Phòng ngừa & hạn chế rủi ro tín dụng tại Ngân hàng thương Mại Cổ phần các doanh nghiệp ngoài quốc doanh (VPBank)

Tài liệu Phòng ngừa & hạn chế rủi ro tín dụng tại Ngân hàng thương Mại Cổ phần các doanh nghiệp ngoài quốc doanh (VPBank): LỜI MỞ ĐẦU Ngân hàng là một trong những định chế tài chính quan trọng bậc nhất của nền kinh tế. Bằng các sản phẩm, dịch vụ của mình, ngân hàng đã giúp các luồng tiền thông suốt, vận động liên tục và thúc đẩy phát triển nền kinh tế. Với tầm quan trọng như vậy, sự an toàn trong hoạt động của ngân hàng có ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động của nhiều tổ chức, cá nhân trong nền kinh tế. Về bản chất, rủi ro của ngân hàng là không tránh khỏi nhưng điều đó không có nghĩa là không làm gì. Các ngân hàng đề... Ebook Phòng ngừa & hạn chế rủi ro tín dụng tại Ngân hàng thương Mại Cổ phần các doanh nghiệp ngoài quốc doanh (VPBank)

doc86 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1208 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Phòng ngừa & hạn chế rủi ro tín dụng tại Ngân hàng thương Mại Cổ phần các doanh nghiệp ngoài quốc doanh (VPBank), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
u cố gắng hạn chế tối đa các rủi ro có thể xảy ra bằng các biện pháp khác nhau. Trong bối cảnh cạnh tranh và hội nhập thị trường tài chính và nền công nghiệp dịch vụ tài chính - ngân hàng ngày càng phát triển mạnh mẽ đòi hỏi ngành ngân hàng phải có những cải cách mạnh mẽ để nâng cao năng lực quản trị rủi ro trong từng hoạt động dịch vụ. Sau khi Ngân hàng Nhà Nước ra quyết định 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/04/2005 về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng, rủi ro càng trở thành vấn đề quan tâm của các ngân hàng và những người quan tâm. Trong quá trình thực tập tại VPBank – chi nhánh Hoàn Kiếm, em được tiếp xúc với các công việc của tín dụng, hiểu được quy trình tín dụng cũng như tìm hiểu được một phần các rủi ro có thể xảy ra trong hoạt động tín dụng của ngân hàng. Do vậy, em chọn vấn đề: “Phòng ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng tại ngân hàng thương mại cổ phần các doanh nghiệp ngoài quốc doanh (VPBank)” làm chuyên đề tốt nghiệp. Qua chuyên đề này em hy vọng có thể góp phần vào việc hạn chế được những rủi ro hiện hữu cũng như tiềm ẩn tại ngân hàng, tăng độ an toàn trong hoạt động tín dụng của ngân hàng. Ngoài Lời mở đầu, Kết luận, chuyên đề gồm 3 chương: Chương I. Lý luận chung về ngân hàng thương mại và rủi ro tín dụng trong ngân hàng thương mại Chương II. Thực trạng rủi ro tín dụng tại ngân hàng thương mại cổ phần các doanh nghiệp ngoài quốc doanh Việt Nam (VPBank) Chương III: Một số giải pháp phòng ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng tại ngân hàng thương mại cổ phần các doanh nghiệp ngoài quốc doanh Việt Nam (VPBank) Do thời gian nghiên cứu cũng như kiến thức còn hạn chế, bài chuyên đề chắc chắn không tránh khỏi những thiếu sót, em rất mong được sự chỉ bảo của cô giáo và các cán bộ tín dụng tại Ngân hàng thương mại cổ phần các doanh nghiệp ngoài quốc doanh Việt Nam (VPBank) – Chi nhánh Hoàn Kiếm để em hoàn thiện chuyên đề này. Em xin chân thành cảm ơn! CHƯƠNG I . LÝ LUẬN CHUNG VỀ NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VÀ RỦI RO TÍN DỤNG TRONG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 1.1. Vài nét về Ngân hàng thương mại 1.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển của Ngân hàng thương mại Lịch sử hình thành và phát triển của ngân hàng gắn liền với lịch sử phát triển của nền sản xuất hàng hoá. Quá trình phát triển kinh tế là điều kiện và đòi hỏi sự phát triển của ngân hàng; đến lượt mình, sự phát triển của hệ thống ngân hàng trở thành động lực thúc đẩy phát triển kinh tế. Từ 3500 năm trước công nguyên trở về trước, có rất ít tư liệu về hoạt động của một cái gì mang tính chất giống như ngân hàng. Thời gian này cho đến năm 1800 BC, nghĩa là trước cuộc chiến tranh thành Troa (1500 – 1000 năm BC), tư liệu cho biết là đã có một vài hoạt động mang tính chất khá tương tự như một số hoạt động của ngân hàng. Lịch sử gọi đây là “giai đoạn của ngân hàng sơ khai”, nó ra đời khi các thiết chế tổ chức xã hội bắt đầu hình thành. Ngân hàng vào thời gian này chưa có tên. Hoạt động của ngân hàng sơ khai này gồm có: bảo quản, giữ hộ tiền và đổi tiền hưởng hoa hồng. Nhà thờ thường có quyền thế và thợ vàng trở thành những nơi cất giữ tài sản của cải cho công chúng. Hoạt động của chúng mang hình thích như những “tiệm cầm đồ”. Ngân hàng sơ khai với những bản quyết toán đơn giản trong đó, dự trữ cuối kỳ luôn luôn bằng tổng các khoản ký gửi, được gọi là trung tính trong cung ứng tiền, vì không có một đồng tiền mới nào được tạo ra từ hoạt động ngân hàng. Dự trữ tiền mặt trong kho như thế gọi là dự trữ 100%. Ngân hàng ở các giai đoạn sau không dự trữ (reservers) đến mức thế. Một cách thụ động theo sự thúc đẩy của nhu cầu thương mại và trao đổi, các ngân hàng hoạt động như trên cho đến thời La Mã. Năm 323 trước công nguyên sau cái chết của Alexander Macedoine, đế quốc Hy Lạp tan rã mở ra thời kì La Mã thống trị Hy Lạp về mặt quân sự và chính trị, nhưng lại bị người Hy Lạp với đời sống và tổ chức xã hội cao hơn đồng hoá về mặt văn hoá. Người ta gọi đây là thời kỳ “Hy Lạp hoá”, người La Mã mang văn hoá Hy Lạp về đế quốc của họ củng cố vào văn hoá bản địa. Nghệ thuật ngân hàng sơ khai cũng được mang theo về La Mã và trước Thiên Chúa giáng sinh hoạt động này được gọi là “Ngân hàng”. Tên gọi đó được tiếp tục giữ và phát triển cho đến ngày nay. Từ ngân hàng (Bank) xuất phát từ chữ La tinh là Bancus – Bancus là chiếc bàn dài, có nhiều hộc được những người nhận tiền gửi và cho vay tiền thời đớ sử dụng để ngồi làm việc, giao dịch, cất giữ tiền, tài sản và sổ sách. Cả tên gọi và hoạt động ngân hàng bắt đầu phát triển từ đế quốc La Mã cho đến thế kỷ thứ V sau công nguyên. Trong vòng năm thế kỷ - từ thế kỷ thứ V cho đến thế kỷ thứ X, nhiều hoạt động mới được áp dụng khiến cho ngân hàng vào thế kỷ X đã rất tiến bộ so với ngân hàng sơ khai và người ta gọi đây là “ giai đoạn phát triển thứ hai” của lịch sử phát triển ngân hàng. Có những bước tiến về mặt nghiệp vụ ngân hàng: Ngân hàng bắt đầu ghi chép và theo dõi hoạt động của thân chủ qua số liệu tài khoản. Ngân hàng áp dụng phương pháp bù trừ, và nghiệp vụ giải ngân , tức là chuyển tiền từ nơi này đi nơi khác cũng được áp dụng... Ngân hàng đã bước vào giai đoạn ba gắn khá chặt với việc tạo ra “tiền ngân hàng”. Ngân hàng từ thế kỷ XVII đã có cách tạo ra tiền của nó và dự trữ là mối dây liên quan đến chu trình này. Các chứng thư do ngân hàng phát ra (như Séc ngày nay) từ xa xưa đã được chấp nhận như phương tiện thanh toán trong giao dịch và trao đổi. Ngân hàng thời Trung cổ hay ngân hàng Amsterdam (1609 – 1891) vào thế kỷ XVII với việc phát ra 100 tiền ngân hàng thay thế cho việc cất kỹ 100 tiền vàng do nhà nước đúc ra lưu hành, không tạo thêm được đồng tiền nào vào nền kinh tế. Việc cất tiền mặt như thế gọi là “dự trữ tiền mặt 100%”. Ngân hàng hoạt động như thế gọi là có “tác động trung tính” đối với lượng tiền cung ứng trong nền kinh tế. Một ngân hàng vào cuối thế kỷ XVII không hành động như thế. Nó tạo ra tiền và kể cả rủi ro khi nó không giữ đủ 100 đồng của khách hàng đã gửi trong kho, mà tìm cách cho vay một ít. Vì tiền ngân hàng từ đầu thế kỷ XVII đã được chấp nhận trong thanh toán như là tiền mặt, quá trình tạo tiền ngân hàng ảnh hưởng sâu sắc tới tổng cung tiền tệ trong nền kinh tế. Từ năm 1609 – 1694 các ngân hàng đều có quyền tạo ra những tờ giấy bạc có hiệu lực pháp lý như nhau trong lưu thông. Tình trạng được phát hành tiền ngân hàng bị lạm dụng. Các Nhà nước bắt đầu có ý thức “can thiệp vào hoạt động ngân hàng” để hạn chế việc phát hành. Chỉ sau khi Chính phủ giới hạn quyền phát hành tiền tệ về một ngân hàng vào cuối thế kỷ XVII, khoảng cách giữa các ngân hàng bắt đầu phát sinh: đó là việc chỉ có một ngân hàng duy nhất được phát hành tiền, trong khi những ngân hàng còn lại thì không. Từ đó, các ngân hàng còn lại chỉ làm nhiệm vụ những “trung gian tài chính” giữa những người cho vay và những người vay tiền trong nền kinh tế, trong khi ngân hàng độc quyền phát hành đã trở thành Ngân hàng Trung ương, nó hoàn toàn biệt lập với công chúng. Mọi hoạt động của nó đều thông qua những định chế trung gian và Chính phủ để lan ra công chúng. Từ nguyên nhân này, những ngân hàng còn lại trong nền kinh tế được gọi là “ngân hàng trung gian”. 1.1.2. Khái niệm về Ngân hàng thương mại Luật các tổ chức tín dụng do Quốc hội khoá X thông qua vào ngày 12 tháng 12 năm 2007, định nghĩa: “Ngân hàng thương mại là một loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và các hoạt động khác có liên quan”. Luật này còn định nghĩa: “Tổ chức tín dụng là loại hình doanh nghiệp được thành lập theo quy định của Luật này và các quy định khác của pháp luật để hoạt động kinh doanh tiền tệ, làm dịch vụ ngân hàng với nội dung nhận tiền gửi và sử dụng tiền gửi để cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán”. Luật tổ chức tín dụng không có định nghĩa hoạt động của ngân hàng vì khái niệm này đã được định nghĩa trong Luật Ngân hàng Nhà nước, cũng do Quốc hội khoá X thông qua cùng ngày. Luật Ngân hàng Nhà Nước định nghĩa: “Hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi và sử dụng số tiền này để cấp tín dụng, cung ứng dịch vụ thanh toán”. 1.1.3. Các hoạt động cơ bản của Ngân hàng thương mại 1.1.3.1. Hoạt động huy động vốn Ngân hàng thương mại được huy động vốn dưới các hình thức sau: - Nhận tiền gửi của tổ chức, cá nhân và các tổ chức tín dụng khác dưới hình thức tiền gửi không kì hạn, tiền gửi có kỳ hạn và các loại tiền gửi khác. - Phát hành chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu và giấy tờ có giá khác để huy động vốn của tổ chức, cá nhân trong nước và ngoài nước. - Vay vốn ngắn hạn của Ngân hàng Nhà nước. - Các hình thức huy động vốn khác theo quy định của Ngân hàng Nhà nước. 1.1.3.2. Hoạt động sử dụng vốn Ngân hàng thương mại sử dụng vốn để tiến hành các hoạt động kinh doanh thu lợi nhuận. Các hoạt động sử dụng vốn của ngân hàng thương mại bao gồm: - Hoạt động cấp tín dụng Ngân hàng thương mại được cấp tín dụng cho tổ chức, cá nhân dưới các hình thức cho vay, chiết khấu thương phiếu và giấy tờ có giá khác, bảo lãnh, cho thuê tài chính và các hình thức khác theo quy định của Ngân hàng Nhà nước như bao thanh toán tài trợ nhập khẩu, tài trợ xuất khẩu, cho vay thấu chi, và cho vay theo hạn mức tín dụng, và hạn mức tín dụng dự phòng…Trong các hoạt động cấp tín dụng, cho vay là hoạt động quan trọng nhất và chiếm tỷ trọng lớn nhất. - Góp vốn mua cổ phần Ngân hàng thương mại được dùng vốn điều lệ và quỹ dự trữ để góp vốn, mua cổ phần các doanh nghiệp và các tổ chức tín dụng khác trong nước theo quy định của pháp luật. Ngoài ra, ngân hàng thương mại còn được góp vốn, mua cổ phần và liên doanh với Ngân hàng nước ngoài để thành lập ngân hàng liên doanh. - Tham gia thị trường tiền tệ Ngân hàng thương mại được tham gia thị trường tiền tệ, theo quy định của Ngân hàng Nhà nước, thông qua các hình thức mua bán các công cụ của thị trường tiền tệ. - Kinh doanh ngoại hối Ngân hàng thương mại được phép trực tiếp kinh doanh hoặc thành lập công ty trực thuộc để kinh doanh ngoại hối và vàng trên thị trường trong nước và thị trường quốc tế. 1.1.3.3. Hoạt động trung gian Ngân hàng thương mại đóng vai trò trung gian khi thực hiện các dịch vụ bao gồm: dịch vụ thanh toán, uỷ thác và nhận uỷ thác, cung ứng dịch vụ bảo hiểm và tư