Lời nói đầu
Cùng với quá trình đổi mới kinh tế, hoạt động đầu tư trực tiếp của của nước ngoài ở Việt Nam những năm qua diễn ra rất sôi động và đã thu được những thành quả đáng khích lệ. Đầu tư nước ngoài đã thể hiện vai trò quan trọng chiến lược phát triển kinh tế đất nước nói chung và kinh tế đối ngaọi nói riêng ,góp phần tích cực bổ sung nguồn vốn đầu tư, đổi mới công nghệ, mở mang thị trường, tiếp thu kinh nghiệm quản lý tiên tiến, tạo nhiều việc làm cho xã hội , thúc đẩy dịch chuyển cơ cấu
44 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1229 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Quản lý dự án đầu tư nước ngoài ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
kinh tế theo hướng chức năng hoá, hiện đại hoá. Tuy nhiên đây là lĩnh vực còn mới mẻ đối với Việt Nam và trong khi ta chưa có kinh nghiệm trong hoạt động này thì những thiếu sót hay hạn chế trong quản lý chắc chắn sẽ không tránh khỏi, gây những thiệt hại cho nhà nước Việt Nam nói riêng và các đối tác Việt Nam. Do vậy việc nghiên cứu một cách toàn diện các vấn đề về lý luận, tổng kết thực tiễn, nhằm đúc rút những bài học kinh nghiệm, hoàn thiện chính sách, cơ chế của Nhà nước đối với hoạt động đầu tư nước ngoài ở Việt Nam là vấn đề cấp bách hiện nay. Báo cáo thực tập: “Quản lý dự án đầu tư nước ngoài ở Việt Nam’ nhằm góp phần vào những cố gắng chung, nâng cao hiệu quả hợp tác đầu tư với nước ngoài của nước ta trong giai đoạn mới.
Mục đích của báo cáo này là phân tích về thực trạng cơ chế quản lý tổ chức, về tình hình hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) tại Việt Nam trong những năm qua, từ đó đề xuất một số quan điểm tăng cường công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam.
Kết cấu của báo cáo thực tập gồm 3 chương:
Chương I: Nêu lên những vấn đè chung về đầu tư trực tiếp nước ngoài, vai trò của đầu tư nước ngoài đối với nền kinh tế quốc dân và tình hình đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam
Chương II: Nêu lên vấn đề quản lý dự án đầu tư nước ngoài tại Việt Nam
Chương III: Đề cập đến các giải pháp tăng cường quản lý hoạt động đầu tư nước ngoài tại Việt Nam
Chương I: Những vấn đề chung
i. KHái niệm chung
1. sự ra đời của đầu tư trực tiếp nước ngoài
Hiện nay trên thế giới đã và đang tồn tại một cách khách quan những nước giàu và nước nghèo hay nói cách khác là nước chậm phát triển và nước phát triển. Khi có sự khác biệt giữa khả năng kinh tế và tài chính giữa các nước thì lúc này các nước phát triển xảy ra hiện tượng dư thừa vốn, công nghệ và lợi nhuận giảm, còn các nước đang phát triển lại rơi vào tình trạng thiếu vốn và công nghệ mới, thiếu kinh nghiệm quản lý. Vì vậy, theo tính tất yếu của cơ chế thị trường, cung và cầu về vốn, công nghệ, kinh nghiệm quản lý gặp nhau. Đó chính là hiện tượng các nước phát triển đưa vốn và công nghệ ra nước ngoài nhằm mục đích sinh lời và kéo dài tuổi thọ của công nghệ. Trong khi đó các nước đang phát triển chỉ mới có lực lượng lao động đồi dào với giá rẻ, nguồn tài nguyên phong phú chưa được khai thác triệt để do chưa có vốn và công nghệ phù hợp để khai thác tốt hai nguồn lực này. Đây là một môi trường đầu tư đầy triển vọng của các nhà đầu tư nước ngoài trong quá trình tìm kiếm cơ hội đầu tư nhằm làm tăng lợi nhuận cho mình trong hoạt động đầu tư nước ngoài.
Trong quá trình đầu tư, các nhà đầu tư cố gắng hạ thấp chi phí để tăng lợi nhuận cao nhất. Muốn làm được điều đó buộc họ phải đầu tư trực tiếp ra nước ngoài để mở rộng cơ hội tối đa hoá lợi nhuận khi đầu tư vào những nước chậm phát triển, họ tiết kiệm được rất nhiều chi phí như chi phí đổi mới công nghệ, chi phí thanh lý công nghệ, chi phí lao động chất xám , lao động phổ thông, trong khi đó lại được ưu đãi về thuế (Thuế doanh thu, thuế xuất nhập khẩu ...) đồng thời lợi nhuận được đảm bảo bởi các chính sách kinh tế của các nước tiếp nhận đầu tư.
Với lý do trên thì quá trình đầu tư nước ngoài thực chất là quá trình di chuyển vốn, công nghệ và kinh nghiệm quản lý từ nước này sang nước khác tạo ra sự ổn định trên toàn thế giới.
