Phương hướng & giải pháp nhằm tăng cường huy động vốn FDI vào Việt Nam

Lời nói đầu Trong bối cảnh kinh tế thế giới có nhiều thay đổi, với quá trình quốc tế hoá đời sống kinh tế xã hội diễn ra nhanh chóng. Nền kinh tế đất nước ngày càng gắn liền với nền kinh tế thế giới và khu vực, với những cam kết và lịch trình cụ thể một mặt tạo ra nhiều cơ hội mới về thương mại quốc tế, thu hút vốn đầu tư FDI, chuyển giao công nghệ, kỹ năng quản lý . Nhưng đồng thời nó cũng tạo ra nhiều thách thức, nhiều yếu tố ảnh hưởng đến quá trình phát triển kinh tế của đất nước và một tron

doc74 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1492 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Phương hướng & giải pháp nhằm tăng cường huy động vốn FDI vào Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g những yếu tố ảnh hưởng lớn nhất đến quá trình phát triển kinh tế của đât nước đó là ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính tiền tệ châu á. Nó ảnh hưởng đến tất cả các mặt kinh tế xã hội của đất nước, của khu vực và còn lan rộng ra các khu vực khác trên thế giới và một trong những lĩnh vực chịu ảnh hưởng lớn nhất là lĩnh vực thu hút vốn FDI. Giữa năm 1997 cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ châu á đã nổ ra và gây ra tác hại nghiêm trọng đến kinh tế - chính trị - xã hội của một loạt các nước trong khu vực. Việt Nam là một trong nước nằm trong khu vực bị khủng hoảng, mặc dù mức độ ảnh hưởng không lớn so với các nước trong khu vực nhưng cũng gây ra những thiệt hại không nhỏ cho nền kinh tế, và một trong những lĩnh vực ảnh hưởng nhiều nhất là đầu tư trực tiếp từ nước ngoài làm cho dòng vốn chảy vào Việt Nam và khu vực giảm đi một cách nhanh chóng. Đến nay cuộc khủng hoảng phần nào đã dịu bớt đi, các nước trong khu vực đã phần nào phục hồi nền kinh tế và dần tăng lên. Nền kinh tế Việt Nam cũng đã dần dần tăng trưởng trở lại nhưng dòng vốn FDI vào Việt Nam chưa được cải thiện là bao nhiêu. Do vậy vấn đề thu hút vốn FDI vào Việt Nam trong giai đoạn này là hết sức cần thiết để đưa đất nước vực dậy sau cơn khủng hoảng. Từ những vấn đề cấp thiết đó và với sự gợi ý, giúp đỡ giáo viên hướng dẫn, cán bộ hướng dẫn do vậy đề tài nghiên cứu tập trung vào vấn đề sau: Phương hướng và giải pháp nhằm tăng cường huy động vốn FDI vào Việt Nam thời kỳ hậu khủng hoảng tài chính tiền tệ châu á: Đề tài này tập trung vào phân tích đánh giá tình hình thu hút vốn FDI và đặc biệt là ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ châu á. Trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp nhằm cải thiện phần nào việc huy động vốn FDI vào Việt Nam giai đoạn tới. Đề tài này bao gồm các nội dung chủ yếu sau: Phần I: Vai trò của vốn đầu tư , vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) với tăng trưởng và phát triển kinh tế. Phần II: Thực trạng huy động vốn FDI ở Việt Nam giai đoạn 1988 - 1999 Phần III: Phương hướng và giải pháp nhằm tăng cường huy động vốn FDI vào Việt Nam giai đoạn 2000 - 2005. Em xin chân thành cảm ơn thầy giáo và các cô chú trong Ban phân tích và dự báo kinh tế xã hội - Viện chiến lược phát triển - Bộ kế hoạch đầu tư đã trực tiếp hướng dẫn em hoàn thành đề tài này. Do trình độ còn hạn chế nên đề tài này không tránh khỏi những khiếm khuyết. Do vậy em rất mong nhận được sự đóng góp, góp ý của các thầy cô để đề tài được hoàn thiện hơn. Phần I Vai trò của vốn đầu tư. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) với tăng trưởng và phát triển kinh tế. I-/ Tổng quan về vốn đầu tư : 1-/ Khái niệm về vốn đầu tư: Trong điều kiện nền kinh tế sản xuất hàng hoá để tiến hành bất kỳ hoạt động sản xuất kinh doanh nào đều cần phải có tiền. Đối với các cơ sở sản xuất kinh doanh mới hình thành, số tiền này được dùng để xây dựng nhà xưởng, mua sắm trang thiết bị...để tạo ra các cơ sở vật chất kỹ thuật (các tài sản cố định) cho các cơ sở này tạo ra vốn lưu động thông qua hoạt động mua sắm nguyên vật liệu, trả luơng cho người lao động... trong chu kỳ sản xuất kinh doanh đầu tiên. Đối với các cơ sở sản xuất kinh doanh hoạt động, thì số tiền này dùng để mua sắm thêm máy móc thiết bị xây dựng thêm nhà xưởng hoặc mua sắm thêm các tài sản cố định thay thế các tài sản cố định đã bị hư hỏng hoặc đã bị hao mòn. Số tiền cần thiết để tiến hành các hoạt động là rất lớn, không thể trích ra một lúc từ các khoản chi tiêu thường xuyên của các cơ sở, các xã hội vì điều này sẽ làm xáo động mọi hoạt động bình thường của sản xuất và sinh hoạt của xã hội. Do vậy số tiền sử dụng cho các hoạt đọng trên đây chỉ có thể là tiền tích luỹ của xã hội, của các cơ sở sản xuất kinh doanh là tiền tiết kiệm của nhân dân và vốn huy động từ nước ngoài. Từ đây ta có thể rút ra định nghĩa ngắn gọn về vốn đầu tư. Vốn đầu tư là tiền tích luỹ của xã hội, của các cơ sở sản xuất kinh doanh, là tiền tiết kiệm của nhân dân đưa vào nhằm thay thế tài sản cố định bị loại thải để tăng tài sản cố định mới và tăng tài sản tồn kho. 2-/ Các nguồn hình thành vốn đầu tư: Bất kỳ một xã hội nào muốn phát triển không ngừng đều phải tiến hành đầu tư để đảm bảo quá trình tái sản xuất giản đơn và tái sản xuất mở rộng. Cụ thể là phải tạo ra các nguồn đầu vào cho sản xuất như sức lao động, tư liệu lao động. Nói cách khác chúng ta cần phải có tiền để trang trải các chi phí ứng trước này. Nhưng nguồn vốn đầu tư lấy từ đâu? Con đường duy nhất là lấy từ phần tiết kiệm trong số của cải làm ra. Do đó vấn đề đầu tiên phải giải quyết là mối quan hệ giữa tiêu dùng và tích luỹ, tức là giải quyết vấn đề tiết kiệm trong quá trình tái sản xuất mở rộng. Trong điều kiện thế giới hiện nay, nguồn tiết kiệm này bao gồm cả nguồn vốn trong nước và nguồn vốn ngoài nước. 2.1 Nguồn vốn đầu tư trong nước: * Vốn ngân sách Nhà nước: Được hình thành từ quỹ tiết kiệm ngân sách. Tiết kiệm ngân sách của Nhà nước là khoản chênh lệch giữa tổng thu ngân sách và chi của Chính phủ. Tổng thu của Chính phủ chủ yếu là từ thuế, ngoài ra còn có từ bán, cho thuê tài nguyên, tài sản thuộc khu vực Nhà nước và các khoản phí khác. Tổng chi của chính phủ bao gồm: chi mua hàng hoá dịch vụ, chi trả lương cho cán bộ hành chính sự nghiệp, chi trợ cấp, chi trả lãi tiền vay. * Vốn tự có của doanh nghiệp: được hình thành từ lợi nhuận để lại của doanh nghiệp để bổ sung cho vốn kinh doanh. * Vốn của tư nhân và vốn các hộ gia đình: là các khoản tiết kiệm từ các nguồn thu có được từ dân cư và từ các hộ gia đình. * Vốn của các tổ chức tín dụng: là nguồn vốn được các tổ chức tín dụng huy động từ vốn nhàn rỗi của các doanh nghiệp, các hộ gia đình và dân cư.. thông qua các kênh tín dụng. Kinh nghiệm của một số nước trong khu vực và trên thế giới cho thấy muốn có tối đa tăng trưởng kinh tế nhanh thì phải có thời kỳ tích luỹ, và lượng tích luỹ nhiều. Những nước huy động vốn từ trong nước thì tỷ lệ tích luỹ từ GDP phải cao thì mới có thể tạo đà phát triển ở kỳ sau. Bởi nguồn vốn trong nước phụ thuộc vào các nhân tố như: quy mô và tốc độ tăng GDP, quan hệ tích luỹ và tiêu dùng, tiêu dùng và đầu tư. ở các nước đang phát triển như Việt nam thì tỷ lệ tích luỹ, tỷ lệ đầu tư vẫn còn thấp trong khi ỷ lệ tiêu dùng GDP cao. Đây là điểm yếu mà các nước đang phát triển phải khắc phục bằng cáh tăng tỷ lệ tiết kiệm hoặc huy độnh vốn đầu tư nước ngoài. 2.2 Nguồn vốn đầu tư nước ngoài. * Nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức ODA: Hỗ trợ phát triển chính thức ODA là tất cả các khoản viện trợ không hoàn lại và các khoản viện trợ có hoàn lại (cho vay dài hạn với lãi suất thấp và thời gian gia hạn dài) của chính phủ, các nước của tổ chức liên hợp quốc, các tổ chức phi chính phủ, tổ chức tài chính quốc tế như: ngân hàng thế giới (WB), ngân hàng phát triển châu á (ADB), quỹ tiền tệ quốc tế dành cho chính phủ nhân dân nước viện trợ mà chủ yếu dành cho các nước đang phát triển nhằm thúc đẩy sự phát triển kinh tế và phúc lợi của các nước này. - Hỗ trợ phát triển chính thức có các đặc điểm: + Là nguồn vốn tài trợ ưu đãi của nước ngoài, các nhà tài trợ không trực tiếp điều hành dự án nhưng có thể tham gia gián tiếp. + Nguồn vốn ODA gồm viện trợ không hoàn lại và các khoản viện trợ ưu đãi. + Các nước nhận vốn ODA phải có một số điều kiện nhất định theo quy định của từng nhà tài trợ mới được nhận tài trợ. + Chủ yếu dành sự hỗ trợ cho các dự án đầu tư vào cơ sở hạ tầng như giao thông vận tải, y tế, giáo dục... + Các nhà tài trợ là các tổ chức viện trợ đa phương hoặc các tổ chức viện trợ song phương. - Các hình thức của hỗ trợ phát triển ODA: + Hỗ trợ dự án: Đây là hình thức đầu tư chủ yếu của vốn ODA. + Hỗ trợ phi dự án: chủ yếu là viện trợ chương trình đạt được sau khi ký các hiệp định với các đối tác tài trợ dành cho một mục đích tổng quát với thời gian nhất định. + Hỗ trợ cán cân thanh toán. + Tín dụng thương mại: là những khoản tín dụng dành cho chính phủ các nước sở tại với các điều khoản “mềm” về lãi suất, thời gian ân hạn, thời hạn trả dài nhưng có những ràng buộc nhất định. * Viện trợ của các tổ chức phi chính phủ (non - Government organization - NGO). Viện trợ NGO đều là các viện trợ không hoàn lại, trước đây loại viện trợ này chủ yếu là vật chất, đáp ứng những nhu cầu nhân đạo như: cung cấp thuốc men cho các trung tâm y tế, lương thức cho các nạn nhân thiên tai,...Hiện nay hình thức này lại được thực hiện nhiều hơn bằng các chương trình phát triển dài hạn, có sự hỗ trơ của các chuyên gia thường trú về các mặt như huấn luyện những người làm công tác bảo vệ sức khoẻ, thiết lập các dự án tín dụng, cung cấp nước sạch ở nông thôn, cung cấp dinh dưỡng và sức khoẻ ban đầu.. * Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ( Foreign Direct investment - FDI) Đây là nguồn vốn của tư nhân nước ngoài đối với các nước đang phát triển, là nguồn vốn lớn có ý nghĩa quan trọng đối với phát triển kinh tế. Đầu tư trực tiếp nước ngoài có những đặc điểm sau: - Đây là hình thức đầu tư bằng vốn của tư nhân do các chủ đầu tư nước ngoài quyết định đầu tư, quyết định sản xuất kinh doanh và tự chịu trách nhiệm về lỗ lãi. Hình thức này mang tính khả thi và hiệu quả kinh tế cao, không có những ràng buộc về chính trị, không để lại gánh nặng nợ nần cho nền kinh tế. - Chủ đầu tư nước ngoài điều hành toàn bộ mọi hoạt động đầu tư nếu là doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài, hoặc tham gia điều hành doanh nghiệp liên doanh tuỳ theo tỷ lệ góp vốn của mình. Đối với nhiều nước trong khu vực chủ đầu tư chỉ được thành lập doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài trong một số lĩnh vực nhất định và chỉ được tham gia liên doanh với số vốn cổ phần của bên nước ngoài nhỏ hơn 49%. Trong khi đó, Luật đầu tư nước ngoài của Việt Nam cho phép rộng rãi hơn đối với hình thức 100% vốn nước ngoài và quyết định bên nước ngoài phải góp tối thiểu 30% vốn pháp định của dự án. - Thông qua đầu tư trực tiếp nước ngoài, nước chủ nhà có thể tiếp nhận công nghệ, kỹ thuật tiên tiến, học hỏi quản lý... là những mục tiêu mà các hình thức đầu tư khác không giải quyết được. - Nguồn vốn đầu tư này không chỉ bao gồm vốn đầu tư ban đầu của chủ đầu tư dưới hình thức vốn pháp định mà trong quá trình hoạt động nó còn bao gồm cả vốn vay của doanh nghiệp để triển khai và mở rộng dự án cũng như vốn đầu tư từ lợi nhuận thu được. II-/ Vai trò của vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài với tăng trưởng, phát triển kinh tế và các hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài. 1-/ Vai trò của vốn đầu tư với tăng trưởng kinh tế. Đầu tư là bộ phận lớn và hay thay đổi trong chi tiêu. Do đó, những thay đổi trong đầu tư có thể tác động lớn