vấn tài chính. - Dịch vụ thanh toán Để thực hiện được các dịch vụ thanh toán giữa các doanh nghiệp thông qua ngân hàng, ngân hàng thương mại được mở tài khoản cho khách hàng trong và ngoài nước. Để thực hiện thanh toán giữa các ngân hàng với nhau thông qua Ngân hàng Nhà nước, ngân hàng thương mại phải mở tài khoản tiền gửi tại Ngân hàng Nhà nước nơi NHTM đặt trụ sở chính và duy trì tại đó số dư tiền gửi dự trữ bắt buộc theo quy định. Ngoài ra, chi nhánh của NHTM được mở tài khoản tiền gửi tại chi nhánh Ngân hàng Nhà nước tỉnh, thành phố nơi đặt trụ sở của chi nhánh. Hoạt động dịch vụ thanh toán của NHTM bao gồm các hoạt động sau: +) Cung cấp các phương tiện thanh toán. +) Thực hiện các dịch vụ thanh toán trong nước cho khách hàng. +) Thực hiện dịch vụ thu hộ và chi hộ. +) Thực hiện các dịch vụ thanh toán khác nhau theo quy định của Ngân hàng Nhà nước. +) Thực hiện dịch vụ thanh toán quốc tế khi được Ngân hàng Nhà nước cho phép. +) Thực hiện dịch vụ thu và phát triển tiền mặt cho khách hàng. +) Tổ chức hệ thống thanh toán nội bộ và tham gia hệ thống thanh toán liên ngân hàng trong nước. +) Tham gia hệ thống thanh toán quốc tế khi được Ngân hàng Nhà nước cho phép. - Uỷ thác và nhận uỷ thác Ngân hàng thương mại được uỷ thác, nhận uỷ thác làm đại lý trong các lĩnh vực liên quan đến hoạt động ngân hàng, kể cả việc quản lý tài sản, vốn đầu tư của tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước theo hợp đồng uỷ thác, đại lý. - Cung ứng dịch vụ bảo hiểm Ngân hàng thương mại được cung ứng dịch vụ bảo hiểm, được thành lập công ty trực thuộc hoặc liên doanh để kinh doanh bảo hiểm theo quy định của pháp luật. - Tư vấn tài chính Ngân hàng thương mại được cung ứng các dịch vụ tư vấn tài chính, tiền tệ cho khách hàng dưới hình thức tư vấn trực tiếp hoặc thành lập công ty tư vấn trực thuộc ngân hàng. 1.1.4. Vai trò của Ngân hàng thương mại 1.1.4.1. Vai trò của ngân hàng thương mại đối với doanh nghiệp Vốn là điều kiện không thể thiếu được để một doanh nghiệp được thành lập và tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh. Tuỳ theo loại hình doanh nghiệp và các đặc điểm cụ thể, mỗi doanh nghiệp có thể có các phương thức huy động vốn khác nhau, tuy nhiên vốn vay ngân hàng là một trong những nguồn vốn quan trọng nhất, không chỉ đối với bản thân các doanh nghiệp mà còn đối với toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Sự hoạt động và phát triển của các doanh nghiệp đều gắn liền với các dịch vụ tài chính do các ngân hàng thương mại cung cấp. Không có một doanh nghiệp nào không vay vốn ngân hàng hoặc không sử dụng tín dụng thương mại nếu doanh nghiệp đó muốn tồn tại vững chắc trên thị trường. Trong quá trình hoạt động, các doanh nghiệp thường vay ngân hàng để đảm bảo nguồn tài chính cho các hoạt động sản xuất - kinh doanh, đặc biệt là đảm bảo có đủ vốn cho các dự án mở rộng hoặc đầu tư chiều sâu của doanh nghiệp. Ngân hàng thương mại hỗ trợ thúc đẩy hoạt động của các doanh nghiệp thông qua các dịch vụ thanh toán: dịch vụ thanh toán trong nước và quốc tế, dịch vụ thu hộ, chi hộ…giúp các doanh nghiệp tiết kiệm được thời gian và chi phí, đặc biệt trong thanh toán xuất nhập khẩu, nâng cao sức cạnh tranh và cớ sự phát triển mạnh mẽ như ngày nay. 1.1.4.2. Vai trò của ngân hàng thương mại đối với nền kinh tế Đối với nền kinh tế, ngân hàng là một trong những tổ chức trung gian tài chính quan trọng nhất. Ngân hàng là người cho vay chủ yếu đối với hàng triệu hộ tiêu dùng, hầu hết các doanh nghiệp và kể cả các cơ quan chính quyền. Ngân hàng còn là một kênh quan trọng trong chính sách kinh tế vĩ mô của Chính phủ. Trên thực tế, để có thể duy trì khả năng cạnh tranh và đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của xã hội, vai trò của ngân hàng ngày càng lớn, thể hiện qua: - Vai trò thực thi chính sách tiền tệ: Việc hoạch định chính sách tiền tệ thuộc về Ngân hàng Trung ương; để thực thi các chính sách tiền tệ đó phải sử dụng các công cụ như lãi suất, dự trữ bắt buộc, tái chiết khấu, thị trường mở, hạn mức tín dụng...Chính các Ngân hàng thương mại là chủ thể chịu sự tác động trực tiếp của những công cụ này và đồng thời đóng vai trò cầu nối trong việc chuyển tiếp các tác động trực tiếp của những công cụ này và đồng thời đóng vai trò cầu nối trong việc chuyển tiếp các tác động của chính sách ti tiền tệ đến khu vực phi ngân hàng và đến nền kinh tế. Ngược lại, cũng qua Ngân hàng thương mại và các định chế tài chính trung gian khác, tình hình, sản lượng, giá cả, công ăn việc làm, nhu cầu tiền mặt...của nền kinh tế được phản hồi về cho Ngân hàng Trung ương để Chính phủ và Ngân hàng Trung ương có những chính sách điều tiết thích hợp với từng tình hình cụ thể. Hoạt động kinh doanh của Ngân hàng thương mại gắn liền với các hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp, các tổ chức và các chủ thể kinh tế. Trong quá trình hoạt động đó, ngân hàng thương mại thực hiện vai trò tham gia điều tiết kinh tế vi mô đối với nền kinh tế thông qua các chức năng của mình, biểu hiện các mối quan hệ giữa ngân hàng thương mại đối với các tổ chức kinh tế, cá nhân về mặt tín dụng, tiền mặt, thanh toán không dùng tiền mặt... đảm bảo hoạt động của ngân hàng và nền kinh tế được bình thường. Vai trò điều tiết nền kinh tế vi mô của ngân hàng Thương mại được thể hiện qua việc tiếp nhận, thu hút khối lượng tiền mặt từ trong nền kinh tế vào Ngân hàng thương mại, đồng thời ngân hàng thương mại cũng cung ứng tiền mặt theo nhu cầu khi các doanh nghiệp rút tiền mặt từ tài khoản của mình để trả lương cho công nhân viên chức, trả tiền mua nguyên vật liệu, thu mua hàng hoá..., khi công chúng rút tiền gởi để chi dùng cho những nhu cầu của mình. Quá trình thu nhận và cung ứng khối lượng tiền mặt trong nền kinh tế đã tạo ra mối quan hệ giữa lưu thông hàng hoá và lưu thông tiền tệ trong từng khu vực. Cùng với các nghiệp vụ kinh doanh trong lĩnh vực tín dụng và tiền tệ, ngân hàng thương mại còn thực hiện các dịch vụ ngân hàng khác, trong nền kinh tế. Đây là những dịch vụ trung gian, tạo cho ngân hàng thương mại những nguồn lợi đáng kể, góp phần tăng thêm các khoản thu nhập cho ngân hàng thương mại, đồng thời cũng tạo ra những điều kiện thuận lợi cho sự phát triển toàn diện và thoả mãn các yêu cầu trong hoạt động sản xuất kinh doanh của các chủ thể kinh tế. Với tư cách là trung gian thanh toán không dùng tiền mặt, ngân hàng thương mại đã giúp các chủ thể tham gia thanh toán, tiết kiệm chi phí trong mua bán hàng hoá, cung ứng và tiếp nhận các dịch vụ, tiết kiệm thời gian, đồng thời giúp cho doanh nghiệp thu hồi tiền bán hàng nhanh để tiếp tục quá trình luân chuyển vốn tiếp theo, tạo thuận lợi cho sự phát triển của doanh nghiệp..., từ đó đảm bảo quyền lợi của người mua và người bán, đảm bảo an toàn và đẩy nhanh tốc độ luân chuyển vốn, góp phần tạo nên văn hoá tiền tệ cho xã hội. - Vai trò góp phần vào hoạt động điều tiết vĩ mô thông qua chức năng tạo tiền của Ngân hàng thương mại. Trong nền kinh tế thị trường, chức năng điều tiết nền kinh tế vĩ mô thuộc về Ngân hàng Trung ương. Chức năng này thể hiện trên hai mặt: Thứ nhất, tham gia xây dựng chiến lược phát triển kinh tế xã hội và soạn thảo chính sách tiền tệ. Với chức năng và vai trò của mình, Ngân hàng Trung ương có đủ điều kiện thiết lập một kế hoạch tổng thể về việc phân bổ, sử dụng các nguồn lực cho nhu cầu phát triển kinh tế, từ đó Ngân hàng Trung ương trở thành một trong những trung tâm điều độ, mà sự phát triển của nền kinh tế phụ thuộc rất lớn vào trung tâm điều độ này. Chính sách tiền tệ là loại công cụ của chính sách can thiệp bằng kinh tế, dựa trên bản thân cơ chế thị trường và quy luật vận động của nó. Nhưng Ngân hàng Trung ương không trực tiếp giao dịch với công chúng, do đó phải dựa vào thông tin phản hồi từ các định chế tài chính trung gian để làm căn cứ soạn thảo chính sách tiền tệ. Như vậy, rõ ràng là nếu không có hệ thống Ngân hàng thương mại cung cấp, thì việc hoạch định chiến lược và soạn thảo chính sách tiền tệ của Ngân hàng Trung ương sẽ không hoàn hảo. Thứ hai, chính sách tiền tệ được thiết kế và khởi động từ Ngân hàng Trung ương, lan ra đến mọi ngóc ngách của nền kinh tế thông qua hoạt động dây chuyền của hệ thống ngân hàng trung gian và các tổ chức tài chính trong nước. Như vậy, nếu không có sự chấp hành của hệ thống ngân hàng trung gian thì mục đích và chính sách tiền tệ của Ngân hàng Trung ương sẽ không thực hiện được. Trong việc điều hành thực thi chính sách tiền tệ, Ngân hàng Trung ương sử dụng các công cụ chính sách tiền tệ trong phạm vi toàn xã hội, mà trước hết là trong hệ thống Ngân hàng thương mại. Các công cụ này là những thao tác hoạt động của Ngân hàng Trung ương. Vì thế, có thể nói rằng, mọi hoạt động của Ngân hàng Trung ương đều tác động đến nền kinh tế vĩ mô trong khuôn khổ của chính sách tiền tệ đã vạch ra. Sự điều tiết tiền tệ (bao gồm chính sách tiền tệ và các công cụ của nó) có thể điều tiết gián tiếp và vô cùng hiệu quả đến những hoạt động của nền kinh tế quốc gia từ vĩ mô đến vi mô. Một nội dung quan trọng của điều tiết tiền tệ là điều hoà khối tiền tệ. Điều hoà khối tiền tệ ngày nay có nghĩa là điều chỉnh việc tạo tiền và sử dụng tiền trong hệ thống ngân hàng hai cấp. Một khả năng kỳ bí của hệ thống ngân hàng hai cấp là tạo tiền, điều chỉnh mức cung tiền để ổn định tiền tệ. Do việc phân chia hệ thống ngân hàng thành hai cấp, nên có việc phân chia hai loại tiền: tiền ngân hàng trung ương (giấy bạc hay tiền mặt) và tiền ngân hàng (tiền ghi sổ, bút tệ). Tiền trung ương là tiền do Ngân hàng Trung ương độc quyền phát hành. Tiền ngân hàng là tiền do các ngân hàng thương mại tạo ra thông qua việc cấp tín dụng cho nền kinh tế, đặc biệt là tiền trên các khoản thanh toán sec. Nó được tạo ra như là sự mở rộng gấp nhiều lần quỹ dự trữ ngân hàng (thông qua hệ số tạo tiền). Tiền của hệ thống Ngân hàng thương mại chiếm bộ phận lớn nhất trong tổng khối lượng tiền tệ ngày nay ở các nước có nền kinh tế phát triển. Một nền kinh tế càng đi dần vào hiện đại, càng phát triển bao nhiêu, nền kinh tế ấy càng sử dụng nhiều hơn tiền do các Ngân hàng trung gian tạo ra. Như vậy, bằng việc tạo tiền gắn liền chặt chẽ với công cụ quản lý vĩ mô của Ngân hàng Trung ương trong khi thực hiện hoạt động kinh doanh của mình, Ngân hàng Thương mại đã thể hiện vai trò của mình trong việc góp phần vào hoạt động điều tiết vĩ mô của Ngân hàng Trung ương thông qua chính sách tiền tệ. 1.2. Rủi ro tín dụng trong hoạt động Ngân hàng thương mại 1.2.1. Khái niệm rủi ro tín dụng Rủi ro là một sự không chắc chắn hay một tình trạng bất ổn xảy ra đối với một sự việc. Tuy nhiên, không phải sự không chắc chắn nào cũng là rủi ro. Chỉ có những tình trạng không chắc chắn nào có thể ước đoán xác suất xảy ra mới được xem là rủi ro. Những tình trạng không chắc chắn nào chưa từng xảy ra và không thể ước đoán được xác suất xảy ra được xem là sự bất trắc chứ không phải rủi ro. Rủi ro tín dụng là rủi ro phát sinh khi một hoặc các bên tham gia hợp đồng tín dụng không có khả năng thanh toán cho các bên còn lại. Đối với ngân hàng thương mại, rủi ro tín dụng phát sinh trong trường hợp ngân hàng không thu được đầy đủ cả gốc và lãi của các khoản cho vay, hoặc là việc thanh toán nợ gốc và lãi vay không đúng hạn của khách hàng. Nếu tất cả các khoản cho vay của ngân hàng đều được thanh toán đầy đủ và đúng hạn cả gôc và lãi thì ngân hàng không bị rủi ro tín dụng. Ngược lại, nếu người vay tiền không có khả năng trả nợ hoặc cố ý không trả nợ thì rủi ro tín dụng nảy sinh. Rủi ro tín dụng gắn liền với các