao dịch mới cho toàn thể cán bộ nhân viên. Trong năm 2006, Ngân hàng Phương Nam đã thành lập Trung tâm đào tạo và ứng dụng Ngân hàng Phương Nam (ATC) với mục tiêu đào tạo nghiệp vụ cùng với các kỹ năng cơ bản khác cho cán bộ nhân viên ngân hàng. Sau hơn 2 năm hoạt động, để bảo đảm Trung tâm đào tạo phát huy hết công suất hoạt động cũng như nhiệm vụ cơ bản, cần thực hiện một số giải pháp cụ thể sau: Việc tổ chức khoá học nhận thức cơ bản về Ngân hàng Phương Nam cần được thực hiện đối với những nhân viên vừa được tuyển dụng vào làm việc tại ngân hàng. Đồng thời, nên mời Chủ tịch Hội đồng quản trị hoặc Tổng Giám đốc tham dự để xác định rõ phương châm làm việc, mục đích công việc và nhất là nhắc nhở đạo đức, tinh thần làm việc cho các “tân binh”. Đối với những nhân viên làm việc lâu năm, tích lũy nhiều kinh nghiệm, bên cạnh những buổi hội thảo, hướng dẫn, tập huấn để cập nhật kiến thức mới, cần tổ chức các buổi nói chuyện về phong cách kinh doanh hiện đại để thay đổi tư duy truyền thống, thiết lập tư duy mới. Đào tạo nghiệp vụ ứng dụng core banking như Teller, CSR, Loan CSR đối với những nhân viên mới. Bên cạnh đó, thường xuyên có những buổi tập huấn, hoặc gửi hướng dẫn thực hiện những nghiệp vụ mới cho các nhân viên đã được đào tạo. Do phần mềm core banking chỉ mới được triển khai trong năm 2007, đối với những nhân viên lớn tuổi, nhất là những đơn vị ở các tỉnh, với trình độ vi tính hạn chế cần có những buổi đào tạo riêng. Tránh việc dạy nhanh, tăng thời gian học trong ngày, tăng khối lượng bài giảng trong giờ để giảm chi phí đào tạo, ăn ở đối với nhân viên ở tỉnh. Điều này càng làm cho họ khó khăn hơn trong việc tiếp thu cũng như vận dụng các kiến thức mới. Tổ vận hành core banking phải thường xuyên theo dõi và hướng dẫn nhân viên nghiệp vụ xử lý khi gặp sự cố. Cần nghiêm túc thực hiện quy chế tuyển dụng giảng viên nội bộ. Đây là một phương pháp có chi phí thấp do tận dụng nhân lực có sẵn; đồng thời, kinh nghiệm thực tế cũng phù hợp và theo sát với những thay đổi cụ thể các quy định của ngân hàng Phương Nam. Hiện tại quy chế đã ban hành gần một năm nhưng Trung tâm đào tạo ngân hàng Phương Nam vẫn chưa tiến hành tuyển chọn được giảng viên nội bộ nào. Bước đầu trên tinh thần tự nguyện nhưng bên cạnh đó cũng cần có cơ chế tuyển dụng bắt buộc đối với những cán bộ có trình độ, có kinh nghiệm và nhất là có khả năng truyền đạt kiến thức để các buổi đào tạo, tập huấn, hội thảo có chất lượng và thực tế hơn. Cần thường xuyên tổ chức các buổi tập huấn hướng dẫn thực hiện các quy trình, quy định mới của Ngân hàng Nhà nước và Ngân hàng Phương Nam, đảm bảo tất cả các đơn vị đều thống nhất theo một cách hiểu, thực hiện đồng bộ trong toàn hệ thống. Tổ chức các buổi hội thảo, trao đổi những vấn đề phát sinh, những khó khăn vướng mắc trong quá trình thực hiện các quy định, quy trình của Ngân hàng Nhà nước và Ngân hàng Phương Nam. Đảm bảo đào tạo đủ nhân lực thực hiện nghiệp vụ trong từng đơn vị, phòng ban trên cơ sở sử dụng lao động đúng người, đúng việc; tránh trường hợp cán bộ nhân viên kiêm nhiệm nhiều công việc dẫn đến hiệu quả công việc không đảm bảo. Thường xuyên liên hệ với