I. đặt vấn đề
Phát triển nền kinh tế nhiều thành phần là nét đặc trng có tính quy luật của nền kinh tế quá độ lên XHCN ở nớc ta. Đảng ta đã xác định duy trì và phát triển chính sách kinh tế nhiều thành phần theo định hớng xã hội chủ nghĩa có ý nghĩa chiến lựơc lâu dài, có tính quy luật từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn, có tác dụng to lớn trong việc động viên nhân dân xây dựng kinh tế phát triển lực lợng sản xuất.
Trước kia, do nóng vội, muốn đốt cháy giai đoạn mà chúng ta đã tìm cách xoá
14 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1597 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Quan hệ giữa Lực lượng sản xuất và Quan hệ sản xuất trong nền kinh tế nhiều thành phần vận hành theo định hướng Xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
bỏ các thành phần kinh tế t nhân t bản chỉ thừa nhận hai thành phần kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể. Làm nh vậy là đã đi trái lại quy luật chung, phổ biến của đời sống xã hội đó là quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ phát triển của lực lợng sản xuất.
T tởng về nền kinh tế nhiều thành phần khác nhau đã có từ trớc năm 1986. Ngay sau khi giải phóng miền Nam năm 1975, tuyên bố xây dựng chủ nghĩa xã hội trên quy mô cả nớc, chúng ta đã nói đến thành phần kinh tế. đối với miền Bắc, theo tinh thần đổi mới, rõ ràng chúng ta đã có sự điểu chỉnh quan hệ sản xuất cho phù hợp hơn với yêu cầu phát triển của lực lợng sản xuất, nhằm giải phóng sức sản xuất. Tại Đại biểu toàn quốc lần thứ VI là cái mộc cho việc phát triển nền kinh tế nhiều thành phần ở nớc ta.
Hiện nay chúng ta công nhận các thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội, xác nhận sự tồn tại lâu dài của nó và hơn thế, lại tuyên bố phát triển tất cả các thành phần kinh tế đó theo định hớng xã hội chủ nghĩa. Đây không phải là một giáo điều sách vở mà là một chăn trở lâu dài với nhiều thể nghiệm, có nhiều thành công nhng cũng có khi thất bại, phải làm lại của chúng ta kể từ Hội nghị ban chấp hành Trung ơng Đảng lần thứ VI, khoá VI năm 1979.
Mục tiêu hàng đầu trong việc phát triển các thành phần kinh tế đợc tóm tắt trong 3 điểm: Giải phóng sức sản xuất, nâng cao hiệu quả kinh tế xã hội, cải thiện đời sống nhân dân. Mục tiêu này cũng đã thể hiện nhất quán từ hội nghị Trung ơng lần thứ VI khoá IV.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, một lần nữa khẳng định rằng "cần tiếp tục thực hiện nhất quán, lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế nhiều thành phần vận hành theo định hớng xã hội chủ nghĩa, phát huy mọi nguồn lực để phát triển lực lợng sản xuất, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá". (Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, nhà xuất bản chính trị quốc gia Hà Nội 1996, trang 168).
Vậy, tại sao ở nớc ta hiện nay lại phải duy trì và phát triển một nền kinh tế nhiều thành phần? Cơ sở phơng pháp luận và t duy cho vấn đề này chính là tính quy luật về mối quan hệ giữa lực lợng sản xuất và quan hệ sản xuất. Và đây cũng là nội dung chính của bài tiểu luận triết học này.
II. Giải quyết vấn đề.
1. Nội dung quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lợng sản xuất.
ở mỗi giai đoạn lịch sử nhất định, để tiến hành sản xuất vật chất con ngời phải có những cách thức nhất định. Những cách thức đó đợc phân chia ra thành thách thức về mặt kỹ thuật và về mặt xã hội.