2. Vai trò của đầu tư nước ngoài đối với nền kinh tế Việt Nam
Đối với các nước đang phát triển nói chung và Việt Nam nói riêng. Đàu tư nước ngoài đóng một vai trò hết sức quan trọng trong phát triển kinh tế, đặc biệt là trong bối cảnh hiện nay. Tất cả các nước trên thế giới đều phải tham gia vào xu thế hội nhập kinh tế quốc tế, biến mỗi nền kinh tế quốc gia thành một bộ phận không thể tách rời của nền kinh tế thế giới. Các quôc gia tuy độc lập về mặt chính trị nhưng về mặt kinh tế lại phụ thuộc lẫn nhau, các nước cùng hợp tác phát triển để cùng nhau đi đến cái đích đó là sự thinh vượng của thế giới . Với ỹ nghĩa đó đầu tư nước ngaòi là một mắt xích quan trọng trong quan hệ kinh tế giữa các quốc gia với nhau.
Đối với Việt Nam, từ khi nước ta thực hiện chính sách mở cửa đến nay, đầu tư nước ngoài trong đó gồm viện trợ phát triển chính thức (ODA) và đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đã và đang đóng một vai trò quan trọng trong công cuộc phát triển kinh tế đất nước.
Trong hơn một thập kỷ qua, nguồn vốn ODA đã giúp Việt Nam xây dựng và nâng cấp cơ sở vật chất hạ tầng đáng kể, đây là một yêú tố quan trọng trong việc cải thiện môi trường đầu tư , bởi vì theo kinh nghiệm của một số nước trong khiu vực và trên thế giới, một trong những tiêu chí hàng đầu trong việc lựa chọn nước đầu tư của các nhà đầu tư nước ngoài là cơ sở vật chất hạ tầng, trong đó cơ sở hạ tầng về giao thông, thông tin liên lạc là quan trọng nhất.
Với chính sách cởi mở, thông thoáng và vị trí của Việt Nam trên các diễn đàn quốc tế cả về kinh tế lẫn chính trị ngày càng được khẳng định, cộng đồng quốc tế đã thực sự tin tưởng vào tương lai của Việt Nam, vào chính sách mở cửa, sự cam kết tiếp tục đổi mới kinh tế của Đảng và nhà nước ta, và do đó tiếp tục cho vay những khoản vốn ODA lớn hơn.
Tuy nhiên, việc sử dụng có hiệu quả nguồn vốn ODA này lại là một vấn đề lớn đối với Việt Nam hiện nay. Nhiều công trình xây dựng cơ sở hạ tầng được thực hiện một cách thiếu hiệu quả, nhiều dự án bị thất thoát vốn với tỷ lệ lớn... Điều này không những làm thiệt hại cho nền kinh tế đất nước khi phải bỏ ra một khoản vốn lớn để sửa chữa, nâng cấp những dự án ODA không đạt yêu cầu mà còn là một gánh nặng nợ nần trong tương lai khi các công trình không thể thu hồi được vốn như kế hoạch.
Như vậy chúng ta không thể phủ nhận được vai trò của ODA trong công cuộc phát triển kinh tế nhưng điều quan trọng hiện nay là làm sao sử dụng nguồn vốn này một cách có hiệu quả hơn, từ đó chúng ta có thể tạo ra một nền tảng cơ sở hạ tầng hiện đại để thu hút nhiều hơn nguồn vốn FDI - nguồn vốn quan trọng nhất từ bên ngoài.
Cho đến hết tháng 6/2002, Việt Nam đã thu hút được gần 49 tỷ USD vốn FDI, với vốn đã thực hiện là hơn 19 tỷ USD. Với nguồn vốn này, Việt Nam đã thực sự đạt được những bước tiến đáng kể trong công cuộc hội nhập quốc tế và thu hẹp khoản cách với các nước phát triển.
FDI đã góp phần rút ngắn khoảng cách giữa các sản phẩm Việt Nam với thị trường thế giới, giúp các doanh nghiệp Việt Nam tiếp cận với thị trường quốc tế nhanh hơn , thuận lợi hơn.
FDI với công nghệ và kỹ năng quản lý hiện đại đã góp phần nâng cao trình độ công nghệ của nước ta trên nhiều ngành nghề, lĩnh vực: công nghiệp, nông nghiệp, chăn nuôi, đánh bắt thuỷ sản du lịch, hàng không, dầu khí. Các liên doanh giữa Việt Nam với nước ngoài đã làm tăng tính cạnh tranh của thị trường Việt Nam, giúp các xí nghiệp trong nước nỗ lực với môi trường công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm.
FDI đã cung cấp cho thị trường trong nước nhiều sản phẩm, mặt hàng và dịch vụ có chất lượng tốt, góp phần giảm áp lực tiêu dùng, ổn định giá cả.
FDI cung cấp nhiều việc làm cho nền kinh tế, góp phần đào tạo một đội ngũ các nhà doanh nghiệp và công nhân có trình độ và sự say mê nghề nghiệp.
FDI tạo dựng được những cơ sở ban đầu rất quan trọng cho hoạt động thu hút vốn đầu tư nước ngoài trong tình hình mới, góp phần làm cân bằng bên trong về nhu cầu vốn đầu tư, việc làm cho người lao động, cán cân thanh toán.