Ngân hàng Nhà nước, Hiệp hội ngân hàng, Uỷ ban chứng khoán … và các cơ quan Nhà nước khác trong việc đào tạo cán bộ nhân viên, học hỏi kinh nghiệm từ các ngân hàng thương mại trong và ngoài nước. Xúc tiến việc hỗ trợ đào tạo của đối tác chiến lược nước ngoài – United Overseas Bank (UOB) – để đưa cán bộ sang Singapore học hỏi kinh nghiệm quản lý, kinh nghiệm tổ chức, việc phát triển các sản phẩm, công nghệ mới. Bên cạnh đó, thường xuyên mời các chuyên viên cấp cao của UOB tại Singapore qua Việt Nam để chia sẻ kinh nghiệm và hướng dẫn việc ứng dụng sản phẩm dịch vụ và công nghệ mới vào điều kiện cụ thể của Ngân hàng Phương Nam. Bên cạnh những khoá đào tạo về chuyên môn nghiệp vụ, ngoại ngữ là một yêu cầu tối cần thiết trong thời hội nhập. Ngân hàng Phương Nam có thể tổ chức các khóa học tiếng Anh miễn phí do chính các chuyên viên là người nước ngoài đang làm việc tại Ngân hàng Phương Nam giảng dạy, nói chuyện để trau dồi khả năng giao tiếp của nhân viên, nhất là các giao dịch viên. Riêng tại ngân hàng Phương Nam, đối tượng khách hàng là người Hoa tương đối nhiều, cần khuyến khích và tổ chức các khoá học tiếng Hoa cho nhân viên giao dịch bên cạnh ngoại ngữ chính là tiếng Anh. Rải rác trong đội ngũ cán bộ lãnh đạo, nhân viên ngân hàng cũng có người Việt gốc Hoa; do đó, việc tận dụng nguồn “giảng viên nội bộ” này vừa ít tốn chi phí lại vừa tạo được môi trường thuận lợi, tạo điều kiện cho nhân viên có thể nhanh chóng tiếp thu và thực hành. Thường xuyên tổ chức thi đua, kiểm tra về nghiệp vụ đối với nhân viên tác nghiệp: Đối với những nghiệp vụ mới, bên cạnh các khoá đào tạo của Trung tâm ATC do Hội sở tổ chức, từng đơn vị cũng cần thường xuyên tổ chức các buổi thuyết trình do chính các cán bộ quản lý tại đơn vị thực hiện. Định kỳ hàng tuần, hàng tháng, Sở giao dịch, chi nhánh có thể tổ chức các buổi kiểm tra về nghiệp vụ tại từng phòng ban trong đơn vị. Ban lãnh đạo chi nhánh cần khuyến khích các cán bộ nhân viên có trình độ, có kinh nghiệm hướng dẫn những cá nhân có trình độ và kinh nghiệm ít hơn, hỗ trợ nhau trong quá trình thực hiện nghiệp vụ. Trung tâm ATC cần tổ chức định kỳ các buổi kiểm tra về nghiệp vụ, về ngoại ngữ đối với toàn thể cán bộ nhân viên trong toàn hệ thống ngân hàng Phương Nam, đảm bảo việc cập nhật kiến thức luôn được thực hiện thường xuyên. Tổ chức các cuộc thi về nghiệp vụ giữa các đơn vị, vừa củng cố kiến thức công việc, vừa tăng cường tinh thần giao lưu học hỏi giữa các cán bộ nhân viên trong ngân hàng. Ngân hàng Phương Nam có thể chủ động thực hiện những giải pháp để hoàn thiện công tác kiểm toán nội bộ và các gói giải pháp về công nghệ và con người mà luận văn đã đưa ra. Song, có những vấn đề thuộc về cơ chế mà bản thân ngân hàng thương mại không thể thực hiện được do chịu sự chi phối của Ngân hàng Nhà nước – cơ quan quản lý trực tiếp hoạt động của hệ thống ngân hàng. Do đó, để việc quản lý rủi ro tại Ngân hàng Phương Nam đạt hiệu quả cao, luận văn đưa ra một số kiến nghị đối với Ngân hàng Nhà nước và các cơ quan khác. Giải pháp đối với Ngân hàng Nhà nước Giải pháp về công tác kiểm toán nội bộ tại NHTM: Bảo đảm bộ phận kiểm toán nội bộ và hệ thống kiểm tra kiểm soát nội bộ hoạt động độc lập và chuyên nghiệp trên cơ sở ban hành cụ thể các văn bản hướng dẫn về kiểm toán nội bộ, đồng thời yêu cầu cao hơn và xác thực hơn đối với những thông tin được các tổ chức tín dụng báo cáo. Có biện pháp chế tài nghiêm túc đối với các tổ chức tín dụng không tuân thủ các quy định về kiểm toán nội bộ và quản lý rủi ro, nâng cao vai trò và trách nhiệm của Hội đồng quản trị, Ban điều hành tổ chức tín dụng đối với Ngân hàng Nhà nước trong trường hợp tổ chức tín dụng không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ các quy định của Ngân hàng Nhà nước. Quy định cụ thể về thể lệ và một số công ty kiểm toán riêng biệt đối với hoạt động ngân hàng. Cần có một quy định chung về quản trị ngân hàng cho hệ thống các tổ chức tín dụng Việt Nam trên cơ sở từng bước thực hiện các chuẩn mực quản lý rủi ro theo hiệp ước Basel II, xây dựng cơ chế giám sát có sự phối hợp chặt chẽ giữa Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Bộ tài chính, tổ chức bảo hiểm tiền gửi (DIV) và Ủy ban chứng khoán nhà nước. Xây dựng hệ thống giám sát rủi ro trong hoạt động ngân hàng theo hướng đảm bảo khả năng cảnh báo sớm đối với các Tổ chức tín dụng “có vấn đề” và cảnh báo về các rủi ro trong hoạt động ngân hàng. Ban hành quy định đánh giá, xếp hạng các Tổ chức tín dụng theo tiêu chuẩn CAMELS. Cần đưa các nội dung giám sát ngân hàng và định hướng đổi mới hệ thống giám sát ngân hàng, đặc biệt là đối với thanh tra, giám sát chuyên ngành ngân hàng vào Luật Ngân hàng Nhà nước và Luật Tổ chức tín dụng mới. Xây dựng Luật Giám sát an toàn hoạt động ngân hàng (khi cần thiết). Thành lập cơ quan giám sát an toàn hoạt động ngân hàng là một đơn vị thuộc Ngân hàng Nhà nước trên cơ sở bộ máy Thanh tra Ngân hàng Nhà nước hiện có. Mục đích nhằm đáp ứng các yêu cầu thực tiễn của hệ thống ngân hàng Việt Nam và thực hiện đúng các nguyên tắc, chuẩn mực quốc tế về giám sát ngân hàng. Từng bước xây dựng Cơ quan Giám sát tài chính có vị thế và vai trò cao hơn trong việc thực hiện chức năng giám sát an toàn toàn bộ hoạt động tài chính, bao gồm ngân hàng, chứng khoán và bảo hiểm. Tăng cường quan tâm chỉ đạo và hỗ trợ cho công tác quản trị rủi ro của các ngân hàng thương mại thông qua việc cập nhật phổ biến kinh nghiệm về quản trị rủi ro của các ngân hàng trong và ngoài nước. Các giải pháp khác để hỗ trợ công tác kiểm toán nội bộ tại các NHTM: Hoàn thiện hệ thống pháp luật về tiền tệ và hoạt động ngân hàng thông qua việc hình thành đồng bộ khuôn khổ pháp lý và áp dụng đầy đủ hơn các thiết chế và chuẩn mực tài chính quốc tế về an toàn kinh doanh tiền tệ ngân hàng. Ban hành và cập nhật Luật Ngân hàng Nhà nước và Luật các tổ chức tín dụng theo hướng tăng cường hiệu lực những chế tài pháp lý, kinh tế và hành chính bảo đảm thực hiện đầy đủ nghĩa vụ trả nợ của người đi vay và bảo vệ quyền lợi chính đáng của các tổ chức tín dụng. Hiện đại hoá ngân hàng Nhà nước để thông tin nhận được kịp thời, nhanh chóng và chính xác, trên cơ sở đó đổi mới và nâng cao hiệu quả phương pháp giám sát ngân hàng cho phù hợp với sự phát triển của công nghệ thông tin, công nghệ ngân hàng, đồng thời