hình thức tín dụng, do đó, nó không chỉ giới hạn ở hoạt động cho vay mà còn bao gồm nhiều hoạt động mang tính chất tính dụng khác của ngân hàng thương mại: hoạt động bảo lãnh, chiết khấu và cho thuê tài chính. - Rủi ro trong nghiệp vụ chiết khấu: Chiết khấu là việc tổ chức tín dụng mua thương phiếu, giấy tờ có giá ngắn hạn khác của người thụ hưởng trước khi đến hạn thanh toán. Tái chiết khấu là việc mua lại thương phiếu, giấy tờ có giá ngắn hạn khác đã được chiết khấu trước khi đến hạn thanh toán. Chiết khấu có thể xảy ra rủi ro trong các trường hợp sau: +) Thương phiếu giả mạo: Thương phiếu là một loại giấy xác nhận nợ được lập trên cơ sở thương mại vì vậy khi thực hiện tín dụng tái chiết khấu Ngân hàng được đảm bảo bằng một lượng hàng hoá ở người mua. Thương phiếu bị giả mạo nghĩa là không có lượng hàng hoá tương ứng đảm bảo kèm theo nên Ngân hàng cho vay trên cơ sở thương phiếu này sẽ phải chịu rủi ro. +) Người nhận trả không có khả năng trả nợ: Trên thực tế có những doanh nghiệp đang có nguy cơ bị phá sản hoặc không còn khả năng huy động vốn nào khác, muốn dùng số tiền chiết khấu thương phiếu để thanh toán công nợ, vì vậy nếu Ngân hàng không nghiên cứu kỹ đến khách hàng mà thực hiện tín dụng chiết khấu sẽ xảy ra rủi ro không thu hồi được khoản nợ này. Để hạn chế rủi ro trong tín dụng tái chiết khấu, Ngân hàng phải xem xét kỳ phiếu, hối phiếu của người trả trước đây có được thanh toán sòng phẳng hay không. - Rủi ro đối với tín dụng thuê mua: Nói chung đây là một hình thức tín dụng có độ an toàn tương đối cao vì trong suốt quá trình thực hiện hợp đồng tín dụng thuê mua, tài sản cho thuê vẫn thuộc quyền sở hữu của người cho thuê. Tuy nhiên, rủi ro tín dụng sẽ xảy ra khi bên thuê không trả tiền thuê theo đúng thoả thuận hợp đồng, vi phạm một trong các điều khoản hợp đồng hoặc bên thuê bị mất khả năng thanh toán, phá sản, thanh lý, giải thể. 1.2.2. Dấu hiệu nhận biết rủi ro tín dụng Một số dấu hiệu thường thấy từ phía khách hàng có thể dẫn tới rủi ro tín dụng cần được kiểm tra: ● Từ báo cáo tài chính : - Ngân hàng không nhận được cáo báo cáo tài chính từ người vay một cách kịp thời - Tiền mặt của khách hàng giảm - Khả năng thanh khoản/vốn lưu động giảm - Những thay đổi nhanh chóng của tài sản cố định - Xuất hiện những khoản nợ mà công ty vay hoặc cho vay cán bộ hoặc cổ đông của công ty - Doanh số bán hàng giảm hoặc gia tăng một cách nhanh chóng - Mức độ chênh lệch lớn giữa tổng doanh thu và doanh thu ròng - Doanh thu tăng nhưng lợi nhuận giảm - Xuất hiện các khoản lỗ từ hoạt động kinh doanh ● Từ hoạt động kinh doanh - Thay đổi về phạm vi kinh doanh - Mất những dây chuyền sản xuất chính, quyền phân phối sản phẩm hoặc nguồn cung cấp - Mất một hay nhiều khách hàng có năng lực tài chính tốt hoặc nhà cung ứng chính - Sự thay đổi đáng kể về giá trị của đơn đặt hàng hoặc hợp đồng mà có thể làm mất năng lực sản xuất hiện hành ● Những dấu hiệu liên quan đến giao dịch ngân hàng - Số dư tài khoản tại ngân hàng giảm - Xuất hiện khoản nợ quá hạn - Đặt niềm tin nhiều vào các khoản nợ ngắn hạn - Xin gia hạn nhiều lần hoặc đảo nợ nhiều lần - Xuất hiện các khoản vay có nhiều nguồn trả nợ (như theo đề nghị vay vốn) nhưng không dễ dàng nhận thấy chúng. - Công tác kế hoạch hoá tài chính cho các nhu cầu về tài sản cố định hoặc về vốn lưu động thể hiện sự đơn giản và kém cỏi ● Những dấu hiệu liên quan đến quản trị công ty - Báo cáo và quản lý tài chính kém cỏi - Các chức năng điều hành và phân công xử lý công việc thể hiện một sự chắp vá - Mong muốn hoặc khăng khăng đòi “đánh bạc” với kinh doanh có những rủi ro quá mức - Đặt giá bán hàng hoá và dịch vụ một cách không thực tế - Những thay đổi trong quản lý, quyền sở hữu hoặc những nhân vật chủ chốt - Chậm trễ trong việc phản ứng lại với sự đi xuống của thị trường hoặc các điều kiện kinh tế Tuy nhiên, khi khách hàng có một trong những dấu hiệu trên thì không đáng kể. Nhưng khi một số dấu hiệu xảy ra đồng thời thì cán bộ cần xem xét, đánh giá kỹ để có thê hạn chế và giảm thiểu tác động của rủi ro tín dụng gây nên. 1.2.3. Ảnh hưởng của rủi ro tín dụng tới hoạt động của ngân hàng 1.2.3.1. Ảnh hưởng của rủi ro tín dụng tới hoạt động của ngân hàng Do vốn chủ sở hữu của ngân hàng chỉ chiếm một phần nhỏ trong tổng tài sản nên chỉ cần một tỷ lệ nhỏ của danh mục cho vay có vấn đề là đã ảnh hưởng lớn đến ngân hàng. Dưới đây là một số tác động xấu mà ngân hàng có thể gặp phải khi rủi ro tín dụng xảy ra: Thứ nhất, rủi ro tín dụng làm giảm thu nhập của ngân hàng. Khi có một khoản nợ bị coi là quá hạn, thu nhập của ngân hàng bị giảm sút ngay; một phần vì không thu được lãi hoặc nợ gốc như cam kết, trong khi vẫn phải trả lãi cho nguồn huy động, một phần do các chi phí quản lý, giám sát phát sinh. Mặt khác, nếu các khoản nợ quá hạn chuyển thành khó thu hoặc không thu được, thì việc xử lý tài sản đảm bảo luôn gặp rất nhiều khó khăn về pháp lý và định giá nên trường hợp ngân hàng có thể thu hồi được nợ khi phát mại tài sản là rất khó xảy ra. Thứ hai, rủi ro tín dụng làm giảm khả năng thanh toán của ngân hàng. Tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ cao không những làm giảm thu nhập của ngân hàng mà còn làm giảm nguồn vốn, đồng thời làm giảm khả năng thanh toán của ngân hàng. Khi đó, ngân hàng sẽ phải đi vay trên thị trường liên ngân hàng với lãi suất cao, bởi huy động từ tiền gửi dân cư thường mất rất nhiều thời gian. Nếu tình trạng này kéo dài với việc hàng loạt người gửi tiền rút tiền, ngân hàng sẽ buộc phải đóng cửa và tuyên bố phá sản. Thứ ba, rủi ro tín dụng giảm uy tín và năng lực cạnh tranh của ngân hàng. Khi ngân hàng mất khả năng thanh toán, phải đi vay từ nhiều nguồn khác nhau, uy tín của ngân hàng trên thị trường tài chính sẽ bị giảm đi nghiêm trọng. Hơn nữa tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ cao cũng là một chỉ tiêu quan trọng để đánh giá không tốt về tình hình hoạt động của ngân hàng. Điều này sẽ ảnh hưởng lớn đến tâm lý đối tác của ngân hàng, dẫn đến việc huy động vốn trở nên khó khăn hơn và gặp nhiều trở ngại trong việc cạnh tranh với các ngân hàng khác. 1.2.3.2. Ảnh hưởng của rủi ro tín dụng tới nền kinh tế Hoạt động của Ngân hàng thương mại mang tính xã hội hoá cao vì nó liên quan đến nhiều ngành nghề và nhiều thành phần khác nhau trong nền kinh tế. Do vậy, khi một ngân hàng bị phá sản, nó sẽ gây ảnh hưởng đến các bộ phận còn lại trong xã hội. Trước tiên là các ngân hàng khác, bởi có quan hệ mật thiết với nhau trong hoạt động nên một ngân hàng sụp đổ rất có thể dẫn đến sự sụp đổ của các ngân hàng còn lại. Ngoài ra, việc sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp bị gián đoạn do thiếu vốn; người gửi tiền không lấy lại tiền. Những hậu quả này còn làm giảm lòng tin của công chúng vào sự vững chắc và lành mạnh của hệ thống tài chính, cũng như hiệu lực của các chính sách tài chính tiền tệ của Chính phủ. 1.3. Một số mô hình lượng hoá rủi ro tín dụng 1.3.1. Các chỉ tiêu phản ánh rủi ro tín dụng Chỉ tiêu1 : Nợ quá hạn và tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ Nợ quá hạn là khoản nợ mà khách hàng không trả được khi đã đến hạn thoả thuận ghi trên hợp đồng tín dụng. Tỷ lệ nợ qúa hạn = Nợ quá hạn *100% Tổng dư nợ cho vay Tỷ lệ này gián tiếp cho thấy quy mô của các khoản vay có vấn đề của ngân hàng. Nếu tỷ lệ này lớn, chứng tỏ chất lượng tín dụng của ngân hàng là kém, ngân hàng phải xem xét lại khả năng đánh giá lại các khoản cho vay của mình, đánh giá lại quy trình thủ tục cho vay, đặc biệt xem xét khả năng thực hiện nhiệm vụ của cán bộ tín dụng. Theo quy định của ngân hàng Nhà nước Việt Nam, các ngân hàng có tỷ lệ dư nợ quá hạn trên 7% thì là các ngân hàng yếu kém. Ngân hàng có tỷ lệ dư nợ quá hạn nhỏ hơn 5% là ngân hàng có nghiệp vụ tín dụng tốt, chất lượng cho vay cao. Tuy nhiên, ta cũng phải nhận thức rõ ràng hai vấn đề dường như trái ngược nhau là: Thứ nhất, chỉ tiêu tỷ lệ nợ quá hạn có thể thấp, có thể giảm đi qua các năm nhưng là do dư nợ của ngân hàng tăng nhanh chóng (nợ quá hạn của ngân hàng có thể vẫn tăng đều đặn). Nếu ngân hàng quá tin tưởng vào chỉ tiêu này cho rằng rủi ro tín dụng đối với ngân hàng là không đáng kể khi chỉ tiêu này thấp thì rất nguy hiểm. Bởi vì rất có thể việc mở rộng quy mô cho vay của ngân hàng không gắn liền với việc nâng cao chất lượng sẽ làm cho rủi ro của khoản cho vay mới đó trong tương lai mới bộc lộ. Thứ hai, nợ quá hạn chưa hẳn đã là tổn thất của ngân hàng, đây vẫn là chỉ tiêu gián tiếp. Bởi vì không phải tất cả các khoản nợ quá hạn đều dẫn đến rủi ro. Chỉ tiêu 2 : Khả năng mất vốn = Nợ quá hạn kh._.ông có khả năng thu hồi *100% Dư nợ quá hạn Đây là chỉ tiêu trực tiếp phản ánh rủi ro, ảnh hưởng đến thu nhập của ngân hàng. Nó cho thấy trong một đồng nợ quá hạn thì có bao nhiêu đồng tổn thất tức là không có khả năng thu hồi. Nói cách khác, chỉ tiêu này phản ánh mức độ có thể gây ra rủi ro trong số nợ quá hạn của ngân hàng. Chỉ tiêu 3 : Nợ khó đòi và tỷ lệ nợ khó đòi trên tổng dư nợ. Tỷ lệ nợ khó đòi = Nợ khó đòi *100% Tổng dư nợ Chỉ tiêu 4 : Chỉ tiêu phản ánh chất lượng tín dụng theo quyết định 493 của Ngân hàng nhà nước Quyết Định số 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22 tháng 4 năm 2005 ban hành quy định về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng. Quyết Định 493 phân loại nợ thành năm nhóm, bao gồm: +) Nhóm 1: nợ đủ tiêu chuẩn, bao gồm nợ được đánh giá là có khả năng thu hồi đầy đủ gốc và lãi đúng hạn; +) Nhóm 2: nợ cần chú ý, bao gồm nợ được đánh giá là có khả năng thu hồi đầy đủ gốc và lãi nhưng có dấu hiệu khách hàng suy giảm khả năng trả nợ; +) Nhóm 3: nợ dưới tiêu chuẩn, bao gồm nợ được đánh giá là không có khả năng thu hồi gốc và lãi khi đến hạn; +) Nhóm 4: nợ nghi ngờ, bao gồm nợ được đánh giá là có khả năng tổn thất cao; +) Nhóm 5: nợ có khả năng mất vốn, bao gồm nợ được đánh giá là không còn khả năng thu hồi, mất vốn. Tỷ Lệ Trích Lập và Công Thức Tính Dự Phòng Cụ Thể Tỷ lệ trích lập dự phòng cụ thể đối với các nhóm nợ 1, 2, 3, 4, và 5 lần lượt là 0%, 5%, 20%, 50% và 100%. Quyết Định 493 đưa ra cách tính số tiền dự phòng bằng công thức hoàn toàn mới khác với cách tính dự phòng quy định tại các quy định trước đây. Theo các quy định trước đây, số tiền dự phòng chỉ đơn giản bằng tỷ lệ trích dự phòng nhân với tài sản có từng nhóm. Trong khi đó, Quyết Định 493 đưa ra công thức tính số tiền dự phòng như sau: R = max {0, (A-C)} x r trong đó, R: số tiền dự phòng cụ thể phải trích A: giá trị khoản nợ C: giá trị tài sản bảo đảm (nhân với tỷ lệ phần trăm do Quyết Định 493 quy định đối với từng loại tài sản bảo đảm) r: tỷ lệ trích lập dự phòng cụ thể Chỉ tiêu 5 : Tỷ lệ dự phòng tổn thất tín dụng: Tỷ lệ dự phòng tổn thất tín dụng = Giá trị dự phòng tổn thất trong kỳ *100% Doanh số cho vay trong kỳ Chỉ tiêu này phản ánh trong một đồng cho vay trong kỳ thì ngân hàng bỏ ra bao nhiêu đồng dự phòng tổn thất. 1.3.2. Một số mô hình lượng hoá rủi ro tín dụng ● Mô hình chất lượng: dựa trên yếu tố 6 C - Tư cách người vay (Character): Cán bộ tín dụng phải làm rõ mục đích xin vay của khách hàng, mục đích vay của khách hàng có phù hợp với chính sách tín dụng hiện hành của ngân hàng hay không, đồng thời xem xét về lịch sử đi vay và trả nợ đối với khách hàng cũ; còn khách hàng mới thì cần thu thập thông tin từ nhiều nguồn khác như Trung tâm phòng ngừa rủi ro… - Năng lực của người vay (Capacity): Tuỳ thuộc vào qui định luật pháp của quốc gia. Đối với cá nhân, dưới 18 tuổi không đủ tư cách ký hợp đồng tín dụng; đối với doanh nghiệp, phải căn cứ vào giấy phép