Mở ĐầU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hiện nay, Đảng và Nhà nước ta đang đề ra các mục tiêu, chiến lược phát triển mạnh các ngành kinh tế dựa trên những tiềm năng, lợi thế của đất nước và có khả năng tạo ra các sản phẩm kinh tế có giá trị cao, có sức cạnh tranh lớn trên thị trường. Kinh tế biển là một ngành như vậy. Với chiều dài bờ biển trên 3.200 km, vùng biển, thềm lục địa thuộc chủ quyền và quyền tài phán quốc gia của Việt Nam rộng trên 1.000.000 km2, gấp 3 lần diện tích đất liền, Việt Nam c
111 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1540 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Phát triển đội ngũ công nhân ngành công nghiệp đóng tàu ở Hải Phòng hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ó một vị trí hết sức thuận lợi trong việc phát triển các ngành công nghiệp biển và đẩy mạnh sự giao lưu kinh tế quốc tế qua đường hàng hải, mở rộng sự liên kết, hợp tác trong khai thác và phát triển kinh tế biển có hiệu quả, đồng thời góp phần củng cố quốc phòng và an ninh.
Từ thực tế trên, Nghị quyết Trung ương 4 Khoá X của Đảng ta đã khẳng định vị trí, vai trò to lớn của kinh tế biển và vạch ra mục tiêu, chiến lược biển, tăng cường tiềm lực mọi mặt để khai thác biển từ nay đến năm 2020 và định hướng đến năm 2030 với mục tiêu tổng quát sau: "phấn đấu đưa nước ta trở thành quốc gia mạnh về biển, giàu lên từ biển".
Trong số các tỉnh, thành có biển của cả nước hiện nay, Hải Phòng - Thành phố Cảng, là nơi có nhiều tiềm năng to lớn để phát triển các ngành công nghiệp biển, trong đó ngành công nghiệp đóng tàu được xác định là ngành công nghiệp chủ lực. Thực tế cho thấy ngành công nghiệp đóng tàu ở Hải Phòng những năm qua được sự quan tâm, đầu tư của Đảng, Nhà nước và Thành uỷ Hải Phòng nên đã đạt được nhiều thành tựu, đóng góp vào sự phát triển chung của toàn Thành phố, tạo được nhiều việc làm và thu nhập cao cho đội ngũ công nhân viên công tác trong ngành này... Dù vậy, theo đánh giá của nhiều chuyên gia và xuất phát từ tiềm năng sẵn có của thành phố thì hiệu quả của ngành công nghiệp đóng tàu trong thời gian qua là chưa tương xứng với tiềm năng sẵn có. Điều đó là do, ngành công nghiệp đóng tàu Hải Phòng hiện còn tồn tại những hạn chế sau: về quy mô sản xuất còn nhỏ, cơ sở vật chất, kỹ thuật và công nghệ chưa được đầu tư đồng bộ, nguồn nhân lực có trình độ tay nghề kỹ thuật cao đang thiếu hụt nghiêm trọng, sự liên kết trong sản xuất, kinh doanh giữa các nhà máy và các ngành công nghiệp phụ trợ còn lỏng lẻo, năng lực cạnh tranh yếu… Chưa khai thác và phát huy hết tiềm năng lợi thế của Thành phố.
Hạn chế trên có nhiều nguyên nhân dẫn đến hiệu quả thấp của ngành công nghiệp đóng tàu Hải Phòng song nổi lên là nguyên nhân về đội ngũ công nhân cho ngành này còn thiếu về số lượng và yếu về chất lượng.
Thực tế đó, đòi hỏi các cấp, các ngành cần quan tâm nhiều hơn nữa đến việc xây dựng đội ngũ công nhân ngành công nghiệp đóng tàu. Đây cũng là lý do cơ bản mà tác giả lựa chọn đề tài: “Phát triển đội ngũ công nhân ngành công nghiệp đóng tàu ở Hải Phòng hiện nay” làm luận văn thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
- ở Việt Nam trong những năm gần đây, vấn đề giai cấp công nhân và sứ mệnh lịch sử của nó đã thu hút được nhiều công trình khoa học nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác nhau. Đáng chủ ý là một số công trình nghiên cứu sau: Một số vấn đề về giai cấp công nhân và công đoàn Việt Nam của GS. Văn Tạo, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1997. Xu hướng biến động giai cấp công nhân Việt Nam trong những năm đầu thế kỷ XXI, Viện công nhân và công đoàn - Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam, Nxb Lao động, Hà Nội, 2001... Các công trình nêu trên đã đề cập một cách khá phong phú, toàn diện nhiều khía cạnh của giai cấp công nhân cũng như xu hướng biến động của nó trong thời kỳ quá độ lên CNXH, mặt khác đã đưa ra một số những giải pháp nhằm xây dựng đội ngũ công nhân không ngừng lớn mạnh cả số lượng và chất lượng đáp ứng yêu cầu của quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH.
Đặc biệt gần đây, đã có những công trình nghiên cứu trực tiếp đến mối quan hệ giữa CNH, HĐH với sự phát triển của giai cấp công nhân cũng như vai trò của giai cấp công nhân trong quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước như: Giai cấp công nhân trong sự nghiệp CNH, HĐH đất nước của GS.TS. Dương Xuân Ngọc, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004. Sự phát triển của giai cấp công nhân Việt Nam và vai trò của nó trong sự nghiệp CNH, HĐH đất nước của Trần Ngọc Sơn, Luận án tiến sỹ, 2001. Kỷ yếu hội thảo - Về giai cấp công nhân và công đoàn Việt Nam trong sự nghiệp CNH, HĐH, Trường Đại học công đoàn Việt Nam, 2002.… Các công trình trên đã đề cập về mối quan hệ biện chứng giữa quá trình CNH, HĐH đất nước với sự phát triển của giai cấp công nhân, đặt ra những yêu cầu nhằm phát triển giai cấp công nhân cả về số lượng và chất lượng đáp ứng yêu cầu của lao động sản xuất trong thời kỳ mới.
Ngoài những công trình nêu trên còn có một số luận văn thạc sỹ; các bài viết trong Tạp chí ngành công nghiệp tàu thuỷ Việt Nam như: Công nhân Hải Phòng trong công cuộc đổi mới, những vấn đề đặt ra và những phương hướng giải pháp của Nguyễn Văn Năm, Luận văn thạc sỹ, Viện chủ nghĩa xã hội khoa học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 1995. Góp phần đào tạo nguồn nhân lực kỹ thuật cao cho ngành công nghiệp tàu thuỷ Việt Nam của Vũ Tiến Đạt, Tạp chí Công nghiệp tàu thuỷ (7), 2004. Với công tác xây dựng đội ngũ công nhân viên chức lao động ngành công nghiệp tàu thuỷ Việt Nam của Tô Ngọc, Tạp chí Công nghiệp tàu thuỷ (13), 2005... Các công trình trên đã đề cập tới thực trạng công nhân của ngành công nghiệp tàu thuỷ và đưa ra một số phương hướng giải pháp nhằm xây dựng củng cố và phát triển đội ngũ công nhân công nghiệp đóng tàu. Tuy nhiên cho đến nay chưa có một công trình khoa học nào nghiên cứu chuyên sâu về phát triển giai cấp công nhân ngành công nghiệp đóng tàu trong sự nghiệp đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ của Luận văn
- Mục đích:
Làm rõ thực trạng, xu hướng phát triển đội ngũ công nhân ngành công nghiệp đóng tàu ở Hải Phòng; từ đó nêu ra những giải pháp cơ bản nhằm xây dựng và phát triển đội ngũ này góp phần đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp đẩy mạnh CNH, HĐH, thực hiện mục tiêu, chiến lược phát triển kinh tế biển của Đảng và Nhà nước ta hiện nay.
- Nhiệm vụ:
Làm rõ đặc điểm, vai trò, các yếu tố quy định sự phát triển của công nhân ngành CNĐT trong quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH gắn với nền kinh tế tri thức ở nước ta hiện nay.
Đánh giá thực trạng, chỉ ra các vấn đề, xu hướng vận động phát triển của công nhân ngành công nghiệp đóng tàu ở Hải Phòng.
Xác định phương hướng và đề xuất các giải pháp cơ bản nhằm xây dựng và phát triển công nhân ngành công nghiệp đóng tàu hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu đội ngũ công nhân ngành công nghiệp đóng tàu ở Hải Phòng
- Phạm vi nghiên cứu: Địa bàn thành phố Hải Phòng, thời gian từ năm 1994 đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận: Đề tài được nghiên cứu dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam trong các Văn kiện Đại hội Đảng và Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương các khoá xung quanh vấn đề này. Bên cạnh đó, Đề tài kế thừa và sử dụng có chọn lọc một số đề xuất và số liệu thống kê của một số công trình có liên quan của các tác giả trong và ngoài nước.
- Phương pháp nghiên cứu: Đề tài sử dụng phương pháp luận chung của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử; phương pháp nghiên cứu đặc thù của CNXH khoa học tiếp cận và giải quyết vấn đề từ góc độ chính trị - xã hội, luận văn còn kết hợp sử dụng các phương pháp khác như: khảo sát, điều tra, thống kê, phân tích, tổng hợp... để làm sáng tỏ vấn đề đặt ra.
6. Những đóng góp khoa học và ý nghĩa của luận văn
- Góp phần phát triển nhận thức xã hội đối với việc phát triển công nhân ngành công nghiệp đóng tàu có vai trò to lớn, quyết định trong việc đẩy mạnh quá trình CNH,HĐH và thực hiện chiến lược phát triển kinh tế biển của Đảng và Nhà nước ta hiện nay.
- Đề xuất một số giải pháp có tính khả thi nhằm từng bước thúc đẩy quá trình xây dựng và phát triển đội ngũ công nhân ngành công nghiệp đóng tàu Hải Phòng hiện nay.
- Làm tài liệu tham khảo để các cơ quan có thẩm quyền vận dụng vào việc hoạch định các chủ trương, chính sách phù hợp trong quản lý và phát triển công nhân ngành công nghiệp đóng tàu hiện nay.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3 chương, 6 tiết.
Chương 1
về phát triển công nhân ngành công nghiệp đóng tàu
1.1. Công nghiệp đóng tàu và công nhân ngành công nghiệp đóng tàu
1.1.1. Nhận thức chung về kinh tế biển và công nghiệp đóng tàu
Về kinh tế biển:
Biển có vai trò rất quan trọng đối với sự phát triển kinh tế - xã hội và an ninh của các nước có biển nói riêng và của thế giới nói chung. Các nước có biển luôn vươn ra biển, khai thác các nguồn lợi từ biển. Nhưng kinh tế biển trong tư duy của nhiều người mới chỉ được nhìn nhận một cách rời rạc; chủ yếu người ta bàn nhiều về vấn đề đánh bắt, khai thác dầu khí và vận tải... Các vấn đề khác thuộc kinh tế biển cũng chưa có một nghiên cứu cụ thể chuyên sâu nào cho từng ngành công nghiệp biển. Những vấn đề trên qua nhiều cuộc hội thảo quốc tế về kinh tế biển hiện nay vẫn còn nhiều mặt cần được tiếp tục làm sáng tỏ.
Hiện nay, kinh tế biển thường được hiểu theo hai cách cơ bản sau:
Thứ nhất, theo nhận thức chung của thế giới hiện nay, kinh tế biển là một nền kinh tế tổng thành của các ngành công nghiệp do môi trường biển đem lại.
Môi trường biển là những vùng biển có chủ quyền và thuộc quyền tài phán của một quốc gia như: mặt nước ven bờ, lãnh hải, vùng kinh tế đặc quyền. Nó là một tổ hợp nhiều chức năng kinh tế - xã hội - chính trị của một quốc gia; gồm cả chủ quyền, kinh tế biển, công nghiệp phục vụ kinh tế biển, giao thông vận tải biển, địa lý tài nguyên và môi trường biển...
Theo đó, các nền công nghiệp từ kinh tế biển Việt Nam bao gồm: khoáng sản biển khơi, đánh bắt và nuôi trồng; vận tải tàu biển; nhà nước và quốc phòng; du lịch và giải trí biển, các dịch vụ biển; nghiên cứu giáo dục biển; chế tạo - chế biến; xây dựng biển...
Thứ hai, kinh tế biển được định nghĩa bằng cách nhận rõ sự phân biệt giữa hoạt động biển và phi biển. Một số hoạt động như đánh bắt và vận chuyển trên biển bằng tàu, phà là lệ thuộc vào biển; nhưng có những hoạt động khác lại khó phân loại chẳng hạn như du lịch chỉ một phần lệ thuộc biển, có những hoạt động mua sắm trên bờ hoàn toàn không lệ thuộc vào biển...
Từ cách quan niệm trên chúng ta có thể nhận thức rõ hơn về từng ngành kinh tế biển như sau:
Khoáng sản biển khơi - bao gồm các tài nguyên khoáng sản như dầu khí, muối, cát và các loại khoáng sản khai thác từ biển.
Đánh bắt và nuôi trồng - bao gồm bán cá trên tàu, chế biến hải sản, hoạt động bán buôn nuôi trồng và các dịch vụ về đánh bắt nuôi trồng.
Vận tải tàu biển - bao gồm vận tải hàng hoá và hành khách, bến du thuyền và hoạt động bến cảng.
Nhà nước và quốc phòng - bao gồm các căn cứ hải quân, bến tàu, và các chiến dịch tuần tra bảo vệ duyên hải và các hoạt động quản lý biển.
Du lịch và giải trí biển - bao gồm du lịch các địa phương duyên hải của du khách trong nước hoặc nước ngoài.
Các dịch vụ biển liên quan đến biển và kinh tế biển.
Nghiên cứu và giáo dục - bao gồm nghiên cứu biển và giáo dục biển.
Chế tạo các loại máy móc thiết bị phục vụ cho khai thác biển.
Xây dựng biển bao gồm đóng tàu và xây dựng cơ sở hạ tầng, cảng biển...
Nếu kinh tế biển được nhận thức rộng như trên thì nước ta đang nắm trong tay một quyền sở hữu tài nguyên về biển to lớn, đầy tiềm năng để phát triển và cũng gồm cả những thách thức lớn cần được nhận rõ để chủ động khai thác tiềm năng ấy. Trên thực tế nó chưa được khai thác và phát huy đầy đủ. Xây dựng chiến lược phát triển kinh tế biển Việt Nam một cách toàn diện và khoa học để góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội là việc làm cần thiết.