đến tăng trưởng và phát triển kinh tế. Để đo lường hiệu quả của vốn đầu tư thấy được vai trò của vốn đầu tư với tăng trưởng kinh tế, ta lần lượt xem xét các lý thuyết: 1.1 Mô hình tái sản xuất mở rộng của K. Mác. Trong tác phẩm “Tư bản”, K.Mác đã dành phần quan trọng để nghiên cứu về cân đối kinh tế về mối quan hệ về giữa hai khu vực của nền sản xuất xã hội để đảm bảo quá trình tái sản xuất và tái sản xuất mở rộng và các vấn đề trực tiếp liên quan đến tích luỹ. Với những giả định về một nền kinh tế không có trao đổi ngoại thương K.Mác đã chững minh điều kiện để đảm bảo quá trình tái sản xuất mở rộng không ngừng. Nền kinh tế chia thành hai khu vực: Khu vực I: Sản xuất tư liệu sản xuất. Khu vực II: Sản xuất tư liệu tiêu dùng. Và cơ cấu tổng giá trị của các khu vực bao gồm (C+V+M) trong đó C là phần tiêu hao vật chất; V+M là giá trị mới sáng tạo ra. Để quá trình tái sản xuất mở rộng được thực hiện phải đảm bảo giá trị mới sáng tạo ra (V+M)I của khu vực I phải lớn hơn tiêu hao vật chất CII của khu vực II: (V+M) > CII hay là (C+V+M)I > (CI+CII) Như vậy, tư liệu sản xuất làm ra không những chỉ bồi hoàn cho những tiêu hao (CI+CII) trong cả hai khu vực của nền kinh tế mà tư liệu sản xuất còn phải sản xuất dư thừa để tham gia quá trình đầu tư làm tăng thêm quy mô tư liệu sản xuất trong quá trình sản xuất tiếp theo. Quá trình tái sản xuất xã hội bao quát nhiều quá trình rộng lớn từ lực lượng sản xuất cho đến quan hệ sản xuất. Đầu tư là nhằm tạo ra vốn sản xuất, một yếu tố quan trọng cùng với tái tạo lưc lượng lao động sẽ đảm bảo quá trình tái sản xuất không ngừng. Trong điều kiện mới của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ ngày nay, đầu tư với số vốn như trước cũng có thể tạo ra những vốn sản xuất có năng lực lớn hơn. Ví dụ một máy phát điện kiểu mới chạy bằng khí với công suất tương tự một máy phát điện chạy bằng dầu có thể chỉ mua với giá bằng 60 - 70%. Như vậy trong điều kiện ngày nay đầu tư không chỉ bảo đảm quá trình tái sản xuất mà còn man theo những yếu tố tiến bộ: năng suất cao hơn, chất lượng sản phẩm tốt hơn, ít ô nhiễm môi trường bảo vệ sức khoẻ người dân... Kết quả là nếu có phương hướng và chính sách đầu tư đúng đắn thì sẽ đảm bảo cao quá trình tái sản xuất mở rộng không ngừng, kết hợp tốt giữa đầu tư phát triển và cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của người dân. 1.2 Mô hình tăng trưởng của Harrod - Domas Dựa vào tư tưởng của Keynes, vào những năm 40, với sự nghiên cứu của một cách độc lập hai nhà kinh tế học là Roy Harrod ở Anh và Evsay Domas ở Mỹ đã đưa ra mô hình giải thích mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và thất nghiệp ở các nước phát triển, mô hình này cũng được sử dụng rộng rãi ở các nước đang phát triển để xem xét mối quan hệ giữa tăng trưởng và các nhu cầu về vốn. Mô hình này coi đầu ra của bất kỳ đơn vị nào, dù là một công ty, một ngành, hay toàn bộ nền kinh tế phụ thuộc vào tổng số vốn đầu tư cho nó. Nếu gọi đầu ra là Y, tỷ lệ tăng trưởng của đầu ra là g. g = Nếu gọi s là tỷ lệ tích luỹ trong GDP và mức tích luỹ là S: s = vì tiết kiệm là nguồn gốc của đầu tư cho nên về lý thuyết đầu tư luôn bằng tiết kiệm St = It s = Đầu tư là cơ sở tạo ra vốn sản xuất do It = DKt + 1 Nếu gọi k là tỷ số gia tăng giữa vốn - đầu ra ta sẽ có: k = hay k = vì = = do đó ta có g = Trong đó: S: số tiền tiết kiệm hàng năm. I: Vốn đầu tư hàng năm. K: Vốn sản xuất hàng năm. ở đây k gọi là hệ số ICOR (hệ số gia tăng vốn và đầu ra). Hệ số này nói lên rằng vốn được tạo ra bằng đầu tư là yếu tố cơ bản của tăng trưởng. Hệ số này cũng phản ánh trình độ kỹ thuật của sản xuất và là số đo năng lực sản xuất của đầu tư. Hệ số ICOR giữa các nước khác nhau là khác nhau. Các nước càng phát triển thì hệ số ICOR càng lớn. Kinh nghiệm các nước cho thấy chỉ tiêu ICOR phụ thuộc mạnh vào cơ cấu kinh tế và hiệu quả đầu tư trong các ngành các lãnh thổ cũng như phụ thuộc vào hiệu quả của chính sách kinh tế nói chung. Thông thường ICOR trong nông nghiệp thấp hơn trong công nghiệp, ICOR trong giai đoạn chuyển đổi cơ chế (chủ yếu tận dụng do năng lực sản xuất sẵn có) thấp hơn trong giai đoạn tạo tiền đề cho đẩy mạnh công nghiệp hoá (phải xây dựng cơ sở hạ tầng quy mô lớn trong những năm tới). Tóm lại, mặc dù mô hình Harrod - Domas đơn giản nhưng cho ta thấy rõ được vai trò của vốn đầu tư với tăng trưởng kinh tế. Các nhà lập kế hoạch có thể căn cứ vào mô hình này để xác định tỷ lệ tiết kiệm và vốn đầu tư cần thiết để đạt được mức độ tăng trưởng kinh tế đề ra. 1.3 Tác động của vốn đầu tư với tăng trưởng và phát triển kinh tế. Một sự thay đổi trong đầu tư có thể tác động lớn đối với tổng cầu do vậy sẽ tác động sản lượng công ăn việc làm. DL DL1 DL0 Y0 Y1 AS AD1 AD0 Khi đầu tư tăng lên có nghĩa là nhu cầu về chi tiêu để mua sắm máy móc thiết bị, phương tiện vận tải, vật liệu xây dựng tăng lên. Sự thay đổi này làm cho đường tổng cầu dịch chuyển từ AD0 - AD1 do vậy làm cho mức sản lượng tăng lên từ Y0 - Y1 và mức giá cũng tăng lên từ DL0 - DL1. Ngày nay, vốn đầu tư và vốn sản xuất được coi là yếu tố quan trọng của quá trĩnh, vốn đầu tư không chỉ là cơ sở để tạo ra vốn sản xuất tăng năng lực sản xuất của các doanh nghiệp và nền kinh tế, mà nó còn là điều kiện để nâng cao trình độ khoa học công nghệ, góp phần đáng kể vào việc đầu tư theo chiều sâu , hiện đại hoá quá trình sản xuất. Việc tăng vốn đầu tư cũng góp phần vào việc giải quyết công ăn việc làm cho người lao động khi mở rộng ra các công trình xây dựng và mở rộng quy mô sản xuất. 2-/ Vai trò của vốn FDI với tăng trưởng kinh tế. Đầu tư trực tiếp nước ngoài ra đời muộn là một hoạt động kinh tế đối ngoại ra đời muộn hơn các hoạt động khác vài ba thập kỷ. Nhưng ngay khi xuất hiện vào khoảng thế kỷ XIX đầu tư nước ngoài đã có vị trí đáng kể trong các quan hệ kinh tế quốc tế góp phần tăng trưởng và phát triển kinh tế cho cả nước đi đầu tư và nước nhận đầu tư. 2.1 Lý thuyết về lợi ích của đầu tư nước ngoài. Hợp tác đầu tư với nước ngoài chỉ có thể được thành công khi có sự gặp gỡ về lợi ích của cả hai bên. Ngay từ năm 1960 Mac Dougall đã chỉ ra rằng sự tăng vốn FDI vừa làm tăng sản phẩm đầu ra vừa phân phối lại thu nhập giữa các nhà đầu tư trong nước và người lao động. Mô hình có các giả thiết sau: - Nền kinh tế thế giới được thực hiện bởi nước đầu tư và nước chủ nhà. Nước đầu tư thì dư thừa vốn đầu tư trong khi đó nước chủ nhà thì khan hiếm về vốn đầu tư. - Năng suất cận biên của vốn đầu tư giảm dần và điều kiện cạnh tranh hoàn hảo. 0 A B C K F E D G H I L Năng suất cột biên của vốn ĐT Vốn đầu tư Trên mô hình trên tổng số vốn đầu tư là OB, trong đó OA là vốn đầu tư của nhà đầu tư trong nước và AB là vốn đầu tư của nhà đầu tư nước ngoài. Tổng giá trị đầu ra là OLFB trong đó hu nhập của nhà đầu tư trong nước là ODEA, của chủ đầu tư nước ngoài là AEFB và thu nhập của người lao động là DLF. Khi vốn FDI tăng lên từ AB thành AC sẽ có những tác dụng sau đây: thu nhập các nhà đầu tư nước ngoài là AHKC (thu nhập mới tăng thêm BIKC, và thu nhập cũ giàm đi HEFI). Nhà đầu tư trong nước giảm thu nhập GDEH và người lao động được hưởng phần thu nhập tăng thêm DKFG. Như vậy, khi có FDI tăng thêm sẽ làm cho thu nhập của nước chủ nhà tăng thêm HEFK. Trong đó có sựu phân phối thu nhập giữa nhà đầu tư trong nước với người lao động. Ngoài ra nó còn đem lại lợi ích cho các nước đi đầu tư, làm tăng sản lượng của thế giới. 2.2 Đối với các chủ đầu tư nước ngoài. - FDI giúp mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm tăng cường bành trướng sức mạnh kinh tế và vai trò ảnh hưởng trên thế giới. Phần lớn các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ở các nước về thực chất hoạt động như là chi nhánh của các công ty mẹ ở chính quốc. Việc xây dựng các nhà máy sản xuất, chế tạo hoặc lắp ráp ở nước sở tại. Sự mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm phụ tùng xe , công ty mẹ ở nước ngoài đồng thời còn là biện pháp thâm nhập thị trường hữu hiệu tránh được hàng rào bảo hộ mậu dịch của các nước. -FDI giúp các công ty nước ngoài giảm chi phí sản xuất rút ngắn thời gian thu hồi vốn đầu tư và thu lợi nhuận cao. Do sự phát triển không đồng đều về trình độ sản xuất và mức thu nhập... Giữa các nước nên đã tạo ra chênh lệch về điều kiện và giá cả các yếu tố đầu vào của sản xuất .Do đó đầu tư nước ngoài cho phép lợi dụng chênh lệch này để giảm bớt chi phí sản xuất, tăng lợi nhuận, ...Trước hết đó là chi phí về lao động, việc tổ chức sản xuất và tiêu thụ sản phẩm ở các nước sở tại cũng giúp các chủ đầu tư giảm được chi phí vận chuyển hàng hoá, tiết kiệm chi phí quảng cáo, tiếp thị...Do chạy theo lợi nhuận, các nhà đầu tư sẵn sàng bỏ mặc nạn thất nghiệp ở các nước phát triển để đầu tư ở những nước đang phát triển, để đầu tư ở những nước có chi phí rẻ lợ nhuận cao, và như vậy tạo công ăn việc làm cho nước nhận đầu tư. -FDI giúp các chủ đầu tư tìm kiếm được nguồn cung cấp nguyên liệu. Mục tiêu của nhiều dự án đầu tư nước ngoài nhằm tìm kiếm nguồn nguyên liệu phục vụ cho nhu cầu phát triển sản xuất kinh doanh của các chủ đầu tư. Nguồn tài nguyên của các nước đang phát triển có nhiều nhưng không có điều kiện khai thác chế biến do thiếu vốn, công nghệ. Do đó, đầu tư vào các lĩnh vực này sẽ thu được nguyên liệu thô với giá rẻ và qua chế biến sẽ thu được lợi nhuận cao. - FDI giúp các chủ đầu tư nước ngoài đổi mới cơ cấu sản xuất, áp dụng công nghệ mới nâng cao năng lực cạnh tranh. Đổi mới thường xuyên công nghệ là điều kiện sống còn trong cạnh tranh do đó các nhà đầu tư nước ngoài thường chuyển những máy móc, công nghệ đã lạc hậu so với trình độ chung của thế giới để đầu tư sang các nước khác. Điều đó, một mặt giúp các chủ đầu tư thực chất bán được máy móc cũ để thu hồi vốn nhằm đổi mới thiết bị công nghệ, kéo dài được chu kỳ sống của sản phẩm của hãng ở các thị trường mới. 2.3 Đối với những nước tiếp nhận vốn FDI. a, Bù đắp sự thiếu hụt về ngoại tệ. Hầu hết các nước kém phát triển đều rơi vào “vòng luần quẩn” đó là: thu nhập thấp dẫn đến tiết kiệm thấp, vì vậy đầu tư thấp và rồi hậu quả lại là thu nhập thấp. Tình trạng luẩn quẩn này chính là điểm nút khó khăn nhất mà các nước này phải vượt qua để hội nhập vào quy đạo tăng trưởng kỹ thuật hiện đại. Nhiều nước lâm vào tình trạng trì trệ của sự nghèo đói bởi lẽ không sự lựa chọn và tạo ra điểm chốt phá chính xác một mắt xích của “vòng luẩn quẩn” này. Trở ngại lớn nhất để thực hiện điều đó đối với các nước kém phát triển đó là vốn đầu tư và kỹ thuật. Vốn đầu tư là cơ sở để tồn tại công ăn việc làm trong nước, đổi mới công nghệ, kỹ thuật tăng năng suất lao động...từ đó tạo tiền đề tăng thu nhập tăng tích luỹ cho sự phát triển xã hội. Tuy nhiên để tạo vốn cho nền kinh tế nếu chỉ trông chờ vào tích luỹ nội địa, thì hậu quả khó tránh khỏi là sẽ tụt hậu trong sự phát triển chung của cả thế giới. Do đó vốn nước ngoài sẽ là một “cú hích” để góp phần đột phá cái “vòng luẩn quẩn” đó. Đặc biệt FDI là một nguồn quan trọng để khắc phục tình trạng thêm vốn mà không gây nợ cho nước nhận đầu tư, không như vốn vay, nước đầu tư chỉ nhận được phần lợi nhuận thích đáng khi công trình đầu tư hoạt động có hiệu quả. Hơn nữa, luồng vốn này còn có lợi thế hơn vốn vay ở chỗ: thời hạn trả nợ vốn vay thường cố định và đôi khi quá ngắn so với một số dự án đầu tư, còn thời hạn của FDI thì linh hoạt hơn. Theo mô hình lý thuyết “hai lỗ hổng” của cherery và Strout có hai cảnt trở chính cho sự tăng trưởng của quốc gia đó là: -Tiết kiệm không đủ đáp ứng cho nhu cầu đầu tư được coi là “ lỗ hổng” tiết kiệm. - Thu nhập của hoạt động xuất khẩu không đủ đáp ứng được nhu