kinh doanh, quyết định thành lập, quyết định bổ nhiệm người điều hành. - Thu nhập của người vay (Cash): Trước hết phải xác định được nguồn trả nợ của người vay như luồng tiền từ doanh thu bán hàng hay từ thu nhập, tiền từ bán thanh lý tài sản, hoặc tiền từ phát hành chứng khoán … Sau đó cần phân tích tình hình tài chính của doanh nghiệp vay vốn thông qua các tỷ số tài chính sau: +) Nhóm chỉ tiêu thanh khoản (Liquidity ratios): Hệ số lưu động = Tài sản nợ lưu động / nợ ngắn hạn . Hệ số này phải lớn hơn 1, nếu không doanh nghiệp sẽ gặp khó khăn trong việc thanh toán nợ đúng hạn. Hệ số thanh khoản nhanh = Tài sản lưu động – Hàng tồn kho Nợ ngắn hạn Các doanh nghiệp có vòng quay hàng tồn kho chậm đòi hỏi hệ số này phải cao, còn doanh nghiệp có hệ số vòng quay hàng tồn kho nhanh thì chỉ tiêu này có thể nhỏ hơn 1. Hệ số ngân quỹ = ngân quỹ / nợ ngắn hạn +) Nhóm chỉ tiêu đòn cân nợ (Leverage ratios): Hệ số nợ = Tổng tài sản - Vốn chủ sở hữu Tổng tài sản Hệ số này có giá trị nhỏ hơn hoặc bằng 0,5 là lý tưởng vì có ít nhất phân nửa tài sản của doanh nghiệp được hình thành bằng vốn chủ sở hữu. Hệ số khả năng trả lãi = lợi tức trước thuế và lãi / chi phí trả lãi. Hệ số này đo lường mức độ an toàn của thu nhập có thể trả lãi cho các chủ nợ. +) Nhóm chỉ tiêu hoạt động (Activity ratios): Hệ số vòng quay hàng tồn kho = giá vốn hàng bán / hàng tồn kho Hệ số vòng quay các khoản phải thu = doanh thu / các khoản phải thu Hệ số vòng quay tài sản = doanh thu thuần / tổng tài sản +) Nhóm chỉ tiêu khả năng sinh lời (Profitability ratios): Hệ số mức sinh lời trên doanh thu = tổng lợi tức sau thuế / doanh thu thuần Hệ số thu nhập trên tổng tài sản = tổng lợi tức sau thuế / tổng tài sản Hệ số thu nhập trên vốn thuần = tổng lợi tức sau thuế / vốn chủ sở hữu thuần Tuỳ theo từng loại hình tín dụng mà ngân hàng quan tâm đến các chỉ số khác nhau: cho vay ngắn hạn thì lưu ý đến các chỉ số lưu động, chỉ số về nợ; cho vay dài hạn thì quan tâm đến chỉ số sinh lời, khả năng trả nợ. - Bảo đảm tiền vay (Collateral): Đây là điều kiện để ngân hàng cấp tín dụng và là nguồn tài sản thứ hai có thể dùng để trả nợ vay cho ngân hàng. - Các điều kiện (Conditions): Ngân hàng quy định các điều kiện tuỳ theo chính sách tín dụng theo từng thời kỳ như cho vay hàng xuất khẩu với điều kiện thâu ngân phải qua ngân hàng, nhằm thực thi chính sách tiền tệ của NHTW quy định theo từng thời kỳ. - Kiểm soát (Control): Tập trung vào những vấn đề như các thay đổi trong pháp luật và quy chế có ảnh hưởng xấu đến người vay? Yêu cầu tín dụng của người vay có đáp ứng được tiêu chuẩn của ngân hàng ? ● Mô hình điểm số Z (Z - Credit scoring model): Đây là mô hình do E.I.Altman dùng để cho điểm tín dụng đối với các doanh nghiệp vay vốn. Đại lượng Z dùng làm thước đo tổng hợp để phân loại rủi ro tín dụng đối với người vay và phụ thuộc vào: - trị số của các chỉ số tài chính của người vay. - tầm quan trọng của các chỉ số này trong việc xác định xác suất vỡ nợ của người vay trong quá khứ. Từ đó Altman đã xây dựng mô hình điểm như sau: Z = 1,2 X1 + 1,4 X2 + 3,3 X3 + 0,6 X4 + 1,0 X5 Trong đó, X1 = Hệ số vốn lưu động / tổng tài sản X2 = Hệ số lãi chưa phân phối / tổng tài sản X3 = Hệ số lợi nhuận trước thuế và lãi / tổng tài sản X4 = Hệ số giá trị thị trường của tổng vốn sở hữu / giá trị hạch toán của tổng nợ X5 = Hệ số doanh thu / tổng tài sản Trị số Z càng cao, thì người vay có xác suất vỡ nợ càng thấp. Vậy khi trị số Z thấp hoặc là một số âm sẽ là căn cứ xếp khách hàng vào nhóm có nguy cơ vỡ nợ cao. Theo mô hình cho điểm Z của Altman, bất cứ công ty nào có điểm số thấp hơn 1,81 phải được xếp vào nhóm có nguy cơ rủi ro tín dụng cao. ● Mô hình điểm số tín dụng tiêu dùng: Các yếu tố quan trọng liên quan đến khách hàng sử dụng trong mô hình cho điểm tín dụng tiêu dùng bao gồm: hệ số tín dụng, tuổi đời, trạng thái tài sản, số người phụ thuộc, sở hữu nhà, thu nhập, điện thoại cố định, số tài khoản cá nhân, thời gian công tác. Sau đây là những hạng mục và điểm thường được sử dụng ở các ngân hàng Mỹ. Bảng 1.1 : Điểm tín dụng tiêu dùng STT Các hạng mục xác định chất lượng tín dụng Điểm số 1 Nghề nghiệp của người vay- chuyên gia hay phụ trách kinh doanh- công nhân có kinh nghiệm (tay nghề cao)- nhân viên văn phòng- sinh viên- công nhân không có kinh nghiệm- công nhân bán thất nghiệp 1087542 2 Trạng thái nhà ở- nhà riêng- nhà thuê hay căn hộ- sống cùng bạn hay người thân 642 3 Xếp hạng tín dụng- tốt- trung bình- không có hồ sơ- tồi 10520 4 Kinh nghiệm nghề nghiệp- nhiều hơn một năm- từ một năm trở xuống 52 5 Thời gian sống tại địa chỉ hiện hành- nhiều hơn một năm- từ một năm trở xuống 21 6 Điện thoại cố định- có - không có 20 7 Số người sống cùng (phụ thuộc)- Không- Một- Hai- Ba- Nhiều hơn ba 33442 8 Các tài khoản tại ngân hàng- cả tài khoản tiết kiệm và phát hành séc- chỉ tài khoản tiết kiệm- chỉ tài khoản phát hành séc- không có 4320 Nguồn : Theo TCKT 24/01/2007 Khách hàng có điểm số cao nhất theo mô hình với 8 mục nêu trên là 43 điểm, thấp nhất là 9 điểm. Gỉa sử ngân hàng biết mức 28 điểm là ranh giới giữa khách hàng có tín dụng tốt và khách hàng có tín dụng xấu, từ đó ngân hàng hình thành khung chính sách tín dụng theo mô hình điểm như sau: Bảng 1.2 : Mô hình điểm Tổng số điểm của khách hàng Quyết định tín dụng Từ 28 điểm trở xuống Từ chối tín dụng 29 – 30 điểm Cho vay đến 500 USD 31 – 33 điểm Cho vay đến 1.000 USD 34 – 36 điểm Cho vay đến 2.500 USD 37 – 38 điểm Cho vay đến 3.500 USD 39 – 40 điểm Cho vay đến 5.000 USD 41 –43 điểm Cho vay đến 8.000 USD Nguồn : Theo TCKT 24/01/2007 1.4 Các nguyên nhân dẫn tới rủi ro tín dụng của Ngân hàng thương mại Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng. Thông thường, người ta phân rủi ro tín dụng thành ba nhóm: nguyên nhân thuộc về ngân hàng, nguyên nhân thuộc về người vay và nguyên nhân khác. 1.4.1. Nguyên nhân thuộc về ngân hàng Thứ nhất, sự yếu kém của đội ngũ cán bộ. Sự yếu kém ở đây bao gồm cả về năng lực và phẩm chất đạo đức. Nếu một cán bộ tín dụng non kém về trình độ, thiếu kiến thức, thiếu kinh nghiệm thì sẽ không có khả năng thẩm định và xử lý thông tin, đánh giá khách hàng thiếu chính xác, mức vay, lãi suất vay và kỳ hạn không phù hợp; dẫn đến chất lượng tín dụng thấp, rủi ro cao. Ngoài ra, nếu cán bộ tín dụng không tuân thủ theo đúng quy trình tín dụng như giải ngân trước khi hoàn thành chứng từ hay không kiểm tra giám sát việc sử dụng vốn của người vay, thì việc mất vốn rất dễ xảy ra. Hơn nữa, cán bộ tín dụng mà phẩm chất đạo đức kém, không có tinh thần trách nhiệm, dễ bị cám dỗ thì sẽ gây thiệt hại rất lớn cho ngân hàng bằng cách cho vay chỉ dựa trên mối quan hệ với khách hàng, dựa trên lợi ích cá nhân mà bỏ qua những điều kiện và thủ tục cần thiết. Thứ hai, sự giám sát của các cấp quản lý trong ngân hàng là thiếu sát sao. Cán bộ tín dụng cần có sự phê duyệt của lãnh đạo trước khi giải ngân. Vậy nên nếu cấp trên không có sự kiểm tra, đánh giá xem quyết định của cán bộ đã thực sự chính xác chưa thì nguy cơ rủi ro tín dụng sẽ là rất cao. Hơn nữa, sau khi giải ngân, cán bộ tín dụng vẫn phải tiếp tục theo dõi khách hàng để sớm phát hiện ra dấu hiệu của những khoản nợ có vấn đề. Tuy nhiên, việc theo dõi này đối với nhiều cán bộ chỉ mang tính hình thức. Do vậy, nếu các cấp quản lý không có sự giám sát đối với cán bộ tín dụng, hoạt động của các cán bộ tín dụng sẽ không hiệu quả, thậm chí dẫn đến những sai phạm đạo đức trong cho vay và thu nợ. Ngoài ra, các cơ quan cấp trên không quan tâm đến thực trạng tín dụng của ngân hàng thì sẽ không có những chỉ đạo kịp thời để ngăn ngừa và xử lý rủi ro xảy ra. Thứ ba, ngân hàng chưa đa dạng hoá các danh mục đầu tư. Một công cụ luôn được nhắc đến trong quản trị tín dụng ở tất cả các ngân hàng trên thế giới là quản trị danh mục đầu tư. Quản trị danh mục làm cân đối và kiềm chế rủi ro bằng cách nhận dạng, dự báo và kiểm soát mức độ rủi ro với từng thị trường, khách hàng, loại sản phẩm tín dụng và điều kiện hoạt động khác nhau. Nhiều chuyên gia ngân hàng tin rằng đa dạng hoá là giải pháp phòng ngừa rủi ro tín dụng hữu hiệu nhất. Mặc dù hiểu rõ tầm quan trọng của việc đa dạng hoá danh mục đầu tư, song rất nhiều ngân hàng chỉ cho vay một hoặc hai ngành hoặc chỉ cho vay một vài doanh nghiệp lớn, nhóm kinh doanh đơn lẻ. Một danh mục đầu tư phụ thuộc chủ yếu vào một ngành hay một loại mặt hàng là rất nguy hiểm vì không ngành nào là không có rủi ro. Thứ tư, định giá khoản vay không theo mức độ rủi ro của khách hàng. Về cơ cấu, lãi suất cho một khoản vay phải được xác định ở mức đảm bảo bù đắp được chi phí vốn đầu vào, chi phí quản lý, phần lợi nhuận mong muốn và phần bù đắp rủi ro của khoản vay. Khách hàng được đánh giá có mức độ rủi ro càng cao, phần bù rủi ro càng lớn. Nhưng vì cạnh tranh nên một số ngân hàng có thể chấp nhận mức giá cho vay thấp, thậm chí chỉ đủ chi phí vốn đầu vào và chi phí quản lý, không tính đến phần bù rủi ro. Việc làm đó trong dài hạn không những làm giảm lợi nhuận mà còn làm tăng tính rủi ro trong hoạt động tín dụng của ngân hàng. 1.4.2. Nguyên nhân thuộc về người vay Đây là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến rủi ro tín dụng, có thể chia nhóm này thành hai loại chính: Thứ nhất, do khách hàng kinh doanh thua lỗ nên mất khả năng trả nợ. Trường hợp này rất phổ biến do khách hàng có trình độ yếu kém trong dự đoán các vấn đề kinh tế, yếu kém trong năng lực quản lý, sử dụng vốn sai mục đích, sản phẩm chất lượng thấp không bán được... Hơn nữa có rất nhiều người vay sẵn sàng lao vào những cơ hội kinh doanh mạo hiểm với kỳ vọng thu được lợi nhuận cao, mà không tính toán kỹ hoặc không có khả năng tính toán những bất trắc có thể xảy ra nên khả năng xảy ra tổn thất với ngân hàng là rất lớn. Thứ hai, do khách hàng cố tình chiếm dụng vốn của ngân hàng. Để đạt được mục đích thu được lợi nhuận, nhiều khách hàng sẵn sàng tìm mọi thủ đoạn để ứng phó với ngân hàng như mua chuộc hoặc cung cấp các báo cáo tài chính sai lệch. Trong trường hợp này, nếu không phát hiện ra, ngân hàng sẽ đánh giá sai về khả năng tài chính của khách và cho vay vốn với khối lượng và thời hạn không hợp lý, dẫn đến rủi ro tiềm ẩn là rất cao. Ngoài ra, cũng có những trường hợp người kinh doanh có lãi song vẫn không trả nợ cho ngân hàng đúng hạn mà cố tình chây ỳ với hy vọng có thể quỵt nợ hoặc tiếp tục sử dụng vốn vay càng lâu càng tốt. 1.4.3. Nguyên nhân khác Những nguyên nhân này phần lớn xuất hiện từ môi trường xung quanh như chất lượng thông tin, biến động kinh tế, chính sách pháp luật… Thứ nhất, chất lượng thông tin chưa cao. Các thông tin mà ngân hàng thu thập thường liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh, khả năng tài chính của khách hàng, tình hình kinh tế xã hội, cạnh tranh trên thị trường; sau đó dựa vào các thông tin thu thập được để ra quyết định cho vay. Tuy nhiên, trên thực tế thì không phải lúc nào các thông tin ngân hàng thu thập được đều có tính chính xác, đầy đủ và kịp thời. Do vậy, nếu hệ thống thông tin tín dụng của ngân hàng không hoạt động có hiệu quả, cập nhật được những thông tin đáng tin cậy thì tất yếu dẫn đến việc ngân hàng thất thoát vốn khi cho vay. Thứ hai, những biến động kinh tế không dự báo được. Khi nền kinh tế ổn định, tăng trưởng lành mạnh thì nhu cầu đầu tư trong xã hội có xu hướng gia tăng, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động tín dụng. Tuy nhiên khi xuất hiện những biến động kinh tế như lạm phát, giá tăng ở một số mặt hàng nào đó ảnh hưởng đến một nhóm ngành thì rủi ro tín dụng với ngân hàng là rất lớn. Nhiều người