Chính sự phát triển của lực lượng sản xuất mới quy định và làm rõ nét quan hệ sản xuất và các quan hệ xã hội khác có gắn bó với kinh tế. Logic này cũng phù hợp với quá trình phát triển kinh tế biển của Việt Nam. Việc chuyển hoá những tài nguyên và tiềm năng ấy thành hiện thực được hay không lại tuỳ thuộc phần quan trọng vào yếu tố lực lượng sản xuất hàng đầu là đội ngũ công nhân CNĐT.
Về công nghiệp đóng tàu:
Trong thực tế, ngành CNĐT có lịch sử hình thành từ rất sớm, đặc biệt từ những thế kỷ XVI - XIX nó đã có những bước tiến vượt bậc ở các nước Châu Âu có nền công nghiệp phát triển như: Anh, Đức, Pháp, Hà Lan, Ba Lan, Nauy, Đan Mạch...Vào những thế kỷ này, do nhiều phát kiến mới về địa lý, nhu cầu phát triển của CNTB cùng những cuộc tìm kiếm thị trường trên thế giới đã lấy đường biển làm con đường chính, phát triển công nghiệp đóng tàu và hải quân làm phương tiện thực dân chủ đạo để CNTB thoả mãn khát vọng xâm chiếm của nó. Công nghiệp đóng tàu của những nước đế quốc theo đó, đã khá phát triển; lịch sử phát triển ngành đóng tàu ngay từ giai đoạn này đã mang dấu ấn chính trị - xã hội rõ nét; các đế quốc như Anh, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha là những nước có hạm đội mạnh và ngành CNĐT phát triển sớm. ít có lĩnh vực kinh tế - kỹ thuật nào mang rõ nét tính chất chính trị - xã hội như ngành công nghiệp này. Và, cũng hiếm có quốc gia hiện đại nào có biển mà lại không quan tâm và có chính sách riêng với ngành công nghiệp đặc thù này.
Ngày nay, sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất hiện đại, xu thế hội nhập và giao thương quốc tế...đã làm tăng cường tính chất chuyên môn hoá, xã hội hoá cao trong phân công lao động quốc tế và làm biến chuyển mạnh mẽ ngành CNĐT. Ngành công nghiệp này đang có xu hướng phát triển, dịch chuyển từ các nước vốn có truyền thống về nghề đóng tàu sang các nước như Hàn Quốc, Trung Quốc, Nhật Bản, Singapore... Xu hướng này khiến cho CNĐT cùng với sự phát triển nhân lực, công nghệ, vốn, thị trường... cho nghề này đang có xu hướng toàn cầu hoá.
Công nghiệp đóng tàu là một ngành sản xuất vật chất trên cơ sở ngành công nghiệp cơ khí (thiết kế vật liệu, vỏ tàu, máy tàu, điện tàu,...) tích hợp với nhiều chuyên ngành khác (như hải dương học, vận tải biển, khai thác biển và cả công nghiệp quốc phòng, hải quân...) Đây là lĩnh vực lao động công nghiệp hiện đại trong đó người công nhân sử dụng các tư liệu lao động để trực tiếp biến đổi đối tượng lao động thành sản phẩm phục vụ cho kinh tế biển. Thông qua quá trình công nghệ nhất định người ta làm thay đổi hình dạng, kích thước bên ngoài, thay đổi tính chất cơ lý - hoá bên trong của các vật liệu để tạo ra các sản phẩm đóng tàu. Kết quả của hoạt động đóng tàu là tạo ra các tàu vận tải, tàu đẩy, tàu chuyên dụng và các thiết bị nổi hoạt động trên ao, hồ, sông biển...
Để phát triển ngành CNĐT cần phải đáp ứng đủ những đặc thù cơ bản sau:
Công nghiệp đóng tàu là một ngành cơ khí kỹ thuật cao, công nghệ luôn được cải tiến, đổi mới nên công nhân cũng phải thường xuyên bổ sung, cập nhật những công nghệ mới trong quá trình lao động sản xuất các sản phẩm tàu đa dạng. Công nghiệp đóng tàu phát triển lại đòi hỏi phải có một nền công nghiệp cơ khí phát triển đa ngành đủ mạnh có nhiều ngành cung ứng các loại nguyên nhiên vật liệu...
Đây là một ngành đòi hỏi sự đầu tư vốn ban đầu rất lớn trong xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, thiết bị, bến bãi... để tiến hành sản xuất. Nếu chỉ tính xây dựng một ụ nổi và hệ thống triền, đà đã lên tới hàng trăm tỷ đồng, riêng một thiết bị cẩu nâng bình thường loại 80 tấn đã mất khoảng 150 - 200 tỷ đồng, các phương tiện công cụ máy móc nguyên vật liệu để tiến hành thiết kế, chế tạo... giá rất đắt và thường chúng ta phải nhập khẩu. Khả năng quay vòng vốn lại rất chậm, trong quá trình sản xuất thường gặp rủi ro tương đối cao so với ngành sản xuất khác vì bạn hàng cũng mang tính lựa chọn bởi không phải quốc gia nào cũng có biển và có nhu cầu đóng mới hay sửa chữa tàu biển.
CNĐT có tính tuỳ thuộc khá lớn vào các yếu tố của điều kiện tự nhiên như vị trí địa lý, thời tiết, diện tích bến bãi nhà xưởng phải đủ rộng để bố trí phù hợp các xưởng gia công thuận tiện cho sản xuất lắp ráp các phân đoạn và các tổng đoạn... Trong đó, đặc biệt là phải có hệ thống cảng sông, cảng biển phát triển đạt tiêu chuẩn yêu cầu riêng của quá trình sản xuất đóng mới và sửa chữa hạ thuỷ từng loại tàu.
Tuy vậy ngành CNĐT cũng là một ngành công nghiệp có khả năng gây ra ô nhiễm môi trường lớn, do đó, trong quá trình đề ra mục tiêu chiến lược phát triển ngành, kinh nghiệm của các nước đi trước cho biết là cần phải gắn liền với việc đề ra các chính sách giải pháp xử lý vấn đề môi trường ngay từ đầu. Theo đó, ngành CNĐT có những yêu cầu đặc thù về kinh tế kỹ thuật.
Đồng thời đây cũng là ngành kinh tế mà muốn phát triển cần phải thoả mãn nhiều yêu cầu kinh tế - chính trị - xã hội; chẳng hạn nó có tiền đề từ việc đẩy mạnh quá trình hợp tác kinh tế quốc tế, phát triển đa ngành nghề, có tiềm lực kinh tế đủ khả năng xuất nhập khẩu lưu thông hàng hoá với khối lượng lớn, có quan hệ rộng tạo điều kiện thúc đẩy sự giao lưu thương mại dịch vụ, du lịch với các nước...
Trong đó, vấn đề quan trọng hàng đầu là phải có một nền kinh tế biển với một trình độ khai thác biển phát triển mạnh mẽ tạo ra được nhu cầu lớn về các phương tiện tàu trong thăm dò, khai thác, vận tải biển. Chính sự phát triển kinh tế biển nó là động lực trực tiếp cho sự phát triển ngành CNĐT thuỷ phát triển. Ngành CNĐT muốn phát triển vì thế, còn đòi hỏi các quốc gia phải có một chiến lược phát triển toàn diện nền kinh tế, đặc biệt là phát triển kinh tế biển.
Mối quan hệ giữa kinh tế biển với ngành công nghiệp đóng tàu:
Kinh tế biển và ngành CNĐT là hai ngành có mối quan hệ biện chứng tạo tiền đề, động lực thúc đẩy lẫn nhau cùng phát triển.
Muốn phát triển kinh tế biển một cách thuận lợi tất yếu phải phát triển ngành CNĐT vì nó chính là hạ tầng cơ sở cho sự phát triển của kinh tế biển. Bởi lẽ, bất kỳ một hoạt động kinh tế nào có liên quan đến biển cũng như quá trình phát triển kinh tế biển đều phải sử dụng các sản phẩm của ngành CNĐT. Từ hoạt động thăm dò biển, nghiên cứu biển đến nuôi trồng và khai thác các nguồn tài nguyên biển cũng như vận tải biển, du lịch biển, bảo vệ môi trường biển và bảo vệ an ninh quốc phòng biển của xã hội nhất thiết cần phải có các phương tiện, công cụ các loại tàu và các thiết bị nổi của ngành CNĐT làm cơ sở cho sự làm chủ đại dương...
Mặt khác, muốn phát triển ngành CNĐT trước hết phải có hệ thống cảng sông, cảng biển...mới tạo ra những điều kiện thích hợp cho xây dựng các cơ sở nhà máy đóng mới và sửa chữa tàu biển. Ngành CNĐT thuỷ ra đời và phát triển phụ thuộc hoàn toàn vào điều kiện tự nhiên đó là phải có biển. Không những thế, ngành CNĐT chỉ có thể phát triển được khi và chỉ khi trình độ kinh tế biển của các nước phát triển tới một trình độ nhất định đưa đến sự giao lưu kinh tế quốc tế hoá giữa các nền kinh tế và các ngành kinh tế mới tạo ra các nhu cầu đa dạng về các loại phương tiện, công cụ tàu lớn trên thực tế cho sự phát triển ngành CNĐT.
Trong lịch sử cũng như hiện tại phát triển kinh tế biển vốn là một trong những nội dung kinh tế quan trọng mang tính chiến lược của các quốc gia có biển. Nếu nhìn rộng hơn sẽ thấy rõ lịch sử xã hội loài người trong quá trình phát triển luôn gắn liền với nguồn nước, dòng sông, biển cả. Các trung tâm văn minh cổ xưa đều nằm bên cạnh các dòng sông lớn của khu vực và từ đó phát triển tiến dần ra biển. Đây chính là điều kiện cần và đủ làm cho ngành giao thông thuỷ và hàng hải ra đời, phát triển mạnh mẽ. Trên thực tế, quyền lực trên biển luôn thuộc về những quốc gia nào có “cánh buồm lớn nhất” quốc gia đó sẽ đi nhanh nhất và phát triển nhất về kinh tế biển. Điển hình cho sự phát triển hướng ra biển đó là các cường quốc: Anh, Đức, Mỹ, Nga, Tây Ban Nha, Ba Lan, Hà Lan... họ đã có mặt khắp các đại dương và chính các quốc gia này cũng đã khai thác được những nguồn tài nguyên từ biển lớn nhất cho sự phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia mình. Trong những năm gần đây, các nước ở khu vực châu á, như Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc, Singapore... có những bước phát triển nhanh chóng về kinh tế biển. Họ đã có ý thức về kinh tế biển và tận dụng và khai thác có hiệu quả những lợi thế kinh tế từ biển của mình.
Việt Nam có một tiềm năng to lớn về biển và có điều kiện rất thích hợp để có thể xây dựng phát triển các ngành công nghiệp biển, đặc biệt là ngành công nghiệp đóng mới và sửa chữa tàu biển có tầm vóc và vị thế trong khu vực và quốc tế. Thực tế sự phát triển của các nước cho thấy để khai thác được những tiềm năng lợi thế từ biển phải có một ngành CNĐT phát triển cung cấp những phương tiện đảm bảo cho sự khám phá, chinh phục Đại dương một cách chủ động và khai thác có hiệu quả các nguồn tài nguyên từ biển, môi trường biển. Nhưng mặt khác, để phát triển được ngành CNĐT, tất yếu cần phải có một mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế biển một cách toàn diện.
ở nước ta, biển chiếm một vị trí đặc biệt quan trọng, việc xác định phát triển kinh tế biển gắn liền với phát triển ngành CNĐT tiên tiến, hiện đại, phục vụ đắc lực cho quá trình khai thác và phát triển kinh tế biển thúc đẩy sự chuyển hướng cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH đất nước và bảo vệ an ninh, quốc phòng... phải là một mục tiêu của chiến lược phát triển. Nhận thức rõ tầm quan trọng của vấn đề này hiện Đảng và Nhà nước ta đã đề ra chiến lược phát triển kinh tế biển và ngành CNĐT như sau:
Mục tiêu, chiến lược phát triển kinh tế biển:
Căn cứ vào xu thế phát triển của thế giới hiện đang trong thời kỳ hướng ra biển nhằm khai thác những tiềm năng, lợi thế từ biển; đồng thời xuất phát từ nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ đất nước ta trước mắt và lâu dài; gần đây Bộ Chính trị đã có hẳn một nghị quyết về phát triển kinh tế biển, đảo. Hội nghị BCH TW lần thứ 4 khoá X ngày 26/1/2007 đã bàn và đưa ra nghị quyết về 5 vấn đề trọng yếu của đất nước, trong đó có vấn đề chiến lược biển Việt Nam với mục tiêu tổng quát như sau: "Đến năm 2020 phấn đấu đưa nước ta trở thành quốc gia mạnh về biển, giàu lên từ biển, bảo đảm vững chắc chủ quyền quốc gia trên biển, đảo, góp phần quan trọng trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, làm cho đất nước giàu mạnh" [2, tr.33].
Từ mục tiêu tổng quát trên Ban chấp hành Trung ương Đảng đề ra 3 mục tiêu cụ thể như sau:
Một là, bảo vệ vững chắc chủ quyền quốc gia biển, xây dựng một vùng biển hoà bình, ổn định và hợp tác cùng phát triển với các nước.
Hai là, phát triển toàn diện các lĩnh vực kinh tế - xã hội, khoa học, công nghệ quốc phòng an ninh làm cho đất nước giàu mạnh lên từ biển, bảo vệ môi trường biển.
Ba là, nâng cao chất lượng phát triển, phấn đấu đến năm 2020 kinh tế biển và ven biển, đóng góp khoảng 53 – 55% giá trị GDP cả nước.
Từ những mục tiêu cơ bản trên Đảng ta cũng đã vạch ra định hướng ưu tiên phát triển có trọng tâm, trọng điểm những ngành kinh tế có lợi thế so sánh sau: Thăm dò, khai thác và chế biến các sản phẩm dầu khí; phát triển hệ thống các cảng biển, vận tải biển; kinh tế hàng hải và công nghiệp đóng tàu; khai thác đánh bắt thuỷ sản; phát triển du lịch và kinh tế biển, đảo. Trong đó, phát triển ngành CNĐT được xem là ngành chủ đạo làm đòn bẩy cho quá trình thực hiện thắng lợi mục tiêu chiến lược kinh tế biển của Đảng, Nhà nước ta.
Hiện nay, Thủ tướng Chính phủ đã ký ban hành nhiều quyết định quan trọng cho sự phát triển ngành công nghiệp đóng tàu thuỷ Việt Nam. Cụ thể là quyết định số 1420/QĐ.TTg về đề án phê duyệt phát triển Tổng Công ty Công nghiệp tàu thuỷ Việt Nam giai đoạn 2001 - 2010 Hà Nội ngày 2/11/2001. Tiếp theo thủ tướng Chính phủ đã ký quyết định số 1106/QĐ.TTg về phê duyệt đề án điều chỉnh phát triển Tổng công ty CNTT Việt Nam giai đoạn 2005 - 2010 và định hướng 2015 Hà Nội ngày 18/10/2005.