cầu ngoại tệ cho hoạt động nhập khẩu gọi là “ lỗ hổng thương mại’. Hầu hết các nước kém phát triển, hai “lỗ hổng” trên rất lớn, vì vậy FDI còn là một nguồn quan trọng không đủ để bổ sung sự thiếu hụt về vốn nói chung mà sự thiếu hụt về ngoại tệ nói riêng. Bởi vì FDI góp phần làm tăng khả năng cạnh tranh và mở rộng khả năng xuất khẩu của nước nhận đầu tư, thu một phần lợi nhuận từ các công ty nước ngoài, thu ngoại tệ từ các hoạt động dịch vụ cho FDI. b, Chuyển giao công nghệ: Khi đầu tư vào một nước nào đó vốn bằng tiền mà cần chuyển cả hiện vật như máy móc, thiết bị, nguyên nhiên vật liệu, chuyên gia kỹ thuật, tri thức khoa học, bí quyết quản lý....Thông qua hoạt động FDI quá trình chuyển giao công nghệ được thực hiện tương đối nhanh và thuận tiện cho cả nước đầu tư cũng như nước nhận đầu tư. Trong điều kiện hiện nay trên thế giới có nhiều công ty của nhiều quốc gia khác nhau có nhu cầu đầu tư ra nước ngoài và thực hiện chuyển giao công nghệ cho nước nào tiếp nhận đầu tư, thì đây là cơ hội cho các nước đang phát triển có thể tiếp thu được kỹ thuật công nghệ thuận lợi nhất nhưng không phải là không phải trả tiền mà họ phải trả một khoản phí không nhỏ cho việc tiếp nhận chuyển giao công nghệ này. Chuyển giao công nghệ là yêu cầu tất yếu của sự phát triển khoa học kỹ thuật. Bất kỳ một tổ chức nào muốn thay thế kỹ thuật công nghệ đã cũ. Việc thải những công nghệ cũ này dễ dàng được nhiều nơi chấp nhận và chính sự “lan toả” những thành tựu kỹ thuật của nhân loại thường xuyên như thế đã tạo ra một môi trường thuận lợi cho sự phát triển nhanh chóng của khoa học kỹ thuật. c, Thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Tranh thủ vốn kỹ thuật của nước ngoài, các nước đang phát triển muốn sử dụng nó để thực hiện mục tiêu quan trọng hàng đầu là đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế. Đây cũng là điểm nút để các nước đang phát triển thoát ra khỏi cái vòng luẩn quẩn của sự đói nghèo. Thực tiễn và kinh nghiệm của nhiều nước cho thấy quốc gia nào thực hiện chiến lược kinh tế mở cửa với bên ngoài, biết tranh thủ và phát huy tác dụng của các nhân tố bên trong thì quốc gia đó tạo được tốc độ tăng trưởng kinh tế cao. d, Thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Yêu cầu chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế không chỉ là đòi hỏi của bản thân sự phát triển nội tại nền kinh tế mà nó còn là đòi hỏi của xu hướng quốc tế hoá đời sống kinh tế đang diễn ra mạnh mẽ hiện nay. Đầu tư trực tiếp nước ngoài là một bộ phận quan trọng của hoạt động kinh tế đối ngoại, thông qua đó các quốc gia sẽ tham gia ngày càng nhiều vào quá trình phân công lao động quốc tế. Để hội nhập vào nền kinh tế thế giới và tham gia tích cực vào quá trình liên kết kinh tế giữa các quốc gia trên thế giới, đòi hỏi từng quốc gia phải thay đổi cơ cấu kinh tế trong nước cho phù hợp với sự phân công lao động quốc tế. Sự dịch chuyển cơ cấu kinh tế của mỗi quốc gia phù hợp với sự phát triển chung trên thế giới sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài. Ngược lại chính sách đầu tư trực tiếp nước ngoài lại góp phần thúc đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, bởi vì: - Thông qua đầu tư trực tiếp nước ngoài làm xuất hiện nhiều lĩnh vực và ngành kinh tế mới ở nước nhận đầu tư. - Đầu tư trực tiếp nước ngoài giúp vào sự phát triển nhanh chóng trình độ kỹ thuật công nghệ ở nhiều ngành kinh tế, góp phần thúc đẩy tăng năng suất lao động ở các ngành này và tăng tỷ trọng của nó trong nền kinh tế quốc dân. - Một só ngành được kích thích phát triển bởi đầu tư trực tiếp nước ngoài, nhưng cũng sẽ có nhiều ngành bị mai một đi, rồi đi đến chỗ bị xoá sổ. e, Góp phần giải quyết công ăn việc làm. Thực ra đây là một tác động kép: tạo thêm công ăn việc làm cũng có nghĩa là tăng thêm thu nhập cho người lao động, từ đó tạo điều kiện tăng tích luỹ trong nước. FDI cung cấp việc làm trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đồng thời cũng tạo ra việc làm trong các tổ chức khác khi các nhà đầu tư nước ngoài mua hàng hoá dịch vụ trong các hợp đồng gia công chế biến. Tuy nhiên, sự đóng góp của FDI đối với việc làm còn phụ thuộc vào chính sách và khả năng kỹ thuật của nước đó. Ngoài những tác động trên đây đầu tư trực tiếp nước ngoài còn có một số tác động khác đến nước nhận đầu tư như: Đóng góp phần đáng kể vào nguồn thu của ngân sách Nhà nước thông qua việc nộp thuế, tiền thu từ việc cho thuê đất...; FDI góp phần vào cải thiên cán cân thanh toán quốc tế; FDI giúp các nước nhận đầu tư có thể tiếp cận với thị trường thế giới.. 2.4 Một số hạn chế của FDI đối với các nước tiép nhận FDI. - Sử dụng nguồn tài nguyên một cách lãng phí do các nhà đầu tư chạy theo lợi nhuận. - Các ưu đãi của chính phủ. Để hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài Chính phủ các nước thường có những ưu đãi cho họ về thuế, về tiền thuê đất, việc hồi hưởng lợi nhuận.Những ưu đãi này cao hay thấp tuỳ thuộc vào điều kiện hoàn cảnh mỗi nước. Và như vậy, lợi ích của nhà đầu tư nhận được có thể vược lợi ích mà nước chủ nhà nhận được. - Chuyển giao công nghệ lạc hậu. Các nhà đầu tư nước ngoài thường chuyển giao công nghệ kỹ thuật lạc hậu hoặc các máy móc thiết bị vào các nước tiếp nhận FDI và đánh giá nó cao hơn mức bình thường. Khi thực hiện các dự án liên doanh các đối tác nước ngoài thường góp vốn bằng các thiết bị và vật tư. Lợi dụng sự yếu kém về trình độ của nước chủ nhà, các nhà đầu tư nước ngoài sẽ chuyển vào những thiết bị đã cũ kỹ, hết thời hạn thanh lý. - ảnh hưởng đến tỷ lệ tiết kiệm và đầu tư nội địa. Do các chủ đầu tư nước ngoài có lợi thế về vốn, công nghệ, kinh nghiệm quản lý so với các doanh nghiệp của nước nhận đầu tư cho nên sẽ có sự cạnh tranh gay gắt giữa doanh nghiệp trong nước và nước ngoài. Bên cạnh đó các nhà đầu tư nước ngoài lại được sự ưu đãi của Chính phủ do vậy có thể dẫn đến phá sản các doanh nghiệp trong nước và dẫn đến tình trạng phụ thuộc ngày càng chặt chẽ vào các công ty nước ngoài. -Thâm hụt cán cân thanh toán: Hàng năm các công ty nước ngoài chuyển ngoại tệ về nước dưới dạng lợi nhuận, dù các nước chủ nhà có chính sách khuyến khích họ để lợi nhuận lại tái đầu tư. Nếu khoản lợi nhuận chuyển ra bên ngoài lón sẽ dẫn đến tình trạng thâm hụt cán cân thanh toán. - Sự phát triển không đồng đều giữa các vùng các ngành nguồn FDI mang lại cho nước chủ nhà song trên thực tế lại do chủ đầu tư nước ngoài sử dụng theo những mục tiêu cụ thể của mình. Mục đích của nhà đầu tư là tìm kiếm lợi nhuận nên họ chỉ đầu tư vào những nơi có lợi nhuận cao. Vì thế FDI sẽ làm tăng sự phát triển không đồng đều giữa các vùng, giữa các ngành. 3-/ Các hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài. a, Hợp đồng hợp tác kinh doanh. Là hình thức liên kết giữa các chủ đầu tư trong nước và ngoài nước để cùng nhau tiến hành một hay nhiều hợp đồng kinh doanh ở Việt Nam theo từng văn bản hợp đồng cụ thể trên cơ sở quy định trách nhiệm và phân chia kết quả kinh doanh cho mỗi bên không thành lập pháp nhân mới. Hình thức này có đặc điểm: - Không cho ra đời một công ty nào mới. - Trong nội dung chính phải phản ánh là quyền lợi trách nhiệm của các bên đối với nhau (không nhất thiết phả dề cập đến việc góp vốn của các bên). - Thời hạn cần thiết của hợp đồng do các bên thoả thuận phù hợp với tính chất mục tiêu kinh doanh. - Trong quá trình hợp tác kinh doanh các bên giữ nguyên tư cách pháp nhân của mình. b, Doanh nghiệp liên doanh. Theo khoản 7 điều 2 Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam quy định: “Doanh nghiệp liên doanh là doanh nghiệp do hai hoặc nhiều bên hợp tác thành lập tại Việt Nam trên cơ sở hợp đồng liên doanh hoặc hiệp định ký kết giữa Chính phủ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam với Chính phủ nước ngoài hoặc là doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài hợp tác với doanh nghiệp Việt Nam, hoặc do doanh nghiệp liên doanh hợp tác với nhà đầu tư nước ngoài trên cơ sở hợp đồng liên doanh”. Hình thức này có đặc điểm: - Thành lập doanh nghiệp mới (pháp nhân mới) hoạt động trên nguyên tắc hạch toán độc lập, dưới dạng công ty trách nhiệm hữu hạn. - Phần góp vốn của nước ngoài không hạn chế mức tối đa nhưng tối thiểu không được dưới 30% vốn pháp định và trong quá trình hoạt động không được giảm vốn pháp định. - Cơ quan lãnh đạo cao nh._.ất của doanh nghiệp liên doanh là hội đồng quản trị, mà thành viên của nó do mỗi bên chỉ định tương ứng với tỷ lệ vốn góp của các bên, nhưng ít nhất phải là ha người. Tổng giám đốc hoặc phó tổng giám đốc thứ nhất của liên doanh phải là người bên Việt Nam và thường trú tại Việt Nam. - Các bên tham gia liên doanh phân chia lợi nhuận và chia sẻ rủi do theo tỷ lệ vốn góp của mỗi bên trong vốn pháp định. c, Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài. Là hình thức đầu tư mà chủ đầu tư là người nước ngoài bỏ toàn bộ vốn thiết lập cơ sở sản xuất kinh doanh trên đất nước Việt Nam, họ trực tiếp nắm quyền điều hành và quản lý các cơ sở này, chịu trách nhiệm hữu hạn có tư cách pháp nhân theo pháp luật Việt Nam. d, Các hình thức khác. * Hợp đồng xây dựng - kinh doanh - chuyển giao BOT là văn bản ký kết giữa chủ đầu tư nước ngoài với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền để xây dựng các cơ sở hạ tầng tại Việt Nam. Bên nước ngoài bỏ vốn đầu tư xây dựng và kinh doanh trên công trình đó, đủ để thu hồ vốn và có lãi hợp lý, sau đó phải có nghĩa vụ chuyển giao công trình để cho Nhà nước Việt Nam. * Hợp đồng xây dựng - chuyển giao - kinh doanh (BOT) là văn bản ký kết giữa cơ quan Nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam và nhà đầu tư nước ngoài để xây dựng công trình kết cấu hạ tầng. Sau khi xây dựng xong, nhà đầu tư chuyển giao công trình đó cho nhà nước Việt Nam. Nhà nước Việt Nam cho nhà đầu tư quyền kinh doanh trên công trình đó trong một khoảng thời gian nhất định để thu hồi vốn và lợi nhuận hợp lý. * Hợp đồng xây dựng - chuyển giao (BT). Là văn bản ký kết giữa cơ quan Nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam và nhà đầu tư nước ngoài để xây dựng công trình kết cấu hạ tầng. Sau khi xây dựng xong, nhà đầu tư nước ngoài chuyển giao công trình đó cho Nhà nước Việt Nam, Chính phủ Việt Nam tạo điều kiện cho nhà đầu tư nước ngoài thực hiện dự án khác để thu hồi vốn đầu tư và lợi nhuận hợp lý. III-/ Xu hướng vận động của FDI trong thập kỷ qua và các yếu tố ảnh hưởng đến thu hút FDI trong giai đoạn hậu khủng hoảng tài chính - tiền tệ khu vực 1-/ Xu hướng vận động của FDI trong thập kỷ qua. a, Dòng vốn FDI trên thế giới ngày càng gia tăng và chịu sự chi phối chủ yếu của các nước công nghiệp phát triển. Trong những năm đầu thập kỷ 90, quy mô vốn FDI trên thế giới bình quân hàng năm khoảng 190 tỷ USD, nhưng đến năm 1995 đã dạt khoảng 315 tỷ USD, các nước công nghiệp phát triển đóng vai trò chủ yếu trong dòng vận động của vốn FDI. Từ đầu những năm 90 trở về trước, nguồn vốn FDI có từ quê hương những nước công nghiệp phát triển chiếm trên 93% và hiện nay cung chiếm 85% tổng vốn FDI của thế giới. Đồng thời các bước tư bản phát triển cũng thu hút 3/4 vốn FDI của thế giới. Tính riêng năm 1995, các nước công nghiệp phát triển đầu tư ra nước ngoài tới 270 tỷ USD và cũng thu hút FDI vào nước mình 203 tỷ USD. Các dòng vốn đầu tư tập trung vào một số ít nước. Chỉ tính riêng 10 quốc gia thu hút vốn FDI lớn nhất đã chiếm tới 2/3 vốn FDI của năm 1995. dòng đầu tư lẫn giữa các nước phát triển là xu hướng vận động chủ đạo của đầu tư quốc tế và là nhân tố chính thức đẩy quá trình toàn cầu hoá. Sở dĩ có hiện tượng tăng cuờng lẫn nhau