FDI đã góp phần vào sự ổn định và tăng trưởng của nền kinh tế , tham gia vào chuyển dịch cơ cấu kinh tế, làm tăng tỷ trọng các ngành công nghiệp và dịch vụ , tạo thêm năng lực mới về sản xuất và xuất khẩu trong một số ngành quan trọng, đóng góp vào ngân sách, giải quyết một phần công ăn, việc làm cho người lao động, khơi dậy nguồn vốn trong nước, phục hồi một số ngành nghề và doanh nghiệp đã từng đứng trước nguy cơ phá sản hoặc mai một do biến động của thị trường trong và ngoài nước ...
Tuy vậy, những mặt trái vốn có của FDI cũng đã bộc lộ trong nhiều khía cạnh: Sở hữu, chuyển giao công nghệ lạc hậu, cơ cấu khoong phù hợp,...Sự không hoàn hảo của thị trường đòi hỏi phải có sự điều tiết và quản lý của Nhà nước, giúp FDI phục vụ tốt hơn cho công cuộc phát triển của nền kinh tế nước nhà.
3. Tình hình đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam
Kể từ khi luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam được Quốc Hội thông qua ngày 29 tháng 12 năm 1987 đến nay, tình hình đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam đã phát triển rất nhanh. Hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài đã đạt được những thành tựu đáng kể trong việc thu hút đầu tư cả về số lượng và chất lượng cũng như về mặt du nhập công nghệ và phương pháp quản lý.
Theo thống kê của vụ quản lý dự án. Đến hết tháng 6 năm 2002 đã có 4283 dự án được cấp giấy phép đầu tư với tổng số vốn đăng ký khoảng gần 49 tỷ USD , vốn thực hiện hơn 19 tỷ USD.
Trong số các dự án nói trên, có 827 dự án bị rút giấy phép hoặc giải thể trước thời hạn (chiếm 19,3 %) tổng số dự án với số vốn đầu tư 8,286 tỷ USD (chiếm 13,9% tổng vốn đầu tư) do vậy tính đến nay còn 3456 dự án có giấy phép đầu tư với gần 41 tỷ USD. Các dự án quy mô nhỏ (dưới 5 triệu USD) tuy chiếm tỷ lệ lớn về số dự án (77%) nhưng lại chiếm tỷ lệ nhỏ về vốn đầu tư (14%). Bên cạnh việc xây dựng một số công trình quy mô lớn, ý nghĩa then chốt đối với nền kinh tế quốc dân, việc phát triển hàng loạt các xí nghiệp có quy mô vừa và nhỏ trong một số lĩnh vực là hướng đi thích hợp, vừa tận dụng hiệu quả các cơ sở sản xuất hiện có, sử dụng nhiều lao động , vừa phù hợp với năng lực quản lý, dễ đổi mới thiết bị và phương án sản phẩm, dễ thích hợp với những thay đổi của thị trường.
Cơ cấu ngành nghề đã được điều chỉnh theo hướng ngày càng hợp lý, Nhà nước Việt Nam khuyến khích các tổ chức, cá nhân nước ngoài đầu tư vào các lĩnh vực: Thực hiện các chương trình kinh tế lớn sản xuất hàng hoá xuất khẩu và hàng hoá thay thế hàng nhập khẩu, sử dụng kỹ thuật, công nghệ cao, công nhân lành nghề, đầu tư theo chiều sâu để khai thác, tận dụng các khả năng và nâng cao công suất của các cơ sở kinh tế, hiện có; sử dụng nhiều lao động, nguyên liệu và tài nguyên thiên nhiên sẵn có ở Việt Nam; xây dựng các công trình cơ sở hạ tầng, dịch vụ thu tiền nước ngoài như dịch vụ du lịch, sửa chữa tàu, dịch vụ sân bay, cảng khẩu và các dịch vụ khác. Trên thực tế, đầu tư nước ngoài đã đi sâu vào hầu hết các lĩnh vực của nền kinh tế quốc dân.
Qua các năm, cơ cấu đầu tư ngày càng phù hợp với yêu cầu dịch chuyển kinh tế, tỷ trọng các dự án thuộc các lĩnh vực sản xuất ngày càng tăng trong những năm đầu, vốn đầu tư tập trung chủ yếu trong các ngành dầu khí (32,2%) khách sạn (20,6 %) thì từ năm 1991 trở đi vốn đầu tư vào ngành công nghiệp tăng đáng kể. Khoảng 64,6 % số vốn đầu tư là thuộc các ngành sản xuất vật chất, hơn 60 % số dự án thuộc loại đầu tư theo chiều sâu nhằm khai thác và nâng cấp những năng lực sản xuất hiện có.