Quan điểm, mục tiêu phát triển ngành CNTT Việt Nam:
+ Quan điểm chỉ đạo cho việc phát triển CNTT Việt Nam
Thứ nhất, xây dựng phát triển Tổng Công ty CNTT Việt Nam trở thành tập đoàn kinh tế mạnh hoạt động theo mô hình Công ty mẹ, Công ty con, kinh doanh đa ngành, đa sở hữu (trong đó sở hữu Nhà nước chiếm tỷ lệ chi phối), có trình độ công nghệ tiên tiến, quản lý hiện đại làm nòng cốt cho ngành tàu thuỷ Việt Nam. Nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong điều kiện hội nhập và cạnh tranh quốc tế.
Thứ hai, xây dựng Tổng Công ty CNTT Việt Nam phát triển theo hướng đa ngành, lấy đóng mới và sửa chữa tàu thuỷ là chính, phát triển các ngành nghề khác trên nguyên tắc là những ngành hỗ trợ cho ngành đóng tàu. Theo đó Tổng Công ty được hoạt động trong một số lĩnh vực hàng hải, phát triển vận tải biển, vận tải sông và các ngành phụ trợ; hoạt động trong một số lĩnh vực tài chính theo quy định của pháp luật và sự chấp thuận của cơ quan có thẩm quyền. Tự thu xếp vốn, tự liên doanh, liên kết trong việc phát triển công nghiệp và các dịch vụ khác để đảm bảo thực hiện sản xuất kinh doanh có hiệu quả.
Thứ ba, Tổng Công ty thực hiện chiến lược sản phẩm mẫu, sản phẩm trọng điểm, sản phẩm mũi nhọn, làm chủ công nghệ tiên tiến để nâng cao chất lượng sản phẩm nhằm mở rộng thị trường, xuất khẩu ngày càng nhiều và đáp ứng nhu cầu về các loại phương tiện trong nước.
+ Mục tiêu phát triển công nghiệp tàu thuỷ
Đóng mới được các loại tàu hàng có trọng tải tới 80.000 tấn riêng tàu chở dầu thô có trọng tải từ 100.000 tấn đến 300.000 tấn. Tàu container có sức chứa đến 3.000 TEU, các loại tàu khách, tàu công trình, tàu dịch vụ dầu khí, tàu đánh cá xa bờ, tàu chế biến hải sản, tàu cứu hộ, tàu bảo đảm hàng hải, tàu đẩy trên sông và ven biển, tàu LASH, tàu tuần tra và tàu thông dụng.
Sửa chữa được tàu có trọng tải tới 400.000 tấn.
Đầu tư các ngành công nghiệp phụ trợ để hỗ trợ cho ngành công nghiệp đóng tàu. Đến năm 2010 phấn đấu thực hiện các mục tiêu sau:
Sản xuất thép tấm đóng tàu thông dụng.
Lắp ráp và sản xuất động cơ diesel đến 22.000 sức ngựa.
Sản xuất Container các loại.
Sản xuất các thiết bị như: điện tàu thuỷ, trang bị trên boong tàu thuỷ, phương tiện cứu sinh, hộp số và chân vịt, nồi hơi tàu thuỷ, nội thất tàu thuỷ…Vận tải biển và vận tải sông, từng bước nâng cao năng lực và hiệu quả hoạt động của đội tàu vận tải biển, vận tải sông và các cơ sở dịch vụ hàng hải.
Vấn đề cấp bách nhất đang đặt ra hiện nay là: muốn xây dựng phát triển được ngành CNĐT đáp ứng yêu cầu của quá trình khai thác phát triển kinh tế biển chúng ta phải xây dựng và phát triển nguồn nhân lực đủ mạnh cả về số lượng và chất lượng ngang tầm với sự nghiệp CNH, HĐH đất nước và đảm bảo năng lực cạnh tranh trên trường quốc tế.
1.1.2. Đặc điểm của công nhân ngành công nghiệp đóng tàu
Công nhân CNĐT là những người sản xuất vật chất trong lĩnh vực thuộc ngành công nghiệp đóng mới và sửa chữa tàu thuỷ. Họ gồm những người có chuyên môn kỹ thuật - tay nghề cao, lao động trực tiếp hoặc gián tiếp tham gia vận hành các công cụ lao động cơ khí chính xác có tính chất công nghiệp ngày càng tiên tiến hiện đại hoá cao. Họ đóng một vị trí vai trò đặc biệt quan trọng trong hệ thống dây chuyền công nghệ sản xuất đóng mới và sửa chữa đa dạng các phương tiện tàu thuỷ: vừa là một bộ phận cấu thành của lực lượng sản xuất vừa là người làm chủ, vận hành nền sản xuất tiên tiến ấy.
Giai cấp công nhân nói chung, đội ngũ công nhân ngành CNĐT nói riêng đều là sản phẩm và là chủ thể của nền đại công nghiệp. Tư tưởng của C. Mác và Ph. Ăngghen đang được chính thực tiễn sản xuất hiện đại khẳng định và làm tươi mới. Công nhân CNĐT cũng mang trong mình những điểm chung thống nhất với đặc điểm của GCCN, song do tính đặc thù của ngành nên đội ngũ công nhân này còn có những đặc điểm khác biệt như sau:
Hầu hết các ngành công nghiệp hiện đại đều tích hợp trong sản phẩm tàu thuỷ, từ công nghiệp nặng, cơ khí chính xác, hoá công nghiệp đến công nghệ thông tin, công nghệ hải dương; gần đây các tàu thuyền đều định vị bằng vệ tinh – ngành đóng tàu hiển nhiên phải tiếp hợp với công nghệ định vị – viễn thám từ vũ trụ... Đặc trưng nghề nghiệp ấy đòi hỏi hệ tri thức đa dạng và chuyên sâu của công nhân CNĐT.
Ngành CNĐT là ngành kỹ thuật có tính chính xác cao yêu cầu đội ngũ công nhân ngành CNĐT phải là người lao động được đào tạo một cách căn bản chuyên sâu. Hơn nữa, do sự phát triển khoa học kỹ thuật và công nghệ trong ngành cơ khí thường xuyên thay đổi và các sản phẩm tàu ngày càng đòi hỏi chất lượng phục vụ cao theo nhu cầu của khách hàng. Điều này đòi hỏi người lao động trong ngành CNĐT phải có kinh nghiệm thực tế, thường xuyên được đào tạo và đào tạo lại để cập nhật những công nghệ mới, ứng dụng vào trong quá trình sản xuất. Hiện các sản phẩm đóng tàu mà họ tạo ra nó ngày càng đòi hỏi tính năng kỹ thuật, công nghệ cao, trọng tải lớn, vận hành với tốc độ cao. Phải đáp ứng mọi tiêu chuẩn nghiêm ngặt của các cục đăng kiểm quốc tế, đảm bảo các sản phẩm tàu có độ bền thích nghi với mọi điều kiện thời tiết, khí hậu và nước biển với mức độ an toàn cao trên mặt nước và hoạt động dưới nước. Do đó, đây là một ngành kinh tế kỹ thuật có sự tích hợp nhiều nghề chuyên sâu trong quá trình sản xuất như kỹ năng nghề cắt tôn, sơn, gò, hàn, thiết kế vỏ tàu, điện tàu, triền đà, ụ, lái tàu, lái cẩu...giữa các công đoạn sản xuất nó đòi hỏi tính năng cơ số hoá trong từng chi tiết phải đạt độ chính xác cao theo mẫu thiết kế và sử dụng các phương tiện công cụ hiện đại bán tự động và tự động hoá cao trong sản xuất thi công.
Tính chất xã hội hoá được thể hiện khá rõ trong lao động và trong sinh hoạt của công nhân CNĐT. Do tính chất đặc thù nghề nghiệp người lao động trong ngành công nghiệp cơ khí kỹ thuật này, đòi hỏi đội ngũ công nhân lao động trong ngành phải có tính tổ chức, kỷ luật cao. Kỷ luật công nghiệp và yêu cầu bán quân sự đã rèn luyện cho công nhân CNĐT tác phong công nghiệp. Vì, đội ngũ công nhân này phải làm việc trong các môi trường nhà xưởng tách biệt, tạo ra các phân đoạn, tổng đoạn theo từng loại modul khác nhau trong một sản phẩm tàu điều đó yêu cầu tính chính xác rất cao giữa các công đoạn ấy để tạo ra sản phẩm mới hoàn thiện. Đòi hỏi những người công nhân phải có sự liên kết, phối hợp chặt chẽ với nhau trong quá trình thiết kế và thi công.
Do điều kiện lao động sản xuất đặc thù của ngành, an toàn lao động cho công nhân CNĐT vì vậy cũng có những sắc thái riêng. Phải lao động, làm việc trong điều kiện hết sức nguy hiểm liên quan đến tính mạng, sức khoẻ. Trên các hệ thống thiết bị cơ khí nâng hạ hàng trăm, hàng nghìn tấn sắt thép, trong không gian chật hẹp, trên hệ thống triền đà rất phức tạp nên tai nạn lao động dễ xảy ra. Quá trình lao động của công nhân lại thường diễn ra trên hệ thống triền đà, ụ ở trên cao hàng chục mét, có khi phải lao động ở dưới nước, trong hầm tàu với khoảng không gian chật hẹp, xoay xở khó khăn, phức tạp... nên có khá nhiều rủi ro trong lao động - cả cho người lao động và cả cho sản phẩm của công nghiệp đóng tàu. Quá trình sản xuất: sơn, ._.hàn, gò... người lao động phải đối mặt trực tiếp với các loại bụi hoá chất, phóng xạ rất độc hại, ảnh hưởng nguy hiểm đến trí tuệ và sức khoẻ. Buộc người lao động trong ngành này phải nghiêm chỉnh chấp hành các nội quy, quy định của Luật lao động và Luật an toàn lao động khi tiến hành lao động, sản xuất.
Công nhân CNĐT còn phải nắm được những yếu tố, điều kiện tự nhiên và có kinh nghiệm, kỹ năng thực hành để có thể đưa ra những giải pháp linh hoạt phù hợp để tận dụng khai thác tốt nhất những điều kiện tự nhiên để đảm bảo nâng cao chất lượng hiệu quả lao động. Ví dụ, trong quá trình sản xuất phải lợi dụng thuỷ triều để có thể đưa tàu vào âu, ụ, hay để hạ thuỷ một cách an toàn...
Trên đây là những nét khác biệt cơ bản của đội ngũ công nhân ngành công nghiệp đóng tàu, nó luôn quy định đội ngũ công nhân ngành này phải luôn cập nhật và tự rèn dũa, tích luỹ kinh nghiệm, kỹ năng tay nghề của mình, đáp ứng yêu cầu sản xuất và phát triển của ngành.
Từ thực tiễn và lý luận, chúng tôi quan niệm: Công nhân công nghiệp đóng tàu là bộ phận cấu thành của giai cấp công nhân nói chung. Họ là những người lao động trực tiếp và gián tiếp tham gia vào quá trình sản xuất, tái sản xuất ra các sản phẩm của ngành công nghiệp đóng tàu. Họ là những người có trình độ tay nghề chuyên môn kỹ thuật cao, là người đại diện tiêu biểu cho trình độ phát triển của lực lượng sản xuất có tính chất chuyên môn hoá, xã hội hoá cao trong ngành công nghiệp đóng mới và sửa chữa tàu thuỷ. Họ là người góp phần quyết định vào năng lực và hiệu quả khai thác kinh tế biển của đất nước.
1.2. Những yếu tố quy định sự phát triển của công nhân ngành công nghiệp đóng tàu
1.2.1. Vai trò của công nhân ngành Công nghiệp đóng tàu
Trong bất kỳ một lĩnh vực lao động sản xuất nào người lao động luôn đóng vai trò quan trọng, quyết định trực tiếp nhất tới sự phát triển sản xuất và tăng năng suất lao động. Ngày nay, khoa học kỹ thuật và công nghệ trên thế giới không ngừng được phát triển, hàm lượng chất xám trong các sản phẩm hàng hoá ngày càng tăng cao, vai trò của người lao động lại càng có vị trí quan trọng hơn bao giờ hết trong lực lượng sản xuất. Vì con người chính là một bộ phận quan trọng nhất cấu thành lực lượng sản xuất trong mọi thời kỳ, con người vừa là điểm khởi đầu nhưng cũng là đích đến trong mọi sáng kiến phát minh, ứng dụng sáng tạo các thành tựu khoa học kỹ thuật và công nghệ vào trong quá trình sản xuất, phát triển kinh tế - xã hội. V.I Lênin đã chỉ ra rằng: “lực lượng sản xuất hàng đầu của toàn thể nhân loại là công nhân, là người lao động” [18, tr.430].
Đội ngũ công nhân ngành CNĐT là yếu tố quan trọng hàng đầu cho sự phát triển của ngành công nghiệp đóng tàu. Trong điều kiện kinh tế, kỹ thuật phát triển ngày càng hiện đại với quá trình quốc tế hoá cạnh tranh gay gắt như hiện nay cần phải có nguồn lực con người và chất lượng nguồn lực con người ngày càng cao. Họ là lực lượng lao động đông đảo bao gồm cả các kỹ sư, kỹ thuật viên và những người thợ lành nghề ở những cấp bậc khác nhau đang làm chủ những tri thức khoa học kỹ thuật và công nghệ tiên tiến, có kinh nghiệm và sự am hiểu sâu sắc những nhân tố tự nhiên tác động đến các quy trình sản xuất đóng mới và sửa chữa tàu thuỷ.
Hiện nay, đội ngũ công nhân ngành CNĐT là những người tiền phong trong nắm bắt và ứng dụng các thành tựu khoa học và công nghệ tiên tiến ấy vào trong các quy trình sản xuất đóng mới và sửa chữa đa dạng các phương tiện tàu thuỷ. Hơn nữa họ còn là người tham gia trực tiếp vào việc đổi mới công tác tổ chức sản xuất, cải thiện môi trường lao động trong các nhà máy. Họ là những người thường xuyên đóng góp những ý kiến về chuyên môn còn bất cập trong quá trình lao động sản xuất của các nhà máy đóng tàu. Từ đó giúp các doanh nghiệp đưa ra những phương hướng, giải pháp tối ưu nhằm đổi mới phương thức sản xuất, phương thức lao động, cải tiến công cụ lao động và công nghệ phù hợp với yêu cầu sản xuất, giảm thiểu chi phí sản xuất và rút ngắn thời gian thi công đóng mới và sửa chữa tàu, đem lại năng suất, chất lượng và hiệu quả kinh tế cao.
Mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế hướng ra biển của các quốc gia có thực hiện một cách hiệu quả hay không tuỳ thuộc một phần quan trọng vào sự phát triển mọi mặt của đội ngũ công nhân ngành CNĐT. Tất cả mọi hoạt động kinh tế trên biển và liên quan đến biển, từ đánh bắt nuôi trồng thuỷ hải sản, thăm dò, khai thác các loại tài nguyên khoáng sản biển cho đến các hoạt động thương mại chu chuyển, dịch vụ, cứu hộ, cứu nạn trên biển... hoàn toàn phụ thuộc ở các phương tiện, công cụ do đội ngũ công nhân ngành CNĐT tạo ra. Họ là những người quyết định tạo ra các sản phẩm đó để thăm dò, khai thác một cách có hiệu quả những lợi thế về nguồn tài nguyên biển.
Ngoài những vị trí, vai trò nêu trên, đội ngũ công nhân ngành công nghiệp đóng tàu còn đóng vai quan trọng trong việc tạo ra các phương tiện, công cụ phục vụ cho các hoạt động tác chiến về an ninh quốc phòng trên biển: Chế tạo, đóng mới và sửa chữa những loại tàu đặc chủng chuyên dụng có tính năng hiện đại, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao cho các hoạt động tuần tiễu, khu trục các tàu xâm phạm lãnh hải quốc gia, giám sát việc buôn bán trên biển góp phần bảo vệ vững chắc toàn vẹn chủ quyền biên giới quốc gia.
1.2.2. Những nhu cầu thực tiễn cơ bản qui định sự phát triển của công nhân ngành công nghiệp đóng tàu
- Nhu cầu nội tại của ngành công nghiệp đóng tàu là tác động trực tiếp
Thế kỷ XXI, tàu biển thế giới phát triển theo 3 tiêu chí quan trọng sau: An toàn, trọng tải lớn, giảm ô nhiễm môi trường. Đây thực sự là một cuộc cạnh tranh gay gắt trong lĩnh vực công nghệ đóng tàu tiên tiến; thời gian hoàn thành đúng hạn; nhân công chất lượng kỹ thuật cao. Đảm bảo sự rút ngắn thời gian sản xuất, giảm chi phí sản xuất, sản phẩm đạt tiêu chuẩn quốc tế, giá thành sản phẩm phù hợp.
Ngành CNĐT cũng không nằm ngoài quy luật khách quan của xu thế ấy. Trước đây, ngành CNĐT chỉ đơn thuần đóng các phương tiện phục vụ cho ngành giao thông đường thuỷ đi lại và vận chuyển hàng hoá thông thường là chủ yếu. Nhưng cùng với sự phát triển mạnh mẽ của các nền kinh tế biển, khai thác biển của các nước trên thế giới hiện nay, công nghiệp đóng mới và sửa chữa tàu biển trên thế giới những năm gần đây đã và đang có những bước tiến vượt bậc về chất để đáp ứng nhu cầu, trình độ phát triển kinh tế biển không ngừng gia tăng của các quốc gia. Nhu cầu phát triển đó đòi hỏi ngành CNĐT và đội ngũ công nhân ngành phải tạo ra các sản phẩm tàu có chất lượng và trọng tải lớn hoạt động với tốc độ cao, đảm bảo an toàn, thuận tiện cho việc bốc, xếp dỡ hàng hoá và hành khách trên tàu với yêu cầu đòi hỏi ngày càng cao.
Chính nhu cầu đó làm cho ngành CNĐT phải không ngừng đổi mới, cải tiến kỹ thuật và công nghệ phù hợp với thực tiễn và hình thành hàng loạt xu hướng mới. Hiện có ba xu hướng tiêu biểu: xu hướng cơ khí hoá - điện khí hoá - tự động hoá trong công nghệ đóng tàu đáp ứng tính năng kỹ thuật công nghệ cao, đạt các tiêu chuẩn đăng kiểm nghiêm ngặt trong nước và quốc tế; Xu hướng nâng cao năng lực đóng tàu có tải trọng lớn - siêu trường, siêu trọng với khối lượng khổng lồ; Xu hướng đa dạng hoá các chủng loại tàu (chở khách, tàu chở dầu, chở hoá chất, chở hàng rời, tàu chuyên dụng...).
Hiện các nước có ngành CNĐT phát triển đang ứng dụng một cách nhanh chóng các thành tựu công nghệ mới vào quá trình sản xuất làm thay đổi tính chất từ một ngành công nghiệp cơ khí sử dụng nhân công là chính thì nay đã và đang được chuyển dần sang trở thành một ngành cơ khí kỹ thuật cao. Trong đó, các phần mềm tự động hoá ứng dụng công nghệ thông tin đóng vai trò chủ chốt trong các công đoạn sản xuất đóng mới và sửa chữa tàu thuỷ.
Ngành CNĐT hiện nay ở các nước phát triển như: Anh, Đức, Pháp, Na Uy, Hàn Quốc, Nhật Bản đã ứng dụng ngày càng phổ biến công nghệ thông tin phần mềm Shipconstructor, Nupas, Cadmatic vào trong các công việc có hàm lượng chất xám cao như khâu thiết kế, lập kế hoạch sản xuất, quản lý sản xuất, lắp ráp với những thiết bị dây chuyền máy móc ngày càng hiện đại.
Hiện Trung Quốc đang đẩy mạnh các dự án đầu tư, xây dựng các nhà máy mới cũng như các nhà máy hiện có lên gấp 2 lần đến năm 2008 và tăng lên gấp 3 lần đến năm 2015. Còn các nước như Hàn Quốc, Nhật Bản đang đi theo hướng hợp nhất các nhà máy để có những cơ sở sản xuất tàu biển lớn hơn và tập trung đầu tư những công nghệ tiên tiến nhất để đóng các sản phẩm tàu có tính năng kỹ thuật cao. Dự kiến trong 10 năm tới ba cường quốc đóng tàu châu á: Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản sẽ tiếp tục nắm giữ trên 80% lượng đơn đặt hàng đóng tàu trên toàn thế giới.
Các công nghệ đóng tàu theo kiểu sản xuất thủ công, đơn chiếc đã lần lượt thay thế bằng các công nghệ sản xuất đóng mới tiên tiến theo kiểu Module hiện đại. Các hoạt động trong sản xuất đóng mới không ngừng chuyển dần từ gia công cắt bằng tay sang các thiết bị gia công cơ khí dựa trên cơ sở cơ số hoá bằng các máy cắt CNC, hàn tự động, bằng máy phay chương trình, máy tiện bán tự động và tự động cơ khí chính xác cao... Sự chuyên môn hoá sản xuất theo từng công đoạn có tính năng di động thuận tiện giữa các công đoạn sản xuất và quá trình lắp ráp tổng đoạn trên hệ thống dây chuyền hết sức hiện đại có tính chính xác cao. Thực tế đó đang đòi hỏi đội ngũ công nhân ngành CNĐT phải không ngừng nâng cao trình độ về mọi mặt để có thể nắm bắt và làm chủ được những phương tiện công cụ tự động và bán tự động trong quá trình thiết kế và thi công chế tạo các phân đoạn, tổng đoạn, đến chế tạo máy và lắp đặt các chi tiết kết cấu phụ đến đấu các modulle trên, đà tàu,...
Ngành CNĐT Việt Nam trong những năm qua được Đảng và Chính phủ tạo cho những hành lang pháp lý thuận lợi, xây dựng thành một ngành công nghiệp mũi nhọn của đất nước. Hiện ngành đang tập trung mọi lực lượng đẩy mạnh quá trình hợp tác quốc tế với các nước có trình độ công nghệ đóng tàu phát triển của thế giới như Ba lan, Hà Lan, Anh, Na Uy, Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc,… Bước đầu đã thu được nhiều hợp đồng trong chuyển giao công nghệ và các hợp đồng đóng mới và sửa chữa tàu với giá trị hợp đồng lên tới hàng tỷ USD: Chúng ta đã ký với Công ty thương mại Đức MDC 8 tàu container loại 700TUE, dự án này sẽ mở đường cho Vinashin tiến tới đạt 2 Tỷ USD kim ngạch xuất khẩu đóng tàu vào năm 2010, cao hơn 17% so với kim ngạch tổng thể đặt ra trong giai đoạn 2006 - 2010. Riêng năm 2005 - 2007 đã ký thêm hơn chục cái hợp đồng đóng tàu có giá trị lớn cho các chủ tàu Nhật Bản, Anh, Balan trong đó nổi bật nhất là hợp đồng đóng mới tàu hàng 53.000ĐWT. Với tổng giá trị hợp đồng khoảng trên 450 triệu USD và hợp đồng đóng mới 9 tàu hàng loại 34.000ĐWT tổng giá trị là 238,5 triệu USD cho chủ tàu Vương Quốc Anh. Gần đây nhất Vinashin đã ký thêm 18 hợp đồng kinh tế khác với các đối tác nước ngoài và trong nước tại Triển lãm quốc tế về công nghệ tàu thuỷ, hàng hải và vận tải lần thứ 3 - Vietship 2/2006. Chỉ tính riêng 2 hợp đồng cung cấp 3 tàu chở hàng, trọng tải mỗi tàu 8.700 ĐWT cho hãng Kannenmat (Nhật Bản) và 10 tàu đa năng có trọng tải mỗi tàu 4.500 tấn cho hãng tàu biển Clipper (Đan Mạch) đã mang về cho Vinashin khoảng 300 triệu USD, trong khi đó nhiều chủ tàu khác từ các nước tiên tiến trên thế giới đang tiếp tục đến đề nghị ký hợp đồng với Vinashin, đóng các loại tàu hàng có trọng tải từ 10.000ĐWT đến 56.000 ĐWT [3, tr.27].
Như vậy, với số hợp đồng đã ký và đang tiếp tục đàm phán để ký, tổng trị giá các hợp đồng đóng tàu xuất khẩu của Vinashin đã đạt trên 2 tỷ USD đến hết năm 2010 và theo ước tính các hợp đồng đã ký thì ngành CNĐT Việt Nam phải làm việc hết công suất đến năm 2015 mới thực hiện đủ các hợp đồng. Vấn đề đặt ra hiện nay là chúng ta làm như thế nào để thực hiện những hợp đồng trên theo đúng tiến độ bàn giao, giữ được uy tín cao với các bạn hàng quốc tế để chúng ta còn có cơ hội ký tiếp các hợp đồng đóng mới.
Thực tế ấy đòi hỏi ngành CNĐT Việt Nam phải không ngừng đầu tư, cải tiến, chuyển giao được những công nghệ mới tiên tiến của thế giới, áp dụng nhanh vào quá trình sản xuất. Với chiến lược đi tắt đón đầu về khoa học kỹ thuật và công nghệ, các nhà máy đóng tàu Việt Nam đang tập trung đầu tư các loại trang thiết bị và dây chuyền công nghệ mới như công nghệ cắt CNC, gia công cơ khí hàn tự động, thiết bị nâng hạ với sức nâng lớn, thiết bị đo lường, siêu âm, kiểm định kết quả phục vụ tốt nhất cho gia công tôn, thép tấm hàn và lắp ráp vỏ thân tàu thuỷ.
Vấn đề quan trọng hàng đầu của các nhà máy là phải xây dựng phát triển được một đội ngũ công nhân ngành CNĐT có trình độ tay nghề cao sớm thích ứng nhanh với quá trình sản xuất đóng mới và sửa chữa tàu biển hiện đại hiện nay. Trên thực tế ngành CNĐT ở nước ta hiện có nhiều nhà máy còn thiếu nghiêm trọng đội ngũ công nhân kỹ thuật lành nghề. Vì vậy, các sự cố kỹ thuật trong các loại trang thiết bị công nghệ mới nhập về thường xẩy ra làm gián đoạn quá trình sản xuất và giảm hiệu suất sử dụng máy, nhiều thiết bị khi cần sửa chữa thay phụ tùng phải chờ đợi và thuê chuyên gia nước ngoài khá tốn kém và mất thời gian.
Ngoài ra, trong xu thế toàn cầu hoá kinh tế quốc tế hiện nay đang đặt ra cho mọi ngành, mọi nghề phải không ngừng nghiên cứu áp dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật và công nghệ tiên tiến vào việc đổi mới cải tiến phương tiện, công cụ sản xuất của mình đáp ứng yêu cầu của quá trình sản xuất nhằm tạo ra các sản phẩm có chất lượng và đủ sức cạnh tranh cao trên trường quốc tế. Mặt khác xu thế hội nhập kinh tế trên cũng đang rất trọng phương tiện vận tải biển - cho đến nay, đây vẫn là ngành vận tải lớn nhất và có cước chuyên chở thấp nhất. Điều đó làm cho ngành giao thông đường thuỷ ngày càng chiếm vị trí quan trọng trong quá trình lưu thông, vận chuyển hàng hoá xuất, nhập khẩu.
- Cơ sở phát triển kinh tế biển cũng là một yếu tố quy định sự phát triển công nhân CNĐT
Việt Nam là một quốc gia có nền kinh tế biển đầy triển vọng. Việt Nam nằm ở ven bờ biển Đông với vùng biển đặc quyền kinh tế rộng khoảng 1 triệu km2, có trên 3000 hòn đảo lớn nhỏ, phân bố tập trung ở ven bờ Tây Vịnh Bắc Bộ (Quảng Ninh - Hải Phòng) và hai quần đảo ngoài khơi là Trường sa và Hoàng sa. Nhiều đảo có thể xây dựng thành các trung tâm kinh tế và dịch vụ cho các hoạt động khai thác biển xa cũng như các đảo, nhiều khu vực bờ biển nước ta có điều kiện về tự nhiên rất thuận lợi cho việc xây dựng các khu công nghiệp ven biển, đặc biệt là phát triển ngành công nghiệp đóng mới và sửa chữa tàu thuỷ. Trên cơ sở đó góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH các ngành công nghiệp, du lịch và an ninh quốc phòng biển, đảo.