vay có thể thích ứng và vượt qua khó khăn đó, nhưng cũng có rất nhiều người bị đình trệ hoạt động sản xuất, kinh doanh thua lỗ nên khả năng trả nợ vốn vay ngân hàng không được đảm bảo. Thứ ba, sự thay đổi trong các chính sách kinh tế, pháp luật. Sự thiếu nhất quán trong các chính sách kinh tế pháp luật cũng gây ảnh hưởng không nhỏ tới ngân hàng cũng như như các doanh nghiệp có sử dụng vốn vay ngân hàng. Hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp sẽ không ổn định khi có những thay đổi trong quy định về thuế, vốn.., cũng như hoạt động tín dụng của ngân hàng cũng bị tác động nhiều bởi những văn bản luật về tài sản đảm bảo, dự trữ, trích lập…Như vậy, các chính sách kinh tế, pháp luật không hoàn chỉnh cũng gây khó khăn có doanh nghiệp về khả năng trả nợ, cũng như đe doạ đến sự an toàn của ngân hàng trong cho vay. CHƯƠNG II. THỰC TRẠNG RỦI RO TÍN DỤNG TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN CÁC DOANH NGHIỆP NGOÀI QUỐC DOANH VIỆT NAM (VPBANK) 2.1. Sự hình thành và phát triển của Ngân hàng VPBank 2.1.1. Quá trình hình thành phát triển Ngân hàng Thương mại Cổ phần các Doanh nghiệp Ngoài quốc doanh Việt Nam (VPBANK) được thành lập theo Giấy phép hoạt động số 0042/NH-GP của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cấp ngày 12 tháng 8 năm 1993 với thời gian hoạt động 99 năm. Ngân hàng bắt đầu hoạt động từ ngày 04 tháng 9 năm 1993 theo Giấy phép thành lập số 1535/QĐ-UB ngày 04 tháng 09 năm 1993. Theo quyết định thành lập số 1535 ngày 4/9/1993 và theo quyết định sửa đổi điều lệ số 1099/QĐ-NHNN của thống đốc NHNN Việt Nam ngày 18/09/2003 thì VPBank có: Tên đầy đủ bằng tiếng Việt: Ngân hàng thương mại cổ phần (TMCP) các doanh nghiệp ngoài quốc doanh Việt Nam. Tên tiếng Anh: Vietnam Join-Stock Commercial Bank for Private Enterprises Tên viết tắt: Ngân hàng ngoài quốc doanh Tên giao dịch: VPBank Website: www.vpb.com.vn Vốn điều lệ ban đầu khi mới thành lập là 20 tỷ VND. Sau đó, do nhu cầu phát triển, theo thời gian VPBank đã nhiều lần tăng vốn điều lệ. Đến tháng 8/2006, vốn điều lệ của VPBank đạt 500 tỷ đồng. Tháng 9/2006, VPBank nhận được chấp thuận của NHNN cho phép bán 10% vốn cổ phần cho cổ đông chiến lược nước ngoài là Ngân hàng OCBC - một Ngân hàng lớn nhất Singapore, theo đó vốn điều lệ sẽ được nâng lên trên 750 tỷ đồng. Tiếp theo, đến cuối năm 2006, vốn điều lệ của VPBank sẽ tăng lên trên 1.000 tỷ đồng. Và hiện nay vốn điều lệ của VPBank đã tăng lên 1.500 tỷ đồng vào tháng 7/2007. Trong suốt quá trình hình thành và phát triển, VPBank luôn chú ý đến việc mở rộng quy mô, tăng cường mạng lưới hoạt động tại các thành phố lớn. Cuối năm 1993, Thống đốc NHNN chấp thuận cho VPBank mở Chi nhánh tại thành phố Hồ Chí Minh. Tháng 11/1994, VPBank được phép mở thêm Chi nhánh Hải Phòng và tháng 7/1995, được mở thêm Chi nhánh Đà Nẵng. Trong năm 2004, NHNN đã có văn bản chấp thuận cho VPBank được mở thêm 3 Chi nhánh mới đó là Chi nhánh Hà Nội trên cơ sở tách bộ phận trực tiếp kinh doanh trên địa bàn Hà Nội ra khỏi Hội sở; Chi nhánh Huế; Chi nhánh Sài Gòn. Tính đến cuối năm 2006, hệ thống VPBank có tổng cộng 50 điểm giao dịch gồm có: Hội sở chính tại Hà Nội, 28 chi nhánh và 22 phòng giao dịch tại các Tỉnh, Thành phố lớn như Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Thừa Thiên Huế, Đà Nẵng, Cần Thơ, Quảng Ninh, Vĩnh Phúc; Bắc Giang, Thanh Hoá, Nam Định, Nha Trang, Bình Dương, Đồng Nai, Kiên Giang và 2 Công ty trực thuộc. Nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh và đem lại dịch vụ tốt nhất tới khách hàng, năm 2007, VPBank đã mở rộng mạng lưới chi nhánh và phòng giao dịch trên toàn quốc. Tính đến cuối năm 2007, toàn hệ thống VPBank đã có tổng số 100 điểm giao dịch trên toàn quốc (chưa kể gần 30 điểm giao dịch khác đang chuẩn bị khai trương). Các chi nhánh và phòng giao dịch mới khai trương của VPBank trên toàn quốc đều đã đi vào hoạt động suôn sẻ và bước đầu đã đạt được những kết quả khả quan. Số lượng nhân viên của VPBank trên toàn hệ thống tính đến nay có trên 2.600 người, trong đó phần lớn là các cán bộ, nhân viên có trình độ đại học và trên đại học (chiếm 87%). Nhận thức được chất lượng đội ngũ nhân viên chính là sức mạnh của ngân hàng, giúp VPBank sẵn sàng đương đầu được với cạnh tranh, nhất là trong giai đoạn đầy thử thách khi Việt Nam đã bước vào hội nhập kinh tế quốc tế 1 cách sâu rộng, những năm vừa qua VPBank luôn quan tâm nâng cao chất lượng công tác quản trị nhân sự. Đại hội cổ đông năm 2005 được tổ chức vào cuối tháng 3/2006, một lần nữa, VPBank khẳng định kiên trì thực hiện chiến lược ngân hàng bán lẻ. Phấn đấu trong một vài năm tới trở thành ngân hàng bán lẻ hàng đầu khu vực phía Bắc và nằm trong nhóm 5 Ngân hàng dẫn đầu các Ngân hàng TMCP trong cả nước.  * Các lĩnh vực hoạt động chủ yếu Cũng giống như các ngân hàng thương mại khác, hoạt động của VPBank tập trung vào các hoạt động chủ yếu như: huy động vốn, cho vay vốn và thực hiện các nghiệp vụ bảo quản và môi giới trên thị trường tiền tệ, mua bán chứng khoán trên thị trường chứng khoán khi được sự cho phép của NHNN. Các hoạt động cụ thể của VPBank bao gồm: - Huy động vốn ngắn hạn, trung hạn và dài hạn của các tổ chức và cá nhân; - Tiếp nhận vốn uỷ thác đầu tư và phát triển của các tổ chức trong nước; - Vay vốn của NHNN và các tổ chức tín dụng khác; - Cho vay ngắn hạn, trung hạn và dài hạn với các tổ chức cá nhân; - Chiết khấu thương phiếu, trái phiếu và giấy tờ có giá; - Hùn vốn, liên doanh và mua cổ phần theo pháp luật hiện hành; - Thực hiện nhiệm vụ thanh toán giữa các khách hàng; - Thực hiện kinh doanh ngoại tệ; - Huy động vốn từ nước ngoài; - Thanh toán quốc tế và thực hiện các dịch vụ khác liên quan đến thanh toán quốc tế; - Thực hiện các dịch vụ chuyển tiền trong và ngoài nước dưới nhiều hình thức, đặc biệt là chuyển tiền nhanh Western Union 2.1.2. Cơ cấu tổ chức quản lý Cơ cấu tổ chức quản lý của VPBank được khái quát dưới sơ đồ dưới đây: Sơ đồ 2.1: Cơ cấu tổ chức quản lý của VPBank Đại hội đồng cổ đông Hội đồng quản trị ……. Ban kiểm soát Hội đồng tín dụng P.GD trực thuộc Chi nhánh cấp II Chi nhánh cấp I …… P.GD trực thuộc Chi nhánh cấp II …… Chi nhánh cấp I Hội sở Hội đồng ALCO Ban tín dụng Trong đó: Đại hội cổ đông: giống như một công ty cổ phần, Đại hội cổ đông bao gồm tất cả các cổ đông có quyền biểu quyết, là cơ quan có quyền quyết định cao nhất trong ngân hàng. Đại hội cổ đông có quyền và nhiệm vụ sau: quyết định loại cổ phần và tổng số cổ phần được quyền chào bán từng loại, quyết định mức cổ tức hàng năm của từng loại cổ phần; bầu miễn nhiệm, bãi nhiệm thành viên Hội đồng quản trị , thành viên Ban kiểm soát; xem xét và xử lý các vi phạm của Hội đồng quản trị và Ban kiểm soát gây thiệt hại cho ngân hàng và cổ đông của ngân hàng; quyết định tổ chức lại và giải thể lại ngân hàng; quyết định sửa đổi bổ sung Điều lệ ngân hàng, trừ trường hợp điều chỉnh vốn do bán thêm cổ phần mới trong phạm vi số lượng cổ phần được quyền chào bán tại Điều lệ ngân hàng; thông qua báo cáo tài chính hàng năm; thông qua định hướng phát triển của ngân hàng. Hội đồng quản trị: là cơ quan quản lý ngân hàng, có toàn quyền nhân danh ngân hàng để quyết định mọi vấn đề liên quan đến mục đích, quyền lợi của ngân hàng, trừ những vấn đề thuộc thẩm quyền của Đại hội cổ đông. Hiện nay, chủ tịch Hội đồng quản trị của VPBank là ông Lâm Hoàng Lộc. Hội đồng tín dụng và Ban tín dụng: đều có nhiệm vụ xem xét, phê duyệt các quyết định cấp tín dụng cho khách hàng với các giới hạn mức tín dụng khác nhau. Ban kiểm soát : có nhiệm vụ kiểm tra tính hợp lý, hợp pháp trong quản lý, điều hành hoạt động kinh doanh, trong ghi chép sổ sách kế toán và báo cáo tài chính; thẩm định các báo cáo tài chính hàng năm của ngân hàng; báo cáo với Hội đồng quản trị về kết quả hoạt động, tham khảo ý kiến của Hội đồng quan trị trước khi trình các báo cáo, kết luận và kiến nghị lên Đại hội cổ đông. Hội đồng ALCO : có nhiệm vụ quản lý tài sản Nợ - Có của ngân hàng, đóng vai trò quan trọng trong việc đảm bảo hoạt động an toàn và hiệu quả của VPBank. Cơ cấu các phòng ban trong mỗi chi nhánh cấp I bao gồm: Phòng kiểm tra, kiểm toán nội bộ: Chức năng chủ yếu của phòng này là kiểm tra, kiểm toán nội bộ các chứng từ, hồ sơ nghiệp vụ phát sinh tại ngân hàng, kiến nghị kịp thời các biện pháp khắc phục những tồn tại, thiếu sót trong hoạt động kinh doanh đảm bảo an toàn hiệu quả. Phòng phục vụ khách hàng cá nhân (A/O cá nhân): có các chức năng nhiệm vụ sau: Hướng dẫn, triển khai, thực hiện các sản phẩm dịch vụ cá nhân thống nhất trong toàn chi nhánh; lập kế hoạch cho vay, thu nợ tín dụng cá nhân của toàn chi nhánh; thực hiện nhiệm vụ phân tích món vay; thực hiện nhiệm vụ cho vay và kiểm tra tín dụng cá nhân của chi nhánh cấp dưới và các phòng giao dịch trực thuộc; chỉ đạo đôn đốc việc thu hồi nợ, xử lý nợ quá hạn với các khoản vay cá nhân trong toàn chi nhánh; đề xuất điều chỉnh các quy định về hợp đồng tín dụng cho phù hợp với thực tế trên địa bàn chi nhánh… Phòng phục vụ khách hàng doanh nghiệp (A/O doanh nghiệp): thực hiện chức năng nghiên cứu thị trường, tìm hiểu khách hàng, đề xuất chính sách tiếp thị, sản phẩm cho phù hợp với từng đối tượng khách hàng; tư vấn, hướng dẫn khách hàng; thu thập thông tin và tổ chức theo dõi sự biến chuyển ngành nghề của khách hàng đồng thời có chức năng kiểm tra giám sát tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của khách hàng. Phòng thẩm định tài sản đảm bảo: thực hiện việc thẩm định và đánh giá các tài sản cầm cố, thế chấp; kiểm tra tính hợp lệ, hợp pháp của các tài sản cầm cố thế chấp; xây dựng và hoàn thiện hệ thống chuẩn mực trong việc định giá tài sản cầm cố thế chấp cho phù hợp với tình hình thực tế và đảm bảo an toàn cho toàn ngân hàng; lập các hợp đồng thế chấp cầm cố bảo đảm nợ vay và thực hiện công chứng; định kỳ đánh giá lại tài sản cầm cố thế chấp, thường xuyên có kế hoạch kiểm tra các tài sản cầm cố thế chấp và có trách nhiệm đề xuất các biện pháp xử lý kịp thời các vấn đề phát sinh để đảm bảo an toàn tín dụng. Phòng giao dịch kho quỹ: thực hiện các nghiệp vụ giao dịch với khách hàng như: chào đón, giới thiệu, tư vấn, tiếp nhận tiền gửi của khách hàng, tiền huy động vốn của ngân hàng, thu đổi ngoại tệ; thực hiện các nghiệp vụ liên quan đến dải ngân, thu vốn, thu lãi, hạch toán chuyển nợ quá hạn; quản lý các loại tài khoản dùng trong giao dịch khách hàng. Phòng kế toán ngân quỹ: tổ chức hạch toán theo dõi các quỹ, vốn tập trung trong ngân hàng; thực hiện hạch toán các nghiệp vụ huy động vốn, cho vay và các nghiệp vụ kinh doanh khác. Phòng thu hồi nợ: lập kế hoạch và thực hiện thu hồi nợ quá hạn đã được duyệt; liên hệ với các cơ quan, toà án, viện kiểm soát, phòng thi hành án công an, luật sư...trong việc xử lý, giải quyết các vấn đề thu hồi nợ của chi nhánh; tiếp nhận và quản lý các hồ sơ vay, bảo lãnh có vấn đề hoặc các khoản nợ quá hạn do phòng A/O cá nhân và A/O doanh nghiệp chuyển lên; thẩm định, đề xuất các ý kiến về các vấn đề pháp lý liên quan đến việc xử lý và thu hồi nợ quá hạn cho chi nhánh. Phòng thanh toán quốc tế và kiều hối: thực hiện các nghiệp vụ chuyên môn về bảo lãnh, thanh toán quốc tế như tín dụng, nhờ thu, bảo lãnh ngân hàng, chuyển tiền điện, thanh toán séc…; định kì phân tích, tổng hợp tình hình thực hiện thanh toán quốc tế và kiều hối trong toàn chi nhánh. Phòng tổng hợp và quản lý chi nhánh: có trách nhiệm phối hợp với các phòng ban của ngân hàng để thực hiện công tác tổ chức, quản lý và phát triển nguồn nhân lực; công tác văn thư, hành chính, lễ tân; đảm bảo phương tiện di chuyển, vận chuyển tiền an toàn. * Cơ cấu tổ chức quản lý của VPBank – Chi nhánh Hoàn Kiếm được khái quát dưới sơ đồ dưới đây: Sơ đồ 2.2 : Cơ cấu tổ chức quản lý của VPBank - Chi nhánh Hoàn Kiếm Giám đốc Phòng giao dịch Phòng kế toán Phòng phục vụ kho quỹ giao dịch khách hàng Trong đó: Giám đốc : có nhiệm vụ lãnh đạo, xây dựng đội ngũ nhân viên, lập kế hoach kinh doanh cho chi nhánh và chỉ đạo, giám sát việc thực hiện kế hoạch của toàn thể nhân viên trong chi nhánh. Phòng giao dịch kho quỹ và phòng kế toán giao dịch thực hiện đầy đủ các chức năng của phòng giao dịch kho quỹ và phòng kế toán giao dịch của chi nhánh cấp I. Phòng phục vụ khách hàng : thực hiện chức năng nghiên cứu thị trường, tìm hiểu khách hàng là cả cá nhân và doanh nghiệp, đề xuất chính sách tiếp thị, sảm phẩm phù hợp với từng đối tượng khách hàng , thực hiện nhiệm vụ phân tích món vay và thực hiện cho vay, đôn đốc việc thu hồi nợ, xử lý nợ quá hạn của các khoản vay, đề xuất điều chỉnh các quy định về hợp đồng tín dụng cho phù hợp với thực tế trên địa bàn chi nhánh. 