Cơ cấu lãnh thổ ngày càng cân đối hơn. Trừ thăm dò khai thác dầu khí ở thềm lục địa. Các dự án còn lại có tới 84 % tổng số vốn tập trung ở 3 vùng kinh tế trọng điểm. Nừu những năm đầu, đầu tư ở các tỉnh phía Bắc chỉ chiếm 25 % số dự án với 20 % số vốn đầu tư thì tính đến tháng 6/2002 các tỉnh phía bắc đã thu hút được 31% số dự án với 36% vốn đầu tư. Đến nay đã có 59 tỉnh thành phố trực thuộc trung ương đã có dự án đầu tư nước ngoài. Điều này được giải thích là mỗi địa phương đều có những thế mạnh và tiềm năng riêng, nhưng quan trọng là do Nhà nước đã có những điều chỉnh kịp thời về chính sách, biện pháp khuyến khích đầu tư vào các vùng cần khuyến khích đầu tư và do công tác vận động đầu tư ngày càng chủ động hơn. Tuy vậy, đầu tư nước ngoài vẫn chủ yếu tập trung vào một số địa phương như TP. HCM, Hà Nội, Đồng Nai, Hải Phòng, Bà Rỵa Vũng Tàu... Đây là những địa phương thuộc các vùng trọng điểm kinh tế của cả nước, có nhiều cơ sở sản xuất hiện có, có cơ sở hạ tầng tốt hơn so với những địa phương khác
Luật đầu tư nước ngoài quy định 3 hình thức đầu tư chủ yếu là: Doanh nghiệp liên doanh, doanh nghiệp 100 % vốn nước ngoài và hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng hợp tác kinh doanh. Ngoài ra còn có quy định hình thức xây dựng các khu công nghiệp, khu chế xuất và hình thức BOT (xây dựng - kinh doanh - chuyển giao). Tính đến nay, dự án thực hiện theo hình thức liên doanh chiếm 64,6 % dự án và 65,3 % số vốn, theo hình thức 1000 vốn nước ngoài , chiếm 27,1 % số dự án và 17,8 % vốn đầu tư và theo hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh chiếm 8,3 % số dự án và 16,9 % số vốn đầu tư. Trong số các dự án được cấp phép mới chỉ có một số dự án được thực hiện theo hình thức BOT.
Việc đa số các dự án được thực hiện theo hình thức liên doanh trong thời gian qua là hoàn toàn phù hợp với tình hình thực tế cũng như chủ trương của nhà nước ta. Một mặt các công ty nước ngoài khi đầu tư vào Việt Nam cũng muốn chia sẻ bớt rủi ro có thể xảy ra, nhưng mặt khác cũng muốn gắn trách nhiệm bên Việt Nam vào sự thành công của dự án, dậ vào bên Việt Nam trong quan hệ cũng như giải quyết các thủ tục cần thiết với cơ quan quản lý nhà nước và các tổ chức kinh tế. Trong khi đó dựa vào khả năng tài chính, khả năng về công nghệ, kinh nghiệm quản lý và khả năng tìm kiếm thị trường của phía nước ngoài, phía Việt Nam lại mong muốn tận dụng mọi khả năng có thể góp vốn, tạo cơ hội tiếp cận công nghệ tiên tiến, học hỏi kinh nhgiệm quản lý và chia sẻ lợi nhuận có thể tạo ra. Tuy nhiên những năm gần đây, các nhà đầu tư nước ngoài đã có xu hướng giảm dần sự quan tâm đến hình thức xí nghiệp liên doanh, số dự án 100% số vốn nước ngoài tăng lên đặc biệt là trên địa bàn tỉnh Bình Dương và Đồng Nai trong một số lĩnh vực nhữ hàng hoá cơ bản, may mặc, dày dép. Xu hướng hình thành và phát triển do một số nguyên nhân nhưng chủ yếu do thực tiễn phát sinh nhiều tranh chấp trong việc quản lý, điều hành xí nghiệp, một phần do sự yếu kém về trình độ của phía Việt Nam. Bên nước ngoài thường góp nhiều vốn hơn nhưng không quyết định được những vấn đề chủ chốt của xí nghiệp liên quan đến xây dựng và sản xuất kinh doanh vì nguyên tắc nhất trí trong Hội đồng quản trị theo quy định của Luật đầu tư.
Trong hợp đồng hợp tác kinh doanh và trong các doanh nghiệp liên daonh đang hoạt động, doanh nghiệp nhà nước tham gia 90 % số dự án và 99 % tổng số vốn đầu tư. Doanh nghiệp ngoài quốc doanh tham gia 71 dự án với tổng số vốn đầu tư gần 150 triệu USD, chiếm tỷ trọng không đáng kể trong tổng số vốn đầu tư, đó là bào gồm cả một số công ty TNHH thuộc các tổ chức chính trị, xã hội mà trong đó có phần góp vốn của doanh nghiệp nhà nước .
Việc phần lớn các đối tác tham gia vào hợp tác đầu tư với nước ngoài là các doanh nghiệp nhà nước cho thấy đây là một hướng đi đúng, đảm bảo phát triển kinh tế theo định hướng XHCN. Tuy nhiên với cơ chế hiện nay, sẽ dẫn đến tình trạng, ai có quyền sử dụng đất thì có quyền mang vào góp vốn và theo đó trở thành chủ dầu tư bên Việt Nam, bất chấp lĩnh vực hợp tác có phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của họ hay không (Ví dụ doanh nghiệp thuộc lĩnh vực thể thao lại đi hợp tác với nước ngoài xây dựng khách sạn, có doanh nghiệp thuộc lĩnh vực thuỷ sản lại hợp tác trong lĩnh vực thể thao...).
Việc này sẽ không tránh khỏi những khó khăn nảy sinh trong quá trình triển khai dự án và hoạt động kinh doanh sau này, đồng thời không đủ khả năng để đại diện cho quyền lợi bên Việt Nam hay nhà nước Việt Nam.
Tính đến nay , việc tham gia hợp tác đầu tư với nước ngoài của các đối tác Việt Nam là các doanh nghiệp ngoài quốc doanh là rất khiêm tốn cả về số lượng cũng như vốn đầu tư , lĩnh vực hợp tác còn hẹp, địa bàn chủ yếu tập trung ở một số thành phố lớn nhưng cho thấy xu hướng phát triển của khu vực tư nhân ddang vươn lên để tiếp cận với công nghệ mới nhằm tạo ra những năng lực sản xuất mới hoặc cải tiến mẫu mã, nâng cao chất lượng sản phẩm... Điều đó cũng phù hợp với chủ trương đa dạng hoá các thành phần kinh tế của Đảng và Nhà nước ta.
Đến nay, có hơn 700 công ty thuộc 60 nước và vùng lãnh thổ có dự án đầu tư tại nước ta, trong đó có nhiều tập đoàn lớn, có năng lực về vốn, công nghệ và quản lý. Trong khi các nước Tây Âu sớm vào Việt Nam với trọng tâm là lĩnh vực dầu khí thì các nước châu á , đặc biệt là Nhật Bản và Hàn Quốc và gần đây là Mỹ, tuy có sự xuất hiện muộn hơn nhưng tốc độ ngày càng tăng nhanh, quy mô sản xuất ngày càng lớn, bao gồm nhiều lĩnh vực, từ khai thác dầu khí, sản xuất xi măng, sắt thép, điện tử, xây dựng cơ sở hạ tầng khu công nghiệp, xây dựng khách sạn đến sản xuất hàng hoá tiêu dùng, chế biến thực phẩm và bắt đầu xuất hiện các dự án công nghệ cao (các bộ phận mánh tính, quang học, viễn thông...). Với xu hướng này, đã đánh dấu kết quả tích cực của phương châm đa dạng hoá quan hệ hợp tác đầu tư , tranh thủ vốn và công nghệ của các tập đoàn, công ty lớn của các nước công nghiệp phát triển.
Từ năm 1998 đến hết tháng 6/2002, vốn đầu tư thực hiện khoảng 19 tỷ USD ( Trong số này, vốn góp của phía Việt Nam khoảng 2,5 tỷ USD chiếm 13 % chủ yếu bằng quyền sử dụng đất, phần góp vốn của bên nước ngoài chiếm khoảng 9,1 tỷ USD, chiếm 48 %, phần vốn vay doanh nghiệp khoảng trên 7,4 tỷ USD chiếm 39 % tổng vốn thực hiện (theo số liệu thống kê của vụ quản lý dự án).
Tính đến nay, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã tạo vcv làm cho trên 180.000 lao động trực tiếp người Việt Nam. Ngoài ra đầu tư nước ngoài còn tạo việc làm và thu nhập cho hàng chục vạn lao động gián tiếp khác bao gồm công nhân xây dựng, các lao động liên quan đến cung cấp vật liệu xây dựng và các dịch vụ khác. Trong số lao động trực tiếp nói trên, phần lớn đã được đào tạo về chuyên môn nghiệp vụ hoặc ngoại ngữ, có khả năng nắm bắt kỹ thuật, hoàn thành các công việc được giao. Điều đó đã tạo cho lao động Việt Nam một tác phong công nghiệp trong lao động, một ý thức kỷ luật và một ý thức trách nhiệm cao hơn đối với công việc.
Trong quá trình hợp tác với nước ngoài, các doanh nghiệp Việt Nam đã tiếp nhận được phương thức quản lý tiên tiến, những kinh nghiệm quý báu trong tổ chức sản xuất và kinh doanh, tiếp cận được cung cachs làm ăn của nước ngoài trong nền kinh tế thị trường
Quá trình thực tiễn cũng cho thấy những mặt hạn chế trong lĩnh vực hoạt động đầu tư nước ngoài, nguyên nhân chính của việc đổ vỡ các dự án:
- Phần lớn do bên nước ngoài không có khả năng về tài chính , không có khả năng về chuyên môn, không co thiện chí làm ăn nghiêm túc tại Việt Nam.
- Một số dự án ngay từ khi xin giấy phép đầu tư đã tỏ ra không có tính khả thi.
- Một số dự án do tranh chấp giữa các bên liên doanh, thiếu thiẹn chí và sự hợp tác trong việc giải quyết các bất đồng.