áp dụng các nguyên tắc cơ bản về giám sát ngân hàng theo Basel I và từng bước tiến tới thực hiện các nguyên tắc, chuẩn mực cơ bản của Basel II sau năm 2010. Nhanh chóng, kịp thời và đầy đủ đưa ra những văn bản hướng dẫn dưới luật để các ngân hàng thương mại thực hiện và có chính sách riêng cho từng mục tiêu phát triển của mình. Thường xuyên hỗ trợ các ngân hàng thương mại trong việc đào tạo, tập huấn cho cán bộ nghiệp vụ Đưa ra định hướng phát triển trong thời gian dài và kiên trì theo đuổi những định hướng đó. Tránh trường hợp thay đổi chính sách trong khoảng thời gian ngắn làm các ngân hàng thương mại không kịp có đối sách phù hợp. Điều này đòi hỏi khả năng dự báo và hoạch định chiến lược quản trị của Ngân hàng Nhà nước cần được liên tục nâng cao. Trung tâm thông tin tín dụng CIC cần thường xuyên cập nhật thông tin khách hàng đầy đủ và chính xác, phát huy hơn nữa vai trò của mình để hỗ trợ các ngân hàng trong việc xếp hạng tín dụng doanh nghiệp. Bên cạnh đó cần có phương pháp kiểm tra tính chính xác của những thông tin được cung cấp hơn là chỉ dựa vào thông tin một chiều từ phía doanh nghiệp. Quy định tiêu chuẩn của cơ quan, tổ chức độc lập định mức tín nhiệm doanh nghiệp, làm cơ sở đáng tin cậy để ngân hàng phân loại khách hàng vay. Soạn thảo và ban hành cơ sở pháp lý vững chắc trong việc sáp nhập và mua bán các tổ chức tín dụng, định chế tài chính. Đồng thời hỗ trợ các tổ chức tín dụng, định chế tài chính trong quá trình sáp nhập để ổn định tâm lý hoang mang, mất lòng tin vào hệ thống tài chính ngân hàng của nhân dân. Cần tuyên truyền để mọi người hiểu sáp nhập đã và đang là xu thế tất yếu hiện nay, đó là một quan điểm, một xu hướng đúng để tạo ra thế mạnh về năng lực tài chính, nâng cao năng lực điều hành và tăng khả năng cạnh tranh của các tổ chức tài chính được sáp nhập. Phối hợp với ủy ban chứng khoán Nhà nước và các cơ quan chức năng khác có liên quan trong việc ban hành chính sách và quy định hướng dẫn cụ thể và đồng bộ để các ngân hàng thương mại thực hiện nghiệp vụ chứng khoán hoá các khoản cho vay – vừa phòng ngừa rủi ro tín dụng, giảm chi phí giám sát khoản vay lại vừa tăng tính thanh khoản, tạo cho ngân hàng một nguồn vốn mới từ các khoản cho vay của mình. Ban hành cơ sở pháp lý vững chắc và từng bước cho phép các ngân hàng thương mại thực hiện các công cụ phái sinh để phòng ngừa rủi ro: hợp đồng kỳ hạn (FORWARD), hợp đồng tương lai (FUTURE), hợp đồng quyền chọn (OPTION), hợp đồng hoán đổi lãi suất (SWAP) đối với nhiều loại hàng hóa, tiền tệ. Khuyến khích các tổ chức tín dụng áp dụng tính dự phòng rủi ro theo phương pháp chiết khấu dòng tiền cho mục đích quản trị nội bộ và theo dõi song song với phương pháp tính tỷ lệ cố định như hiện nay; về lâu dài, nên áp dụng phương pháp chiết khấu dòng tiền theo thông lệ quốc tế. Về các tỷ lệ đảm bảo an toàn trong hoạt động của tổ chức tín dụng: Cần có quy định áp dụng riêng cho hoạt động hợp nhất (ngân hàng và toàn bộ các pháp nhân trực thuộc) và hoạt động của riêng ngân hàng Xem xét lại tỷ lệ nguồn vốn ngắn hạn để cho vay trung dài hạn vì tỷ lệ này không phát huy tác dụng trong thời gian qua; cách xác định