Về mặt kỹ thuật. Để sản xuất ngời ta phải sử dụng những phơng tiện kỹ thuật nhất định nh: Công cụ lao động, đối tợng lao động, trình độ lao động... tất cả những yếu tố nh vậy hợp thành hệ thống lực lợng sản xuất. Trong hệ thống đó, yếu tố ngời lao động cùng với kỹ năng, trình độ lao động là yếu tố quan trọng nhất. Vì vậy mà Lênin viết: "Lực lợng sản xuất hàng đầu của toàn thể nhân loại là công nhân, là ngời lao động " (V.I.Lênin, "toàn tập" Trang 38 nhà xuất bản tiến bộ, năm 1977). Chính công cụ lao động sáng tạo của con ngời là yếu tố quyết định đến năng suất lao động. Với ý nghĩa đó, xét đến cùng năng suất lao động là tiêu chuẩn cơ bản để đánh giá trình độ của lực lợng sản xuất trong một xã hội.
Nh vậy, lực lợng sản xuất là một phơng diện cấu thành phơng thức sản xuất. Đó là phơng diện vật chất kỹ thuật của quá trình sản xuất. Nó biểu hiện mối quan hệ giữa con ngời với tự nhiên và thể hiện trình độ trinh phục tự nhiên của con ngời.
Về mặt xã hội thì đó là cách thức con ngời quan hệ với nhau để tiến hành sản xuất ra của cải vật chất. Phơng diện đó đợc gọi là hệ thống các quan hệ sản xuất. Hệ thống này bao gồm 3 mặt quan hệ cơ bản sau: Quan hệ sở hữu đối với t liệu sản xuất, quan hệ trong tổ chức và quản lý sản xuất, quan hệ phân phối sản phẩm lao động. Ba mặt quan hệ nói trên là một thể thống nhất hữu cơ tạo thành quan hệ sản xuất. Trong đó quan hệ sở hữu về t lieu sản xuất có ý nghĩa quyết định đối với cung cấp mặt quan hệ khác.
Vậy quan hệ sản xuất cũng là một phơng diện của phơng thức sản xuất. Nó là phơng diện vật chất xã hội của quá trình sản xuất. Tính vật chất của quan hệ sản xuất thể hiện ở chỗ nó tồn tại khách quan, độc lập hoàn toàn với ý thức của con ngời. Mác đã chỉ ra rằng: Trong sự sản xuất xã hội ra đời sống của mình, con ngời có những quan hệ nhất định tất yếu không phụ thuộc vào ý muốn của họ, nó là cung cấp quan hệ sản xuất, những quan hệ này phải phù hợp với những trình độ quan hệ nhất định của cung cấp lực lợng sản xuất vật chất. Vì thế, con ngời không thể tuỳ tiện lựa chọn quan hệ sản xuất riêng cho mình bởi chúng luôn luôn là kết quả tất yêú của sự phát triển của một lực lợng sản xuất vật chất hiện có tơng ứng với nó.
Nh vậy, lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt của phơng thức sản xuất. Chúng tồn tại không tách rời nhau mà tác động biện chứng lẫn nhau hình thành lên một trong những quy luật cơ bản và quan trọng nhất của qúa trình sản xuất xã hội và của toàn bộ lịch sử xã hội: quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ phát triển của lực lợng sản xuất. Quy luật này chỉ rõ tính chất phụ thuộc khách quan của quan hệ sản xuất vào sự phát triển của lực lợng sản xuất và đến lợt mình, quan hệ sản xuất tác động trở lại lực lợng sản xuất.
2. Vấn đề phát triển nền kinh tế nhiều thành phần ở Việt Nam hiện nay.
Việc xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lợng sản xuất luôn luôn là yêu cầu tất yếu đặt ra cho mỗi chế độ xã hội. Đối với nớc ta cũng vậy. Chúng ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ t bản từ điểm xuất phát còn thấp cả về lực lợng sản xuất và quan hệ sản xuất, lên việc xây dựng từng bớc quan hệ sản xuất mới để thúc đẩy lực lợng sản xuất mới phát triển lại càng quan trọng.
