Phát triển hoạt động cho vay tiêu dùng tại Ngân hàng thương mại cổ phần các doanh nghiệp ngoài quốc doanh - Vpbank

Lời mở đầu. Đại hội Toàn quốc lần thứ VI của Đảng cộng sản Việt Nam đã đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong quá trình phát triển của nền kinh tế nước ta. Đến nay, sau gần 20 năm đổi mới, Việt Nam đã gặt hái được những thành quả đáng kể trên nhiều lĩnh vực kinh tế, xã hội, văn hoá… Kết quả (và cũng là mục đích cuối cùng) của những thành công ấy là đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt. Nếu trước đây, người dân Việt Nam chỉ nghỉ đến “ăn no, mặc ấm” thì hiện nay, nhu cầu của họ phải là “ăn n

doc75 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1373 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Phát triển hoạt động cho vay tiêu dùng tại Ngân hàng thương mại cổ phần các doanh nghiệp ngoài quốc doanh - Vpbank, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
gon, mặc đẹp”; việc sở hữu những tài sản có giá trị lớn như nhà cửa, xe hơi… đã trở thành nhu cầu của nhiều người và trên thực tế, không ít người có đủ khả năng tài chính để thoả mãn những nhu cầu ấy. Với mức thu nhập trung bình trong hoàn cảnh chỉ số giá tiêu dùng đang có xu hướng gia tăng như hiện nay thì chỉ riêng chi trả cho những nhu cầu thiết yếu đã khó khăn, chưa kể đến tiết kiệm, tích luỹ. Bên cạnh đó, đối với bộ phận dân cư có thu nhập trên trung bình, có tài sản tài chính hay đã có sẵn tích luỹ nhưng đang sử dụng vào mục đích khác (đầu tư, cho vay, gửi tiết kiệm dài hạn) thì khả năng thanh toán của họ là hoàn toàn có thể và được đảm bảo. Nắm bắt được nhu cầu này, các ngân hàng thương mại đã bắt đầu thực hiện hoạt động cho vay tiêu dùng đối với cá nhân trong vài năm gần đây. Hiện nay, thị trường cho vay tiêu dùng đã không còn là một thị trường tiềm năng nữa mà đã trở thành một thị trường có lợi nhuận hấp dẫn đối với các ngân hàng thương mại. Bắt đầu khai thác thị trường này từ năm 2001, đến nay qua 4 năm, hoạt động cho vay tiêu dùng của VP Bank là một trong những hoạt động chủ yếu mang lại lợi nhuận cho ngân hàng. Tuy vây, cho vay tiêu dùng vẫn là một dịch vụ khá mới mẻ, thực hiện thành công loại hình kinh doanh này đòi hỏi sự nghiên cứu, tìm hiểu kết hợp với điều kiện môi trường kinh doanh và hoàn cảnh cụ thể của từng tổ chức. Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề, được sự hướng dẫn của thầy giáo – TS. Trần Đăng Khâm, được sự giúp đỡ của các cán bộ VPbank qua quá trình thực tập tại Phòng Phục vụ khách hàng cá nhân, em đã quyết định lựa chọn đề tài “Phát triển hoạt động cho vay tiêu dùng tại ngân hàng thương mại cổ phần các doanh nghiệp ngoài quốc doanh - VPbank” làm đề tài cho chuyên đề tốt nghiệp của mình. Kết cấu của chuyên đề ngoài lời mở đầu, danh mục tài liệu tham khảo, kết luận gồm 3 chương: - Chương 1: Các vấn đề cơ bản về hoạt động cho vay tiêu dùng của ngân hàng thương mại. - Chương 2: Thực trạng hoạt động cho vay tiêu dùng tại Ngân hàng thương mại cổ phần các doanh nghiệp ngoài quốc doanh Vpbank. - Chương 3: Giải pháp phát triển hoạt động cho vay tiêu dùng tại ngân hàng thương mại cổ phần các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Do thời gian nghiên cứu không nhiều cùng những hạn chế nhất định về hiểu biết, chuyên đề của em không tránh khỏi những thiếu xót. Rất mong được sự đóng góp của các thầy cô, cán bộ tại ngân hàng và các bạn có quan tâm đến đề tài. Em xin chân thành cảm ơn! Chương 1 Các vấn đề cơ bản về hoạt động cho vay tiêu dùng của ngân hàng thương mại Hoạt động của ngân hàng thương mại: Quá trình phát triển của các ngân hàng thương mại: Ngân hàng là một trong những tổ chức tài chính quan trọng đóng vai trò vô cùng to lớn trong sự phát triển của nền kinh tế quốc dân. Ngân hàng với tư cách là người thủ quỹ của xã hội đã điều chuyển vốn từ nơi thừa sang nơi thiếu vốn, giúp ích rất nhiều đối với cá nhân cũng như doanh nghiệp.Với ngân hàng chúng ta có thể nhận được nguồn đầu tư rất lớn cũng như kiếm lợi nhuận từ hoạt động tiết kiệm. Các hình thức đó đểu bắt nguồn từ chức năng cơ bản của ngân hàng đó là trung gian tài chính, trung gian thanh toán, và tạo phương tiện thanh toán.Trải qua nhiều năm phát triển các chức năng này của ngân hàng ngày càng thể hiện rõ nét và các loại hình ngân hàng lần lượt ra đời, dần khẳng định được vị trí của mình trong giới ngân hàng nói riêng và trong giới tài chính nói chung. Trong số đấy ngân hàng thương mại vẫn thường chiếm tỷ lệ cao nhất về thị phần huy động vốn, tín dụng, và về quy mô hoạt động. Lịch sử phát triển của ngân hàng gắn liền với sự phát triển của nền kinh tế. Ngay từ khi hoạt động thông thương trao đổi hàng hoá giữa các vùng lãnh thổ trong cùng quốc gia, giữa các quốc gia trong khu vực hay trên thế giới bắt đầu hình thành người ta nhận thấy rằng cần có tiền để hoạt động trao đổi được diễn ra một cách nhanh chóng và dễ dàng. Và từ đó nhu cầu đổi tiền đúc tiền và mua bán kinh doanh tiền tệ được đẩy mạnh. Người làm nghề đổi tiền, đúc tiền thực hiện hoạt động kinh doanh của mình bằng cách đổi ngoại tệ lấy bản tệ và ngược lại. Lợi nhuận thu được là từ chênh lệch giá mua và bán. Và họ càng bán được nhiều, lợi nhuận thu về càng lớn. Những người làm nghề đổi tiền này thường là những người giàu có, số tiền họ có là rất lớn nên việc họ có những két để giữ tiền là điều khá phổ biến. Trước việc này những người có tiền khác trong xã hội thường là các lãnh chúa và các nhà buôn khác sẽ nhờ họ giữ hộ tiền. Với việc này tiền trong két của những người làm nghề đổi tiền sẽ tăng lên. Họ sẽ làm luôn cả việc cho vay nặng lãi và thanh toán hộ và thanh toán không dùng tiền mặt cho các nhà buôn. Trong điều kiện lưu thông tiền kim loại (bạc hoặc vàng), các chủ cửa hàng cũng thực hiện cả hai nghiệp vụ đổi tiền và đúc tiền. Những ngân hàng loại này được gọi là những ngân hàng thợ vàng. Nghề ngân hàng cũng được hình thành từ hoạt động cho vay. Lúc đầu các ngân hàng cũng dùng vốn tự có của mình để tài trợ cho hoạt động cho vay nhưng số vốn của các ngân hàng có hạn nên hoạt động này chỉ diễn ra một thời gian. Sau này những người làm nghề ngân hàng nhận thấy những người gửi tiền vào không gửi vào và rút ra cùng lúc nên trong ngân hàng luôn có một khoản tiền chênh lệch. Họ tiến hành cho vay bằng chính nguồn tiền gửi này. Đây là hoạt động cơ bản đầu tiên ngay khi ngân hàng hình thành tạo nên nguồn thu quan trọng và duy nhất thời bấy giờ cho ngân hàng nên ngân hàng luôn tìm mọi cách để thu hút tiền gửi, mở rộng cho vay. Tóm lại ngân hàng là một tổ chức tài chính vô cùng quan trọng trong nền kinh tế. Nhờ có ngân hàng mà các hoạt động trong nền kinh tế có thể diễn ra nhanh chóng và thuận tiện. Có nhiều cách định nghĩa về ngân hàng thông qua chức năng, nhiệm vụ, tuy nhiên theo định hướng của bài viết này xin hiểu ngân hàng theo phương diện các loại hình dịch vụ mà ngân hàng cung cấp: “Ngân hàng là tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất - đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm, dịch vụ thanh toán và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế”. Trích giáo trình”Ngân hàng thương mại quản trị và nghiệp vụ” của trường Đại học Kinh tế Quốc dân – TS. Phan Thị Thu Hà - TS. Nguyễn Thị Thu Thảo. Định nghĩa trên dựa trên các hoạt động chủ yếu của hệ thống các ngân hàng. Các hoạt động cơ bản của ngân hàng thương mại Bản thân ngân hàng thương mại là một doanh nghiệp nên mọi hoạt động của nó đều nhằm một mục đích cơ bản đó là bán được nhiều sản phẩm và thu được nhiều lợi nhuận. Sản phẩm của ngân hàng chính là những dịch vụ mà ngân hàng cung cấp. Trải qua bao nhiêu năm phát triển các dịch vụ của ngân hàng ngày càng được hoàn thiện và mở rộng tuy nhiên về cơ bản gồm có những hoạt động chủ yếu như sau: Hoạt động huy động vốn Nhận tiền gửi: Người ta vẫn nói, ngân hàng là một trung gian tài chính, vì thế có những dòng tiền chảy qua ngân hàng. Một đầu của dòng tiền vào đấy chính là tiền gửi tiết kiệm trong dân cư. Tranh thủ được nguồn tiền nhàn rỗi, cũng như mong muốn thu lời khi hy sinh các khoản tiêu dùng trong hiện tại để mưu cầu lợi ích trong tương lai của dân chúng, ngân hàng đã mở dịch vụ nhận tiền gửi khách hàng. Khách hàng bất kể là cá nhân hay doanh nghiệp đều có thể sử dụng dịch vụ này ở mọi ngân hàng, và với mọi mức tiền gửi. Ngược lại ngân hàng phải trả cho họ cái gọi là chi phí huy động vốn đó là phần lợi nhuận có được sau thời gian ngân hàng tạm thời sủ dụng nguồn vốn của họ với cam kết hoàn trả đúng hạn. Trong nền kinh tế thị trường các ngân hàng ra sức cạnh tranh về lãi suất nhằm thu hút nhiều hơn nữa luồng tiền trong dân cư. Bởi vì đây là nghiệp vụ chủ yếu mang lại nguồn vốn không nhỏ cho ngân hàng trong hoạt động huy động vốn. Cung cấp các tài khoản giao dịch và thực hiện thanh toán Trên thực tế, nhiều cá nhân cũng như doanh nghiệp nhận thấy ngân hàng là một kho quỹ rất an toàn khi khoản tiền của họ tạm thời chưa sử dụng đến. Họ có thể gửi tiền vào ngân hàng nhưng không phải với mục đích sinh lời. Xuất phát từ nhu cầu muốn đảm bảo an toàn và thuận tiện trong thanh toán nghiệp vụ cung cấp các tài khoản giao dịch đã ra đời. Nhiều cá nhân tổ chức đến ngân hàng mở tài khoản thanh toán. Khi có giao dịch xảy ra, thay vì việc chi trả tiền mặt cho đối tác họ có thể viết sec, uỷ nhiệm chi hoặc chuyển khoản vào tài khoản của bạn hàng. Hai bên đối tác có thể mở tài khoản cùng ngân hàng hoặc ở những ngân hàng khác nhau. Việc thanh toán giữa họ do ngân hàng hai bên đảm trách. Công việc này đã làm giảm bớt rủi ro, thời gian cũng như chi phí cho khách hàng đồng thời đem lại một khoản lợi nhuận từ việc thu phí cho ngân hàng. Việc đưa ra loại tài khoản tiền gửi mới này được xem là một trong những bước đi quan trọng trong công nghiệp ngân hàng, và ngày càng được mở rộng đa dạng hoá loại hình như uỷ nhiệm chi, uỷ nhiệm thu, thư điện tử L/C, thanh toán bằng thẻ v.v… Quản lý ngân quỹ Do có kinh nghiệm trong hoạt động quản lý ngân quỹ và có khả năng thu ngân cũng như uy tín trong hoạt động, nhiều doanh nghiệp đã tìm đến ngân hàng và nhờ ngân hàng quản lý quỹ. Cụ thể ngân hàng tiến hành quản lý việc thu chi luồng tiền vào ra của doanh nghiệp đồng thời đưa ra các quyết định tài chính liên quan đến khoản lợi nhuận kinh doanh của khách hàng. Tất nhiên những quyết định tài chính đó chỉ mang tính ngắn hạn, tạm thời khi mà doanh nghiệp chưa có nhu cầu sử dụng tiền mặt để thanh toán. Về phía ngân hàng đòi hỏi cũng phải có đội ngũ nhân viên chuyên nghiệp có kinh nghiệm. Mặc dù tiền phí mà ngân hàng nhận được từ hoạt động không phải là lớn tuy nhiên hoạt động này đã tăng tính mật thiết trong mối quan hệ gắn bó giữa ngân hàng với khách hàng. Hoạt động sử dụng vốn Song song với hoạt động huy động vốn, việc sử dụng vốn thế nào cho có ích, mang lại nhiều lợi nhuận cho ngân hàng cũng được ngân hàng hết sức chú trọng. Cho vay Theo quyết định 1627/2001/QĐ-NHNN ngày 31 tháng 12 năm 2001 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước về việc ban hành quy chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng hoạt động cho vay được hiểu như sau: “cho vay là một hình thức cấp tín dụng, theo đó tổ chức tín dụng giao cho khách hàng sử dụng một khoản tiền để sử dụng vào mục đích và thời gian nhất định theo thoả thuận với nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và lãi.” Cho vay được xem là hình thức kinh doanh chủ yếu của ngân hàng, là hoạt động mang lại nguồn thu lớn nhất để bù đắp chi phí huy động vốn, chi phí quản lý cũng như các khoản chi phí khác. Tuỳ theo