tỷ lệ này cũng chưa phù hợp (việc xác định cho vay trung và dài hạn dựa vào thời gian gốc ban đầu của khoản cho vay, trong khi thời gian vay của nhiều khoản vay trung, dài hạn chỉ còn lại dưới 12 tháng); để duy trì tỷ lệ này, nhiều ngân hàng đã phải cơ cấu lại tài sản và công nợ của mình bằng cách vay dài hạn từ tổ chức tín dụng nước ngoài và gửi lại chính tổ chức tín dụng đó dưới hình thức tiền gửi ngắn hạn. Nên bổ sung thêm tỷ lệ tài sản thanh toán tối thiểu trên tổng tài sản và áp dụng linh hoạt theo điều kiện thị trường Giải pháp đối với các cơ quan khác: Quốc hội cần sớm ban hành luật và các văn bản dưới luật về việc tăng cường bảo vệ quyền lợi ngân hàng trong trường hợp người vay không trả được nợ thông qua việc cưỡng chế thu hồi nợ. Tổ chức bảo hiểm tiền gửi tại Việt Nam cần tiến hành tính phí bảo hiểm tiền gửi theo mức độ rủi ro của từng ngân hàng thương mại thông qua một số tiêu chí định lượng và định tính nhất định. Trung tâm đào tạo của Hiệp hội Ngân hàng cần mở nhiều lớp đào tạo những chuyên đề mới với sự tham gia của các chuyên gia quốc tế để các ngân hàng thương mại trong nước tiếp cận, nắm bắt những kiến thức mới, những kinh nghiệm quản trị rủi ro của các quốc gia trên thế giới liên quan đến hoạt động ngân hàng. Hiệp hội ngân hàng cần trở thành cầu nối để các ngân hàng gặp nhau, trao đổi và đi đến một mục tiêu chung nhất là đưa hệ thống tài chính ngân hàng ngày càng phát triển bền vững. Tóm lược chương 3: Nội dung chương 3 bao gồm các gói giải pháp để hoàn thiện công tác kiểm toán nội bộ thông qua việc hoàn thiện hệ thống kiểm tra, kiểm soát nội bộ và hoàn thiện bộ máy kiểm toán nội bộ ngân hàng Phương Nam. Bên cạnh đó là kiến nghị về những giải pháp đồng bộ để hỗ trợ công tác kiểm toán nội bộ trong quá trình quản lý rủi ro tại Ngân hàng Phương Nam: những giải pháp về công nghệ và con người. Tác giả không đưa ra những giải pháp để khắc phục và phòng ngừa từng loại rủi ro theo hướng giải quyết từng nguyên nhân đã được phân tích ở chương 2 bởi khi thực hiện các gói giải pháp và đề xuất nêu trên, nó có thể hạn chế việc phát sinh các loại rủi ro và giải quyết tận gốc nguyên nhân phát sinh các loại rủi ro đó. Song song với những kiến nghị đối với ngân hàng Phương Nam, chương 3 cũng đưa ra một số kiến nghị đối với Ngân hàng Nhà nước – cơ quan quản lý trực tiếp hoạt động của ngân hàng thương mại - và đối với các cơ quan có liên quan về hoạt động ngân hàng để việc quản l‎ý rủi ro đạt hiệu quả cao nhất. TÀI LIỆU THAM KHẢO ˜ ™ Việt Dũng, “Mô hình tổ chức quản lý rủi ro trong ngân hàng”, website www.sbv.gov.vn PGS. TS. Trần Huy Hoàng (2007), “Quản trị Ngân hàng thương mại”, Nhà xuất bản lao động xã hội. TS Phí Trọng Hiển, “Quản trị rủi ro ngân hàng: cơ sở lý thuyết, thách thức, thực tiễn và giải pháp cho hệ thống NHTM Việt Nam”, tạp chí ngân hàng, ngày 18/11/2005. Trần Thu Huyền (2006), “Quản lý rủi ro tại Ngân hàng Ngoại hối Hàn Quốc”, số 21 tạp chí Thị trường tài chính tiền tệ ngày 01.11.2006 TS. Lê Thị Mận & Thạc sĩ Hoàng Thị Lan Hương, “Rủi ro tín dụng và quản lý rủi ro tín dụng của các Ngân hàng thương mại tại TPHCM”, tạp chí phát triển kinh tế tháng 