Các nguồn tài nguyên của biển Việt Nam được thể hiện như sau:
Các nguồn tài nguyên biển hết sức phong phú có khả năng khai thác lớn đóng vai trò quan trọng cho sự tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Trong đó trước hết phải kể đến dầu khí là một nguồn tài nguyên mũi nhọn có ưu thế nổi trội của Việt Nam. Ngoài ra biển Việt Nam còn có khả năng nguồn lợi hải sản được đánh giá vào loại phong phú trong khu vực có nhiều loại đặc sản khác có giá trị kinh tế cao. Riêng cá biển đã phát hiện hơn 2000 loài khác nhau, trong đó có trên 100 loài có giá trị kinh tế cao. Dọc ven biển có trên 37 vạn hecta mặt nước có khả năng nuôi trồng thuỷ sản nước mặn-lợ, nhất là nuôi các loại đặc sản xuất khẩu như Tôm, Cua, Rong câu,... Bên cạnh đó, biển nước ta còn có các loại tài nguyên khoáng sản quan trọng có tiềm năng khác (ngoài dầu khí) như: than, sắt, titan, cát thuỷ tinh và các loại vật liệu xây dựng khác để phát triển nền kinh tế theo hướng công nghiệp hoa, hiện đại hoá.
Biển nước ta có vị trí hết sức quan trọng trong thực hiện chiến lược phát triển kinh tế hướng ra biển và hội nhập kinh tế với các nước trong khu vực và trên thế giới. Việt Nam nằm ở rìa biển Đông, án ngữ trên các tuyến hàng hải và hàng không huyết mạch thông thường giữa ấn Độ Dương và Thái Bình Dương, giữa Châu Âu, Trung Cận Đông với Trung Quốc, Nhật Bản và các nước trong khu vực. Biển Đông đóng vai trò là chiếc “cầu nối” cực kỳ quan trọng; là điều kiện rất thuận lợi để Việt Nam giao lưu kinh tế giữa nước ta với các nước trong khu vực và trên thế giới. Biển Việt Nam kéo dài với nhiều eo vịnh có khả năng phát triển hệ thống cảng biển và vận tải biển. Hiện dọc bờ biển Việt Nam đã có khoảng gần 90 cảng biển, trong đó nhiều khu vực có thể xây dựng các cảng lớn nước sâu như cảng Cái Lân và một số ở khu vực vịnh Hạ Long, Nghi Sơn, Hòn La-Vũng áng, Chân Mây, Đà Nẵng, Dung Quất, Văn Phong-Cam Ranh, Vũng Tàu....Chúng tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển các ngành công nghiệp biển đặc biệt trong ngành công nghiệp đóng mới và sửa chữa tàu thuỷ.
Biển Việt Nam còn chứa đựng nhiều tiềm năng du lịch có ưu thế đặc biệt, mở ra triển vọng khai thác tổng hợp để phát triển mạnh kinh tế biển. Với 3.000 hòn đảo lớn nhỏ đã xác định khoảng 125 bãi biển lớn và nhỏ thuận lợi cho phát triển du lịch, có dung lượng chứa khách cùng một lúc đến vài trăm ngàn người; trong đó có 20 bãi biển đạt quy mô và tiêu chuẩn quốc tế đã có thương hiệu trên thế giới. Các bãi biển Việt Nam nhìn chung là bằng phẳng nước trong sóng gió vừa phải, không có các ổ xoáy và cá dữ... rất thích hợp cho tắm biển và vui chơi giải trí trên biển. Sự kết hợp hài hoà giữa cảnh quan tự nhiên với cảnh quan văn hoá - xã hội của biển, vùng ven biển và các hải đảo đã tạo cho du lịch biển Việt Nam có lợi thế phát triển mạnh mẽ. Hiện trên 75% khách nước ngoài đến Việt Nam là du lịch biển, cũng như du lịch biển nội địa là rất lớn nhưng ngành du lịch biển chưa phát huy tương xứng với tiềm năng của biển.
Nguồn nhân lực dồi dào ven biển cũng là lợi thế rất quan trọng. Việt Nam có 28 tỉnh thành phố có biển gồm 38 quận, huyện với dân số khoảng 42 triệu người trên tổng số 81 triệu người trên cả nước có 121 quận huyện ven biển với trên 17 triệu người sinh sống, lao động, đang trong độ tuổi sung sức khoảng 12,8 triệu người chiếm 35,47% lao động cả nước. Tiềm năng lợi thế biển ở nước ta là hết sức to lớn, song hiện khả năng khai thác phát triển kinh tế biển đang còn ở trình độ thấp, đánh bắt ven bờ theo kiểu truyền thống bằng chài, lưới, câu,… là chủ yếu. Các ngành nghề biển như thăm dò tìm kiếm, khai thác vận chuyển chưa phát triển. Hầu hết các ngành nghề trên biển đang thiếu hụt các phương tiện công cụ tàu thuyền các loại có khả năng vươn ra xa làm chủ và khai thác biển khơi. Hiện nay chúng ta chưa thể tiến xa ra và làm chủ đại dương để phát triển kinh tế biển và làm giàu lên từ biển với những phương tiện công cụ thủ công. Thực tiễn đòi hỏi Việt Nam phải phát triển một nền công nghiệp biển, đặc biệt là ngành CNĐT đủ mạnh để cung cấp những phương tiện hiện đại có khả năng cao trong thăm dò và khai thác biển có hiệu quả.
Thị trường đóng tàu thế giới hiện đang mở ra nhiều cơ hội cho ngành CNĐT nước ta phát triển. Nhu cầu vận tải đường biển tại các nước Đông Nam á không ngừng gia tăng đạt tới 143,3 triệu TEU vào năm 2007 nhưng công suất vận tải của tất cả các hãng vận tải biển trên thế giới mới chỉ đáp ứng được 129,5 triệu TEU. Số đơn đặt hàng đóng tàu dầu và tàu container trên thế giới đến ngày 01/07/2004 tăng đạt mức kỷ lục trong vòng 30 năm qua. Trên toàn thế giới có 3.388 tàu được đặt đóng mới với tổng trọng tải 183,8 triệu tấn tàu. Ngoài ra, các nước đang có có nhu cầu tăng mạnh về mua sắm các loại tàu mới đáp ứng yêu cầu khai thác vận chuyển đường biển, phát triển ngành dịch vụ hoạt động hậu cần thiết yếu như các tàu chuyên dùng phục vụ an ninh quốc phòng đảm bảo hoạt động hàng hải thông suốt.
Hiện số lượng đơn đặt hàng đóng tàu trên thế giới vẫn có xu hướng liên tục tăng đến năm 2007 đạt mức 315 triệu đồng cùng với nó là sự dịch chuyển thị trường đóng tàu từ Châu Âu sang châu á. Hiện các nước như: Hàn Quốc, Nhật Bản, ấn Độ... đang tích cực xây dựng đầu tư nâng cấp và mở rộng các cơ sở đóng tàu của mình ngày càng hiện đại, sản xuất các sản phẩm tàu có chất lượng giá trị cao với yêu cầu kỹ thuật và công nghệ tiên tiến đủ sức cạnh tranh các thị phần đóng mới tàu trên thế giới. Còn các nước châu âu trên thế giới đang dựa vào thế mạnh của mình về khoa học kỹ thuật, công nghệ đẩy mạnh sự hợp tác xuất khẩu những thiết bị công nghệ cao trên cơ sở liên doanh liên kết sản xuất với các nước châu á đang có ngành công nghiệp phát triển. Qua đó họ cũng có ý đồ lợi dụng nguồn tài nguyên và nhân công rẻ và nhằm giảm dần sản xuất ngành công nghiệp này để hạn chế sự ô nhiễm môi trường độc hại cho quốc gia mình.
ở Việt Nam hiện nay trong xu thế hội nhập và toàn cầu hoá, nhờ các chính sách đổi mới của nền kinh tế mở thương mại đã và đang phát triển nhanh chóng tạo ra nhu cầu vận chuyển hàng hoá xuất nhập khẩu tăng cao trong những năm qua: theo số liệu thống kê cho thấy ngành thương mại nước ta có tốc độ tăng năm trước so với năm sau từ 15% đến 20%. Tốc độ này còn tiếp tục tăng khi ngành dầu khí Việt Nam đang phát triển đạt tới mức độ tăng trưởng vững chắc, các liên doanh nước ngoài ngày càng mở rộng đầu tư vào Việt Nam. Các mặt hàng xuất, nhập khẩu cũng tăng liên tục về số lượng và đa dạng về chủng loại. Thực tế đó đặt ra nhu cầu phải phát triển nhanh đội tàu vận tải, nhất là các loại tàu chở dầu, tàu container và loại tàu chở hàng rời.
Song hiện nay, trình độ khai thác phát triển kinh tế biển ở nước ta còn thấp kém và chưa tương xứng với tiềm năng. Độ tuổi tàu trung bình của Việt Nam hiện là 19 tuổi, trong khi đó đối với ngành vận tải biển quốc tế đang yêu cầu trẻ hoá và hiện đại hoá là cần thiết vì đây là yếu tố đánh giá mức độ hiện đại và tính an toàn trong khai thác. Với đội tàu cũ lạc hậu như hiện nay chúng ta khó có thể giành được các hợp đồng vận tải biển lớn có giá trị kinh tế cao trên thị trường trong nước và quốc tế.
Hiện khả năng chuyên chở của đội tàu Việt Nam còn quá thấp, chỉ mới chiếm được khoảng 15% thị phần vận chuyển hàng hoá xuất nhập khẩu hàng năm của cả nước. Điều đó đang làm mất cân đối tốc độ tăng trưởng của lượng hàng hoá vận chuyển. Chúng ta không tận dụng được những lợi thế từ biển và phát huy được nội lực về sức lao động, không tạo thêm được việc làm, thu nhập cho người lao động Việt Nam. Chỉ khi nào đội tàu Việt Nam có đủ số lượng, chất lượng, đáp ứng khả năng chuyên chở trên 40% tổng số lượng hàng hoá xuất khẩu thì ngành vận tải biển mới phát huy được tiềm năng to lớn của mình, đóng góp nhiều hơn cho ngân sách Nhà nước và tự lực phát triển đội tàu của mình. Để đáp ứng yêu cầu của sự phát triển ngành kinh tế vận tải biển hiện nay, chúng ta phải đầu tư khoảng 2 tỷ USD đến năm 2007 để có thêm 6 tàu dầu trọng tải 370.000 ĐWT và 25 tàu container với trọng tải 460.000 ĐWT, 28 tàu hàng với tổng trọng tải 350.000 ĐWT và đầu tư thêm 5 tỷ USD đến năm 2010 để nâng tổng trọng trọng tải của đội tàu trong nước lên 4,4 triệu ĐWT. Vấn đề đặt ra là phải đầu tư cho sự phát triển ngành CNĐT và đội ngũ công nhân ngành phát triển ngang tầm với yêu cầu nhiệm vụ sản xuất thực tế hiện nay.
Nhận thức được cơ sở tiềm năng to lớn về biển của nước ta và xuất phát từ yêu cầu thực tế sự phát triển của các ngành kinh tế biển trong nước và quốc tế hiện nay. Đảng và Nhà nước ta đã rất chú trọng quan tâm đến chính sách phát triển kinh tế biển, đặc biệt là đầu tư phát triển ngành CNĐT trở thành một ngành công nghiệp “đầu tàu” trong quá trình CNH, HĐH đất nước lôi kéo các ngành kinh tế khác cùng phát triển. Trước sự quan tâm và đầu tư mạnh của Chính phủ ta, cũng như tạo mọi cơ sở pháp lý thuận lợi cho Tổng Công ty CNTT Việt Nam chủ động liên minh, liên kết với nhiều quốc gia và tổ chức quốc tế nhằm huy động vốn, công nghệ cho sự phát triển tăng tốc của ngành. Riêng trong năm 2005 tổng vốn ngân sách Nhà nước và vốn tín dụng ưu đãi thực hiện đối với Tổng Công ty CNTT Việt Nam là 638.454 triệu đồng, tổng vốn vay trái phiếu quốc tế là 750.000 USD. Trong năm 2006 vốn do tập đoàn thực hiện đầu tư xây dựng cơ bản nhằm cải tạo nâng cấp, mở rộng các nhà máy đóng mới và sửa chữa tàu thuỷ trên cả nước là 474.083 triệu đồng.
Ngành đóng tàu đang đẩy mạnh liên doanh, liên kết với các quốc gia có ngành CNĐT phát triển trên thế giới như: Anh, Đức, Hà Lan, Hàn Quốc, Nhật, Đan mạch... nhằm xây dựng, nâng cấp, mở rộng các nhà máy trên cả 3 miền Bắc-Trung - Nam đủ sức sản xuất đa dạng các sản phẩm tàu đáp ứng nhu cầu vận tải trong nước và hướng ra xuất khẩu. Cụ thể ở khu vực phía Bắc là nhà máy đóng tàu Bạch Đằng, Nam Triệu, Phà Rừng, Sông Cấm, và nhà máy đóng tàu Hạ Long; ở miền Trung là nhà máy đóng tàu Đà Nẵng, nhà máy đóng tàu Nha Trang, nhà máy đóng tàu Dung Quất; ở phía Nam là Khu liên hiệp đóng tàu Ba Son, Nhà sửa chữa tàu biển và dàn khoan - Shidlacon, nhà máy đóng mới tàu biển Sài Gòn, nhà máy liên doanh Hyundai-Vinashin, nhà máy sửa chữa đóng tàu biển và dàn khoan Vũng Tàu, nhà máy đóng tàu Cần Thơ…
Sự phát triển mạnh mẽ đó của ngành CNĐT trên cả nước hiện nay đang đặt ra nhiệm vụ cấp thiết cho đội ngũ công nhân ngành này phải được đào tạo và tự đào tạo lại, nâng cao cả về số lượng và chất lượng đáp ứng yêu cầu phát triển của thực tiễn.
- Nhu cầu về an ninh quốc phòng cũng thúc đẩy sự phát triển công nhân công nghiệp đóng tàu
Đất nước ta có biển dài 3.260 km, vị trí địa lý không chỉ thuận lợi cho các hoạt động kinh tế thương mại mà còn có vị trí đặc biệt quan trọng về mặt quân sự trong tấn công cũng như phòng ngự cao trong khu vực cũng như trên trường quốc tế. Trong thực tế lịch sử phát triển của dân tộc ta thường xuyên phải đối mặt với các thế lực ngoại bang xâm lược khác nhau. Giao thông đường thuỷ là mạch máu quan trọng để chi viện sức người, sức của và các loại hàng hoá thiết yếu cho chiến lược quốc phòng, an ninh đánh đuổi các thế lực bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ quốc gia. Chính vì vậy, yêu cầu bảo vệ lãnh hải của tổ quốc trong thời kỳ mới đang là vấn đề cấp bách được đặt ra.