2.1.3. Tình hình hoạt động kinh doanh của ngân hàng Năm 2007 là một năm rất thành công của ngân hàng VPBank với các mức tăng trưởng trên mọi mặt hoạt động. Vốn điều lệ của VPBank tính đến thời điểm 31/12/2007 là 2000 tỷ đồng, tổng tài sản đạt hơn 18,2 ngàn tỷ đồng, tăng 78% so với cuối năm 2006. Trong hoàn cảnh cạnh tranh ngày càng gay gắt giữa các ngân hàng thương mại, với nỗ lực của toàn thể cán bộ nhân viên VPBank trên toàn hệ thống, lợi nhuận trước thuế toàn hệ thống đạt trên 313 tỷ đồng, tăng gấp đôi so với năm 2006. Một trong những bước tiến nhảy vọt trong công nghệ của ngân hàng VPBank năm 2007 là dự án phần mềm ngân hàng lõi Corebanking T24 đã chính thức hoàn thành và đưa vào hoạt động phục vụ khách hàng từ tháng 10/2007. Hiện đại hóa hệ thống Core Banking là xu thế tất yếu của tất cả các Ngân hàng và VPBank cũng đã nhận thức rằng đây là nhu cầu tất yếu của nền kinh tế. T24 Core Banking là công nghệ ngân hàng mới, hỗ trợ cho việc triển khai các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng hiện đại, đang được triển khai tại hơn 400 tổ chức tài chính - ngân hàng trên thế giới. T24 Core Banking là 1 giải pháp mang tính tùy biến cao, sẽ cho phép VPBank nhanh chóng phát triển sản phẩm mới, kịp thời cải tiến các quy trình hiện có để đáp ứng nhu cầu thị trường. T24 có thể tự động hóa các lịch trình công việc, do vậy cho phép phản hồi nhanh các yêu cầu của khách hàng. Dựa trên T24, việc quản lý dữ liệu khách hàng, xây dựng các sản phẩm mới, tạo báo cáo về hoạt động ngân hàng... sẽ rất nhanh chóng và có hệ thống. Hệ thống này sẽ giúp cho VPBank quản trị rủi ro ngân hàng trên 4 lĩnh vực: Quản trị rủi ro về thị trường, quản lý rủi ro tín dụng, thanh khoản và tác nghiệp với 9 mức quản lý khác nhau. Ngoài ra, với T24, ngân hàng có thể nâng cao việc quản lý tài khoản khách hàng và cung cấp dịch vụ cho khách hàng.  Với hệ thống mới này, có thể tin tưởng rằng VPBank sẽ nâng cao vị thế cạnh tranh của VPBank trên thị trường. Các kết quả hành động cụ thể của VPBank trong thời gian qua như sau: * Hoạt động huy động vốn Đẩy mạnh huy động vốn để đáp ứng nhu cầu tăng trưởng tín dụng là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của VPBank trong năm 2007. Trong điều kiện thuận lợi về mạng lưới các chi nhánh và các phòng giao dịch rộng khắp trên toàn quốc, VPBank đã chủ động thực hiện nhiều biện pháp tích cực và hiệu quả để thu hút tiền gửi của khách hàng bao gồm: - Tích cực đẩy mạnh hoạt động tiếp thị trực tiếp đến khách hàng là tổ chức kinh tế và các hộ kinh doanh cá thể với các dịch vụ ngân hàng trọn gói và hấp dẫn để thu hút nguồn tiền nhàn rỗi trong xã hội. - Tăng cường sự hỗ trợ của công nghệ thông tin trong cung cấp dịch vụ ngân hàng cũng như để giúp cho khách hàng trong việc quản lý và điều hành tài khoản một cách thuận lợi và có hiệu quả. - Thường xuyên duy trì một phong cách dịch vụ chuyên nghiệp và tận tâm của đội ngũ nhân viên ngân hàng. - Áp dụng chính sách lãi suất linh hoạt với chế độ ưu đãi hợp lý. Đặc biệt, cuối năm 2007, trước tình trạng khan hiếm tiền đồng của thị trường liên ngân hàng, b._.điểm yếu cần khắc phục của VPBank trong thời gian tới. +) Hệ thống công nghệ thông tin hiện nay của VPBank còn yếu kém. Đối với các doanh nghiệp trong thời đại hiện nay, nhất là các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực thương mại, dịch vụ và đầy tính xã hội như ngân hàng, hệ thống công nghệ thông tin đóng vai trò rất quan trọng, là cầu nối cho mọi hoạt động bên trong và bên ngoài ngân hàng. Vậy mà ở VPBank, ngân hàng vẫn đang trong nỗ lực bước đầu để tiếp cận và sử dụng hiệu quả nguồn lực vô giá này. Sự liên kết thông tin mới chỉ dừng lại trong pham vi nội bộ chi nhánh, không có bất cứ sự liên kết thông tin nào giữa các chi nhánh với nhau, giữa các chi nhánh cấp 1, chi nhánh cấp 2 và hội sở chính. Việc một khách hàng đến chi nhánh A bị từ chối cho vay nhưng lại được chấp nhận cho vay ở chi nhánh B là điều hoàn toàn có thể do không có nguồn thông tin liên kết giữa các chi nhánh. Việc này rõ ràng đã gây lãng phí chi phí và nguồn lực cho ngân hàng trong việc thẩm định 2 lần một khách hàng, hơn nữa lại làm tăng rủi ro tín dụng cho ngân hàng. Ngay cả hệ thống phần mềm xử lý trong chi nhánh cũng chưa đạt yêu cầu. Việc tính lãi cho khách hàng tuy có phần mềm hỗ trợ song hay gặp trục trặc và cán bộ tín dụng thường phải tính lại bằng tay. Việc chuyển nợ quá hạn, chuyển lãi cho khách hàng đôi khi bị nhầm lẫn, hầu hết các công đoạn đều được làm hết sức thủ công, chưa có hệ thống tự động in lãi, tính lãi, chuyển nợ quá hạn, thống kê.. hiệu quả. - Ngoài ra còn một số nguyên nhân khách quan ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng của ngân hàng. Đó chính là những tác động từ môi trường kinh tế, chính sách vĩ mô, hệ thống luật pháp... Hiện nay, hành lang pháp lý của ta chưa được đồng bộ và đầy đủ, cần thời gian để hoàn thiện điều này gây cản trở lớn cho công tác hạn chế rủi ro tín dụng của ngân hàng. Qua những phân tích trên có thể thấy được những kết quả rất đáng tự hào cũng như những vấn đề còn tồn tại trong quá trình quản trị rủi ro tín dụng tại VPBank. Vấn đề là làm thế nào để phát huy được những điểm mạnh, hạn chế những điểm yếu, vừa tạo điều kiện nâng cao tỷ lệ giải ngân giúp doanh nghiệp tiếp cận nguồn vốn, đầu tư phát triển kinh tế, vừa đảm bảo tăng trưởng dư nợ tín dụng lành mạnh đối với VPBank là một điều vô cùng quan trọng và có ý nghĩa trong thời điểm hiện nay. CHƯƠNG III. MỘT SỐ GIẢI PHÁP PHÒNG NGỪA VÀ HẠN CHẾ RỦI RO TÍN DỤNG TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN CÁC DOANH NGHIỆP NGOÀI QUỐC DOANH VIỆT NAM (VPBANK) 3.1. Định hướng phát triển hoạt động tín dụng của VPBank trong những năm tới - VPBank tiếp tục định hướng phát triển thành một ngân hàng bán lẻ hàng đầu với chính sách đa dạng hoá các loại hình cho vay cũng như đối tượng cho vay. Tuy nhiên trong chiến lược phát triển của mình, với mục tiêu trở thành một trong những ngân hàng bán lẻ hàng đầu Việt nam và tiến tới là trong khu vực Đông Nam Á, VPBank cũng đặt cho mình đối tượng khách hàng chủ đạo là các doanh nghiệp ngoài quốc doanh vừa và nhỏ, chiếm tới 55% doanh số cho vay của ngân hàng hiện nay. - Tập trung mở rộng hoạt động tín dụng cùng với việc nâng cao chất lượng tín dụng, không để nợ quá hạn khó thu phát sinh mới, hạn chế việc cơ cấu lại nợ và phát triển các hoạt động kèm theo như bảo lãnh, phát hành thẻ… - Đẩy mạnh công tác thu hồi nợ đã được xử lý rủi ro - Tăng cường kiểm tra kiểm soát theo chuyên đề - Nâng cao năng lực lãnh đạo và thay đổi cơ cấu tổ chức - Chú trọng cho vay các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các công ty đã cổ phần hoá làm ăn có hiệu quả - Triển khai mạnh việc cho vay ngoại tệ đối với khách hàng ở ngân hàng quận để từ đó đẩy mạnh công tác thanh toán quốc tế, kinh doanh ngoại tệ ở ngân hàng quận. - Phân loại nợ sát theo tình hình thực tế để có thể đánh giá đúng chất lượng tín dụng. 3.2. Một số giải pháp phòng ngừa rủi ro tín dụng tại VPBank Cũng như các ngân hàng thương mại khác, hoạt động tín dụng vẫn là hoạt động chủ yếu đem lại phần lớn thu nhập cho VPBank, hay nói cách khác, hoạt động tín dụng là hoạt động chính quyết định kết quả kinh doanh của ngân hàng. Chính bởi tầm quan trọng của hoạt động này mà công tác phòng ngừa rủi ro tín dụng luôn được VPBank quan tâm và thực hiện. Tuy nhiên, do rủi ro tín dụng phát sinh muôn màu muôn vẻ nên mặc dù vậy, nợ quá hạn vẫn luôn tồn tại, giải quyết được nợ quá hạn mới, nợ quá hạn cũ lại phát sinh. Điều này đòi hỏi bên cạnh thực hiện tốt các nghiệp vụ đã có, VPBank luôn phải nghiên cứu, tìm tòi các biện pháp phòng ngừa mới để có thể phòng ngừa tối đa rủi ro tín dụng phát sinh. 3.2.1. Nâng cao chất lượng công tác phân tích - thẩm định khách hàng và phương án vay vốn. Thực tế và lý luận đã chứng minh điều quan trọng nhất để đảm bảo an toàn đồng vốn cho vay không phải là tài sản thế chấp mà là tính khả thi của phương án, dự án sản xuất kinh doanh của đơn vị vay vốn. Như vậy một trong những vấn đề có ý nghĩa quan trọng góp phần khai thông mối quan hệ tín dụng giữa VPBank với các khách hàng là nâng cao trình độ thẩm định phương án vay vốn của VPBank. Nếu làm tốt công tác này sẽ tạo điều kiện cho các doanh nghiệp gặp khó khăn về tài sản thế chấp nhưng có phưong án sản xuất kinh doanh hiệu quả có thể vay được vốn ngân hàng, còn ngân hàng thì có thể chủ động trong việc ngăn chặn những dự án tồi và tài trợ cho những dự án tốt một cách có hiệu quả. Nâng cao năng lực thẩm định dự án còn giúp cho VPBank có thể chủ động trong việc tham gia tư vấn, thẩm định và từ chối ngay từ đầu những ý tưởng đầu tư không khả thi, tiết kiệm chi phí cho cả chủ đầu tư và ngân hàng. Trong quá trình thẩm định cần tập trung phân tích các vấn đề trọng tâm sau: - Năng lực pháp lý của khách hàng Căn cứ để đánh giá về năng lực pháp lý của khách hàng là các giấy tờ chứng nhận về tư cách pháp nhân hoặc thể nhân như giấy phép thành lập, đăng ký kinh doanh, điều lệ hoạt động, người đại diện pháp luật của doanh nghiệp… Các giấy tờ này phải đầy đủ và hoàn toàn hợp lệ để đảm bảo doanh nghiệp được thành lập và hoạt động theo đúng các quy định trong các luật tổ chức hoạt động của loại doanh nghiệp đó như: Luật doanh nghiệp, Luật hợp tác xã, Luật đầu tư nước ngoài… - Năng lực tài chính của khách hàng Dựa vào các báo cáo tài chính do khách hàng cung cấp và các thông tin thu thập được từ các nguồn bên ngoài, trên cơ sở phân tích các chỉ tiêu tài chính chủ yếu, cán bộ tín dụng đánh giá về năng lực tài chính của khách hàng. - Hiệu quả của phương án vay vốn và khả năng trả nợ Một điều kiện tiên quyết và không thể thiếu được về VPBank khi xem xét cho vay là dự án, kế hoạch sản xuất kinh doanh phải có tính khả thi. Một dự án, kế hoạch sản xuất kinh doanh có tính khả thi hay không sẽ quyết định sự thành công hay thất bại của doanh nghiệp và ngân hàng bỏ vốn cho vay. Do vậy, việc đánh giá hiệu quả của phương án vay vốn có thể nói là khâu quan trọng nhất trong quá trình thẩm định. - Phân tích và dự báo ảnh hưởng của môi trường kinh doanh đến phương án vay vốn - trả nợ của khách hàng Mỗi dự án, kế hoạch sản xuất kinh doanh khi thực tế đi vào hoạt động sẽ chịu rất nhiều nhân tố tác động từ bên ngoài nên có thể sẽ sai khác đi so với dự tính ban đầu. Vì vậy, để làm tốt công việc này, cán bộ tín dụng phải tổng hợp và phân tích các thông tin về: +) Thực trạng đang diễn ra trong các ngành hàng, mặt hàng, lĩnh vực kinh