Một số cán bộ Việt Nam không có chuyên môn, ngoại ngữ, không nắm được các quy định về pháp luật, không thấu hiểu và theo kịp cung cách làm ăn của quố tế theo cơ chế thị trường, thiếu hiểu biết, thiếu thông tin, thoái hoá, biến chất, chỉ mưu cầu lợi ích cá nhân trước mắt mà không nghĩ đến lợi ích tổng thể của đất nước hay của đơn vị mà mình được cử ra làm đại diện, có khi còn chỉ đường mách lối cho nhà đầu tư nước ngoài thực hiện không đúng với quy định của pháp luật Việt Nam.
Không tính toán kỹ, nghiên cứu thị trường, chi phí đền bù, giải phóng mặt bằng... nên thua lỗ kéo dài, buộc phải giải thể trước thời hạn.
- Một số nhà đầu tư nước ngoài đã bị phá sản ở nơ khác nên đã ảnh hưởng tới dự án ở Việt Nam.
Khi một dự án trực tiếp bị rút giấy phép trước thời hạn, bị giải thể sẽ dẫn đến thiệt hạ cho cả hai phía, phía Việt Nam và phía nước ngoài. Để hạn chế điều này cũng như tăng cường tính hiệu quả của dự án đang thực hiện, triển khai, quản lý nhà nước đối với đầu tư nước ngoài đóng một vai trò rất quan trọng trong đó Bộ Kế hoạch và Đầu tư nói chung và vụ quản lý dự án nói riêng là những cơ quan giúp việc của Chính phủ trực tiếp quản lý các dự án đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.
II. Giới thiệu về Bộ Kế hoạch Đầu tư và Vụ quản lý dự án
1. Bộ Kế hoạch Đầu tư
Bộ Kế hoạch Đầu tư được thành lập theo nghị định 75 /CP của Chính phủ ngày 1/11/1995 trên cơ sở sáp nhập giữa UB Nhà nước về hợp tác đầu tư và UB Kế hoạch Nhà nước
a. Chức năng
Đây là một cơ quan của Chính phủ có chức năng tham mưu tổng hợp và xây dựng chiếnlược, sách lược, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của đất nước; về cơ chế chính sách quản lý kinh tế; quản lý nhà nước về lĩnh vực đầu tư trong và ngoài nước, giúp Chính phủ điều hành phối hợp thực hiện các mục tiêu và cân đối chủ yếu của nền kinh tế quốc dân.
Bộ Kế hoạch Đầu tư thực hiện nhiệm vụ , quyền hạn và trách nhiệm quản lý nhà nước của Bộ, cơ quan ngang bộ quy định tại chương IV luật tổ chức Chính phủ và tại nghị định 15/CP ngày 2/3/1993 của Chính phủ. Bộ có các quyền hạn và nghĩa vụ sau đây:
1 - Tổ chức nghiên cứu, xây dựng chiến lược và quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội của cả nước và quy hoạch phát triển kinh tế theo ngành, vùng, lãnh thổ. Xác định phương hướng và cơ cấu gọi vốn đầu tư của nước ngoài vào Việt Nam, đảm bảo sự cân đối giữa đầu tư trong và ngoài nước để trình Chính phủ quyết định.
2- Trình Chính phủ các dự án luật, Pháp lệnh, văn bản pháp quy cso liên quan đến cơ chế chính sách về quản lý kinh tế, khuyến khích đầu tư trong và ngaòi nước nhằm thực hiện cơ cấu kinh tế phù hợp với chiến lược, quy hoạch, kế hoạch để ổn định và phát triển kinh tế xã hội.
Nghiên cứu và xây dựng các quy chế về phương pháp kế hoạch hoá, hướng dẫn các bên nước ngoài và Việt Nam trong việc đầu tư vào Việt Nam và từ Việt Nam ra nước ngoài.
3- Tổng hợp các nguồn lực của cả nước kể cả các nguồn lực từ nước ngoài để xây dựng trình Chính phủ các kế hoạch dài hạn, trung hạn, ngắn hạn về phát triển kinh tế xã hội của cả nước và các cân đối chủ yếu của nền kinh tế quốc dân; giữa tích luỹ và tiêu dùng, tài chính, tiền tệ, hàng hoá vật tư chủ yếu của nền kinh tế , xuất nhập khẩu, vốn đầu tư xây dựng cơ bản. Phối hợp với bộ tài chính trong việc phân bổ kế hoạch thu chi ngân sách nàh nước cho các Bộ, ngành và địa phương để trình Chính phủ.
4 - Hướng dẫn các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, uỷ ban nhân dân thuộc các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, xây dựng và cân đối tổng hợp kế hoạch, kể cả các kế hoạch thu hút vốn đầu tư nước ngoài, phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế xã hội của cả nước, ngành kinh tế và vùng lãnh thổ đã được phê duyệt.
5 - Hướng dẫn, kiểm tra các Bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ , UBND các tỉnhm thành phố trực thuộc trung ương trong việc thực hiện kế hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế xã hội, các chương trình, chính sách của nhà nước đối với đầu tư trực tiếp của nước ngoài vào Việt Nam và của Việt Nam ra nước ngoài.
6 - Làm chủ tịch các hội đồng cấp nhà nước, xét duyệt định mức kinh tế - kỹ thuật, xét thầu quốc gia, thẩm định thành lập doanh nghiệp.