Nhìn một cách khái quát nhu cầu về an ninh quốc phòng là một động lực thúc đẩy sự ra đời phát triển của ngành đóng tàu và đội ngũ công nhân ngành đóng tàu Việt Nam trong quá khứ cũng như hiện tại
Nhờ đó, ngành đóng tàu trong nước đã có sự ra đời khá sớm và chủ yếu để làm nhiệm vụ quốc phòng, an ninh. Trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta đã có những chiến thuyền của Hai Bà Trưng, Lê Chân đã đánh bại những chiến thuyền của Mã Viện đến xâm lược ở Hạ Long; năm 938 đội chiến thuyền Ngô Quyền đã nhấn chìm cả hạm đội Nhà Hán xuống sông Bạch. Điều đó đã khẳng định kiến thức về thuỷ văn khí tượng, kinh nghiệm tác chiến bằng tàu thuỷ và khả năng chế tạo chiến thuyền của con người Việt Nam. Tháng 7 năm 980 Lê Hoàn lên ngôi đã cho đào kênh nhà Lê và tổ chức đóng thuyền. Năm 981 thuỷ quân Tống chia làm hai ngả tiến vào cửa công Bạch Đằng và cửa sông Hồng đều bị thuỷ quân Lê Hoàn tiến công tháo chạy về nước... Đến thời Lý, theo giáo sư Hoàng Xuân Hãn thì triều đình Việt Nam đã có những xưởng lớn đóng thuyền và thuyền thời Lý có thể chở được tới 200 người và đầy đủ lương thực nước uống để vượt biển với cự ly hàng ngàn hải lý. Thuyền chiến thời Tây Sơn, vua Quang Trung đã cho đóng những chiếc tàu lớn, trang bị từ 50 - 60 khẩu súng, Ông còn cho đóng hàng loạt các thuyền lớn để chở voi sang đánh nhà Thanh. Qua đây, chúng ta thấy rõ ngành đóng tàu và đội ngũ công nhân ngành đóng tàu ở nước ta luôn đóng một vai trò hết sức quan trọng trong chiến lược quốc phòng, an ninh.
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, đội ngũ công nhân ngành đóng tàu đã có nhiều đóng góp to lớn cho sự nghiệp chung. Đế quốc Mỹ tiến hành chiến tranh huỷ diệt miền Bắc, chúng muốn làm tê liệt sức chi viện của hậu phương lớn cho tiền tuyến lớn. Các mạch máu giao thông từ cửa sông, cửa biển của Việt Nam đều bị thuỷ lôi và các loại bom từ trường của đế quốc Mỹ giăng bẫy. Các nhà xưởng đóng tàu của quân đội hay dân sự trên phạm vi cả nước và ở Hải Phòng đều chuyển sang làm nhiệm vụ quốc phòng, an ninh là chính. Với tinh thần yêu nước và lòng căm thù giặc sâu sắc, đội ngũ cán bộ và công nhân viên các nhà xưởng đóng mới và sửa chữa tàu lúc bấy giờ đã lao động quên mình, sáng tạo nhiều phương tiện, công cụ để đánh thắng đế quốc Mỹ xâm lược. Ngày 11/10/1962 hàng loạt “tàu không số” xuất phát từ Hải Phòng thẳng tiến vào miền Nam làm nên những kỳ tích trên “con đường Hồ Chí Minh trên biển”. Nhiều tàu thuyền, máy móc phục vụ cho rà phá thuỷ lôi, mở thông luồng lạch...đã được công nhân Hải Phòng sản xuất và mang lại hiệu quả cao, góp phần quan trọng vào thắng lợi của đất nước.
Ngày nay trong quá trình CNH, HĐH đất nước nhằm thực hiện thắng lợi mục tiêu chiến lược kinh tế biển và bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ, chủ quyền thiêng liêng của Tổ Quốc đã và đang đặt ra cho ngành CNĐT và đội ngũ công nhân ngành này những nhiệm vụ hết sức to lớn và nặng nề.
Thế kỷ XXI là kỷ nguyên của chiến lược biển của các quốc gia trên thế giới. Khu vực Châu á và các nước Đông Nam á đang đẩy mạnh nền kinh tế hướng ra biển nhằm mở rộng sự khai thác đánh bắt trên biển đang làm gia tăng những mâu thuẫn và xung đột sâu sắc ở Biển Đông. Bởi lẽ, đây là nơi có nguồn năng lượng dầu khí và các nguồn tài nguyên biển khác rất phong phú so với biển Đông Hải. Hiện có 6 quốc gia xung quanh đều đã chiếm một số đảo hoặc một số khu vực ở vùng biển này, song sự phân định ranh giới đường biên biển giữa các nước chưa rõ ràng. Nhưng thực tế hiện nay các nước đó đang cùng với hàng chục công ty nước ngoài hợp tác khai thác trên 1000 giếng dầu với sản lượng dầu mỏ vào khoảng vài chục triệu tấn và khí đốt tự nhiên khoảng hàng triệu mét khối. Điều đó làm cho các mâu thuẫn, tranh chấp các vùng đặc quyền kinh tế ở các đảo và phân định biên giới biển; sự chiếm hữu không gian biển và tranh chấp khai thác tài nguyên biển đang ngày càng có xu hướng gia tăng phức tạp giữa Trung Quốc, Việt Nam, Philipin, Malaixia, Indolexia, Thái Lan, Campuchia…
Để bảo vệ lợi ích về biển của mình đã có hoặc đang trong sự tranh chấp, các nước này đều đang ra sức mở rộng thực lực quân sự. Do vậy, trong thời gian gần đây có nhiều dư luận cho rằng biển Đông đang là “vùng nóng” có nguy cơ bất ổn về an ninh, chính trị, có khả năng trở thành vùng Trung Đông thứ hai.
Gần đây, Trung Quốc đang nở rộ lên về phát triển sản xuất các loại tàu ngầm, tàu chiến, tàu sân bay hiện đại. Theo kế hoạch của Chính Phủ Trung Quốc 2010 sẽ chế tạo con tàu sân bay đầu tiên và đến 2016 sẽ cho ra hàng loạt._.h giai cấp, chiến tranh sắc tộc, tôn giáo đang diễn ra hết sức phức tạp và quyết liệt, thêm vào đó là những tác động tiêu cực của tình trạng sụp đổ mô hình chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu gây nên sự hoang mang, dao động về lập trường tư tưởng chính trị trong một bộ phận công nhân. Hơn nữa khi đất nước ta đang trong quá trình đổi mới chuyển nhanh nền kinh tế từ quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa bên cạnh những mặt tích cực còn nảy sinh nhiều vấn đề tiêu cực đã và đang tác động không nhỏ đến đội ngũ công nhân ngành công nghiệp đóng tàu. Sự cạnh tranh giữa các nhà máy, doanh nghiệp đóng tàu về các dự án hợp đồng đóng mới và sửa chữa tàu tranh chấp nguồn nhân lực lao động có tay nghề kỹ thuật cao giữa các nhà máy đóng mới và sửa chữa tàu ở Hải Phòng và trên phạm vi cả nước ta hiện đang diễn ra khá gay gắt và phức tạp.
Hiện nay cả nước đang đẩy mạnh quá trình cổ phần hoá các công ty, doanh nghiệp nhà nước và Tổng Công ty CNTT cũng không nằm ngoài xu hướng đó. Để tránh tình trạng có một số công nhân trong các nhà máy khi nhà máy tiến hành cổ phần hoá đã bán cho họ cổ phiếu ưu đãi do kém hiểu biết đã diễn ra bán tháo cổ phần theo kiểu "lúa non", khiến cho lợi ích đạt được chẳng đáng là bao, làm cho hầu hết tài sản của Nhà nước bị thôn tính và trục lợi về túi cá nhân. Vì vậy, việc giáo dục giác ngộ ý thức giai cấp công nhân, nâng cao tinh thần cảnh giác cách mạng, rèn luyện bản lĩnh chính trị vững vàng kiên định con đường đi lên CNXH, tin tưởng vào sự lãnh đạo sáng suốt của giai cấp công nhân và chính Đảng chân chính của nó cho đội ngũ công nhân ngành công nghiệp đóng tàu ở Hải Phòng hiện nay là một đòi hỏi khách quan của công cuộc đổi mới, đẩy mạnh sự nghiệp CNH, HĐH đất nước hiện nay.
Trước hết cần thực hiện tốt những nội dung cơ bản sau:
Một là, Giáo dục chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối cách mạng của Đảng và các chính sách, pháp luật Nhà nước cho đội ngũ công nhân, đây là nội dung quan trọng nhất của việc nâng cao nhận thức chính trị - xã hội cho đội ngũ công nhân ngành công nghiệp đóng tàu ở Hải Phòng. Tạo ra hành lang pháp lý, hướng dẫn hoạt động của đội ngũ công nhân, tính tính cực của con người sẽ chỉ thực sự trở thành động lực mới mẻ đối với sự phát triển của xã hội khi nó hoạt động phù hợp với sự phát triển, khi niềm tin, ý chí, nghị lực, nhiệt tình cách mạng của quần chúng được kết hợp chặt chẽ với sự hiểu biết sâu sắc các quy luật phát triển khách quan.
Giáo dục chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là trang bị cho giai cấp công nhân thế giới quan và phương pháp luận khoa học để nhận thức thế giới, nhận thức được những quy luật vận động phát triển khách quan của xã hội, của cuộc đấu tranh cách mạng nhằm xây dựng chế độ xã hội mới, qua đó làm cho giai cấp công nhân nhận thấy rõ con đường phát triển của cách mạng Việt Nam. Đồng thời nhận thức rõ nhiệm vụ của đội ngũ công nhân ngành công nghiệp đóng tàu trong thực hiện thành công mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế biển của Thành phố Hải Phòng và cả nước hiện nay.
Nâng cao ý thức, trách nhiệm, niềm tin, phát huy sự sáng tạo của đội ngũ công nhân ngành đóng tàu Hải Phòng góp phần vào việc đẩy nhanh sự nghiệp cách mạng của giai cấp công nhân, của toàn dân tộc ta dưới sự lãnh đạo của ĐCSVN. Trong giai đoạn hiện nay cần giáo dục giác ngộ cho công nhân nhận rõ những vấn đề cơ bản sau:
- Thấy rõ vai trò vị trí của GCCN Việt Nam nói chung và đội ngũ công nhân ngành công nghiệp đóng tàu trong việc phát triển kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đặc biệt là phát triển CNH, HĐH ngành công nghiệp đóng tàu phục vụ đắc lực cho mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế biển, và chiến lược an ninh quốc phòng biển đảo của nước ta trong tình hình mới hiện nay.
- Giáo dục những chủ trương đường lối của Đảng và các chính sách pháp luật của Nhà nước đối với đội ngũ công nhân lao động. Qua đó nhằm nâng cao nhận thức của đội ngũ công nhân ngành CNĐT về quyền lợi và nghĩa vụ chính đáng của mình trong quá trình lao động sản xuất và hưởng thụ.
- Giáo dục ý thức tổ chức kỷ luật và tác phong công nghiệp cho đội ngũ công nhân ngành CNĐT đáp ứng yêu cầu của nền sản xuất công nghiệp hiện đại và sự nghiệp xây dựng xã hội mới.
- Phân tích làm rõ cho công nhân thấy được tính chất phức tạp của cuộc đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng trong giai đoạn cách mạng mới; vạch trần những quan điểm chính trị phản động, các thế lực thù địch chống lại sự nghiệp cách mạng của Đảng của giai cấp công nhân và dân tộc ta, đồng thời nâng cao ý thức tự giác đấu tranh khắc phục những tư tưởng lạc hậu, những biểu hiện tiêu cực trong đội ngũ công nhân ngành công nghiệp trong quá trình đổi mới.
Giáo dục chủ nghĩa Mác Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh theo tinh thần quan điểm của Đảng ta là trang bị cho công nhân những kiến thức cơ bản về chính trị - xã hội làm cho công nhân hiểu rõ hơn về lợi ích của giai cấp mình và nhân dân lao động khác, là người làm chủ nước nhà; mọi người đều có điều kiện phấn đấu cho cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh. Làm động lực cho sự phát triển giai cấp công nhân hiện nay.
Hai là, Giáo dục truyền thống yêu nước, truyền thống đấu tranh bất khuất, truyền thống lao động sáng tạo của dân tộc, của giai cấp công nhân ngành công nghiệp đóng tàu ở Hải Phòng - Thành phố Cảng "trung dũng và quyết thắng". Đây là yếu tố quan trọng tạo động lực chính trị, tinh thần cho giai cấp công nhân bước vào thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước, làm cho đội ngũ công nhân ngành công nghiệp đóng tàu nhận thức được cái hiện có hôm nay là kết quả đấu tranh anh dũng của dân tộc ta dưới sự lãnh đạo sáng suốt của giai cấp công nhân và nhân dân lao động thông qua chính Đảng chân chính của nó đó là ĐCSVN. Từ đó góp phần giúp đội ngũ công nhân ngành công nghiệp đóng tàu ở Hải Phòng giữ gìn và phát huy những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc của giai cấp công nhân về truyền thống yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, lao động sáng tạo vươn lên làm chủ những tri thức khoa học kỹ thuật và công nghệ mới tiên tiến trong lĩnh vực đóng tàu biển.
Khơi dậy và phát huy truyền thống đoàn kết gắn bó của đội ngũ công nhân ngành công nghiệp đóng tàu với Đảng, với dân tộc Việt Nam. Từ các phương tiện thông tin đại chúng và qua các hoạt động văn hoá, văn nghệ, thể dục thể thao quần chúng, qua các diễn đàn của công nhân... nhằm nêu gương các đơn vị cũng như các cá nhân sản xuất, kinh doanh giỏi, có nhiều sáng kiến cải tiến kỹ thuật hữu ích, từ đó giáo dục cho toàn đội ngũ công nhân trong ngành công nghiệp đóng tàu phấn đấu học tập, làm theo.
3.2.6. Thực hiện quy chế dân chủ trong các doanh nghiệp, nhà máy đóng tàu hiện nay nhằm phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của đội ngũ công nhân ngành công nghiệp đóng tàu
Quyền làm chủ của công nhân trong các cơ sở sản xuất, xí nghiệp đóng mới và sửa chữa tàu thuỷ ở Hải Phòng là thực hiện đầy đủ các quyền lợi và nghĩa vụ của ngành, phát huy tốt theo phương châm: công nhân biết, công nhân bàn, làm và công nhân kiểm tra mọi hoạt động sản xuất kinh doanh, đồng thời phải tạo ra những điều kiện cần thiết để công nhân làm chủ doanh nghiệp.