doanh, dịch vụ mà ngân hàng cho vay. +) Các chỉ số kinh tế vĩ mô cơ bản của đất nước trong thời gian đầu tư vốn như: tốc độ tăng trưởng kinh tế GDP và GNI, tỷ lệ lạm phát, lãi suất cho vay, cán cân thanh toán và cán cân thương mại, tỷ giá hối đoái… +) Sự thay đổi của hệ thống pháp luật, chính sách vĩ mô trong thời gian cho vay. Từ các thôn tin trên, cán bộ tín dụng rút ra nhận xét, đánh giá khả năng thích ứng của khách hàng đối với những điều kiện nói trên, đặc biệt là sự cạnh tranh kỹ thuật, công nghệ mới, sự biến đổi nhu cầu về sản phẩm và thị trường khi môi trường kinh tế, chính tri, xã hội thay đổi. - Đánh giá Tài sản đảm bảo Các đảm bảo tiền vay là nguồn thu nợ dự phòng trong trường hợp kế hoạch trả nợ của khách hàng không thực hiện được. Nội dung thẩm định phải kiểm tra hồ sơ pháp lý, giấy tờ sở hữu, tiêu chuẩn tài sản thế chấp, cầm cố, bảo lãnh, cơ sở định giá tài sản thế chấp, cầm cố, bảo lãnh phải đúng với các quy định hiện hành. VPBank cũng cần chú ý cách thức đánh giá tài sản thế chấp, đặc biệt là đất đai nên sát thực tế hơn vì đánh giá giá đất theo khung giá của Nhà nước quá thấp trong khi giá đất ngoài thị trường cao gấp nhiều lần. Tuy nhiên điều kiện doanh nghiệp phải có đủ tài sản thế chấp hợp pháp chỉ là biện pháp bảo đảm vốn vay, phòng ngừa rủi ro khi dự án sản xuất kinh doanh gặp khó khăn, rủi ro ngoài dự kiến, hoạt động không có hiệu quả. Vì vậy VPBank không nên coi đây là yếu tố quan trọng nhất. 3.2.2. Hoàn thiện hệ thống thông tin đánh giá khách hàng VPBank cần có hệ thống thông tin và kỹ thuật phân tích có khả năng đo lường được rủi ro trong tất cả các hoạt động nội và ngoại bảng cân đối tàn sản của khách hàng. Hiệu quả của quy trình đo lường rủi ro tín dụng phụ thuộc nhiều vào chất lượng của hệ thống thông tin quản lý. Việc đo lường rủi ro tín dụng cần xét tới các yếu tố như: tính chất của khoản tín dụng, các điều kiện tài chính trong hợp đồng như thời hạn, lãi suất tham chiếu, rủi ro có thể sảy ra do biến động của thị trường, tài sản thế chấp hoặc bảo lãnh… 3.2.3. Cung cấp dịch vụ tư vấn cho khách hàng Mối quan hệ giữa ngân hàng và khách hàng là mối quan hệ tương hỗ, tác động qua lại và cùng phát triển. Hoạt động tín dụng của ngân hàng có quan hệ chặt chẽ với hoạt động sản xuất kinh doanh của khách hàng, khách hàng tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh tốt, có hiệu quả thì khả năng thanh toán các khoản vay cho ngân hàng sẽ cao hơn và ngân hàng tránh được rủi ro tín dụng phát sinh. Ngân hàng có quan hệ với rất nhiều khách hàng hoạt động trong nhiều lĩnh vực kinh tế khác nhau. Vì vậy, ngân hàng có được nhiều hiểu biết, kinh nghiệm, thông tin chi tiết về các lĩnh vực kinh tế, công nghệ, xã hội mà khách hàng khó tự tiếp cận được. Từ đó, ngân hàng có thể đưa ra các lời khuyên cho khách hàng về bạn hàng, về các lĩnh vực hiện đang đầu tư có hiệu quả. Bên cạnh đó, cán bộ tín dụng có thể thường xuyên liên lạc với khách hàng để thu thập thông tin về tình hình sản xuất kinh doanh của khách hàng, qua đó có thể tư vấn cho khách hàng. Nếu làm tốt công tác này, ngân hàng vừa có thể nắm bắt được đầy đủ thông tin về khách hàng, vừa có thể giúp đỡ khách hàng trong hoạt động sản xuất kinh doanh, giảm thiểu rủi ro cho cả khách hàng vay vốn lẫn ngân hàng. 3.2.4. Hoàn thiện hệ thống chấm điểm tín dụng Chấm điểm tín dụng hiện nay là phương pháp đánh giá định lượng khách quan duy nhất trong xét duyệt cho vay tại VPBank. Hệ thống chấm điểm tín dụng của ngân hàng tuy đã được xây dựng khá chi tiết và chính xác nhưng cán bộ tín dụng vẫn gặp khó khăn khi áp dụng do nhiều nhân tố, trong đó chủ yếu là do số liệu cung cấp bởi khách hàng là không chính xác. Với hệ thống chấm điểm tín dụng dựa chủ yếu vào hệ thống sổ sách của khách hàng như hiện nay, đây sẽ chưa thể là công cụ duy nhất trong khâu xét duyệt cho vay của ngân hàng. Nhiệm vụ đặt ra cho VPBank nói riêng và hệ thống ngân hàng nói chung lúc này là cần nghiên cứu một mô hình đánh giá tổng hợp hơn, ngoài việc cho điểm những chỉ tiêu thể hiện trong sổ sách còn phải xét đến một hệ thống đa dạng và chi tiết hơn các chỉ tiêu bên ngoài như uy tín của doanh nghiệp, phong cách làm việc, trình độ học vấn của công nhân viên trong doanh nghiệp, tình hình cở sở vật chất, điều kiện làm việc…có như vậy mới đảm bảo một phướng pháp đánh giá là tổng hợp, là thước đo đúng đắn và chính xác hơn để tiến tới trở thành một mô hình độc lập mang tính chất quyết định trong xét duyệt cho vay. 3.2.5. Giám sát và kiểm tra sau vay Bên cạnh việc nâng cao chất lượng công tác thẩm định và hoàn thiện hệ thống thông tin đánh giá khách hàng trước khi cho vay, ngay cả khi một dự án rất có triển vọng đã đi vào hoạt động cũng không thể tránh được những rủi ro không ngờ do khách quan hay chủ quan. Thực tế khả năng thanh toán của khách hàng luôn thay đổi do biến động của môi trường kinh doanh ảnh hưởng đến khả năng trả nợ của khách hàng. Hiển nhiên sau khi cho vay ngân hàng phải quản lý, khi có các dấu hiệu rui ro sảy ra ngân hàng phải kịp thời để có những biện pháp thu hồi nợ. Việc kiểm tra kiểm soát không nên chỉ dựa vào những số liệu, báo cáo do khách hàng cung cấp. Quan trọng hơn VPBank phải chuyển từ vị trí bị động sang vị trí chủ động, nghĩa là phải giám sát chặt chẽ quá trình sản xuất kinh doanh của khách hàng. Các lĩnh vực mà cán bộ tín dụng phải tập trung xem xét và kiểm tra bao gồm: - Kiểm tra thực tế tại cơ sở sản xuất kinh doanh của khách hàng. - Theo dõi tình hình thị trường và ngành hàng sản xuất kinh doanh của khách hàng có ảnh hưởng đến vốn vay từ ngân hàng. - Đánh giá lại tài sản thế chấp theo giá hiện hành, nếu giảm so với giá lúc thế chấp thì phải bổ sung tài sản thế chấp khác hoặc giảm dự nợ tương ứng. - Phân tích các báo cáo tài chính và tình hình sản xuất kinh doanh mới nhất của khách hàng. Việc báo cáo kịp thời, theo đúng yêu cầu là công cụ hỗ trợ đắc lực cho công tác kiểm soát, quản trị rủi ro. Định kỳ và nội dung báo cáo nên được áp dụng thích hợp cho từng đối tượng nhận báo cáo. Đối với tình hình thực tế hiện nay ở VPBank vấn đề về công tác kiểm tra sau cho vay không những chỉ cần hoàn thiện về phương pháp mà còn cần có những biện pháp đồng bộ về vấn đề nhân sự. Là một ngân hàng bán lẻ, các khoản cho vay của VPBank chủ yếu là các khoản vay nhỏ lẻ, điều này dẫn đến thực trạng là số lượng các khoản vay rất lớn, cán bộ tín dụng không thể bao quát hết , do đó khâu kiểm tra sau cho vay thường bị xem nhẹ. Giải pháp đặt ra cho VPBank đối với vấn đề này là ngân hàng cần lập một bộ phận riêng chuyên quản lý các khoản vay sau khi đã giải ngân, tách rời khâu tiếp thị, thẩm định với giám sát sau vay, có như vậy mới thực hiện được chuyên môn hoá, đảm bảo được tính khách quan, đạt hiệu quả cao và đảm bảo an toàn tín dụng cho ngân hàng. 3.2.6. Phát triển hệ thống công nghệ thông tin Công nghệ là đòn bẩy của sự phát triển, là điều kiện để hội nhập của VPBank vào công đồn ngân hàng quốc tế. Hiện đại hoá công nghệ và mạng tin học sẽ giúp nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng, giảm chi phí lao động, tăng sức cạnh tranh, phục vụ tốt cho yêu cầu quản lý và kinh doanh. Ngân hàng cần: - Tiêu chuẩn hoá và hiện đại hóa tất cả các nghiệp vụ ngân hàng, bảo đảm khả năng hoà nhập với ngân hàng quốc tế trong mọi lĩnh vực như cung cấp và tiếp nhận xử lý thông tin ngân hàng, thông tin thương mại và thông tin kinh tế. Hoàn thiện các mạng thông tin như: mạng thông tin diện rộng, kết nối trực tuyến với các mạng nội bộ của tất cả các chi nhánh trong hệ thống, mạng nội bộ, mạng internet, mạng SWIFT, mạng thanh toán thẻ. - Đa dạng hoá các loại hình các loại hình nghiệp vụ: việc cung cấp các mới đa dạng sẽ hạn chế sự tập trung rủi ro cho một nghiệp vụ cụ thể. Ngoài ra các loại hình nghiệp vụ này cần được bảo mật chặt chẽ. - Đầu tư vào kỹ thuật tiên tiến nhằm hạn chế các rủi ro do thông tin không kịp thời, chính xác - Cần có một bộ phận thực hiện các đánh giá về khách hàng thông qua các thông tin thu thập được, đó là bộ phận xếp hạng tín nhiệm. Khi các doanh nghiệp trên thị trường có sự biến động về mức sản xuất, tiêu thụ hay về ngành hàng, cần có bộ phận chuyên cập nhật các thông tin cụ thể về từng ngành hàng ở từng thời điểm, về các quy định của pháp luật có liên quan đến ngành hàng đó. Bộ phận này sẽ đóng vai trò đầu mối thông tin kịp thời cho ngân hàng và đưa ra các dự đoán để cán bộ tín dụng dựa vào đó để đánh giá khách hàng và giảm bớt rủi ro. - Xây dựng hệ thống đánh giá năng lực chi nhánh: Thông qua hệ thống này ngân hàng sẽ xác định hạn mức tín dụng cho các chi nhánh một cách phù hợp và hiệu quả hơn đông thời khuyến khích sự phát triển của các chi nhánh. Qua đó ngân hàng cũng sẽ lượng hoá được mức rủi ro tín dụng theo khu vực. Đây là cơ sở rất quan trọng để đưa ra các giới hạn cấp tín dụng và kiểm soát mức độ rủi ro cho từng vùng. 3.2.7. Sử dụng các công cụ tín dụng phái sinh Trong những năm gần đây, nhiều ngân hàng trên thế giới đã áp dụng thêm các công cụ tài chính mới để hạn chế rủi ro và đồng thời tạo thêm nguồn thu nhập từ tỉ lệ phí cho ngân hàng. Các công cụ phái sinh chủ yếu bao gồm: chứng khoán hoá các khoản cho vay, bán nợ, hợp đồng trao đổi tín dụng, hợp đồng quyền lựa chọn tín dụng, hợp đồng trao đổi các khoản tín dụng rủi ro… 3.2.8. Hạn chế tổn thất khi có rủi ro xảy ra Khi ngân hàng không thu hồi được các khoản tín dụng như đã thoả thuận trong hợp đồng, ngân hàng sẽ phải thực hiện các biện pháp như: - Trích lập quỹ dự phòng rủi ro: Quyết định 493/2005/QĐ-NHNN quy định tất cả các khoản nợ quá hạn đều phải trích dự phòng rủi ro và tỷ lệ trích lập dự phòng như sau: + Nhóm 1: Nợ đủ tiêu chuẩn: 0% + Nhóm 2: Nợ cần chú ý: 5% + Nhóm 3: Nợ dưới tiêu chuẩn: 20% + Nhóm 4: Nợ nghi ngờ: 50% + Nhóm 5: Nợ có khả năng mất vốn: 100% Quý dự phòng rủi ro tín dụng sẽ giúp ngân hàng bù đắp những tổn thất trong hoạt động tín dụng, đồng thời duy trì mức vốn tự có của ngân hàng, tránh được những biến động lớn ảnh hưởng tới khả năng thanh khoản của ngân hàng. - Gia hạn nợ: Khi đến hạn trả nợ mà khách hàng chưa có khả năng trả nợ thì ngân hàng có thể xem xét các nguyên nhân dẫn đến phát sinh nợ của khách hàng, trường hợp do các nguyên nhân khách quan và hợp lý thì ngân hàng có thể xem xét gia hạn nợ cho khách hàng, tạo điều kiện cho khách hàng có thời gian thu xếp trả nợ. - Thực hiện miễn giảm lãi: Một số khách hàng sau khi vay hoạt động kinh doanh không có hiệu quả và không đủ khả năng hoàn trả các khoản nợ và lãi ngân hàng, tuy nhiên có thiện chí trong việc trả nợ ngân hàng. Trương hợp nhận thấy có thể hỗ trợ doanh nghiệp, ngân hàng sẽ tạo điều kiện bằng cách cho phép doanh nghiệp được hưởng một mức lãi suất thấp hơn, với mong muốn sẽ thu lại được phần gốc của khoản nợ đó. - Thực hiện bán nợ: Đối với những khoản nợ không thu hồi được và có tài sản đảm bảo, nếu ngân hàng không tự xử lý được, ngân hàng sẽ chuyển giao toàn bộ khoản nợ cùng với tài sản cho các công ty mua bán nợ. 3.2.9. Công tác cán bộ và đào tạo Con người là yếu tố quyết định đến sự thành bại trong quản lý vốn tín dụng nói riêng và đến hoạt động ngân hàng nói chung. Trước hết phải khẳng định rằng người thực hiện tất cả các giải pháp nêu trên để đảm bảo an toàn tín dụng cho ngân hàng không ai khác chính là các cán bộ tín dụng. Hiện nay VPBank đang có một đội ngũ cán bộ có chất lượng tương đối cao: 87% tổng số cán bộ công nhân viên có trình độ đại học và trên đại học. Nhiều cán bộ của VPBank đang tham gia các khoá đào tạo chuyên môn, học thêm văn bằng hai về ngoài ngữ, vi tính, luật…Đây là cơ sở