giữa các nước công nghiệp phát triển là do một số nguyên nhân chính sau: + Cách mạng kho học công nghệ đãlàm xuất hiện nhiêug ngành công nghiệp mới, nhiều sản phẩm có hàm lượng khoa học công nghệ cao (như viễn thông, tin học, điện tử..) đây là những ngành hứa hẹn lợi nhuận siêu ngạch lớn đem lại khả năng chi phối kinh tế thế giới trong tuơng lai nếu làm chủ nó, vì vậy có sức hấp dẫn mạnh tới đầu tư. + Môi trường đầu tư của các nước phát triển đã hoàn thiện, chế độ chính trị khá ổn định, trình độ công nghệ cao phù hợp với yêu cầu đầu tư của các tập đoàn xuyên quốc gia. + Xu thế hình thành các khối hợp tác kinh tế khu vực đang gia tăng, do đó các nước tăng cường đầu tư vào các khối hợp tác kinh tế này (EU, AFTA..) để được hưởng tự do về thương mại và đầu tư. b, Đầu tư ra nước ngoài dưới hình thức hợp nhất hoặc mua lại các chi nhánh công ty nước ngoài. Sự phát triển gần đây của dòng vốn FDI đã phản ánh sự gia tăng của các công ty có vốn FDI, làm cho hoạt động FDI có tính toàn cầu, để phản ứng lại pá lực cạnh tranh. Việc hợp nhất, mua lại các công ty để thành lập chi nhánh sản xuất ở nước ngoài giúp các tập đoàn xuyên quốc gia bảo vệ, củng cố và phát huy thế mạnh của mình trong quá trình cạnh tranh quốc tế. Đặc biệt hình thức đầu tư này giúp sử dụng hiệu quả mạng lưới cung ứng và hệ thống phân phối sẵn có để phục vụ tốt hơn cho khách hàng toàn cầu, mở rộng thị phần, tăng năng lực cạnh tranh và thu lợi nhuận. Giá trị của các giao dịch hợp nhất, mua bán cổ phần các công ty nước ngoài trong năm 1995 đạt 229 tỷ USD trong đó chủ yếu là các giao dịch mua bán. Những ngành công nghiệp diễn ra những hoạt động hợp nhất mua bán hợp vốn với nước ngoài nhộn nhịp nhất là viễn thông, dược phẩm, cung cấp năng lượng và dịch vụ tài chính. Chỉ tính năm trong năm 1995 các nước Tây Âu đã dành 66 tỷ USD để mua cỏ phần hợp nhất hoặc hợp vốn công ty và bán ra cũng đạt 50 tỷ USD. Hoạt động này chủ yếu diễn ra trong liên minh Châu Âu. c, Có sự thay đổi sâu sắc trong lĩnh vực đầu tư trên thế giới. Sự phát triển kinh tế luôn đặt ra vấn đề là phải dịch chuyển cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại hoá và phù hợp với xu thế hội nhập với nên kinh tế thế giới. Để giải quyết vấn đề này phả bắt đầu từ hoạt động đầu tư, việc thay đổi cơ cấu đầu tư làm dịch chuyển cơ cấu kinh tế. Dưới tác động của cách mạng khoa học công nghệ, ngày càng có nhiều ngành kinh tế ra đời và phát triển nhanh chóng, nhiều lĩnh vực sản xuất kinh doanh mới xuất hiện thay thế cho nhiều ngành, lĩnh vực sản xuất kinh doanh truyền thống trước đây. Trong giai đoạn hiên nay hai ngành công nghiệp chế biến và dịch vụ là lĩnh vực thu hút vốn đầu tư thị trường nước ngoài mạnh nhất, còn các ngành truyền thống như khai khoáng và nông nghiệp giảm đi, sở dĩ FDI tập trung nhiều vào hai ngành đó là do: - Cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất đời sống nhân dân ngày càng nâng cao, vì vậy nhu cầu về các loại dịch vụ phục vụ sản xuất kinh doanh và đời sống tăng lên mạnh mẽ nhất là về mặt dịch vụ kỹ thuật, tài chính, du lịch...đòi hỏi ngành dịch vụ phải phát triển tương ứng. - Ngành công nghiệp chế biến là ngành có nhiều phân ngành, mà những phân ngành đó thuộc lĩnh vực mũi nhọn của cuộc cách mạng khoa học công nghệ như điện tử, thông tin liên lạc vật liệu mới... - Do đặc tính kỹ thuật của hai ngành này là dễ dàng thực hiện sự hợp tác. d, Các tập đoàn xuyên quốc gia (TNCs) đóng vai trò rất quan trọng trong đầu tư trực tiếp ra nước ngoài và đang đẩy mạn quá trình đầu tư ra nước ngoài. Hiện nay các TNCs đang chi phối , kiểm soát phần lớn sản xuất, kinh doanh trên thế giới. Từ thập kỷ 80 đến nay các công ty xuyên quốc gia đã kiểm soát toiư 90% vốn FDI. e, Dòng vốn FDI vào các nước đang phát triển gia tăng mạnh mẽ, đặc biệt là các nước đang phát triển ở Châu á Nguồn vốn FDI vào các nước đang phát triển gia tăng cả về quy mô lẫn tốc độ dẫn đến tỷ trọng thu hút vốn FDI của các nước này tăng nhanh. Trong năm 1990 các nước đang phát triển tiếp nhận được 33,7 tỷ USD thì đến năm 1985 đã tiếp nhận được 99,7 tỷ USD chiếm 32% tổng vốn FDI của thế giới. Tuy nhiên nguồn vốn FDI phân bố không đồng đều giữa các nước đang phát triển mà chỉ tập trung vào một số nước và khu vực nhất định. So với các nước đang phát triển thì các nước thì các nước và nền kinh tế khu vực Đông Nam á thu hút vốn FDI mạnh nhất, tạo nên sự bùng nổ về thu hút vốn FDI những năm qua, đặc biệt là từ cuối thập kỷ 80 trở lại đây, trong đó đặc biệt là Trung Quốc, các nước NICs châu á, các nước ASEAN. 2-/ Các yếu tố ảnh hưởng tới thu hút vốn FDI trong giai đoạn hậu quả khủng hoảng kinh tế khu vực. Trên thế giới đã từng diễn ra rất nhiều cuộc khủng hoảng với quy mô và mức độ thiệt hại lớn nhỏ khác nhau. Nó ảnh hưởng đến nhiều lĩnh vực như kinh tế, chính trị, xã hội của quốc gia hay khu vực đó. Bằng những biện pháp khắc phục khác nhau của Chính phủ từng nước đã hạn chế được phần nào ảnh hưởng của các khủng hoảng đó. Nhưng sau các khủng hoảng không phải các lĩnh vực của quốc gia khu vực đó có thể phục hồi và phát triển ngay lại được mà nó còn phụ thuộc vào các chính sách sau này của từng nước. Trong số các lĩnh vực đó thì lĩnh vực huy động vốn FDI chịu rất nhiều ảnh hưởng: 2.1 Sự mất ổn định về kinh tế chính trị. Chính trị là yếu tố hàng đầu mà các nhà đầu tư cần phải xem xét có nên đầu tư một nước nào đó hay không kinh nghiệm cho thấy chính trị ổn định sẽ khuyến khích FDI, rủi ro của các nhà đầu tư nước ngoài có liên quan đến sự bất ổn định chính trị. Sự ổn định kinh tế là điều kiện tiên quyết của mọi ý định và hành vi đầu tư. Đối với vốn nước ngoài điều này càng quan trọng hơn bao giờ hết. Để thu hút được dòng vốn đầu tư nước ngoài, nền kinh tế nội địa phải là nơi an toàn cho sự vận động của tiền vốn, sau đó là nơi có năng lực sinh lợi cao hơn các nước khác. Nhưng một nền kinh tế nào đó đã rơi vào tình trạng khủng hoảng thì dù sau đó có khắc phục được đi nữa thì nền kinh tế đó vẫn không thể phát triển ngay lại được, tỷ lệ tăng trưởng kinh tế thấp, các hoạt động kinh tế phát triển chậm chạp. Bên cạnh sự phát triển kinh tế thấp, tình hình chính trị cũng mất sự ổn định. Ví dụ như trong cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ châu á vừa qua một số nước, ngoài ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế ra còn kéo theo cả khủng hoảng về chính trị, xã hội như ở Indonexia; đã diễn ra những cuộc biểu tình của dân chúng và sự đàn áp của cảnh sát. Sự mất ổn định về kinh tế, chính trị này sẽ còn kéo dài không thể khắc phục ngay được và sẽ hạn chế rất nhiều việc huy động vốn FDI. 2.2 Các chính sách kinh tế vĩ mô. Các chính sách này có ảnh hưởng rất lớn tới FDI nhất là các chính sách kinh tế trực tiếp giải quyết vốn để đầu tư như các quy định về chuyển giao lợi nhuận, các chính sách thương mại... Chính sách thương mại và đầu tư có ảnh hưởng lớn đến khả năng nhập khẩu các thiết bị máy móc, nguyên vật liệu sản xuất và do đó thực sự trở thành mối quan tâm của các ngành, đặc biệt là ngành sản xuất sản phẩm xuất khẩu, mà ngành này thường muốn có chi phí sản xuất thấp để tăng tính cạnh tranh. Bên cạnh đó, các chính sách kinh tế cũng phải giả quyết được vấn đề chống lạm phát và ổn định tiền tệ. Trong giai đoạn hậu khủng hoảng Chính phủ các nước thường đưa ra các chính sách kinh tế vĩ mô nhằm khắc phục ảnh hưởng khủng hoảng, và các chính sách đó có thể khuyến khích hoặc hạn chế FDI, các nhà đầu tư nước ngoài sẽ xem xét tìm hiểu các chính sách mới của nước đó có lợi cho mình hay không rồi mới quyết định có đầu tư vào nước đó hay không. 2.3 Mức độ tăng trưởng kinh tế và khả năng phục hồi nền kinh tế sau khủng hoảng kinh tế. Đây là một trong những yếu tố quan trọng nhằm thu hút vốn FDI các nhà đầu tư thường xem xét mức độ tăng trưởng kinh tế của nước đó có cao hay không khả năng phục hồi kinh tế nhanh hay chậm, điều này thể hiện sự kiểm soát nền kinh tế mạnh hay yếu của Chính phủ. Trong khủng hoảng kinh tế khu vực thì nước nào có khả năng phục hồi kinh tế nhanh, hay tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh sẽ hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài vào đầu tư. 2.4.Sức mua của thị trường bản địa. Nhiều nhà đầu tư bỏ vốn để sản xuất mặt hàng ở nước này với chi phí thấp rồi bán ở nước khác với giá cao. Nhưng cùng có nhà đầu tư bỏ vốn để sản xuất kinh doanh trên cùng một nước thì đòi hỏi sưc tiêu thụ của thị trường phải lớn, đảm bảo sản xuất ra được tiêu thụ và đem lại lợi nhuận cao cho nhà đầu tư. Nhưng trong thời kỳ khủng hoảng kinh tế thì súc mua trên thị trường giảm đi rất nhiều (do giá cả trên thị trường tăng cao đồng tiền mất giá thu nhập người tiêu dùng thấp) họ hạn chế đi các khoản chi tiêu lâu bền. Mặt khác, ngoài thị trường trong nước giảm đi sức mua, thị trường các cũng giảm đi sức mua, thị trường các nước cũng giảm đi về các mặt hàng của nhưngc nước khủng hoảng làm cho các nhà đầu tư lo ngại không có thị trường tiêu thụ sản phẩm. Do vậy, các nhà đầu tư rất dè dặt khi đầu tư vào những nước này mặc dù các nước này đã khắc phục được phần nào khủng hoảng kinh tế ở nước mình, khu vực mình. 2.5.Tâm lý của các nhà đầu tư nước ngoài đối với các nước vừa ra khỏi khủng hoảng. Các nhà đầu tư nước ngoài không thiết tha gì với các nước này họ lo ngại nhiều yếu tố như: liệu khủng hoảng có thực sự kết thúc hay chưa? hay đó chỉ là điểm khởi đầu của một cuộc khủng hoảng mới; họ có lợi gì khi đầu tư vào những nước này trong khi thế giới còn có bao nhiêu thị trường tiềm năng? họ lo ngại khi đầu tư vào nước đó được một thời gian có thể Chính phủ nước đó thay đổi các chính sách đầu tư, các chính sách kinh tế theo hướng có lợi cho họ, làm cho khả năng kinh doanh của họ bị giảm đi. IV-/ Kinh nghiệm huy động vốn FDI của một số nước. Như đã thấy, đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đóng vai trò hết sức quan trọng đối với phát triển kinh tế, đối với quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá của một quốc gia, đặc biệt là các nước đang phát triển. Nhìn lại quá trình CNH - HĐH thành công của một số nước NICs, ASEAN, và Trung Quốc cho ta thấy biết rõ hơn nguồn vốn đầu tư nói chung và FDI nói riêng là một trong những nhân tố quyết định sự thàh bại của quá trình CNH. Bởi vì cùng với FDI là kỹ thuật, công nghệ, kinh nghiệm quản lý, kỹ năng lao động, thị trường..Và nếu các nước đi sau có một chính sách thu hút và sử dụng một cách hợp lý thì có thể tận dụng được thành quả to lớn của cuộc cách mạng khoa học công nghệ đi tắt và đón đường rút ngắn quá trình CNH. Đối với mỗi quốc gia sẽ có những điểm tương đồng và khác biệt, có những điều kiện và lợi thế riêng trong thu hút, sử dụng FDI của các nước trên sẽ rút ra được những bài học kinh nghiệm bổ ích thiết thực cho quá trình huy động vốn và sử dụng FDI ở Việt Nam. 1-/ Kinh nghiệm thu hút FDI của Malaysia: Malaysia là một trong những nước có tốc độ thu hút vốn FDI cao trong các nước ASEAN. Năm 1968, Chính phủ Malaysia đã công bố luật đầu tư nước ngoài với những quy định: + Không quốc hữu hoá các doanh nghiệp có vốn FDI. + Cho phép các công ty hoạt động trong khu vực của đồng bảng Anh được phép hàon lại vốn tự do chuyển ra nước ngoài. + Ưu đãi thuế về hoạt động xuất nhập khẩu (XNK) nếu đầu tư vào các ngành, khu vực khuyến khích. Malaysia thực hiện: - Miễn thuế 5 năm kể từ khi bắt đầu sản xuất kinh doanh và được kéo dà 5 năm nữa nếu nhà đầu tư đpá ứng được những tiêu chuẩn của cơ quan đầu tư như giá trị kim ngạch xuất khẩu, tình hình thu hút và sử dụng lao động. - Thực hiện miễn thuế hoặc giảm thuế lợi tức trong 5 năm kể từ khi có lãi đối với doanh nghiệp xuất khẩu trên 50% sản phẩm đầu ra và trong sản phẩm sản xuất kinh doanh sử dụng trên 50% nguyên liệu của họ. - Trong giá thành sản phẩm, khoản chi phí đào tạo được phép nhân hệ số để khuyến khích các doanh nghiệp có vón FDI nâng cao tay nghề, đào tạo cán bộ quản lý và công nhân Malaysia. Chính phủ Malaysia đã khuyến khích và hợp tác chặt chẽ với các nhà đầu tư thể hiện qua sự hợp tác của các đối tác trong nước, sự giúp đỡ tận tình của các cán bộ nhân viên cơ quan phát triển đầu tư Malaysia (MIDA). Hiện nay tất cả các nàh đầu tư chỉ phải đi qua một cửa là MIDA và trong vòng 4 - 6 tuần là nhận được giấy phép đầu tư. Điều này giúp cho các chủ đầu tư nước ngoài. Malaysia đã giới thiệu đúng đối tác ngành nghề và địa điểm thuận lợi, giúp cho các chủ đầu tư không phải mất nhiều thời gian, chọn nhầm đối tác, đầu tư thoải mái trong môi trường thuận lợi. Sau cuộc khủng hoảng tài chính, Chính phủ Malaysia đã có chủ trương “thắt lưng buộc bụng” cắt giảm chi tiêu ngân sách, kêu gọi dân chúng tiết liệm đồng thời vạch ra kế hoạch 5 năm lần thứ 7 với tên gọi “tầm nhìn 2020” nhằm mục đích đưa nền kinh tế trở thành một trong những nền kinh tế phát triển nhất thế giới với sự đầu tư to lớn của nước ngoài. 