Thực hiện quyền dân chủ của công nhân trong các nhà máy đóng tàu ở Hải Phòng là điều kiện cơ bản để nâng cao nhận thức, ý thức kỷ luật của đội ngũ công nhân. Quyền dân chủ ở các nhà máy đóng tàu là thực hiện quyền làm chủ của đội ngũ công nhân ngành công nghiệp đóng tàu trong các nhà máy, nghĩa là công nhân có quyền tham gia vào quá trình tổ chức, sản xuất và phân phối các phúc lợi xã hội, giám sát các hoạt động sản xuất, kinh doanh của nhà máy. Công nhân phải gắn quyền lợi với nghĩa vụ, trách nhiệm của mình trong phát triển nhà máy, vì lợi ích trước mắt cũng như lâu dài của chính bản thân công nhân và của nhà máy trong ngành công nghiệp đóng tàu.
Trong đó việc nâng cao ý thức, năng lực làm chủ cho công nhân dựa trên cơ sở bồi dưỡng nâng cao kiến thức về chính trị, kinh tế, văn hoá, đặc biệt là nâng cao trình độ quản lý doanh nghiệp cho công nhân là yếu tố quan trọng hàng đầu. Bên cạnh đó cần có cơ chế đảm bảo cho công nhân tham gia quản lý doanh nghiệp, kiểm tra giám sát các hoạt động sản xuất, kinh doanh và phân phối lợi nhuận của doanh nghiệp một cách công khai minh bạch hoá trong thực hiện chế độ khen thưởng và các chính sách xã hội khác của Đảng, Nhà nước và Tổng Công ty CNTT đối với công nhân.
Tổ chức thực hiện nghiêm túc kỷ luật lao động và Luật doanh nghiệp về quyền và nghĩa vụ của công nhân. Công nhân thực hiện quyền làm chủ của mình khi có sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, làm chủ thông qua các tổ chức đoàn thể đại diện cho mình mà trực tiếp là Đảng bộ, chính quyền và các tổ chức Công đoàn trong các Xí nghiệp, Nhà máy. Ngày 19/8/1997 Thường trực Bộ chính trị đã ra thông báo số 88 TB/TW về việc tổ chức nghiên cứu xây dựng các quy chế dân chủ ở cơ sở. Ngày 18/2/1998 Bộ Chính trị ra chỉ thị số 30 CT/TW về xây dựng thực hiện quy chế dân chủ cơ sở, Chính phủ đã thể chế hoá tư tưởng chỉ đạo của các văn bản nói trên và chính thức ban hành 3 văn bản pháp quy về "Quy chế dân chủ cơ sở" trong đó có nghị định số 07/1999/NĐ-CP ngày 13/12/1999 về ban hành quy chế thực hiện dân chủ ở các doanh nghiệp Nhà nước. Đây là cơ sở pháp lý thực hiện quyền dân chủ ở cơ sở là nhằm phát huy cao nhất vai trò làm chủ của nhân dân lao động trong xây dựng Nhà nước CHXHCN Việt Nam trong sạch, vững mạnh, thực sự của dân, do dân, vì dân, trong các cơ sở doanh nghiệp Nhà nước.
Thực hiện tốt quy chế dân chủ sẽ giải quyết hài hoà mối quan hệ giữa các cấp uỷ Đảng - Ban Giám đốc - Công đoàn nhằm phát huy quyền làm chủ của công nhân, phân định rõ chức năng, nhiệm vụ của mỗi tổ chức ấy trong việc chăm lo đời sống vật chất và đời sống tinh thần của đội ngũ công nhân.
Để giải quyết được những nội dung nêu trên đòi hỏi phải tổ chức tốt Đại hội công nhân viên chức. Vì đây là hình thức dân chủ trực tiếp để công nhân tham gia vào quản lý doanh nghiệp và qua đây công nhân xây dựng các thoả ước lao động tập thể, thảo luận thông qua quy chế làm chủ và sử dụng các quỹ có liên quan đến lợi ích của người lao động, cải thiện điều kiện việc làm, vệ sinh môi trường...
Cần tạo ra môi trường dân chủ, công bằng thực sự tránh tình trạng dân chủ hình thức tạo điều kiện cho sự phát triển của đội ngũ công nhân ngành công nghiệp đóng tàu. Kiên quyết đấu tranh và xử lý nghiêm khắc mọi hiện tượng vi phạm quyền dân chủ, làm chủ của công nhân; đấu tranh chống bệnh quan liêu, tham nhũng làm trong sạch và lành mạnh các mối quan hệ xã hội trong nhà máy.
3.2.7. Tăng cường sự lãnh đạo của tổ chức Đảng, vai trò quản lý của Nhà nước và Đoàn thể trong các nhà máy đóng tàu ở Hải Phòng
- Đảng cộng sản đội tiên phong có tổ chức là tổ chức cao nhất của giai cấp công nhân. Sự lãnh đạo của Đảng có ý nghĩa quyết định đến mọi hoạt động của giai cấp công nhân, đây là vấn đề có tính nguyên tắc trong xây dựng và nâng cao chất lượng giai cấp công nhân. Do đó để nâng cao chất lượng của đội ngũ công nhân ngành CNTT phải tăng cường sự lãnh đạo của tổ chức Đảng và đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng trong các nhà máy đóng tàu ở Hải Phòng.
Đảng bộ các cấp từ Tổng Công ty CNTT Việt Nam đến các sở nhà máy đóng tàu trên địa bàn Hải Phòng chỉ có thể phát huy được vai trò lãnh đạo của mình trong điều kiện có Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức. Chính vì vậy, các cơ sở nhà máy đóng tàu phải thường xuyên giáo dục, kiểm tra đảng viên về lập trường quan điểm, đấu tranh với những biểu hiện quan liêu xa rời quần chúng của một số cán bộ đảng viên. Chăm lo, bồi dưỡng nâng cao năng lực lãnh đạo, trình độ và kiến thức cho các cấp uỷ Đảng trong các nhà máy đóng tàu ở Hải Phòng. Chú trọng phát triển đảng viên có xuất thân từ công nhân cân nhắc và bố trí họ giữ những trọng trách trong cấp uỷ Đảng và chính quyền.
Trong giai đoạn hiện nay việc nâng cao tổ chức hoạt động của các tổ chức cơ sở Đảng trong các nhà máy đóng tàu ở Hải Phòng, cần quán triệt thực hiện tốt các biện pháp sau:
Một là, xây dựng kiện toàn và củng cố các tổ chức cơ sở Đảng trong các nhà máy đóng tàu ở Hải Phòng vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức đạt tới tầm cao trí tuệ và bản lĩnh chính trị đủ khả năng lãnh đạo mọi hoạt động của nhà máy đóng tàu trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế và có tính cạnh tranh cao hiện nay. Muốn vậy, tổ chức Đảng phải có quy hoạch bồi dưỡng nâng cao trình độ lý luận chính trị, chuyên môn nghiệp vụ, trau dồi phẩm chất đạo đức cách mạng cho đội ngũ đảng viên. Mỗi cán bộ đảng viên phải thể hiện tính tiên phong, gương mẫu của mình trong mọi hoạt động của mình.
Hai là, giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa lãnh đạo và tổ chức sản xuất kinh doanh của các nhà máy, đảm bảo tính năng động sáng tạo, nâng cao trách nhiệm cao của đội ngũ cán bộ quản lý kinh doanh trong cơ chế thị trường. Đồng thời tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng đối với các hoạt động sản xuất, tài chính của doanh nghiệp, định hướng trong việc đầu tư, xây dựng mở rộng quy mô, năng lực sản xuất của các nhà máy trên địa bàn Thành phố Hải Phòng tránh sự đầu tư giàn trải, gây thất thoát tiền và tài sản của Nhà nước.
Ba là, lãnh đạo công tác quy hoạch đào tạo và tuyển chọn cân nhắc, đề bạt sử dụng và quản lý cán bộ, nhất là cán bộ giữ cương vị chủ chốt trong các nhà máy. Các cấp uỷ Đảng thực hiện tốt công tác kiểm tra đảng viên chấp hành kỷ luật Đảng, pháp luật của Nhà nước, ngăn chặn và xử lý kịp thời, triệt để những cán bộ Đảng viên vi phạm kỷ luật Đảng, pháp luật Nhà nước xâm phạm đến lợi ích của Nhà nước và công nhân.
Xây dựng các tổ chức Đảng ngay tầm với nhiệm vụ mới là vấn đề có ý nghĩa quyết định việc thực hiện thắng lợi sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp CNH, HĐH và của ngành công nghiệp tàu thuỷ ở Việt Nam hiện nay.
- Phát huy vai trò quản lý của Nhà nước trong quá trình xây dựng đội ngũ công nhân nói chung và công nhân trong ngành công nghiệp đóng tàu ở Hải Phòng nói riêng. Nhà nước có vai trò cực kỳ quan trọng trong việc nâng cao chất lượng giai cấp công nhân. Thực tế hiện nay đòi hỏi cần phải xây dựng Nhà nước vững mạnh, để Nhà nước thực hiện tốt các chức năng quản lý xã hội của mình. Nhà nước cần tăng cường trách nhiệm của mình trong việc xây dựng đội ngũ công nhân làm nền tảng giai cấp - xã hội vững chắc cho Nhà nước của giai cấp công nhân, bảo vệ lợi ích của liên minh giai cấp công - nông - trí. Các chính sách kinh tế, xã hội của Nhà nước phải xuất phát từ lập trường lợi ích của giai cấp công nhân và nhân dân lao động.
Ngành công nghiệp đóng tàu hiện nay rất cần sự ủng hộ về mọi mặt của Nhà nước, đặc biệt là nguồn vốn, kỹ thuật, công nghệ hiện đại và xây dựng đội ngũ công nhân ngành lớn mạnh cả số lượng và chất lượng đáp ứng nhu cầu phát triển nóng của ngành trong giai đoạn hiện nay.
Nhà nước cần thể chế hoá đường lối của Đảng về CNH, HĐH gắn liền với việc tiếp tục đổi mới hệ thống chính sách xã hội trực tiếp tác động đến nhu cầu lợi ích của giai cấp công nhân, tạo môi trường kinh tế, xã hội lành mạnh cho sự phát triển của đội ngũ công nhân ngành công nghiệp nói chung và công nhân ngành CNTT ở Hải Phòng nói riêng.
Nhà nước phải coi việc xây dựng và phát triển ngành công nghiệp đóng tàu và đội ngũ công nhân ngành công nghiệp đóng tàu ở Hải Phòng hiện nay là trách nhiệm của Nhà nước trong công cuộc CNH, HĐH. Trước mắt, Nhà nước cần có chính sách đầu tư cho công tác đào tạo nâng cao trình độ văn hoá, khoa học và công nghệ cho công nhân; đầu tư đổi mới các công nghệ có chất lượng cao, bảo đảm vệ sinh môi trường, đảm bảo an toàn lao động; sửa đổi hoàn chỉnh Luật doanh nghiệp, Luật công đoàn, tạo điều kiện hỗ trợ cho công đoàn và các tổ chức xã hội khác trong các nhà máy máy điều chỉnh hệ số lương, thưởng và phúc lợi khác cho công nhân ngành cơ khí này. Tiếp tục nghiên cứu đổi mới hoàn thiện chính sách quản lý vĩ mô của Nhà nước đối với ngành công nghiệp đóng tàu cụ thể như: chính sách bảo đảm quyền từ chủ sản xuất kinh doanh của các nhà máy đóng tàu ở Hải Phòng gồm chính sách đầu tư tài chính, thuế tín dụng, lãi suất ngân hàng, chính sách thị trường nhằm tạo điều kiện cho các nhà máy phát triển. Bên cạnh đó, Nhà nước cần cải cách cơ bản chính sách về tiền lương, tiền thưởng, chế độ nghỉ hưu, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế trợ cấp kinh phí độc hại cho đội ngũ công nhân ngành công nghiệp cơ khí đóng tàu nhằm khuyến khích công nhân làm việc có năng suất, chất lượng và hiệu quả cao.
- Phát huy vai trò của các tổ chức Công đoàn, Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh trong các Nhà máy đóng tàu nhằm gắn với tổ chức Đảng, Công đoàn và các tổ chức chuyên môn theo sát với từng xưởng, đội đến từng đối tượng công nhân và luôn phải gắn nhiệm vụ phát triển khoa học và công nghệ theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Làm cho tổ chức Công đoàn thực sự là tổ chức chính trị - xã hội nghề nghiệp đồng thời là trường học đầu tiên của công nhân lao động.
Tổ chức thường xuyên phát động các phong trào thi đua có nội dung và chỉ tiêu cụ thể, đổi mới cơ chế và hình thức khen thưởng để động viên cổ vũ kịp thời tạo thành phong trào quần chúng thi đua sôi nổi trong lao động sáng tạo đảm bảo chất lượng và hiệu quả cao. Đặc biệt là tổ chức các phong trào như thi tay nghề giỏi, phát huy các sáng kiến cải tiến kỹ thuật trong công nhân ở cấp Tổng công ty, cấp thành phố. Quan tâm công tác tuyên truyền phát triển đoàn viên công đoàn nhằm tập hợp mọi người lao động vào trong tổ chức của mình, hướng dẫn, giúp đỡ mọi đoàn viên ra sức học tập nâng cao tay nghề, ngoại ngữ, tin học, phát huy sở trường, sở đoạn của chính mình. Để làm tốt những vấn đề trên cần phải có chiến lược quy hoạch đào tạo, bồi dưỡng, xây dựng đội ngũ cán bộ công đoàn có phẩm chất tốt và trình độ chuyên môn nghiệp vụ cao được trưởng thành từ cấp phong trào công nhân lên. Qua đó, bồi dưỡng, nâng cao năng lực và bản lĩnh chính trị, phát triển họ trở thành ngời đại diện, tiêu biểu cho công nhân lao động và bảo vệ lợi ích chính đáng của công nhân lao động.
- Nâng cao năng lực vai trò quản lý của Ban giám đốc các nhà máy đóng tàu Hải Phòng đảm bảo thực hiện thắng lợi các mục tiêu kinh tế - xã hội của Đảng, Nhà nớc và Thành phố Hải Phòng hiện nay.
+ Ban Giám đốc của các nhà máy đóng tàu Hải Phòng phải là những người được đào tạo một cách căn bản có tay nghề, kỹ thuật chuyên môn sâu, có trình độ ngoại ngữ, tin học giỏi, am hiểu luật pháp và các thông lệ quốc tế có khả năng năng lực nhạy bén, nắm bắt những cơ hội trong liên kết sản xuất, kinh doanh với các đối tác nước ngoài. Đồng thời họ là người có phẩm chất đạo đức tốt, bản lĩnh chính trị vững vàng, có khả năng tổ chức thực hiện tốt các chủ trương, đường lối của Đảng, các chính sách pháp luật của Nhà nước ta trong thời kỳ mới.
+ Có kiến thức quản trị doanh nghiệp, quản lý kinh doanh giỏi, năng động trong cơ chế thị trường, bảo vệ và phát triển đợc tài sản của nhà nước. Đồng thời các cán bộ đó phải biết chăm lo đến đời sống, vật chất và đời sống tinh thần cho công nhân, thực hiện quyền dân chủ của công nhân, biết phát huy tinh thần đoàn kết tập thể và tính sáng tạo của đội ngũ công nhân trong sản xuất trong đổi mới sáng kiến cải tiến công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm tàu, tăng cường sức mạnh cạnh tranh trên thị trường trong nước và quốc tế.
Đổi mới nâng cao năng lực vai trò quản lý của Ban giám đốc các Nhà máy đóng với và sửa chữa tàu ở Hải Phòng hiện nay, còn liên quan trực tiếp đến sự phát triển đội ngũ công nhân trong các nhà máy. Vì trong bất kỳ đơn vị sản xuất kinh doanh nào muốn tồn tại và phát triển được trước hết phải có đội ngũ cán bộ quản lý giỏi, gắn bó tâm huyết với nhà máy. Do vậy, đối với ngành công nghiệp đóng tàu hiện nay lại càng đòi hỏi phải có đội ngũ cán bộ quản lý hội tụ đủ các tiêu chuẩn trên.
Tóm lại, Công nhân nói chung và công nhân ngành công nghiệp đóng tàu nói riêng muốn có thu nhập cao, việc làm ổn định và đóng vai trò tiên phong trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước thì họ phải có trình độ học vấn và trình độ tay nghề kỹ thuật cao. Điều đó đòi hỏi chúng ta cần có một hệ thống các giải pháp khả thi trong từng giai đoạn để khắc phục. Các giải pháp nêu trên có tính chất định hướng cho nên nó có mối quan hệ gắn bó chặt chẽ và tác động qua lại lẫn nhau khi áp dụng chúng ta cần thực hiện nó một cách đồng bộ.
Kết luận
Hải Phòng là một Thành phố công nghiệp trọng điểm của miền Duyên hải Bắc bộ và cả nước. Với ưu thế lớn về điều kiện tự nhiên biển đầy tiềm năng to lớn, thuận lợi để Hải Phòng xây dựng và phát triển các ngành công nghiệp biển, trong đó có ngành công nghiệp đóng tàu. Đây chính là bối cảnh cho đội ngũ công nhân ngành công nghiệp đóng tàu ở Hải Phòng hình thành, phát triển sớm trong lịch sử và đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong công cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc thống nhất nước nhà.
Giai đoạn hiện nay, Đảng và Nhà nước ta đã đề ra mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế hướng ra biển, ngành công nghiệp đóng tàu được xác định là một trong những ngành công nghiệp chủ lực đóng vai trò "đầu tàu" trong quá trình đẩy mạnh sự nghiệp CNH,HĐH đất nước. Điều đó, đã làm cho đội ngũ công nhân ngành công nghiệp đóng tàu ở Hải Phòng hôm nay càng có thêm cơ hội phát triển nhanh hơn nữa về mọi mặt.
Trên thực tế sự phát triển của đội ngũ công nhân ngành này trong những năm qua cho thấy bên cạnh những mặt ưu điểm còn bộc lộ nhiều yếu kém và bất cập: Số lượng đã có sự bổ sung tăng lên một cách nhanh chóng và đột biến, song vấn đề chất lượng còn nhiều hạn chế cả về trình độ học vấn, chuyên môn, tay nghề..., làm hạn chế khả năng nắm bắt và làm chủ những công nghệ mới tiên tiến, hiện đại.
Đảng và Nhà nước ta đã quan tâm đầu tư đúng hướng của đối với ngành công nghiệp đóng tàu. Nhưng hiện tại ngành này đang trong tình trạng thiếu hụt nghiêm trọng về nguồn nhân lực có trình độ tay nghề chuyên môn kỹ thuật cao đáp ứng yêu cầu sự phát triển nhanh của ngành trong tình mới.
Đội ngũ công nhân trong các nhà máy đóng tàu ở Hải Phòng hiện đa phần còn rất trẻ, thiếu và yếu cả về kiến thức lý thuyết lẫn kỹ năng thực hành, kinh nghiệm trong lao động sản xuất. Mặt khác, thu nhập và đời sống của đội ngũ công nhân không đồng đều, tình trạng lôi kéo lao động có tay nghề, kỹ thuật cao với nhiều chính sách đãi ngộ... gây ra sự tranh chấp lao động giữa các nhà máy đang làm tăng thêm sự phân hoá sâu sắc giữa các bộ phận công nhân dẫn tới mâu thuẫn xung đột ở nhiều nơi. Các chế độ bảo hiểm đối với người lao động chưa được các nhà máy đóng và mua đầy đủ, đặc biệt là đối với các công nhân hợp đồng, ngắn hạn. Trong lao động công nhân còn thiếu các thiết bị bảo hộ lao động cần thiết; các hiện tượng tăng giờ, tăng ca kéo dài thời gian lao động trong các nhà máy đóng tàu ở Hải Phòng còn diễn ra phổ biến. Tổ chức Đảng, Công đoàn và các đoàn thể khác trong các nhà máy tuy đã được thành lập nhưng còn mang tính hình thức, do điều kiện khách quan và chủ quan chưa phát huy được vai trò của mình trong bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của người lao động.
Những hạn chế trên đang làm cản trở sự phát triển của ngành công nghiệp đóng tàu ở Hải Phòng. Vì vậy, các nhà máy cần phải có những giải pháp tích cực để chấn chỉnh, kịp thời khắc phục tình trạng trên đảm bảo cho phát triển của ngành.
Điều cốt yếu là phải thực hiện đồng bộ có hiệu quả những giải pháp về kinh tế - xã hội, chính trị - tư tưởng, văn hoá - giáo dục, khoa học - kỹ thuật và công nghệ với những biện pháp cụ thể tác động trực tiếp đến việc xây dựng và phát triển đội ngũ công nhân ngành công nghiệp đóng tàu trong thời kỳ đẩy mạnh sự nghiệp CNH, HĐH đất nước.
Một số kiến nghị để phát triển đội ngũ công nhân và ngành công nghiệp tàu ở Hải Phòng
Thứ nhất, các nhà máy đóng tàu tuy đóng trên địa bàn Thành phố Hải Phòng nhưng đa phần do Trung ương quản lý, do vậy, Đảng, Nhà nước và các tổ chức đoàn thể khác của Trung ương mà trực tiếp là Tổng Công ty CNTT Việt Nam (Vinashin) cần có sự phối kết hợp với các cấp uỷ Đảng, chính quyền và các tổ chức đoàn thể khác của Thành phố Hải Phòng trong quy hoạch xây dựng cơ sở vật, chất kỹ thuật và mở rộng nâng cấp các nhà máy mới.
Cụ thể là, có chính sách hấp dẫn thu hút các nhà đầu tư, tạo điều kiện cấp đất, giải phóng mặt bằng, hỗ trợ, bảo trợ về vốn công nghệ, tích cực đầu tư phát triển các ngành công nghiệp phụ trợ khác phục vụ cho ngành CNĐT ở Hải Phòng. Đặc biệt, liên kết mở rộng mạng lưới đào tạo các trường dạy nghề thuộc Tổng Công ty CNTT Việt Nam và các trường của các nhà máy đóng tàu trên địa bàn thành phố Hải Phòng đối với việc đào tạo đội ngũ công nhân chuyên ngành đóng tàu đáp ứng đủ nguồn nhân lực cho các nhà máy.
Thứ hai, Nhà nước cần ban hành các chính sách quản lý đồng bộ bảo đảm sự ổn định giá cả, nhất là các mặt hàng thiết yếu ảnh hưởng trực tiếp tới chi phí cho ngành công nghiệp đóng tàu, điều chỉnh giá cước vận tải đối với những mặt hàng mà nhà nước quản lý cước để các đơn vị vận tải trong nước làm ăn có lãi, tích luỹ được vốn và tái đầu tư đóng mới tàu. Bên cạnh đó, Nhà nước cần đề ra những chính sách quy định cụ thể trong việc giành quyền đóng tàu cho đội tàu Việt Nam tại các nhà máy đóng tàu trong nước, đặc biệt là những phương tiện được mua bằng vốn của Chính phủ và cấm nhập khẩu các sản phẩm tàu trong nước đã sản xuất được.
DANH MụC TàI LIệU THAM KHảO
Ban Chấp hành Liên đoàn lao động Thành phố Hải Phòng (2006), Báo cáo tổng kết công đoàn thành phố năm 2005-2006.
Ban Chấp hành Trung ương Đảng (2007), Các Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư khoá X, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
Bùi Đình Bôn (1991), Giai cấp công nhân Việt Nam vai trò và xu hướng biến đổi về cơ cấu trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Luận án tiến sĩ, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
Bộ Giao thông vận tải ( ), Chiến lược phát triển ngành giao thông vận tải Việt Nam đến năm 2020.
Vũ Thế Chiến (2002), Giải pháp nâng cao hiệu quả của Công ty đóng tàu 189, Bộ Quốc phòng.
Trần Văn Chử (2002), "Xuất khẩu lao động và giải quyết việc làm ở Việt Nam", Tạp chí Kinh tế và phát triển, (57), tr.18, 22.
Công nghiệp tàu thủy (28/3/2005), Phát triển từ đào tạo nguồn nhân lực, VNECONOMY.
Công nghiệp tàu thủy (28/3/2005), Công ty Công nghiệp tàu thủy phát triển tự đào tạo nguồn nhân lực VNECONOMY.
Đảng bộ thành phố Hải Phòng (2006), Văn kiện đại hội lần thứ 13 nhiệm kỳ 2005 - 2010.
Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Đảng Cộng sản Việt Nam (01/2007), Nghị quyết Trung ương 4 khoá X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Trương Thị Hoàn (2003), Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của Nhà máy đóng tàu Sông Cấm, Luận văn thạc sĩ Kinh tế biển, Đại học Hàng hải Việt Nam.
Khảo sát thực tế các Nhà máy đóng tàu trên địa bàn Hải Phòng.
V.I.Lênin (1977), Toàn tập, Tập 7, Nxb Tiến bộ, Mátxơcơva.
V.I.Lênin (1977), Toàn tập, Tập 38, Nxb Tiến bộ, Mátxơcơva.
V.I.Lênin (1978), Toàn tập, Tập 45, Nxb Tiến bộ, Mátxơcơva.
Lịch sử nhà máy đóng tàu Hải Phòng 1961-2004 (2004), Nxb Giao thông vận tải, Hà Nội.
C.Mác -Ph.Ăngghen (1980), Toàn tập, Tập 1, Nxb Sự thật, Hà Nội.
Nguyễn Văn Năm (1995), Công nhân Hải Phòng trong công cuộc đổi mới, những vấn đề đặt ra và phương hướng, giải pháp, Luận văn thạc sĩ CNXHKH, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
Phòng Bảo đảm hàng hải Bộ Tham mưu Hải quân, Phòng Quân sự địa phương Bộ Tham mưu Hải quân (2005), Một số chủ quyền về biển, đảo Việt Nam, Hà Nội.
Ngọc Phú (18/4/2007), "Đóng tàu xuất khẩu cơ hội và thách thức", Báo An ninh Hải Phòng, (số 1279).
Quân đội nhân dân Việt Nam (2005), Phà đen sóng dậy Hồng Hà, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.
Quốc hội nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2003), Bộ luật lao động, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Sở Văn hoá thông tin Hải Phòng (1985), Hải Phòng qua những trang sử.
Sổ tay kỹ thuật đóng tàu thủy (1982), tập 3, Nxb Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội.
Tập đoàn CNTT Việt Nam, Báo cáo kết quả tổng kết 2005-2006 và 2006-2007.
Tập đoàn CNTT Việt Nam (10/2006), Số liệu từ tạp chí số 31.
Tập đoàn kinh tế Vinashin (2007), Số liệu từ tạp chí số 36 + 37.
K.X.Theo Sina (12/2006), "Châu á bước vào thời đại tàu sân bay", Tạp chí Cục đăng kiểm Việt Nam, (12).
Thủ tướng Chính phủ (1999), Quyết định số 202/1999/QĐ-TTg về việc phê duyệt quy hoạch tổng thể phát triển hệ thống cảng biển Việt Nam đến năm 2010.
Thủ tướng Chính phủ (2001), Quyết định số 1419/QĐ-TTg ngày 01/11/2001 về việc phê duyệt Kế hoạch phát triển đội tàu 2001 2005.
Thủ tướng Chính phủ (2001), Quyết định số 1420/QĐ-TTg ngày 2/11/2001 về phê duyệt Dự án phát triển Tổng Công ty công nghiệp tàu thuỷ Việt Nam giai đoạn 2001 2010.
Thủ tướng Chính phủ (2002), Quyết định số 186/QĐ-TTg của ngày 26/12/2002 về việc phê duyệt Chiến lược phát triển ngành cơ khí Việt Nam đến 2010, tầm nhìn đến năm 2020.
Thủ tướng Chính phủ (2005), Quyết định số 1106/QĐ-TTg ngày 18/10/2005 về phê duyệt đề án điều chỉnh phát triển của Tổng Công ty Công nghiệp Tàu thủy Việt Nam giai đoạn 2003-2010 và định hướng đến 2015.
Thủ tướng Chính phủ (4/4/2006), Quyết định phê duyệt tổng thể phát triển các ngành công nghiệp Việt Nam theo các vùng lãnh thổ đến năm 2010, tầm nhìn đến năm 2020.
Nguyễn Văn Thuận (2005), Những thành tựu 5 năm đầu thế kỷ XXI, Nxb Hải Phòng.
Tổng Cục Thống kê (2006), Niên giám thống kê 2005, Nxb Thống kê, Hà Nội.
Đặng Văn Uy (2006), "Chiến lược phát triển trung hạn 2000 - 2010 trường ĐHHH Việt Nam", Nội san Hàng Hải.
VNECOMY (2005), "Công nghiệp tàu thủy phát triển từ đào tạo nguồn nhân lực", Cập nhật ngày 28/3.
Xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước (1999), Nxb Lao động, Hà Nội.
Lê Danh Xương (1985), "Hải Phòng 30 năm phấn đấu vì độc lập tự do, vì CNXH", Tạp chí Cộng sản, (5), tr.35, 40, 47.
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LA2558.doc