đối tượng và mục đích sử dụng tiền vay người ta chia ra hoạt động cho vay ra thành cho vay thương mại và cho vay tiêu dùng. Cho vay thương mại đó là hoạt động sử dụng vốn mà đối tượng chủ yếu là các doanh nghiệp nhằm mục đích tài trợ cho các dự án đầu tư, hay phương án sản xuất kinh doanh. Nó bao gồm các hoạt động như cho vay công nghiệp, cho vay nông nghiệp v.v… Cho vay tiêu dùng là khoản cho vay nhằm phục vụ cho đời sống, tiêu dùng các sản phẩm hàng hoá dịch vụ của các cá nhân, tổ chức. Trong lịch sử hầu hết các ngân hàng không tích cực thực hiện dịch vụ này vì họ cho rằng các khoản cho vay tiêu dùng nói chung có quy mô nhỏ rủi ro vỡ nợ tương đối cao do đó làm cho tỷ lệ sinh lời là thấp. Tuy nhiên sự gia tăng thu nhập của người tiêu dùng cũng như sự cạnh tranh khốc liệt giữa các ngân hàng đã khuyến khích rất nhiều cho ngân hàng phát triển hoạt động này. Nhiều ngân hàng đã xem xét và cung cấp dịch vụ với tỷ lệ tương đối lớn. Tuy nhiên do tính rủi ro cao nên đòi hỏi các ngân hàng cũng phải hết sức chú ý theo dõi khách hàng trong suốt quá trình cho vay. Do sự phát triển của thị trường nhiều ngân hàng đã hướng đến thị trường cho vay tiêu dùng như là một thị trường mục tiêu đầy tiềm năng. Tài trợ cho dự án Cũng giống như hoạt động cho vay thông thường tài trợ cho dự án cũng được phát triển nhằm mang lại nguồn thu cho ngân hàng. Tuy nhiên nếu như cho vay thông thường được tiến hành trong thời gian ngắn, thì hoạt động này diễn ra trong dài hạn. Bởi lẽ các dự án thường đòi hỏi có nguồn vốn lớn, thời gian thu hồi vốn lâu thường là từ 5 năm trở lên. Đây cũng là hoạt động có tính rủi ro lớn nên lãi suất cho vay thường rất cao nhằm bù đắp rủi ro. Tài trợ cho các hoạt động của Chính Phủ Đây là hoạt động bắt buộc của hầu hết các ngân hàng thương mại đặc biệt là các ngân hàng thương mại quốc doanh. Nhận thấy khả năng huy động vốn của các ngân hàng, Chính Phủ của nhiều quốc gia đã tranh thủ vai trò của mình trong nền kinh tế và buộc các ngân hàng phải cấp những khoản tín dụng nhất định hàng năm nhằm phục vụ cho mục đích chi tiêu của mình. Điều đó được thể hiện qua số lượng trái phiếu Chính Phủ mà ngân hàng phải mua trên tổng lượng tiền mà ngân hàng huy động được. Hoặc những khi Chính Phủ cần vốn để thực hiện một dự án nào đó, họ có thể đến ngân hàng huy động với thời gian ngắn nhất, chi phí rẻ nhất. Đây là điều mà nhiều ngân hàng không muốn tuy nhiên sự hoạt động của họ chịu sự giám sát chặt chẽ trực tiếp của Ngân hàng Trung ương hoặc Ngân hàng Nhà nước. Mà phần lớn Chính Phủ mỗi quốc gia đều tìm cách tham dự vào cấp quản lý cao nhất của hệ thống ngân hàng này. Vì vậy việc tài trợ cho hoạt động của Chính Phủ là một trong những hoạt động sử dụng vốn mà phần lớn tất cả các ngân hàng thương mại đều phải thực hiện. Đầu tư chứng khoán Mặc dù cho vay là hoạt động chủ yếu tạo ra lợi nhuận thường xuyên cho ngân hàng, nhưng ngân hàng không sử dụng toàn bộ vốn huy động để cho vay. Một mặt hầu hết các khoản vay có tính thanh khoản thấp, tính rủi ro lại cao, ngân hàng không thể bán chúng trên thị trường khi cần tiền mặt để chi trả cho khách hàng. Mặt khác tất cả các khoản thu nhập từ hoạt động cho vay, ngân hàng đều phải chịu thuế. Điều này khiến cho nhiều ngân hàng đa dạng hoá khoản mục đầu tư của mình, vừa để tăng thu nhập, vừa tìm cách giảm sự tác động của thuế. Nhiều ngân hàng đã phân chia từ 1/5 đến 1/3 giá trị danh mục đầu tư vào một loại hình tài sản sinh lời khác đó là đầu tư chứng khoán. Đây là loại hình đầu tư phổ biến đặc biệt là ở các nước phát triển vì tính ưu việt của nó. Nhà kinh tế học Peter S.Rose trong cuốn sách “Quản trị ngân hàng thương mại” đã tổng kết những chức năng cơ bản của danh mục đầu tư chứng khoán: Các khoản đầu tư chứng khoán giúp ổn định thu nhập của ngân hàng, nhờ vậy hạn chế những biến động lớn có thể xảy ra đối với thu nhập của ngân hàng trong chu kỳ kinh doanh - khi nguồn thu từ cho vay giảm, thu nhập từ chứng khoán có thể tăng. Góp phần cân bằng rủi ro tín dụng trong danh mục cho vay của ngân hàng. Ngân hàng có thể mua các chứng khoán chất lượng cao để điều hoà rủi ro từ những khoản cho vay. Tạo nguồn thanh khoản cho ngân hàng. Nhìn chung các khoản đầu tư chứng khoán là tài sản nằm giữa tiền mặt, nợ và tiền gửi. Khi dự trữ tiền mặt ít ngân hàng có thể bán chứng khoán để đảm bảo khả năng thanh toán cho khách hàng. Ngược lại khi nhu cầu cho vay vốn thấp, ngân hàng có thể mua chứng khoán để tăng thu nhập trong tương lai của mình. Nói tóm lại với khoản đầu tư chứng khoán, ngân hàng hoàn toàn chủ động về tiền mặt và các khoản thu nhập ngoài cho vay của mình. Các chứng khoán có thể đóng vai trò là vật bảo đảm khi ngân hàng tiến hành vay vốn ở ngân hàng hoặc tổ chức khác để bổ sung vốn kinh doanh của mình. Với khoản mục đầu tư chứng khoán, ngân hàng có thể củng cố bảng cân đối tài sản của mình, làm cho ngân hàng lành mạnh hơn về mặt tài chính vì hầu hết các chứng khoán trong danh mục đều của những công ty có tiếng, chất lượng cao. Để đưa ra một danh mục đầu tư hợp lý và thu nhập mang về là lớn nhất cũng giống như bất kỳ một nhà đầu tư nào, ngân hàng cũng phải xem xét tới các yếu tố như: Tỷ lệ thu nhập mong đợi; tác động của thuế; rủi ro lãi suất; rủi ro tín dụng; rủi ro kinh doanh; rủi ro thanh khoản; rủi ro thu hồi; rủi ro trả trước; những đòi hỏi về thế chất và cam kết Cũng giống như bất kỳ hoạt động sủ dụng vốn nào, đầu tư chứng khoán cũng là một khoản mục mà ngân hàng kỳ vọng rất lớn về thu nhập có được trong tương lai. Tuy nhiên do tính rủi ro không nhỏ nên không phải ngân hàng nào cũng sử dụng nó như một công cụ sinh lời duy nhất. Các hoạt động khác Bên cạnh hoạt động huy động vốn, sử dụng vốn các ngân hàng thương mại còn có các hoạt động khác như: mua bán ngoại tệ, bảo quản vật có giá, bảo lãnh, cho thuê thiết bị trung và dài hạn, cung cấp các dịch vụ uỷ thác và tư vấn, cung cấp các dịch vụ môi giới đầu tư chứng khoán, cung cấp dịch vụ bảo hiểm, cung cấp các dịch vụ đại lý. Các hoạt động này không tạo ra nguồn thu trực tiếp như hoạt động sử dụng vốn, mà ngân hàng thu lợi từ việc thu phí các hoạt động này. Do vậy những hoạt động này không tạo ra thu nhập thường xuyên cho ngân hàng. Những loại hình dịch vụ này được mở ra nhằm đa dạng hoá hoạt động của ngân hàng, từ đó khách hàng có cảm giác thoải mái khi đến với ngân hàng. Ngoại trừ hai hoạt động đầu, các hoạt động còn lại đều đòi hỏi cán bộ ngân hàng phải có những kiến thức chuyên sâu nhất định mới cung cấp được dịch vụ với chất lượng hoàn hảo. Ngày nay do xu thế thời đại cũng như yêu cầu của thị trường, nhiều ngân hàng trở thành ngân hàng đa năng và tìm cách mở rộng hoạt động của mình trên nhiều lĩnh vực đặc biệt là lĩnh vực tài chính. Ngân hàng xét cho cùng vẫn là một doanh nghiệp cung cấp dịch vụ nên mọi hoạt động của ngân hàng đều hướng đến một mục tiêu quan trọng đó là lợi nhuận. Hai nhóm hoạt động chính của ngân hàng là huy động vốn và sử dụng vốn có quan hệ mật thiết và hỗ trợ nhau rất nhiều trong việc tạo ra lợi nhuận cho ngân hàng. Cụ thể ngân hàng muốn cho vay được nhiều, mang về nhiều lợi nhuận thì bên cạnh hoạt động marketing, mở rộng thị trường v.v..trước hết hoạt động huy động vốn của ngân hàng phải được đẩy mạnh. Đây là hoạt động có ý nghĩa rất lớn trong sự phát triển thịnh vượng của ngân hàng. Tuy nhiên, hoạt động tạo ra lợi nhuận chủ yếu của ngân hàng là cho vay. Các ngân hàng sẽ tìm cách cho vay càng nhiều càng tốt, càng nhiều càng có lãi. Bên cạnh hai hoạt động chủ đạo này, ngân hàng cũng tìm cách để nâng cao hiệu quả hoạt động của mình bằng cách cung cấp rất nhiều các dịch vụ tài chính khác để tạo cảm giác thuận tiện cho khách hàng khi đến với ngân hàng. Các hoạt động này tuy không mang lại nguồn thu lớn cho ngân hàng nhưng nó tạo nên sự phong phú trong loại hình dịch vụ mà ngân hàng cung cấp, tạo nên sự cạnh tranh giữa các ngân hàng với nhau. Hoạt động cho vay tiêu dùng của ngân hàng thương mại Khái niệm cho vay tiêu dùng Khái niệm Từ sau chiến tranh thế giới lần thứ hai, các ngân hàng đã không ngừng phát triển, mở rộng hoạt động đặc biệt trong lĩnh vực tín dụng. Cho vay tiêu dùng xuất hiện từ khi đó và dần chiếm thị phần không nhỏ trong hoạt động của ngân hàng. Một trong những nguyên nhân khiến cho nhiều ngân hàng thống trị trong lĩnh vực này là ngân hàng đã tích cực khai thác nguồn tiền gửi trong dân cư. Rất nhiều người gửi tiền vào ngân hàng ngoài mục đích sinh lời còn có một mục đích khác nữa. Đó là họ nhận thấy là mình có thể vay tiền lại từ chính ngân hàng khi cần thiết. Thêm vào đó, do đời sống người dân ngày được nâng cao, nhu cầu chi tiêu cũng phong phú và đa dạng hơn. Cho vay tiêu dùng ra đời thực chất nhằm giải quyết mâu thuẫn cơ bản đó là nhu cầu và khả năng thanh toán của cá nhân người tiêu dùng. Trên thực tế, nhu cầu và thu nhập của họ không đến cùng một lúc. Ngân hàng đã bù đắp khoản thiếu hụt đó rất nhanh chóng và kịp thời, tất nhiên với sự cam đoan hoàn trả đúng hạn và đầy đủ của cá nhân người tiêu dùng. Hoạt động này mở ra chẳng những giải quyết được mâu thuẫn cơ bản truyền thống này mà còn mang lại nhiều lợi nhuận cho ngân hàng. Cho vay tiêu dùng tỏ ra rất hữu ích trong ngành ngân hàng nói riêng và trong nền kinh tế nói chung. Có nhiều cách hiểu về cho vay tiêu dùng. Nó là hoạt động tín dụng phục vụ mục đích tiêu dùng mà đối tượng chủ yếu là các cá nhân và hộ gia đình. Ta có thể định nghĩa “Cho vay tiêu dùng là hình thức cấp tín dụng, trong đó ngân hàng thoả thuận để khách hàng là cá nhân hay hộ gia đình sử dụng một khoản tiền với mục đích tiêu dùng, với nguyên tắc có hoàn trả gốc và lãi sau một thời gian nhất định.” trích luận văn tốt nghiệp sinh viên Nguyễn Thị Phương lớp KT52 trường Học viện Ngân hàng Đây là nguồn tài chính quan trọng giúp những người này trang trải nhu cầu về nhà ở, mua ô tô đồ dùng gia đình và các nhu cầu vui chơi giải trí khác nữa. Cùng với sự phát triển của thị trường cho vay tiêu dùng đã dần chiếm thị phần lớn trong hoạt động tín dụng của nhiều ngân hàng trên thế giới. Sự khác biệt cơ bản giữa cho vay tiêu dùng và các hoạt động tín dụng khác Như ở trên đã đề cập cho vay tiêu dùng tỏ ra rất hiệu quả trong nền kinh tế quốc dân có tác dụng kích thích cả sản xuất lẫn tiêu dùng. So với các hoạt động tín dụng khác đặc biệt cho vay kinh doanh, cho vay tiêu dùng có những nét khác biệt cơ bản như sau: Về đối tượng cho vay Nếu như cho vay kinh doanh đối tượng bao gồm cả cá nhân hộ gia đình và các hãng sản xuất kinh doanh, thì cho vay tiêu dùng tập trung chủ yếu là các cá nhân và hộ gia đình. Đối tượng cho vay bị thu hẹp không phải để hạn chế hoạt động mà xuất phát từ nhu cầu đi vay của các chủ thể này. Về mục đích vay Ngân hàng mở ra hoạt động cho vay tiêu dùng nhằm một mục đích thoả mãn nhu cầu chi tiêu của cá nhân và hộ gia đình khi mà thu nhập và nhu cầu không xuất hiện cùng một lúc. Nhu cầu chi tiêu đó có thể là mua nhà để ở, mua các đồ dùng gia đình, mua xe cộ đi lại v.v… hay đơn giản chỉ là chi tiêu trước khi có thu nhập (hình thức thẻ tín dụng). So với hoạt động cho vay kinh doanh mục đích cho vay tiêu dùng rất cụ thể. Do đó phần lớn các khoản vay tiêu dùng được đáp ứng dễ dàng và nhanh chóng hơn các khoản vay khác. Về đặc điểm So với các hoạt động tín dụng khác cho vay tiêu dùng có nét khác biệt cơ bản về đối tượng và mục đích cho vay. Tuy nhiên hoạt động này cũng có những đặc trưng riêng. Quy mô: quy mô của các món vay tiêu dùng thường nhỏ. Nguyên nhân các sản phẩm mà khách hàng có nhu cầu mua thường có giá trị không lớn như nhu cầu vốn để mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh của cho vay kinh doanh. Thường đối với những mặt hàng có giá trị như nhà cửa, xe cộ khách hàng có sự chuận bị nhất định về nguồn vốn, và ngân hàng chỉ là người có tác động hỗ trợ hoạt động của họ. So với cho vay kinh doanh tuy giá trị của các món vay tiêu dùng không lớn nhưng đây là nhu cầu vay vốn phổ biến, đa dạng, thường xuyên đối với mọi tầng lớp dân cư nên số lượng khách hàng tìm đến ngân hàng là rất đông cho nên tổng quy mô của cho vay tiêu dùng là rất lớn. Lãi suất cho vay: không giống như hoạt động cho vay kinh doanh mà lãi suất cho vay được điều chỉnh theo lãi suất thị trường, cho vay tiêu dùng thường có lãi suất rất cứng nhắc. Đối với cho vay trả góp lãi suất được ấn định ngay từ đầu cho đến hết thời hạn vay. Còn vay trung và dài hạn lãi suất được điều chỉnh mỗi năm một lần trên cơ sở lãi suất huy động cộng với một biên độ nhất định tuỳ theo từng ngân hàng. Tính rủi ro trong khi cho vay: trên thực tế những khoản vay tiêu dùng có mục đích vay đơn giản hơn dẫn đến quá trình cho vay cũng không phức tạp như hoạt động cho vay kinh doanh. Tuy nhiên hoạt động quản lý sau cho vay của cho vay tiêu dùng gặp nhiều khó khăn. Cán bộ tín dụng chỉ cần lơ là không theo sát một thời gian, khách hàng có thể vô tình hay cố ý không trả lãi, gốc đến hạn, dẫn đến tỷ lệ nợ quá hạn tăng lên. Hơn thế nữa tính pháp lý trong hợp đồng tín dụng chỉ quy định vợ hoặc chồng của khách hàng xin vay có quan hệ với ngân hàng. Trong trường hợp khách hàng không còn đủ năng lực dân sự thì khả năng thu hồi nợ đối với ngân hàng là rất khó. Do vậy có thể nói hoạt động cho vay tiêu dùng có tính rủi ro cao. Lợi nhuận thu được: Như đã đề cập ở trên, quy mô của các món vay tiêu dùng không lớn nhưng số lượng các món vay là không nhỏ nên tổng quy mô cho vay là rất lớn. Bên cạnh đó, do tính rủi ro cao nên khách hàng đến vay thường phải chịu một mức lãi suất không nhỏ. Ngoài ra trong trường hợp khách hàng không thanh toán nợ gốc nợ lãi đến hạn thì phải chịu mức lãi phạt rất lớn so với mức lãi suất trong hợp đồng. Hoạt động này tỏ ra khá hiệu quả vì lợi nhuận mà ngân hàng thu về là rất lớn. Chính vì lợi nhuận thu về là lớn mà nhiều ngân hàng trên thế giới đặc biệt là các nước phát triển tìm cách mở rộng dịch vụ này và dần biến cho vay tiêu dùng thành hoạt động thống lĩnh ngân hàng. Tài sản đảm bảo: giống như bất kỳ khoản vay khác, cho vay tiêu dùng cũng đòi hỏi khách hàng phải có một tài sản để đảm bảo cho khoản vay của mình. Tài sản đó có thể là một tài sản độc lập khác hoặc tài sản hình thành từ chính nguồn vốn vay của ngân hàng. Cho dù là tài sản nào đi nữa thì cũng đòi hỏi ngân hàng phải thẩm định kỹ càng trước khi cho vay để hạn chế tối thiểu rủi ro có thể xảy ra đối với khoản vay. Mặc dù có những nét khác biệt cơ bản so với các hoạt động tín dụng khác đặc biệt là cho vay kinh doanh, cho vay tiêu dùng vẫn tỏ ra có ưu thế. Tại những nước phát triển cho vay tiêu dùng là hoạt động tín dụng phổ biến đặc biệt là hình thức cho vay theo thẻ tín dụng, các khoản cho vay bất động sản của dân cư và các khoản cho vay tiêu dùng qua hệ thống điện tử. Tuy nhiên dịch vụ cho vay này có thể nói là dịch vụ rủi ro cao nhất với chi phí cũng cao nhất và lợi nhuận thu về là lớn nhất. Chính vì thế các khoản cho vay tiêu dùng phải được quản lý chặt chẽ linh hoạt trong suốt quá trình cho vay để tránh những rủi ro đáng tiếc cho ngân hàng. Các phương thức cho vay tiêu dùng Theo mục đích vay Căn cứ theo mục đích vay của khách hàng có thể chia hoạt động cho vay tiêu dùng như sau: Cho vay tiêu dùng cư trú: “Cho vay tiêu dùng cư trú là các khoản cho vay nhằm tài trợ cho nhu cầu mua sắm, xây dựng hoặc/và cải tạo nhà ở của khách hàng là cá nhân hoặc hộ gia đình” Trích giáo trình “tín dụng ngân hàng” trường Học viện Ngân hàng do TS Hồ Diệu làm chủ biên Cho vay tiêu dùng phi cư trú: “Cho vay tiêu dùng phi cư trú là các khoản cho vay tài trợ cho việc trang trải các chi phí mua sẵm xe cộ, đồ dùng gia đình, chi phí học hành, giải trí và du lịch…” Trích giáo trình “tín dụng ngân hàng” trường Học viện Ngân hàng do TS Hồ Diệu làm chủ biên Theo phương thức hoàn trả Căn cứ vào phương thức hoàn trả, cho vay tiêu dùng có thể chia làm ba loại như sau: Cho vay trả góp Đây là hình thức cho vay tiêu dùng phổ biến hiện nay. Xuất phát từ thực tế là nhu cầu và khả năng thanh toán của khách hàng không đến cùng một lúc, ngân hàng có thể thoả thuận để cho khách hàng chi trả một khoản tiền nhất định định kỳ hàng tháng sao cho phù hợp với khả năng thanh toán của khách hàng và quy định của ngân hàng. Có thể định nghĩa “cho vay tiêu dùng trả góp là hình thức cho vay tiêu dùng trong đó người đi vay trả nợ (gồm số tiền gốc và lãi) cho ngân hàng nhiều lần, theo những kỳ hạn nhất định trong thời hạn cho vay”. Trích giáo trình “tín dụng ngân hàng” trường Học viện Ngân hàng do TS Hồ Diệu làm chủ biên Phương thức này thường áp dụng cho các khoản vay lớn như cho vay mua nhà, mua ô tô v.v… Số tiền mà khách hàng phải thanh toán định kỳ có thể được tính theo những phương pháp dưới đây: Phương pháp gộp: đây là phương pháp dễ hiểu và tránh được tình trạng hiểu nhầm do tính toán sai giữa ngân hàng và khách hàng. Công thức tính toán như sau: V+L T = –––– n Với L = V x r x n Trong đó T = Số tiền phải thanh toán cho ngân hàng mỗi kỳ hạn L = Chi phí tài trợ, bao gồm lãi vay phải thanh toán và các chi phí khác có liên quan. Trong trường hợp này để đơn giản, giả sử chi phí tài trợ chỉ gồm có lãi vay. V = Vốn gốc n = Số kỳ hạn trả nợ r = Lãi suất tính cho mỗi kỳ hạn Với cách tính toán này lãi suất được tính cho người vay không phải lãi suất thực mỗi khi khách hàng đến thanh toán nợ. Do vậy ngân hàng phải tính toán kỹ khi đưa ra mức lãi suất hợp lý để đảm bảo cả ngân hàng và khách hàng đều có lợi. Phương pháp lãi đơn: Theo phương pháp này số tiền mà khách hàng phải trả cho ngân hàng mỗi định kỳ là không giống nhau. Cụ thể nó được tính toán như sau: Tn = ( T - Tn-1 ) x r Trong đó: Tn = Số tiền khách hàng phải trả trong kỳ thứ n Tn-1 = Số tiền khách hàng đã trả trong kỳ thứ (n-1) r = Lãi suất khách hàng phải trả Trên thực tế cách tính này tỏ ra có lợi hơn cho khách hàng. Với phương pháp này lãi suất được tính trên lãi suất thực tế ở mỗi chu kỳ tính lãi. Thông thường lãi suất của ngân hàng thay đổi theo lãi suất thị trường, nên phương pháp lãi đơn phản ánh chính xác giá cả các món vay của khách hàng. Cho vay trả một lần vào cuối kỳ Là các khoản vay ngắn hạn của cá nhân và hộ gia đình để đáp ứng nhu cầu tiền mặt tức thời. Với phương thức cho vay này, khách hàng phải thanh toán cho ngân hàng tiền gốc vào cuối kỳ và lãi trả đều hàng tháng. Phương thức này thường áp dụng cho các khoản vay nhỏ thời hạn ngắn, đặc biệt là khách hàng có khả năng thanh toán một lần đối với khoản vay. Cho vay trả một lần vào cuối kỳ lãi suất cũng được áp dụng cố định trong hợp đồng tín dụng trong suốt kỳ hạn cho vay. Cho vay tuần hoàn “Là khoản cho vay tín dụng trong đó ngân hàng cho phép khách hàng sử dụng thẻ tín dụng hoặc phát hành loại séc được phép thấu chi dựa trên tài khoản vãng lai”. Trích giáo trình “tín dụng ngân hàng” trường Học viện Ngân hàng do TS Hồ Diệu làm chủ biên Theo phương thức cho vay này ngân hàng thường căn cứ theo thu nhập và khả năng trả nợ của khách hàng để cho vay với một hạn mức tín dụng nhất định và trong một khoảng thời gian nhất định. Nếu chi vượt quá hạn mức đó, ngân hàng sẽ ngừng cung cấp dịch vụ cho khách hàng nhưng với điều kiện phải thông báo trước cho khách hàng để tránh tình trạng hiểu nhầm. Theo phương thức cho vay này lãi suất được tính theo các cách sau: Lãi suất được tính theo dư nợ thực tế của khách hàng trước khi có sự điều chỉnh. Theo phương thức này giả sử khách hàng có dư nợ thực tế trước khi trả một phần gốc cho ngân hàng là 1.000.000 đồng. Lãi suất được áp dụng đối với tài khoản của khách hàng là 2%. Khi đó số tiền lãi mà ngân hàng nhận được từ khách hàng là: 1.000.000 x 2% = 20.000 Lãi suất được tính theo dư nợ thực tế của khách hàng có tính đến sự điều chỉnh. Theo phương thức này, giả sử tiếp tục ví dụ trên trong tháng đó khách hàng có trả cho ngân hàng 500.000. Khi đó số tiền lãi mà khách hàng ch._.ỉ phải trả cho ngân hàng là: (1.000.000 - 500.000) x 2% = 10.000 Lãi suất được tính trên dư nợ bình quân của khách hàng. Trong ví dụ trên, dư nợ bình quân của khách hàng được tính trong 30 ngày là (1.000.000 + 500.000) / 30 = 500.000 Số tiền lãi khách hàng phải trả cho ngân hàng là 500.000 x 2% = 10.000 Phương pháp này tỏ ra khá ưu việt vì khách hàng có thể vay ngân hàng nhiều lần với số tiền khác nhau nhưng chỉ phải làm thủ tục vay một lần. Như vậy chi phí vay của khách hàng giảm đáng kể so với nhiều khoản vay khác. Tuy nhiên với phương thức này khách hàng không thể vay một số tiền lớn với thời hạn lâu được. Theo phương thức tài trợ Căn cứ theo phương thức tài trợ cho vay tiêu dùng được chia làm hai loại: Cho vay gián tiếp Có thể hiểu một cách đơn giản cho vay gián tiếp là hình thức tín dụng mà ngân hàng không trực tiếp gặp gỡ tiếp xúc với khách hàng để thoả thuận về hạn mức cũng như lãi suất cho vay. Ngân hàng cho khách hàng vay thông qua việc mua lại các khoản nợ phát sinh từ những công ty chuyên cung cấp những sản phẩm hoặc dịch vụ cho người tiêu dùng. Hoạt động này đã phát triển vì các phương pháp tiếp thị và các cách thức mà người tiêu dùng mua sắm các hàng hoá lâu bền đã khuyến khích sử dụng nó. Hầu hết người tiêu dùng mua sắm trước rồi sau đó mới dàn xếp nguồn tài trợ. Nắm bắt được nhu cầu đó, những người bán lẻ mà cụ thể là các công ty, đại lý chấp nhận bán chịu cho khách hàng với điều kiện khách hàng cam kết sẽ hoàn trả trong một khoảng thời gian nhất định. Tuy nhiên trên thực tế, nhiều đại lý không đủ năng lực tài chính để giữ tất cả các khoản nợ này và họ buộc phải tìm đến các tổ chức tín dụng để tìm nguồn tài trợ. Quá trình cho vay gián tiếp có thể được khái quát qua sơ đồ sau: (1) Công ty bán lẻ Ngân hàng (4) (5) (6) (2) (3) Người tiêu dùng Hình 1.1: Sơ đồ CVTD gián tiếp (1) : Ngân hàng và công ty bán lẻ ký kết hợp đồng mua bán nợ. Trong hợp đồng, ngân hàng thường đưa ra các điều kiện về đối tượng khách hàng được bán chịu, số tiền bán chịu tối đa và loại tài sản bán chịu… (2) : Công ty bán lẻ và người tiêu đùng ký kết hợp đồng mua bán chịu hàng hoá. Thông thường, người tiêu dùng phải trả trước một phần giá trị tài sản. (3) : Công ty bán lẻ giao tài sản cho người tiêu dùng. (4) : Công ty bán lẻ bán bộ chứng từ bán chịu hàng hoá cho ngân hàng. (5) : Ngân hàng thanh toán tiền cho công ty bán lẻ. (6) : Người tiêu dùng thanh toán tiền trả góp cho ngân hàng. Trích giáo trình “tín dụng ngân hàng” trường Học viện Ngân hàng do TS Hồ Diệu làm chủ biên Hoạt động cho vay gián tiếp tỏ ra hữu ích đối với không chỉ người tiêu dùng, các công ty bán lẻ mà cả đối với ngân hàng. Sự tài trợ này đem lại cơ hội để cung cấp tiền vay mà không có sự gia tăng đáng kể trong chi phí nghiệp vụ. Hơn thế nữa trong trường hợp ngân hàng có mối quan hệ tốt với công ty bán lẻ, cho vay gián tiếp lại tỏ ra an toàn hơn. Các công ty bán lẻ cũng chịu trách nhiệm giám sát khoản cho vay trong một thời gian nhất định, theo dõi các tài khoản không trả đúng hạn, việc bán các hàng hóa tái sở hữu v.v… Tất cả những việc này tiết kiệm cho ngân hàng lượng thời gian và chi phí không nhỏ. Bên cạnh những ưu điểm trên, việc tài trợ gián tiếp cũng có những hạn chế nhất định. Trước hết, ngân hàng gần như chỉ biết thông tin về khách hàng thông qua công ty