2-/ Kinh nghiệm thu hút FDI của Indonexia: Indonexia là một nước có xuất phát điểm giống như Việt Nam nước nông nghiệp lạc hậu đi lên, tài nguyên thiên nhiên phong phú nhưng lại thiếu vốn để khai thác. Do vậy việc thu hút FDI có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển kinh tế của họ. Indonexia chỉ thực hiện một hình thức FDI là liên doanh trong đó họ phải sở hữu ít nhất 20% vốn và trong vòng 15 năm sau khi hoạt động phải tiến tới sở hữu ít nhất 51% vốn pháp định. Indonexia thực hiện: + Miễn thuế VAT đối với hàng hoá, vật tư và dịc vụ sản xuất kinh doanh hàng xuất khẩu. + Miễn thuế VAT trong vòng 5 năm kể từ khi sản xuất kinh doanh có tính thương mại đối với các lĩnh vực khách sạn, văn phòng, trung tâm thương mại giao thông công cộng. + Xí nghiệp liên doanh được đối xử như các xí nghiệp trong nước, đước bán sản phẩm ở thị trường nội địa, được vayvốn lưu động bằng nội tệ ngân hàng Nhà nước Indonexia. Do đòn bẩy trong chính sách đầu tư của Indonexia nămg động nên họ đã thu hút khá thành công vốn FDI. Năm 1994, vốn đầu tư nước ngoài đạt mức kỷ lục 23,7 tỷ USD tăng gần 200% so với năm 1993. Tuy nhiên do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính châu á, tốc độ thu hút FDI hiện nay có phần giảm xuống. ở đây có một điểm khá đặc biệt là Indonexia đã lấy hình thức liên doanh làm chủ đạo, như vậy sẽ tạo cho nước họ có điều kiện học tập được kinh nghiệm quản lý, tiếp thu được công nghệ hiện đại và tận dụng được các khoản đầu tư nâng cao trình độ sản xuất kinh doanh. 3-/ Kinh nghiệm thu hút FDI của Trung Quốc: Đối với Trung Quốc, FDI được coi là chìa khoá vàng trong sự tăng trưởng kinh tế trong nhiều năm qua. Thật vậy, từ năm 1979 đến năm 1996, Trung Quốc đã phê chuẩn 283.793 dự án dùng vốn nước ngoài với tổng số vốn ký kết đạt 469,33 tỷ USD. Trong đó có 177,22 tỷ USD đã đưa vào sử dụng, tỷ lệ vốn được sử dụng là 37,76%. Vào thời điểm cuối năm 1996 ở Trung Quốc đã có khoảng 140.000 xí nghiệp dùng vốn nước ngoài đang hoạt động. Khoảng 200 trong tổng số 500 tập đoàn kinh doanh lớn nhất trên thế giới đã đầu tư vào Trung Quốc. Từ năm 1993 đến nay Trung Quốc chỉ đứng thứ 2 sau Hoa Kỳ xét về khối lượng thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Rõ ràng một khối lượng vốn lớn như vậy đã góp phần quan trọng vào việc thúc đẩy sự phát triển kinh tế và CNH - HĐH ở Trung Quốc. Để có được những kết quả khả quan trên, Trung Quốc đã sử dụng một số biện pháp sau: + Mở rộng địa bàn thu hút vốn đầu tư và tạo môi trường kinh doanh thuận lợi. + Thực hiện các chính sách ưu đãi đặc biệt là thuế. Trong thời kỳ đầu mở cửa, các cơ sở mới với thời gian liên doanh hơn 10 năm được hưởng các chế độ miễn thuế thu nhập trong 1 năm đầu làm ra lãi và được giảm 50% thuế thu nhập trong 2 năm tiếp theo. Về sau thời gian giảm thuế tăng lên tương ứng là 2 - 3 năm. Các cơ sở ở các đặc khu kinh tế hay những xí nghiệp sản xuất kinh doanh phục vụ xuất khẩu, nhập khẩu vật tư được miễn thuế hải quan từ 5 - 25%. + Đa dạng hoá các hình thức đầu tư và chủ đầu tư. + Thúc đẩy cỉa cách hành chính, tài chính và cải cách hệ thống các xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. + Tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư, tăng cường bảo vệ quyênd lợi của các nhà kinh doanh nước ngoài thông qua việc tăng cường các quy định pháp luật. Tại Đại hội Đảng cộng sản Trung Quốc (tháng 9 năm 1977) đã xác định cải cách và mở cửa vẫn được coi là chủ trương đúng đắn đồng thời vốn đầu tư an ngày càng có vị trí quan trọng trong phát triển kinh tế. Trung Quốc sẽ tiếp tục thực hiện những chủ trương chính sách đúng đắn để thu hút nhiều hơn nữa vốn đầu tư FDI phục vụ cho CNH - HĐH đất nước. * Một số bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam. Thông qua việc nghiên cứu xem xét đánh giá các chính sách thu hút và sử dụng FDI ở một số nước trên, ta có thể rút ra một số bài học kinh nghiệm cho Việt Nam như sau: Thứ nhất: ổn định chính trị, kinh tế là cơ sở để tăng cường thu hút FDI. Khi nhà đầu tư quyết định bỏ vốn đầu tư dài hạn thì ổn định kinh tế chính trị là vấn đề quan tâm hàng đầu, đặc biệt là các nước mới chuyển đổi như Việt Nam và Trung Quốc. ổn định chính trị, kinh tế tăng trưởng cao, dung lượng thị trường lớn là yếu tố cực kỳ hấp dẫn các nhà đầu tư. Thứ hai: Cần cải thiện môi trường đầu tư, tăng cường sức hấp dẫn của thị trường Việt Nam. Cải cách hành chính, thi hành chế độ một cửa có hiệu lực, điều chỉnh có hệ thống giá cả có liên quan đến giảm chi phí cho chủ đầu tư. Thứ ba: Phải xây dựng cơ sở hệ thống cơ sở hạ tầng vững chắc, hoàn chỉnh và hiện đại. Thứ tư: Phải nâng cao trình độ chất lượng nguồn lao động. Bởi lẽ khi FDI chuyển sang các ngành có hàm lượng vốn kỹ thuật cao nó sẽ đòi hỏi trình độ của lực lượng cán bộ và tay nghề công nhân. Thứ năm: Bên cạnh việc mở cửa đẩy mạnh phát triển các quan hệ kinh tế đối ngoại cần chú trọng nâng cao năng lực nội sinh của dân tộc, điều chỉnh cơ cấu kinh tế phù hợp với việc hội nhập, thắt chặt chi tiêu và tăng tích luỹ nội bộ cho nền kinh tế. Thứ sáu: Cần quan tam đúng mức đến chiến lược quy hoạch tổng thể FDI. Đây là giải pháp có tầm quan trọng đặc biệt, qiyết định hiệu quả kinh tế xã hội chung cho cả đất nước, thiếu vắng chiến lược và quy hoạch tổng thể sẽ gây tác hại lâu dài khó khắc phục được hậu quả. Thứ bảy: Cần tăng cường vai trò điều tiết quản lý của Nhà nước đối với hoạt động thu hút vốn đầu tư FDI. Kinh nghiệm của các quốc gia cho thấy, nhà nước có vai trò rất quan trọng trong việc quy hoạch chiến lược tổng thể phát triển đất nước, xác định mục tiêu cho từng thời kỳ, trên cơ sở đó bố trí cơ cấu đầu tư hợp lý, thu hút vốn FDI vào những ngành những vùng theo mục tiêu định hướng, tránh tình trạng lạm phát cao, tăng cường cải tổ hệ thống ngân hàng, phát triển thị trường tài chính. Thứ tám: Thiết lập tỷ giá hối đoái và lãi suất linh hoạt thúc đẩy sản xuất kinh doanh để xuất khẩu. Kinh nghiệm của các nước NICs Đông á cho thấy họ đã kiên trì theo đuổi chính sách lãi suất cao để khuyến khích tích luỹ và tạo ráp lực buộc các doanh nghiệp phải cải tiến kỹ thuật và quản lý tốt, sử dụng nhiều lao động và quay vòng vốn nhanh. Tuy nhiên phải tạo lập một môi trưòng đầu tư ít rủi ro, bởi vì chính lãi xuất cao chỉ có thể phát huy tác dụng ở môi trường đầu tư tương đối ổn định. Tỷ giá hối đoái là lĩnh vực rất nhạy cảm cà phức tạp. Theo lý thuyết về tỷ giá cũng như theo đánh giá của các nhà kinh tế thì đồng nội tệ của Việt Nam đã lên giá so với đồng USD một cách giả tạo khiến cho tỷ giá hối đoái thực và tỷ giá hối đoái trên thị trường có khoảng cách khá lớn, không khuyến khích được xuất khẩu, trái lại khuyến khích nhập khẩu và lmf cho nhập siêu tăng liên tục trong những năm gần đây. Thực tế của các nước trong khu vực qua cuộc khủng hoảng tài chính ở Thái Lan vừa qua và ảnh hưởng dây truyền của nó cũng một phần do chính sách neo giá của đồng Baht và đồng USD và liên tục trong nhiều năm liền duy trì môtk tỷ giá cao hơn nhiều tỷ giấ thực. Còn kinh nghiệm của các nước NICs Đông á cho thấy, phá giá tiền tệ phải đi kèm với tự do hoá thương mại và cải thiện môi trường đầu tư. do đó cần thực thi một chính sách tỷ giá hối đoái linh hoạt, uyển chuyển, phù hợp với mục tiêu của từng giai đoạn phát triển và trả lại cho tỷ giá đúng mức với tỷ giá hối đoái thực. Phần II Thực trạng huy động vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam giai đoạn 88 -99. I-/ Tổng quan về kinh tế Việt Nam và khu vực giai đoạn 88 - 99 1-/ Tình hình kinh tế Việt Nam giai đoạn 88 - 99. Từ sau đại hội Đảng lần thứ 6 nền kinh tế Việt Nam dần dần chuyển sang vận động theo cơ chế thị trường có sự diều tiết vĩ mô của Nhà nước. Hàng loạt các quyết định, thông tư, quy chế về đổi mới cơ chế quản lý được ban hành. Trong đó đặc biệt là việc Chính phủ ban hành luật đầu tư trực tiếp nước ngoài (năm 1987) và hàng loạt các luật các nghị dịnh có liên quan nhằm tạo môi trường đầu tư thuận lợi cho mọi thành phần kinh tế, tầng lớp dân cư và đặc biệt là các nhà đầu tư nước ngoài. Nhờ đó mà nhịp độ tăng trưởng kinh tế nước ta liên tục tăng ở mức độ cao, và hàng đầu trong khu vực. Trong thời kỳ 91 - 95 khi thực hiện kế hoạch 5 năm 1991 - 1995 do đại hội Đảng lần thứ VII đề ra. Nền kinh tế gặp một số khó khăn lớn là: trong khi chưa ra khỏi tình trạng khủng hoảng và lạm phát, Mỹ vẫn tiếp tục cấm vận và bao vây kinh tế. Bên cạnh đó Liên Xô và các nước Đông Âu khủng hoảng trầm trọng làm thu hẹp đáng kể các khoản viện trợ quốc tế cũng như thị trường xuất nhập khẩu của Việt Nam.Tuy nhiên, bên cạnh những khó khăn còn có những thuận lợi rất cơ bản: Đường lối đổi mới kinh tế đã được triển khai và bước đầu phát huy tác dụng tích cực; các cơ sở kinh tế sau một thời gian chao đảo đã dần dần thích nghi với cơ chế quản lý kinh tế mới; mức tăng GDP bình quân thời kỳ này là 8,2%. Một thành quả kinh tế quan trọng là cơ cấu kinh tế của nước ta sau nhiều năm không thay đổi đến nay đã có sự dịch chuyển rõ nét, theo hướng công nghiệp hoá hiện đại hoá: Tỷ trọng ngành công nghiệp và xây dựng trong GDP tăng không ngừng, từ 22,7% năm 1990 đến 31,7% năm 1997, tỷ trọng dịch vụ trong GDP tăng từ 38,6% năm 1990 đến 42,6% năm 1997, tỷ trọng nông nghiệp giảm từ 38,7% năm 1990 xuống 25,7% năm 1997. Nhưng về giá trị tuyệt đối của nông nghiệp vẫn tăng. Bảng 1 - Tốc độ tăng GDP hàng năm ở Việt Nam thời kỳ 88 - 99 Năm Mức tăng GDP hàng năm (%) 1988 4,6 1989 2,7 1990 2,3 1991 6,0 1992 8,6 1993 8,1 1994 8,8 1995 9,5 1996 9,3 1997 8,2 1998 5,8 1999 4,8 Nguồn: Tổng cục thống kê. Từ năm 1997 trở lại đây do tác động của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ châu á làm ảnh hưởng lớn đến các hoạt động chủ chốt của nền kinh tế: làm giảm sút mức tăng trưởng ở nhiều ngành và lĩnh vực của nền kinh tế, đặc biệt là lĩnh vực đầu tư trực tiếp nước ngoài. Tốc độ tăng trưởng trong 3 năm qua giảm đi một cách rõ rệt, năm 1999 tốc độ tăng trưởng kinh tế 8,2%, đến năm 1998 giảm xuống còn 5,8%. Đến năm 1999 mặc dù cuộc khủng hoảng kinh tế khu vực phần nào làm dịu bớt nhưng tốc độ tăng trưởng kinh tế Việt Nam vẫn thấp với 4,8%, (một tốc độ tăng thấp nhất trong những năm gần đây) điều đó chứng tỏ những yếu kém của Chính phủ Việt Nam, yếu kém của hệ thống tài chính Việt Nam trong việc kiềm chế, khắc phục tác động của khủng hoảng. 