Trớc đây, do nhận thức sai lầm về mô hình xã hội chủ nghĩa, do cách làm duy ý trí nóng vội, chủ quan và muốn đốt cháy giai đoạn và do coi sở hữu toàn dân là mục đích nên chúng ta đã mau chóng thiết lập chế độ công hữu về t liệu sản xuất. từ đó dẫn đến việc chỉ chú trọng phát triển nền kinh tế với hai thành phần chủ yếu là kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể trong khi đó các thành phần kinh tế khác đều bị coi là phi xã hội chủ nghĩa, bị kìm hãm và xoá bỏ, tình trạng này đã làm nảy sinh những mâu thuẫn với lực lợng sản xuất còn thấp kém, lạc hâu, kìm hãm sự phát triển của nền kinh tế.
Từ thực tiễn đời sống, đại hội đại biểu lần thứ VI đã rút ra một bài học là không thể giải vấn đề cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với cung cấp thành phần kinh tế ngoài quốc doanh và tập thể. Đại hội cho rằng việc cải tạo xã hội chủ nghĩa phải là một nhiệm vụ thờng xuyên, liên tục trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội vì vậy đại hội VI đã đặt nền móng cho sự phát triển một nền kinh tế nhiều thành phần ở nớc ta, kiên quyết từ bỏ ý định xoá bỏ nhanh chóng các thành phần kinh tế ngoài quyết doanh và tập thể mà hai Đại hội trớc đó đã ghi vào nghị quyết phải căn bản hoàn thành.
Nh vậy, chủ trơng phát triển nền kinh tế nhiều thành phần của Đại hội VI là rất đúng đắn, đồng thời nó cũng phù hợp với quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ phát triển của lực lợng sản xuất? Vì sao chúng ta lại có thể khẳng định nh vậy về sự cần thiết khách quan tồn tại nhiều thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ hiện nay ở nớc ta.
Trớc hết, đó là vì ở nớc ta hiện nay, lực lợng sản xuất còn đa dạng và không đồng đều về tính chất và trình độ phát triển. Đó là do hai nguyên nhân cơ bản sau:
Một là do nguồn gốc lịch sử để lại. ở nớc ta hiện nay, hầu hết các cuộc cách mạng là không triệt để, cùng với những cuộc chiến tranh kéo dài khiến cho lực lợng sản xuất lạc hậu, năng suất lao động tiêu chuẩn cơ bản để đánh giá trình độ của lực lợng sản xuất còn thấp. Chế độ phong kiến và chế độ thực dân nửa phong kiến đã để lại hậu quả nặng nền: nền sản xuất tiểu nông, thủ công, cha đủ tái sản xuất giản đơn. Ngời lao động chủ yếu là nông dân, hoạt động sản xuất chỉ dựa vào kinh nghiệm và phụ thuộc chặt chẽ vào thời tiết. Hơn thế nữa những thế lực ngoại xâm lại luôn tìm cách thi hành chính sách "ng dân", nhằm khiến cho yếu tố quan trọng nhất của lực lợng sản xuất là ngời lao động không thể phát huy đợc thế mạnh của mình.
Hai là do quá trình giao lu khoa học - kỹ thuật và kinh tế của nớc ta với quốc tế. Chúng ta đang sống trong thời đại của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại nên xu thế mở cửa để đón nhận những thành tựu của thế giới là tất yếu. Tận dụng tốt đợc những phát minh, thành tựu, kinh nghiệm quý báu của các nớc khác, cùng với nâng cao trình độ tay nghề, chuyên môn, trình độ nhận thức của ngời lao động Việt Nam. chúng ta sẽ có cơ sở vững chắc về lực lợng sản xuất, để tiến kịp các nớc khác trên thế giới và thực hiện sự phát triển rút ngắn, bỏ qua chế độ t bản chủ nghĩa, tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội.