bán lẻ do đó không có cơ sở để đánh giá khách hàng vay của mình. Các cơ hội lừa đảo, giả mạo có thể xảy ra gây tổn thất cho ngân hàng. Thứ hai, họ gặp phải tâm lý bất hợp tác của khách hàng khi họ biết mình là một khách vay của ngân hàng dù chỉ là gián tiếp. Nói chung những người mua hàng trả góp thường có cảm giác món nợ có thể được xoá bỏ bằng việc trả lại hàng, nếu hàng hoá không thoả mãn họ, hoặc họ không có khả năng chi trả. Việc này cản trở ngân hàng rất nhiều trong trường hợp thu hồi nợ. Điều này cũng giải thích tại sao nhiều ngân hàng không tham gia vào hình thức tài trợ này, hoặc nếu có tham gia thì cũng hạn chế và kiểm tra, giám sát chặt chẽ đối với tất cả các khoản vay. Cho vay trực tiếp Khác với cho vay gián tiếp cho vay trực tiếp phức tạp hơn. Ngân hàng trực tiếp gặp gỡ tiếp xúc cho vay và thu hồi nợ từ phía khách hàng. Hoạt động này đòi hỏi ngân hàng tiến hành cẩn trọng kỹ lưỡng trước khi đưa ra quyết định. Kể cả hoạt động giám sát sau khi vay cũng đòi hỏi ngân hàng tiến hành đầy đủ để hạn chế mức thấp nhất rủi ro tín dụng có thể xảy ra. Quá trình cho vay trực tiếp được thực hiện theo sơ đồ sau: (1) : Ngân hàng và người tiêu dùng ký kết hợp đồng vay. (2) : Người tiêu dùng trả trước một phần tiền mua tài sản cho công ty bán lẻ. (3) : Ngân hàng thanh toán số tiền mua tài sản còn thiếu cho công ty bán lẻ. (4) : Công ty bán lẻ giao tài sản cho người tiêu dùng. (5) : Người tiêu dùng thanh toán tiền vay cho ngân hàng. Ngân hàng Công ty bán lẻ (3) Người tiêu dùng (1) (5) (2) (4) Hình 1.2: Sơ đồ CVTD trực tiếp So với cho vay gián tiếp cho vay trực tiếp đã hạn chế được nhược điểm duy nhất là khách hàng và ngân hàng không có cơ hội tiếp xúc trực tiếp với nhau. Ngân hàng có thể tận dụng được sở trường của nhân viên tín dụng. Họ là những người được đào tạo có chuyên môn nghiệp vụ nên những quyết định tài chính của họ có cơ sở hơn những công ty bán lẻ. Hơn nữa trong quá trình tiếp xúc với khách hàng, điều mà cán bộ tín dụng quan tâm là chất lượng các khoản vay. Còn đối với các công ty bán lẻ họ chỉ quan tâm làm sao bán được nhiều sản phẩm, lợi nhuận thu về nhanh nhất và nhiều nhất. Hơn thế nữa khi mối quan hệ giữa khách hàng và ngân hàng tốt ngân hàng có cơ hội để gia tăng lượng khách hàng tiềm năng của mình còn khách hàng cũng gặp những thuận lợi nhất định cho những khoản vay về sau. Vai trò của cho vay tiêu dùng Cũng giống như hoạt động cho vay kinh doanh, cho vay tiêu dùng cũng tiềm ẩn những rủi ro nhất định không thể tránh khỏi. Tuy nhiên, hoạt động tín dụng này có vai trò không nhỏ đối với cá nhân người tiêu dùng, ngân hàng thương mại và cả đối với nền kinh tế. Đối với người tiêu dùng Có thể nói trong hoạt động cho vay tiêu dùng cá nhân và hộ gia đình là người được lợi trực tiếp từ hoạt động. Người tiêu dùng có thể được sử dụng những dịch vụ sản phẩm như mong muốn của họ. Trên thực tế có những nhu cầu mà ngay lập tức người ta không thể có một khoản tiền lớn để đáp ứng. Nếu lao động và làm việc chăm chỉ thì đến khi về già họ mới có thể sử dụng dịch vụ hoặc sản phẩm đó. Lúc này thì độ thoả dụng của sản phẩm đã giảm đi rất nhiều. Ngân hàng với hoạt động này đã giúp người tiêu dùng kết hợp được cả nhu cầu hiện tại và khả năng thanh toán trong tương lai. Người tiêu dùng đã dần hình thành thói quen tìm đến ngân hàng để đáp ứng yêu cầu tiền tệ khi cần thiết, không chỉ để thanh toán, gửi tiết kiệm mà còn để thoả mãn nhu cầu tiêu dùng của mình. Có thể nói các cá nhân và hộ gia đình là những người được hưởng lợi nhiều nhất những giá trị có được từ hoạt động cho vay tiêu dùng. Đối với ngân hàng thương mại Ngân hàng thương mại là một trung gian tài chính, trước khi có thể cho doanh nghiệp hay cá nhân, hộ gia đình vay tiền, ngân hàng cũng phải huy động vốn của dân cư và các tổ chức kinh tế, xã hội. So với hoạt động huy động vốn, hoạt động cho vay của ngân hàng đòi hỏi ngân hàng phải cố gắng và nỗ lực rất nhiều để đảm bảo hoạt động cho vay diễn ra nhanh nhất, an toàn và hiệu quả nhất, đặc biệt bù đắp khoản chi phí huy động vốn và tạo sự chênh lệch thu chi cho ngân hàng. Vì thế không có lý do nào khiến ngân hàng từ chối khách hàng có nhu cầu đến vay nhằm phục vụ cho mục đích tiêu dùng. Đây là một thị trường hiện hữu sinh lời chứ không chỉ ở dạng tiềm năng nên sẽ là sai lầm nếu ngân hàng bỏ qua thị trường này. Hơn thế nữa với cho vay tiêu dùng, ngân hàng thu về khoản lợi nhuận là không nhỏ. Trên thực tế, tín dụng tiêu dùng có lãi suất cao và cứng nhắc hơn so với cho vay kinh doanh. Mặt khác về nguyên tắc khách hàng phải trả lãi suất rất lớn trong trường hợp không trả nợ gốc lãi đúng hạn. Vì thế mặc dù rủi ro cao nhưng số lượng các món vay lớn nên thu nhập từ hoạt động tạo ra một nguồn thu không thường xuyên, không nhỏ và có thể bù đắp chi phí hoạt động cho ngân hàng. Hơn thế nữa, với cho vay tiêu dùng, ngân hàng thương mại có thể đa dạng hoá danh mục đầu tư của mình. Trong kinh doanh người ta có nguyên tắc “không bỏ trứng vào cùng một giỏ”. Việc mở rộng hoạt động này giúp cho ngân hàng nâng cao thu nhập đồng thời phân tán rủi ro có thể gặp phải trong hoạt động tín dụng. Trong xu thế hội nhập ngày nay, các ngân hàng không ngừng cạnh tranh nhau về giá cả, chất lượng dịch vụ và cả sự phong phú của sản phẩm cung ứng. Vì thế cho vay tiêu dùng đã được nhiều ngân hàng chú trọng và mở rộng phát triển. Đối với nền kinh tế xã hội Mặc dù không tạo ra những tác động trực tiếp cho nền kinh tế như cho vay sản xuất kinh doanh, cho vay tiêu dùng cũng có những ảnh hưởng không nhỏ có tác động tích cực đến hoạt động kinh tế xã hội. Trước hết với người tiêu dùng, họ có thể thoả mãn những nhu cầu chi tiêu hiện tại với khả năng thanh toán trong tương lai. Điều này khiến cho chất lượng đời sống dân cư được cải thiện đáng kể. Với các ngân hàng thương mại, chức năng trung gian tài chính lại được củng cố hơn thông qua hoạt động cho vay tiêu dùng. Đối với các ngành kinh tế, việc ngân hàng mở rộng hoạt động cho vay tiêu dùng đồng nghĩa với việc kích cầu, tăng sức mua tạo nên sự sôi động cho thị trường và tạo sự thịnh vượng cho cả nền kinh tế. Hoạt động cho vay tiêu dùng có ý nghĩa không nhỏ trong nền kinh tế, có tác động tới tất cả các chủ thể đặc biệt là người tiêu dùng, các hãng sản xuất kinh doanh và ngân hàng thương mại. Đối với nhiều quốc gia đặc biệt là các nước phát triển hoạt động này đã đi vào cuộc sống của người dân như một phần tất yếu và ngày càng được chú trọng đầu tư và phát triển. Các nhân tố ảnh hưởng tới việc phát triển hoạt động cho vay tiêu dùng của ngân hàng thương mại Các nhân tố chủ quan Việc phát triển hoạt động cho vay tiêu dùng của ngân hàng thương mại trước hết phụ thuộc vào những yếu tố thuộc về bản thân ngân hàng. Chính sách của ngân hàng Không chỉ có hoạt động cho đố với doanh nghiệp vừa và nhỏ mà bất kỳ hoạt động nào của ngân hàng cũng chịu sự chi phối trực tiếp từ những văn bản pháp quy, hay những thông báo, quy định của chính ngân hàng đó. Những quyết định này do các cơ quan lãnh đạo cấp trên ký và nếu thông thoáng cởi mở thì sẽ có tác dụng khuyến khích rất nhiều đối với hoạt động, và ngược lại nó sẽ hạn chế hoạt động cho vay đối vớ cỏc doanh nghiệp vừa và nhỏ nếu quy định quá khắt khe về quy trình quy chế cho vay. Chế độ thưởng phạt phân minh đối với cán bộ tín dụng cũng có tác động rất nhiều đến hoạt động cho vay đối với cỏc doanh nghiệp vừa và nhỏ nói riêng và hoạt động tín dụng nói chung. Trước hết, chế độ này tác động đến phong cách làm việc của cán bộ ngân hàng, ngoài ra bằng những văn bản quy định thưởng phạt rõ ràng đối với những nhân viên làm tốt cũng như những nhân viên mắc sai lầm trong công việc sẽ động viên rất nhiều cho việc phát huy hết năng lực của cán bộ tín dụng. Địa điểm của nơi đặt trụ sở ngân hàng: Đây là yếu tố rất nhỏ nhưng cũng có ảnh hưởng đến tình hình hoạt động cho vay tiêu dùng của ngân hàng. Trong thời buổi cạnh tranh khốc liệt, khách hàng đặc biệt quan tâm đến vấn đề tiện lợi trong quá trình sử dụng dịch vụ. Vì thế nếu trụ sở ngân hàng đặt ở những nơi trung tâm, đông dân cư sẽ là một lợi thế rất lớn đối với ngân hàng. Khách hàng sẽ chú ý đến họ trước những ngân hàng khác có cùng dịch vụ cung cấp. Hệ thống công nghệ của ngân hàng: Hiện nay các ngân hàng thường cạnh tranh nhau về chất lượng dịch vụ cung cấp. Trên thực tế, chất lượng của dịch vụ phụ thuộc không hoàn toàn nhưng cũng rất lớn vào hệ thống công nghệ mà ngân hàng sử dụng. Nếu một ngân hàng có hệ thống công nghệ hoàn hảo, phát triển, hiện đại thì sẽ tiết kiệm rất nhiều công sức của cán bộ tín dụng nói riêng, cán bộ ngân hàng nói chung, từ đó tạo điều kiện cho họ tập trung vào việc phát triển và mở rộng thị trường. Đặc biệt hoạt động tín dụng càng đòi hỏi sự phát triển của công nghệ, để tránh sự nhầm lẫn sai sót trong suốt quá trình khách hàng có quan hệ với ngân hàng. Khả năng quản lý của đội ngũ lãnh đạo ngân hàng cũng là một nhân tố cần nhắc tới khi xét sự ảnh hưởng đến hoạt động cho vay tiêu dùng. Thông thường nếu các cấp lãnh đạo của một ngân hàng quan tâm và chú ý nhiều đến hoạt động tín dụng tiêu dùng, thì hoạt động sẽ có nhiều điều kiện thuận lợi để mở rộng phát triển. Hơn thế nữa nếu đội ngũ lãnh đạo tỏ ra có năng lực hết lòng với công việc sẽ được nhân viên cấp dưới nể trọng, làm việc chăm chỉ và phát huy hết khả năng của mình. Định hướng chiến lược phát triển của ngân hàng: Nếu ngân hàng không có một định hướng toàn thể về phát triển cho vay đối vúi cỏc doanh nghiệp vừa và nhỏ thì có nghĩa không có một động lực chính nào để cán bộ tín dụng ngân hàng tập trung năng lực và tâm huyết cho hoạt động này. Kỹ thuật và thủ tục khi tiến hành cho vay: Nhân tố này có tác động trực tiếp đến hoạt động cho vay tiêu dùng. Nếu thủ tục cho vay quá rắc rối rườm rà dễ khiến cho khách hàng thấy bận tâm và nản lòng vay. Tuy nhiên, nếu quá sơ sài trong quá trình kiểm tra cho vay, thủ tục cho vay sẽ dẫn đến những rủi ro đáng tiếc có thể xảy ra với bất kỳ một tổ chức tài chính nào. Do đó với một ngân hàng thương mại vấn đề đặt ra là phải xây dựng được một quy trình, quy chế cho vay sao cho khách hàng cảm thấy thoải mái trong quá trình sử dụng dịch vụ, ngân hàng không phải bỏ lỡ cơ hội kinh doanh của mình đồng thời cũng không gặp phải những rủi ro đáng tiếc. Chất lượng hoạt động của cán bộ tín dụng Khả năng thẩm định ban đầu đối với khách hàng: đây là yếu tố quan trọng ban đầu trong quá trình cho vay của ngân hàng. Thông thường với mỗi cán bộ tín dụng, lần đầu tiên tiếp xúc với khách hàng họ sẽ có cảm nhận đánh giá ban đầu. Với những người có kinh nghiệm họ sẽ thấy được là khách hàng có đáng tin cậy không, có thể cho vay được không. Tất nhiên đó chỉ là những cảm nhận ban đầu nhưng nó thuộc về tố chất làm tín dụng của cán bộ. Và nếu cán bộ tín dụng có được điều đấy thì hoạt động cho vay diễn ra nhanh chóng an toàn và hiệu quả hơn rất nhiều. Thái độ phục vụ khách hàng: Người cán bộ tín dụng là người đại diện cho ngân hàng khi khách hàng lần đầu tiên đến với ngân hàng với nhu cầu tín dụng. Vì thế ấn tượng của khách hàng về ngân hàng phụ thuộc rất lớn bởi thái độ niềm nở, chân tình của người cán bộ tín dụng. Hơn thế nữa trong quá trình cho vay, cán bộ tín dụng tỏ ra nhiệt tình thật lòng phục vụ sẽ chiếm được cảm tình của khách hàng. Đây cũng là một lợi thế cạnh tranh so với các ngân hàng khác cùng lĩnh vực. Có thể nói sự thành công của mỗi hợp đồng tín dụng có vai trò không nhỏ của chính những người cán bộ tín dụng với thái độ phục vụ hết sức nhiệt tình. Đạo đức nghề nghiệp của cán bộ tín dụng: Với bất