2-/ Những đặc điểm chủ yếu của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu á. 2.1 Diễn biến cuộc khủng hoảng. Cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu á bắt đầu xảy ra từ ngày 2/7/1997 tại Thái Lan khi nước này tuyên bố thả nổi đồng Baht. Ngay sau đó đồng Baht giảm giá liên tục, sau hơn 1 tháng đồng Baht mất giá hơn 30%, và cùng với nó chỉ số thị trường chứng khoán Băng Cốc cũng mất giá trị tương đương. Đối với một số nước khác trong khu vực thì đồng tiền của các nước này cũng trong tình trạng tương tự. Sau một tháng, đồng Peso và đồng rigit đã mất khoảng 25% giá trị, còn đồng dola singgpore cũng mất 6% so với giá trị ban đầu. Tháng 10 năm 1997, khủng hoảng tài chính tiền tệ bắt đầu xảy ra ở Hàn Quốc (Đây là một quốc gia thuộc khu vực Đông Bắc á với nền kinh tế hùng mạnh). Cuộc khủng hoảng đã làm cho nhiều tập đoàn then chốt ở Hàn Quốc bị phá sản, thị trường cổ phiếu và đồng Won giảm giá mạnh...làm cho nền kinh tế nước này lâm vào tình trạng suy thoái. Khi cuộc khủng hoảng tài chính tièn tệ “gõ cửa” nền kinh tế Hàn Quốc là lúc phạm vi lan truyền và ảnh hưởng của nó đã vượt ra khỏi khuôn khổ các nước Đông Nam á và lan sang các nước Đông Bắc á cũng như toàn Châu á và thế giới. Và cuối cùng là Nhật Bản, một trong những nền kinh tế hùng mạnh của thế giới cũng gặp khó khăn với hệ thống tài chính tiền tệ. Đồng Yên giảm giá so với đồng USD Mỹ đã làm ảnh hưởng không nhỏ đến nền kinh tế và đời sống của nhân dân Nhật Bản. Bảng 2 - Thị trường tài chính Đông Nam á - một năm sau khủng hoảng. Nước Tỷ giá hối đoái (giá nội tệ / USD) Chỉ số giá chứng khoán 30/6/97 2/7/97 30/6/98 2/7/98 30/6/97 2/7/97 30/6/98 2/7/98 Thái Lan 24,7 29,5 41,2 42,2 527,3 568,8 267 277,9 Indonexia 2.430 2.434 14.750 14.550 731,6 730,2 431 466,3 Malaysia 2,52 2,52 3,98 4,18 1.079 1.085 455 478 Philipin 26,37 26,38 41,49 41,2 2.815 2.765 1.723 1.856 * Thái Lan: Baht ; Indonesia: Rupiah Malaysia: Riggit; Philipin: Peso Nguồn: Phòng thị trường tài chính - Viện nghiên cứu tài chính. Đến cuối năm 1998 mặc dù các nền kinh tế có dấu hiệu phục hồi. Nhưng hậu quả của cuộc khủng hoảng tài chính khá nặng nề. So với thời điểm khởi đầu các đồng tiền trong khu vực mất giá mạnh: Đồng Baht Thái lan 40% đồng Riggit của Malaysia 40%, đồng Rupia của Indonesia 80%, đồng Peso của Philipin 30%, đồng dola của singgapore 15%, đồngkip Lào 70%, đồng kyat của Malaysia 50%, đồng Việt Nam mất 15% cùng với tăng trưởng chậm, mất giá đồng nội tệ, tình trạng lạm phát cũng trở nên nghiêm trọng hơn. Bảng 3 - Tình trạng lạm phát của một số nước Đông á. Nước Năm 1997 1998 Indonesia 60% 78,2% Philipin 10,2% 11,2% Việt Nam 3,6% 9,2% Hàn Quốc 6,8% Malaysia 5,6% Thái Lan 10,5% 4,7% Cuộc khủng hoảng ngoài việc gây ra ảnh hưởng về kinh tế nó còn gây ra nhiều ảnh hưởng khác dẫn đến tác động xấu về lao động, việc làm, thu nhập, bần cùng hoá một diện rất lớn dân cư, gây mất ổn định về xã hội, gây nên mất ổn định về chính trị ở một số nước. Bảng 4 - Mức độ khủng hoảng của một số nước châu á. Nước Khủng hoảng tiền tệ Khủng hoảng tài chính Khủng hoảng kinh tế Khủng hoảng xã hội Khủng hoảng chính trị Thái Lan x x x x Indonesia x x x x x Malaysia x x x Philipin x x x Hàn Quốc x x x x Nhật Bản x x x Nguồn: Báo cáo kinh tế Việt Nam 1998 - Viện nghiên cứu quản lý kinh tế TW. 2.2 Nguyên nhân của cuộc khủng hoảng. a, Sự bất cập trong chính sách quản lý vĩ mô của Chính phủ. * Sự chậm trễ và cứng nhắc trong điều hành chính sách tỷ giá khiến đồng bản tệ bị định giá cao giả tạo trong một thờ gian dài so với đồng USD Mỹ. Hầu hết các đồng tiền trong khu vực đều được các ngân hàng TW mỗi nước giữ ổn định theo các ngoại tệ mạnh của nhóm G7, đặc biệt là đồng USD. Điều đó, tạo điều kiện thu hút vốn từ bên ngoài dổ vào qua tất cả các kênh: FDI, cho vay thương mại, đầu tư gián tiếp trên thị trường chứng khoán, điều này kích thích sự gia tăng tài sản giá trị cổ phiếu cũng như cũng như các khoản mục đầu tư dễ dãi, không vững chắc bằng nguồn vốn “rẻ” bên ngoài như là kết quả một nền kinh tế nóng. Chính sự tăng giá tài sản, bất động sản và cổ phiếu đã tiềm ẩn trong lòng nó nguy cơ làm phát sinh và gia tăng một nền kinh tế ảo hay “nền kinh tế bong bóng._.. 2-/ Nhu cầu vốn đầu tư giai đoạn 2000 - 2005. * Xu hướng tăng trưởng kinh tế. Từ khi mở cửa nền kinh tế nước ta đến nay nền kinh tế nước ta luôn duy trì được tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và ổn định. Trong những năm đầu mới mở cửa do vẫn còn bỡ ngỡ với nền kinh tế thế giới và sự thay đổi đột ngột mọi chính sách của Chính phủ do vậy nên tốc độ tăng trưởng kinh tế trong giai đoạn này không cao. Nhưng trong giai đoạn 1991 - 1997 tốc độ tăng trưởng đã tăng vọt trung bình luôn đạt trên 8%/năm. Sở dĩ có tốc độ tăng trưởng cao như vậy là vì khi nền kinh tế còn đang ở trình độ thấp, lại thiếu vốn nên không thể khai thác hết các tiềm năng sẵn có của đất nước, nhưng khi nền kinh tế mở cửa với thế giới bên ngoài, thì đầu tư nước ngoài gia tăng vào, áp dụng các kỹ thuật tiên tiến của các nước thì các tiềm năng trong nước được khai thác tối đa và trở thành nhân tố quan trọng thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng nhanh, ổn định (đây là quy luật chung của các nước kém phát triển). Từ năm 1997 đến nay do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu á làm cho tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam chậm lại năm 1997 là 8,2%; năm 1998 là 5,8% và năm 1999 là 4,8%. Nhưng trong những năm tới khi mà ảnh hưởng của khủng hoảng qua đi thì nền kinh tế nước ta sẽ tăng trưởng trở lại và duy trì ở mức cao khoảng 8 - 9%. * Sự biến động của hệ ICOR. Hệ số ICOR của Việt Nam trong giai đoạn 1991 - 1997 tương đối thấp, do sử dụng hiệu quả các nguồn lực trong nước, các công trình được xây dựng bằng vốn đầu tư của Liên Xô (cũ) được đưa vào sử dụng. Nhưng từ 1997 đến nay hệ số ICOR tăng lên một cách nhanh chóng, năm 1997 mới là 3,8 lần, nhưng đến năm 1999 đã tăng lên 5,4 lần. Bảng 16 - Hệ số ICOR của Việt Nam từ năm 1991 đến 1999. 1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 ICOR (lần) 2,5 2,05 3,07 2,89 3,1 3,1 3,8 4,6 5,4 Nguồn: Bộ Kế hoạch - Đầu tư nguyên nhân là do khủng hoảng tài chính - tiền tệ Châu á ảnh hưởng đến hiệu quả của đầu tư trong những năm tiếp theo do xu thế tăng hệ số ICOR của các nước trong khu vực và do các yếu tố nguồn lực sử dụng ngày càng triệt để hơn do vậy việc tạo ra hệ số ICOR thấp là rất khó khăn. Do vậy các nhà kinh tế đã dự báo hệ số ICOR của Việt Nam giai đoạn 2000 - 2005 sẽ giao động trong khoảng từ 5 đến 6 lần. Trên cơ sở hệ số ICOR và tốc độ tăng trưởng kinh tế giai đoạn 2000 - 2005 ta có thể dự báo nhu cầu vốn đầu tư giai đoạn này của Việt Nam: - Giả sử ta có các phương án tăng trưởng GDP sau: thấp nhất là 8%/năm, trung bình là 8,5%/năm và cao là 9%/năm. - Giả sử ta có các phương án về hệ số ICOR nh sau: thấp nhất là 5 lần, cao nhất là 6 lần. Từ đây ta có thể tính được nhu cầu vốn đầu tư theo công thức sau: Ik = gk . kk . GDP Bảng 17 - Nhu cầu vốn đầu tư giai đoạn 2000 - 2005 (Với tốc độ tăng trưởng bình quân 8% (giá năm 1999) và GDP năm 1999 là 28.36 triệu USD) Đơn vị: Triệu USD Năm 2000 2001 2002 2003 2004 2005 Tổng GDP 30.852 33.320 35.986 38.865 41.974 45.332 226.329 Nhu cầu vốn ĐT ICOR = 5 12.340 13.328 14.394 15.546 16.790 18.133 90.532 ICOR = 6 14.509 15.994 17.273 18.655 20.147 24.759 108.337 Với cách tính hoàn toàn tương tự ta tính được nhu cầu vốn đầu tư cho giai đoạn 2000 - 2005 với các phương án về tốc độ tăng trưởng kinh tế 8,5% và 9%. Bảng 18 - Nhu cầu vốn đầu tư giai đoạn 2000 - 2005. Phương án 1 Phương án 2 Phương án 3 Tốc độ tăng trưởng (%) 8 8,5 9 GDP (triệu USD) 226.329 230.264 234.262 Nhu cầu vốn đầu tư ICOR = 5 50.532 97.862 105.418 ICOR = 6 108.337 117.434 126.500 Qua bảng trên ta thấy: nhu cầu vốn đầu tư toàn xã hội giai đoạn 2000 - 2005 thấp nhất là 90.533 triệu USD và cao nhất là 126.500 đây là một con số tương đối lớn, đòi hỏi phải có sự nỗ lực cao độ của chính phủ, của các thành phần kinh tế, các doanh nghiệp ... 3-/ Nhu cầu vốn FDI Trong những năm qua nguồn vốn đầu tư toàn xã hội liên tục tăng nhưng cơ cấu giữa nguồn vốn trong nước và nguồn vốn nước ngoài vẫn còn chưa hợp lý. Nguồn vốn trong nước vẫn chiếm một tỷ lệ khá lớn. Trong giai đoạn 2000 - 2005 theo tính toán ở trên ta thấy nhu cầu vốn đầu tư là khá lớn do vậy nếu cơ cấu nguồn vốn vẫn giữ ở mức như vậy thì e rằng chúng ta không thể đáp ứng được nhu cầu vốn đó bởi vì nguồn vốn trong nước của ta vẫn còn hạn chẹp, mức tích luỹ trong GDP vẫn còn thấp. Chính vì vậy đặt nhiệm vụ cho chúng ta giai đoạn tới là phải huy động tối đa nguồn vốn từ bên ngoài, nâng cao tỷ lệ vốn FDI lên. II-/ Phương hướng và giải pháp nhằm tăng cường huy động vốn FDI vào Việt Nam giai đoạn 2000 - 2005. 1-/ Phương hướng. Để hạn chế ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu á và ngăn chặn ảnh hưởng của các cuộc khủng hoảng khác đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài, chúng ta cần có biện pháp huy động vốn FDI theo các phương hướng sau: a, Tăng cường hợp tác với các nước có nền kinh tế phát triển. Trên thế giới hiện có nhiều nước có tiềm lực kinh tế mạnh như Mỹ, Anh, Pháp... Nhưng chúng ta chưa tận dụng được nguồn vốn đầu tư từ các nước này, mà chúng ta chỉ phụ thuộc vào một số nước Châu á do vậy khi các nước này rơi vào khủng hoảng sẽ làm ảnh hưởng rất lớn đến FDI vào Việt Nam. Do vậy trong những năm tới ta cần tăng cường hợp tác với các nước phát triển, các công ty đa quốc gia các tập đoàn lớn trên thế giới để tranh thủ được công nghệ tiên tiến, tiếp cận với cách thức quản lý hiện đại tạo điều kiện cho Việt Nam hoà nhập vào thị trường quốc tế, và đặc biệt là có thể hạn chế được ảnh hưởng của khủng hoảng ở khu vực nào đó. b, Khuyến khích đầu tư vào các ngành, khu vực ưu tiên. Để khắc phục dần sự chênh lệch giữa các vùng lãnh thổ. Chúng ta cần khuyến khích các nhà đầu tư bỏ vốn vào các vùng, các khu vực đang còn khó khăn về cơ sở hạ tầng, điều kiện tài nguyên thiên nhiên không thuận lợi như miền Núi phía Bắc Miền Trung. Các ngành về lĩnh vực ưu tiên là nông nghiệp, trồng rừng, xây dựng các vùng nguyên liệu, chế biến lương thực, thực phẩm xác định các ngành mũi nhọn của Việt Nam, thứ tự ưu tiên giữa các ngành căn cứ vào 4 tiêu chuẩn sau: - Sản phẩm các ngành có ưu thế về nguồn lực (tài nguyên, lao động, tính đặc sản, tính truyền thống) đảm bảo tạo ra lợi thế nhất định. - Ngành có hệ số ICOR thấp. - Sản phẩm của ngành có tính hướng ngoại cao, phù hợp với nhu cầu thị hiếu của thị trường quốc tế. - Ngành này có khả năng mở rộng, phát huy ưu thế công nghệ, kỹ thuật hiện đại cho các ngành khác. Do vậy, chúng ta cần tập trung vào các lĩnh vực sau: Thứ nhất: Ưu tiên phát triển những ngành thu hút nhiều lao động, đó cũng là những ngành có khả năng đạt và giữ chỉ số ICOR thấp. Đa số các ngành trong số này như: Dệt, Da, may mặc, chế biến nông sản, hàng tiêu dùng. Thứ hai: Đầu tư cho một số ngành mũi nhọn về kỹ thuật công nghệ để tạo ra năng lực tiếp cận nhanh với hệ thống kinh tế và sản xuất của thế giới. Đó là những ngành như lắp ráp các linh kiện điện tử máy móc thiết bị. Thứ ba: phát triển những ngành đóng vai trò nền móng của nền công nghiệp như: khai khoáng, luyện kim, hoá chất, vật liệu xây dựng. Thứ tư: phát triển mạng lưới những ngành dịch vụ như tài chính, ngân hàng, thương mại, dịch vụ khách sạn... c, Đa dạng hoá các hình thức đầu tư. Tích cực mở rộng các hình thức đầu tư trong khuôn khổ pháp luật theo hướng đa phương hoá, đa dạng hoá. Theo luật đầu tư nước ngoài của Việt Nam được quốc hội thông qua ngày 12/11/1996 thì ở nước ta hiện nay có các