Nh vậy, do hai nguyên nhân trên mà lực lợng sản xuất ở nớc ta còn đa dạng và không đồng đều về tính chất và trình đoọ phát triển. Sự không đồng đều đó không chỉ diễn ra giữa các vùng trên đất nớc, giữa các ngành mà thậm chí ở ngay trong nội bộ một ngành. Chính vì thế, chúng ta không thể nóng vội và nhất loạt xây dựng quan hệ sản xuất một thành phần dựa trên cơ sở chế độ công hữu xã hội chủ nghĩa về t liệu sản xuất nh trớc Đại hội VI mà tất yếu phải duy trì nenè kinh tế với nhiều thành phần.
Nếu làm nh trớc đại hội VI thì chúng ta rõ ràng đã đẩy quan hệ sản xuất đi quá xa so với trình độ của lực lợng sản xuất. Bởi theo quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ phát triển của lực lợng sản xuất, quá trình cải tạo xã hội chủ nghĩa phải có bớc đi và hình thức thích hợp. Kinh nghiệm thực tế đã chỉ rõ rằng: lực lợng sản xuất bị kìm hãm không chỉ trong trờng hợp quan hệ sản xuất lạc hậu, mà ngay cả khi quan hệ sản xuất phát triển không đồng bộ, có những yếu tố đi quá xa so với trình độ phát triển của lực lợng sản xuất. Từ tình hình thực tế của nớc ta đòi hỏi chúng ta phải coi trọng những hình thức kinh tế trung gian, quá độ từ thấp lên cao, từ quy mô nhỏ lên quy mô lớn. Trong mỗi bớc đi của quá trình cải tạo xã hội chủ nghĩa, phải đẩy mạnh việc xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, tạo ra lực lợng sản xuất mới, để trên cơ sở đó tiếp tục đa quan hệ sản xuất lên hình thức và quy mô mới thích hợp để thúc đẩy lực lợng sản xuất phát triển.
Bên cạnh đó, cũng phải thấy rằng sự cần thiết khách quan duy trì nền kinh tế nhiều thành phần ở nớc ta hiện nay là do kinh tế là cơ sở của xã hội nên trong quá trình đi lên chủ nghĩa xã hội chúng ta cần phải xây dựng một nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lợng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất phù hàng hợp.
Nớc ta thuộc loại nớc có dân số trẻ, có nguồn lao động dồi dào. Nhiều ngời có sức lao động, mong muốn làm việc, nhng cha có đợc việc làm và cũng có nhiều ngời cha sử dụng hết thời gian lao động có thể mà khả năng thu hút sức lao động của khu vực kinh tế nhà nớc lại hạn chế. Cũng không thể đa những ngời làm ăn cá thể vào các tổ chc kinh tế tập thể trong một thời gian ngắn và có những ngành, nghề nếu đa vào làm ăn tập thể không đảm bảo hiệu quả. Trong khi nguồn vốn của nhà nớc và tập thể còn hạn hẹp thì nguồn vốn d thừa trong nhân dân lại chỉ đa vào tiêu dùng hoặc cất giữ. Vì thế, phải có chính sách mở đờng cho ngời lao động tự tạo ra việc làm, khuyến khích mọi ngời đa vốn vào sản xuất, kinh doanh, tiết kiệm tiêu dùng để tích luỹ, mở rộng tái sản xuất trên quy mô toàn xã hội.
Xuất phát từ sự đánh giá những tiềm năng tuy phân tán nhng lại rất quan trọng trong nhân dân, cả về sức lao động, tiền vốn và kỹ thuật, khả năng tạo việc làm, Đảng ta đã chủ trơng đi đôi với việc phát triển kinh tế quốc doanh, kinh tế tập thể, cần có chính sách sử dụng và cải tạo đúng đắn các thành phần kinh tế khác.
Quá trình phân tích nh trên cho thấy sự tồn tại và phát triển nền kinh tế nhiều thành phần là một tất yếu kinh tế khách quan và có nhiều lợi ích to lớn trong thời kỳ quá độ. Nó vừa phù hợp với lý luận của Lênin về đặc điểm kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và thể hiện sự vận dụng đúng đắn của quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lợng sản xuất.