cứ ngành nghề nào cũng có một quy chuẩn đạo đức nhất định. Với hoạt động tín dụng đạo đức nghề nghiệp được đặt lên hàng đầu. Một người cán bộ tín dụng trước khi có trình độ, kinh nghiệm trong công việc anh ta phải là người trung thực từ đó mới đưa ra những quyết định đúng đắn có lợi cho ngân hàng và thuận tiện cho khách hàng. Khả năng tiếp thị và mở rộng trường: Không phải bất cứ một cán bộ tín dụng nào cũng có khả năng này. Tuy nhiên nếu không có nó hoạt động cho vay tiêu dùng của ngân hàng khó có thể phát triển như mong đợi. Sự đam mê cũng như tinh thần trách nhiệm trong công việc của cán bộ tín dụng cũng có ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động cho vay tiêu dùng. Thông thường khi người ta có hứng thú trong công việc thì người ta mới có thể làm tốt như những gì mình mong muốn. Với ngân hàng thương mại điều quan trọng là các cấp lãnh đạo tạo nên một môi trường làm việc phong phú tạo sự đam mê hứng khởi cho cán bộ tín dụng như thế công việc mới diễn ra an toàn và hiệu quả. Các nhân tố khách quan Bên cạnh những nhân tố chủ quan thuộc về bản thân ngân hàng, hoạt động cho vay tiêu dùng còn chịu ảnh hưởng của các nhân tố khách quan như sau Nhân tố vĩ mô Môi trường kinh tế, xã hội là những nhân tố hàng đầu khi nhắc đến ảnh hưởng tới hoạt động cho vay đối vớ cỏc doanh nghiệp vừa và nhỏ .Trong một nền kinh tế phát triển, xã hội ổn định, an toàn, nhu cầu nâng cao chất lượng đời sống dân cư cũng được tăng lên. Khi thu nhập của các tầng lớp dân cư trong xã hội đã được cải thiện, các nhu cầu về chi tiêu hay sử dụng các sản phẩm dịch vụ chất lượng cao cũng hình thành. Bên cạnh đó, nền kinh tế ổn định cũng có tác dụng khuyến khích các thành phần trong xã hội tích cực đầu tư, tiêu dùng hạn chế tiết kiệm từ đó thúc đẩy hoạt động cho vay tiêu dùng. Môi trường văn hoá cũng có ảnh hưởng đến hoạt động cho vay tiêu dùng của ngân hàng. Quyết định tiêu dùng trong dân cư bị chi phối rất nhiều bởi thói quen, trình độ văn hoá, bản sắc của dân tộc. Mỗi xã hội có những nét đặc thù về văn hoá riêng biệt, nó cũng có ảnh hưởng không nhỏ đến việc tiêu dùng của các tầng lớp dân cư. Môi trường pháp lý có tác động đến tính quy chuẩn, trật tự giúp cho hoạt động cho vay tiêu đối với cỏc doanh nghiệp vừa và nhỏ diễn ra thông suốt và an toàn. Tại nhiều nước trên thế giới luật tín dụng ra đời và có tác dụng điều chỉnh quyền lợi và nghĩa vụ các bên tham gia hoạt động tín dụng, đảm bảo sự phát triển bền vững của hoạt động đồng thời tránh những rắc rối tổn thất đáng tiếc có thể xảy ra. Môi trường pháp lý ổn định sẽ tạo điều kiện rất lớn cho sự phát triển của hoạt động cho vay đối với cỏc doanh nghiệp vừa và nhỏ Nhân tố vi mô Ngoài những nhân tố mang tính vĩ mô, hoạt động cho vay tiêu dùng còn bị chi phối ảnh hưởng của những nhân tố vi mô phi ngân hàng. Nhu cầu, văn hoa kinh doanh và đạo đức của cỏc doanh nghiệp là nhân tố ảnh hưởng rất lớn tới hoạt động tín dụng nói chung và cho vay đối với cỏc doanh nghiệp vừa và nhỏ nói riêng, văn hoỏ kinh doanh của doanh nghiệp là một yếu tố ảnh hưởng không nhỏ đến sự thành công của các quan hệ tín dụng. Trước hết nhu cầu của doanh nghiệp sẽ là động lực để khách hàng tìm đến ngân hàng. Hoạt động tín dụng của ngân hàng sẽ phát triển rất tốt nếu ngân hàng đó đáp ứng tốt nhất nhu cầu của khách hàng. Nhu cầu của khách hàng chính là cầu của hoạt động cho vay. Cầu tăng ắt đòi hỏi phải có cung. Khi cung và cầu là phù hợp thì thị trường đạt điểm hoà vốn. Với ngân hàng thì đó là khi mà ngân hàng phát huy tối đa nguồn vốn huy động của mình. Bên cạnh đó niếm tin của doanh nghiệp đối với ngõn hàng là yếu tố rất quan trọng mang tới sự thành cụng cong của ngan hang . bổ sung Khi khách hàng có thói quen sử dụng dịch vụ ở một ngân hàng thì đó sẽ là lợi thế cạnh tranh rất lớn của ngân hàng đó với những đối thủ khác. Đạo đức của người đi vay được đánh giá trên năng lực pháp lý và độ tín nhiệm. Năng lực pháp lý được thể hiện qua việc khách hàng không vi phạm các quy định pháp luật trong, trước và sau quá trình xin vay. Ngoài những yếu tố về thu nhập tài sản đảm bảo, sự sẵn lòng trả nợ của khách hàng là nhân tố để đánh giá mức độ tín nhiệm của ngân hàng đối với khách hàng đó. Hoạt động cho vay tiêu dùng sẽ diễn ra suôn sẻ nếu tất cả những khách hàng đều đáp ứng những yêu cầu tối thiểu mà ngân hàng đề ra đồng thời thực hiện tốt nghĩa vụ trả nợ của mình. Năng lực tài chính của khách hàng cũng là một vấn đề cần nhắc tới trong hoạt động cho vay tiêu dùng. Một khách hàng đáp ứng đầy đủ yêu cầu của ngân hàng thì trước hết phải có năng lực tài chính lành mạnh và đủ lớn để thực hiện nghĩa vụ trả nợ đối với ngân hàng. Đối với mỗi cán bộ tín dụng vấn đề quan tâm đầu tiên về khách hàng của mình chính là khả năng trả nợ. Nếu nguồn trả nợ đủ mạnh có thể đáp ứng yêu cầu của ngân hàng nhưng không lành mạnh và ổn định thì cũng phải xem xét kỹ lưỡng. Ngoài các nhân tố về khách hàng khả năng của các đối thủ cạnh tranh trong cùng ngành cũng có ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động cho vay tiêu dùng. Mỗi ngân hàng trong quá trình phát triển phải xác định được chỗ đứng của mình trong giới ngành để có những chiến lược phát triển đúng đắn. Những nhân tố khách quan và chủ quan như trên có ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động tín dụng nói chung và cho vay tiêu dùng nói riêng. Để có chiến lược phát triển đúng đắn mỗi ngân hàng phải tự mình xem xét và đánh giá những điểm yếu và thế mạnh riêng của mình, từ đó đưa ra những kế hoạch phát triển cụ thể trong từng thời kỳ. Chúng ta cùng xem xét thực trạng phát triển hoạt động cho vay tiêu dùng tại ngân hàng thương mại cổ phần các doanh nghiệp ngoài quốc doanh - VPbank trong chương tiếp theo. Chương 2 Chương 2 Thực trạng hoạt động cho vay tiêu dùng tại Ngân hàng thương mại cổ phần các doanh nghiệp ngoài quốc doanh - Vpbank 2.1. Khái quát về ngân hàng thương mại cổ phần các doanh nghiệp ngoài quốc doanh - Vpbank: 2.1.1. Sơ lược quá trình hình thành và phát triển của ngân hàng: “Ngân hàng thương mại cổ phần các doanh nghiệp ngoài quốc doanh Việt Nam (tên giao dịch là VPbank) là một pháp nhân được thành lập trên cơ sở tự nguyện của các cổ đông sáng lập theo Pháp lệnh Ngân hàng, Hợp tác xã tín dụng, và Công ty tài chính số 38/LTC - HĐNN ngày 24/05/1990 của Chủ tịch nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và được Thống đốc Ngân Hàng Nhà Nước Việt Nam cấp giấy phép hoạt động số 0042/NH-GP ngày 12/08/1993. Ngân hàng bắt đầu chính thức đi vào hoạt động từ ngày 04 tháng 09 năm 1993 theo giấy phép thành lập số 1525/QĐ-UB ngày 04 tháng 09 năm 2003.”trích “VPbank – Sự hình thành và phát triển” trên trang Web”www.vpb.com.vn” Khi mới thành lập VPbank chỉ có số vốn điều lệ ít ỏi là 20 tỉ VN đồng, với 16 cổ đông sáng lập là các pháp nhân, thể nhân Việt Nam. “Sau đó do nhu cầu phát triển, VPbank đã tiếp tục nâng vốn điều lệ lên 70 tỉ VN đồng theo quyết định số 193QĐ-NH5 ngày 12/09/1994 và tiếp tục tăng lên 174.9 tỉ VN đồng theo quyết định số 53/QĐ-NH5 vào ngày 18/03/1996 của NHNN thuộc sở hữu của 102 cổ đông pháp nhân và thể nhân thuộc các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh, trong đó có một cổ đông nước ngoài là DRAGON CAPITAL nắm giữ 10% vốn điều lệ.” trích “VPbank – Sự hình thành và phát triển” trên trang Web”www.vpb.com.vn” “Trong suốt quá trình hoạt động, VPbank không ngừng mở rộng quy mô huy động vốn và mạng lưới các chi nhánh của mình tại các thành phố lớn. Cuối năm 1993, Thống đốc NHNN ký giấy phép số 0018-GCT ngày 16/12/1993 chấp thuận cho VPbank mở chi nhánh tại thành phố Hồ Chí Minh. Ngày 19/11/1994 VPbank được phép mở thêm chi nhánh ở Hải Phòng theo giấy phép số 0020/GCT và ngày 20/07/1995, được mở thêm chi nhánh tại Đà Nẵng theo giấy phép số 0026/GCT. Cho đến nay VPbank có Hội sở chính tại Hà Nội, 3 chi nhánh cấp I tại thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Đà Nẵng, 4 phòng Gao dịch và 1 chi nhánh cấp II trực thuộc Hội sở Hà Nội, 3 chi nhánh cấp II và 1 phòng Giao dịch trực thuộc chi nhánh thành phố Hồ Chí Minh, 1 phòng Giao dịch thuộc chi nhánh Hải Phòng, 1 phòng Giao dịch thuộc chi nhánh Đà Nẵng. Năm 2005 Vpbank dự kiến sẽ mở thêm nhiều chi nhánh, các phòng Giao dịch ở các thành phố lớn đặc biệt là các thành phố trọng điểm của cả nước.” trích “VPbank – Sự hình thành và phát triển” trên trang Web”www.vpb.com.vn” VPbank hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng trên cơ sở thực hiện các nghiệp vụ chủ yếu sau: Huy động vốn ngắn hạn, trung và dài hạn của các tổ chức cá nhân; Huy động gửi góp; Tiếp nhận vốn uỷ thác đầu tư và phát triển các tổ chức trong nước; Vay vốn Ngân hàng Nhà nước và các tổ chức tín dụng khác; Cho vay ngắn hạn, trung hạn và dài hạn đối với các tổ chức, cá nhân; Chiết khấu thương phiếu, trái phiếu và giấy tờ có giá; Hùn vốn, liên doanh và mua cổ phần theo pháp luật hiện hành; Làm dịch vụ thanh toán giữa các khách hàng; Thực hiện kinh doanh ngoại tệ, thanh toán quốc tế, huy động các nguồn vốn từ nước ngoài và làm dịch vụ thanh toán quốc tế khác; Thực hiện các dịch vụ chuyển tiền trong nước và quốc tế dưới nhiều hình thức, đặc biệt chuyển tiền nhanh Western Union. Để có thể thực hiện tốt các nghiệp vụ như trên VPbank đã thu nhận một đội ngũ đông đảo cán bộ công nhân viên với chính sách đãi ngộ hết sức ưu đãi. Tại thời điểm ban đầu thành lập 12/08/1993 VPbank chỉ hoạt động có 18 người, thì tính đến thời điểm 01/2005 số nhân viên đã tăng lên đến gần 400 người với độ tuổi trung bình là 36,5. Trong đó phần lớn là cán bộ nhân viên có trình độ đại học và trên đại học (71%). Với đội ngũ cán bộ trẻ, nămg động, nhiệt tình và có học thức nguồn lực con người của VPbank được đánh giá là có rất nhiều triển vọng cho sự phát triển ngân hàng. “61 là số ngân hàng đại lý của VPbank tại 31 quốc gia trên thế giới trong đó có các ngân hàng danh tiếng như: ABN AMRO Bank NewYork (Mỹ), Standard Chartered Bank NewYork (Mỹ), The Bank of NewYork (Mỹ), Citi Bank of N.A NewYork (Mỹ), The Bank of Tokyo-Mitsubishi Ltd (Nhật), Bank Gesellschaf Berlin AG(Đức)…” trích “VPbank – những con số” trong quyển “Cẩm nang giao dịch VPbank” Với hơn 11 năm lịch sử VPbank đã trải qua nhiều thăng trầm. Lịch sử phát triển của ngân hàng có thể chia ra làm các giai đoạn chủ yếu như sau: Giai đoạn 1992-1995: Ngay từ khi mới thành lập VPbank đã không ngừng gặt hái được nhiều thành công. Ba năm đầu là những năm huy hoàng nhất của VPbank khi mà doanh số không ngừng tăng nhanh. Chỉ trong vòng 4 tháng đầu tiên con số lãi mà VPbank thu được là 101 triệu đồng. Tính đến cuối năm 1994 số lãi đó là 10 tỷ đồng đặc biệt đến năm 1995 VPbank đã nhân con số đó lên gần 3 lần: 29,6 tỷ đồng. Mức lãi kỷ lục đạt được là vào năm 1996 với con số 75,9 tỷ đồng. VPbank trở thành một ngân hàng thương mại cổ phần lớn nhất miền Bắc nước ta. Vào thời kỳ này, thu nhập của cán bộ công nhân viên cũng như những chính sách đãi ngộ hết sức được ban giám đốc chú ý. Vào cuối năm cán bộ của VPbank được thưởng lương kinh doanh gần bằng 5 đến 6 tháng lương, bên cạnh đó là chế độ phúc lợi như đi thăm quan, du lịch được áp dụng một cách rộng rãi trong cán bộ nhân viên VPbank. Đây là thời kỳ phát triển rực rỡ nhất của ngân hàng thương mại các doanh nghiệp ngoài quốc doanh này. Giai đoạn 1996-2000: Đây là thời kỳ mà VPbank gặp rất nhiều khó khăn về kinh tế và phải đối mặt với nguy cơ phá sản. Quá vui mừng phấn khích trước những kết quả đạt được trong những năm đầu VPbank đã chủ quan và liên tục mắc những sai lầm. Đặc biệt với suy nghĩ của Ban Giám đốc VPbank khi họ nghĩ rằng ngân hàng được thành lập với mục đích phục vụ cho bản thân các cổ đông, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp ngoài quốc doanh dễ dàng tìm kiếm nguồn vốn kinh doanh. Tất nhiên đấy là điều được lưu ý hàng đầu trong hoạt động cho vay của ngân hàng. Tuy nhiên trên thực tế với tâm lý “cả nể, người nhà” VPbank nhanh chóng gặp phải những khó khăn không thể lường trước được. Những cổ đông của ngân hàng có thể dễ dàng tìm nguồn vốn nơi ngân hàng, ngay cả khi mà dự án đầu tư không có tính khả thi. Hơn thế nữa khi đã vay được vốn do thiếu tính cẩn trọng trong vấn đề thẩm định, dự án không “chạy” hoặc không sinh lãi. Từ đó nảy sinh hiện tượng “chây ì” trong việc trả lãi, gốc cho ngân hàng. VPbank rơi vào thời kỳ phát triển “bong bóng”. Năm 1996 mặc dù mức lãi đạt mức kỷ lục song chỉ là con số trên giấy tờ, còn tiền thật thì đã cho vay và không có khả năng thu hồi. Chính vì thế đầu năm 1997 tình hình tài chính của VPbank đã bộc lộ rõ rệt. VPbank đứng trên bờ vực phá sản khi mà tỷ lệ nợ quá hạn lên tới 71% so với tổng số nợ, nợ L/C lên tới 40 triệu USD, trong khi năng lực tài chính của ngân hàng không có khả năng chi trả. Trước tình hình nguy kịch này ngày 08/03/1997, Đại hội Cổ đông bất thường được tổ chức nhằm củng cố lại bộ máy HĐQT, Ban Giám đốc v.v.. Bên cạnh đó là sự can thiệp của NHNN. Đến cuối năm 1997 tình hình của ngân hàng đã được cải thiện. Khả năng thanh toán mặc dù còn rất thấp nhưng đã nâng dần lên đạt mức trên dưới 30%. Từ sau năm 1997 đến năm 2000 ngân hoạt động dưới sự giám sát chặt chẽ của NHNN. Nhất cử nhất động của VPBank đều phải thông qua sự nhất trí của NHNN. Do đó ngân hàng đã dần dần từng bước lấy được vị trí của mình trong lòng các khách hàng cũ cũng như những khách hàng tiềm năng. Tuy vậy VPbank không thể không đối mặt với những khó khăn của thời kỳ hậu khủng hoảng kinh tế của bản thân mình. Giai đoạn từ sau 2000 đến nay: Đây là thời kỳ mà VPbank cẩn trọng bước đi từng bước tuy chậm nhưng mà chắc để lấy lại vị thế của mình trong giới ngân hàng. Hoạt động của VPbank đã được mở rộng cả về số lượng lẫn quy mô. Các chi nhánh của VPbank xuất hiện ngày càng nhiều ỏ các tỉnh thành phố lớn. VPbank từng bước nâng cao chất lượng phục vụ của mình từ chất lượng dịch vụ đến đội ngũ nhân viên trẻ trung, năng động, nhiệt tình và tâm huyết với công việc. Ngày càng nhiều người biết đến VPbank - “ngân hàng của mọi nhà”. Đặc biệt trong năm 2004 vừa qua, một cán bộ của ngân hàng đã xuất sắc đề xuất ý tưởng huy động tiển gửi “tiết kiệm đồng Việt Nam được bù đắp trượt giá Đô la Mỹ”. Đây là một ý tưởng khá sáng tạo mà không thể phủ nhận là nhờ đó mà VPbank đã tăng lượng khách hàng cũ, khách hàng tiềm năng của mình lên rất nhiều lần. Hoạt động của ngân hàng ngày càng được mở rộng, uy tín của ngân hàng ngày càng được nâng cao, VPbank dần dần từng bước trở thành ngân hàng thương mại cổ phần hàng đầu Việt Nam. Với hơn 11 năm phát triển của mình, VPbank đã gặt hái được những thành công đáng kể. Và trong những năm kế tiếp, VPbank sẽ nỗ lực hơn nữa, tiếp tục duy trì đường lối cải tổ đã đề ra, phát triển hoạt động kinh doanh từng bước xây dựng VPbank thành một trong những ngân hàng hàng đầu trong giới ngân hàng Việt Nam. 2.1.2. Cơ cấu tổ chức, nhân sự: 2.1.2.1. Cơ cấu tổ chức: Cơ cấu tổ chức của VPbank có thể được khái quát qua sơ đồ dưới đây. Chức năng nhiệm vụ của các phòng ban này đều được quy định rõ ràng cụ thể và căn cứ theo các văn bản như: Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và Luật các Tổ chức Tín dụng; Giấy phép hoạt động Ngân hàng thương mại số 0042/NG-GP ngày 12/08/1993 của Thống đốc NHNN Việt Nam; Điều lệ Ngân hàng TMCP các doanh nghiệp ngoài quốc doanh Việt Nam; Quy chế hoạt động cuả HĐQT VPbank ban hành kèm theo Quyết định số 165/QĐ-HĐQT ngày 11/08/2000 của HĐQT VPbank; Căn cứ biên bản họp HĐQT VPbank ngày 19/04/2002; Xét đề nghị của Tổng Giám đốc VPbank Sơ đồ 2.1: Cơ cấu tổ chức ngân hàng thương mại cổ phần các doanh nghiệp ngoài quốc._., thì toàn bộ số dư nợ của hợp đồng tín dụng đó sẽ bị chuyển sang nợ quá hạn và xử lý như sau: Nợ lãi chịu lãi suất phạt chậm trả theo quy định của ngân hàng Nợ gốc còn trong hạn áp dụng mức lãi suất cho vay trong hạn Sau khi chuyển nợ quá hạn, nếu đến kỳ hạn trả nợ gốc mà khách hàng không trả được thì số dư nợ gốc của các kỳ hạn đã đến hạn đó sẽ bị tính lãi suất nợ quá hạn. Theo như quy định mới của VPbank vấn đề chuyển nợ quá hạn được quy định như sau: Khi đến hạn trả nợ gốc mà khách hàng không trả nợ đúng hạn và không được VPbank chấp thuận cho cơ cấu lại thời hạn trả nợ, thì toàn bộ số dư nợ gốc của hợp đồng tín dụng đó là nợ quá hạn và VPbank sẽ xử lý: Hạch toán toàn bộ dư nợ gốc của hợp đồng tín dụng đó sang tài khoản nợ quá hạn Khách hàng phải chịu lãi suất nợ quá hạn đối với toàn bộ số dư nợ gốc của hợp đồng tín dụng quá hạn, kể từ ngày phát sinh nợ quá hạn VPbank sẽ áp dụng các chế tài theo quy định của Nhà nước và VPbank để xử lý thu hồi nợ. Khi đến hạn trả nợ lãi mà khách hàng không trả nợ đúng hạn và cũng không được ngân hàng chấp thuận cho cơ cấu lại thời hạn trả nợ lãi, VPbank xử lý như sau: Trường hợp chậm trả lãi dưới 5 ngày so với kỳ hạn quy định: chưa thuộc đối tượng xử lý Trường hợp nợ lãi từ 5 ngày trở lên nhưng chưa quá 1 kỳ trả lãi: VPbank sẽ phạt chậm trả lãi theo quy định của ngân hàng tuỳ từng thời kỳ Trường hợp nợ lãi từ 2 kỳ trở lên: VPbank kiên quyết yêu cầu khách hàng phải trả nợ lãi ngay, nếu khách hàng không trả thì VPbank sẽ chuyển toàn bộ dư nợ của hợp đồng tín dụng liên quan sang nợ quá hạn và xử lý theo các chế tài quy định đối với nợ quá hạn. Việc áp dụng hình thức chuyển nợ quá hạn như vậy sẽ tăng nguồn thu cho ngân hàng, tuy nhiên lại tạo nên áp lực đối với các cán bộ tín dụng. Họ phải theo sát khách hàng của mình hơn nữa đồng thời phải thường xuyên cố gắng để mở rộng quan hệ, nâng tỷ lệ cho vay lên cùng với tỷ lệ dư nợ. Đồng thời quy định này cũng gây tâm lý ức chế cho khách hàng khi bị chịu lãi phạt cao hơn khi toàn bộ dư nợ bị chuyển nợ quá hạn và phải chịu lãi suất nợ quá hạn bằng 150% lãi suất thoả thuận trong hợp đồng tín dụng. Quy chế cho vay của VPbank cũng quy định, trong trường hợp khách hàng vay trả góp muốn thanh lý hợp đồng trước quá 50% thời hạn vay họ cũng phải chịu một khoản tiền phạt. Số tiền phạt đó được tính bằng 0,05%/tháng x với số tiền dư nợ thực tế x thời gian còn lại của hợp đồng Nhưng không vượt quá 2 triệu đồng. Đây là một quy định của VPbank gây tâm lý không thoải mái đối với khách hàng vay vốn tại VPbank đặc biệt với khách vay trả góp. Vì nhiều người cho rằng việc mang tiền đến trả nợ trước hạn cho ngân hàng nhẽ ra phải được thưởng chứ không thể phạt họ được. Điều này đỏi hỏi cán bộ tín dụng phải tư vấn kỹ cho khách hàng trước khi ký kết hợp đồng tín dụng để tránh xảy ra hiểu nhầm giữa ngân hàng và khách hàng. Về mặt đội ngũ cán bộ Hệ thống cán bộ tín dụng VPBank phần lớn là những người trẻ tuổi năng động, nhiệt tình với công việc và ham mê học hỏi. Tuy nhiên phần lớn họ từ những đơn vị khác hoặc ngân hàng khác chuyển đến nên kinh nghiệm cũng như sự lâu năm trong nghề còn ít nhiều hạn chế. Bên cạnh đó, phòng Phục vụ khách hàng cá nhân tại chi nhánh Hà Nội là một trong những nơi đào tạo, huấn luyện đội ngũ cán bộ tín dụng. Phần lớn họ chỉ làm việc và học tập ở đây trong khoảng thời gian 1 năm sau đó được điều chuyển đến các chi nhánh khác hoặc phòng giao dịch. Việc này vừa gây nên sự thiếu người tại Chi nhánh Hà Nội, vừa tạo tâm lý bất ổn về chỗ làm cho cán bộ tín dụng ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng làm việc của họ. Về mặt công nghệ của ngân hàng Mặc dù VPbank đã thực hiện công nghệ hoá, hiện đại hoá ở nhiều bộ phận lĩnh vực của ngân hàng, nhưng tại bộ phận tín dụng nói chung và cho vay tiêu dùng nói riêng, hệ thống công nghệ của ngân hàng còn tỏ ra chưa hoàn thiện và hiệu quả. Hiện tại ngân hàng đang sử dụng hệ thống mạng Loan có tên “bank 2000”. Nhưng chất lượng của hệ thống tỏ ra chưa đáp ứng nhu cầu phát triển của hoạt động tín dụng. Trong nhiều trường hợp, khách hàng đến thanh toán tiền lãi vay hoặc thanh lý hợp đồng, hệ thống mạng nội bộ tỏ ra quá tải, không tính toán kịp thời và chính xác số tiền mà khách hàng cần thanh toán, làm tốn rất nhiều thời gian của khách hàng đồng thời làm lỡ mất cơ hội kinh doanh của ngân hàng. Ngoài ra hiện nay các cán bộ tín dụng vẫn phải lưu trữ hồ sơ một cách thủ công dễ dẫn đến tình trạng thất lạc giấy tờ. Hệ thống máy tính của ngân hàng chỉ cho phép quản lý hồ sơ về các yếu tố nhất định như số tiền vay, thời hạn trả nợ, giao dịch khế ước v.v… Điều này sẽ rất khó khăn cho cán bộ tín dụng trong trường bị thất lạc hồ sơ, đồng thời cũng tốn thời gian của cán bộ tín dụng, tăng chi phí quản lý của ngân hàng. Về hoạt động Marrketting Hiện tại, mặc dù VPbank đã có bộ phận phát triển thị trường với nhiệm vụ tìm kiếm các cộng tác viên và phát triển sản phẩm mới của ngân hàng tuy nhiên hoạt động này tỏ ra chưa hiệu quả. Hoạt động marketting của từng bộ phận vẫn do các bộ phận đấy tự đảm trách. Đặc biệt với cán bộ tín dụng, song song với việc theo dõi quản lý hồ sơ cho vay, họ còn phải tiếp thị mở rộng thị trường. Công việc này đòi hỏi sự chuyên tâm và năng lực marketting của từng người do đó dễ làm loãng chất lượng làm việc của cán bộ tín dụng, ảnh hưởng đến chất lượng cho vay của ngân hàng. Cũng chính vì thế có thể nhận thấy rõ, khách hàng đến vay tại ngân hàng là những khách hàng truyền thống gắn bó lâu năm với ngân hàng hoặc được sự giới thiệu qua người thân, bạn bè. Nếu hoạt động marketting của ngân hàng được đẩy mạnh hoạt động sẽ giúp ích rất nhiều cho ngân hàng trong việc tăng doanh số cho vay của mình đặc biệt trong lĩnh vực cho vay tiêu dùng. Nguyên nhân khách quan Những chính sách của nhà nước Mặc dù đã có nhiều chính sách khuyến khích hoạt động tín dụng nói chung và cho vay tiêu dùng riêng của các ngân hàng thương mại nhưng hoạt động này tỏ ra vẫn chưa hiệu quả. Vì song song với việc nới lỏng cho vay, nhà nước còn ban hành những luật định chế tài khác có ảnh hưởng hạn chế rất nhiều đến hoạt động tín dụng của các ngân hàng thương mại. Như theo quy định mới nhất của Nghị định 181 về việc sửa đổi bổ sung luật đất đai, khách hàng có nhu cầu vay tiền tại các tổ chức tín dụng có tài sản thế chấp hoặc cầm cố là giấy chứng nhận quyền sở hữu và sử dụng đất (căn hộ, nhà) sau khi ký kết hợp đồng cầm cố, thế chấp tại cơ quan công chứng nhà nước, và tiến hành đăng ký giao dịch bảo đảm tại Sở tài nguyên môi trường hoặc phòng đăng ký giao dịch bảo đảm của cơ quan cấp quận, các cơ quan này sẽ xác nhận vào mặt sau của quyển Sổ đỏ về việc quyền sử dụng đất ở này đã bị mang đi thế chấp tại ngân hàng tính từ một thời điểm nào đó. Quy định mới này của nhà nước đã gây nên tâm lý e ngại cho khách hàng trong việc đến vay vốn tại ngân hàng và dùng bất động sản làm tài sản đảm bảo cho khoản vay của mình. Mặc dù sau khi thanh lý hợp đồng và giải toả thế chấp, cơ quan nhà nước sẽ xác nhận một lần nữa vào quyển sổ đỏ về việc chấm dứt việc thế chấp, cầm cố tại ngân hàng hoặc cấp một quyển sổ đỏ mới tuỳ theo yêu cầu của khách hàng nhưng cũng sẽ tốn rất nhiều thời gian của khách hàng. Quy định này thắt chặt hơn nữa việc quản lý nhà, đất ở của thành phố, tuy nhiên tâm lý e ngại của khách hàng là một trong những nguyên nhân làm mất cơ hội vay vốn của khách hàng và giảm thu nhập của ngân hàng. Những các cơ quan có liên quan Trên thực tế hiện tại hoạt động tín dụng đặc