7- Trình thủ tướng Chính phủ thẩm định việc sử dụng quỹ dự trữ nhà nước
8- Tổ chức nghiên cứu dự thảo, thu thập xử lý thông tin về phát triển kinh tế xã hội trong và ngoài nước phục vụ cho việc xây dựng và điều hành kế hoạch.
9 - Tổ chức đào tạo lại và bồi dưỡng nghiệp vụ chuyên môn cho đội ngũ công chức, viên chức thuộc bộ quản lý.
10 - Thực hiện hợp tác quốc tế trong lĩnh vực chiến lược phát triển, chính sách kinh tế, quy hoạch và kế hoạch hoá phát triển kinh tế xã hội , hỗ trợ phát triển và hợp tác đầu tư.
b. Cơ cấu tổ chức
Bộ kế hoạch và đầu tư có 22 cơ quan giúp bộ trưởng thực hiện chức năng quản lý nhà nước và 6 tổ chức sự nghiệp trực thuộc bộ
* Các cơ quan giúp bộ trưởng thực hiện chức năng quản lý nhà nước :
1- Vụ pháp luật đầu tư nước ngoài
2- Vụ quản lý dự án đầu tư nước ngoài
3 - Vụ quản lý khu chế xuất và khu công nghiệp
4 - Vụ đầu tư nước ngoài
5- Vụ tổng hợp kinh tế quốc dân
6- Vụ kinh tế đối ngoại
7- Vụ kinh tế địa phương và lãnh thổ
8 - Vụ doanh nghiệp
9- Vụ tài chính - tiền tệ
10 - Vụ nông nghiệp và phát triển nông thôn
11- Vụ công nghiệp
12 - Vụ thương mại và dịch vụ
13 - Vụ cơ sở hạ tầng
14 - Vụ lao động và văn hoá xã hội
15 - Vụ khoa học và giáo dục môi trường
16 - Vụ quan hệ Lào và Campuchia
17 - Vụ quốc phòng an ninh
18 - Vụ tổ chức cán bộ
19 - Văn phòng thẩm định dự án đầu tư
20- Cơ quan đại diện phía nam
* Các tổ chức sự nghiệp trực thuộc bộ
1 - Viện quản lý kinh tế Trung ương
2 - Viện chiến lược phát triển
3- Trung tâm nghiên cứu kinh tế phía nam
4 - Trung tâm thông tin (Gồm cả tạp chí kinh tế dự báo)
5- Trường nghiệp vụ kế hoạch
6 - Báo đầu tư nước ngoài
2. Vụ quản lý dự án
Vụ quản lý dự án là đơn vị trực thuộc Bộ Kế hoạch Đầu tư giúp bộ trưởng làm chức năng theo dõi và quản lý nhà nước về các dự án đầu tư nước ngoài sau khi đã được cấp giấy phép với các nhiệm vụ chủ yếu sau đây:
1 - Hướng dẫn triển khai thực hiện các dự án sau khi đã được cấp giấy phép đầu tư
2 - Theo dõi tình hình các chủ đầu tư thực hiện các quy định tại giấy phép đầu tư, các quy định của pháp luật, kiến nghị các vấn đề nghiên cứu về chính sách và luật pháp đầu tư.
3 - Phối hợp với các đơn vị, cơ quan liên quan kiến nghị việc điều chỉnh giấy phép đầu tư, cho phép chuyển nhượng vốn, kết thúc hoạt động , rút giấy phép và giải thể trước thời hạn các xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
4- Làm đầu mối với các Bộ, địaphương liên quan giải quyết các vấn đề phát sinh tại các xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài theo luật định của Bộ, theo dõi công tác kiểm tra của các cơ quan chức năng và chính quyền địa phương về các mặt hoạt động của các xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
5 -Theo dõi và đánh giá hiệu quả các chỉ tiêu kinh tế - xã hội của các dự án nói riêng và hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài nói chung
6- Thực hiện các nhiệm vụ khác do Bộ trưởng Bộ Kế hoạch Đầu tư giao
Chương II: Quản lý dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài
I. Các nguyên tắc chung về quản lý dự án FDI
1. Các hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam
Theo Luật đầu tư nước ngoài có 3 hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam đó là:
- Hợp tác đầu tư trên cơ sở hợp đồng (BCC)
- Thành lập các doanh nghiệp liên doanh (J.V)
- Thành lập các doanh nghiệp 100 % vốn nước ngoài (1000% FDI )
Cũng theo quy định của luật về nội dung hợp tác, chỉ có các doanh nghiệp được thành lập theo hai hình thức đầu tư J.V và 100% FDI mới có tư cách pháp nhân Việt Nam, có nghĩa là về mặt pháp luật được nhìn nhận như các doanh nghiệp Việt Nam, hoạt động theo luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam và các luật khác có liên quan. Việc hợp tác BCC không tạo ra doanh nghiệp mới, các bên tham gia BCC vẫn giữ nguyên tư cách pháp nhân của mình. Theo các quy định trên mặt pháp luật, cộng với nội dung hoạt động của mỗi hình thức đầu tư có nhiều điểm khác nhau, dẫn đến việc quản lý nỗi hình thức đầu tư sẽ có những đặc thù riêng cần được đi sâu phân tích kỹ trên cơ sở các quy định của pháp luật hiện hành và thực tiễn quản lý của các doanh nghiệp có vốn FDI thời gian qua
2. Các nguyên tắc cơ bản
Trước khi phân tích đặc thù riêng trong quản lý đối với từng hình thức đầu tư ( hay loại hình doanh nghiệp có vốn FDI), chúng ta cần khẳng định lại mốt số nguyên tắc cơ bản sau đây trong quản lý doanh nghiệp nói chung và trong đó có các doanh nghiệp có vốn FDI cần tuân thủ:
- Quản lý theo đúng quy định của pháp luật, có tính đến thông lệ quốc tế trong quản lý các doanh nghiệp nói chung và trong việc xử lý từng vụ việc cụ thể đối với doanh nghiệp có vốn FDI nói riêng.