05.2006. TS. Nguyễn Minh Kiều (2007), “Nghiệp vụ ngân hàng thương mại”, Nhà xuất bản lao động xã hội, TPHCM. Trần Hoàng Ngân & Nguyễn Thị Thùy Linh (2007), “Xây dựng chuẩn mực cho hệ thống ngân hàng Việt Nam trong quá trình hội nhập”, tạp chí Phát triển kinh tế, tháng 12-2007. ThS. Nguyễn Đức Trung (2008), “Rủi ro thanh khoản của các Ngân hàng thương mại trong điều kiện nền kinh tế Việt Nam nhiều biến động – Thực trạng và giải pháp”, tạp chí Ngân hàng, số 14 tháng 7 -2008 Bản cáo bạch của Ngân hàng Phương Nam Báo cáo Kết quả hoạt động kinh doanh năm 2005, 2006, 2007, tháng 6/2008 của Ngân hàng Phương Nam. Quyết định 36/2006/QĐ – NHNN ngày 01/08/2006 của Ngân hàng Nhà nước ban hành Quy chế kiểm tra, kiểm soát nội bộ của tổ chức tín dụng Quyết định 37/2006/QĐ – NHNN ngày 01/08/2006 của Ngân hàng Nhà nước ban hành Quy chế kiểm toán nội bộ của tổ chức tín dụng Trích khuyến nghị của Ernt & Young Việt Nam về việc thực hiện quy định về tỷ lệ an toàn đảm bảo, phân loại nợ, trích lập dự phòng rủi ro tại các tổ chức tín dụng (tháng 8/2008) www.vneconomy.com.vn , www.sbv.gov.vn , www.tcptkt.edu.vn , www.saga.com.vn … … KẾT LUẬN ™ ¯ ˜ Về lý luận, luận văn khái quát được các loại rủi ro có thể xảy ra trong hoạt động của ngân hàng thương mại; lý luận khái quát và phân biệt các khái niệm về hệ thống kiểm tra, kiểm soát nội bộ; hoạt động kiểm soát nội bộ và kiểm toán nội bộ. Công tác kiểm toán nội bộ hiệu quả là ngân hàng đã thực hiện được phần lớn quá trình quản lý rủi ro, góp phần vào việc tạo ra môi trường hoạt động ổn định và an toàn. Luận văn đã phân tích về những rủi ro đã và đang tồn tại trong hoạt động của ngân hàng TMCP Phương Nam. Từ kết quả phân tích thực trạng rủi ro tín dụng, rủi ro thanh khoản, rủi ro lãi suất và rủi ro từ những tỷ lệ đảm bảo an toàn, luận văn đã liệt kê những nguyên nhân phát sinh các loại rủi ro này. Bên cạnh đó, qua việc đánh giá về vấn đề nhận diện rủi ro từ công tác kiểm toán nội bộ, luận văn cũng đưa ra các khó khăn và l‎ý giải được sự chưa hiệu quả của công tác kiểm toán nội bộ. Nguyên nhân chính là do ngân hàng Phương Nam chưa có một bộ phận riêng biệt tiến hành nghiên cứu, soạn thảo các quy trình, quy chế kịp thời, khoa học và thống nhất, chưa tạo được một hành lang pháp l‎ý vững chắc hướng dẫn thực hiện nghiệp vụ. Đây là gốc rễ sự yếu kém của hệ thống kiểm tra, kiểm soát nội bộ ngân hàng Phương Nam. Đồng thời, sự thiếu và yếu về chất lượng lẫn số lượng của nhân viên bộ phận kiểm toán nội bộ làm cho bộ phận này chưa thực hiện đầy đủ và hiệu quả các chức năng và nhiệm vụ được quy định. Trên cơ sở đó, luận văn đã kiến nghị một số gói giải pháp quản lý rủi ro từ góc độ kiểm toán nội bộ bằng việc hoàn thiện công tác kiểm toán nội bộ tại Ngân hàng Phương Nam. Cụ thể là hoàn thiện hệ thống kiểm tra, kiểm soát nội bộ và bộ máy kiểm toán nội bộ. Bên cạnh đó, các kiến nghị liên quan đến việc phát triển công nghệ và con người là những giải pháp đồng bộ để hỗ trợ công tác quản lý rủi ro hiệu quả hơn, đưa ngân hàng Phương Nam ngày càng phát triển an toàn, ổn định và bền vững. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLA0537.doc
Tài liệu liên quan