biệt là hoạt động cho vay tiêu dùng không chỉ đơn thuần là mối quan hệ giữa ngân hàng và khách hàng. Để hoàn tất một hợp đồng tín dụng đòi hỏi phải có sự tham gia hợp tác của rất nhiều các cơ quan chức năng khác. Trong nhiều trường hợp khách hàng phải ra cơ quan phường, xã nơI mình thường trú để xác nhận những vấn đề thuộc về nhân thân, gia cảnh hoặc đăng ký giao dịch bảo đảm v.v… Nhưng do sự hạn chế về hiểu biết, cũng như thói quan liêu trong việc phục vụ dân, tình trạng sách nhiễu của các cán bộ nơi này đã ảnh hưởng rất nhiều đến công việc của khách hàng cũng như cán bộ tín dụng. Đây là vấn đề thường gặp ở Việt Nam đặc biệt tại các cơ quan hành chính sự nghiệp, tuy nhiên nó ảnh hưởng đến sự hoạt động của các ngân hàng nói riêng và sự phát triển nói chung của nền kinh tế. Những nguyên nhân khách quan và chủ quan này có ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát triển nói chung của hoạt động tín dụng và cho vay tiêu dùng nói riêng. Trên cơ sở tìm hiểu thực trạng tại chi nhánh Hà Nội ngân hàng Thương mại Cổ phần các doanh nghiệp ngoài quốc doanh người viết xin đưa ra một số kiến nghị giải pháp trong chương tiếp theo. Chương 3 Giải pháp phát triển hoạt động cho vay tiêu dùng tại ngân hàng thương mại cổ phần các doanh nghiệp ngoài quốc doanh – VPbank 3.1. Định hướng phát triển của VPbank Trong những bước đi đầu tiên của quá trình cải tổ, ngày 02/02/2001 Hội đồng Quản trị đã lựa chọn một hướng đi chiến lược phù hợp với thế và lực của mình đó là “Xây dựng VPbank thành ngân hàng bán lẻ hàng đầu tại Việt Nam”. Trong chiến lược này ngân hàng đã xác định thị trường mục tiêu là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các cá nhân, hộ kinh doanh cá thể. Tại sao ngân hàng lại đưa ra mục tiêu này? Từ trước đến nay, người dân vẫn có quan niệm, chỉ có vay những khoản tiền lớn, nhằm kinh doanh buôn bán làm an to tát người ta mới tìm đến ngân hàng. Còn với những khoản tiền nhỏ phục vụ cho mục đích sinh hoạt hàng ngày hoặc mục đích tiêu dùng, một là người ta có tâm lý ngại những thủ tục rườm rà phức tạp của ngân hàng, hai là người ta cho rằng ngân hàng sẽ không giải quyết cho họ những nhu cầu vay vốn đó. Để thay đổi những suy nghĩ này cũng như cung cấp những sản phẩm tốt nhất, phục vụ tối đa nhu cầu của dân cư, VPbank cũng như nhiều ngân hàng thương mại cổ phần khác như TechcomBank, SacomBank, EAB… đã thực hiện hoạt động bán lẻ bằng chiến lược hết sức rõ ràng trong những sản phẩm cụ thể như: thẻ, cho vay mua nhà, dịch vụ thị trường bất động sản, cho vay du học, cho vay mua ô tô… Trong những năm vừa qua, VPbank đã cố gắng và nỗ lực rất nhiều trong việc xây dựng thương hiệu của mình trong hoạt động cho vay tiêu dùng. Trong năm 2005 này VPbank đã đề ra một số biện pháp cụ thể để thực hiện mục tiêu chiến lược lâu dài xây dựng ngân hàng bán lẻ của mình như sau: Về huy động vốn Duy trì chính sách huy động vốn hợp lý, điều tiết lượng vốn huy động phù hợp với nhu cầu sử dụng, bảo đảm hiệu suất sử dụng vốn tốt nhất. Cải tiến các sản phẩm huy động vốn theo hướng linh hoạt, nhiều tiện ích kèm theo cho khách hàng. Thực hiện một số chương trình khuyến mại đặc biệt để tăng nguồn vốn huy động. Đẩy mạnh huy động vốn, cho vay và các hoạt động lành mạnh khác nhằm củng cố và gia tăng thị phần, tăng lợi nhuận. Về hoạt động tín dụng Tiếp tục mở rộng thị phần tín dụng bán lẻ phục vụ các doanh nghiệp vừa và nhỏ thuộc khu vực dân doanh và nhu cầu tiêu dùng của dân cư. Duy trì chính sách tín dụng “bảo thủ”, tăng cường chất lượng công tác xếp hạng tín dụng và thẩm định trước, trong và sau khi cho vay. Giảm tỷ lệ nợ quá hạn xuống dưới 2%. Ngoài hai hoạt động cơ bản trên, VPbank cũng sẽ chú trọng đến các sản phẩm dịch vụ khác, các hoạt động khác để có thể thực hiện tốt và nhanh chóng mục tiêu chiến lược của mình “trở thành ngân hàng bán lẻ số 1”. 3.2. Giải pháp Để có thể phát triển và mở rộng hơn nữa hoạt động cho vay tiêu dùng, thực hiện tốt chiến lược ngân hàng bán lẻ có một số giải pháp được đặt ra với VPbank như sau: 3.2.1. Tăng quy mô Hoạt động cho vay tiêu dùng tại VPbank tỏ ra còn nhiều hạn chế về doanh số cho vay doanh số thu nợ … Việc tăng quy mô trở thành một vấn đề cấp bách của nhiều ngân hàng thương mại cổ phần không chỉ riêng VPbank. Việc tăng quy mô cho vay bắt đầu từ những hoạt động chủ yếu như sau: Xây dựng quảng bá thương hiệu của ngân hàng Trên thực tế hiện nay, nhu cầu vay vốn trong dân cư nhằm mục đích tiêu dùng là rất lớn. Đời sống xã hội ngày càng phát triển và nhu cầu của con người cũng từng bước nâng cao. Tuy nhiên số lượng khách hàng tìm đến ngân hàng vay vốn nhằm phục vụ mục đích này còn thấp. Nguyên nhân chủ yếu là vì còn một bộ phận không nhỏ dân cư chưa biết đến VPbank đặc biệt là sản phẩm mà VPbank cung cấp. Hiện nay, nguồn thông tin gián tiếp chủ yếu giúp khách hàng biết và hiểu dịch vụ này là thông qua báo chí truyền hình. Nhưng số người tiếp xúc với ngân hàng thông qua kênh này còn hạn chế, và đặc biệt nếu tiếp xúc việc hiểu cặn kẽ những lợi ích có được khi sử dụng sản phẩm dịch vụ không phải là vấn đề đơn giản. Ngay cả khi nhận thức được loại hình cho vay này của VPbank không ít người không có đủ dũng khí để vượt qua tâm lý e ngại khi gánh trên vai một món nợ ngân hàng. Điều này cũng là điều dễ hiểu. Vấn đề đặt ra với ngân hàng là phải quảng bá hình ảnh của mình, mang sản phẩm đến với từng hộ gia đình và phá bỏ được sự cản trở đến hoạt động cho vay tiêu dùng. Trong thời gian vừa qua, VPbank đã xuất hiện nhiều trong các chương trình giải trí của Đài truyền hình Việt Nam với vai trò là người tài trợ như chương trình “Khởi nghiệp”, “Doanh nhân Việt Nam”. Hơn thế nữa cán bộ ngân hàng cũng như thành viên của Hội đồng Quản trị cùng tham gia vào chương trình tạo nên sự phong phú và giúp người xem có cái nhìn mới mẻ về ngân hàng. Tuy nhiên đấy mới chỉ là kênh tiếp xúc gián tiếp. VPbank cần đẩy mạnh hơn nữa công tác tiếp thị quảng cáo đặc biệt với những sản phẩm mới. Hình thức có thể qua thư ngỏ, tờ rơi, hay việc tổ chức các buổi hội thảo gặp gỡ đối với những khách hàng đã đang có nhu cầu vay vốn, muốn tìm hiểu về sản phẩm, dịch vụ của ngân hàng. Với hình thức này, ngân hàng có thể tiếp thị trực tiếp sản phẩm cho mình, giúp khách hàng hiểu được lợi ích từ việc sử dụng những sản phẩm của VPbank. Việc đẩy mạnh hình thức khuyếch trương như vậy phần nào tháo gỡ được thói quen cố hữu và tâm lý e ngại gây cản trở đến sự phát triển của hoạt động cho vay tiêu dùng của ngân hàng, từng bước đưa VPbank trở thành người bạn của mọi nhà trong tiến trình phát triển chung của nền kinh tế. Đẩy mạnh hoạt động Marketing Như đã đề cập ở trên, hiện tại VPbank chưa có bộ phận chuyên trách về hoạt động marketting mở rộng thị trường. Việc phát triển hoạt động và mở rộng thị trường đều do mỗi bộ phận tự đảm trách. Trong bối cảnh hiện nay, các ngân hàng không ngừng cạnh tranh về lãi suất và chất lượng dịch vụ, do đó việc mở rộng và phát triển các hoạt động đặt ra cho các ngân hàng những thách thức rất lớn. Đối với VPbank công việc đó đặt lên vai mỗi cán bộ tín dụng những trọng trách nặng nề. Điều này đã gây áp lực đối với không nhỏ cán bộ ngân hàng làm ảnh hưởng ít nhiều đến quá trình công tác và cống hiến của họ. Do đó ngân hàng nên có một phòng marketting riêng chuyên đảm nhận hoạt động này. Phòng maketting được thành lập trên cơ sở định hướng và mục tiêu phát triển của ngân hàng. Các cán bộ phòng maketting phải được tuyển dụng kỹ lưỡng là những người có chuyên môn và kinh nghiệm trong công việc đồng thời phải hiểu rất rõ các sản phẩm của ngân hàng. Do đó song song với việc hoạt động mở rộng thị trường VPbank phải mở những lớp đào tạo nghiệp vụ cho phòng maketting thường xuyên mỗi khi ngân hàng có những sản phẩm mới. Có như vậy hoạt động kinh doanh của ngân hàng nói chung và cho vay tiêu dùng nói riêng mới có thể phát triển hơn mức độ phát triển hiện tại của ngân hàng. Đổi mới công nghệ Hiện tại VPbank có hệ thống công nghệ còn rất hạn chế, điều này ảnh hưởng ít nhiều đến hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Hệ thống mạng nội bộ của VPbank tỏ ra chưa hiệu quả khi khách hàng có đôi lần thấy phiền toái khi mình đã thanh toán gốc hoặc lãi rồi nhưng máy tính vẫn chưa cập nhật gây không ít hiểu lầm giữa ngân hàng với khách hàng. Để hoạt động cho vay tiêu dùng được hiệu quả, một trong những nhiệm vụ của cán bộ tín dụng là phải thường xuyên theo dõi giám sát mục đích sử dụng tiền vay của khách hàng, theo dõi tình hình trả nợ gốc lãi của khách hàng v.v… Mỗi cán bộ tín dụng phụ trách không ít khách hàng nên có đôi lúc không thể kiểm soát được hoạt động sau khi vay của khách hàng, cũng như không thể nhớ hết những khách hàng nào đến hạn trả nợ gốc hay chưa. Hiện tại, tại các phòng phục vụ khách hàng đều có một cán bộ chuyên thực hiện việc làm báo cáo hàng tháng. Theo quy định của VPbank khách hàng thanh toán lãi vào ba ngày 5, 15,25 hàng tháng. Trên cơ sở đó, vào các ngày 1,10,20 hàng tháng cán bộ tín dụng này sẽ in sao kê, gửi thông báo cho các cán bộ tín dụng còn lại danh sách khách hàng đến hạn thanh toán lãi (gốc) cho ngân hàng. Tuy nhiên không phải khách hàng nào cũng thanh toán gốc, lãi vào những ngày trên. Nhiều người cứ nghĩ đơn giản, khi nào có tiền họ mang đến ngân hàng trả. Có những trường hợp khách hàng thanh toán trước hạn, cán bộ tín dụng không kiểm soát được. Trong trường hợp này nếu không được cập nhật thông tin, dễ dẫn đến hiểu lầm giữa ngân hàng với khách hàng. Do vậy để khắc phục tình trạng này, giữa bộ phận phục vụ khách hàng, giao dịch nên có sự liên kết chặt chẽ. Hiện nay nhân viên ngân hàng nào cũng sử dụng điện thoại di động. Nếu chúng ta kết hợp giữa ngân hàng và công ty cung cấp dịch vụ mạng điện thoại di động, mỗi khi khách hàng đến thanh toán cho ngân hàng cán bộ tín dụng phụ trách khách hàng đó nhận được hồi âm thông qua hệ thống tin nhắn SMS thì sẽ tiết kiệm rất nhiều thời gian của cán bộ tín dụng đồng thời nâng cao sự chuyên nghiệp, tiện lợi trong việc phục vụ khách hàng của ngân hàng. Công việc này đòi hỏi thời gian và chi phí rất lớn. Hiện tại ở Việt Nam mới có ngân hàng thương mại kỹ thương sử dụng dịch vụ này và nó tỏ ra khá hiệu quả đối với ngân hàng trong việc quản lý khách hàng sau khi vay. Công nghệ hiện đại là một trong những tiêu thức để khách hàng đánh giá uy tín và hiệu quả của mỗi ngân hàng, vì vậy việc đổi mới và hiện đại hoá công nghệ ngân hàng là việc cần thiết và có ý nghĩa. Trên cơ sở đổi mới công nghệ, ngân hàng sẽ tăng được năng suất lao động, rút ngắn thời gian thực hiện các quy trình nghiệp vụ, xử l‎ý được khối lượng lớn công việc trong một ngày và phát triển thêm nhiều sản phẩm dịch vụ mới, đáp ứng nhu cầu đa dạng của khách hàng đồng thời trợ giúp hoạt động quản l‎ý, hạn chế rủi ro trong ngân hàng. Tăng chất lượng nguồn nhân lực Đối với bất kỳ một doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực cung cấp dịch vụ, tài sản quý nhất là đội ngũ cán bộ. Trong hoạt động tín dụng, cán bộ tín dụng được xem là bộ mặt của ngân hàng khi khách hàng lần đầu tiên đến giao dịch. Chất lượng của đội ngũ cán bộ có ảnh hưởng rất nhiều đến lợi nhuận của hoạt động tín dụng nói chung và cho vay tiêu dùng nói riêng. Bên cạnh những chăm lo về đời sống vật chất tinh thần của nhân viên, là động lực giúp họ an tâm công tác, gắn bó lâu dài với ngân hàng, sẵn sàng vì sự phát triển bền vững của ngân hàng, ngân hàng cần chú tâm hơn nữa vấn đề đào tạo nguồn nhân lực để nâng cao chất lượng hoạt động. Đối với những nhân viên mới trước đây, họ hoàn toàn