hình thức đầu tư chủ yếu như: hợp đồng hợp tác kinh doanh, doanh nghiệp liên doanh, doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài, hợp đồng xây dựng - kinh doanh - chuyển giao BOT và các biến thể của nó. Mỗi một hình thức có mặt yếu và mặt mạnh của nó. Trong thời gian vừa qua chúng ta vẫn chưa phát huy được nhiều hình thức đầu tư đó, chúng ta mới thu hút đầu tư theo hai hình thức chủ yếu là doanh nghiệp liên doanh và doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài, còn các hình thức khác chúng ta chưa thu hút được nhiều do các quy định trong đó vẫn kém hấp dẫn với các nhà đầu tư. Vì vậy trong giai đoạn tới chúng ta cần có các biện pháp tích cực hơn nữa để nhằm phát huy thêm các hình thức đầu tư. d, Lấy hiệu quả kinh tế xã hội làm tiêu chuẩn cao nhất trong hợp tác đầu tư. Thông thường các nhà đầu tư nước ngoài và đôi khi cả bên Việt Nam chỉ quan tâm đến hiệu quả tài chính. Bởi vì đứng về lợi ích riêng của nhà đầu tư thì hiệu quả cao nhất là lợi nhuận thu được, nên họ chú ý đễnn vấn đề thiết thực như doanh thu, chi phí, thuế, tiền thuê đất... Trong khi đó, Nhà nước khuyến khích nhiều hay ít một dự án FDI không chỉ căn cứ vào hiệu quả tài chính (mặc dù nó là một nhân tố làm tăng nguòn thu của ngân sách Nhà nước, góp vào sự phát triển của nền kinh tế) mà điều phải quan tâm nhiều hơn để đánh giá một dự án FDI là hiệu quả kinh tế xã hội của nó. Lấy hiệu quả kinh tế xã hội làm tiêu chuẩn cơ bản để xây dựng phương hướng lựa chọn các dự án và tính chất công nghệ. Nhà nước phải chú ý nhiều hơn đến sự phát triển tổng thể của nền kinh tế quốc dân. Tuy nhiên, lợi ích mà dự án có thể đưa lại hiệu quả tài chính là một yếu tố của hiệu quả kinh tế xã hội trong một loạt các nhân tố khác. Không ít trường hợp có hiệu quả tài chính cao nhưng hiệu quả kinh tế xã hội thấp thậm chí gây tổn hại đến lợi ích kinh tế xã hội. Do đó, trong khi thẩm định xem xét một dự án FDI cần phải đặt hiệu quả kinh tế xã hội lên trên và coi đó là phương hướng cơ bản của những biện pháp khuyến khích đầu tư. Chỉ tiêu hiệu quả kinh tế xã hội của FDI nhìn tổng thể phải đáp ứng được các yêu cầu: vốn, công nghệ, trí thức, kinh nghiệm quản lý sản xuất, kinh doanh; giải quyết việc làm và tăng thu nhập cho người lao động; giải quyết thị trường tiêu thụ sản phẩm. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là các chỉ tiêu nhất thiết phải hội tụ đủ trong một dự án cụ thể. Trong điều kiện của nước ta, trước mắt nên coi trọng mục tiêu tạo công ăn việc làm cho người lao động. 2-/ Các giải pháp. a, Những giải pháp trước mắt. * Hỗ trợ các dự án FDI đang gặp khó khăn do ảnh hưởng khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu á. Do tác động của cuộc khủng hoảng làm tốc độ tăng trưởng kinh tế trong nước chững lại, nên các doanh nghiệp có vốn FDI đang hoạt động còn tiếp tục gặp khó khăn. Vì vậy, các cơ quan quản lý Nhà nước phải thực sự có thái độ chia sẻ, coi khó khăn đó cũng là khó khăn của mình, từ đó tập trung chỉ đạo, điều hành xử lý các vấn đề phát sinh, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp này vượt qua tác động của cuộc khủng hoảng, an tâm tiếp tục đầu tư, tránh để xảy ra đổ vỡ và tháo lui. Đây cũng là cách làm có tính thuyết phục cao để thu hút các nhà đầu tư mới, các dự án mới, cùng với đó cần nhanh chóng rà soát, phân loại và đánh giá tình hình thực hiện của tất cả các dự án trên địa bàn để có biện pháp xử lý, hỗ trợ cho phù hợp. - Đối vói các dự án đang làm thủ tục hành chính hoặc đang xây dựng cơ bản, chưa đi vào sản xuất kinh doanh cần tiến hành một số biện pháp như: + Kiểm tra tình hình triển khai các dự án tìm ra các nguyên nhân, ách tắc từ đó tập trung tháo gỡ, bác bỏ một số thủ tục không cần thiết, công bố rõ quy trình và trách nhiệm thời gian xử lý các thủ tục quy định. Cố gắng tập tủng dần mối về các Sở Kế hoạch đầu tư, tránh gây ra tình trạng phân quyền cho quá nhiều cơ quan làm phức tạp quá trình xử lý, gây khó khăn nhũng nhiễu. + Cho phép các doanh nghiệp có vốn FDI vay vốn tại các ngân hàng Việt Nam nếu các doanh nghiệp này có nhu cầu thực sự và có khả năng trả nợ. Ngân hàng Nhà nước và Bộ Tư pháp cần ban hành các quy định về thế chấp, cầm cố, đăng ký tài sản... để các doanh nghiệp FDI có thể vay vốn của Ngân hàng trong và ngoài nước, của các tổ chức tài chính quốc tế. + Tiến hành nhanh chóng việc đền bù giải phóng mặt bằng để đẩy nhanh tiến độ thực hiện của các dự án đã cấp phép, hoãn hoặc miễn tiền thuê đất đối với các dự án xin dừng hoặc dãn tiến độ thực hiện do khó khăn bị ảnh hưởng của khủng hoảng. Cấp giấy chứng nhận lại cho các doanh nghiệp thuê lại đất trong các khu công nghiệp để đẩy nhanh tiến độ lấp đầy cho các khu công nghiệp. - Đối với các dự án đang hoạt động sản xuất kinh doanh. + Tiếp tục rà soát các dự án đã được cấp phép đầu tư để các dự án này được hưởng những ưu đãi của các quy định mới về thuế, về giá thuê đất, xem xét miễn giảm thuế đối với những doanh nghiệp thực sự lỗ vốn. + Khuyến khích tối đa các doanh nghiệp xuất khẩu, các doanh nghiệp sản xuất sản phẩm trung gian phục vụ xuất khẩu. Tạo mọi điều kiện dễ dàng, thuận tiện cho xuất khẩu sản phẩm. Cho phép các dự án sản xuất hàng xuất khẩu đang gặp khó khăn được phép tăng tỷ lệ tiêu thụ trong nước nếu những sản phẩm đó ta vẫn nhập khẩu và thị trường trong nước vẫn có nhu cầu. + Thực hiện thoả đáng nguyên tắc không khởi tố các dự án đã được cấp giấy phép đầu tư trong những trường hợp sau: Sau khi dự án được cấp giấy phép mà luật mới của ta quy định như thuế doanh thu, thuế nhập khẩu, thuế tiêu thụ đặc biệt cao hơn, gây khó khăn làm đảo lộn phương án kinh doanh của các doanh nghiệp này. + Đối với các doanh nghiệp thuộc diện phải bán ngoại tệ cần đơn giản hối thủ tục, có giải pháp khắc phục rủi ro về thay đổi tỷ giá hối đoái, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp khi cần có thể mua đủ và kịp thời lượng ngoại tệ đã quy định. Hỗ trợ bán ngoại tệ cho các doanh nghiệp đang thực sự khó khăn do khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực, thị trường xuất khẩu bị thu hẹp. + Xem xét chặt chẽ việc cấp giấy xây dựng mới và giãn tiến độ xây dựng các khu công nghiệp, khu chế xuất để tập trung vào các khu công nghiệp, khu chế xuất hiện có. Các khu công nghiệp, khu chế xuất phải chuyển trọng tâm vào hoạt động vận động đầu tư để lấp đầy diện tích cho thuê, khắc phục được tình trạng đầu tư phân tán, cạnh tranh không lành mạnh giữa trong và ngoài khu công nghiệp, khu chế xuất. Tăng cường kiểm tra, giám sát các hoạt động tài chính doanh nghiệp có vốn FDI nhằm khắc phục sơ hở gây thiệt hại đến lợi ích của Việt Nam, Nhà nước cũng cần sớm ban hành luật chống độc quyền và kiểm soát bán phá giá, luật kinh doanh bất động sản. * Hạn chế ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu á tới nền kinh tế Việt Nam. - Việc xác định các mục tiêu tăng trưởng và phát triển kinh tế phải dựa trên cơ sở các nguồn lực có thể có được và các cân đối kinh tế vĩ mô, đồng thời phải kịp điều chỉnh mục tiêu cho phù hợp với những thay đổi nhằm đảm bảo sự hài hoà giữa các yếu tố phát triển. Phấn đấu giảm thâm hụt cán cân vãng lai bằng cách tăng nhanh các mặt hàng xuất khẩu. Trong việc thu hút vốn FDI cần chú ý khuyến khích các dự án đầu tư vào các mặt hàng xuất khẩu và thay thế nhập khẩu. - Cải cách khu vực hành chính, giám sát có hiệu quả lĩnh vực tài chính và nâng cao khả năng quản lý nợ nước ngoài, nhất là nợ ngắn hạn, lành mạnh hoá hệ thống ngân hàng. - Việc xác định tỷ giá hối đoái phải căn cứ vào thị trường đồng thời có sự quản lý chặt chẽ của Nhà nước thông qua quy chế sử dụng và mua bán ngoại tệ, có những can thiệp tích cực nhằm chống tình trạng đầu cơ. - Để tránh tình trạng vốn FDI có thể lũng đoạn, kiểm soát nền kinh tế Việt Nam, ngay từ bây giờ các cơ quan chức năng cần nghiên cứu, xem xét việc quy định tỷ lệ góp vốn tối thiểu của bên Việt Nam để nâng cao vai trò lãnh đạo quản lý trong các doanh nghiệp liên doanh. Mặt khác, chúng ta phải có phương án tối ưu để sử dụng tốt vốn, kỹ thuật do nước ngoài cung cấp, đồng thời nâng cao ý thức độc lập tự chủ, phát huy yếu tố trong nước để tránh bị động khi liên kết. - Trong tương lai khi thị trường chứng khoán được thành lập cần giám sát kiểm tra chặt chẽ đầu tư nước ngoài thông qua việc mua bán cổ phiếu, trái phiếu... tránh tình trạng các nhà đầu tư bán tháo cổ phiếu, trái phiếu gây ảnh hưởng bất lợi tới đồng tiền nội tệ. * Tăng cường hoạt động tiếp thị đầu tư nhằm tìm thêm các đối tác đầu tư ở các nước phát triển, hoạt động xúc tiến đầu tư như chiến cầu nối lôi cuốn các công ty nước ngoài đến Việt Nam như “bà mối” giúp các chủ đầu tư nước ngoài và trong nước rút ngắn thời gian “tìm kiếm” tạo điều kiện cho họ nhanh chóng đi đến làm ăn với nhau. Do vậy cần nâng cao hiệu quả công tác tuyên chuyền, vận động để tạo dụng chính xác hình ảnh về một đất nước Việt Nam thực sự muốn mở rộng quan hệ với bên ngoài. Về nội dung, hoạt động xúc tiến đầu tư cần tập trung theo hướng: - Hoạch định một chiến lược xúc tiến đầu tư nhằm đáp ứng được nhu cầu của mục tiêu ổn định và phát triển kinh tế xã hội. - Củng cố bộ phận xúc tiến đầu tư đủ mạnh về đội ngũ, mạnh về trình độ năng lực theo hướng tập trung hoá cao độ. - Tăng cường và có kế hoạch đưa các Bộ, Viện, Trường và các cơ quan làm công tác đối ngoại tham gia vào hoạt động xúc tiến đầu tư, phối hợp các chương trình nghiên cứu nhằm tạo thế chủ động trong giao tiếp và xử lý các quan hệ với bên ngoài. - Thiết lập quan hệ với các cơ quan quản lý Nhà nước về đầu tư của một số nước để trao đổi thông tin, kinh nghiệm, đẩy mạnh quan hệ với các công ty tư vấn pháp luật, dịch vụ đầu tư quốc tế để có nguồn thông tin và có sự trợ giúp trong công tác xây dựng luật, vận động đầu tư. - Nghiên cứu thành lập các tổ chức tư vấn đầu tư chuyên ngành ở một số địa phương để cung cấp các dịch vụ triển khai dụ án khi được cấp giấy phép đầu tư, như dịch vụ về đất đai, dịch vụ quản lý xây dựng... tạo thuậnlợi cho các chủ đầu tư. b, Các giải pháp lâu dài. * Hoàn thiện hệ thống pháp luật về đầu tư trực tiếp nước ngoài. Tính hấp dẫn của mỗi quốc gia về lĩnh vực đầu tư trước hết là phải được thể hiện ở luật. Đối với các quốc gia đầu tư nước ngoài là một bằng chứng cụ thể của sự mở cửa và là cái mà các nhà đầu tư đều quan tâm. Cùng với luật, các văn bản dưới luật không kém phần quan trọng. Các nhà đầu tư khi thực hiện đầu tư vào một nước đều phải đụng chạm đến rất nhiều vấn đề về luật pháp và các văn bản dưới luật (việc góp vốn, thuê đất, tuyển dụng lao động, xuất nhập khẩu hàng hoá, ...). Do vậy nếu không có các văn bản hướng dẫn cụ thể thì họ sẽ không biết được ý định của nước chủ nhà và sẽ không thể tiến hành đầu tư. Thời gian qua Chính phủ Việt Nam đã cho ra đời hàng loạt các luật, nghị định, chỉ thị có tính chất pháp lý cao góp phần đáng kể vào việc hoàn thiện môi trường đầu tư như Nghị định 12 Chính phủ ngày 18/12/1997, nghị định số 10/CP /1998 ngày 23/01/1998 và gần đây là quyết định số 53 ngày 26/3/1999. Các nghị định, quyết định này được cọng đồng các nhà đầu tư nước ngoài nhiệt liệt hoan nghênh, tuy nhiên theo họ vấn đề quan trọng nhất là các bước đi cụ thể nhằm triển khai các văn bản pháp lý đó. Theo ông Allan Martin, Tổng giám đốc ngân hàng ANZ tại Việt Nam cho biết “Trong thời gian qua đã có nhiều quy định thông thoáng của Chính phủ Việt Nam ban hành nhưng không được các cấp liên tục triệt để, không ít ngành và địa phương kéo dài thời gian thực hiện hoặc cố tình hiểu sai các quy định của Chính phủ gây khó khăn cho các nhà đầu tư”. Nhằm cải thiệt môi trường đầu tư nước ngoài. Các