- Quản lý doanh nghiệp là để hỗ trợ và thúc đẩy hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp phát triển theo đúng mục tiêu nhà nước mong muốn.
- Quản lý một doanh nghiệp tốt cần phải xử lý thoả đáng hai vấn đề chủ yếu sau đối với doanh nghiệp, đó là xử lý các mối quan hệ bên trong doanh nghiệp và mối quan hệ giữa doanh nghiệp với môi trường
- Xây dựng được mô hình quản lý tối ưu
- Có đội ngũ cán bộ quản lý giỏi
3. Đặc thù riêng của doanh nghiệp có vốn FDI
Trong quản lý các doanh nghiệp có vốn FDI, cần lưu ý đặc thù riêng của hai đối tượng (hoặc hai mục tiêu) chịu sự quản lý là vốn và con người .
Có thể nêu ra một số đặc thù riêng của từng đối tượng, (mục tiêu) quản lý đó như sau:
a. Về vốn
Một số đặc thù riêng của vốn FDI (So với vốn khác đang sử dụng hiện nay như nguồn vốn ngân sách của Nhà nước, Vốn ODA, vốn viện trợ không hoàn lại của Chính phủ các nước cho Việt Nam , vốn viện trợ nhân đạo, vốn của các tổ chức tư nhân và các cá nhân trong nước...) như sau:
- Đây là nguồn vốn tư nhân của tư bản nước ngoài, vì vậy nó chỉ được đưa vào đầu tư khi người chủ sở hữu nhìn thấy rõ hiệu quả đồng vốn đầu tư (hiệu quả ở đây rõ ràng phải cao hơn ở nước họ, cũng như nước khác ngoài Việt Nam, hay tối thiểu cũng phải cao lơn lãi suất ngân hàng...).
- Nguồn vốn này sẽ được đầu tư nhưng không theo kế hoạch đầu tư của nước chủ nhà mà sẽ được đầu tư theo ý muốn, kế hoạch của người sở hữu vốn (nhà đầu tư nước ngoài), phụ thuộc vào:
+ Hiệu quả cao thấp của việc đầu tư
+ Môi trường đầu tư của nước chủ nhà ( nước nhận đầu tư) có thuận lợi, dễ dàng cho việc đầu tư hay không? vấn đề này bao gồm cả hệ thống cơ sởhạ tâng và hệ thống pháp lý đầu tư (Luật đầu tư và các chính sách có liên quan...).
+ Khả năng của thị trường nơi đầu tư.
- Nguồn vốn này khi đưa vào liên doanh hoặc hợp đồng hợp tác kinh doanh thì không phân tỷ lệ góp vốn cao hay thấp của doanh nghiệp nước chủ nhà, đều trở thành nguồn vốn chung của doanh nghiệp liên doanh hay hợp doanh
- Nguồn vốn này gắn chặt với thị trường tiền tệ, tài chính quốc tế , sự biến động của thị trường tiền tệ quốc tế (tăng hay giảm giá của ngoại tệ mạnh) sẽ có ảnh hưởng nhất định của đồng tiền Việt Nam và như vậy ảnh hưởng trực tiếp đến việc thực hiện các dự án FDI, vì như nêu ở trên, FDI là nguồn vốn tư nhân nên khi thị trường tiền tệ biến động nhà đầu tư nước ngoài sẽ nhanh chóng quyết định việc tiếp tục, tạm dừng hay chấm dứt đầu tư.
b. Về con người
Sự khác biệt cơ bản giữa các doanh nghiệp trong nước (gọi chung với các doanh nghiệp chỉ có vốn Việt Nam) với doanh nghiệp có vốn FDI, ngaòi một số đặc thù và bản chất của nguồn vốn nêu trên, còn thể hiện đối tượng thứ hai chịu sự quản lý là con người. Đối tượng này bao gồm và quan trọng nhất là những người trực tiếp tham gia vào việc quản lý (Hội đồng quản trị doanh nghiệp liên doanh) và điều hành trực tiếp doanh nghiệp này (Ban giám đốc doanh nghiệp liên doanh, ban điều phối các BCC) mà sau đây gọi chugn là những nhà quản lý doanh nghiệp và những người lao động trực tiếp t._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- C0003.doc