Sự tồn tại nền kinh tế nhiều thành phần không chỉ là một tất yếu khách quan mà còn đem lại lợi ích to lớn bởi vì:
Một là, nền kinh tế tồn tại nhiều thành phần, có nghĩa là tồn tại nhiều hình thức quan hệ sản xuất nên phù hợp với thực trạng thấp kém và không đồng đều của lực lợng sản xuất. Sự phù hợp này đe4én lợt nó lại có tác dụng thúc đẩy tăng năng suất lao động, tăng trởng kinh tế, tạo điều kiện nâng cao hiệu quả kinh tế trong các thành phần kinh tế và trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân ở nớc ta.
Hai là, cỉ phải phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, chúng ta mới có thể khai thác, huy động và sử dụng có hiệu quả sức mạnh tổng hợp của các thành phần kinh tế trong nớc, tạo điều kiện khai thác sức mạnh về vốn, khoa học và công nghệ mới trên thế giới.
Ba là, phát triển nền kinh tế nhiều thành phần giúp chúng ta có khả năng giải quyết một số lợng lớn công ăn việc làm cho nhân dân một vấn đề bức xúc trong xã hội ta nhằm thực hiện dân chủ trong kinh tế. Bên cạnh đó còn huy động đợc mọi tiềm năng về vốn, kỹ thuật trong nhân dân và phát huy những thế mạnh vốn có của con ngời Việt Nam, đẩy nhanh sự phát triển của lực lợng sản xuất.
Bốn là, nền kinh tế nhiều thành phần có tác dụng tích cực bởi nó tạo ra sự đa dạng về quy mô và trình độ của sản xuất, phù hợp với hiện trạng về cơ sở vật chất và trình độ kỹ thuật của nớc ta. Đồng thời nó còn tạo ra môi trờng thuận lợi hco sự liên kết và liên doanh với nớc ngoài.
Năm là, nó tạo điều kiện thực hiện và mở rộng các hình thức kinh tế quá độ, nhng những "cầu nối" và trạm "trung gian" cần thiết để đa nớc ta từ sản xuất nhỏ đi lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ t bản chủ nghĩa.
Dĩ nhiên, bên cạnh những mặt tích cực, các thành phần này cũng có những mặt tiêu cực của nó. Vì thế các chính sách của nhà nớc đa ra phải phù hợp khéo léo làm giảm bớt những tác động tiêu cực đó, đồng thời tận dụng đợc những u điểm của nó.
Từ Đại hội VI đến nay, chúng ta luôn luôn nhất quán chính sách phát triển nền kinh tế nhiều thành phần. Đại hội VII của Đảng cộng sản Việt Nam đã khẳng định rằng nớc ta có các thành phần kinh tế sau:
+ Kinh tế nhà nớc: Là thành phần kinh tế dựa trên chế độ sở hữu nhà nớc về t liệu sản xuất chủ yếu, gồm các đơn vị kinh tế mà toàn bộ vốn thuộc về nhà nớc hoặc phần của nhà nớc chiếm tỷ lệ khống chế.
+ Kinh tế hợp tác: Là thành phần mà chủ thể là các nhà t bản và nhà nớc cũng góp vốn để hoạt động sản xuất kinh doanh.
+ Kinh tế cá thể, tiểu chủ: Là thành phần dựa trên chế độ t hữu về t liệu sản xuất và lao động của bản thân ngời sản xuất.
+ Kinh tế t bản t nhân: Là thành phần kinh tế dựa trên chế độ t hữu t bản chủ nghĩa và bóc lột lao động làm thuê.
Sự chuyển hoá của các thành phần kinh tế trong quá trình đi lên chủ nghĩa xã hội diễn ra dới nhiều hình thức, phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lợng sản xuất, thúc đẩy nền sản xuất xã hội phát triển mạnh mẽ và có hiệu quả
III. Kết luận và những giải pháp
Nh vậy, quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ phát triển của lực lợng sản xuất quả thật là quy luật cơ bản, quan trọng nhất không những của kinh tế mà còn của cả lịch sử xã hội. Nó chỉ rõ tính chất phụ thuộc khách quan của quan hệ sản xuất vào sự phát triển của lực lợng sản xuất và đến lợt mình, quan hệ sản xuất cũng có những tác động trở lại đối với lực lợng sản xuất.