phải tự tìm hiểu công việc trong quá trình tập nghề và thử việc. Đấy là một thách thức rất lớn đối với họ. Nếu không có sự ham mê, học hỏi đặc biệt nếu không có người tận tình hướng dẫn chỉ bảo thì sẽ rất khó thành công, vì tín dụng là một công việc rất khó, áp lực công việc cao nên đòi hỏi tố chất làm tín dụng của mỗi người. Điều này là rất hạn chế đối với nhân viên mới cũng như những cán bộ lâu năm. Do đó VPbank nên có những khoá đào tạo ngắn hạn thường xuyên đối với những nhân viên mới và cũ về tất cả các lĩnh vực của ngân hàng do chính những cán bộ có kinh nghiệm trong công việc đảm nhận để các nhân viên ngân hàng có thể bán chéo sản phẩm của VPbank cho khách hàng. Đấy cũng là mục tiêu chiến lược của ngân hàng trong thời gian tới. Bên cạnh đó ngân hàng nên có chính sách cử cán bộ nhân viên tham gia các khoá học đào tạo về chuyên ngành ngân hàng do Ngân hàng Nhà nước tổ chức hoặc tham dự các chương trình đào tạo ở nước ngoài như khảo sát về sản phẩm dịch vụ tại nước ngoài đặc biệt là các nước phát triển để học hỏi sự đi trước của những nước này. Vì trên thực tế những kinh nghiệm thu được ở các nước phát triển sẽ là nền tảng vững chắc cho VPbank nói riêng và hệ thống ngân hàng Việt Nam nói chung phát triển hoạt động cho vay tiêu dùng của mình. Việc tạo hình ảnh đẹp cho ngân hàng thông qua đội ngũ cán bộ cũng là một nhiệm vụ quan trọng của VPbank. Ngoài việc xây dựng “chiến lược nụ cười của nhân viên” ngân hàng nên có những bộ đồng phục riêng mang đậm bản sắc của ngân hàng gây ấn tượng tốt và thiện cảm cho khách hàng nhất là với lần đầu tiên đến giao dịch. Việc mặc đồng phục có thể thay đổi 1 tuần 3 bộ, thay đổi theo mùa cho phù hợp với thời tiết khí hậu ở Việt Nam, vừa tạo cảm giác mới mẻ ấn tượng cho khách hàng vừa tạo sự thuận tiện thoải mái cho nhân viên, góp phần nâng cao hiệu suất làm việc. Điều chỉnh cơ cấu phát triển đối tượng cho vay Như đã đề cập ở trên tỷ lệ cho vay tiêu dùng ở VPbank vẫn tập trung chủ yếu ở cho vay mua nhà và mua ô tô. Trong khi đó thị trường du học là tiềm năng và vô cùng rộng lớn. Ngân hàng nên có những chính sách thay đổi để hoạt động cho vay hỗ trợ tài chính du học phát triển hơn. Ví dụ ngân hàng nên áp dụng những chế độ ưu đãi nhất định đối với khách hàng có nhu cầu vay tiền VPbank nhằm mục đích chứng minh tài chính du học hoặc chi trả học phí cho con em. Điều đó thể hiện ở chế độ lãi suất thấp, thủ tục cho vay đơn giản hơn. và quy chế cho vay được nới lỏng hơn. Việc này không đồng nghĩa với việc giảm quy mô cho vay đối với hai hoạt động còn lại mà có tác dụng kích thích tăng tỷ lệ cho vay đối với cho vay du học từ đó tăng tổng quy mô cho vay tiêu dùng tại VPbank. Bên cạnh đó đối tượng cho vay ở VPbank hiện nay là còn rất hạn chế. Đặc biệt chỉ áp dụng đối với những khách hàng có hộ khẩu Hà Nội (cùng trụ sở làm việc của VPbank). Điều này đã hạn chế rất nhiều việc mở rộng quy mô cho vay của ngân hàng. Nếu trong thời gian tới, VPbank nghiên cứu xem xét để mở rộng đối tượng cho vay của mình đến các vùng lân cận xa nội thành thì quy mô cho vay tiêu dùng nói riêng và tín dụng nói chung sẽ tăng đáng kể. Đó là những vần đề mà ngân hàng cần phải xem xét trong quá trình phát triển và cạnh tranh khốc liệt trên thị trường các ngân hàng với nhau. Đổi mới chính sách của ngân hàng Hoạt động cho vay tiêu dùng của ngân hàng phụ thuộc rất lớn đến hiệu quả làm việc của các cán bộ tín dụng. Vì thế chính sách của ngân hàng khuyến khích tinh thần làm việc và cống hiến của cán bộ tín dụng có vai trò tích cực đối với sự phát triển mở rộng của ngân hàng. 3.3. Kiến nghị 3.3.1. Đối với Chính Phủ Cho vay tiêu dùng là một trong những nhân tố có ảnh hưởng rất lớn đối với sự phát triển nền kinh tế xã hội có tác dụng kích thích tiêu dùng và sản xuất. Do đó Chính phủ cần có những quan tâm hơn nữa đến sự phát triển của lĩnh vực này. Đây không phải chỉ là nhiệm vụ của mỗi ngân hàng thương mại mà để tạo điều kiện cho hoạt động tín dụng phát triển các cơ quan cấp cao như Chính phủ cần có những biện pháp cụ thể khuyến khích hoạt động này phát triển. Như chúng ta đã biết, nhu cầu tiêu dùng nảy sinh không chỉ ở thành phố mà tại các vùng nông thôn, miền núi nhu cầu của dân cư cũng rất lớn. Nhưng trên thực tế, không phải bất cứ ai cũng có thể tiếp xúc với nguồn hỗ trợ tiêu dùng của ngân hàng. Sự chênh lệch mức sống tại các khu vực đã hạn chế rất nhiều việc các ngân hàng mở rộng đối tượng cho vay nhằm mục đích tiêu dùng của mình. Do đó trước hết để một bộ phận dân cư ở nông thôn có thể tiếp xúc với nguồn vốn ngân hàng, Chính phủ nên có những biện pháp nhanh chóng kịp thời khuyến khích sự phát triển kinh tế tại các khu vực này, xây dựng cơ sở hạ tầng tạo điều kiện cho những ngành nghề truyền thống phát triển. Công việc này vừa giúp nền kinh tế địa phương phát triển, vừa tạo công ăn việc làm cho bộ phận dân cư trong khu vực. Bên cạnh đó, việc Chính phủ khuyến khích cho các ngành kinh tế mũi nhọn, những ngành nghề cung cấp sản phẩm dịch vụ tiêu dùng cho người dân như giảm thuế, tạo điều kiện về thủ tục hành chính v.v… sẽ góp phần làm giảm chi phí hoạt động cho các doanh nghiệp làm giảm giá đầu ra tạo điều kiện cho dân cư có cơ hội tiêu dùng với giá rẻ. Bên cạnh đó, việc Chính phủ xây dựng hành lang pháp lý phù hợp cho hoạt động cho vay tiêu dùng sẽ có tác dụng rất nhiều đến hoạt động của lĩnh vực này. Trên thực tế hiện nay, hoạt động tín dụng tiêu dùng ở các ngân hàng thương mại vẫn hoạt động theo cơ chế riêng của từng ngân hàng trong đó có dựa trên những văn bản quy định về tín dụng nói chung của Ngân hàng Nhà nước. Điều này đã hạn chế ít nhiều đến sự phát triển của hoạt động. Trong thời gian tới Chính phủ nên ban hành Luật tín dụng tiêu dùng nói riêng để hoạt động cho vay tiêu dùng đi vào đời sống dân cư một cách nhanh chóng và chính xác. 3.3.2. Đối với Ngân hàng Nhà nước Hiện tại hoạt động cho vay tiêu dùng của các ngân hàng thương mại vẫn hoạt động trên cơ sở những quy định của Quyết định 1627 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước ban hành ngày 31/12/2001 về việc ban hành quy chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng. Những quy định trong văn bản này hạn chế rất nhiều hoạt động tín dụng nói chung và cho vay tiêu dùng nói riêng. Do đó Ngân hàng Nhà nước nên có những văn bản cụ thể hướng dẫn hoạt động cho vay tiêu dùng quy định về sản phẩm, hạn mức hoặc khung về tài sản. Hiện nay các ngân hàng vẫn hoạt động theo những quy chế riêng của mình, mà mỗi ngân hàng lại có những quy định khác nhau có lợi cho ngân hàng của mình và khách hàng nhất. Điều này đã không ít lần gây thắc mắc với khách hàng khi họ đã từng tham gia hoạt động này tại nhiều ngân hàng. Những chế tài chung do Ngân hàng Nhà nước ban hành sẽ hạn chế được những sự hiểu nhầm này. Hiện tại mỗi cán bộ tín dụng có thể kiểm tra tư cách của khách hàng thông qua việc kiểm tra thông tin tín dụng trên trang web của Ngân hàng Nhà nước. Mỗi lần kiểm tra như vậy đối với mỗi khách hàng ngân hàng đều phải mất phí. Và phí này do ngân hàng phải hách toán vào chi phí quản lý của mình trong trường hợp khách hàng không có đủ tư cách vay. Tuy nhiên trên thực tế, hoạt động của trung tâm này tỏ ra chưa hiệu quả, còn nhiều sai xót. Ngân hàng nhà nước nên đầu tư hơn nữa vào trung tâm này đồng thời cập nhật thông tin thường xuyên theo hình thức online để cán bộ tín dụng có được những thông tin chính xác trong quá trình thẩm định tư cách khách hàng. 3.3.3. Kiến nghị đối với khách hàng Sự thành công của mỗi ngân hàng không thể không kể đến vai trò đóng góp của các khách hàng đặc biệt là các khách hàng truyền thống. Do đó việc khách hàng thiện trí hợp tác với ngân hàng sẽ có ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Trong hoạt động tín dụng nói chung và cho vay tiêu dùng nói riêng, điều này thể hiện qua tinh thần và thái độ hợp tác của khách hàng trong việc hoàn thành tư cách trả nợ của mình. Có những trường hợp khách hàng có tiền nhưng nhất quyết không thanh toán cho ngân hàng. Tất nhiên đây chỉ là con số nhỏ nhưng có ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động kinh doanh của ngân hàng, gây mất thời gian và tạo tâm lý ức chế cho cán bộ tín dụng. Trong trường hợp này khách hàng vẫn phải thanh toán khoản nợ lãi hoặc gốc của mình và đôi khi còn phải chịu thêm mức lãi phạt do chậm trả lãi. Xét về thực tế, khách hàng vẫn là người phải chịu thiệt đầu tiên. Do đó khách hàng khi đã có quan hệ tín dụng với ngân hàng thì nên có tinh thần thái độ hợp tác hết sức thiện trí, vì mối quan hệ này dựa trên mục đích đôi bên cùng có lợi. Những mối quan hệ hợp tác lâu dài sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng cho những lần giao dịch sau. Kết luận Hoạt động cho vay tiêu dùng là một hoạt động tương đối mới mẻ đối với hầu hết các tổ chức tín dụng trên thị trường tài chính Việt Nam. Đây là một hình thức kinh doanh dịch vụ tài chính quan trọng và không còn xa lạ với ngân hàng ở các nước phát triển. Tuy nhiên việc cung cấp loại hình dịch vụ này mới chỉ bắt đầu ở nước ta chưa lâu. Với các ngân hàng thương mại nói chung và ngân hàng thương mại cổ phần các doanh nghiệp ngoài quốc doanh - VPbank nói riêng, kinh doanh dịch vụ cho vay tiêu dùng còn nhiều khó khăn vướng mắc với những hạn chế nhất định. Vì thế ngân hàng còn phải cố gắng nỗ lực nhiều hơn nữa chuẩn bị về mọi mặt nguồn vốn, kỹ thuật, công nghệ, nhân sự… để hoạt động thực sự trở thành một kênh phân phối vốn hiệu quả, cho vay tiêu dùng đi vào đời sống người dân như một phần tất yếu của nền kinh tế thị trường. Qua quá trình thực tập và được sự hướng dẫn trực tiếp của thầy giáo - TS Trần Đăng Khâm cũng như sự giúp đỡ của cán bộ phòng A/O cá nhân Chi nhánh Hà Nội ngân hàng thương mại cổ phần các doanh nghiệp ngoài quốc doanh - VPbank, em đã nghiên cứu và lựa chọn đề tài: “Phát triển hoạt động cho vay tiêu dùng tại ngân hàng thương mại cổ phần các doanh nghiệp ngoài quốc doanh -VPbank”. Bài viết của em gồm những nội dung chủ yếu như sau: Chương 1: Bài viết đã đưa ra những vấn đề lý thuyết cơ bản về hoạt động của ngân hàng thương mại nói chung và hoạt động cho vay tiêu dùng nói riêng. Chương 2: Bài viết đã đề cập đến thực trạng hoạt động cho vay tiêu dùng tại VPbank cùng những đánh giá về kết quả đạt được cũng như những hạn chế và nguyên nhân của nó. Chương 3: Bài viết xin nêu ra một số giải pháp và những kiến nghị đối với những cơ quan hữu quan nhằm mục đích phát triển hoạt động cho vay tiêu dùng tại ngân hàng thương mại cổ phần các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Do thời gian nghiên cứu có hạn và sự hạn chế về hiểu biết cũng như khả năng phân tích, chuyên đề tốt nghiệp của em còn nhiều thiếu xót. Rất mong được sự đóng góp ý kiến và giúp của các thầy cô, phía ngân hàng và tất cả các bạn có quan tâm đến đề tài này. Em xin chân thành cảm ơn! Danh mục tài liệu tham khảo Peter Rose – Quản Trị ngân hàng thương mại. Frederic S Mishkin - Tiền tệ ngân hàng và thị trường tài chính. TS Phan Thị Thu Hà - Nguyễn Thị Thu Thảo – Ngân hàng thương mại – Quản trị và nghiệp vụ. Học viện ngân hàng – Tín dụng ngân hàng. Học viện ngân hàng – Quản trị ngân hàng. Edward W.Reed Ph.D – Edward K.Gill Ph.D – Ngân hàng thương mại. Luật các tổ chức tín dụng. Luận văn tốt nghiệp của sinh viên Nguyễn Thị Phương lớp KT52 trường Học viện Ngân hàng. Các văn bản pháp quy của NHNN và qui chế của VP bank. Annual Report 2002, 2003, 2004 của VPbank. Bản tin hoạt động của VPbank ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc7657.doc
Tài liệu liên quan