nhà đầu tư nước ngoài cho rằng “Chính phủ cần kiên quyết loại bỏ những quy định do các ngành, địa phương ban hành trái với chủ trương chính sách của Chính phủ, tránh tình trạng phép vua thua lệ làng, tạo nên một hệ thống pháp luật đầy đủ đồng bộ xuyên suốt từ Trung ương đến địa phương”. Đối với các loại thuế: cần phải điều chỉnh các loại thuế, phí cho phù hợp với mỗi hoạt động kinh doanh sao cho đảm bảo hoạt động kinh doanh có hiệu quả. * Cải cách thủ tục hành chính. Theo quyết định số 233/1998 của thủ tướng Chính phủ, cho phép tất cả các UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (bao gồm Hà Nội, TP HCM, Hải Phòng, Đà Nẵng...) có quyền trực tiếp cấp giấy phép cho các dự án. Điều đó đã thể hiện được bãi bỏ thủ tục hành cồng kềnh, quá tập trung. Tuy nhiên các nhà đầu tư nước ngoài vẫn còn phàn nàn nhiều về thủ tục hành chính của ta về các mặt như: Thủ tục đầu tư vẫn còn là vấn đề trở ngại lớn, thời gian chuẩn bị cho một dự án còn kéo dài, tình trạng “một cửa” nhưng nhiều “chìa khoá” vẫn tồn tại. Việc chuẩn bị dự án của bên Việt Nam, còn quá rườm rà, gây lãng phí thời gian vô ích. Do vậy trong thời gian tới Việt Nam cần phải cải thiện thủ tục đầu tư theo hướng đơn giản hoá và thực hiện triệt để “một cửa”, “một chìa khoá”. - Về công tác thẩm định xét duyệt dự án: Trong thời gan vừa qua công tác thẩm định các dự án đầu tư đối với một số dự án quá thời gian quy định. Nguyên nhân do chất lượng dự án chưa tốt, thậm chí có những sai sót nghiêm trọng phải sửa đổi bổ sung gây lãng phí nhiều thời gian, chất lượng thẩm định thấp, nhiều dự án đã thông qua thẩm định nhưng vẫn nhập thiết bị cũ kỹ, lạc hậu, đa số các dự án gây ô nhiễm môi trường trầm trọng. Do vậy, việc nâng cao chất lượng thẩm định là điều thật sự cần thiết, muốn vậy phải kiện toàn đội ngũ cán bộ, đào tạo họ có chuyên môn cao, có trách nhiệm, phải trang bị cho họ những dụng cụ kiểm định hiện đại, quy định lại các thủ tục thẩm định cho phù hợp với yêu cầu đặt ra. - Thủ tục cấp đất: Đây là yếu tố mà các nhà đầu tư coi là “vấn nạn” chưa thể vượt qua. Thực tế có những dự án phải mất quá nhiều thời gian do các quy định phan cấp quản lý đất hiện nay. Các chủ đầu tư và chủ sử dụng đất không thống nhất được giá đền bù giải phóng mặt bằn... Thiết nghĩ trong thời gian tới Nhà nước nên quy định việc phân cấp quản lý đất cho phù hợp, phải có những giải pháp tích cực giải quyết nhanh chóng thủ tục cấp đất, giao đất với giá cả đền bù giải phóng mặt bằng hợp lý. * Cần có quy hoạch thu hút vốn FDI một cách hợp lý. Bộ kế hoạch và đầu tư cần nhanh chóng lập quy hoạch các ngành, lãnh thổ, cơ cấu kinh tế thống nhất trên phạm vi cả nước. Trước hết, cần khẩn trương quy hoạch các khu công nghiệp, khu chế xuất, các sản phẩm quan trọng thuộc các ngành công nghiệp chế biến như: Chế biến thực phẩm, dệt may; công nghiệp chế tạo như cơ khí, hoá chất, điện tử, vật liệu xây dựng..., công nghiệp hoá lọc dầu; công nghiệp luyện kim; công nghiệp thông tin. Trên cơ sở đó, xác định các dự án theo đó trong nước tự đầu tư hoặc vay vốn để đầu tư, những dự án có thể kêu gọi đầu tư theo ngành và lãnh thổ cũng như xác định yêu cầu tương ứng về công nghệ. Các ngành cần hoàn chỉnh thêm một bước quy hoạch, phối hợp với các thành phố, địa phương xây dựng quy hoạch trên địa bàn lãnh thổ, nhằm thu hút một cách có hiệu quả hơn, đảm bảo quản lý thuận tiện và khắc phục tình trạng yếu kém về cơ sở hạ tầng. Trừ một số dự án đặc thù như khai thác chế biến khoáng sản, chế biến nông sản gắn với vùng nguyên liệu; các dự án đầu tư vào miền núi, tây nguyên, miền núi phía Bắc... các dự án còn lại cần tập trung và các khu công nghiệp, giảm bớt tỷ lệ dự án đầu tư phân tán. Hướng dẫn, công bố rộng rãi danh mục các ngành, lĩnh vực đầu tư vào các khu vực trên. * Xây dựng kết cấu hạ tầng vật chất kỹ thuật. Đối với các nhà đầu tư thì cơ sở hạ tầng có vai trò quan trọng tới kết quả đầu tư, nó có thể tăng tính hấp dẫn hoặc cản trở việc thu hút nguồn vốn đầu tư này. ở nước ta trong thời gian vừa qua hệ thống đường giao thông, bến cảnh sana bay, thông tin liên lạc đã cải tiến một cách đáng kể. Tuy vậy, nó vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu đặt ra. Do đó trong thời gian tới Việt Nam cần củng cố hơn nữa hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ cho mục đích phát triển, ở đây có thể thực hiện một số giải pháp như: - Cố gắng giải quyết tốt các mối quan hệ về kinh tế đối ngoại với các quốc gia, các tổ chức phi Chính phủ và các tổ chức kinh tế để có những khoản hỗ trợ phát triển chính thức ODA đầu tư vào xây dựng các đề án, xây dựng cơ sở hạ tầng, và cần có những kế hoạch huy động các nguồn lực của toàn dân để đầu tư vào các công trình trọng điểm. - Cần tìm những vị trí địa lý, kinh tế, xã hội thuận lợi để xây dựng các đặc khu kinh tế với quy mô thích hợp để tiếp nhận các nguồn vốn lớn, kỹ thuật công nghệ cao của nước ngoài. Bởi lẽ việc tập trung vật chất vào xây dựng kết cấu hạ tầng ở khu vực này là khả thi hơn do không bị dàn trải về vốn. * Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và xây dựng bộ máy quản lý FDI về mọi mặt. Việc tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và hiệu lực quản lý của bộ máy Nhà nước có vai trò cực kỳ quan trọng. Chính sự lãnh đạo của Đảng sẽ là nhân tố quyết định sự ổn định chính trị và thu hút đầu theo đúng hướng chiến lược. Mọi sự buông lỏng sự lãnh đạo của Đảng chắc chắn sẽ dẫn đến thất bại. Để làm được điều này thì đội ngũ, trước hết đội ngũ lãnh đạo phải là người có phẩm chất chính trị tốt, được đào tạo, có kinh nghiệm lãnh đạo. Đội ngũ lãnh đạo phải hiểu và nắm vững được đường lối của Đảng để việc thu hút vốn FDI theo đúng hướng, đúng mục tiêu chiến lược đã đặt ra. Trong quá trình quản lý cần quán triệt nguyên tắc “một cửa” đối với nhà đầu tư, tránh tình trạng “một cửa” nhưng “nhiều chìa khoá”, “ một cửa” mà lại cửa quyền ha chỉ quản lý một cửa còn chìa khoá lại bỏ ngỏ. Cần nâng cao cho các cán bộ này về trình độ ngoại ngữ, trình độ lý luận, thực tiễn về chuyên ngành kinh tế đối ngoại... Lựa chọn những cán bộ có trình độ chuyên môn vững, giỏi về ngoại giao, nhạy bén, năng động trong công việc để nhanh chóng và trực tiếp nắm bắt được các vấn đề, cũng như có khả năng giải quyết chúng. Chú trọng người trẻ tuổi, thử thách sàng lọc ngay trong hoạt động thực tiễn để tạo ra một lớp người có năng lực đáp ứng được tình hình thực tế. Thành lập các cơ sở Đoàn, Đảng, Công đoàn trong các doanh nghiệp có vốn FDI để giáo dục phẩm chất đạo đức, ý thức chính trị và bảo vệ quyền lợi chính đáng lợi ích cho người lao động. * Nâng cao trình độ kỹ thuật cho công nhân. Lợi thế về lao động với giá rẻ chỉ là lợi ích trước mắt, còn lợi thế về trình độ chuyên môn kỹ thuật của người công nhân mới là lâu dài đáp ứng được yêu cầu khắt khe của nhà đầu tư nước ngoài. Theo yêu cầu ấy, chúng ta phải mau chóng đào tạo một đội ngũ công nhân có trình độ kỹ thuật tay nghề cao. Hình thức đào tạo có thể là: - Kèm cặp trực tiếp trong quá trình sản xuất. - Thành lập các cơ sở đào tạo ngay trong doanh nghiệp hoặc đào tạo tại các trường dạy nghề. - Cần có chính sách khuyến khích các doanh nghiệp thành lập các trung tâm đào tạo nghề, các tập đoàn cần thành lập các trung tâm công nghệ cao để công nhân kỹ thuật có điều kiện theo học, tiếp thu các kỹ thuật tiên tiến của thế giới. Được như vậy, chúng ta mới đảm bảo được lợi thế lâu dài về nguồn lực. kết luận Tóm lại, việc tăng cường khả năng huy động và sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trong tổng thể chiến lược phát triển và tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, khi dất nước vừa chịu ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực, là một trong những nhiệm vụ rất quan trọng. ở một góc độ nào đó có thể nói rằng việc thực hiện tăng trưởng nhanh, bền vững mà Việt Nam đang theo đuổi với điểm xuất phát thấp phụ thuộc rất nhiều vào việc giải quyết nhiệm vụ nói trên. Thực tiễn trong hơn 10 năm qua, đầu tư nước ngoài tại Việt Nam đã đạt được những thành tựu đáng khích lệ như: Cung cấp thêm một lượng vốn quan trọng cho phát triển kinh tế, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH - HĐH, chuyển giao được nhiều công nghệ tiên tiến, tạo ra nhiều việc làm cho người lao động ... Điều này chứng tỏ tính đúng đắn của đường lối phát triển kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, tính đúng đắn của việc thực hiện chiến lược kinh tế mở mà Nhà nước ta đã lựa chọn. Đây cũng là kết quả tất yếu của sự lãnh đạo nghiêm túc và đầy sáng tạo của Đảng và Nhà nước, sự nỗ lực tự giác của nhân dân, nhiều chính phủ, tổ chức quốc tế cũng như các nhà nghiên cứu, các nhà kinh tế đã có những đánh giá tốt về những thành tựu phát triển của nước ta, không ít đánh giá cho rằng: những thành tích kinh tế mà Việt Nam đạt được là ngoạn mục, rằng đó là sự xuất hiện của “một con rồng trẻ”. Tuy nihên những kết quả tương đối khả quan này chưa cho phép chúng ta hài lòng tự mãn mà chúng ta cần phải nỗ lực hơn nữa trong giai đoạn tới. Trước mắt chúng ta còn rất nhiều trở ngại, khó khăn làm cản trở công cuộc thu hút và sử dụng nguồn vốn FDI, chẳng hạn như: môi trường pháp lý chưa ổn định, tính hấp dẫn đầu tư chưa cao, thủ tục hành chính rườm rà, cơ sở hạ tầng thấp kém... và đặc biệt là ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu á. Mặc dù chính phủ đã có những giải pháp tích cực và tương đối kịp thời nhưng việc giải quyết chúng không phải một sớm một chiều mà cần phải có thời gian. Do vậy đòi hỏi chúng ta phải có những giải pháp chiến lược khả thi hơn nữa, trong đó đặc biệt là giải pháp tăng cường khả năng thu hút và sử dụng hiệu quả nguồn vốn FDI. Với truyền thống dân tộc, với sự cần cù chịu khó đòi hỏi, vốn thông minh sẵn có, với lòng quyết tâm của toàn Đảng, toàn dân, chúng ta tin tưởng rằng công cuộc đổi mới, chiến lược huy động và sử dụng nguồn vốn FDI cho phát triển trong tương lại sẽ thành công tốt đẹp. Tài liệu tham khảo 1-/ Giáo trình Kinh tế phát triển - Đại học Kinh tế quốc dân. 2-/ Giáo trình Lập và Quản lý dự án đầu tư - Đại học KTQD. 3-/ Giáo trình Kinh tế quốc tế - Đại học KTQD. 4-/ Những giải pháp chính trị, kinh tế nhằm thu hút có hiệu quả đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam - NXB Chính trị Quốc gia - 1996. 5-/ Khủng hoảng tài chính tiền tệ ở Châu á, nguyên nhân và bài học - NXB Chính trị Quốc gia - 1998. 6-/ Đầu tư trực tiếp nước ngoài với tăng trưởng kinh tế Việt Nam - NXB Thống kê - 1997. 7-/ Chính sách và biện pháp huy động các nguồn vón - Trung tâm tư liệu, thông tin - Bộ Kế hoạch và đầu tư - 1996. 8-/ Chuyên đề nghiên cứu khoa học cấp Nhà nước mã số KX03 - Viện Chiến lược phát triển - Bộ Kế hoạch và Đầu tư. 9-/ Chuyên đề: Cơ sở khoa học của các dự báo kinh tế vĩ mô đến năm 2010 - Viện chiến lược phát triển - Bộ Kế hoạch và Đầu tư. 10-/ Luật đầu tư nước ngoài sửa đổi ngày 12/11/1996. 11-/ Niêm giám thống kê 1998. 12-/ Chuyên san thời báo kinh tế Việt Nam 98 - 99, 99 - 2000. 13-/ Báo cáo kinh tế Việt Nam 1998, 1999 - Viện nghiên cứu và quản lý kinh tế Trung ương. 14-/ Tạp chí: Kinh tế và dự báo số: 4 - 1998, 1 - 2000. 15-/ Tạp chí: Nghiên cứu kinh tế số 236/1998, 240/1998. 16-/ Tạp chí: Kinh tế và phát triển số 24/1998, 28/1998. 17-/ Tạp chí: Phát triển kinh tế số 87/1998, 90/1998, 95/1998. 18-/ Tạp chí Cộng sản số 23/1999, 1/2000. 19-/ Tạp chí: Kinh tế Châu á - Thái Bình Dương số 4/1999, 2/2000. 20-/ Tạp chí thương mại số 1/2000, 4/2000. 21-/ Tạp chí công nghiệp số 1 + 2/2000. mục lục ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docC0057.doc
Tài liệu liên quan