Việc phát triển chính sách kinh tế nhiều thành phần ở nớc ta hiện nay là sự vận dụng đúng đắn quy luật này. Từ khi đợc khẳng định, chủ trơng chiến lợc này đã đi vào cuộc sống, góp phần giải phóng sức sản xuất, tạo ra sự chuyển biến mạnh mẽ trong nền kinh tế nớc ta, khắc phục về căn bản khủng hoảng kinh tế xã hội,đẩy bùi lạm phát, đa nền kinh tế nớc ta tăng trởng và phát triển nhanh, cai thiện đời sống nhân dân.
Rõ ràng, chính sách phát triển nhiều thành phần kinh tế là phù hợp bởi ở nớc ta lực lợng sản xuất còn có sự không đồng đều và đa dạng về tính chất còn có sự không đồng đều và đa dạng về tính chất cũng nh trình độ phát triển bởi nhiều nguyên nhân.
ý thức đợc sự tồn tại khách quan đặc trng của nền kinh tế quá độ ở nớc ta, chúng ta phải đa ra những giải pháp, những chính sách nhằm thực hiện tốt chủ trơng phát triển nền kinh tế nhiều thành phần của Đảng ta. Có thể khái quát thành những giải pháp sau:
Một là, giải phóng mọi lực lợng sản xuất, mọi tiềm năng đã bị kìm hãm trớc đây của các thành phần kinh tế, nhằm khai thác và đa vào sử dụng có hiệu quả chúng.
Hai là, đa ra những chính sách nhằm khuyến khích các thành phần kinh tế trớc đây bị coi là phi xã hội chủ nghĩa nh kinh tế t bản t nhân, kinh tế t bản nhà nớc ... đầu t vào sản xuất, tạo điều kiện thuận lợi cho các thành phần này yên tâm đầu t lâu dài, mọi thành phần kinh tế đều bình đẳng, cho phép vay vốn sản xuất, bảo hộ quyền sở hữu và lợi ích hợp pháp của các nhà t bản, áp dụng phổ biến và phát triển đa dạng các hình thức kinh tế t bản nhà nớc.. .
Ba là, thành phần kinh tế nhà nớc phải đợc củng cố và tăng cờng phát triển nhằm giữ vai trò chủ đạo, định hớng xã hội chủ nghĩa cho các thành phần kinh tế khác, nhằm giữ cho các thành phần kinh tế đó không vợt quá quỹ đạo cho phép.
Các giải pháp có tính định hớng trên phải đợc thực hiện thông qua việc xoá bỏ một cách triệt để cơ chế tập trung chỉ huy quan liêu bao cấp, chuyển sang cơ chế thị trờng có sự quản lý của nhà nớc bằng pháp luật, kế hoạch, chính sách và các công cụ khác.
Để hoàn thành đợc bài tiểu luận này em xin chân thành cảm ơn thầy giáo Phạm Văn Duyên, ngời đã tận tình giảng dậy và hớng dẫn bộ môn Triết học cho em.
Danh mục tài liệu tham khảo
1. Triết học Mác - Lênin (tập II) NXB chính trị quốc gia
2. Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI - NXB sự thật
3. Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII - NXB chính trị quốc gia
4. Tạp chí cộng sản
5. Tạp chí Triết học
6. Tạp chí kinh tế phát triển
7. Kinh tế chính trị - NXB Giáo dục
8. Bài giảng của Thầy giáo Phạm Văn Duyên
9. Hỏi - đáp - Triết học - NXB chính trị Quốc gia
Mục lục
I. Đặt vấn đề 1
II. Giải quyết vấn đề. 3
1. Nội dung quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. 3
2. Vấn đề phát triển nền kinh tế nhiều thành phần ở Việt Nam hiện nay. 4
III. Kết luận và những giải pháp 10
Danh mục tài liệu tham khảo 12
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- T0005.doc