vững chắc cho sự phát triển của VPBank trong một tương lai không xa. Song VPBank mới chỉ mở rộng quy mô trong một số năm gần đây nên đội ngũ nhân viên còn rất trẻ, tuy hết sức năng động, nhiệt tình sáng tạo nhưng còn thiếu kinh nghiệm và trình độ chuyên môn, vì thế VPBank cũng cần không ngừng có những giải pháp trau dồi, bổ sung kiến thức cho nhân viên và những chính sách đãi ngộ phù hợp. Cụ thể: - Cử cán bộ đi học các kháo đào tạo do Trung tâm đào tạo của ngân hàng, các trường đại học, các trung tâm đào tạo lớn có uy tín tổ chức. - Thường xuyên tổ chức các lớp bồi dưỡng nghiệp vụ - Kết hợp việc đào tạo tập trung với đào tạo tại chỗ. Nên có sự bổ sung xen kẽ những cán bộ tín dụng có nhiều kinh nghiệm với những cán bộ tín dụng mới được đào tạo cơ bản để người trước truyền kinh nghiệp cho người sau. Bản thân các cán bộ tín dụng cũng phải thường xuyên tự nâng cao kiến thức cho mình qua nghiên cứu sách báo, tài liệu liên quan. - Các cán bộ tín dụng cần phải được chuyên môn hoá thành từng bộ phận khác nhau để tăng thêm khả năng tập trung quản lý danh mục tín dụng. Bên cạnh đó, mỗi cán bộ tín dụng cần phải đặt trong môi trường cạnh tranh, tạo thêm những ưu đãi và chế độ thưởng phạt cũng như các quy định rõ ràng về trách nhiệm và quyền lợi để tạo động lực, tăng tinh thần làm việc. Các cán bộ tín dụng cũng cần được đào tạo một cách bài bản về kỹ năn tiếp xúc với khánh hàng, cả khi chấp nhận và từ chối khoản vay. 3.2.10. Thực hiện bảo hiểm tín dụng Hiện nay khi cho vay ngân hàng thường yêu cầu khách hàng mua bảo hiểm ở các công ty bảo hiểm cho hàng hoá, tài sản thế chấp... trong một số trường hợp. Điều này giúp ngân hàng phòng ngừa phần nào rủi ro đối với khoản cho vay. Vì vậy, ta thấy bảo hiểm có thể là một biện pháp hữu ích góp phần giảm bớt thiệt hại về rủi ro tín dụng cho ngân hàng. Ngân hàng Ngoại thương, một ngân hàng lớn có tiềm lực tài chính mạnh nên phát triển loại hình bảo hiểm tín dụng để góp phần hạn chế rủi ro tín dụng. Cụ thể như: ngân hàng sau khi cấp tín dụng cho khách hàng có thể bán bảo hiểm đối với khoản tín dụng đó cho khách hàng, tức là ngân hàng sẽ thu một khoản phí bảo hiểm của khách hàng và dùng khoản này để bù đắp rủi ro trong trường hợp khách hàng làm ăn thua lỗ không có khả năng thanh toán khoản nợ cho ngân hàng. Hình thức này không những có lợi cho ngân hàng mà còn có lợi cho chính khách hàng tham gia mua bảo hiểm. Vì trong trường hợp không may, khách hàng làm ăn thua lỗ, bảo hiểm ngân hàng sẽ bù đắp một phần hay toàn bộ khoản thiệt hại tuỳ thuộc mức đóng phí bảo hiểm. Để thực hiện được hình thức bảo hiểm gián tiếp đối với các khoản tín dụng của ngân hàng, VPBank cần phải có chính sách ưu đãi hạn cho vay để thu hút khách hàng. Với năng lực và uy tín của mình, VPBank hoàn toàn có thể làm được điều này. 3.3. Một số kiến nghị 3.3.1. Kiến nghị đối với Chính phủ Chính phủ có vai trò quyết định trong việc đảm bảo cho các định hướng về hoạt động phòng ngừa rủi ro được thực hiện. Các giải pháp từ Chính phủ vừa đóng vai trò là các giải pháp tổng thể tạo dựng khuôn khổ vững chắc và lâu dài cho việc thực thi phòng ngừa hạn chế rủi ro, vừa chỉ ra những bước thoát hiểm trong những giai đoạn khó khăn nhất. Một số kiến nghị cụ thể đối với Chính phủ để đảm bảo công tác quản trị rủi ro tín dụng trong ngân hàng: - Tiếp tục đưa ra các giải pháp cơ cấu lại nền kinh tế, tập trung thúc đẩy hoạt động đầu tư, củng cố và phát triển hệ thống tài chính, thị trường chứng khoán và hệ thống ngân hàng. Chính phủ cần có những giải pháp thiết thực để phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam, từ đó tạo thêm lựa chọn cho ngân hàng trong việc xử lý các khoản nợ thông qua chứng khoán hoá, đồng thời có khả năng huy động được thêm vốn sau khi cổ phần hoá. - Hoàn thiện khung pháp lý buộc các doanh nghiệp phải có các báo cáo tài chính trung thực và chính xác, giúp các ngân hàng dễ dàng hơn trong việc đánh giá và thẩm định khách hàng. - Nâng cao tính độc lập cũng như tăng cường quyền hạn quản lý Nhà nước về hoạt động tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước. - Cải thiện môi trường thu hút đầu tư, bao gồm cả đầu tư nước ngoài vào nền kinh tế và khu vực ngân hàng sao cho phát triển phù hợp với cơ sở hạ tầng tài chính trong nước - Xem xét xây dựng biểu thuế phù hợp đối với các NHTM trên cơ sở so sánh với các loại hình kinh doanh khác. - Nâng cao tính minh bạch thông tin của tất cả các tổ chức thông qua các chuẩn mực của kế toán quốc tế. - Xây dựng hệ thống thông tin về các TCTD, các nhà đầu tư trong và ngoài nước, về những dự án đầu tư trong tương lai trên lãnh thổ Việt Nam và xem xét độ mở thông tin đối với các dự án này. - Xây dựng công ty định mức tín nhiệm: Công ty định mức tín nhiệm (CRA - Credit Rating Agency) rất quan trọng đối với sự phát triển thị trường vốn của mọi nền kinh tế. Đối tượng đánh giá của CRA là các tổ chức tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, định chế tài chính phi ngân hàng, doanh nghiệp sản xuất kinh doanh lớn, có niêm yết trên thị trường chứng khoán, doanh nghiệp phát hành chứng khoán ra công chúng, các tổng công ty nhà nước, doanh nghiệp lớn của Nhà nước. CRA cũng đánh giá cả Chính phủ, các địa phương, các bộ trong việc phát hành trái phiếu dài hạn. CRA sẽ phân tích đánh giá các ngành kinh tế, phân tích tiền tệ, phân tích đánh giá các chương trình đầu tư của Chính phủ trong hoạch định phát triển ngành, chẳng hạn như chương trình phát triển mía đường, chương trình xây dựng các nhà máy xi măng…Việc đánh giá xếp hạng tín dụng giúp cho ngân hàng thuận lợi khi thẩm định các dự án cho vay, giảm thiểu rủi ro tín dụng và các khoản nợ tồn đọng. 3.2.2. Kiến nghị đối với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam - Hoàn thiện và nâng cao hơn nữa hiệu quả hoạt động của trung tâm thông tin tín dụng. Trung tâm thông tin tín dụng Ngân hàng Nhà nước (CIC - Credit information Center) ra đời đã phần nào đáp ứng được nhu cầu thông tin - đầu vào không thể thiếu trong hoạt động của các NHTM. Tuy nhiên về cơ bản hiện nay các thông tin này mới chỉ cung cấp được về mặt số liệu dư nợ vay của các doanh nghiệp, chưa có thông tin phi tài chính, khả năng quản lý của lãnh đạo doanh nghiệp. Vì thế NHNN cần tiếp tục hoàn thiện hoạt động của CIC để phục vụ tốt hơn nhu cầu của hệ thống NHTM nói riêng và toàn bộ nền kinh tế noi chung. - Phối hợp với các đơn vị liên quan thường xuyên tổ chức các khoá đào tạo và bồi dướng kiến thức cập nhật để nâng cao năng lực đánh giá, đo lường, phân tích, kiểm soát rủi ro tín dụng của các cán bộ tín dụng. - Tăng cường hiệu quả thanh tra kiểm soát hoạt động tín dụng tại các NHTM nhằm hạn chế, phòng ngừa rủi ro tín dụng. Đưa ra các biện pháp hoàn thiện hệ thống giám sát Ngân hàng theo các hướng cơ bản: +) Nâng cao chất lượng phân tích tình hình tài chính và phát triển hệ thống cảnh báo sớm những tiềm ẩn trong hoạt động của các TCTD. +) Phát triển và thống nhất cách thức giám sát Ngân hàng trên cơ sở lý luận và thực tiễn. +) Xây dựng cách tiếp cận với công việc đánh gia chất lượng quản trị rủi ro trong nội bộ các TCTD. +) Nâng cao đòi hỏi kỹ thuật trong việc trích lập dự phòng rủi ro. - Xây dựng hệ thống và các biện pháp kiểm soát luồng vốn quốc tế và nợ nước ngoài, trong đó tập trung vào cơ chế giám sát cho vay và vay bằng ngoại tệ của các NHTM để tránh rủi ro về tỷ giá, ngoại hối kỳ hạn, qua đó có những cảnh báo sớm cho các NHTM. - Hoàn thiện và vận dụng vào thực tiễn công cụ khung sổ tay tín dụng theo chuẩn quốc tế để quản trị thống nhất hệ thống chỉ tiêu báo cáo đồng bộ. Nâng cao tiêu chí trong việc cấp giấy phép và đòi hỏi kỹ thuật đối với các TCTD dựa trên những tiêu chuẩn về độ vững chắc tài chính và các chỉ số an toàn trong hoạt động của các TCTD. - Tiếp tục hoàn thiện khung pháp lý và đẩy mạnh việc sử dụng các giấy tờ có giá như thương phiếu, chứng chỉ tiền gửi và các loại hối phiếu, kỳ phiếu của các ngân hàng thương mại. - Xây dựng và hoàn thiện các định chế về công cụ bảo hiểm tín dụng. 3.2.3. Kiến nghị đối với Ngân hàng VPBank - Tiếp tục tăng cường, nâng cao chất lượng tín dụng, tích cực thu hồi số nợ tồn đọng, nợ quá hạn cũ, hạn chế hết sức việc phát sinh sự quá hạn mới. - Tăng cường tài sản xiết nợ, thực hiện xử lý tài sản thế chấp cầm cố có hiệu quả hơn nhằm nhanh chóng giải phóng vốn cho ngân hàng, đặc biệt là số tài sản còn bị kẹt ở những vụ án lớn do NHNo&PTNT Bắc Giang quản lý. - Nâng cao hiệu quả hoạt động liên doanh liên kết nhằm giảm tình trạng vốn bị đọng và rủi ro cao. Đa dạng hoá hơn nữa các hoạt động đầu tư. - Ban hành các hướng dẫn kịp thời các chủ trương, chính sách của Chính phủ và VPBank cho các chi nhánh. Ngân hàng nên tăng cường hơn nữa việc kiểm soát các ngân hàng thương mại thông qua hình thức giám sát từ xa và thanh tra tại chỗ. KẾT LUẬN Qua phần trình bày trên, có thể nói hạn chế rủi ro nói chung cũng như rủi ro tín dụng nói riêng là công việc hết sức phức tạp đòi hỏi sự nghiên cứu cẩn thận và khoa học. Việc áp dụng các biện pháp hạn chế sẽ đòi hỏi ngân hàng phải lựa chọn giữa lợi nhuận cho ngân hàng và sự an toàn cho ngân hàng. Nếu mải chạy theo những đồng vốn huy động hay cho vay thì ngân hàng sẽ đối mặt với những nguy cơ phá vỡ sự an toàn. Nhưng bên cạnh đó, nếu áp dụng một cách ngặt nghèo và cứng nhắc các giải pháp hạn chế rủi ro thì ngân hàng sẽ không có kết quả hoạt động tốt nhất là trong tình hình hiện nay với sự hình thành và phát triển của rất nhiều ngân hàng mới cả trong và ngoài nước. Sự lựa chọn giữa rủi ro và lợi nhuận luôn khiến các nhà kinh doanh phải mất nhiều thời gian suy nghĩ. Trong chuyên đề, em không đề cập sâu đến vấn đề này mà chỉ kiến nghị một số biện pháp hạn chế rủi ro. Các giải pháp này được đưa ra chủ yếu dựa trên tình hình tín dụng thực tế tại VPBank. Kết thúc chuyên đề em xin chân thành gửi lời cám ơn đến Th.S Lê Hương Lan đã tận tình hướng dẫn và chỉ bảo, đồng thời , em cũng xin cảm ơn toàn thể cán bộ nhân viên trong ngân hàng VPBank – chi nhánh Hoàn Kiếm đã tạo điều kiện thuận lợi để em có thể hoàn thành tốt chuyên đề tốt nghiệp. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO PGS. TS. Phan Thị Thu Hà (2007), Ngân hàng thương mại, NXB Đại học Kinh tế quốc dân. GS. TS. Lê Văn Tư (2005), Nghiệp vụ Ngân hàng thương mại, NXB Tài Chính GS. TS. Lê Văn Tư (2006), Quản trị Ngân hàng thương mại, NXB Tài Chính Peter S. Rose (2001), Quản trị Ngân hàng thương mại, NXB Tài Chính Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (2001), Quyết định 1627/2001/QĐ – NHNN v/v ban hành Quy chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (2005), Quyết định 493/2005/QĐ – NHNN v/v phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng. Ngân hàng TMCP Các doanh nghiệp ngoài quốc doanh (VPBank), Báo cáo thường niên 2005 Ngân hàng TMCP Các doanh nghiệp ngoài quốc doanh (VPBank), Báo cáo thường niên 2006 Ngân hàng TMCP Các doanh nghiệp ngoài quốc doanh (VPBank), Báo cáo thường niên 2007 Ngân hàng TMCP Các doanh nghiệp ngoài quốc doanh (VPBank) (2002), Nghiệp vụ tín dụng. MỤC LỤC DANH MỤC BẢNG BIỂU, SƠ ĐỒ Bảng 1.1 : Điểm tín dụng tiêu dùng 25 Bảng 1.2 : Mô hình điểm 26 Sơ đồ 2.1: Cơ cấu tổ chức quản lý của VPBank 35 Sơ đồ 2.2 : Cơ cấu tổ chức quản lý của VPBank - Chi nhánh Hoàn Kiếm 39 Bảng 2.1: Kết quả kinh doanh năm 2006 – 2007 46 Sơ đồ 2.3 : Quy trình nghiệp vụ tín dụng doanh nghiệp 48 bảng 2.2 : hoạt động tín dụng đối với khách hàng 58 bảng 2.3: tình hình nợ quá hạn đối với khách hàng 60 ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc11686.doc
Tài liệu liên quan